intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội

Chia sẻ: Pham Dinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:207

488
lượt xem
55
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội được biên soạn với các nội dung: Đối tượng chủ thể khách thể quản lỹ xã hội, nguyên tắc quản lý xã hội, các nguyên tắc, thiết chế xã hội, khái niệm và phân loại biến đổi xã hội, bản chất và những đặc điểm cơ bản của thông tin xã hội,... Để nắm vững hơn nội dung chi tiết giáo trình mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội

  1. LỜI NÓI ĐẦU Quản lý xã hội là chuyên ngành mới được hình thành và đưa vào đào tạo tại   Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong những năm gần đây. Khác một số chuyên  ngành đã có, ngành Quản lý xã hội gần như phải bắt đẩu từ  những môn học đẩu  tiên trong điều kiện sự kế thừa về lượng kiến thức căn  bản rất hạn chế. Để  đáp  ứng nhiệm vụ  được giao và nhất là đáp  ứng được yêu cầu của chương trình đào  tạo, của người học cũng như  đáp ứng nhu cầu xã hội, nên việc biên soạn tài liệu  phục vụ giảng dạy và học tập là yêu cầu hết sức cần thiết. Mỗi ngành học đểu có những môn học lý thuyết nhằm trang bị cho người học   phương pháp tiếp cận với chuyên ngành. Môn học đó chỉ ra các nguyên tắc, nguyên  lý căn bản và đặc biệt chỉ ra các quy luật trở thành thao tác luận cho việc tiếp cận  và nghiên cứu cho các môn học sau. Môn học  Lý thuyết chung về  quản lý xã hội  được hình thành và nhằm giải  quyết các đòi hỏi trên. Trong quá trình biên soạn, giáo trình có sử dụng một số kiến thức trong  Giáo  trình  “Quản lý xã hội"  của trường Đại học Kinh tế  Quốc dân do GS. TS. Đỗ  Hoàng Toàn chủ biên, (Nxb. Khoa học kỹ thuật, 2003);  “Quản lý xã hội theo định   hướng xã hội chủ  nghĩa ",  Thanh Lê chủ  biên, NXB. Khoa học xã hội, 1997,  đồng thời có sự  đóng góp và phản biện của nhiều nhà khoa học trong và ngoài  trường thông qua các cuộc hội thảo khoa học, mặc dù vậy giáo trình không thể  tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để  giáo trình được hoàn chỉnh hơn trong những lần xuất bản sau. Mọi góp ý xin gửi về Công ty CP Sách Đại học ­ Dạy nghề, 25 Hàn Thuyên ­   Hà Nội. 1
  2. Chương 1 I ­ ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC 1 Đối tượng Lý thuyết chung về quản lý xã hội là khoa học về các quy luật hoạt động và  phát triển của hoạt động con người nhằm tổ chức cuộc sống của hệ thống xã hội,  các bộ phận cấu thành riêng biệt của nó. Trong lý thuyết chung quản lý xã hội, con  người thể hiện là chủ  thể của hoạt động quản lý nói chung, còn nội dung cụ  thể  của hoạt động này được xem như  là biểu hiện mang tính đối tượng hoá của quá   trình tự  thực hiện của con người trong lĩnh vực này. Lý thuyết chung quản lý xã  hội là lý thuyết về  hoạt động của chủ  thể trong lĩnh vực quản lý. Đối tượng của   lý thuyết chung quản lý xã hội là các mối quan hệ  quản lý và các phương thức  hoạt động quản lý, các quy luật của chúng như  là của một loại tương tác và liên  hệ  đặc biệt giữa người với người ­ các chủ  thể  của hoạt động này, các chủ  thể  thực hiện quá trình tổ  chức xã hội. Cách tiếp cận như  vậy với quản lý cho phép  xem xét quản lý thông qua những đặc điểm chung nhất đồng thời cũng mang tính  cụ  thể. Phương diện xã hội này của quan hệ quản lý có mặt ở  khắp nơi mà hoạt  động quản lý được thực hiện, mà xuất hiện sự  tương tác giữa các cá nhân, các  nhóm xã hội, các cộng đồng. Theo quan điểm này, lý thuyết chung quản lý xã hội   là khoa học phổ  quát, các kết luận và các luận điểm của nó được các khoa học   quản lý khác áp dụng vào lĩnh vực nghiên cứu đặc thù của mình, để  tố  chức chủ  thế xã hội và khách thể quản lý trong lĩnh vực đời sống xã hội tương ứng. Lý thuyết chung quản lý xã hội xem xét xã hội, toàn bộ  các bộ  phận cấu  thành nó như là các hệ thống tự tổ chức phức tạp, có cơ sở tồn tại là tính đa dạng  của những lợi ích tương tác với nhau. Bản thân hệ  thống quản lý xã hội được  phân tích như  là các phương thức hoạt động tập thể  xác định của những người   đang thực hiện các chức năng quản lý nhằm mục đích tự tổ chức, bảo đảm sự  tự  phát triển cho cơ  thể  xã hội và bản thân mình. Lý thuyết chung quản lý xã hội  2
  3. vạch rõ các quy luật khách quan của sự hoạt động và phát triển của hệ thống quản   lý xã hội, tức là vạch rõ các mối liên hệ bản chất, tất yếu,  ổn định, quy định tính  chất, đặc điểm, hiệu quả  của sự  tác động đến phát triển xã hội. Đó là các quy  luật, các nguyên tắc và các phương pháp xây dựng quan hệ quản lý, thực hiện hoạt  động quản lý, là các con đường thực hiện chức năng quản lý, cung cấp cán bộ,   phục vụ thông tin... Những mối liên hệ này được thể hiện qua quan hệ về lợi ích  giữa các chủ thể quản lý, lợi ích hình thành một cách tuỳ thuộc vào địa vị, vai trò   của con người trong quá trình thực hiện các quyết định quản lý và quy định tính  chất, định hướng các quyết định ấy. 2. Phương pháp Là khoa học xã hội, lý thuyết chung quản lý xã hội sử dụng các phương pháp  nghiên cứu khoa học xã hội: bao gồm các tri thức, các thủ  thuật để  phát hiện và   giải quyết các hiện tượng, các vấn đề phát sinh trong xã hội. Phương pháp luận sử dụng là chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;  văn hóa dân tộc; xã hội học và một số  ngành khoa học khác như  tâm lý học, lý  thuyết thông tin... Trong quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa, việc quản lý phải dựa  vào trước hết  lằ học thuyết Mác ­ Lênin, một hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm triết học, kinh  tế  và chính trị  xã hội. Môn triết học cho chúng ta cách nhận biết sự  vận động và  phát triển không ngừng của các quá trình xã hội cũng như các mối liên hệ phổ biến   mà dựa vào đó chủ  thể  quản lý tác động tới đối tượng quản lý một cách khách   quan khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là kim chỉ nam cho hoạt động quản   lý xã hội, những nguyên lý trong đó quy định chiến lược tìm tòi các quy luật quản   lý, những yêu cầu của việc nhận thức và cải tạo thiên nhiên và xã hội một cách   khách quan, đúng đắn. Nhận thức các hiện tượng xã hội một cách duy vật biện  chứng là một bộ phận không thể tách rời của triết học Mác. Là lý luận xã hội học  chung, chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết những vấn đề phương pháp luận của   các khoa học xã hội. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự cụ thể  3
  4. hoá các phương pháp biện chứng nghiên cứu các quy luật phát triển và hoạt động  chung của xã hội. Những nguyên lý của phương pháp biện chứng xuất phát từ sự  hiểu biết các quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Môn kinh tế chính trị là cơ  sở của việc quản lý kinh tế phù hợp với mục tiêu  của sản xuất, việc quản lý kinh tế  bao gồm lĩnh vực trực tiếp làm ra sản phẩm   cũng như tất cả các dạng khác của hoạt động kinh tế, kể cả phân phối trao đổi và   tiêu dùng. Môn chủ  nghĩa xã hội khoa học cho chúng ta sự  hiểu biết các quy luật   chính trị ­ xã hội, mà dựa vào đó thực hiện quá trình quản lý. Một số khoa học cụ thể khác nằm írong hệ  thống các kiến thức về  quản lý,  cho nên quản lý xã hội trong điều kiện định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp   một cách hữu cơ nhũng khái quát lý luận của một loạt các môn khoa học xã hội và   tự nhiên. II­CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1, Xã hội Loài người khi xuất hiện đã biết hợp lại thành bầy nhóm, để  vừa tự vệ bảo  vệ  minh vừa tiến hành các hoạt động sinh tồn; dần dần sự  kết hợp đó được tổ  chức ngày càng chặt chẽ tạo thành các xã hội. Xã hội là một tập thể có tổ chức gồm những người cùng sống với nhau trên   một lãnh thổ chung, hợp tác với nhau thành các nhóm để thoả mãn những nhu cầu   xã hội căn bản, cùng chia sẻ một nền vãn hoá chung và  hoạt động như một đơn vị   xã hội  riêng  biệt  (J.Fichter,  Xã hội học quản lý, Nxb. Đại học Quốc gia Hà  Nội). Cũng có cách hiểu cho rằng: xã hội là một tập thể  hay một nhóm những   người được phân biệt với các nhóm người khác hằng các lợi ích, môi quan hệ đặc   trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hoá... Từ  những quan niệm trên, có thể  hiểu: Xã hội là một hệ  thống các hoạt   động và các quan hệ  của con người, có đời sống kinh tế, văn hóa chung, có cùng   một thể chế chính trị, cùng cư trú trên một lãnh thổ  ở một giai đoạn lịch sử  nhất   định. 4
  5. Từ khái niệm trên, có thể thấy khi bàn về khái niệm xã hội người ta thường   nhấn mạnh đến hai yếu tố chính, từ đó tạo nên các điểm chung, đó là quan hệ  và  hoạt động của con người trong một không gian và thời gian nhất định. Hệ  thống trên được hiểu là sự  thống nhất biện chứng của các mâu thuẫn  giữa các yếu tố, các phương diện, các quan hệ tạo thành xã hội xét trong thời gian   và không gian và đó như là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống cũng như của từng phần tử, từng   bộ phận tạo nên hệ thống. Các hoạt động của con người là các hành vi luôn có của con người để tồn tại  và phát triển, đó là hoạt động lao động, nghỉ ngơi và hoạt động bảo đảm được an  toàn trong môi trường sống (quan hệ với các xã hội khác, quan hệ với thiên nhiên). Các hoạt động của con người lại phân thành: hoạt động sản xuất của cải vật   chất; hoạt động sản xuất của cải phi vật chất. Đây là các hoạt động chủ  yếu, nó  quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các hoạt động nghỉ  ngơi giải trí là sự  tiếp nối của các hoạt động lao động  nhằm duy trì tốt hơn cuộc sống của con người, và chính nó lại tác động trở  lại,   làm cho hoạt động lao động sản xuất vật chất đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Các hoạt động bảo đảm được an toàn trong môi trường đối nội và đối ngoại  bao gồm các hoạt động giao tiếp của­xã hội này với xã hội khác (về  kinh tế, về  văn hóa, về  an ninh...); các hoạt động tái sinh sản xã hội (dân số, cải tạo nòi   giống...); các hoạt động ảnh hưởng của xã hội mình sang xã hội khác v.v... Các hoạt động kể trên có vai trò quan trọng khác nhau qua các giai đoạn phát   triển lịch sử của mỗi quốc gia và của nhân loại. Trong đó các hoạt động sản xuất  của cải vật chất, kỷ cương xã hội, đối ngoại và bảo vệ an ninh xã hội là  các hoạt  động trung tâm. Các quan hệ con người trong xã hội: là những quan hệ được xác lập giữa các  cộng đồng xã hội và các cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội, khác   nhau bởi vị trí mà chủ  yếu là hình thức sở  hữu về  tư  liệu sản xuất và chức năng   đời sống xã hội. 5
  6. Quan hệ  xã hội chủ  yếu: quan hệ  trong sản xuấĩ; quan hệ  trong phân phối;   quan hệ trong trao đổi; quan hệ trong tiêu dùng; quan hệ với xã hội khác. Các quan hệ  xã hội lại bao gồm các quan hệ  vật chất (trong quá trình sản   xuất, phân phối, trao đổi của cải vật chất mà cơ bản là vấn đề lợi ích) và các quan  hệ  phi vật chất (văn hóa, chính trị, quyền lực ...) Về  cơ  bản, mọi xã hội đều có   mục tiêu giống nhau là giúp cho con người được tồn tại an toàn và được phát triển   toàn diện, dĩ nhiên thông qua các hoạt động xã hội và quan hệ xã hội mỗi giai cấp,   mỗi tầng lớp và mỗi cá nhân trong xã hội đạt được những mục tiêu và kết quả  không giống nhau. Mỗi chế  độ  xã hội khác nhau có những đặc trưng khác nhau.  Đặc trưng là dấu hiệu để phân biệt giữa xã hội này với xã Hội kia về mức độ  và   trình độ  phát triển đã đạt được, cũng như  ý đồ  phát triển trong tương lai mà chủ  thể quản lý và xu thế phát triển chung của xã hội, của lịch sử tạo ra. Các quan hệ xã hội là những quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội  khác nhau bởi vị trí và chức năng trong đời sống xã hội. Quan hệ xã hội bao gồm  các mặt chủ yếu: Quan hệ về sở hữu, quan hệ về phân phối (kéo theo là quan hệ  trong trao đổi và tiêu dùng) và quan hệ về quản lý. Các mối quan hệ này phải được  tuân thủ theo những quy tắc chung nhất định mà mỗi xã hội tạo ra. Khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, chưa có sự  đối lập về  lợi ích kinh  tế giữa các tập đoàn người thì những quy tắc xử sự chung của toàn xã hội, mà hình  thức biểu hiện của nó là phong tục tập quán, các lễ  nghi tôn giáo được thực hiện   bằng sự tự giác của mỗi người trong xã hội và bằng uy tín của các thủ  lĩnh trong   cộng đồng. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, sự  đối lập về  lợi ích kinh tế  ngày càng  gay gắt. Trong điều kiện đó, để  giữ  cho xã hội trong trật tự  nhất định, điều hoà  mâu thuẫn về lợi ích, giai cấp thống trị nắm trong tay lực lượng  sản xuất, tổ chức  ra nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị và là quyền lực công đại diện cho lợi   ích chung của xã hội. 6
  7. 2. Quản lý xã hội Quản lý xã hội là những tác động có ý thức của các chủ thể xã hội ­ có thể cá  nhân hoặc tổ chức vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của  xã hội, đáp ứng sự tồn tại và phát triển xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động  của nó như lao động và học tập, văn hoá, chính trị, tôn giáo và các công tác xã hội  khác. Quản lý xã hội là loại hình quản lý nói chung. Chức nãng của quản lý xã hội  là bảo đảm việc thực hiện các nhu cầu phát triển tiến bộ cho toàn bộ hệ thống xã  hội cũng như  các bộ  phận của nó. Khái niệm quản lý xã hội được sử  dụng theo  hai cách tiếp cận khác nhau: Thứ  nhất,  quản lý xã hội là hoạt động quản lý các tổ  chức xã hội phi nhà   nước, không chịu sự chi phối trực tiếp bởi quyền lực Nhà nước hay Chính phủ. Thứ  hai, quản lý xã hội là cách thức tổ  chức đời sống xã hội vì mục tiêu  chung, khi đó cả  quốc gia cho tới nhóm xã hội đều bị  chi phối bởi dạng quản lý  nào đó. Do đó quản lý hành chính cũng là một dạng quản lý xã hội. Cách hiểu này   có tính phổ biến hiện nay. Cả  hai cách tiếp cận trên đều bắt đầu từ  nội dung quản lý đối với xã hội,   những nội dung đó là: ­  Quản lý một đơn vị dân số có tổ chức. ­  Quản lý vùng lãnh thổ thuộc về xã hội của mình. ­  Quản lý những nhóm xã hội với những chức năng nhiệm vụ riêng đã được  xã hội phân công. ­  Quản lý một nền văn hoá chung với những giá trị và chuẩn mực nhất định. ­  Quản lý sự thống nhất trong hoạt động trên cơ sở của các hoạt động đặc  thù của từng bộ phận xã hội. ­  Quản lý từng đơn vị xã hội với những đặc thù riêng và tính độc lập tương  đối của nó cả về mặt cấu trúc cũng như chức năng. ­  Quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (kinh tế, văn hoá, khoa  7
  8. học ...). Trên cơ sở những nội dung trên, về mặt phương pháp, nhiệm vụ của quản lý  xã hội là: ­  Thiết lập các tiêu chuẩn, các chỉ báo xã hội. ­  Phân loại các vấn đề xã hội. ­  Áp dụng các phương pháp quản lý một cách khoa học để giải quyết các  vấn đề đó. ­  Lập kế hoạch về việc thực hiện các quan hệ xã hội và các quá trình xã hội. ­  Dự báo xã hội. ­  Bố trí các chủ thể quản lý và giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể quản lý  và đối tượng quản lý. Từ cách hiểu như trên, thấy rằng quản lý xã hội là những tác động có ý thức  của con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của xã   hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong xu  thế  toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế  hiện nay, không một xã hội nào muốn tồn  tại và phát triển lại có thể  đứng ngoài sự  tác động của các xã hội khác, vì vậy  quản lý xã hội không khu biệt trong phạm vi xã hội của mình, trong địa giới hành   chính của mình, trong một nền văn hóa và trạng thái kinh tế của mình mà quản lý  xã hội phải tính đến các tác động khách quan bên ngoài, cả tích cực và tiêu cực. ­ Để  xã hội vận hành, hoạt động quản lý đối với xã hội là đòi hỏi tất yếu   khách quan, do đó: “Quản lý xã hội là sự  tác động liên tục, có tổ  chức, hướng đích của chủ  thể  quản lý lên xã hội và các khách thể  của nó, nhằm phát triển xã hội theo quy luật  khách quan và đặc trưng của xã hội". + Nghĩa rộng: Là hiện tượng vốn có ở hệ  thống xã hội, bảo đảm duy trì từ  tính toàn vẹn, sự đặc thù về chất, sự tái tạo và sự phát triển của nó + Nghĩa hẹp: Sự tác động có ý thức, có hệ thống, có tổ chức đặc biệt đến xã  8
  9. hội nhằm chấn chỉnh và hoàn thiện cơ cấu hoạt động xã hội của nó trong quá trình  hoạch định và đạt tới mục đích. + Quản lý xã hội như là tổng thể các cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ quản   lý giữa chúng và việc thực hiện cho phép thực hiện sự  tương tác bằng quản lý  giữa các cá nhân, các nhóm và các cộng đồng xã hội, các thiết chế, các lĩnh vực...   của xã hội. + Vê' bản chất: Quản lý xã hội điều chỉnh sự tác động qua lại một cách mâu   thuẫn giữa các lợi ích của cá nhân, của nhóm, của chung để cùng thực hiện chúng. Là sự  điều tiết những mối quan hệ xã hội quy định địa vị  và vai trò của con   người trong xã hội, định hướng về lợi ích và hoạt động của họ, nội dung và cường  độ hoạt động. Tác động đến quan hệ xã hội, trước hết là mối quan hệ  hình thành  về tư liệu sản xuất, bảo đảm thống nhất những lợi ích đa dạng (của dân tộc, tập  thể, cá nhân...), tổ  chức hoạt động xã hội, việc đạt các mục đích đật ra, các kết  quả chung. + Chủ thể quản lý xã hội là hệ thống những người quản lý; cộng đồng người  có tổ  chức, được giao cho các cơ  quan chức năng nhằm thực hiện các tác động  bằng quản lý. Sự đặc thù của chủ thể quản lý xã hội được quy định bởi tính chất   tác động của nó, sự  tác động hướng vào con người và do con người thực hiện.  Nhiệm vụ của chủ thể quản lý xã hội là ở sự hợp nhất, làm hài hoà lợi ích của các  cộng đồng riêng biệt, của các nhóm xã hội, của các cá nhân trong quá trình hoạt  động sống của xã hội, ở sự hiện thực hoá mục đích của họ, ở việc giữ vững được   đặc trưng xã hội mà họ đã định trước. + Đối tượng của quản lý xã hội là con người cùng với các hoạt động và các   quan hệ  của cộng đồng các con người trong xã hội, cùng các nguồn tài nguyên  khác ngoài con người của đất nước. Khách thể quản lý xã hội là hệ thống xã hội được quản lý mà các yếu tố là xã   hội, các nhóm xã hội tác động qua lại với nhau nhằm thực hiện lợi ích chung và   riêng. Xét từ  góc độ  cấu trúc ­ yếu tố  thì khách thể  của quản lý xã hội ­ đó là con  9
  10. người, các tổ  chức, các cộng đồng lãnh thổ, các nhóm giai cấp xã hội, các nhóm  dân tộc, các thế  lực của các xã hội khác, thông qua sự  hội nhập khu vực và thế  giới cùng các tác động của thiên nhiên. Xét từ  góc độ  chức năng thì khách thể  quản lý xã hội là hoạt động của con  người và của các nhóm xã hội. Để quản lý xã hội, nhà nước phải sử dụng sức mạnh quyền lực của mình và   văn hoá truyền thống, thuần phong mỹ  tục của dân tộc để  biến đường lối chính  sách thành hiện thực; làm cho dân tin và ủng hộ; ý định của chủ thể quản lý phải   là mong muốn của đối tượng quản lý; thông qua việc cấu trúc xã hội một cách hợp  lý; một cơ chế  sử dụng nhân lực và tài nguyên, các mối quan hệ  đối ngoại thuận   lợi đặc biệt là cơ  chế  sử  dụng nhân tài; với phương pháp, hình thức, nghệ  thuật  quản lý thích hợp nhất là việc sử  dụng các công cụ, các chính sách, các giải pháp  quản lý; cần tạo ra và tận dụng thời cơ các nguồn lực bên ngoài để  phát triển xã   hội. 3. Các trạng thái xã hội trong quản lý xã hội ­ Biến đổi xã hội: Là sự chuyển đổi xã hội từ trạng thái này sang trạng thái  khác, mà trạng thái chính là bộ mặt xã hội với những yếu tố hoạt động xã hội và  quan hệ xã hội đạt được ở một mức độ nào đó. ­  Tăng trưởng xã hội: Là sự biến đổi xã hội theo hướng mở rộng quy mô về  mặt số lượng của các yếu tố xã hội (hoạt động, quan hệ) trong khuôn khổ cơ cấu   và đặc thù xã hội không đổi. Là biến đổi xã hội theo hướng tích cực của chủ thể quản lý xã hội thông qua  các mục đích và mục tiêu quản lý xã hội mà chủ thể quản lý xã hội đặt ra. Mục tiêu tăng trưởng của các quốc gia đều nhằm vào đòi hỏi: + Tăng trưởng kinh tế. + Tiến bộ xã hội. 4­  Bảo vệ  và phát triển các đặc trưng của chế  độ  xã hội trước  môi  trường hội nhập, bảo vệ độc lập chủ quyền. 10
  11. + Phát triển ảnh hưởng của quốc gia mình ra khu vực và thế giới. ­ Phát triển xã hội: Quá trình trong đó diễn ra những biến đổi quan trọng về  lượng và về chất trong lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội hay là trong các thành  tố riêng biệt của nó ­ quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, cơ cấu nhóm xã hội và  cơ cấu tổ chức xã hội... Không phải mọi biến đổi trong các hiện tượng xã hội đều  là sự phát triển của chúng, chỉ có những biến đổi mà khi đó một số hiện tượng xã   hội này được thay thế  bằng một số  hiện tượng xã hội khác có trình độ  cao hơn   hay là chuyển lên các hiện tượng có trình độ  cao hơn theo tiêu chuẩn khách quan  về  tiến bộ  xã hội ­ đó là phát triển tiến bộ; ngược lại, được thay thế  bằng các   hiện tượng ở trình độ thấp hơn là phát triển thoái bộ. Phát triển xã hội được thực hiện bằng con đường tiến hóa, khi mà diễn ra sự  tiêu vong dần dần các yếu tố  cũ của một hệ  thống xã hội xác định và sự  loại bỏ  chúng bởi các yếu tố  mới được tích luỹ  dần dần. Một hình thức khác của phát  triển xã hội ­ thông qua cải tạo cách mạng, cách mạng xã hội, khi diễn ra sự  phá  hủy tương đối nhanh chóng và đồng thời mọi yếu tố lỗi thời của hệ thống và thay  thế  chúng bằng các yếu tố  mới đang xuất hiện trong hệ  thống thống nhất. Cách  mạng xã hội trong một số  trường hợp mang tính chất của cách mạng chính trị  ­   nếu diễn ra sự thay đổi chính quyền, sự cải biến chế độ chính trị. Những cải biến   cách mạng trong lĩnh vực xã hội cũng diễn ra thiếu cách mạng chính trị  trong các  bối cảnh xác định, trong khuôn khổ của chế độ chính trị hiện tồn. Phát triển xã hội là sự tăng trưởng xã hội nhưng cấu trúc các yếu tố xã hội đã  được điều chỉnh theo hướng nâng cao chất lượng nhằm làm cho các đặc trưng xã   hội được khẳng định thêm (bao hàm nội dung tăng trưởng xã hội). Tiêu chí cơ  bản nhất về  phát triển xã hội: phát triển kinh tế, nâng cao chất   lượng sống, nâng cao mức sống, giảm phân hóa giàu nghèo; phát triển về  xã hội:   giáo dục, sức khỏe, việc làm...; phát triển về  môi trường; phát triển về  chính trị,  tinh thần và trí tuệ; về văn hóa; về vai trò phụ nữ trong xã hội; phát triển về quốc   tế, tiếp cận quan điểm hiện đại về phát triển. Phát triển xã hội là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân  11
  12. tộc, trong đó, bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về  lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng mình, các chủ  thể lãnh đạo và quản lý tạo ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con  người nhằm đạt được những thành quả  bền vững và được phân phối công bằng   cho các thành viên xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống  của họ. ­ Phát triển xã hội tiến bộ, công bằng, an toàn, bến vững. + Khủng hoảng toàn cầu hiện nay mang tính chất xã hội hơn là tính chất kinh  tế. + Nhiều nước kinh tế tăng trưởng mạnh nhưng nghèo khổ và loại trừ  xã hội  ngày càng tăng. + Kinh tế thị trường không làm giảm sự bất bình đẳng và bất công xă hội. + Vì vậy, tất cả các quốc gia phải xem xét lại chiến lược của mình, trong đó  phải đặc biệt coi trọng đến các khía cạnh xã hội của phát triển. Ba vấn đề  vừa cơ  bản vừa bức xúc của phát triển xã hội theo  hướng công  bằng là: giảm nghèo, việc làm và hòa nhập xã hội. Vấn đề  cơ  bản của phát triển xã hội chính là việc không ngừng phát triển   kinh tế, củng cố và khẳng định các đặc trưng xã hội của mình. Trong tiến trình hội   nhập và toàn cầu hóa, tất cả các dân tộc với văn hóa và thể chế chính trị khác nhau   nhưng đều có chung mục tiêu là có cuộc sống vật chất đầy đủ, được tiến bộ  và   phát triển toàn diện, được đối xử công bằng, được an toàn lâu dài. Nói cách khác, phát triển xã hội phải bảo đảm các yêu cầu: Tiến bộ, công  bằng, bền vững và an toàn. ­  Tiến bộ xã hội: Là mức độ xã hội tăng lên cả về lượng cũng như về chất   các hoạt động và các quan hệ xã hội theo chuẩn mực được tuyệt đại đa số trong xã   hội và nhân loại chấp nhận và theo đuổi. ­   Công bằng xã hội:  Là sự  bình đẳng về  quyền lợi và nghĩa vụ  của con   người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã hội; mà trọng tâm là sự bình đẳng  12
  13. về thông tin, kinh tế, chính trị và pháp luật. Công bằng xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử  có nội dung khác nhau bởi nó gắn   liền với trình độ phát triển của xã hội. Công bằng xã hội là sự thể hiện mối quan hệ giữa .người với người trong xã  hội, là nguyện vọng, là tâm lý xã hội nói chung; là mục tiêu, là phương tiện và là  động lực của mọi xã hội. Công bằng xã hội được các thiết chế  xã hội bảo đảm thông qua các chính  sách xã hội, luật pháp nhằm phát huy dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích chính  đáng của con người, xóa bỏ bất công và các tiêu cực trong xã hội. ­ Dân chủ xã hội: Là hình thức tổ  chức chính trị  của xã hội cãn cứ trên việc  thừa nhận nhân dân với tư  cách là nguồn gốc của quyền lực, căn cứ  trên quyền  của nhân dân tích cực tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước và   của xã hội thông qua các cơ  quan đại diện do họ  bầu ra một cách trực tiếp; đem  lại cho công dân các quyền và các quyền tự do là cái bảo đảm khả nàng tiếp cận  chung, bình đẳng với hoạt động kinh tế, nghề  nghiệp, giáo dục, khai thác các giá  trị văn hoá, bộc lộ tiềm năng của cá nhân. Dân chủ hoá đời sống xã hội là quá trình khẳng định và mở rộng các nguyên  tắc dân chủ trong đòi sống xã hội, trong các khâu riêng biệt, các lĩnh vực, các quan  hệ và các thiết chế của nó. Có thể đánh giá sự tổ chức đời sống xã hội trong mỗi  lĩnh vực cơ bản của nó từ góc độ  thực tại hiện tồn phù hợp với lợi ích của nhân   dân và của con người cụ  thể   ở  chừng mực nào. Tiêu chí như  vậy đóng vai trò là  thước đo về tính dân chủ. Dân chủ hoá đời sống xã hội trước hết bao hàm các hiện  tượng và các quá trình  trong  đời sống chính trị  của xã hội,  ở  đây nó có nghĩa là  khẳng định quyền lực của nhân dân, cơ  chế  biểu thị  lợi ích của con người, các   thiết chế nhà nước bảo vệ các quyền và các quyền tự do của công dân. Dân chủ là biểu hiện tập trung của công bằng xã hội, phản ánh mức độ tham  gia của con người vào hoạt động xã hội bằng tinh thần như thế nào? Dân chủ xã hội thể hiện quan hệ Nhà nước  với con người trong xã hội, nó là  phạm trù có tính lịch sử, bị chế  ước bởi các điều kiện kinh tế xã hội trong xã hội   13
  14. có giai cấp. Nó thể  hiện các mối quan hệ  xã hội thông qua mức độ  bình đẳng và  bất công xã hội mà xã hội chế  định trong mỗi giai đoạn lịch sử. Dân chủ  xã hội  thể hiện các giá trị xã hội nhất định (đạo đức, chính trị, tư tưởng...) vì vậy dân chủ  xã hội trở  thành mục đích, động lực và phương tiện quản lý xã hội, nhờ  có dân  chủ các tiêu cực trong xã hội và trong bộ máy quản lý bị triệt tiêu dần. Dân chủ xã  hội được thực hiện đồng bộ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Công bằng xã hội gắn liền với tiến bộ xã hội, là chuẩn mực của tiến bộ  xã  hội. Nó gắn với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và nó cũng không   đứng ngoài thời đại. ­  An toàn xã hội: Là khả  năng ngăn chặn xử  lý có hiệu quả  các tệ  nạn, tai  họa và bất thường của cá nhân, cộng đồng, xã hội của mỗi quốc gia. Là nội dung của công bằng và tiến bộ xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại và   phát triển được khi họ được bảo đảm an toàn. An toàn xã hội luôn là mục đích cơ  bản của mọi cá nhân và mọi xã hội. ­   Phát triển bền vững xã hội:  Là phát triển xã hội một cách nhanh tróng,  tiến bộ, an toàn và lâu dài trước sự cọ sát của các quốc gia và các biến động của  thiên nhiên; để  không ngừng khẳng định các đặc trưng của xã hội trong thời gian   và không gian xã hội. Phát triển xã hội tiến bộ, công bằng, an toàn và bền vững là phát triển xã hội  gắn liền với văn hóa xã hội. Phát triển và văn hóa là hai mặt của mục tiêu nhân văn  mà nhân loại luôn hướng tới. Phát triển không gắn với văn hóa sẽ tạo nên một xã   hội phi nhân tính mà ở đó con người luôn đối xử bất công với nhau. ­  Căng thẳng xã hội: Hiện tượng xã hội xuất hiện do có sự xung đột về nhu  cầu và lợi ích, về định hướng giá trị và mục đích, về  chuẩn mực và truyền thống  giữa các chủ thể tương tác xã hội (các cá nhân, các cộng đồng, các thiết chế, các   tổ chức), nó thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Căng thẳng xã hội là tiền đề của xung đột xã hội, mặc dù không phải bao giờ  cũng chuyển biến thành xung đột xã hội. Trạng thái câng thẳng của mâu thuẫn xã  14
  15. hội ­ xung đột xã hội ­ gắn liền với sự phát triển cụ thể của các điều kiện xã hội   kích thích hay kìm hãm sự xuất hiện xung đột. Căng thẳng xã hội được xem như là một quá trình trong đó người ta tách biệt   giai đoạn hình thành các cãn cứ  cho sự  xuất hiện của nó, giai đoạn phát triển và  giai đoạn giải quyết căng thẳng. Chẩn đoán học xã hội và xã hội học có một tác  dụng to lớn trong sự  phát hiện và nhận thức khoa học về  cơ  chế  căng thẳng xã   hội, về các phương thức làm giảm bớt và loại bỏ nó. Vì vậy, mỗi giai đoạn căng  thẳng xã hội khi nhận thức được, chủ thể quản lý xã hội phải có những hành động   xã hội thích hợp nhằm giảm bớt hoặc triệt tiêu căng thẳng. ­ Quá trình xã hội: Tiến trình biến đổi, sự  thay đổi trạng thái của các hiện  tượng hay các quan hệ xã hội xác định. Phù hợp với cơ  cấu của lĩnh vực xã hội thì có thể  phân biệt các nhóm quá   trình xã hội sau: + Hình thành và phát triển các cộng đồng xã hội, tăng cường hay ngược lại  làm suy yếu quan hệ  xã hội trong chúng, tức là các quá trình tích hợp và phi tích   hợp chúng, sự làm tiêu vong một số mối liên hệ. + Cải biến tính chất quan hệ xã hội giữa các cộng đồng ấy. + Cải biến những đặc điểm, đặc trưng xã hội khác nhau của các cộng đồng  và của những cá nhân nằm trong chúng, làm tăng hay ngược lại làm giảm trình độ  học vấn và trình độ văn hóa, tính tích cực xã hội. + cải biến điều kiện sống của con người, của các cộng đồng xã hội này hay  cộng đồng xã hội khác; cải thiện, làm xấu đi hay có những cải tạo khác đối với   điều kiện ấy. + Cải biến nhu cầu và lợi ích của con người, của các cộng đồng xã hội, lối  sống của họ. Làm xuất hiện, phát triển, làm tiêu vong, cải tạo các thiết chế  xã hội, làm  tăng trình độ  tổ  chức hay vô tổ  chức, hoạt động hay không hoạt động của chúng,   làm nảy sinh, phát triển và làm biến mất các cơ cấu tổ chức xã hội. + Cải biến cơ cấu tâm lý xã hội, cải thiện hay làm xấu đi bầu không khí tâm   15
  16. lỷ  xã hội trong các nhóm xã hội và các tổ  chức xã hội này hay xã hội khác; Làm   xuất hiện, thay đổi hay biến mất các chuẩn mực xã hội; Làm xuất hiện, phát triển,  tăng cường, làm suy yếu, làm biến mất các phong trào xã hội. + Cải biến hệ  thống quan hệ  giữa các cộng đồng xã hội và những cá nhân  riêng biệt, làm tăng cường hay suy yếu sự giám sát xã hội, sự giúp đỡ và bảo vệ từ  phía xã hội. Thay đổi địa vị  xã hội của con người, thay đổi dư  luận xã hội, thay đổi sự  đánh giá của con người về  các phương diện và các hiện tượng xã hội khác nhau  của đời sống xã hội, thay đổi thái độ đối với chúng. Sự phát triển của các quá trình xã hội xét đến cùng là do sự phát triển kinh tế  quy định. Các quy luật riêng của lĩnh vực xã hội cũng bộc lộ  ra trong quá trình xã   hội, có tác động tới chúng là những quá trình diễn ra trong lĩnh vực chính trị và tinh   thần, là đường lối và chính sách được tiến hành trong xã hội, là các nhân tố thuộc  hệ tư tưởng và các nhân tô' khác. Đến lượt mình, quá trình xã hội cũng có tác động  tới hiện tượng của các lĩnh vực đời sống xã hội khác. Phân biệĩ các quá trình theo quy mô của chúng: Một số quá trình diễn ra trên  quy mô toàn thể xã hội; số khác, trong khuôn khổ các cơ cấu xã hội này hay khác;  theo định hướng của chúng; một số  quá trình thúc đẩy sự  tiến bộ  xã hội, số  khác   cản trở nó. Quá trình xã hội thể hiện là khách thể tác động trực tiếp đối với quản   lý xã hội. ­  Lĩnh vực xã hội: Lĩnh vực hoạt động sống của xã hội loài người, trong đó  chính sách xã hội của nhà nước được thực hiện bằng con đường phân phối của   cải vật chất và của cải tinh thần, bảo đảm sự  tiến bộ  cho mọi mặt đời sống xã  hội, cải thiện tình cảnh người lao động. Lĩnh vực xã hội bao gồm hộ  thống các   mối quan hệ, kinh tế ­ xã hội, dân tộc, các mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội. Lĩnh   vực xã hội cũng bao gồm tổng thể các nhân tố xã hội của hoạt động sống của các   nhóm xã hội và cá nhân, các điều kiện phát triển của họ. Lĩnh vực xã hội bao gồm   toàn bộ không gian sinh sống của họ ­ từ các điều kiện lao động và sinh hoạt, sức  khoẻ và thời gian rỗi của nó cho tới các quan hệ giai cấp ­ xã hội và dân tộc. Nội   16
  17. dung của lĩnh vực xã hội là những mối quan hệ  xã hội giữa các nhóm xã hội, các   cá nhân về  vấn đề  tình cảnh, địa vị  và vai trò của họ  trong xã hội, về  vấn đề  lối   sống và nếp sống của họ. 5. Đặc điểm trong quản lý xã hội Quản lý xã hội rất khó khăn và phức tạp, đây là đặc điểm bao trùm đối với   quản lý xã hội ở mọi quốc gia và mọi thời đại. Lý do khó khăn vì: ­  Đối tượng bị  quản lý rất lớn và rất phức tạp, nó bao gồm tất cả  các lĩnh   vực của đời sống xã hội, tất cả người dân cư trú trên lãnh thổ đất nước và người   sống ở nước ngoài; với trình độ và hoàn cảnh khác nhau; mục tiêu và nhu cầu khác  nhau. ­   Cùng sự  hội nhập và quá trình toàn cầu hóa trên tất cả  các lĩnh vực; các  hoại động quản lý xã hội của mỗi quốc gia đều bị  ràng buộc chặt chẽ  vào nhau;   việc quản lý xã hội của mỗi quốc gia này phải tính đến sự tác động của các quốc   gia khác. ­  Chủ thể quản lý xã hội không thuần nhất, phần lớn lệ thuộc vào vai trò của   Nhà nước và các tổ  chức chính trị  ­ xã hội, chủ  thể  hữu hình của quản lý xã hội,  ngoài ra còn phụ thuộc vào các lực lượng khác của xã hội. Nhà nước quản lý xã hội thông qua việc tổ  chức xã hội, thiết lập mối quan   hệ giữa con người, giữa các nhóm, cộng đồng để  thực hiện một quá trình xã hội.   Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức cao. Quản  lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, bắt đối tượng quản lý phải phục tùng   không điều kiện, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Quản lý nhà nước quan hệ  tác động qua lại với sự  điều tiết của các cộng   đồng dân cư; của đặc điểm, phong tục tập quán của dân tộc. Giữa Nhà nước và  phong tục tập quán của dân tộc phải tìm được tiếng nói chung, việc quản lý xã hội  mới đạt hiệu quả. ­  Quản lý xã hội có ý nghĩa quyết định đến sự  tồn tại và phát triển của các   dân tộc. Xã hội sẽ phát triển khi quản lý xã hội có hiệu quả và ngược lại. 17
  18. ­  Quản lý xã hội có tính liên tục, tính kế thừa. Việc quản lý xã hội gắn liền  với sự  tồn tại của các quốc gia và các dân tộc. Còn hoạt động của con người thì  còn hoạt động quản lý, vì vậy quản lý xã hội luôn là sự  kế  thừa theo dòng chảy   của lịch sử xã hội loài người. ­  Quản lý xã hội mang tính thẩm thấu, tính lan truyền, quản lý xã hội của xã   hội này phải học hỏi kinh nghiệm của xã hội khác để  tìm được cách quản lý tốt  nhất. Sự  học hỏi phải có chọn lọc cho phù hợp với đặc điểm của mỗi dân tộc,  mỗi quốc gia. ­  Quản lý xã hội luôn liên quan tới vấn đề động lực và phản động lực của sự  phát triển xã hội. Động lực trong quản lý xã hội là động lực của từng thành viên, tính đồng   thuận và sự kết hợp tốt của từng động lực riêng rẽ thông qua các thiết chế tổ chức  xã hội hợp lý, ngoài ra còn phải tính đến sự  kết hợp có hiệu quả  của các xã hội   bên ngoài. Phản động lực là sự không đồng thuận của các động lực cá nhân trong xã hội  thông qua các điều bất cập của thiết chế xã hội; sự tác hại từ phía các xã hội khác  hoặc điều kiện bất lợi từ thiên nhiên gây ra. Các động lực và phản động lực cần được kiểm sát và sử dụng có hiệu quả. ­  Quản lý xã hội là một khoa học vì có đối tượng và phương pháp nghiên cứu   riêng. ­  Quản lý xã hội là nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự xử lý linh hoạt và có hiệu quả  việc quản lý trong các điều kiện cụ thể của xã hội. ­  Quản lý xã hội là sự  nghiệp của toàn xã hội, nó đòi hỏi sự  đóng góp công   sức, mọi nỗ lực chủ động sáng tạo của mọi con người, của tất cả các nhóm người   trong xã hội, của mọi thiết chế xã hội dưới sự  điều hành của chủ thể  quản lý xã  hội cơ bản. 6. Những yêu cầu của quản lý xã hội Là những yêu cầu của những quy luật và xu hướng khách quan của sự  phát  18
  19. triển đất nước theo hướng hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. ­  Trước hết, quản lý xã hội phải thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động,  sử  dụng nhân lực có hiệu quả  nhất, khuyến khích để  người lao động phát huy  được hết năng lực của mình. Liên kết nhân lực với tư liệu sản xuất một cách tối   ưu, giảm dần thất nghiệp, tạo sự  liên kết giữa các đơn vị  sản xuất, Nhà nước  phải có trách nhiệm chăm lo đào tạo và sử dụng nhân lực trên quy mô toàn bộ nền  kinh tế quốc dân. Chú ý hoàn thiện thái độ của người lao động với lao động, nhất là trong điều  kiện của cách mạng khoa học công nghệ  và hội nhập ngày nay, khi những khả  năng kiểm tra từ  bên ngoài đối với người lao động giảm đi, vì lao động hôm nay   mang tính sáng tạo cao, nên ít thích hợp với việc kiểm tra từ bên ngoài. Trong điều  kiện ấy, lương tâm con người trở thành người kiểm tra chủ yếu, cho nên động cơ  bên trong ngày càng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động.  Hơn nữa, điều kiện chủ  yếu để  nâng cao năng suất lao động là sự  phát triển cá  nhân. Lao động sáng tạo chỉ thực hiện được khi cá nhân phát triển. Giữa phát triển  sản xuất (sự phát triển kinh tế) với sự phát triển cá nhân (sự phát triển xã hội) có  mối liên hệ  biện chứng trực tiếp, việc nhận thức và đánh giá mối liên hệ   ấy là  một trong những cơ sở của quản lý xã hội, vì quản lý xã hội phải đạt tới sự  phát   triển cao nhất của cá nhân và bằng cách đó mà đạt tới sự phát triển sản xuất. ­ Phải đảm bảo mức thỏa mãn cao nhất có thể  được đối với những yêu cầu  của quy luật phát triển xã hội. Không coi chỉ  là quy luật phát triển kinh tế, mà là   sự  phát triển cân đối trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để  giải quyết   nhiệm vụ  ấy phải tính tới tác động qua những xu hướng trái ngược nhau, có liên   quan tới tính độc lập tương đối của mỗi lĩnh vực cũng như với nhịp độ  phát triển  của xã hội. Sự  phát triển nhanh chóng của mọi xã hội ngày nay đòi hỏi con người phải  chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện để thích ứng với sự thay  đổi đó. Chính vì vậy, giáo  dục phải đi trước một bước, kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực khác. Nhiệm   vụ  của quản lý xã hội là tìm ra sự  thỏa hiệp giữa tính cân đối và tính không cân  19
  20. đối trong sự phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. ­ Phải bảo đảm sự  phù hợp của quan hệ  xã hội với sự  phát triển của cơ  sở  vật chất kỹ thuật. Một trong những vấn đề  cơ bản của phương pháp luận quản lý xã hội là sự  tương quan giữa những yêu cầu xã hội và những yêu cầu kinh tế, điều này không   đồng nhất với mối quan hệ  giữa lực lượng sản xuất  với quan hệ  sản xuất, giữa  kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Với chủ nghĩa xã hội, sự phát triển sản  xuất chỉ là phương tiện để phát triển toàn diện con người, điều đó có nghĩa là mục   đích xã hội chiếm  ưu thế đối với những yêu cầu kinh tế, bởi vì mục đích ấy thể  hiện bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, điều đó không có   nghĩa là phải thỏa mãn bất cứ yêu cầu nào của xã hội khi chưa có khả  năng kinh  tế, mà có nghĩa là nhịp độ phát triển xã hội phải đi trước. Mâu thuẫn giữa yêu cầu  xã hội và yêu cầu kinh tế chỉ có tính chất ước lệ, có cái không sinh lợi nếu xét theo  quan điểm của một đơn vị kinh tế hay một ngành, lại rất có lợi nếu xét theo quan   điểm xã hội. Do đó quản lý xã hội phải tính đến toàn bộ  chi phí của xã hội cho  việc tái sản xuất dân cư. Việc nâng cao năng suất lao động không chỉ kích thích bằng vật chất mà còn  những nhân tố khác nữa (tâm lý, hoàn cảnh sống ...), giải quyết được hài hòa vấn  đề chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động và như vậy mâu thuẫn giữa   yêu cầu xã hội và yêu cầu kinh tế  trở  nên có tính chất tương đối, bởi vì những  biện pháp xã hội mang lại hiệu quả kinh tế  và những quyết định kinh tế  lại góp  phần đạt tới những nhiệm vụ xã hội. Trong mối tương quan giữa những yêu cầu   xã hội và kinh tế, cần xuất phát từ  quan điểm coi quản lý xã hội là một phương  pháp tác động tích cực đối với đời sống để cho nó phát triển theo lợi ích chung của  xã hội. ­ Quản lý xã hội phải tính đến hậu quả của cách mạng khoa học ­ công nghệ.  Cuộc cách mạng này với tính chất toàn cầu của hoạt động con người, có thể  gây  ra những biến đổi to lớn về môi trường và những hậu quả khó lường trước, vì vậy  quản lý xã hội phải tính đến những điều đó. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2