Giáo trình Luật lao động (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
lượt xem 53
download
Phần 1 cuốn giáo trình "Luật lao động" (Giáo trình đào tạo từ xa) gồm 6 chương sau: Khái quát chung về luật lao động, quan hệ pháp luật lao động, việc làm và học nghề, địa vị pháp lý công đoàn Việt Nam, thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động. Mời các bạn cùng tham khảo giáo trình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Luật lao động (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Lê Văn Đức GIÁO TRÌNH LUẬT LAO ĐỘNG Vinh - 2011 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Lê Văn Đức GIÁO TRÌNH LUẬT LAO ĐỘNG (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh – 2011 2
- Phân công biên soạn Chủ biên: Lê Văn Đức Từ Chương 1 đến Chương 12 3
- Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT LAO ĐỘNG 1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG 1.1. Khái niệm Thuật ngữ Luật lao động có thể được hiểu trên ba phương diện là khoa học Luật lao động, môn học Luật lao động và ngành Luật lao động. Dưới góc độ khoa học Luật lao động thì Luật lao động là một ngành khoa học trong hệ thống các ngành khoa học pháp lý. Cũng như bất kỳ ngành khoa học nào khoa học Luật lao động cũng có quá trình hình thành và phát triển; có hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật riêng; có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng. Những tiêu chí đó đã giúp cho khoa học Luật lao động trở thành một ngành khoa học độc lập trong hệ thống khoa học pháp lý của Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật lao động. Ngành khoa học này có đối tượng nghiên cứu là ngành luật lao động với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. - Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động và xã hội như: kinh tế thị trường; thị trường sức lao động; những yêu cầu và chức năng quản lý nhà nước về lao động; mối tương quan giữa các yếu tố thị trường lao động; quan hệ lao động, pháp luật lao động và mối quan hệ giữa quản lý lao động với các lĩnh vực quản lý nhà nước khác. Thực chât, khi nghiên cứu những vấn đề này, khoa học Luật lao động không đi sâu nghiên cứu chi tiết các nội dung kinh tế thuộc về đối tượng của khoa học kinh tế - lao động. Ngành khoa học này chỉ nghiên cứuc các mối quan hệ lao động trong chừng mực có liên quan với các mối quan hệ kinh tế - xã hội khác dưới góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật. Tức là, chỉ chủ yếu nghiên cứu hình thức pháp lý của các quan hệ lao động và những quan hệ xã hội khác có liên quan đến quan hệ lao động. - Những quy phạm pháp luật lao động như những bộ phận cấu thành của Luật lao động. Khoa học Luật lao động nghiên cứu nội dung hàm chứa trong các quy phạm pháp luật lao động hiện hành, nhằm rút ra các đặc điểm cũng như mặt tích cực và hạn chế của các quy phạm pháp luật để có thể kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về việc sửa đổi, bổ sung những quy phạm đó. Khoa học Luật lao động còn nghiên cứu những quy phạm pháp luật này trong quá trình phát sinh, phát triển, so sánh chúng với các quy phạm pháp luật đã được ban hành trước đó để thấy được sự kế thừa và phát triển trong việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như dự kiến hướng hoàn thiện chúng trong tương lai. Việc nghiên cứu được tiến hành đối với từng quy phạm pháp luật; đồng thời đặt chúng trong mối quan hệ với những quy phạm pháp luật khác. Nghiên cứu các quy phạm pháp luật của một ngành luật, khoa học luật lao động tìm ra những điểm hoặc những quy phạm cần sửa đổi, bổ sung để cho từng chế định đảm bảo được tính thống nhất và hoàn chỉnh làm cơ sở hoàn thiện ngành luật đó. - Các quan hệ pháp luật lao động. Khoa học Luật lao động nghiên cứu các quan hệ pháp luật lao động nhằm xác định bản chất, đặc điểm cơ cấu nội tại của mối quan hệ pháp luật, cho thấy 4
- quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào từng mối quan hệ pháp luật đó; đồng thời ngành khoa học này cũng chỉ ra cơ chế bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của chủ thể đó. Các quan hệ lao động trong xã hội tồn tại đa dạng về nội dung cho nên cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên hành vi xử sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó cũng đa dạng và phong phú. - Những mối quan hệ giữa Luật lao động với một số lĩnh vực vấn đề khác. Khoa học Luật lao động xem xét mối tương quan giữa cơ sở kinh tế và pháp luật lao động, giữa Luật lao động với kinh tế lao động và xem xét tương quan giữa ngành Luật lao động với các ngành luật khác như Luật Dân sự, Luật Hành chính, Luật Hợp tác xã… Khoa học Luật trên thế giới nghiên cứu ngành Luật lao động Việt Nam trong sự liên hệ với khoa học Luật lao động quốc tế nhằm tiếp thu những tinh hoa của khoa học Luật quốc tế và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật lao động trong nước. - Những quan điểm, học thuyết có liên quan với ngành Luật lao động. Việc nghiên cứu này nhằm mục đích tiếp thu những tiến bộ của các học thuyết để xem xét vận dụng cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam cũng như phê phán những quan điểm học thuyết sai lầm có thể có hại cho khoa học Luật lao động. Phương pháp nghiên cứu của khoa học Luật lao động Khoa học Luật lao động lấy phép biện chứng của triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Mục đích của khoa học Luật lao động là tìm ra đặc điểm, phát hiện ra các quy luật có tính phổ biến, sự điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam nhằm hòan thiện hệ thống ngành luật này. Để đạt được mụcđích nghiên cứu đó khoa học Luật lao động cần vận dụng những phạm trù cơ bản và quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật vào quá trình nghiên cứu. Phép biện chứng đòi hỏi khi nghiên cứu các quy phạm pháp luật cần phải đặt chúng trong mối liên hệ với các quy phạm pháp luật khác như một bộ phận cấu thành chế định luật và ngành luật; đồng thời phép biện chứng cũng đòi hỏi phải nghiên cứu ngành luật lao động trong mối liên hệ với các ngành luật khác. Quan điểm duy vật đòi hỏi khi nghiên cứu thượng tầng pháp lý cần phải đặt chúng trong mối liên hệ với cơ sở hạ tầng (cơ sở kinh tế). Bởi vì, cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng pháp lý, nhưng pháp luật không chỉ phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế mà nó cũng tác động trở lại với cơ sở kinh tế. Các quan hệ lao động và pháp luật lao động cũng chịu sự chi phối của quy luật này. Ngoài việc lấy phép biện chứng duy vật của Triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận, khoa học luật lao động còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp so sánh, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học… Khoa học Luật lao động thường sử dụng phương pháp so sánh, so sánh giữa các quy phạm, chế định pháp luật hiện hành với các quy phạm, chế định đã tồn tại trước đó. Từ đó, thấy được quá trình hình thành, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, so sánh các quy phạm chế định pháp luật lao động trong nước với những quy phạm, chế định tương ứng của pháp luật các nước và quốc tế nhằm cho thấy điểm đặc trưng của pháp luật lao động Việt Nam; đồng thời tiếp thu có chọn lọc những điểm tiên tiến của pháp luật nước ngoài và quốc tế. 5
- Phương pháp phân tích lịch sử được khoa học Luật lao động sử dụng trong quá trình phân tích bản chất của quy phạm, chế định pháp luật của ngành Luật lao động. Phương pháp này đòi hỏi khi nghiên cứu chúng cần xem xét các quy phạm, văn bản quy phạm pháp luật đó trong bối cảnh ra đời của quy phạm đó bởi vì các quy phạm pháp luật luôn là sản phẩm những điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử nhất định của đất nước. Sử dụng tốt phương pháp này cho phép người nghiên cứu tránh được cái nhìn phi lịch sử trong việc đánh giá một quy phạm, một chế định pháp luật lao động. Vận dụng phương pháp này cho phép đánh giá đúng một văn bản, một giai đoạn lịch sử nhất định và dự đoán phương hướng phát triển của ngành luật lao động trong tương lai thông qua tư duy lôgic. Khoa học luật lao động sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm giúp cho người nghiên cứu thu nhập được những thông tin có tính thời sự về một vấn đề hoặc lĩnh vực nhất định để làm cơ sở cho việc hoạch định, xây dựng một chính sách quan trọng. Khảo sát xã hội học cũng thường được tiến hành trong khoa học luật lao động. Lao động liên quan đến các vấn đề cần thiết của con người như việc làm, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội. Để có những chính sách đúng đắn có tính khả thi cần dựa vào những thông tin do quá trình điều tra xã hội học cung cấp. Ngoài ra, việc điều tra cũng cho phép thấy được hiệu quả áp dụng của các quy phạm pháp luật lao động nhằm xem xét để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Khoa học Luật lao động là tổng hợp tri thức khoa học thể hiện dưới các khái niệm, phạm trù, quy luật về Luật lao động có liên quan chặt chẽ với nhau và sắp xếp thành một hệ thống. Đối tượng chủ yếu của nó là ngành Luật lao động do vậy về cơ bản khoa học Luật lao động có sự trùng lặp với ngành Luật lao động. Nhưng khoa học Luật lao động và ngành Luật lao động là không đồng nhất với nhau. Ngoài những quy phạm của ngành luật, khoa học Luật lao động còn nghiên cứu những vấn đề khác có liên quan đến ngành Luật lao động. Hệ thống khoa học Luật lao động bao gồm hai phần: phần chung và phần riêng. Phần chung của hệ thống khoa học Luật lao động bao gồm những tri thức về ngành luật như: đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động; hệ thống ngành Luật lao động; nguồn của Luật lao động; tương quan giữa Luật lao động với một số ngành luật khác; mối quan hệ giữa Luật lao động Việt nam với Luật lao động quốc tế; vai trò, vị trí của Luật lao động; lịch sử ra đời và phát triển của Luật lao động; đối tượng, phương pháp nghiên cứu và hệ thống của khoa học Luật lao động; quan hệ pháp luật lao động… Phần riêng của khoa học Luật lao động bao gồm những tri thức về các chế định cụ thể của Luật lao động như hợp đồng lao động; Thỏa ước lao động tập thể; tiền lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; bảo hộ lao động; bảo hiểm xã hội; giải quyết tranh chấp lao động và đình công. Ngoài ra khoa học Luật lao động còn nghiên cứu những vấn đề như địa vị pháp lý của tổ chức Công đoàn; việc làm và học nghề; quản lý Nhà nước về lao động… Khoa học Luật lao động có quan hệ mật thiết với khoa học có tính chất cơ sở như Lý luận Nhà nước và pháp luật; Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Luật Hiến pháp; … 6
- Lý luận Nhà nước và pháp luật nghiên cứu những vấn đề có tính chất chung nhất về Nhà nước và pháp luật. Khoa học Luật lao động sử dụng những quan điểm, kết luận của Lý luận Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu Luật lao động. Lịch sử Nhà nước và pháp luât nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước, pháp luật của Việt Nam và thế giới. Ngành khoa học này đã cung cấp những tri thức cần thiết cho khoa học luật lao động như lịch sử ra đời, phát triển của ngành Luật lao động cùng các chế định cơ bản của nó. Từ đó rút ra các đặc điểm của Luật lao động trong từng thời kỳ lịch sử, của mỗi quốc gia, dự kiến phương hướng phát triển tương lai của nó. Trong quan hệ với khoa học Luật hành chính, khi nghiên cứu khoa học luật lao động cần chỉ ra ranh giới thuộc đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của hai ngành luật này cũng như các vấn đề khác như thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương; các quyền của Công đoàn; giải quyết khiếu nại, tranh chấp… Khoa học Luật dân sự nghiên cứu ngành Luật dân sự. Luật lao động được tách ra từ Luật dân sự cổ điển nên khoa học Luật lao động cần tính đến những tri thức của khoa học Luật dân sự; nhất là khi nghiên cứu những vấn đề như bản chất; đặc điểm của hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; trách nhiệm vật chất… Ngoài ra, khoa học luật lao động còn có mối quan hệ nhất định với khoa học Luật hợp tác xã… Dưới góc độ môn học thì Luật lao động là một bộ phận của khoa học Luật lao động, sử dụng những tri thức từ khoa học Luật lao động xây dựng nên hệ thống môn học và Giáo trình luật lao động. Khoa học luật lao động cung cấp nhiều tri thức phong phú, các môn học Luật lao động cung cấp kiến thức một cách có hệ thống về ngành Luật lao động ở những mức độ khác nhau cho sinh viên tùy thuộc vào yêu cầu của từng ngành, từng trường Đại học. Các giáo trình, bài giảng Luật lao động của các trường, các khoa lần lượt ra đời nhằm đáp ứng cho công tác giảng dạy môn học này. Cũng như khoa học luật lao động, môn học Luật lao động có đối tượng nghiên cứu là ngành Luật lao động. Tùy thuộc vào mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo dành cho các chuyên ngành, các hệ của từng trường mà môn học Luật lao động cung cấp một phần hoặc tòan bộ các nội dung sau: - Các vấn đề chung bao gồm: + Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của ngành Luật lao động; + Nguồn của ngành Luật lao động; + Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động; + Quan hệ pháp luật lao động; - Các vấn đề riêng bao gồm: + Việc làm - học nghề; + Công đoàn; + Thỏa ước lao động tập thể; + Hợp đồng lao động; + Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; + Tiền lương; + Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; + Bảo hộ lao động; + Bảo hiểm xã hội; 7
- + Giải quyết tranh chấp lao động và đình công; + Xử phạt vi phạm pháp luật lao động. Cả khoa học luật lao động và môn học luật lao động đều có đối tượng nghiên cứu là ngành luật lao động. Dưới góc độ ngành luật, Luật lao động là một ngành độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động thuê mướn có trả công lao động và những quan hệ xã hội khác có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Để được xác định là một ngành luật độc lập thì ngành luật đó phải có đối tượng điều chỉnh riêng; phương pháp điều chỉnh; nguyên tắc cơ bản và nguồn luật riêng. 1.2. Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là một hoặc một nhóm quan hệ xã hội cùng loại, có chung đặc điểm, được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật lao động có đối tượng điều chỉnh bao gồm quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Như vậy, các nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật lao động bao gồm: - Quan hệ lao động làm công ăn lương; - Quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. 1.2.1. Quan hệ lao động làm công ăn lương Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình lao động. Bởi vì, lao động là hoạt động tất yếu của con người trong xã hội. Nó là nhân tố cơ bản tạo nên con người, là điều kiện để con người mãi mãi là con người. Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người, đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói rằng lao động đã tạo ra chính bản thân con người" Theo từ điển tiếng Việt năm 1998 thì "lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội". Trong quá trình lao động, con người tác động trực tiếp vào thế giới xung quanh và mục đích của quá trình lao động được thể hiện trong kết quả của nó. Nhờ có lao động mà con người tách ra khỏi động vật, biết vận dụng quy luật của thiên nhiên để chinh phục nó. Trong xã hội hiện đại, lao động không chỉ là thước đo sự phát triển xã hội mà còn chi phối tới các yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hóa, đời sống con người. Trong đời sống, lao động góp phần rèn luyện nhân cách, giữ gìn phẩm giá, tôn vinh giá trị con người. Lao động còn là cơ sở, điều kiện cho sự phát triển thể lực và trí tuệ con người. Thông qua lao động con người có điều kiện tham gia nhiều mối quan hệ xã hội nên giúp họ nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề; đồng thời giúp họ hiểu biết mọi mặt đời sống xã hội. Có thể nói lao động vừa là nhu cầu, vừa là quyền tự nhiên cơ bản của con người, giúp con người thực hiện được các quyền khác như ăn, mặc, ở, học tập… Đời sống con người hình thành nhiều quan hệ xã hội quan 8
- trọng, phức tạp đòi hỏi Nhà nước và xã hội có các quy định để định hướng, điều tiết trong đó có luật lao động. Dù có đa dạng, phong phú đến đâu thì quá trình lao động cũng được xác định là những hoạt động có ý thức của con người để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ cho đời sống. Lao động luôn nằm trong một hình thái xã hội nhất định; bởi vì trong quá trình lao động, con người không chỉ quan hệ với thiên nhiên mà còn có quan hệ với nhau. Quan hệ lao động xuất hiện cùng lúc với sự xuất hiện của con người. Nếu xem xét cả quá trình này thì trong lao động sản xuất, giữa con ngưòi với nhau sẽ nảy sinh nhiều mối quan hệ như quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức lao động, quan hệ phân phối sản phẩm; tức là những mối quan hệ xã hội bao hàm yếu tố lao động, thực hiện công việc. Những mối quan hệ đó đều liên quan đến quan hệ lao động nhưng chúng hoàn tòan khác nhau. Các yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến mối quan hệ lao động phải kể đến là người thực hiện công việc, người sử dụng kết quả công việc là ai? Mục đích của quan hệ đó là gì? Mức độ ổn định và phụ thuộc cũng như mức độ liên kết giữa các bên tham gia quan hệ… Quan hệ lao động là một biểu hiện của quan hệ sản xuất, chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Do vậy, hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau thì hình thức quan hệ lao động cũng cũng khác nhau. Mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ có một kiểu tổ chức lao động tiêu biểu. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, tổ chức lao động dựa trên nguyên tắc: cùng dùng, cùng làm và cùng hưởng. Xã hội này không có sự phân hóa giai cấp và cũng không có sự bóc lột sức lao động. Đã xuất hiện quyền lực trong xã hội này nhưng đó là quyền lực xã hội - thứ quyền lực được thực hiện dựa trên dư luận xã hội, uy tín cá nhân, phong tục tập quán,… Có thể nói, tự giác và bình đẳng là đặc trưng của quy tắc ứng xử trong quan hệ lao động thời kỳ này. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nô có quyền lực vô hạn với nô lệ. Lúc này người nô lệ là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Mọi thành quả lao động của nô lệ đều thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Do vậy, quan hệ lao động giữa chủ nô và nô lệ là quan hệ bóc lột nặng nề nhất, tàn khốc nhất. Thực tế thì người nô lệ bị bóc lột ở mọi nơi, mọi lúc. Trong xã hội phong kiến, địa vị của người nông nô có khá hơn so với thân phận người nô lệ. Người nông nô cày ruộng trên đất của mình hoặc trên đất của lãnh chúa phong kiến nhưng họ vẫn bị bóc lột bằng hình thức địa tô và các hình thức lao dịch khác. Chế độ tư bản ra đời là một bước tiến mới trong lịch sử nhân loại; nhưng do xã hội tư bản được xây dựng chủ yếu trên quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu cho nên về bản chất, đây vẫn là một xã hội bóc lột cho dù hình thức bóc lột có khác so với các chế độ trước đó. Quan hệ lao động phổ biến trong xã hội tư bản là quan hệ làm thuê giữa người lao động và chủ tư bản. Trong xã hội này, người lao động bị bóc lột giá trị thặng dư. Hợp đồng lao động là hình thức chủ yếu để thiết lập và duy trì quan hệ lao động giữa tư bản và làm thuê; dù về mặt hình thức được thiết lập một cách bình đẳng nhưng người lao động phải chịu nhiều sức ép, cung lao động nhiều hơn cầu lao động, nạn thất nghiệp luôn đe dọa. Do vậy, trên thực tế vị thế yếu hơn luôn thuộc về người lao động. 9
- Chế độ Xã hội chủ nghĩa khác về chất so với các chế độ xã hội trước đó. Người lao động đã được làm chủ tư liệu sản xuất. Hợp đồng lao động trong xã hội này không chỉ đơn thuần là quan hệ mua bán sức lao động. Quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động là quan hệ bình đẳng, hợp tác. Như vậy, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một loại quan hệ lao động đặc thù thích ứng với nó. Nhưng, nhìn chung các loại quan hệ lao động của bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng bao gồm những khâu cơ bản thu hút ngưồi lao động tham gia lao động, phân công lao động và hợp tác lao động; đào tạo nâng cao tay nghề, duy trì kỷ luật lao động; bảo đảm các điều kiện lao động; phân phối sản phẩm lao động; tái sản xuất sức lao động. Trong nền kinh tế hiện nay của Việt Nam đang tồn tại các quan hệ lao động hiểu theo nghĩa rộng. Đó có thể là quan hệ lao động trong các hợp tác xã, trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, trong các doanh nghiệp, lao động tự do, lao động gia đình, lao động có yếu tố nước ngoài. Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam Luật lao động không tập trung điều chỉnh tất cả những mối quan hệ lao động đó mà luật lao động điều chỉnh chủ yếu quan hệ lao động làm công ăn lương thuộc mọi thành phần kinh tế. Thứ nhất, quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với Nhà nước Công chức Nhà nước là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước. Khi trở thành công chức nhà nước, họ vừa là người lao động vừa là người đại diện cho quyền lực nhà nước, người lao động được trả lương và phải tuân thủ kỷ luật, mệnh lệnh của cấp trên. Điều này bị chi phối bởi yêu cầu khách quan của việc tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước có tính chất công quyền. Cơ sở pháp lý xác lập mối quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với Nhà nước là quyết định tuyển dụng nó có tính chất hành chính chứ không phải là sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở giao kết hợp đồng lao động. Do vậy, việc xác lập, thực hiện quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với Nhà nước theo chế độ riêng chặt chẽ từ việc tuyển dụng, bổ nhiệm, thuyên chuyển công tác, khen thưởng, kỷ luật, nâng ngạch, miễn nhiệm, giải quyết khiếu nại… Tất cả những vấn đề liên quan đến điều kiện lao động, tiền lương đều do Nhà nước trực tiếp quy định. Việc giải quyết những mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể trong quan hệ đó thông qua con đường hành chính. Như vậy, chúng ta thấy rõ mối quan hệ này mang nặng tính chất mệnh lệnh quyền uy, chúng thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính. Các quan hệ lao động thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, các đại biểu dân cử sẽ do Luật nhà nước điều chỉnh. Thứ hai, quan hệ lao động giữa xã viên và hợp tác xã, trong đó xã viên không hưởng tiền công từ hợp tác xã. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế xã hội do các xã viên tự nguyện lập ra. Người lao động có thể cùng nhau hợp tác trong quá trình hoạt động lao động, cùng thỏa thuận vấn đề tổ chức, quản lý lao động, phân phối sản phẩm mô hình hợp tác xã hay tổ hợp tác. Khi thành lập, gia nhập hợp tác xã bằng cách vừa góp vốn, vừa góp sức vào hợp tác xã, người lao động trở thành xã viên hợp tác xã. Với địa vị đó họ là người lao động vừa là người sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong hợp tác xã; vừa là thành viên của cơ quan quản lý cao nhất của hợp tác xã là đại hội xã viên. Như vậy, mối 10
- quan hệ lao động này không tách rời khỏi quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối sản phẩm. Cơ sở pháp lý làm phát sinh mối quan hệ này là gia nhập, kết nạp thành viên chứ không phải bằng con đường tuyển dụng hay ký kết hợp đồng lao động. Việc xác lập, thực hiện quan hệ này từ kết nạp, khen thưởng, điều hành… đều do hợp tác xã trực tiếp quy định trên cơ sở pháp luật, thể hiện rõ trong Điều lệ của Hợp tác xã. Mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể trong hợp tác xã được giải quyết trong nội bộ hợp tác xã hoặc thông qua các cơ quan tài phán kinh tế, theo thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh. Có thể thấy rõ quan hệ lao động này mang nặng tính nội bộ và không tách rời với quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý. Do có tính chất đặc thù nên quan hệ lao động này do Luật Hợp tác xã điều chỉnh. Thứ ba, quan hệ lao động giữa người lao động và người thuê mướn lao động nhằm hoàn thành một công việc chỉ tính đến kết quả công việc (quan hệ khoán việc). Người thuê mướn lao động chỉ tính đến kết quả công việc mà không tính đến quá trình tạo ra kết quả đó, người lao động được trả công theo hình thức công nhật hoặc theo sản phẩm thực tế. Họ cũng phải tuân theo những yêu cầu nào đó nhưng yếu tố tổ chức, quản lý lao động không rõ ràng. Cơ sở pháp lý của mối quan hệ này là sự thỏa thuận giữa hai bên thông qua việc giao kết hợp đồng dân sự. Việc xác lập, thực hiện quan hệ này trên cơ sở quy định pháp luật dân sự. Những quan hệ này khó phân biệt cho nên nếu có tranh chấp xảy ra các bên phải tự chứng minh quan hệ của họ có dấu hiệu của quan hệ lao động hay không? Nếu không chứng minh được có sự quản lý lao động trong quá trình lao động thì quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được giải quyết theo quy định của Luật dân sự. Nghĩa là nếu các dấu hiệu của quan hệ lao động không rõ ràng thì những mâu thuẫn phát sinh trong mối quan hệ này được giải quyết bằng hòa giải hoặc qua tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự. Tóm lại, mối quan hệ này mang tính thỏa thuận tuyệt đối, dựa trên các quy định của pháp luật dân sự và sẽ do ngành luật dân sự điều chỉnh. Thứ tư, quan hệ lao động làm công ăn lương giữa người lao động với người sử dụng lao động trong quá trình sử dụng sức lao động là đối tượng điều chỉnh của luật lao động. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hóa đặc biệt. Pháp luật cho phép các tổ chức, cá nhân được tự do sản xuất kinh doanh và thuê mướn lao động phù hợp với nhu cầu của mình; còn người lao động thì có quyền lựa chọn làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất cứ nơi nào mà pháp luật không cấm. Thực tế, loại quan hệ lao động làm công ăn lương có tên gọi khác nhau như quan hệ chủ - thợ, quan hệ thuê mướn lao động, quan hệ hợp đồng lao động. Về bản chất, đây là quan hệ lao động giữa một bên là người sử dụng lao động (nắm tư liệu sản xuất, trả công cho NLĐ để được sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm) và một bên là người lao động (có sức lao động và bán sức lao động cho người sử dụng lao động để được hưởng tiền công). Trong quá trình sử dụng sức lao động, tính ổn định của mối quan hệ và sự lệ thuộc của NLĐ vào NSDLĐ là rất lớn. Trong mối quan hệ lao động này, người lao động phải tự mình thực hiện công việc được giao, không được tự ý chuyển giao nghĩa vụ lao động của mình cho người khác khi chưa được người sử dụng lao động đồng ý. Bởi vì, kết quả của hoạt 11
- động phụ thuộc trực tiếp vào trình độ chuyên môn, khả năng lao động, sức khỏe cũng như các đặc điểm riêng biệt về nhân cách, phẩm chất đạo đức và thái độ đối với công việc của NLĐ. Bên cạnh đó, với tư cách là người sở hữu tư liệu sản xuất, người sử dụng lao động được kiểm tra, giám sát quá trình lao động của người lao động để đảm bảo cho quan hệ lao động đạt được mục tiêu nhất định, tạo ra lợi nhuận cho mình; đồng thời đảm bảo trả công cho người lao động. Ngoài ra, trong mối quan hệ lao động đó, người lao động luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động nên pháp luật cho phép có sự tham gia của tổ chức Công đòan vào quá trình xác lập, thực hiện, thay đổi và chấm dứt quan hệ lao động. Do mối quan hệ lao động này có tính chất bình đẳng tương đối nên cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động hữu hiệu nhất là việc giao kết hợp đồng lao động; tức là bằng những thỏa thuận trong hợp đồng lao động, người lao động cam kết để bên kia sử dụng sức lao động của mình cho nhu cầu công việc mà bên đó tạo ra. Việc xác lập quan hệ này dựa trên sự tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên về các vấn đề liên quan đến quá trình lao động phù hợp với pháp luật. Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà thông qua các quy định pháp luật tạo hành lang pháp lý; trong đó quyền lợi của các bên được pháp luật quy định ở mức tối thiểu và nghĩa vụ thì được quy định ở mức tối đa; để cho các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ này được tự do thương lượng với nhau trên nguyên tắc cùng có lợi và không trái pháp luật. Trong qúa trình thực hiện quan hệ lao động này, mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên sẽ được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc xét xử tại Tòa án, theo thủ tục giải quyết tranh chấp lao động. Tuy nhiên, xét trên một góc độ nào đó công chức Nhà nước cũng thuộc giới những người lao động trong xã hội. Nhà nước cũng sử dụng sức lao động của cán bộ công chức để thực hiện các công vụ cho nên có thể nói đây cũng là mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giữa các bên mặc dù không có sự thỏa thuận chung nhưng Nhà nước cũng cần căn cứ vào sự tiêu hao sức lực của người lao động trong từng công việc để quyết định tiền lương, thời gian làm việc của họ cho phù hợp. Đồng thời, họ cũng được đảm bảo về điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động và được bảo hiểm xã hội trong và sau quá trình lao động. Do đó, một số quy định của Bộ luật lao động cũng được áp dụng cho mối quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với Nhà nước chẳng hạn các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; an tòan lao động, vệ sinh lao động, công đoàn… Quan hệ lao động làm công ăn lương được xem như là loại quan hệ đặc biệt và tiêu biểu trong nền kinh tế thị trường. Được xác lập và tiến hành thông qua thương lượng, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác; tôn trọng quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người lao động cũng như người sử dụng lao động; thực hiện đầy đủ các thỏa thuận đã cam kết, quan hệ lao động này có tính chất sau: - Quan hệ lao động vừa có tính xã hội, vừa có tính kinh tế Là quan hệ giữa con người với con người, quan hệ lao động mang tính xã hội nghĩa là các bên tham gia mối quan hệ này hướng tới việc thỏa mãn các giá trị tinh thần nhất định. Nhưng, là một bộ phận của quan hệ sản xuất quan hệ lao động chịu 12
- sự chi phối trực tiếp của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Một hiệ tượng phổ biến trong xã hội hiện nay là mỗi bên đều hướng tới lợi ích kinh tế của mình khi tham gia vào quan hệ lao động. Người sử dụng lao động thường hướng tới lợi nhuận trong việc sử dụng sức lao động của người lao động; còn người lao động hướng tới tiền công khi làm việc cho người sử dụng lao động để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình. Để quan hệ lao động làm công ăn lương phát triển theo hướng tích cực cần đảm bảo hài hòa giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của các bên. - Quan hệ lao động vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn Trong quá trình lao động của người lao động, người sử dụng lao động và người lao động kết hợp với nhau tạo nên mối quan hệ lao động. Kết quả lao động phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hợp tác giữa hai bên. Quan hệ lao động có tồn tại ổn định và phát triển thì quyền lợi lâu dài của các bên mới được bảo đảm. Tuy nhiên, thường thì lợi ích kinh tế của các bên trong quan hệ lao động đối lập nhau, tạo nên tính mâu thuẫn trong quan hệ lao động. Trong khi lợi ích của người sử dụng lao động tỷ lệ thuận với giảm chi phí, tăng lợi nhuận thì lợi ích của người lao động liên quan chặt chẽ với tiền công và điều kiện lao động dường như là tỷ lệ thuận với việc đầu tư và tăng chi phí. Do vậy, ý thức tôn trọng và bảo vệ lợi ích của đối tác từ cả hai phía sẽ là rất cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của đôi bên trong quan hệ lao động. - Quan hệ lao động vừa có tính bình đẳng vừa có tính phụ thuộc Trong quan hệ lao động dựa trên cơ chế công hữu về tư liệu sản xuất (công ty Nhà nước) thì các thành viên tham gia đều là chủ sở hữu, đều bình đẳng về mặt kinh tế; tức là bình đẳng trong sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Còn trong các doanh nghiệp khác địa vị kinh tế của người sử dụng lao động và người lao động hoàn toàn khác nhau. Người sử dụng lao động với tư cách là chủ sở hữu tư liệu sản xuất sẽ có quyền riêng của họ trong tổ chức sản xuất cũng như trong phân phối thu nhập; họ có quyền quy định quy chế phân phối trong đơn vị của mình; có quyền quyết định các mức lương ở từng vị trí công việc; có quyền trả lương cho người lao động từ khối tài sản của mình hoặc mình đang quản lý. Thực tế, thiện chí giữa hai bên là cơ sở để người sử dụng lao động quyết định có tiếp tục thuê mướn người lao động đó nữa hay không? Trong khi đó người lao động chỉ có sức lao động sẽ bị lệ thuộc cả về mặt kinh tế và pháp lý trong quan hệ với người sử dụng lao động. Mặt khác, lợi nhuận của người sử dụng lao động một phần phụ thuộc vào quá trình lao động của người lao động. Do đó, để điều chỉnh hành vi của các bên trong quan hệ lao động bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và người lao động thì Nhà nước cũng đưa ra các quy định pháp luật nhằm giảm bớt sự lệ thuộc về mặt kinh tế và pháp lý của người lao động và người sử dụng lao động. - Quan hệ lao động vừa có tính cá nhân vừa có tính tập thể Lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện chuyên môn hóa cao thì họat động lao động thường đòi hỏi sự hợp tác làm việc của một tập thể người lao động. Trong doanh nghiệp, sự hợp tác này diễn ra dưới sự điều hành của người sử dụng lao động. Tính cá nhân và tính tập thể của quan hệ lao động gắn bó hữu cơ với nhau. Quan hệ lao động cá nhân (trên cơ sở HĐLĐ) làm tiền đề cho quan hệ lao động tập thể (dựa trên cơ sở thương lượng và 13
- ký kết thỏa ước lao động tập thể) được thiết lập và ngược lại; quan hệ lao động tập thể góp phần hỗ trợ cho quan hệ lao động cá nhân được xác lập và thực hiện. Như vậy, quan hệ lao động làm công ăn lương có các nội dung chủ yếu như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; bảo hộ lao động; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; giải quyết tranh chấp lao động. Ngoài ra, để đảm bảo cho quan hệ lao động phát triển hài hòa còn có những quan hệ xã hội phát sinh trước; đồng thời hoặc phát sinh sau quan hệ lao động cũng được Luật lao động điều chỉnh, đó là các quan hệ việc làm, học nghề; quan hệ đại diện; quan hệ bảo hiểm xã hội; quan hệ quản lý nhà nước về lao động. 1.2.2. Các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động Ngòai quan hệ lao động làm công ăn lương, Luật lao động còn điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Bao gồm: - Quan hệ về việc làm Đối với người lao động thì việc làm là điều quan tâm đầu tiên trong suốt cuộc đời lao động. Việc làm đầy đủ, hiệu quả, việc làm được tự do lựa chọn là những vấn đề đã được tổ chức lao động quốc tế, các nước trên thế giới và Việt Nam đặt ra và nỗ lực đảm bảo. Quan hệ về việc làm là quan hệ phát sinh giữa một bên là cá nhân có nhu cầu tìm kiếm việc làm, bảo đảm việc làm với một bên là Nhà nước, các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có khả năng thuê mướn, trả công lao động và tổ chức giới thiệu việc làm. Đây thực chất chưa phải là quan hệ lao động mà chỉ đóng vai trò thiết lập đảm bảo cho quan hệ lao động được tồn tại. Để đảm bảo được việc làm của người lao động, Nhà nước với chức năng quản lý định hướng thị trường phải đề ra và thực hiện chủ trương, chính sách đúng đắn về việc làm; các thiết chế hỗ trợ cho thị trường lao động như dịch vụ việc làm được hình thành; các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động phải được khuyến khích và nỗ lực giải quyết và đảm bảo việc làm cho người lao động; người lao động có quyền tự do chọn việc làm … Điều đó làm hình thành nên nhiều mối quan hệ về việc làm và bảo đảm việc làm. Các quan hệ đó bao gồm ba loại: + Quan hệ về bảo đảm việc làm giữa người sử dụng lao động và người lao động Pháp luật quy định vấn đề bảo đảm quyền tự do lựa chọn việc làm của người lao động, tự do tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động; Nhà nước xác định các đối tượng được ưu tiên giải quyết việc làm, đảm bảo tính hợp pháp; thực hiện đầy đủ việc làmcho người lao động như đã thỏa thuận; nếu do thay đổi cơ cấu, công nghệ mà làm cho người lao động mất việc thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp mất việc làm cho ngưòi lao động; nếu người lao động thôi việc vì các lý do khác thì phải được trả trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật. + Quan hệ giữa các tổ chức giới thiệu việc làm với người lao động và người sử dụng lao động. Trong mối quan hệ này, Luật lao động quy định rõ trách nhiệm cũng như quyền hạn của tổ chức giới thiệu việc làm, người lao động và người sử dụng lao động. - Quan hệ học nghề Trình độ chuyên môn, tay nghề là yếu tố quan trọng tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện nay đòi 14
- hỏi trình độ nghề nghiệp của người lao động ngày càng được nâng cao. Do vậy, quan hệ học nghề vừa là một quan hệ xã hội độc lập, vừa là một quan hệ có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Người lao động phải vừa lao động vừa nâng cao trình độ tay nghề để có và giữ được việc làm và thăng tiến trong công việc. Đồng thời, chất lượng của quan hệ học nghề có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội và tính bền vững của việc làm, đến trình độ chuyên môn và mức thu nhập của người lao động trong quan hệ lao động. Quan hệ về học nghề là quan hệ xã hội hình thành giữa người học nghề và các cơ sở dạy nghề do Nhà nước cho phép thành lập. Về mặt hình thức quan hệ này luôn hình thành trên cơ sở hợp đồng học nghề. Cùng với quan hệ việc làm, quan hệ học nghề thuộc nhóm quan hệ có ảnh hưởng trực tiếp với quan hệ lao động, thường đan xen với quan hệ lao động hoặc nhiều khi phát sinh trước để tạo điều kiện cho quan hệ lao động hình thành. Đối với quan hệ học nghề, luật lao động chỉ điều chỉnh trong phạm vi liên quan đến quan hệ lao động đã xác định. - Quan hệ bồi thường thiệt hại trong quá trình lao động Trong quá trình lao động nếu một bên gây thiệt hại về tài sản hoặc sức khỏe cho phía bên kia thì phải có trách nhiệm bồi thường. Quan hệ bồi thường thiệt hại vật chất có liên quan rất chặt chẽ đến quan hệ lao động, chỉ phát sinh trên cơ sở các bên đã thiết lập quan hệ lao động. Quan hệ này chia thành 3 loại sau: + Quan hệ bồi thường thiệt hại về tài sản. Nếu trong quá trình thực hiện quan hệ về lao động, người lao động vi phạm kỷ luật lao động dẫn đến làm mất mát hư hỏng dụng cụ, vật tư, thiết bị mà mình được người sử dụng lao động giao cho để quản lý thì người lao động có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm vật chất, bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động. + Quan hệ bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động. Khi chấm dứt hợp đồng lao động, nếu bên nào vi phạm cam kết chấm dứt hợp đồng bất hợp pháp hoặc không thuộc trường hợp được chấm dứt hoặc thuộc trường hợp pháp luật cấm chấm dứt hoặc chấm dứt vi phạm về thủ tục thì phải bồi thường cho bên kia theo quy định của pháp luật. + Quan hệ bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng người lao động. Trong quá trình người lao động thực hiện nghĩa vụ lao động của mình, nếu rủi ro gặp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (ngay cả trong trường hợp do lỗi của người lao động) thì phát sinh quan hệ bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp giữa người lao động (hoặc gia đình người lao động bị tai nạn lao động tử vong) với người sử dụng lao động. Luật lao động điều chỉnh các mối quan hệ bồi thường thiệt hại nêu trên nhằm mục đích khôi phục lại những thiệt hại mà các bên của quan hệ lao động đã gây ra cho nhau cũng như để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động. - Quan hệ về bảo hiểm xã hội. Sức lao động của con người không tồn tại vĩnh cửu mà suy giảm cùng với thời gian, tuổi tác và mức độ cống hiến của người lao động. Một trong những đòi hỏi của xã hội ngày nay là phải đảm bảo cho người lao động, bảo đảm thu nhập, sức khỏe, tính mạng và sau khi lao động. Do vậy, đã làm phát sinh quan hệ về bảo hiểm xã hội. 15
- Quan hệ này phát sinh trên cơ sở hình thành quan hệ lao động và các bên tham gia quan hệ lao động đóng góp phí bảo hiểm xã hội. Quan hệ này chia thành hai loại là quan hệ trong việc tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội và quan hệ trong việc chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội. Quá trình đảm bảo các điều kiện vật chất cho người lao động có liên quan chặt chẽ với quan hệ lao động vì vậy được các quy phạm pháp luật lao động điều chỉnh. - Quan hệ về đại diện lao động. Đây là mối quan hệ giữa tổ chức Công đoàn với tư cách là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động với người sử dụng lao động được thiết lập trong lĩnh vực sản xuất, lao động cải thiện đời sống cho người lao động. Xuất phát từ đặc điểm là trong quan hệ lao động làm công ăn lương, người lao động luôn ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động cho nên Nhà nước quy định cho tổ chức Công đoàn (tổ chức có chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao động) được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quan hệ lao động; được tham gia trực tiếp vào quá trình thương lượng Thỏa ước lao động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động, đình công… - Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và các cuộc đình công Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động, giữa các bên tham gia vào quan hệ này có thể phát sinh những bất đồng, mâu thuẫn. Việc giải quyết những xung đột phát sinh giữa người lao động với người sử dụng lao động mà các bên không tự xử lý được sẽ do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện nhằm đảmbảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên; nhằm đảm bảo sự ổn định cho quan hệ lao động. Đây là quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động và giải quyết đình công với các bên trong quan hệ lao động. - Quan hệ về quản lý và thanh tra nhà nước về lao động Là quan hệ giữa Nhà nước (cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) với người sử dụng lao động trong việc chấp hành các quy định pháp luật về sử dụng lao động. Đặc điểm của quan hệ lao động làm công ăn lương là có tính bình đẳng tương đối nên Nhà nước quy định khung pháp lý và cho phép các bên được thỏa thuận về các vấn đề cụ thể liên quan đến nội dung của quan hệ lao động. Sự thỏa thuận này phải phù hợp với quy định của pháp luật. Với chức năng quản lý Nhà nước (thông qua các cơ quan Nhà nước) tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật của các bên trong quan hệ lao động. Nếu có vi phạm thì Nhà nước sẽ tiến hành xử lý nghiêm minh. 1.3. Phương pháp điều chỉnh Cùng với đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh là căn cứ để phân biệt các ngành luật và khẳng định tính độc lập của mỗi ngành luật. Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức, biện pháp tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh. Nó được xác định dựa trên đặc điểm, tính chất của đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Xuất phát từ đặc điểm của quan hệ lao động làm công ăn lương mà luật lao động sử dụng kết hợp ba phương pháp điều chỉnh. - Phương pháp bình đẳng thỏa thuận; - Phương pháp mệnh lệnh; 16
- - Phương pháp tác động thông qua hoạt động của tổ chức Công đoàn trong quá trình lao động 1.3.1 Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận Là phương pháp điều chỉnh mang tính chất đặc thù của ngành luật dân sự. Một số ngành luật cũng sử dụng phương pháp này trong đó có ngành luật lao động. Trong Luật lao động của cơ chế thị trường, phương pháp thỏa thuận được sử dụng phổ biến và giữ một vai trò quan trọng xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động. Phương pháp bình đẳng thỏa thuận được sử dụng trước hết trong việc xác lập quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, xác lập thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Phương pháp này còn được áp dụng trong việc xác lập hành lang pháp lý dựa trên nguyên tắc: những quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động thì ở mức tối đa còn những quy định về lợi ích và quyền của họ thì được quy định ở mức tối thiểu. Trong khuôn khổ hành lang pháp lý đó, khi tham gia vào quan hệ lao động các bên chủ thể của quan hệ lao động có thể tự do thương lượng và thỏa thuận các vấn đề quan trọng trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trên cơ sở nhu cầu và khả năng đáp ứng của mỗi bên. Ngoài ra phương pháp thỏa thuận còn được sử dụng ở hầu hết các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Nguyên tắc thương lượng, hòa giải được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là tự do thương lượng nên khi tham gia vào quan hệ lao động các bên cùng nhau thỏa thuận các vấn đề liên quan trong quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động không giống như trong ngành Luật dân sự. Sự khác nhau đó thể hiện qua tính chất của các quan hệ xã hội mà mỗi ngành luật điều chỉnh. Trong Luật dân sự, các quan hệ xã hội chủ yêu thuộc đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ tài sản. Các chủ thể tham gia vào các quan hệ tài sản độc lập với nhau về tài sản và tổ chức, nghĩa là bình đẳng và độc lập với nhau về địa vị kinh tế. Chính vì vậy, mà phương pháp thỏa thuận trong Luật dân sự được sử dụng triệt để, tác động lên quan hệ dân sự trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt hợp đồng. Trong khi đó đối với Luật lao động các chủ thể tham gia vào quan hệ lao động không bình đẳng về địa vị và không độc lập với nhau về lợi ích kinh tế. Khi tham gia vào quan hệ lao động người lao động bị ràng buộc với người sử dụng lao động về mặt tổ chức và lợi ích kinh tế và thường yếu thế hơn so với người sử dụng lao động. Chính vì vậy, để điều hòa mối quan hệ lao động này Nhà nước đã đặt ra những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, nâng cao vị trí của họ để họ bình đẳng với người sử dụng lao động. Phương pháp thỏa thuận trong Luật lao động tuy là tự do thương lượng, tự nguyện thỏa thuận nhưng các chủ thể của quan hệ lao động chỉ được thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong khuôn khổ và không trái pháp luật. 17
- 1.3.2. Phương pháp mệnh lệnh Phương pháp mệnh lệnh được Luật lao động sử dụng chủ yếu là trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về lao động cũng như trong quá trình tổ chức, quản lý lao động của người sử dụng lao động. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra những quyết định bắt buộc thi hành đối với các chủ thể của quan hệ lao động trong lĩnh vực sử dụng sức lao động của người lao động, quản lý và thanh tra lao động. Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động trong phạm vi quyền hạn pháp luật cho phép có quyền đề ra các quy định buộc người lao động phải chấp hành. Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng xuất phát từ quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động và Nhà nước. Trong lĩnh vực lao động, quyền quản lý xuất hiện từ khi có các hoạt động sản xuất tiền công nghiệp và công nghiệp. Hoạt động lao động của người lao động đòi hỏi phải được đặt trong một trật tự thống nhất nhằm đảm bảo kỷ luật lao động và mục tiêu của các hoạt động đó. Đối với người sử dụng lao động quyền quản lý lao động là phương tiện giúp cho họ duy trì trật tự của quá trình lao động, đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động lao động. Về phía Nhà nước, quyền quản lý đối với các bên chủ thể tham gia quan hệ lao động giúp cho Nhà nước thực hiện chức năng định hướng sự phát triển xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ theo hướng mà nhà nước mong muốn. 1.3.3. Phương pháp tác động thông qua hoạt động của tổ chức công đoàn trong quá trình lao động Đây là phương pháp điều chỉnh mang tính đặc trưng cho ngành luật lao động. Phương pháp này cũng bị chi phối bởi tính chất của quan hệ lao động. Bởi vì, trong quan hệ lao động người lao động thường ở vị thế yếu hơn so với người sử dung lao động. Để có tính tập thể, những người lao động cùng nghề nghiệp thường liên kết với nhau trong một tổ chức gọi là Công đoàn. Nhà nước đã thừa nhận vai trò của tổ chức Công đoàn và quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này trong lĩnh vực lao động. Sự tham gia của tổ chức Công đoàn vào mối quan hệ lao động thể hiện trước hết trong lĩnh vực tham gia sáng tạo những quy phạm pháp luật lao động; cũng như trong việc thực hiện các quy phạm pháp luật lao động và giải quyết tranh chấp lao động. Tùy từng cấp công đoàn, từng mối quan hệ mà sự tham gia của công đoàn có mức độ khác nhau, nhưng sự tham gia của Công đoàn là bắt buộc. Trong quá trình xác lập, thực hiện quan hệ lao động luôn có sự tham gia của tổ chức Công đoàn với tư cách là người đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động. 1.4. Vai trò Luật lao động Luật lao động có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều này xuất phát từ vai trò của hoạt động lao động trong đời sống xã hội. Lao động là nhân tố tạo ra con người, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội nhằm nuôi dưỡng con người. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả luôn là yếu tố quyết định sự phát triển của từng quốc gia. Luật lao động giúp cho nhà nước tổ chức và quản lý nguồn lao động xã hội, giúp người lao động có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực lao động. 18
- Bên cạnh việc xác định đối tượng điều chỉnh chủ yếu là quan hệ lao động làm công ăn lương, Luật lao động đã thúc đẩy sự hình thành quan hệ lao động tiêu biểu của nền kinh tế thị trường. Đồng thời với việc sử dụng kết hợp ba phương pháp điều chỉnh, Luật lao động cũng góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành quan hệ lao động; tạo hành lang pháp lý cho sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động. Với những nguyên tắc cơ bản là bảo vệ người lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, Luật lao động tạo điều kiện cho quan hệ lao động được phát triển hài hòa, lành mạnh, góp phần phát huy sự sáng tạo của cả người lao động lẫn người sử dụng lao động. Các quy định của pháp luật lao động có tác dụng bảo hộ lao động. Để tránh tình trạng lạm dụng sức lao động của người lao động, với những quy định về chế độ thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương; an toàn lao động, vệ sinh lao động; thanh tra lao động; xử phạt vi phạm pháp luật lao động. Những quy phạm pháp luật lao động đã bảo vệ cho người lao động vốn có vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động trong mối quan hệ lao động. Ngoài ra, Luật lao động còn là công cụ để Nhà nước điều hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Những quy định về tiền lương; bảo hiểm xã hội; quy định về lao động đặc thù; quy định về quyền cảu tổ chức Công đoàn; về giải quyết tranh chấp lao động đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế; đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội làm cho xã hội phát triển bền vững. 1.5. Hệ thống Luật lao động Việt Nam Hệ thống ngành luật lao động Việt nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật lao động được phân ra thành hai loại: phần chung và phần riêng. Phần chung bao gồm những quy phạm có tính chất quy định chung, chúng có liên quan đến hầu như cả ngành luật hoặc những lĩnh vực rộng lớn có tính chất bao trùm nhiều mặt của quan hệ lao động. Phần này bao gồm những quy định như: Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của ngành luật; các nguyền tắc chung của ngành luật. Phần riêng bao gồm những quy định điều chỉnh từng nội dung của quan hệ lao động và thường được tập hợp thành các chế định luật. Phần này bao gồm: Việc làm, học nghề; hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; địa vị pháp lý của tổ chức Công đoàn; tiền lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; bảo hộ lao động; bảo hiểm xã hội; giải quyết tranh chấp lao động; quản lý nhà nước về lao động. Việc phân chia hệ thống pháp luật thành phần chung và phần riêng là cần thiết nhưng chỉ có tính chất tương đối. Mỗi một chế định có thể bao gồm những quy định pháp luật nằm ở cả phần chung lẫn phần riêng của Luật lao động. 2. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT LAO ĐỘNG Nguyên tắc cơ bản của Luật lao động là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật lao động trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động. Với tư tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước là “vì con người và phát huy nhân tố con người” các quy phạm pháp luật lao động thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng là giải phóng, phát triển nguồn nhân lực dồi dào của đất nước, khuyến khích sử dụng tiềm năng lao động xã hội; tạo điều kiện và môi trường để mọi người có việc làm, tự do lao động, từng bước cải thiện đời sống vật chất của người lao 19
- động; đảm bảo cơ bản về việc làm, trả công lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động; kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; coi trọng và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao đông và người sử dụng lao động nhằm phát triển sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; ổn định tình hình kinh tế, xã hội. Những tư tưởng này được thể chế hóa thành các nguyên tắc cơ bản của ngành luật lao động. 2.1. Nguyên tắc bảo vệ người lao động Đây là nguyên tắc thể hiện quan điểm bảo vệ người lao động với tư cách bảo vệ con người – chủ thể của quan hệ lao động. Vì vậy, nó không chỉ bao hàm mục đích bảo vệ sức lao động, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động mà còn phải bảo vệ họ trên mọi phương diện như: việc làm, nghề nghiệp, thu nhập, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, nhu càu nghỉ ngơi, nâng cao trình độ, liên kết và phát triển trong môi trường lao động và xã hội lành mạnh. Do đó, nguyên tắc này bao gồm các nội dung: - Đảm bảo quyền lựa chọn việc làm và nơi làm việc của người lao động. Hiên pháp năm 1992 đã quy định “lao đông là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng có nhiều việc làm cho người lao đông. Điều 5 BLLĐ quy định “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hôi, tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 16 BLLĐ cũng quy định “NLĐ có quyền làm viejc cho bất kỳ NSDLĐ nào và bất ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm” Như vậy, bảo đảm cho mọi người đều có việc làm và được tự do lựa chọn việc làm, tự do chuyển dịch lao động là một trong những nhiệm vụ chủ yếu vừa mang tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài trong chính sách kinh tế, xã họi của Đẩng và Nhà nước. Nội dung của quyền này là đảm bảo về mặt pháp lý cho NLĐ trong phạm vi khả năng, nguyện vọng của mình có được cơ hội tìm kiếm việc làm và có quyền làm việc, có quyền lựa chọn công việc cụ thể, nghề nghiệp theo khả năng của bản thân; lựa chọn nơi làm việc thích hợp với điều kiện sống, sinh hoạt của bản thân và gia đình; tham gia quan hệ lao động vói bất kỳ NSDLĐ nào va tự do xác lâp, chấm dứt quan hệ lao động. - Đảm bảo quyền được trả công của NLĐ Phân phối theo lao động là một quy luật kinh tế khách quan. Đó là sự vận dụng quy luật giá trị của nền sản xuất hàng hóa vào việc trả công lao đông với ý nghĩa sức lao động là hàng hóa, tien lương là giá cả sức lao động, tiền công phải đảm bảo cho NLĐ bù đắp được sức lao động đã bỏ ra và duy trì cuộc sống lâu dài của họ. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước không trực tiếp quy định mức tiền lương cụ thể cho từng đơn vị hoặc từng người lao động mà đê cho NLĐ và NSDLĐ thỏa thuận với nhau trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công viêc. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của NLĐ, hạn chế sự làm dụng của NSDLĐ với sức lao động của NLĐ, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và buộc NSDLĐ phải tuân thủ khi trả lương cho NLĐ. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Luật lao động cơ bản - ThS. Diệp Thành Nguyên
210 p | 1935 | 710
-
Giáo trình Luật lao động: Phần 1
149 p | 655 | 103
-
Giáo trình Luật lao động: Phần 2
199 p | 364 | 91
-
Giáo trình Luật Lao động cơ bản 2005 phần 1
21 p | 310 | 90
-
Giáo trình Luật lao động - TS Bùi Thị Kim Ngân
49 p | 419 | 76
-
Giáo trình Luật lao động: Phần 3
157 p | 224 | 75
-
Giáo trình Luật Lao động cơ bản 2005 phần 5
21 p | 193 | 36
-
Giáo trình Luật Lao động cơ bản 2005 phần 10
21 p | 153 | 33
-
Giáo trình Luật lao động (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
54 p | 108 | 28
-
Giáo trình Luật Lao động cơ bản 2005 phần 7
21 p | 143 | 26
-
Giáo trình Luật lao động Việt Nam 1: Phần 1 - TS. Nguyễn Duy Phương và ThS. Đào Mộng Điệp
59 p | 74 | 19
-
Giáo trình Luật lao động Việt Nam 2: Phần 1 - TS. Nguyễn Duy Phương và ThS. Đào Mộng Điệp
67 p | 50 | 15
-
Giáo trình Luật lao động Việt Nam 1: Phần 2 - TS. Nguyễn Duy Phương và ThS. Đào Mộng Điệp
69 p | 43 | 9
-
Giáo trình Luật lao động (Nghề: Pháp luật - Trung cấp) - Trường Trung cấp Trường Sơn, Đắk Lắk
66 p | 16 | 8
-
Giáo trình Luật lao động: Phần 1 - TS. Khuất Thị Thu Hiền
101 p | 17 | 8
-
Giáo trình Luật lao động: Phần 2 - TS. Khuất Thị Thu Hiền
91 p | 17 | 8
-
Giáo trình Luật lao động Việt Nam 2: Phần 2 - TS. Nguyễn Duy Phương và ThS. Đào Mộng Điệp
55 p | 31 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn