Giáo trình Học thuyết tam quyền phân lập (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
lượt xem 55
download
Giáo trình Học thuyết tam quyền phân lập (Giáo trình đào tạo từ xa) có kết cấu gồm 2 chương. Phần 1 giáo trình gồm nội dung chương 1, trình bày khái quát về học thuyết “tam quyền phân lập” và sự vận dụng trong tổ chức và hoạt động ở nhà nước tư sản. Tham khảo nội dung giáo trình để nắm bắt nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Học thuyết tam quyền phân lập (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên NGUYỄN VĂN ĐẠI GIÁO TRÌNH HỌC THUYẾT TAM QUYỀN PHÂN LẬP Vinh - 2011 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên NGUYỄN VĂN ĐẠI GIÁO TRÌNH HỌC THUYẾT TAM QUYỀN PHÂN LẬP (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 2
- Phân công biên soạn: - Chủ biên: Nguyễn Văn Đại Nguyễn Văn Đại : Chương I đến Chương II 3
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN LẬP” VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG Ở NHÀ NƯỚC TƯ SẢN 1.1. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập” 1.1.1 Giới thiệu khái quát về nhà tư tưởng chính trị vĩ đại Montesquieu Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) – nhà triết học Khai sáng, nhà tư tưởng chính trị, nhà kinh tế học, nhà xã hội học và nhà sử học người Pháp. Ông là nhà tư tưởng có dòng dõi quý tộc, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1689 tại lâu đài La Brét ở Tây – Nam nước Pháp. Cha ông là Giắc đơ Sơcôngđa – một quý tộc bị sa sút và đã có thời gian làm đại úy vệ kỳ binh, sau đó lui về ở ẩn cho đến năm 1713 thì qua đời. Khi Montesquieu lên 7 tuổi thì mẹ ông mất. Montesquieu chịu ảnh hưởng nhiều của người chú ruột – Giăng đơ Sơcôngđa, người đã từng là Chủ tịch Nghị viện Boóc đô. Năm 1714, Montesquieu vào làm việc tại Viện Boócđô và hai năm sau, ông trở thành nam tước De Montesquieu – Chủ tịch Nghị viện Boócđô. Năm 1716, Montesquieu trở thành thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Boócđô. Khí chất của chàng thanh niên Montesquieu ham tìm tòi, suy nghĩ với lòng khát khao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực đồng thời lại trực tiếp tiếp xúc với thực tiễn chính trị – xã hội của thời đại ở một giai đoạn được coi là có sự bùng nổ của các cuộc đấu tranh quyết liệt chống phong kiến đã sớm nung nấu tinh thần của nhà triết học Khai sáng tương lai. Tư tưởng và tài năng của ông thực sự hòa làm một, kết tinh thành năng lực tư duy sáng tạo, khí phách kiên cường của nhà triết học Khai sáng. Vào năm 1721, Montesquieu đã cho ra đời tác phẩm đầu tay, tác phẩm được thừa nhận là đã gây chấn động dư luận không riêng gì ở Pháp, mà cả ở châu Âu – đó là tiểu thuyết bằng thư “Những bức thư Ba Tư”. 4
- Năm 1726, Montesquieu thôi chức vụ Chánh án Tòa án Boócđô mà trước đấy, ông đã làm thế chân người chú của mình. Một năm sau, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Đến năm 1728, ông lên đường đi du lịch khắp nơi để hiểu phong tục, tập quán, luật pháp và thể chế của các nước châu Âu. Ông lưu lại hai năm cuối ở Anh. Dưới chế độ quân chủ lập hiến, ông cảm thấy rất hài lòng và cho đó là một thể chế lý tưởng, trái ngược với nước Pháp quân chủ chuyên chế. “Tại Nghị viện Anh, người ta cho phép ông có mặt trong các cuộc tranh luận giữa Chính phủ và phe đối lập kéo dài tới 12 giờ. Các tư tưởng của ông về lý luận phân quyền đã bắt đầu chín muồi ở Anh”. Đây là thời gian đã làm cho Montesquieu thấy thực sự quý báu và những cảm nhận của ông về những gì đã diễn ra ở đây đã trở thành tiền đề cho sự hình thành tư tưởng của ông sau này. Tháng 10 năm 1748, Montesquieu cho ra đời tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”. Ở tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”, Montesquieu không nghiên cứu luật pháp như một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của pháp luật. Ông muốn khám phá cái trật tự cái quy luật trong mớ hỗn độn các luật pháp ở tất cả các dân tộc và ở mọi thời đại. Đây là tác phẩm mang tính triết học sâu sắc, trong đó luật pháp được giải thích từ nhiều khía cạnh khác nhau. Montesquieu chia thể chế Nhà nước ra ba loại: độc tài, quân chủ lập hiến và cộng hòa. Phê phán thể chế độc tài và ca ngợi thể chế cộng hòa là tốt đẹp nhưng không thực hiện được trong thực tế, ông chủ trương rằng thể chế chính trị hợp lý nhất của nước Pháp và nhiều nước là quân chủ lập hiến giống như nước Anh. Trong học thuyết của mình, Montesquieu nêu ra nguyên tắc phân quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, nghị viện giữ quyền lập pháp, nhà vua giữ quyền hành pháp và các quan tòa giữ quyền tư pháp. Các nghành này 5
- độc lập với nhau nhưng kiểm soát lẫn nhau, giai cấp tư sản nắm giữ cơ chế này trong xã hội. Nguyên tắc phân quyền này của ông đã được thực hiện sau cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789-1794 và là định hướng cho nhiều nhà tư sản trên thế giới sau này. Học thuyết của Montesquieu không chủ trương lật đổ chế độ phong kiến bằng cách mạng mà chỉ là những cải cách cho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của giai cấp tư sản. Như vậy, ông không phải là người theo thuyết dân chủ mà theo thuyết tự do. Nhưng trong bối cảnh chế độ phong kiến tàn bạo lúc đó, tư tưởng của Montesquieu thể hiện tính chất tiến bộ và có giá trị tinh thần to lớn đối với các tầng lớp nhân dân. Những nằm cuối đời, Montesquieu sống trong lâu đài của mình và tại đây, ông đã viết thêm một số tác phẩm khác, như Lyđimác (1751), Acxat và Ixmêni (1754). Khi đó, ông đã trở nên nổi tiếng và được kính trọng. Trong thời gian đó, ông đã phải chịu đựng sự hành hạ thân xác một cách khủng khiếp do bệnh tật ngày một nặng thêm, nhưng ông vẫn sống và hoạt động với một nghị lực hiếm có. Ông đã qua đời tại Paris ngày 10 tháng 2 năm 1755 và để lại nhiều nguyên cảo, trong đó có tập “Những tư tưởng của tôi”. Với tất cả những cống hiến lý luận của mình, Montesquieu xứng đáng được tôn vinh là một trong những nhà tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế kỷ XVIII, là nhà triết học Khai sáng Pháp nổi tiếng với tư tưởng đề cao “tam quyền phân lập” luôn thể hiện ý chí và khát vọng xây dựng một xã hội mới mà ở đó, không còn áp bức, bất công, một xã hội có khả năng đem lại tự do cho mọi người, hoà bình cho nhân loại. Hơn hai thế kỷ qua, nhân loại luôn nhắc đến ông với tư cách đó và học thuyết “tam quyền phân lập” của ông luôn được các nhà tư tưởng, các chính khách và giới nghiên cứu lý luận trên toàn thế giới sử dụng như một tài liệu tham khảo bổ ích, có giá trị gợi mở cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về xây dựng Nhà nước. 6
- 1.1.2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “tam quyền phân lập” Bắt đầu từ thế kỷ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Xuất hiện nhiều công trường thủ công, ban đầu ở các nước ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác. Thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng tạo ra máy tự kéo sợi và máy in làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ này sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. Những phát kiến địa lý như việc tìm ra Châu Mỹ và các đường biển đến những miền đất mới… càng tạo điều kiện phát triển nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Các cuộc giao du Đông - Tây được tăng cường. Các nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây Ban Nha… thi nhau xâm chiếm thuộc địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước kém phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình. “Giờ đây, lần đầu tiên người ta đã thực sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho nền thương nghiệp thế giới sau này và đại công nghiệp hiện đại”. Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu, thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn… vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư đến các thành phố, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp xã hộ trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn. 7
- Những mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trước tiên ở Italia, nước được coi là quốc gia tư bản sớm nhất ở Tây Âu. Với nền văn hóa phục hưng phát triển rực rỡ trong suốt thế kỷ XIV-XV, Italia trở thành trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới, tiêu biểu cho nền văn minh nhân loại thời kỳ này. Tiếp sau đó, các cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) với việc xử tử vua Lu-i XVI là một trong những đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến ở Châu Âu. Vào thế kỷ XVI-XVII thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế của các nước Tây Âu. Sự lớn mạnh của công nghiệp và thương mại cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã dẫn tới sự tiếp tục tan rã của chế độ phong kiến. Song, quyền sở hữu ruộng đất của phong kiến, chế độ nông nô, chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng về pháp luật đặc trưng cho xã hội phong kiến đã ngăn cản sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên sự cạnh tranh tự do và bóc lột lao động làm thuê. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ can thiệp quan liêu vào toàn bộ đời sống xã hội kìm hãm sự phát triển của các xí nghiệp thương mại và công nghiệp. Giai cấp tư sản đang trưởng thành và lớn mạnh ở các nước phát triển nhất không thể khoan nhượng với chế độ chuyên chế phong kiến. Giai cấp tư sản đòi xóa bỏ đẳng cấp và thiết lập sự bình đẳng pháp luật, bảo đảm tự do và an ninh cá nhân và quyền sở hữu tư nhân bằng cách tạo ra những sự đảm bảo cần thiết về mặt chính trị và pháp lý. Trong cuộc đấu tranh chống nền quân chủ chuyên chế, giới quý tộc và nhà thờ, các nhà tư tưởng tư sản muốn vứt bỏ vòng hào quang thiêng liêng bao trùm lên chế độ phong kiến, tách các vấn đề Nhà nước và pháp quyền ra khỏi tôn giáo. Khuynh hướng này được thể hiện rõ nét trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên, về chủ nghĩa tự do. Nội dung của các học thuyết này được truyền bá rộng rãi ở Tây Âu đã tạo ra những quan niệm xây dựng nền tảng của thể chế chính trị dân chủ tư sản. Nó cũng là nền móng của những hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển và các nền dân chủ tư bản hiện đại sau này. 8
- Tóm lại, hoàn cảnh lịch sử Tây Âu thế kỷ XV-XVIII và nền tảng tư tưởng trên đây quy định nội dung của những tư tưởng chính trị thời kỳ này, làm cho nó không chỉ đơn thuần không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục các giá trị tư tưởng truyền thống, mà còn phát triển với nhiều sắc thái riêng của một thời kỳ lịch sử. Ở thời kỳ này, có rất nhiều nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu và nổi tiếng, những tư tưởng của họ về mặt chính trị để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu. 1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập” a). Đóng góp của học thuyết “tam quyền phân lập” Học thuyết này đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII-XVIII mà điển hình là John Locke và Montesquieu kế thừa, phát triển và hoàn thiện nó, coi đó là cơ sở để bảo đảm quyền lực của nhân dân và chống chế độ độc tài chuyên chế. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền và sau này khi nhắc tới học thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên tuổi của ông. Nó đã được thể hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức độ khác nhau, được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản Tuyên ngôn và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình, là tiêu chuẩn và điều kiện của nền dân chủ. Đó chính là sự thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam quyền phân lập” trong thực tế. Qua hai thế kỷ, loài người ngày càng hiểu biết hơn về giá trị của nguyên tắc phân quyền của Montesquieu, đã góp phần đẩy nhanh việc kết thúc chủ nghĩa cực quyền, ông được mệnh danh như là một người đặt nền móng cho việc thiết lập một chính phủ hiện đại. Hiện nay, dân chủ và tự do đã trở thành một giá trị rõ ràng, chế độ độc tài dần dần được đẩy lùi, phân tích của Montesquieu về việc phân quyền như là một trong những biện pháp quan trọng để chống sự độc tài chuyên chế của nhiều Nhà nước trên thế giới hiện nay. 9
- Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức Nhà nước của các Nhà nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trọng của chủ nghĩa lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố phân quyền là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Học thuyết “tam quyền phân lập” chiếm một vị trí đáng kể trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp luật thế giới. Ngày nay, nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước theo kiểu “tam quyền phân lập” đã trở thành nguyên tắc đặc thù và khá phổ biến ở các Nhà nước pháp quyền tư sản. Các học giả và giới chính trị tư sản coi nguyên tắc phân quyền là hòn đá tảng của nền dân chủ tư sản mà họ đang cố nhào nặn nhằm duy trì quyền lợi của giai cấp mình. Ý nghĩ cơ bản của việc vận dụng nguyên tắc phân quyền vào tổ chức và xây dựng bộ máy Nhà nước được họ giải thích là nhằm tạo ra một cơ chế có kiểm tra, kiểm soát và giám sát hoạt động lẫn nhau giữa các cơ quan Nhà nước để khắc phục sự lạm quyền, tiếm quyền dẫn tới độc tài, là nền tảng đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung khác của Nhà nước pháp quyền; là cơ chế bảo vệ pháp quyền và tự do cơ bản của công dân khỏi những hành vi tùy tiện, độc đoán, những quyết định mang tính chất liên quan, hành chính, mệnh lệnh gây phiền hà và nhũng nhiễu từ phía các cơ quan và công chức trong bộ máy Nhà nước. Có thể nói, ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết “tam quyền phân lập” là tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực Nhà nước. Đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Loại bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài - mảnh đất tốt cho sự lộng quyền, bức rào cản của dân chủ và phát triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liền với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội. Lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do công dân làm mục đích cuối cùng. 10
- Không chỉ vậy, với cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy cơ tập trung tất cả quyền lực Nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó - nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hoá trong quá trình thực thi quyền lực. Nhờ cơ chế này mà không cơ quan Nhà nước nào có thể chi phối hoặc lấn át hoàn toàn hoạt động của cơ quan khác. Đồng thời không cơ quan nào, tổ chức nào đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật; nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát từ phía cơ quan Nhà nước khác. Như vậy, sự phân chia rành mạch về chức năng và nhân sự cùng với cơ chế kìm chế, đối trọng có tác dụng vừa hạn chế khả năng lạm quyền, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát giác sự lạm quyền, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân. Mặc dù thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ học thuyết phân quyền ra đời nhưng học thuyết này vẫn còn nguyên sức sống. Những giá trị mang tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ chức quyền lực của nhiều nước, không phân biệt điều kiện kinh tế, văn hoá và chế độ chính trị. Trong khuôn khổ lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành những chính thể khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hoá của mỗi nước. Ở các nước tư bản, các nhánh quyền lực Nhà nước được thể chế hoá cao độ. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hoá rất cao. Cơ chế kiểm soát quyền lực tỏ rõ tính hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước. Có thể thấy, cho đến nay, học thuyết phân quyền đã thể hiện và khẳng định những giá trị tiến bộ của nó. Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính trị hàng trăm năm ở các nước tư bản phát triển. Đúng như đánh giá của Ph. Ăngghen: “Phân quyền được xem như là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm trên thực tế, về thực chất nó không có gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy Nhà nước nhằm đơn giản hoá và để kiểm tra”. 11
- b). Một số hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” Bên cạnh những ưu điểm, học thuyết “tam quyền phân lập” còn có những điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi cho tầng lớp quý tộc. Học thuyết về sự phân quyền tạo ra sự chuyên môn hóa cao trong quản lý bộ máy Nhà nước. Cơ quan nào cũng bị kiểm tra giám sát việc thực thi quyền lực nó có thể dẫn dến sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, thậm chí làm cho bộ máy Nhà nước bị tê liệt. Sự đối trọng, kiềm chế, kiển tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp bên cạnh tránh tính chủ quan, chuyên chế thì nguy cơ về sự xung đột thẩm quyền, tranh giành quyền lực, bạo loạn lật đổ luôn tiềm ẩn trong Nhà nước tư sản. Montesquieu xuất thân từ giai cấp tư sản, là nhà tư tưởng tư sản vĩ đại vì vậy mà tư tưởng của ông vẫn mang tính phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Học thuyết của Montesquieu không chủ trương lật đổ chế độ phong kiến bằng cách mạng mà chỉ là những cải cách cho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của giai cấp tư sản. Song những giá trị, những đóng góp và mặt tích cực của học thuyết “tam quyền phân lập” đem lại cho nhân loại rất lớn mà không ai có thể phủ nhận được. 1.2. Nội dung cơ bản của học thuyết “tam quyền phân lập” về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung Montesquieu - nhà tư tưởng chính trị xuất sắc, cùng với Vonte đã mở đầu cho phong trào giải phóng tư tưởng vĩ đại. Các tư tưởng chính trị của ông đã vạch trần được bản chất của chế độ phong kiến và tuyên bố nguyên tắc tự do chính trị, học thuyết chính trị mang tinh thần tư sản do ông xây dựng đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng vĩ đại của thời đại đó. Học thuyết chính trị của 12
- Montesquieu bao quát nhiều vấn đề từ bản chất của pháp luật đến các hình thức chính quyền phân chia quyền lực, địa chính trị… nhưng quan trọng nhất là học thuyết phân chia quyền lực. 1.2.1. Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Nội dung đầu tiên trong học thuyết phân quyền của Montesquieu là quyền lực Nhà nước được cấu thành bởi ba hình thái cơ bản (tam quyền): lập pháp, hành pháp và tư pháp: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều hợp với luật dân sự. Với quyền thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luất cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định hòa hay chiến, gửi Đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp, và trên kia là quyền hành pháp quốc gia”. Nội dung tiếp theo là quyền lực Nhà nước phải được tổ chức làm sao cho tự do của công dân được bảo đảm: “Tự do chính trị của công dân là sự yên tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn đảm bảo tự do chính trị như vậy thì chính phủ phải làm thế nào để mỗi công dân không phải sợ một công dân khác”. Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là hình thức cầm quyền của một người phủ nhận pháp luật, Nhà nước phụ thuộc vào sự lộng quyền của người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi lý là vì: Nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và ý chí tùy tiện của nó lại trái với bản chất pháp luật và nhu cầu pháp luật. 13
- Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân nghành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn. Từ đó, Montesquieu cho rằng tổ chức quyền lực Nhà nước theo phương thức phân chia quyền lực Nhà nước để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạm làm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người… Montesquieu viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão thì không còn tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính ông ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; cơ quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”. Chứng nghiệm vào thực tế, nhận xét của Montesquieu rất đúng. Tự do sẽ không có nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp chập vào một bàn tay. Vì người nắm quyền lực sẽ đặt ra những quy tắc thuận tiện cho mình cai trị và sẽ không ban hành các quy tắc gây bất lợi cho mình. Quyền lập pháp nhập với quyền tư pháp thì tự do cũng sẽ bị đe dọa. Nếu một người vừa có quyền lập pháp vừa có quyền tư pháp thì sẽ: làm luật cho những trường hợp hay cá nhân mà ông ta muốn hại, chẳng hạn một nhà độc tài làm ra những đạo luật riêng nhằm bỏ tù những kẻ chống đối mình; sẽ đem thi hành đạo luật cho những cá nhân mà ông ta bênh vực hay biệt đãi, chẳng hạn 14
- một nhà độc tài đóng vai trò thẩm phán sẽ không phạt tù những kẻ thân thuộc đã phạm tội. Như vậy, luật không còn là luật nữa vì không có giá trị tổng quát nữa mà thay đổi tùy theo ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền. Lạm quyền là thuộc tính của quyền lực Nhà nước. Một người càng có nhiều quyền hành trong tay thì càng có khả năng lạm quyền. Nếu một người hay một cơ quan nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì tự do của dân chúng sẽ không còn gì. Phân quyền có nghĩa là ba quyền đó được giao cho những cơ quan khác nhau, độc lập với nhau có những phương thức hình hành riêng, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ quan: cơ quan lập pháp là Quốc hội, cơ quan hành pháp là Chính phủ, cơ quan tư pháp là tòa án. Một ý tưởng tiếp theo của thuyết phân quyền là sự bình đẳng giữa các nghành quyền lực. Montesquieu cho rằng, quyền lực tối thượng được phân chia thành ba hình thái quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp và tư pháp nên không có nghành quyền lực nào được gọi là tối thượng. Ba ngành quyền lực này ngang bằng với nhau, bình đẳng với nhau, không nghành nào cao hơn nghành nào. Thuyết phân quyền quan niệm rằng mỗi cơ quan đại diện quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một quyền hạn và chỉ có nhiệm vụ quyền hạn đó mà thôi. Cơ quan lập pháp chỉ có quyền lập pháp, chỉ có nhiệm vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành luật lệ. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền tài phán, nhiệm vụ xét xử để áp dụng pháp luật. Phân chia quyền hạn thôi chưa đủ, mà phải có sự độc lập giữa các cơ quan. Nghĩa là các cơ quan không có hành động hỗ trợ nào. Ví dụ, quyền hành pháp không có quyền trình các sáng kiến lập pháp lên cơ quan lập pháp. Một khi tam quyền đã được phân lập rồi thì vấn đề tiếp theo là làm sao để đa quyền đó kiểm soát lẫn nhau. Để tránh tập trung quyền lực vào tay một hay một nhóm người thì cần phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực, mà khả thi nhất 15
- là dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Như vậy, người ta sẽ tránh được rủi ro là: một quyền lực mạnh quá sẽ có tham vọng trở nên độc đoán vì rằng kinh nghiệp vĩnh viễn cho hay là: ai có quyền cũng sẵn sang lạm quyền. Do đó, thuyết phân quyền của Montesquieu đặt vấn đề: Phải làm thế nào cho cái việc quyền hành ngăn chặn quyền hành trở nên một sự dĩ nhiên. Một chính phủ ôn hòa là một chính phủ trong đó sự lạm quyền không thể xẩy ra được, nhờ ở một lối tổ chức nào, một tổ chức có thể phân phối những thẩm quyền của chủ quyền quốc gia cho những lực lượng chính trị khác biệt nhau, để khiến cho “quyền hành ngăn chặn quyền hành”. Công cụ ngăn chặn quyền hành trước mà Montesquieu đề cập đến là: tổ chức ra hai viện để viện nọ kiểm soát viện kia: “Trong một nước luôn luôn có những người nổi bật lên vì dòng giống, vì của cải, hoặc vì danh vọng của họ. Nếu họ cũng chỉ được dùng một lá phiếu bầu như dân chúng, thì tự do chung là nô lệ đối với họ, họ không tha thiết gì bảo vệ tự do chung đó, vì phần lớn các điều quyết nghị chung sẽ chống lại họ. Cho nên, khi tham gia vào công cuộc lập pháp thì họ nên được một tỉ lệ cao tương ứng với vị trí ưu việt mà họ có trong quốc gia”. Tiếp theo Montesquieu nói đến công co để hành pháp ngăn chặn lập pháp. Trước tiên là quyền của hành pháp quy định thời hạn và thời gian các phiên họp của nghành lập pháp: “cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập lấy mình. Nếu để cho cơ quan hành pháp quy định thời hạn và thời gian các cuộc họp nghị viện tùy theo tình huống mà cơ quan hành pháp cho là cần thiết”. Ngoài ra, quyền hành pháp không có quyền đưa ra các sáng kiến trước lập pháp (như quyền trình dự án luật của chính phủ trước nghị viện ở nhiều nước Châu Âu ngày nay), nhưng có quyền ngăn cản việc thi hành các đạo luật đã được nghành lập pháp thông qua (như quyền phủ quyết của Tổng thống Mỹ ngày nay). Montesquieu lập luận: “nếu cơ quan hành pháp không có quyền ngăn cản các dự định của các cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế, tự 16
- ban cho mình mọi thứ quyền hành mà xóa bỏ mọi thứ quyền lực khác”. Nếu như quyền hành pháp có quyền ngăn cản đối với quyền lập pháp thì quyền lập pháp cũng có quyền xem xét việc thi hành các đạo luật mà mình đã ban hành ra: “trong một nước tự do, nếu cơ quan lập pháp không nên có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp thì nó phải có chức năng xem xét các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào”. Ngày nay, ta gọi đây là quyền giám sát của nghị viện. Ngày nay, theo một quan niệm rất thực tế Vedel quan niệm: “nguyên tắc phân quyền xét cho cùng có thể thu hẹp và tóm lược bằng một ý tưởng thuộc loại lẽ phải thông thường. Ý tưởng đó như sau: chế độ độc tài là chế độ tập trung mọi quyền hành, là chế độ quyền hành võ đoán, là quyền hành có thể vừa làm luật, vừa điều động quân đội, vừa xử án; là quyền hành muốn làm gì thì làm; theo sở thích riêng, không cần phải tôn trọng một quy tắc gì đã đặt ra từ trước và cái nguyên tắc của nghệ thuật chính trị mà ta gọi là phân quyền chỉ nhằm có việc tránh độc tài, làm thế nào cho độc tài không thể ngóc đầu lên được”. Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức Nhà nước của các nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trọng của chủ nghĩa lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố phân quyền là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Theo cơ chế phân quyền, các nghành quyền lực độc lập nên sự lạm quyền được kiểm soát. Hơn nữa, với cơ chế phân quyền, không một nghành quyền lực nào có thể được coi là đại diện duy nhất cho chủ quyền nhân dân. Mỗi một nghành quyền lực chỉ đại diện cho chủ quyền nhân dân trên một phương diện nhất định: nghị viện sẽ đại diện cho chủ quyền nhân dân trên phương diện lập pháp, chính phủ trên phương diện hành pháp, tòa án trên phương diện tư pháp. Do đó, không một cơ quan nào có thể thao túng được toàn bộ quyền lực của dân chúng. 17
- 1.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Tư bản chủ nghĩa Nhà nước pháp quyền là một phạm trù có nội hàm rất rộng được hiểu dưới hai khía cạnh cơ bản là một học thuyết tư tưởng chính trị - pháp lý hoặc là một tổ chức bộ máy Nhà nước hiện thực. Dưới góc độ là một hệ tư tưởng chính trị - pháp lý, Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện sớm trong lịch sử loài người. Khi có Nhà nước và pháp luật ra đời thì cũng đã bắt đầu xuất hiện một số tư tưởng quan niệm về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Coi trọng pháp luật được hiểu là mầm mống đầu tiên về một mô hình Nhà nước pháp quyền. Hệ tư tưởng này đặc biệt phát triển vào thời kỳ cuối cùng của xã hội phong kiến khi giai cấp tư sản đã bắt đầu xuất hiện và ngày càng lớn mạnh. Dưới góc độ là một tổ chức bộ máy Nhà nước thì Nhà nước pháp quyền là mô hình Nhà nước mà ở đó pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật, Nhà nước đảm bảo tốt nhất các giá trị của con người (nhân quyền và quyền công dân) thừa nhận một xã hội dân sự phát triển và một hệ thống pháp luật được xây dựng thống nhất, đồng bộ ở kỹ thuật lập pháp cao. Nhà nước pháp quyền là con đẻ của cách mạng tư sản Châu Âu diễn ra khoảng thế kỷ XVII gắn liền với phong trào giải phóng nhân loại ra khỏi chế độ chuyên chế phong kiến. Nhà nước pháp quyền với ý nghĩa là một mô hình hiện thực chỉ ra đời khi Nhà nước tư bản và Nhà nước XHCN xuất hiện. Còn tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền lại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử gắn liền với các học thuyết chính trị - pháp lý: học thuyết “tam quyền phân lập”, học thuyết tự nhiên, học thuyết nhân quyền… Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa mang những đặc trưng sau: Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở nền tảng của học thuyết “tam quyền phân lập”. Lúc này tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được vận hành theo nguyên tắc phân quyền và pháp luật được coi trọng 18
- mới được sử dụng để điều chỉnh tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mọi thiết chế quyền lực Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ và bị kiểm soát bởi pháp luật. Quyền lực Nhà nước được phân thành ba hệ thống cơ quan quyền lực: Quyền lập pháp thuộc về cơ quan nghị viện; quyền hành pháp thuộc về Chính phủ; quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Với việc phân chia quyền lực như vậy tránh được sự chuyên quyền, độc đoán, lạm quyền. Đảm bảo tính khách quan, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau… đó gọi là cơ chế phản biện xã hội, thúc đẩy các chủ thể hoàn thành công việc của mình. Thứ hai, Nhà nước pháp quyền tư sản thừa nhận và bảo hộ một xã hội dân sự phát triển rộng rãi. Tức là xã hội đó đề cao con người, vai trò của quyền tự do, bình đẳng, thỏa thuận giữa các công dân trong quan hệ kinh tế - xã hội. Nhà nước cũng chỉ giữ vai trò là một chủ thể độc lập, không can thiệp quá sâu vào các quan hệ pháp luật. Xã hội dân sự đối ngược lại với một xã hội hành chính mang bản chất mệnh lệnh, phục tùng, bất bình đẳng. Nhà nước được xây dựng trên nền tảng xã hội của công dân - một xã hội mà ở đó công dân là chủ thể, Nhà nước phải phục tùng lợi ích của công dân. Pháp luật phải đứng trên Nhà nước và Nhà nước phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Thứ ba, Nhà nước pháp quyền thừa nhận, củng cố và bảo vệ tốt nhất các giá trị của con người và quyền công dân. Vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội được Nhà nước quan tâm và dành được được nhiều kết quả có tính chất thực tế. Bản chất của Nhà nước pháp quyền là đề cao vai trò điều chỉnh của pháp luật, pháp luật là công cụ, phương tiện hữu hiệu và đắc lực nhất để bộ máy Nhà nước đó sử dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, nếu như việc đề cao vai trò pháp luật chỉ vì bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, đảng phái cầm quyền thì đó là một Nhà nước có bản chất trái ngược với Nhà nước pháp quyền. Nhà 19
- nước pháp quyền có nghĩa là sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền con người một cách tối ưu. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền tư sản gắn liền với một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và được xây dựng bởi một trình độ lập pháp và hiện đại. Điều đó được thể hiện ở tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân theo pháp luật. Mọi đường lối chính sách của đảng và Nhà nước đều phải dựa vào pháp luật không được trái với Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp là văn bản có giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất. Mặt khác hệ thống pháp luật đó được xây dựng bởi một trình độ lập pháp tiên tiến và hiện đại. Tức là trình độ con người, khả năng tư duy được đánh giá rất cao. Thứ năm, Nhà nước pháp quyền tư sản xác lập mối quan hệ hợp tác, bình đẳng, đoàn kết vì mục đích phát triển và cùng có lợi với các quốc gia khác trên thế giới đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng nhau hợp tác để giải quyết các công việc mang tính chất toàn cầu: dịch bệnh, đói nghèo, thiên tai, dân số…Điều này đã trở thành một thuộc tính và được ghi nhận trong Hiến pháp tư sản - đó là thuộc tính xã hội của Hiến pháp. Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp chế tư sản. Pháp chế tức là việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật một các đầy đủ, triệt để, thống nhất và kịp thời. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý công minh; cán bộ công chức Nhà nước, tổ chức kinh tế chính trị - xã hội và mọi công dân đều phải đặt mình dưới sự điều chỉnh của pháp luật, không có ngoại lệ…Đảm bảo pháp chế tức là pháp luật được tôn trọng và thực thi - là cơ sở để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền. 1.3. Sự vận dụng nội dung của học thuyết “tam quyền phân lập” về xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền tư sản trong lịch sử 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề thi luật tố tụng hành chính (giữa kỳ)
12 p | 575 | 161
-
Chính thể cộng hòa đại nghị ở Đức
37 p | 627 | 56
-
Giáo trình Học thuyết tam quyền phân lập (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
58 p | 198 | 48
-
Hiến pháp Hoa Kỳ
3 p | 285 | 30
-
Tìm hiểu về Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam
7 p | 89 | 8
-
Nhà nước pháp quyền Việt Nam
4 p | 97 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn