Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội
lượt xem 55
download
Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội được biên soạn với các nội dung: Đối tượng chủ thể khách thể quản lỹ xã hội, nguyên tắc quản lý xã hội, các nguyên tắc, thiết chế xã hội, khái niệm và phân loại biến đổi xã hội, bản chất và những đặc điểm cơ bản của thông tin xã hội,... Để nắm vững hơn nội dung chi tiết giáo trình mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Lý thuyết chung về quản lý xã hội
- LỜI NÓI ĐẦU Quản lý xã hội là chuyên ngành mới được hình thành và đưa vào đào tạo tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong những năm gần đây. Khác một số chuyên ngành đã có, ngành Quản lý xã hội gần như phải bắt đẩu từ những môn học đẩu tiên trong điều kiện sự kế thừa về lượng kiến thức căn bản rất hạn chế. Để đáp ứng nhiệm vụ được giao và nhất là đáp ứng được yêu cầu của chương trình đào tạo, của người học cũng như đáp ứng nhu cầu xã hội, nên việc biên soạn tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập là yêu cầu hết sức cần thiết. Mỗi ngành học đểu có những môn học lý thuyết nhằm trang bị cho người học phương pháp tiếp cận với chuyên ngành. Môn học đó chỉ ra các nguyên tắc, nguyên lý căn bản và đặc biệt chỉ ra các quy luật trở thành thao tác luận cho việc tiếp cận và nghiên cứu cho các môn học sau. Môn học Lý thuyết chung về quản lý xã hội được hình thành và nhằm giải quyết các đòi hỏi trên. Trong quá trình biên soạn, giáo trình có sử dụng một số kiến thức trong Giáo trình “Quản lý xã hội" của trường Đại học Kinh tế Quốc dân do GS. TS. Đỗ Hoàng Toàn chủ biên, (Nxb. Khoa học kỹ thuật, 2003); “Quản lý xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ", Thanh Lê chủ biên, NXB. Khoa học xã hội, 1997, đồng thời có sự đóng góp và phản biện của nhiều nhà khoa học trong và ngoài trường thông qua các cuộc hội thảo khoa học, mặc dù vậy giáo trình không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để giáo trình được hoàn chỉnh hơn trong những lần xuất bản sau. Mọi góp ý xin gửi về Công ty CP Sách Đại học Dạy nghề, 25 Hàn Thuyên Hà Nội. 1
- Chương 1 I ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC 1 Đối tượng Lý thuyết chung về quản lý xã hội là khoa học về các quy luật hoạt động và phát triển của hoạt động con người nhằm tổ chức cuộc sống của hệ thống xã hội, các bộ phận cấu thành riêng biệt của nó. Trong lý thuyết chung quản lý xã hội, con người thể hiện là chủ thể của hoạt động quản lý nói chung, còn nội dung cụ thể của hoạt động này được xem như là biểu hiện mang tính đối tượng hoá của quá trình tự thực hiện của con người trong lĩnh vực này. Lý thuyết chung quản lý xã hội là lý thuyết về hoạt động của chủ thể trong lĩnh vực quản lý. Đối tượng của lý thuyết chung quản lý xã hội là các mối quan hệ quản lý và các phương thức hoạt động quản lý, các quy luật của chúng như là của một loại tương tác và liên hệ đặc biệt giữa người với người các chủ thể của hoạt động này, các chủ thể thực hiện quá trình tổ chức xã hội. Cách tiếp cận như vậy với quản lý cho phép xem xét quản lý thông qua những đặc điểm chung nhất đồng thời cũng mang tính cụ thể. Phương diện xã hội này của quan hệ quản lý có mặt ở khắp nơi mà hoạt động quản lý được thực hiện, mà xuất hiện sự tương tác giữa các cá nhân, các nhóm xã hội, các cộng đồng. Theo quan điểm này, lý thuyết chung quản lý xã hội là khoa học phổ quát, các kết luận và các luận điểm của nó được các khoa học quản lý khác áp dụng vào lĩnh vực nghiên cứu đặc thù của mình, để tố chức chủ thế xã hội và khách thể quản lý trong lĩnh vực đời sống xã hội tương ứng. Lý thuyết chung quản lý xã hội xem xét xã hội, toàn bộ các bộ phận cấu thành nó như là các hệ thống tự tổ chức phức tạp, có cơ sở tồn tại là tính đa dạng của những lợi ích tương tác với nhau. Bản thân hệ thống quản lý xã hội được phân tích như là các phương thức hoạt động tập thể xác định của những người đang thực hiện các chức năng quản lý nhằm mục đích tự tổ chức, bảo đảm sự tự phát triển cho cơ thể xã hội và bản thân mình. Lý thuyết chung quản lý xã hội 2
- vạch rõ các quy luật khách quan của sự hoạt động và phát triển của hệ thống quản lý xã hội, tức là vạch rõ các mối liên hệ bản chất, tất yếu, ổn định, quy định tính chất, đặc điểm, hiệu quả của sự tác động đến phát triển xã hội. Đó là các quy luật, các nguyên tắc và các phương pháp xây dựng quan hệ quản lý, thực hiện hoạt động quản lý, là các con đường thực hiện chức năng quản lý, cung cấp cán bộ, phục vụ thông tin... Những mối liên hệ này được thể hiện qua quan hệ về lợi ích giữa các chủ thể quản lý, lợi ích hình thành một cách tuỳ thuộc vào địa vị, vai trò của con người trong quá trình thực hiện các quyết định quản lý và quy định tính chất, định hướng các quyết định ấy. 2. Phương pháp Là khoa học xã hội, lý thuyết chung quản lý xã hội sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội: bao gồm các tri thức, các thủ thuật để phát hiện và giải quyết các hiện tượng, các vấn đề phát sinh trong xã hội. Phương pháp luận sử dụng là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; văn hóa dân tộc; xã hội học và một số ngành khoa học khác như tâm lý học, lý thuyết thông tin... Trong quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa, việc quản lý phải dựa vào trước hết lằ học thuyết Mác Lênin, một hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm triết học, kinh tế và chính trị xã hội. Môn triết học cho chúng ta cách nhận biết sự vận động và phát triển không ngừng của các quá trình xã hội cũng như các mối liên hệ phổ biến mà dựa vào đó chủ thể quản lý tác động tới đối tượng quản lý một cách khách quan khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý xã hội, những nguyên lý trong đó quy định chiến lược tìm tòi các quy luật quản lý, những yêu cầu của việc nhận thức và cải tạo thiên nhiên và xã hội một cách khách quan, đúng đắn. Nhận thức các hiện tượng xã hội một cách duy vật biện chứng là một bộ phận không thể tách rời của triết học Mác. Là lý luận xã hội học chung, chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết những vấn đề phương pháp luận của các khoa học xã hội. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự cụ thể 3
- hoá các phương pháp biện chứng nghiên cứu các quy luật phát triển và hoạt động chung của xã hội. Những nguyên lý của phương pháp biện chứng xuất phát từ sự hiểu biết các quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Môn kinh tế chính trị là cơ sở của việc quản lý kinh tế phù hợp với mục tiêu của sản xuất, việc quản lý kinh tế bao gồm lĩnh vực trực tiếp làm ra sản phẩm cũng như tất cả các dạng khác của hoạt động kinh tế, kể cả phân phối trao đổi và tiêu dùng. Môn chủ nghĩa xã hội khoa học cho chúng ta sự hiểu biết các quy luật chính trị xã hội, mà dựa vào đó thực hiện quá trình quản lý. Một số khoa học cụ thể khác nằm írong hệ thống các kiến thức về quản lý, cho nên quản lý xã hội trong điều kiện định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp một cách hữu cơ nhũng khái quát lý luận của một loạt các môn khoa học xã hội và tự nhiên. IICÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1, Xã hội Loài người khi xuất hiện đã biết hợp lại thành bầy nhóm, để vừa tự vệ bảo vệ minh vừa tiến hành các hoạt động sinh tồn; dần dần sự kết hợp đó được tổ chức ngày càng chặt chẽ tạo thành các xã hội. Xã hội là một tập thể có tổ chức gồm những người cùng sống với nhau trên một lãnh thổ chung, hợp tác với nhau thành các nhóm để thoả mãn những nhu cầu xã hội căn bản, cùng chia sẻ một nền vãn hoá chung và hoạt động như một đơn vị xã hội riêng biệt (J.Fichter, Xã hội học quản lý, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội). Cũng có cách hiểu cho rằng: xã hội là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với các nhóm người khác hằng các lợi ích, môi quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hoá... Từ những quan niệm trên, có thể hiểu: Xã hội là một hệ thống các hoạt động và các quan hệ của con người, có đời sống kinh tế, văn hóa chung, có cùng một thể chế chính trị, cùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn lịch sử nhất định. 4
- Từ khái niệm trên, có thể thấy khi bàn về khái niệm xã hội người ta thường nhấn mạnh đến hai yếu tố chính, từ đó tạo nên các điểm chung, đó là quan hệ và hoạt động của con người trong một không gian và thời gian nhất định. Hệ thống trên được hiểu là sự thống nhất biện chứng của các mâu thuẫn giữa các yếu tố, các phương diện, các quan hệ tạo thành xã hội xét trong thời gian và không gian và đó như là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống cũng như của từng phần tử, từng bộ phận tạo nên hệ thống. Các hoạt động của con người là các hành vi luôn có của con người để tồn tại và phát triển, đó là hoạt động lao động, nghỉ ngơi và hoạt động bảo đảm được an toàn trong môi trường sống (quan hệ với các xã hội khác, quan hệ với thiên nhiên). Các hoạt động của con người lại phân thành: hoạt động sản xuất của cải vật chất; hoạt động sản xuất của cải phi vật chất. Đây là các hoạt động chủ yếu, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các hoạt động nghỉ ngơi giải trí là sự tiếp nối của các hoạt động lao động nhằm duy trì tốt hơn cuộc sống của con người, và chính nó lại tác động trở lại, làm cho hoạt động lao động sản xuất vật chất đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Các hoạt động bảo đảm được an toàn trong môi trường đối nội và đối ngoại bao gồm các hoạt động giao tiếp củaxã hội này với xã hội khác (về kinh tế, về văn hóa, về an ninh...); các hoạt động tái sinh sản xã hội (dân số, cải tạo nòi giống...); các hoạt động ảnh hưởng của xã hội mình sang xã hội khác v.v... Các hoạt động kể trên có vai trò quan trọng khác nhau qua các giai đoạn phát triển lịch sử của mỗi quốc gia và của nhân loại. Trong đó các hoạt động sản xuất của cải vật chất, kỷ cương xã hội, đối ngoại và bảo vệ an ninh xã hội là các hoạt động trung tâm. Các quan hệ con người trong xã hội: là những quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội, khác nhau bởi vị trí mà chủ yếu là hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và chức năng đời sống xã hội. 5
- Quan hệ xã hội chủ yếu: quan hệ trong sản xuấĩ; quan hệ trong phân phối; quan hệ trong trao đổi; quan hệ trong tiêu dùng; quan hệ với xã hội khác. Các quan hệ xã hội lại bao gồm các quan hệ vật chất (trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi của cải vật chất mà cơ bản là vấn đề lợi ích) và các quan hệ phi vật chất (văn hóa, chính trị, quyền lực ...) Về cơ bản, mọi xã hội đều có mục tiêu giống nhau là giúp cho con người được tồn tại an toàn và được phát triển toàn diện, dĩ nhiên thông qua các hoạt động xã hội và quan hệ xã hội mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp và mỗi cá nhân trong xã hội đạt được những mục tiêu và kết quả không giống nhau. Mỗi chế độ xã hội khác nhau có những đặc trưng khác nhau. Đặc trưng là dấu hiệu để phân biệt giữa xã hội này với xã Hội kia về mức độ và trình độ phát triển đã đạt được, cũng như ý đồ phát triển trong tương lai mà chủ thể quản lý và xu thế phát triển chung của xã hội, của lịch sử tạo ra. Các quan hệ xã hội là những quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội khác nhau bởi vị trí và chức năng trong đời sống xã hội. Quan hệ xã hội bao gồm các mặt chủ yếu: Quan hệ về sở hữu, quan hệ về phân phối (kéo theo là quan hệ trong trao đổi và tiêu dùng) và quan hệ về quản lý. Các mối quan hệ này phải được tuân thủ theo những quy tắc chung nhất định mà mỗi xã hội tạo ra. Khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, chưa có sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người thì những quy tắc xử sự chung của toàn xã hội, mà hình thức biểu hiện của nó là phong tục tập quán, các lễ nghi tôn giáo được thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người trong xã hội và bằng uy tín của các thủ lĩnh trong cộng đồng. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, sự đối lập về lợi ích kinh tế ngày càng gay gắt. Trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong trật tự nhất định, điều hoà mâu thuẫn về lợi ích, giai cấp thống trị nắm trong tay lực lượng sản xuất, tổ chức ra nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị và là quyền lực công đại diện cho lợi ích chung của xã hội. 6
- 2. Quản lý xã hội Quản lý xã hội là những tác động có ý thức của các chủ thể xã hội có thể cá nhân hoặc tổ chức vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, đáp ứng sự tồn tại và phát triển xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nó như lao động và học tập, văn hoá, chính trị, tôn giáo và các công tác xã hội khác. Quản lý xã hội là loại hình quản lý nói chung. Chức nãng của quản lý xã hội là bảo đảm việc thực hiện các nhu cầu phát triển tiến bộ cho toàn bộ hệ thống xã hội cũng như các bộ phận của nó. Khái niệm quản lý xã hội được sử dụng theo hai cách tiếp cận khác nhau: Thứ nhất, quản lý xã hội là hoạt động quản lý các tổ chức xã hội phi nhà nước, không chịu sự chi phối trực tiếp bởi quyền lực Nhà nước hay Chính phủ. Thứ hai, quản lý xã hội là cách thức tổ chức đời sống xã hội vì mục tiêu chung, khi đó cả quốc gia cho tới nhóm xã hội đều bị chi phối bởi dạng quản lý nào đó. Do đó quản lý hành chính cũng là một dạng quản lý xã hội. Cách hiểu này có tính phổ biến hiện nay. Cả hai cách tiếp cận trên đều bắt đầu từ nội dung quản lý đối với xã hội, những nội dung đó là: Quản lý một đơn vị dân số có tổ chức. Quản lý vùng lãnh thổ thuộc về xã hội của mình. Quản lý những nhóm xã hội với những chức năng nhiệm vụ riêng đã được xã hội phân công. Quản lý một nền văn hoá chung với những giá trị và chuẩn mực nhất định. Quản lý sự thống nhất trong hoạt động trên cơ sở của các hoạt động đặc thù của từng bộ phận xã hội. Quản lý từng đơn vị xã hội với những đặc thù riêng và tính độc lập tương đối của nó cả về mặt cấu trúc cũng như chức năng. Quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (kinh tế, văn hoá, khoa 7
- học ...). Trên cơ sở những nội dung trên, về mặt phương pháp, nhiệm vụ của quản lý xã hội là: Thiết lập các tiêu chuẩn, các chỉ báo xã hội. Phân loại các vấn đề xã hội. Áp dụng các phương pháp quản lý một cách khoa học để giải quyết các vấn đề đó. Lập kế hoạch về việc thực hiện các quan hệ xã hội và các quá trình xã hội. Dự báo xã hội. Bố trí các chủ thể quản lý và giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Từ cách hiểu như trên, thấy rằng quản lý xã hội là những tác động có ý thức của con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất đặc thù của xã hội, để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, không một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển lại có thể đứng ngoài sự tác động của các xã hội khác, vì vậy quản lý xã hội không khu biệt trong phạm vi xã hội của mình, trong địa giới hành chính của mình, trong một nền văn hóa và trạng thái kinh tế của mình mà quản lý xã hội phải tính đến các tác động khách quan bên ngoài, cả tích cực và tiêu cực. Để xã hội vận hành, hoạt động quản lý đối với xã hội là đòi hỏi tất yếu khách quan, do đó: “Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức, hướng đích của chủ thể quản lý lên xã hội và các khách thể của nó, nhằm phát triển xã hội theo quy luật khách quan và đặc trưng của xã hội". + Nghĩa rộng: Là hiện tượng vốn có ở hệ thống xã hội, bảo đảm duy trì từ tính toàn vẹn, sự đặc thù về chất, sự tái tạo và sự phát triển của nó + Nghĩa hẹp: Sự tác động có ý thức, có hệ thống, có tổ chức đặc biệt đến xã 8
- hội nhằm chấn chỉnh và hoàn thiện cơ cấu hoạt động xã hội của nó trong quá trình hoạch định và đạt tới mục đích. + Quản lý xã hội như là tổng thể các cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ quản lý giữa chúng và việc thực hiện cho phép thực hiện sự tương tác bằng quản lý giữa các cá nhân, các nhóm và các cộng đồng xã hội, các thiết chế, các lĩnh vực... của xã hội. + Vê' bản chất: Quản lý xã hội điều chỉnh sự tác động qua lại một cách mâu thuẫn giữa các lợi ích của cá nhân, của nhóm, của chung để cùng thực hiện chúng. Là sự điều tiết những mối quan hệ xã hội quy định địa vị và vai trò của con người trong xã hội, định hướng về lợi ích và hoạt động của họ, nội dung và cường độ hoạt động. Tác động đến quan hệ xã hội, trước hết là mối quan hệ hình thành về tư liệu sản xuất, bảo đảm thống nhất những lợi ích đa dạng (của dân tộc, tập thể, cá nhân...), tổ chức hoạt động xã hội, việc đạt các mục đích đật ra, các kết quả chung. + Chủ thể quản lý xã hội là hệ thống những người quản lý; cộng đồng người có tổ chức, được giao cho các cơ quan chức năng nhằm thực hiện các tác động bằng quản lý. Sự đặc thù của chủ thể quản lý xã hội được quy định bởi tính chất tác động của nó, sự tác động hướng vào con người và do con người thực hiện. Nhiệm vụ của chủ thể quản lý xã hội là ở sự hợp nhất, làm hài hoà lợi ích của các cộng đồng riêng biệt, của các nhóm xã hội, của các cá nhân trong quá trình hoạt động sống của xã hội, ở sự hiện thực hoá mục đích của họ, ở việc giữ vững được đặc trưng xã hội mà họ đã định trước. + Đối tượng của quản lý xã hội là con người cùng với các hoạt động và các quan hệ của cộng đồng các con người trong xã hội, cùng các nguồn tài nguyên khác ngoài con người của đất nước. Khách thể quản lý xã hội là hệ thống xã hội được quản lý mà các yếu tố là xã hội, các nhóm xã hội tác động qua lại với nhau nhằm thực hiện lợi ích chung và riêng. Xét từ góc độ cấu trúc yếu tố thì khách thể của quản lý xã hội đó là con 9
- người, các tổ chức, các cộng đồng lãnh thổ, các nhóm giai cấp xã hội, các nhóm dân tộc, các thế lực của các xã hội khác, thông qua sự hội nhập khu vực và thế giới cùng các tác động của thiên nhiên. Xét từ góc độ chức năng thì khách thể quản lý xã hội là hoạt động của con người và của các nhóm xã hội. Để quản lý xã hội, nhà nước phải sử dụng sức mạnh quyền lực của mình và văn hoá truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc để biến đường lối chính sách thành hiện thực; làm cho dân tin và ủng hộ; ý định của chủ thể quản lý phải là mong muốn của đối tượng quản lý; thông qua việc cấu trúc xã hội một cách hợp lý; một cơ chế sử dụng nhân lực và tài nguyên, các mối quan hệ đối ngoại thuận lợi đặc biệt là cơ chế sử dụng nhân tài; với phương pháp, hình thức, nghệ thuật quản lý thích hợp nhất là việc sử dụng các công cụ, các chính sách, các giải pháp quản lý; cần tạo ra và tận dụng thời cơ các nguồn lực bên ngoài để phát triển xã hội. 3. Các trạng thái xã hội trong quản lý xã hội Biến đổi xã hội: Là sự chuyển đổi xã hội từ trạng thái này sang trạng thái khác, mà trạng thái chính là bộ mặt xã hội với những yếu tố hoạt động xã hội và quan hệ xã hội đạt được ở một mức độ nào đó. Tăng trưởng xã hội: Là sự biến đổi xã hội theo hướng mở rộng quy mô về mặt số lượng của các yếu tố xã hội (hoạt động, quan hệ) trong khuôn khổ cơ cấu và đặc thù xã hội không đổi. Là biến đổi xã hội theo hướng tích cực của chủ thể quản lý xã hội thông qua các mục đích và mục tiêu quản lý xã hội mà chủ thể quản lý xã hội đặt ra. Mục tiêu tăng trưởng của các quốc gia đều nhằm vào đòi hỏi: + Tăng trưởng kinh tế. + Tiến bộ xã hội. 4 Bảo vệ và phát triển các đặc trưng của chế độ xã hội trước môi trường hội nhập, bảo vệ độc lập chủ quyền. 10
- + Phát triển ảnh hưởng của quốc gia mình ra khu vực và thế giới. Phát triển xã hội: Quá trình trong đó diễn ra những biến đổi quan trọng về lượng và về chất trong lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội hay là trong các thành tố riêng biệt của nó quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, cơ cấu nhóm xã hội và cơ cấu tổ chức xã hội... Không phải mọi biến đổi trong các hiện tượng xã hội đều là sự phát triển của chúng, chỉ có những biến đổi mà khi đó một số hiện tượng xã hội này được thay thế bằng một số hiện tượng xã hội khác có trình độ cao hơn hay là chuyển lên các hiện tượng có trình độ cao hơn theo tiêu chuẩn khách quan về tiến bộ xã hội đó là phát triển tiến bộ; ngược lại, được thay thế bằng các hiện tượng ở trình độ thấp hơn là phát triển thoái bộ. Phát triển xã hội được thực hiện bằng con đường tiến hóa, khi mà diễn ra sự tiêu vong dần dần các yếu tố cũ của một hệ thống xã hội xác định và sự loại bỏ chúng bởi các yếu tố mới được tích luỹ dần dần. Một hình thức khác của phát triển xã hội thông qua cải tạo cách mạng, cách mạng xã hội, khi diễn ra sự phá hủy tương đối nhanh chóng và đồng thời mọi yếu tố lỗi thời của hệ thống và thay thế chúng bằng các yếu tố mới đang xuất hiện trong hệ thống thống nhất. Cách mạng xã hội trong một số trường hợp mang tính chất của cách mạng chính trị nếu diễn ra sự thay đổi chính quyền, sự cải biến chế độ chính trị. Những cải biến cách mạng trong lĩnh vực xã hội cũng diễn ra thiếu cách mạng chính trị trong các bối cảnh xác định, trong khuôn khổ của chế độ chính trị hiện tồn. Phát triển xã hội là sự tăng trưởng xã hội nhưng cấu trúc các yếu tố xã hội đã được điều chỉnh theo hướng nâng cao chất lượng nhằm làm cho các đặc trưng xã hội được khẳng định thêm (bao hàm nội dung tăng trưởng xã hội). Tiêu chí cơ bản nhất về phát triển xã hội: phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống, nâng cao mức sống, giảm phân hóa giàu nghèo; phát triển về xã hội: giáo dục, sức khỏe, việc làm...; phát triển về môi trường; phát triển về chính trị, tinh thần và trí tuệ; về văn hóa; về vai trò phụ nữ trong xã hội; phát triển về quốc tế, tiếp cận quan điểm hiện đại về phát triển. Phát triển xã hội là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân 11
- tộc, trong đó, bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng mình, các chủ thể lãnh đạo và quản lý tạo ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những thành quả bền vững và được phân phối công bằng cho các thành viên xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Phát triển xã hội tiến bộ, công bằng, an toàn, bến vững. + Khủng hoảng toàn cầu hiện nay mang tính chất xã hội hơn là tính chất kinh tế. + Nhiều nước kinh tế tăng trưởng mạnh nhưng nghèo khổ và loại trừ xã hội ngày càng tăng. + Kinh tế thị trường không làm giảm sự bất bình đẳng và bất công xă hội. + Vì vậy, tất cả các quốc gia phải xem xét lại chiến lược của mình, trong đó phải đặc biệt coi trọng đến các khía cạnh xã hội của phát triển. Ba vấn đề vừa cơ bản vừa bức xúc của phát triển xã hội theo hướng công bằng là: giảm nghèo, việc làm và hòa nhập xã hội. Vấn đề cơ bản của phát triển xã hội chính là việc không ngừng phát triển kinh tế, củng cố và khẳng định các đặc trưng xã hội của mình. Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa, tất cả các dân tộc với văn hóa và thể chế chính trị khác nhau nhưng đều có chung mục tiêu là có cuộc sống vật chất đầy đủ, được tiến bộ và phát triển toàn diện, được đối xử công bằng, được an toàn lâu dài. Nói cách khác, phát triển xã hội phải bảo đảm các yêu cầu: Tiến bộ, công bằng, bền vững và an toàn. Tiến bộ xã hội: Là mức độ xã hội tăng lên cả về lượng cũng như về chất các hoạt động và các quan hệ xã hội theo chuẩn mực được tuyệt đại đa số trong xã hội và nhân loại chấp nhận và theo đuổi. Công bằng xã hội: Là sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã hội; mà trọng tâm là sự bình đẳng 12
- về thông tin, kinh tế, chính trị và pháp luật. Công bằng xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử có nội dung khác nhau bởi nó gắn liền với trình độ phát triển của xã hội. Công bằng xã hội là sự thể hiện mối quan hệ giữa .người với người trong xã hội, là nguyện vọng, là tâm lý xã hội nói chung; là mục tiêu, là phương tiện và là động lực của mọi xã hội. Công bằng xã hội được các thiết chế xã hội bảo đảm thông qua các chính sách xã hội, luật pháp nhằm phát huy dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của con người, xóa bỏ bất công và các tiêu cực trong xã hội. Dân chủ xã hội: Là hình thức tổ chức chính trị của xã hội cãn cứ trên việc thừa nhận nhân dân với tư cách là nguồn gốc của quyền lực, căn cứ trên quyền của nhân dân tích cực tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước và của xã hội thông qua các cơ quan đại diện do họ bầu ra một cách trực tiếp; đem lại cho công dân các quyền và các quyền tự do là cái bảo đảm khả nàng tiếp cận chung, bình đẳng với hoạt động kinh tế, nghề nghiệp, giáo dục, khai thác các giá trị văn hoá, bộc lộ tiềm năng của cá nhân. Dân chủ hoá đời sống xã hội là quá trình khẳng định và mở rộng các nguyên tắc dân chủ trong đòi sống xã hội, trong các khâu riêng biệt, các lĩnh vực, các quan hệ và các thiết chế của nó. Có thể đánh giá sự tổ chức đời sống xã hội trong mỗi lĩnh vực cơ bản của nó từ góc độ thực tại hiện tồn phù hợp với lợi ích của nhân dân và của con người cụ thể ở chừng mực nào. Tiêu chí như vậy đóng vai trò là thước đo về tính dân chủ. Dân chủ hoá đời sống xã hội trước hết bao hàm các hiện tượng và các quá trình trong đời sống chính trị của xã hội, ở đây nó có nghĩa là khẳng định quyền lực của nhân dân, cơ chế biểu thị lợi ích của con người, các thiết chế nhà nước bảo vệ các quyền và các quyền tự do của công dân. Dân chủ là biểu hiện tập trung của công bằng xã hội, phản ánh mức độ tham gia của con người vào hoạt động xã hội bằng tinh thần như thế nào? Dân chủ xã hội thể hiện quan hệ Nhà nước với con người trong xã hội, nó là phạm trù có tính lịch sử, bị chế ước bởi các điều kiện kinh tế xã hội trong xã hội 13
- có giai cấp. Nó thể hiện các mối quan hệ xã hội thông qua mức độ bình đẳng và bất công xã hội mà xã hội chế định trong mỗi giai đoạn lịch sử. Dân chủ xã hội thể hiện các giá trị xã hội nhất định (đạo đức, chính trị, tư tưởng...) vì vậy dân chủ xã hội trở thành mục đích, động lực và phương tiện quản lý xã hội, nhờ có dân chủ các tiêu cực trong xã hội và trong bộ máy quản lý bị triệt tiêu dần. Dân chủ xã hội được thực hiện đồng bộ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Công bằng xã hội gắn liền với tiến bộ xã hội, là chuẩn mực của tiến bộ xã hội. Nó gắn với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và nó cũng không đứng ngoài thời đại. An toàn xã hội: Là khả năng ngăn chặn xử lý có hiệu quả các tệ nạn, tai họa và bất thường của cá nhân, cộng đồng, xã hội của mỗi quốc gia. Là nội dung của công bằng và tiến bộ xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi họ được bảo đảm an toàn. An toàn xã hội luôn là mục đích cơ bản của mọi cá nhân và mọi xã hội. Phát triển bền vững xã hội: Là phát triển xã hội một cách nhanh tróng, tiến bộ, an toàn và lâu dài trước sự cọ sát của các quốc gia và các biến động của thiên nhiên; để không ngừng khẳng định các đặc trưng của xã hội trong thời gian và không gian xã hội. Phát triển xã hội tiến bộ, công bằng, an toàn và bền vững là phát triển xã hội gắn liền với văn hóa xã hội. Phát triển và văn hóa là hai mặt của mục tiêu nhân văn mà nhân loại luôn hướng tới. Phát triển không gắn với văn hóa sẽ tạo nên một xã hội phi nhân tính mà ở đó con người luôn đối xử bất công với nhau. Căng thẳng xã hội: Hiện tượng xã hội xuất hiện do có sự xung đột về nhu cầu và lợi ích, về định hướng giá trị và mục đích, về chuẩn mực và truyền thống giữa các chủ thể tương tác xã hội (các cá nhân, các cộng đồng, các thiết chế, các tổ chức), nó thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Căng thẳng xã hội là tiền đề của xung đột xã hội, mặc dù không phải bao giờ cũng chuyển biến thành xung đột xã hội. Trạng thái câng thẳng của mâu thuẫn xã 14
- hội xung đột xã hội gắn liền với sự phát triển cụ thể của các điều kiện xã hội kích thích hay kìm hãm sự xuất hiện xung đột. Căng thẳng xã hội được xem như là một quá trình trong đó người ta tách biệt giai đoạn hình thành các cãn cứ cho sự xuất hiện của nó, giai đoạn phát triển và giai đoạn giải quyết căng thẳng. Chẩn đoán học xã hội và xã hội học có một tác dụng to lớn trong sự phát hiện và nhận thức khoa học về cơ chế căng thẳng xã hội, về các phương thức làm giảm bớt và loại bỏ nó. Vì vậy, mỗi giai đoạn căng thẳng xã hội khi nhận thức được, chủ thể quản lý xã hội phải có những hành động xã hội thích hợp nhằm giảm bớt hoặc triệt tiêu căng thẳng. Quá trình xã hội: Tiến trình biến đổi, sự thay đổi trạng thái của các hiện tượng hay các quan hệ xã hội xác định. Phù hợp với cơ cấu của lĩnh vực xã hội thì có thể phân biệt các nhóm quá trình xã hội sau: + Hình thành và phát triển các cộng đồng xã hội, tăng cường hay ngược lại làm suy yếu quan hệ xã hội trong chúng, tức là các quá trình tích hợp và phi tích hợp chúng, sự làm tiêu vong một số mối liên hệ. + Cải biến tính chất quan hệ xã hội giữa các cộng đồng ấy. + Cải biến những đặc điểm, đặc trưng xã hội khác nhau của các cộng đồng và của những cá nhân nằm trong chúng, làm tăng hay ngược lại làm giảm trình độ học vấn và trình độ văn hóa, tính tích cực xã hội. + cải biến điều kiện sống của con người, của các cộng đồng xã hội này hay cộng đồng xã hội khác; cải thiện, làm xấu đi hay có những cải tạo khác đối với điều kiện ấy. + Cải biến nhu cầu và lợi ích của con người, của các cộng đồng xã hội, lối sống của họ. Làm xuất hiện, phát triển, làm tiêu vong, cải tạo các thiết chế xã hội, làm tăng trình độ tổ chức hay vô tổ chức, hoạt động hay không hoạt động của chúng, làm nảy sinh, phát triển và làm biến mất các cơ cấu tổ chức xã hội. + Cải biến cơ cấu tâm lý xã hội, cải thiện hay làm xấu đi bầu không khí tâm 15
- lỷ xã hội trong các nhóm xã hội và các tổ chức xã hội này hay xã hội khác; Làm xuất hiện, thay đổi hay biến mất các chuẩn mực xã hội; Làm xuất hiện, phát triển, tăng cường, làm suy yếu, làm biến mất các phong trào xã hội. + Cải biến hệ thống quan hệ giữa các cộng đồng xã hội và những cá nhân riêng biệt, làm tăng cường hay suy yếu sự giám sát xã hội, sự giúp đỡ và bảo vệ từ phía xã hội. Thay đổi địa vị xã hội của con người, thay đổi dư luận xã hội, thay đổi sự đánh giá của con người về các phương diện và các hiện tượng xã hội khác nhau của đời sống xã hội, thay đổi thái độ đối với chúng. Sự phát triển của các quá trình xã hội xét đến cùng là do sự phát triển kinh tế quy định. Các quy luật riêng của lĩnh vực xã hội cũng bộc lộ ra trong quá trình xã hội, có tác động tới chúng là những quá trình diễn ra trong lĩnh vực chính trị và tinh thần, là đường lối và chính sách được tiến hành trong xã hội, là các nhân tố thuộc hệ tư tưởng và các nhân tô' khác. Đến lượt mình, quá trình xã hội cũng có tác động tới hiện tượng của các lĩnh vực đời sống xã hội khác. Phân biệĩ các quá trình theo quy mô của chúng: Một số quá trình diễn ra trên quy mô toàn thể xã hội; số khác, trong khuôn khổ các cơ cấu xã hội này hay khác; theo định hướng của chúng; một số quá trình thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, số khác cản trở nó. Quá trình xã hội thể hiện là khách thể tác động trực tiếp đối với quản lý xã hội. Lĩnh vực xã hội: Lĩnh vực hoạt động sống của xã hội loài người, trong đó chính sách xã hội của nhà nước được thực hiện bằng con đường phân phối của cải vật chất và của cải tinh thần, bảo đảm sự tiến bộ cho mọi mặt đời sống xã hội, cải thiện tình cảnh người lao động. Lĩnh vực xã hội bao gồm hộ thống các mối quan hệ, kinh tế xã hội, dân tộc, các mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội. Lĩnh vực xã hội cũng bao gồm tổng thể các nhân tố xã hội của hoạt động sống của các nhóm xã hội và cá nhân, các điều kiện phát triển của họ. Lĩnh vực xã hội bao gồm toàn bộ không gian sinh sống của họ từ các điều kiện lao động và sinh hoạt, sức khoẻ và thời gian rỗi của nó cho tới các quan hệ giai cấp xã hội và dân tộc. Nội 16
- dung của lĩnh vực xã hội là những mối quan hệ xã hội giữa các nhóm xã hội, các cá nhân về vấn đề tình cảnh, địa vị và vai trò của họ trong xã hội, về vấn đề lối sống và nếp sống của họ. 5. Đặc điểm trong quản lý xã hội Quản lý xã hội rất khó khăn và phức tạp, đây là đặc điểm bao trùm đối với quản lý xã hội ở mọi quốc gia và mọi thời đại. Lý do khó khăn vì: Đối tượng bị quản lý rất lớn và rất phức tạp, nó bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tất cả người dân cư trú trên lãnh thổ đất nước và người sống ở nước ngoài; với trình độ và hoàn cảnh khác nhau; mục tiêu và nhu cầu khác nhau. Cùng sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực; các hoại động quản lý xã hội của mỗi quốc gia đều bị ràng buộc chặt chẽ vào nhau; việc quản lý xã hội của mỗi quốc gia này phải tính đến sự tác động của các quốc gia khác. Chủ thể quản lý xã hội không thuần nhất, phần lớn lệ thuộc vào vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, chủ thể hữu hình của quản lý xã hội, ngoài ra còn phụ thuộc vào các lực lượng khác của xã hội. Nhà nước quản lý xã hội thông qua việc tổ chức xã hội, thiết lập mối quan hệ giữa con người, giữa các nhóm, cộng đồng để thực hiện một quá trình xã hội. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức cao. Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, bắt đối tượng quản lý phải phục tùng không điều kiện, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Quản lý nhà nước quan hệ tác động qua lại với sự điều tiết của các cộng đồng dân cư; của đặc điểm, phong tục tập quán của dân tộc. Giữa Nhà nước và phong tục tập quán của dân tộc phải tìm được tiếng nói chung, việc quản lý xã hội mới đạt hiệu quả. Quản lý xã hội có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các dân tộc. Xã hội sẽ phát triển khi quản lý xã hội có hiệu quả và ngược lại. 17
- Quản lý xã hội có tính liên tục, tính kế thừa. Việc quản lý xã hội gắn liền với sự tồn tại của các quốc gia và các dân tộc. Còn hoạt động của con người thì còn hoạt động quản lý, vì vậy quản lý xã hội luôn là sự kế thừa theo dòng chảy của lịch sử xã hội loài người. Quản lý xã hội mang tính thẩm thấu, tính lan truyền, quản lý xã hội của xã hội này phải học hỏi kinh nghiệm của xã hội khác để tìm được cách quản lý tốt nhất. Sự học hỏi phải có chọn lọc cho phù hợp với đặc điểm của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Quản lý xã hội luôn liên quan tới vấn đề động lực và phản động lực của sự phát triển xã hội. Động lực trong quản lý xã hội là động lực của từng thành viên, tính đồng thuận và sự kết hợp tốt của từng động lực riêng rẽ thông qua các thiết chế tổ chức xã hội hợp lý, ngoài ra còn phải tính đến sự kết hợp có hiệu quả của các xã hội bên ngoài. Phản động lực là sự không đồng thuận của các động lực cá nhân trong xã hội thông qua các điều bất cập của thiết chế xã hội; sự tác hại từ phía các xã hội khác hoặc điều kiện bất lợi từ thiên nhiên gây ra. Các động lực và phản động lực cần được kiểm sát và sử dụng có hiệu quả. Quản lý xã hội là một khoa học vì có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Quản lý xã hội là nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự xử lý linh hoạt và có hiệu quả việc quản lý trong các điều kiện cụ thể của xã hội. Quản lý xã hội là sự nghiệp của toàn xã hội, nó đòi hỏi sự đóng góp công sức, mọi nỗ lực chủ động sáng tạo của mọi con người, của tất cả các nhóm người trong xã hội, của mọi thiết chế xã hội dưới sự điều hành của chủ thể quản lý xã hội cơ bản. 6. Những yêu cầu của quản lý xã hội Là những yêu cầu của những quy luật và xu hướng khách quan của sự phát 18
- triển đất nước theo hướng hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Trước hết, quản lý xã hội phải thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động, sử dụng nhân lực có hiệu quả nhất, khuyến khích để người lao động phát huy được hết năng lực của mình. Liên kết nhân lực với tư liệu sản xuất một cách tối ưu, giảm dần thất nghiệp, tạo sự liên kết giữa các đơn vị sản xuất, Nhà nước phải có trách nhiệm chăm lo đào tạo và sử dụng nhân lực trên quy mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chú ý hoàn thiện thái độ của người lao động với lao động, nhất là trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập ngày nay, khi những khả năng kiểm tra từ bên ngoài đối với người lao động giảm đi, vì lao động hôm nay mang tính sáng tạo cao, nên ít thích hợp với việc kiểm tra từ bên ngoài. Trong điều kiện ấy, lương tâm con người trở thành người kiểm tra chủ yếu, cho nên động cơ bên trong ngày càng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động. Hơn nữa, điều kiện chủ yếu để nâng cao năng suất lao động là sự phát triển cá nhân. Lao động sáng tạo chỉ thực hiện được khi cá nhân phát triển. Giữa phát triển sản xuất (sự phát triển kinh tế) với sự phát triển cá nhân (sự phát triển xã hội) có mối liên hệ biện chứng trực tiếp, việc nhận thức và đánh giá mối liên hệ ấy là một trong những cơ sở của quản lý xã hội, vì quản lý xã hội phải đạt tới sự phát triển cao nhất của cá nhân và bằng cách đó mà đạt tới sự phát triển sản xuất. Phải đảm bảo mức thỏa mãn cao nhất có thể được đối với những yêu cầu của quy luật phát triển xã hội. Không coi chỉ là quy luật phát triển kinh tế, mà là sự phát triển cân đối trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để giải quyết nhiệm vụ ấy phải tính tới tác động qua những xu hướng trái ngược nhau, có liên quan tới tính độc lập tương đối của mỗi lĩnh vực cũng như với nhịp độ phát triển của xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của mọi xã hội ngày nay đòi hỏi con người phải chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện để thích ứng với sự thay đổi đó. Chính vì vậy, giáo dục phải đi trước một bước, kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực khác. Nhiệm vụ của quản lý xã hội là tìm ra sự thỏa hiệp giữa tính cân đối và tính không cân 19
- đối trong sự phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Phải bảo đảm sự phù hợp của quan hệ xã hội với sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật. Một trong những vấn đề cơ bản của phương pháp luận quản lý xã hội là sự tương quan giữa những yêu cầu xã hội và những yêu cầu kinh tế, điều này không đồng nhất với mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Với chủ nghĩa xã hội, sự phát triển sản xuất chỉ là phương tiện để phát triển toàn diện con người, điều đó có nghĩa là mục đích xã hội chiếm ưu thế đối với những yêu cầu kinh tế, bởi vì mục đích ấy thể hiện bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phải thỏa mãn bất cứ yêu cầu nào của xã hội khi chưa có khả năng kinh tế, mà có nghĩa là nhịp độ phát triển xã hội phải đi trước. Mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội và yêu cầu kinh tế chỉ có tính chất ước lệ, có cái không sinh lợi nếu xét theo quan điểm của một đơn vị kinh tế hay một ngành, lại rất có lợi nếu xét theo quan điểm xã hội. Do đó quản lý xã hội phải tính đến toàn bộ chi phí của xã hội cho việc tái sản xuất dân cư. Việc nâng cao năng suất lao động không chỉ kích thích bằng vật chất mà còn những nhân tố khác nữa (tâm lý, hoàn cảnh sống ...), giải quyết được hài hòa vấn đề chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động và như vậy mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội và yêu cầu kinh tế trở nên có tính chất tương đối, bởi vì những biện pháp xã hội mang lại hiệu quả kinh tế và những quyết định kinh tế lại góp phần đạt tới những nhiệm vụ xã hội. Trong mối tương quan giữa những yêu cầu xã hội và kinh tế, cần xuất phát từ quan điểm coi quản lý xã hội là một phương pháp tác động tích cực đối với đời sống để cho nó phát triển theo lợi ích chung của xã hội. Quản lý xã hội phải tính đến hậu quả của cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng này với tính chất toàn cầu của hoạt động con người, có thể gây ra những biến đổi to lớn về môi trường và những hậu quả khó lường trước, vì vậy quản lý xã hội phải tính đến những điều đó. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình môn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
164 p | 37103 | 4572
-
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
296 p | 3482 | 1547
-
Giáo trình Nhập môn Công tác xã hội - TS. Bùi Thị Xuân Mai
59 p | 1394 | 132
-
Bài giảng môn học Khoa học giao tiếp - Th.S. Nguyễn Ngọc Lâm
100 p | 457 | 129
-
Giáo trình Nguyên lý cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin
283 p | 291 | 62
-
Giáo trình Tâm lý học tôn giáo
80 p | 313 | 48
-
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin: Phần 1 - PGS. TS. Nguyễn Viết Thông
218 p | 149 | 39
-
Những vấn đề lý luận chung
17 p | 254 | 33
-
Giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng - TS. Trần Hữu Quang
132 p | 249 | 29
-
Rối loạn ý thứcI. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ Ý THỨC: 1. Theo nghĩa rộng (triết học,
12 p | 289 | 25
-
Lý thuyết quan hệ quốc tế của các nước phương Tây và quản điểm Mácxít: Phần 1
67 p | 70 | 9
-
Giáo trình Công tác xã hội nhóm: Phần 1 - ThS. Nguyễn Thị Thái Lan (2008)
127 p | 17 | 6
-
Giáo trình Xã hội học lao động: Phần 1 - TS. Chu Thị Huyền Yến
105 p | 14 | 5
-
Giáo trình Quản lý thư viện và trung tâm thông tin: Phần 1
106 p | 6 | 5
-
Giáo trình Đọc văn (Lý thuyết và thực hành Đọc hiểu tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn phổ thông): Phần 1
67 p | 26 | 5
-
Giáo trình Xã hội học văn hoá: Phần 1
85 p | 11 | 4
-
Giáo trình Phương pháp dạy học chuyên ngành kỹ thuật: Phần 1 - Nguyễn Văn Tuấn
78 p | 30 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn