Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần thực hành) - CĐ nghề Du lịch Vũng Tàu
lượt xem 4
download
Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần thực hành) cung cấp cho người học những kiến thức như: Một số điểm du lịch tại vũng tàu học viên hướng dẫn du lịch đến học thực hành; Một số điểm du lịch tại cần thơ học viên hướng dẫn du lịch đến học thực hành.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần thực hành) - CĐ nghề Du lịch Vũng Tàu
- BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ DU LỊCH VŨNG TÀU MÔN HƢỚNG DẪN TẠI ĐIỂM DU LỊCH PHẦN THỰC HÀNH (Lƣu hành nội bộ) ĐOÀN VĂN TỲ 1 /130
- MỤC LỤC MÔN THỰC HÀNH HƢỚNG DẪN TẠI ĐIỂM (Phần thực hành) LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................................... 3 PHƢƠNG PHÁP HỌC THỰC HÀNH ……………………………………………………5 PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH TẠI VŨNG TÀU HỌC VIÊN HDDL ĐẾN HỌC THỰC HÀNH .................................................................................................. 6 1. Tƣợng Chúa Giang Tay: ............................................................................. 6 2. Đình thần Thắng Tam: .............................................................................. 22 3 Lăng Cá Ông: .............................................................................................. 38 4. Miếu Bà Ngũ Bang: .................................................................................. 43 5. Bạch Dinh:.................................................................................................. 58 6. Chùa Thích Ca Phật Đài:............................................................................ 65 7. Tƣợng Đài Đức mẹ Bã Dâu: ...................................................................... 77 8. Thiền viện Chân Không ........................................................................... 82 PHẦN THỨ HAI MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH TẠI CẦN THƠ HỌC VIÊN HDDL ĐẾN HỌC THỰC HÀNH : .................................................................................. 92 1. Đình Bình Thủy: ....................................................................................... 92 2. Chùa Muniransay: ................................................................................... 106 3. Mộ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa: ................................................................ 110 4. Nam Nhã Đƣờng: .................................................................................... 120 5. Chợ Nổi Cái Răng: .................................................................................. 127 6. Tài liệu tham khảo: .................................................................................. 130 2 /130
- LỜI NÓI ĐẦU Để có tài liệu cho hƣớng dẫn viên du lịch thuyết minh, giới thiệu cho du khách trong và ngoài nƣớc về các điểm mình đƣa khách đến tham quan. Tại các điểm tham quan với những vấn đề về phong tục tập quán, lề thói cổ truyền, văn hóa dân gian, truyền thuyết v.v… bao nhiêu thứ, bao nhiêu nội dung phong phú, hấp dẫn và phức tạp. Là những giáo viên trực tiếp giảng dạy và đƣa học sinh, sinh viên đến nghiên cứu tìm hiểu thực tế tại các điểm du lịch, chúng tôi rất mong muốn có đƣợc một tiếng nói chung của hƣớng dẫn viên trên các lĩnh vực tham quan điểm du lịch mang tính Tôn giáo, lịch sử, sinh thái và các loại hình du lịch khác. Vì vậy đã từ lâu chúng tôi có thói quen sƣu tầm, tích lũy, ghi chép tƣ liệu những gì có liên quan đến các điểm du lịch. Nhất là khi dạy môn Thực hành hƣớng dẫn tại điểm, điều băn khoăn lo lắng nhất là giáo viên đƣa học sinh, sinh viên đến điểm học mà tài liệu, nội dung giới thiệu giữa các giáo viên có thể chƣa đƣợc thống nhất. Nhân dịp nhà trƣờng làm bộ giáo trình chúng tôi mạnh dạn đƣa những ghi chép, tích lũy của mình vào, hệ thống lại thành từng bài, theo từng điểm du lịch cụ thể. Một vài điểm ở Vũng Tàu, một vài điểm ở Cần Thơ, và chỉ là những điểm mà Thầy trò đến học thực tế mà thôi chứ chƣa dám vƣơn rộng ra các điểm khác. Viết xong nhờ đồng nghiệp góp ý, mọi ngƣời thấy ý tƣởng ra tập giáo trình này là rất hay, rất thiết thực, rất cần thiết vì nó tỷ mỷ công phu, phải tâm huyết với nghề lắm mới làm đƣợc nhƣ thế. Tài liệu giúp cho cả ngƣời dạy và ngƣời học, ngƣời dạy có nội dung bài thống nhất, ngƣời học có nhiều kiến thức thực tế áp dụng cho nghề nghiệp lâu dài. Đƣợc sự 3 /130
- động viên của đồng nghiệp, của học trò, của Ban giám hiệu chúng tôi chỉnh lý lại và đƣợc Hội đồng Biên soạn giáo trình đƣa vào làm giáo trình của nhà trƣờng. Tài liệu chủ yếu là ghi chép từ thực tế các chuyến đi và hƣớng dẫn sinh viên học tại điểm, có tham khảo thêm các bài trên mạng internet và các sách báo tạp chí khác. Tuy nhiên do khả năng biên soạn, khả năng tổng hợp còn chƣa có nhiều kinh nghiệm nên chắc chắn sẽ có nhiều khiếm khuyết, chúng tôi mong đƣợc sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của bạn đọc kể cả của ngƣời học và ngƣời dạy để lần tái bản sau sẽ hoàn chỉnh hơn. Trân trọng cảm ơn. ĐOÀN VĂN TỲ 4 /130
- PHƢƠNG PHÁP HỌC THỰC HÀNH Tập tài liệu này chúng tôi viết với mục đích giúp cho ngƣời dạy và ngƣời học có tƣ liệu để sử dụng khi học môn Thực hành hƣớng dẫn du lịch tại điểm du lịch. Sau khi đã học xong Phần lý thuyết của môn học trên lớp, thầy trò sẽ chuẩn bị phân chia thành nhóm, mỗi nhóm có thể từ 3 ngƣời trở lên, có một nhóm trƣởng, chịu trách nhiệm phân công các thành viên đến tại điểm lấy tƣ liệu, viết bài thuyết minh. Đến ngày học tại điểm nào thì nhóm phụ trách điểm đó trong vai trò là hƣớng dẫn viên du lịch đƣa khách đến tham quan và hƣớng dẫn cho khách nội dung của điểm du lịch đó. Giáo viên nghe, quan sát phƣơng pháp hƣớng dẫn và nội dung bài thuyết minh. Các thành viên trong lớp trong vai trò là khách du lịch sẽ nêu những ý kiến thắc mắc, hỏi thêm, hoặc chất vấn hƣớng dẫn viên về những nội dung có liên quan. Sau khi tranh luận giáo viên sẽ đƣa ra ý kiến của mình; kể cả phƣơng pháp thuyết minh đến nội dung bài giới thiệu. Tập tài liệu này sẽ giúp có tiếng nói chung cho nội dung cần thuyết minh của hƣớng dẫn viên du lịch. Giáo viên nhận xét và cho điểm theo thang điểm đã thống nhất. Kết thúc đợt học học viên có bài thu hoạch. Giáo viên dựa vào kết quả học tập tại điểm và bài thu hoạch để cho điểm môn học. 5 /130
- PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH TẠI VŨNG TÀU HỌC VIÊN HDDL ĐẾN HỌC THỰC HÀNH Điểm du lịch 1. Tƣợng chúa Giang Tay Điểm này ngoài việc học được phương pháp hướng dẫn tại điểm du lịch có tính tôn giáo, người học được trang bị kiến thức thực tế tôn giáo về Thiên Chúa Giáo. Nắm vững những kiến thức này hướng dẫn viên du lịch có thể vận dụng cho mọi điểm du lịch có gắn với Thiên Chúa giáo. Điểm du lịch này nên đến thăm vào thời điểm đầu giờ sáng, hoặc cuối buổi chiều thì đỡ nắng. Phải leo núi cao, trang phục nên gọn nhẹ, nên mang theo mũ, nón và nước uống. Xác định vị trí, tác giả và thời gian xây dựng: Tƣợng Chúa Ki tô tọa lạc cực Nam núi Nhỏ, trên độ cao 170m so với mực nƣớc biển. Từ xa du khách đã có thể thấy bức tƣợng trắng xóa trên nền trời xanh. Tƣợng Chúa Ki tô do Giáo hội Thiên Chúa giáo xây dựng năm 1974, và đƣợc cung hiến vào ngày 2-12-1994, bởi Ðức cố Giám mục Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, lúc đó là giám mục của Xuân Lộc. Ngài về hƣu năm 2004 và qua đời ngày 17 tháng 1 năm 2007. Điểm dừng đầu tiên: Vƣờn Địa Đàng: Theo đạo Thiên Chúa thì Ngƣời cha đầu tiên trên thế giới là ông A-đam, ngƣời mẹ đầu tiên là bà Ê-va. Hai ngƣời đầu tiên này do Đức Chúa Trời tạo dựng. Ông A-đam và bà Ê-va đặc biệt hơn tất cả mọi ngƣời, vì khi đƣợc Chúa tạo dựng, ông bà đã là ngƣời lớn. Trƣớc khi tạo dựng ông A-đam và bà Ê-va, Chúa đã dựng nên trời đất, trăng sao, sông núi cùng tất cả các loài vật mà chúng ta thấy ngày nay. Chúa cũng dựng nên một khu vƣờn thật đẹp, với đầy đủ các loại cây cối và hoa quả để hai ông bà sống trong đó. 6 /130
- Đức Chúa Trời đã tạo dựng cả thế giới này trong sáu ngày. Ngày đầu tiên Chúa dựng nên ánh sáng. Sau đó Chúa tách rời ánh sáng ra khỏi bóng tối. Chúa gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Thế là chúng ta có ban ngày và ban đêm. Ngày thứ hai Chúa làm nên khoảng không để phân chia nƣớc ở trên và dƣới khoảng không. Chúa gọi khoảng không là bầu trời, nƣớc ở trên không là mây. Từ đó bắt đầu có những đám mây trắng bay lơ lửng trên trời. Ngày thứ ba Chúa tiếp tục tạo dựng trời đất. Lần này Chúa phán: "Tất cả nƣớc ở dƣới trời phải dồn vào một chỗ để cho đất khô nằm riêng ra." Theo lệnh Chúa, nƣớc chảy dồn vào những chỗ thấp. Nhờ đó, quả đất có những con sông, con suối xinh đẹp. Những chỗ trũng sâu hơn thì nƣớc dồn vào thành những cái hồ lớn nhỏ khác nhau. Chỗ sâu nhất và có nhiều nƣớc hơn cả, chúng ta gọi là biển. Chỗ không có nƣớc gọi là đất liền. Sau đó Chúa ra lệnh cho đất phải sinh cây cỏ, và cây cối phải sinh hoa quả theo từng loại. Khi Chúa vừa nói xong thì liền có nhƣ vậy. Hoa cỏ mọc lên khắp nơi. Mặt đất xấu xí bây giờ có lớp cỏ xanh bao phủ, xen vào đó là các loại hoa tƣơi đủ màu sắc. Cây cối cũng mọc lên tƣơi tốt và ra hoa kết quả. Đó là những điều Chúa đã tạo dựng trong ngày thứ ba. Mặt trời, mặt trăng và tất cả các ngôi sao trên trời cũng do Chúa tạo dựng. Vì trong ngày thứ tƣ, Chúa làm nên chúng và ra lệnh cho chúng chiếu ánh sáng xuống trái đất để phân biệt ngày đêm, định ngày tháng và bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Qua ngày thứ năm, Chúa bảo nƣớc ở sông, suối, biển, hồ phải sinh ra các loài cá, và trên không có các loài chim. Ngay sau khi Chúa phán, trong biển hồ có đủ các loại cá, còn trên trời có các loại chim chóc bay lƣợn. Chúa cũng ra lệnh cho các loài chim, loài cá sinh sản thêm nhiều. Đến ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời lại cũng dùng lời nói dựng nên các loài côn trùng và thú vật. Chúa chỉ phán: "Đất phải sinh các loài động vật tùy theo 7 /130
- loại. Thế là theo lệnh Chúa, thú vật và côn trùng xuất hiện khắp nơi. Trên núi cao, trong rừng sâu, cũng nhƣ nơi đồng bằng, có đủ các loại thú vật, với hình dạng, màu sắc khác nhau, chạy nhảy khắp nơi. Đến đây, Chúa thấy mọi vật Ngài đã tạo dựng đều tốt đẹp, nhƣng công việc của Chúa chƣa xong. Vì Chúa đã dựng nên một thế giới thật tốt đẹp và đầy đủ, nhƣng chƣa có ai để thƣởng thức thế giới tốt đẹp đó. Do đó Chúa bắt đầu làm nên con ngƣời. Hai ngƣời đầu tiên mà Chúa tạo dựng tên là A-đam và Ê- va. Đây là ngƣời cha và ngƣời mẹ đầu tiên trên thế giới, cũng là tổ tiên của tất cả chúng ta. Chúa tạo dựng nên con ngƣời để làm gì? Câu trả lời là: Để con ngƣời tiếp nhận tình yêu của Chúa và tận hƣởng thế giới tốt đẹp mà Chúa đã làm nên. Đức Chúa Trời là Đấng yêu thƣơng. Ngài yêu thƣơng, chăm sóc và hƣớng dẫn chúng ta mỗi ngày. Chúa muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng cách tin nhận Chúa và kính thờ Ngài suốt đời. Đôi Vợ Chồng Đầu Tiên Khi tạo dựng trời đất và muôn vật, Chúa chỉ dùng lời nói nhƣng khi tạo dựng con ngƣời, Chúa đã dùng bụi đất tạo ra con ngƣời. Thật ra, con ngƣời rất đặc biệt vì đƣợc tạo dựng theo hình ảnh của Chúa, và đƣợc Chúa "hà sinh khí vào mũi," tức là đƣợc Chúa ban cho sức sống của Ngài. Con ngƣời biết yêu thƣơng, giận, ghét, buồn, vui. Nhƣng điều đặc biệt hơn cả là con ngƣời có linh hồn. Linh hồn đó không bao giờ chết. Con ngƣời còn đƣợc Chúa ban cho quyền quản trị thiên nhiên và tất cả các loài vật trên đất.Thánh Kinh ghi rõ ràng rằng Chúa đã tạo dựng con ngƣời và ban cho con ngƣời quyền quản trị muôn vật. Sau khi dựng nên ngƣời đàn ông đầu tiên, Chúa đặt tên là A-đam. Rồi Chúa đem các loài thú vật đến cho A-đam đặt tên. Do đó có tên của các loài thú vật nhƣ voi, cọp, sƣ tử, chó, mèo, beo, khỉ, trâu, bò, v.v... Sau khi đặt tên cho các loài vật, ông A-đam thấy cô đơn quá, vì không một con vật nào có thể nói chuyện với ông, cũng không một con vật nào giống nhƣ ông. Thấy A-đam cô đơn, Chúa nói: "Con ngƣời sống một mình không tốt, ta sẽ làm một ngƣời nữa giống nhƣ nó, để giúp đỡ nó." Chúa làm cho A-đam ngủ mê, rồi lấy một cái xƣơng sƣờn của ông và làm nên một ngƣời đàn bà, đó là Ê-va. Từ đó A- đam và Ê-va trở nên vợ chồng. Đức Chúa Trời cho đôi vợ chồng mới một món 8 /130
- quà đặc biệt, đó là khu vƣờn xinh đẹp và cả thế giới tuyệt vời Ngài mới tạo dựng. Sống trong vƣờn địa đàng, ông bà A-đam đƣợc ngắm cảnh đẹp và ăn những trái cây ngon ngọt trong vƣờn. Chúa cũng giao cho ông bà chăm sóc khu vƣờn và cai quản tất cả các loài thú vật. Từ đó họ sống hạnh phúc bên nhau, trong khu vƣờn đầy hoa tƣơi trái lành. Ngày ngày họ học hỏi những điều mới lạ trong thiên nhiên, chăm sóc cây cối và chơi đùa với các loài thú vật, chim chóc, đƣợc gặp Chúa và trò chuyện với Ngài. Đời sống hai ông bà thật là hạnh phúc, không lo lắng, không sợ bệnh tật. Ông bà đƣợc ở gần bên Chúa và đƣợc Chúa chăm sóc mỗi ngày. Vƣờn Địa Đàng Và Cây Cấm Ông bà A-đam là đôi vợ chồng đầu tiên trên thế giới. Hai ông bà đƣợc Chúa giao cai quản tất cả các loài thú vật và chăm sóc vƣờn địa đàng. Mỗi ngày hai ông bà đƣợc nghe chim hót, ngắm các loài hoa xinh đẹp, và bơi lội trong những dòng suối trong mát. Khi đói, đƣợc ăn những hoa quả ngon ngọt trong vƣờn. Nhƣng điều sung sƣớng hơn cả là hai ông bà đƣợc gặp Chúa và nói chuyện với Chúa mỗi ngày. Ông A-đam và bà Ê-va thật sung sƣớng, không phải lo lắng hay sợ hãi điều gì, cũng không phải làm lụng vất vả. Trái lại, ông bà đƣợc sống trong bình an, vui vẻ, vì đƣợc Chúa yêu Vƣờn Địa Đàng. ảnh Đoàn Văn Tỵ thƣơng, gần gũi và chăm sóc mỗi ngày. Trong vƣờn Địa đàng có đủ các loại cây ăn trái. Giữa vƣờn có hai cây rất đặc biệt, là cây trƣờng sinh và cây biết thiện ác. Nếu ngƣời nào ăn trái của cây trƣờng sinh thì sẽ sống mãi, không bao giờ chết. Còn ngƣời nào ăn trái của cây biết thiện ác thì sẽ biết phân biệt điều thiện điều ác. Thật ra, cây biết thiện ác là cây Chúa dùng để thử xem ông bà A-đam có thật lòng kính yêu Chúa và vâng lời Ngài hay không. 9 /130
- Khi đem ông A-đam và bà Ê-va vào vƣờn địa đàng, Chúa dặn: "Các ngƣơi đƣợc ăn tất cả cây trái trong vƣờn, riêng cây ở giữa vƣờn thì không đƣợc ăn mà cũng không nên đụng đến. Nếu cãi lời ta, chắc chắn các ngƣơi sẽ chết."Lệnh của Chúa thật đơn giản, rõ ràng: Ông bà A-đam đƣợc ăn tất cả hoa quả trong vƣờn, ngoại trừ cây ở giữa vƣờn. Thế nhƣng, một chuyện thật đáng tiếc đã xảy ra. Trong vƣờn Địa đàng lúc đó có con rắn là giống tinh khôn và quỷ quyệt. Một ngày kia, con rắn đến bên bà Ê-va hỏi chuyện làm quen. Nó giả vờ hỏi: "Có phải Chúa dặn ông bà không đƣợc ăn các cây trái trong vƣờn này không?" Bà Ê-va trả lời: "Không, Chúa cho phép chúng tôi đƣợc ăn tất cả cây trái trong vƣờn, chỉ trừ cây ở giữa vƣờn, Chúa dặn không đƣợc ăn, cũng không đƣợc đụng đến. Nếu không vâng lời thì chắc sẽ chết. Con rắn liền nói: "Không, ăn trái cây đó ông bà không chết đâu! Đó là cây biết thiện ác. Chúa cấm vì Chúa biết nếu ông bà ăn trái đó thì mắt sẽ mở ra, sẽ biết điều thiện điều ác giống nhƣ Chúa vậy". Thử nghĩ bà Ê-va tin lời Chúa hay tin lời con rắn hơn? Đây là giờ phút Chúa thử lòng tin của bà Ê-va. Thấy con rắn nói có vẻ hợp lý, bà Ê-va ngƣớc mắt lên nhìn cây cấm. Bà thấy trái của nó sao mà đẹp quá, trông ngon quá, và bà nghĩ: Trái này không những đẹp, ngon, mà còn quý nữa, vì nó sẽ mở trí khôn cho mình. Trong giây phút đó bà Ê-va quên hết lời Chúa dặn. Bà quên Chúa đã nói rõ ràng rằng "nếu ngƣơi ăn, chắc chắn sẽ chết." Bà bƣớc lại bên cây cấm, với tay hái một trái, cắn một miếng rồi đƣa cho chồng, ông cũng ăn nữa. Chiều hôm đó nhƣ thƣờng lệ, Đức Chúa Trời trở lại vƣờn Địa đàng để gặp A-đam và Ê-va nhƣng không thấy hai ông bà đâu cả. Chúa gọi: "A-đam, ngƣơi ở đâu?" Nghe tiếng Chúa gọi, hai ông bà run sợ và xấu hổ quá, không dám chạy ra mừng đón Chúa nhƣ mọi ngày. Nhƣng biết không thể trốn mãi đƣợc, nên hai ông bà từ trong bụi cây bƣớc ra. A-đam nói: "Thƣa Chúa, nghe tiếng Chúa trở về con sợ quá nên đi trốn." Biết là hai ngƣời đã phạm tội, Chúa hỏi: "Ngƣơi có ăn trái cây mà ta dặn không đƣợc ăn đó không?" A-đam liền đổ lỗi cho vợ và Chúa, ông nói: "Ngƣời đàn bà mà Chúa để ở gần bên con cho con trái cây đó nên con đã ăn rồi”. Quay sang bà Ê-va Chúa hỏi: "Sao ngƣơi lại làm điều quấy nhƣ vậy?" Bà Ê-va cũng đổ lỗi cho ngƣời khác, bà nói: "Thƣa Chúa, vì con rắn kia dụ dỗ con nên con đã ăn trái cây Chúa cấm". 10 /130
- Vì không vâng lời Chúa, ông A-đam và bà Ê-va đã phạm tội với Ngài. Đã thế, cả hai ông bà đều không nhận lỗi mà tìm cách đổ lỗi cho ngƣời khác. Từ đó hai ông bà bị đuổi ra khỏi vƣờn Địa đàng. Đời sống ông bà không còn an vui và hạnh phúc nữa, mà bắt đầu đầy dẫy khó khăn, bệnh tật và đau khổ. Hai ông bà cũng phải làm việc thật là vất vả mới có đủ ăn. Nhƣng điều đáng buồn hơn cả là ông bà không còn đƣợc ở gần bên Chúa, cũng không đƣợc trò chuyện thân mật với Ngài nhƣ trƣớc nữa. Theo con đƣờng dốc đi lên đến điểm dừng chân nơi có hình ảnh các thiên thần nhỏ bé trong giờ hát thánh ca. Tƣợng chúa với những con chiên ngoan đạo. Điểm dừng tiếp theo là tƣợng Thánh Môi Se với 10 điều răn của chúa: Trên sƣờn núi, theo đƣờng dốc đi lên phía bên tay phải một pho tƣợng mô tả hình một ngƣời mang trên đôi tay hai tấm bảng có đề chữ số La Mã từ số I đến số X. Đó chính là thánh Môi Se, ngƣời đƣợc Đức Chúa giao đi rao giảng những điều răn của Chúa, 10 điều răn đó là: 1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự. "Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi, đã đƣa ngƣơi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ."Ngƣơi không đƣợc có thần nào khác đối nghịch với Ta."Ngƣơi không đƣợc tạc tƣợng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng nhƣ dƣới đất thấp, hoặc ở trong nƣớc phía dƣới mặt đất, để mà thờ. "Ngƣơi không đƣợc phủ phục trƣớc những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi, là một vị thần ghen tuông. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với Thánh Môi Se với mƣời điều răn của Chúa những ai yêu mến Ta và giữ các ảnh Đoàn Văn Tỵ 11 /130
- mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. 2. Không đƣợc lấy danh Thiên Chúa để làm những việc phàm tục tầm thƣờng. "Ngƣơi không đƣợc dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi một cách sơ suất, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngƣời một cách sơ suất. 3. Dành ngày Chúa Nhật để thờ phụng Thiên Chúa. "Ngƣơi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, nhƣ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi, đã truyền cho ngƣơi. Trong sáu ngày, ngƣơi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngƣơi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa- bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi. Ngày đó, ngƣơi không đƣợc làm công việc nào, cả ngƣơi, cũng nhƣ con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của ngƣơi, và ngoại kiều ở trong thành của ngƣơi, để tôi tớ nam nữ của ngƣơi đƣợc nghỉ nhƣ ngƣơi. Ngƣơi hãy nhớ ngƣơi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đƣa ngƣơi ra khỏi đó. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi đã truyền cho ngƣơi cữ hành ngày sa-bát. 4. Thảo kính Cha mẹ. "Ngƣơi hãy thờ cha kính mẹ, nhƣ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngƣơi, đã truyền cho ngƣơi, để đƣợc sống lâu, và để đƣợc hạnh phúc trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngƣơi, ban cho ngƣơi. 5. Không đƣợc giết ngƣời. "Ngƣơi không đƣợc giết ngƣời”. 6. Không đƣợc dâm dục. "Ngƣơi không đƣợc ngoại tình”. 7. Không đƣợc tham lam lấy của ngƣời khác. "Ngƣơi không đƣợc trộm cắp”. 8. Không đƣợc làm chứng dối, che dấu sự giả dối. "Ngƣơi không đƣợc làm chứng dối hại ngƣời”. 9. Không đƣợc ham muốn vợ (hoặc chồng) ngƣời khác. "Ngƣơi không đƣợc ham muốn vợ ngƣời ta, ngƣơi không đƣợc thèm muốn nhà của ngƣời ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của ngƣời ta". 12 /130
- 10.Không đƣợc ham muốn của cải trái lẽ. Tƣợng Xin Vâng mô tả hình ảnh Đức mẹ Maria đang bế chúa, khi Chúa chịu chết trên cây Thánh Giá. Đây là lần thứ hai Đức Mẹ xin vâng, vâng theo ý của Thiên Chúa. Lần thứ nhất xin vâng đó là Mẹ của Giê xu, Mary (Maria hoặc Ma-ri), là một đồng trinh đã mang thai bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Joseph (Giuse hoặc Giô-sép), chồng của Maria, chỉ đƣợc nhắc đến trong thời thơ ấu của ngài, dẫn đến những suy đoán rằng ông qua đời trƣớc khi Giê- xu bắt đầu đi giảng dạy. Lần thứ 2 xin vâng theo quyền năng của Chúa là con trai của ngƣời, chúa Giê Xu phải chết để chuộc tội thay cho tổ tông của ngƣời. ảnh Đoàn Văn Tỵ Tƣợng Chúa Ki tô quay mặt về hƣớng Nam, nhìn ra biển, nét mặt bao dung, nhân từ. Tƣợng cao ảnh Đoàn Văn Tỵ 32m, sải tay dài 18,4m, hai bàn tay tƣợng dài 2,2m, ngón giữa dài 1m, xung quanh đầu tƣợng có 9 tia hào quang làm bằng kim loại vừa trang trí, vừa làm thu lôi. Bên trong tƣợng có cầu thang xoắn ốc, gồm 133 bậc. Ánh sáng chiếu vào lòng tƣợng qua hệ thống cửa sổ chữ "Thọ" mang phong cách Á Đông. Hai 13 /130
- tay áo nhƣ hai ban công an toàn để du khách có thể đón gió và ngắm nhìn toàn cảnh Vũng Tàu từ độ cao hơn 200m. Tƣợng Chúa Ki tô đƣợc xây dựng trên bệ bê tông có 4 góc hình cánh cung, cao 10m, dài 12m. Phía trƣớc bệ trang trí bức phù điêu phỏng theo tác phẩm "Bữa tiệc li" của danh họa Léonard de Vinci, phía sau là bức tranh phỏng theo tác phẩm "Đức Chúa trao chìa khóa cho Phêrô”. Mặc dù làm bằng bê tông, bên ngoài tô đá rửa, nhƣng những đƣờng nét nghệ thuật, cách thể hiện hết sức mềm mại và sinh động. Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên và nghệ thuật cổ điển tôn giáo với bản sắc văn hóa dân tộc đã tạo cho Tƣợng Chúa Ki tô núi Nhỏ Vũng Tàu thực sự là một tác phẩm nghệ thuật tôn giáo tầm cỡ của khu vực. Giới kiến trúc trong nƣớc cho rằng đây là bức Tƣợng Chúa Ki Tô cao nhất thế giới, hơn cả bức Tƣợng Chúa Ki tô ở Rio de Janeiro (Brazin) vốn do hai Giáo hội của hai quốc gia Brazin và Argentina hợp tác xây dựng (cao 26m, sải tay dài 10m), trên một ngọn núi có cảnh quan giống núi Nhỏ Vũng Tàu. Ô cửa sổ hình chữ Thọ, mang nét kiến trúc Á ĐôngTƣợng Chúa Giang Tay. Vòng xung quanh bệ tƣợng là 4 bức Phù điêu, ta sẽ lần lƣợt giới thiệu từng bức phù điêu Bức phù điêu” Bữa tiệc li: Bức phù điêu đầu tiên mà du khách thấy đó là bức phù điêu mô tả Chúa và 12 tông đồ của Chúa đƣợc mô phỏng theo bức tranh nổi tiếng của danh họa thế giới Léonard de Vinci, với tiêu đề "Bữa tiệc li" do nhóm điêu khắc gia Văn Nhân thể hiện. Nội dung chính bức phù điêu muốn đề cập đến nhƣ sau: 14 /130
- Mƣời hai Sứ đồ Bữa Tiệc li. Đức Giê-su bị bắt ảnh Đoàn- Văn Lêôna Đơ Vanhxi (1452-1519) họa Tỵ sĩ Giu-đa, một ngƣời trong thiên tài, đồng thời là nhà điêu khắc, kiến nhóm Mƣời Hai tông đồ của trúc sư và bác học toàn năng người Italia. Chúa đã đến. Cùng đi với Lêôna đã sáng tác nhiều bức tranh có giá trị, một số bức tượng được nhiều người hắn, có cả một đám ngƣời hâm mộ, nhưng hiện nay chỉ còn lại một số đông đảo mang gƣơm giáo bức tranh như bức chân dung La Giôcông, gậy gộc. Họ đƣợc các thƣợng Đức mẹ đồng trinh trong hang đá, Bữa cơm tế và kỳ mục trong dân sai cuối cùng. Nhìn bức họa Đức mẹ đồng trinh đến. Kẻ nộp Ngƣời đã cho họ trong hang đá, người ta không thấy đây là một dấu hiệu, hắn dặn rằng: một bức tranh tôn giáo, mà chỉ thấy cảnh "Tôi hôn ai thì chính là ngƣời gia đình êm ấm, tình mẫu tử sâu sắc. Trong đó. Các anh bắt lấy! " Ngay bức họa Bữa ăn cuối cùng của chúa Giêsu lúc đó, Giu-Đa tiến lại gần với 12 tông đồ, họa sĩ đã thể hiện các tâm Đức Giê-su và nói: "Ráp-bi, tư phức tạp của các tông đồ khi nghe chúa xin chào Thầy! ", rồi hôn Giêsu công bố có kẻ phản bội. Đặc biệt tên Ngƣời. Đức Giê-su bảo hắn: phản chúa Giuda đã được ông bỏ ra hàng "Này bạn, bạn đến đây làm gì năm trời đi nghiên cứu bộ mặt những tên du đãng vô lại để thể hiện. thì cứ làm đi!" Bấy giờ họ Lêôna đơ Vanhxi còn là nhà bác học, kỹ sư tiến đến, ra tay bắt Đức Giê- lỗi lạc, có nhiều phát minh trong nhiều su. Một trong những kẻ theo ngành khoa học và nhiều sáng chế máy móc Đức Giê-su liền vung tay đi trước thời đại rất xa. Ông đã khám phá tuốt gƣơm ra, chém phải tên ra sự tự quay của Trái Đất (trước đầy tớ của thƣợng tế, làm nó Côpecnich 40 năm), đi sâu vào nhiều ngành đứt tai. Đức Giê-su bảo khoa học, đặc biệt rất quan tâm đến lý ngƣời ấy: "Hãy xỏ gƣơm vào thuyết và phương pháp thực nghiệm. Ông vỏ, vì tất cả những ai cầm cũng đã để lại rất nhiều bản đồ án thiết kế gƣơm sẽ chết vì gƣơm. Hay về các công trình quân sự, xây dựng và anh tƣởng là Thầy không thể công nghệ. Rất tiếc là thời đại của ông kêu cứu với Cha Thầy sao? chưa cho phép ông thực hiện được những Ngƣời sẽ cấp ngay cho Thầy điều mong ước. Lêôna đơ Vanhxi sống phần lớn thời gian ở Italia, đến năm 1516, theo hơn mƣời hai đạo binh thiên lời mời của vua Pháp, ông sang Pháp và ba thần! Nhƣng nhƣ thế, thì lời năm sau, ông mất ở bên đó. Kinh Thánh ứng nghiệm sao 15 /130
- đƣợc? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra nhƣ vậy." Vào giờ ấy Đức Giê-su nói với đám đông: "Tôi là một tên cƣớp sao mà các ông đem gƣơm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt. Nhƣng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ "Bấy giờ các 1. Simon đƣợc Chúa Giê-su gọi là Peter – trong môn đệ bỏ Ngƣời mà chạy tiếng Việt là Phê-rô hoặc Phi-e-rơ nghĩa là đá. trốn hết”. Ông là một ngƣ phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee (Phúc âm Giăng 1. 44; 12. 21). 2. Andrew, em của Peter, ngƣ phủ thành Mƣời hai Sứ đồ, Sứ Bethsaida và là một môn đồ của Giăng Báp-tít đồ có nghĩa là "ngƣời đƣợc (John the Baptist). sai phái", "sứ giả", còn 3. James "Lớn" (trong tiếng Việt là Giacôbê hoặc đƣợc gọi là Mƣời hai Gia-cơ). Tông đồ hoặc Mƣời hai 4. John (Gioan hay Giăng), con của Zebedee, thánh Tông đồ, là những đƣợc Chúa Giê-xu gọi là Boanerges (theo tiếng Aram nghĩa là "Con trai của sấm sét" – Mark 3. ngƣời Do Thái xứ Galilée 17). đƣợc tuyển chọn trong số 5. Philip ngƣời thành Bethsaida xứ Galilee (John các môn đồ, rồi đƣợc sai 1. 44, 12. 21). phái bởi Chúa Giê-su đi 6. Bartholomew, “con trai của Talemai”, thƣờng rao giảng Phúc âm cho đƣợc gọi là Nathanael. ngƣời Do Thái và các dân 7. Thomas, cũng gọi là Thomas Didymus, tiếng Aram T’oma’, “sinh đôi”, tiếng Hi Lạp tộc khác. Didymous, cũng có nghĩa là “sinh đôi”. "Ngài gọi các môn 8. James "Nhỏ" đồ đến, chọn mƣời hai 9. Matthew (Mát-thêu hoặc Ma-thi-ơ), ngƣời thâu ngƣời, gọi là sứ đồ". thuế, đôi khi đƣợc cho là Levi, con trai của Nhiệm vụ của các Alphaeus. sứ đồ là thuyết giảng, dạy 10. Simon ngƣời Canaan. 11. Judas Iscariot "kẻ bội phản"; đƣợc cho là ngƣời dỗ và quản trị. Lời giảng muốn phục hồi quốc gia Do Thái; sau khi Judas của họ lập nên trên mối Iscariot tự vẫn, Matthias đƣợc chọn vào chỗ quan hệ thân cận mà họ của Judas Iscariot trong vòng các sứ đồ. từng có với Chúa Giêsu, 12. Thaddaeus, trong Phúc âm Luca gọi là Judas, sự dạy dỗ mà họ nhận lãnh con của James. từ ngài và lời chứng của họ về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Họ gánh vác trách nhiệm chăm sóc đời sống và phúc lợi của cộng đồng Cơ Đốc giáo còn non trẻ. Khi hội thánh phát 16 /130
- triển đến nhiều vùng khác, các sứ đồ phải dành nhiều thì giờ hơn để chăm sóc các nhóm tín hữu sống rải rác nhiều nơi. gồm có: Simon,Andrew,James"Lớn",John (Gioan hay Giăng), Philip Bartholomew,.Thomas, cũng gọi là Thomas Didymus, James "Nhỏ", Matthew (Mát-thêu hoặc Ma-thi-ơ), Simon ngƣời Canaan, Judas Iscariot "kẻ bội phản"; Thaddaeus. Các sứ đồ khác Judas Iscariot Theo các sách Phúc âm, Judas là kẻ phản bội Chúa Giêsu rồi sau đó treo cổ tự sát, khi ấy chỉ còn lại 11 sứ đồ. Theo ký thuật của sách Công vụ các sứ đồ 1. 16-20, Peter nói rằng "...Judas, người dẫn đường cho họ đến bắt Chúa Giêsu ... Vì (Judas) thuộc về chúng ta, và đã nhận phần trong chức vụ này ... đã được tiên báo trong sách Thi thiên rằng: Nguyền chỗ nó ở trở nên hoang loạn, chớ có ai ở đó; lại rằng: Nguyền cho có một người khác nhận lấy chức nó". Matthias Sau khi Chúa Giê-xu về trời, các sứ đồ họp nhau lại để chọn sứ đồ thứ 12 thế chỗ của Judas Iscariot theo cách bắt thăm, cách mà ngƣời Do Thái thƣờng dùng để xem ai là ngƣời đƣợc chọn theo ý của Thiên Chúa. Thăm trúng vào Matthias, ngƣời này trở nên sứ đồ thứ mƣời hai. Cũng cần lƣu ý rằng, về sau, khi các sứ đồ lần lƣợt qua đời, không ai đƣợc tuyển chọn để thay thế các vị này. Bức phù điêu Báo Thiên Chúa Giáng sinh: Bức phù điêu báo tin Chúa ra đời. ảnh Đoàn Văn Tỵ 17 /130
- Khi đức chúa ra đời tự nhiên trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ, ngôi sao này tỏa sáng và dẫn đƣờng cho ba vị đạo sỹ Phƣơng Đông tìm đến bái lạy chúa hài đồng. Họ dâng lên chúa hài đồng vàng, mộc dƣợc và nhũ hƣơng. Bức phù điêu mô tả cảnh ba đạo sỹ bái lạy, Đức mẹ Maria bế Chúa hài đồng và Đức cha Giu se đứng ở phía sau. Bức phù điêu "Đức Chúa trao chìa khóa cho Phêrô”: Trao chìa khóa cho Phê Rô. ảnh Đoàn Văn Tỵ Bức tranh mô tả lúc trƣớc khi chúa đi chịu tội cho tổ tông, chúa trao lại quyền của mình cho thánh Phê Rô với câu nói: “Thầy bảo với anh: anh là Phê- rô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Anh cầm buộc gì dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; anh tháo cởi điều gì dưới đất, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". Bức phù điêu “Tòa án Philatô”. Đức Giê-su ra trƣớc Thƣợng Hội Đồng Họ bắt Đức Giêsu, rồi điệu đến thƣợng tế Cai-pha. Các kinh sƣ và kỳ Bức Phù điêu – Tòa án Phi La Tô. ảnh Đoàn Văn Tỵ mục đã tề tựu 18 /130
- sẵn đó. Ông Phê-rô theo Ngƣời xa xa, đến tận dinh thƣợng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao. Còn các thƣợng tế và toàn thể Thƣợng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình. Nhƣng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai ngƣời bƣớc ra, khai rằng: "Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại." Bấy giờ vị thƣợng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su: "Ông không nói lại đƣợc một lời sao? Mấy ngƣời này tố cáo ông gì đó? " Nhƣng Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thƣợng tế nói với Ngƣời: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?" Đức Giê-su trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Ngƣời ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Bấy giờ vị thƣợng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thƣợng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao? " Họ liền đáp: "Hắn đáng chết! " Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngƣời. Có kẻ lại tát Ngƣời và nói: "Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó? Đức Giê-su ra trƣớc tòa tổng trấn Phi-La-Tô Đức Giêsu bị điệu ra trƣớc mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Ngƣời: "Ông là vua dân Do-thái sao? " Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài nói đó." Nhƣng khi các thƣợng tế và kỳ mục tố Ngƣời, thì Ngƣời không trả lời một tiếng. Bấy giờ ông Phi-La-Tô hỏi Ngƣời: "Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao? " Nhƣng Đức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một ngƣời tù, tùy ý họ muốn. Mà khi ấy có một ngƣời tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-La-Tô nói với họ: "Các ngƣơi muốn ta phóng thích ai cho các ngƣơi đây? Ba-Ra-Ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-Tô? " Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngƣời. Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai ngƣời đến nói với ông: "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử ngƣời công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy." 19 /130
- Nhƣng các thƣợng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-Ra-Ba mà giết Đức Giêsu. Tổng trấn hỏi họ: "Trong hai ngƣời này, các ngƣời muốn ta tha ai cho các ngƣời? " Họ thƣa: "Ba-Ra-Ba! " Tổng trấn Phi-La-Tô nói tiếp: "Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-Tô, ta sẽ làm gì đây? " Mọi ngƣời đồng thanh: "Đóng đinh nó vào thập giá! " Tổng trấn lại nói: "Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác? " Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá! " Tổng trấn Phi- La-Tô thấy đã chẳng đƣợc ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nƣớc rửa tay trƣớc mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu ngƣời này. Mặc các ngƣời liệu lấy! " Toàn dân đáp lại: "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi! " Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Ba-Ra-Ba cho họ, còn Đức Giêsu, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá. Hành lang trên bệ tƣợng chúa: Hành lang trên tƣợng chúa có gắn các hình hoa văn chữ Ω và α có nghĩa hữ Ω và α là Ô Mê Ga và An Pha với ý nghĩa Chúa là ngƣời đầu tiên và Chúa cũng là àn Văn Tỳ ngƣời cuối cùng không ai thay thế đƣợc. Trận địa pháo cổ: Di tích “Trận địa pháo cổ” núi Nhỏ là công trình quân sự trong hệ thống phòng thủ chiến lƣợc do Thực dân Pháp xây dựng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhằm khống chế và kiểm soát tàu, thuyền ra vào cửa biển Sài Gòn Vũng Tàu. Di tích đã đƣợc Bộ Văn hóa Thông tin công nhận xếp hạng cấp Quốc gia tại quyết định số 57.VH/QĐ ngày 18/01/1993. Kết luận về điểm tham quan: Học sinh, sinh viên sẽ tự đƣa ra những ý kiến của mình để kết thúc buổi tham quan tại điểm tham quan. Thí dụ những Tƣợng Chúa Giang Tay ảnh Đoàn Văn Tỵ 20 /130
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 2
7 p | 547 | 105
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 3
7 p | 373 | 79
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 4
7 p | 319 | 68
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 5
7 p | 300 | 61
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 7
7 p | 298 | 57
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 6
7 p | 254 | 54
-
Giáo trình tổng quan du lịch part 8
7 p | 261 | 51
-
Giáo trình Tuyến điểm du lịch Việt Nam (Nghề: Hướng dẫn du lịch - Trung cấp): Phần 1 - Trường Cao đẳng Bách khoa Nam Sài Gòn
128 p | 132 | 37
-
Giáo trình Tuyến điểm du lịch Việt Nam (Ngành: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên
53 p | 41 | 13
-
Giáo trình Thực hành nghiệp vụ hướng dẫn du lịch (Ngành: Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Trình độ: Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội
392 p | 22 | 10
-
Giáo trình Tiếng Anh chuyên ngành lữ hành hướng dẫn 2 - Phần 2: Hướng dẫn (Ngành: Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Trình độ: Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội
279 p | 25 | 8
-
Giáo trình Ngoại ngữ chuyên ngành (Nghề: Hướng dẫn du lịch - Trung cấp) - Trường Trung cấp Công nghệ và Du lịch Hà Nội
96 p | 26 | 6
-
Giáo trình Hướng dẫn tại điểm du lịch (Phần lý thuyết) - CĐ nghề Du lịch Vũng Tàu
78 p | 20 | 4
-
Giáo trình Thực hành viết bài thuyết minh (Ngành: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên
64 p | 8 | 3
-
Giáo trình Thực hành trên thực địa (Ngành: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên
56 p | 12 | 3
-
Giáo trình Ngoại ngữ chuyên ngành du lịch (Ngành: Hướng dẫn du lịch - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên
94 p | 10 | 3
-
Giáo trình Thực hành hướng dẫn du lịch (Ngành: Quản lý và kinh doanh du lịch - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Thái Nguyên
47 p | 11 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn