intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống chữ Hán của dân tộc

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

111
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải văn hóa. Văn hóa chữ Hán từ lâu đã trở thành tài sản tinh thần chung của nhân loại. Quá trình giao lưu văn hóa không có sự phân biệt văn hóa tốt xấu. Việc nghiên cứu ảnh hưởng giữa các nền văn hóa khác nhau là nhằm giới thiệu với thế giới những nét đặc sắc của mỗi dân tộc, làm rõ hơn những vấn đề mang tính quy luật trong giao lưu văn hóa, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống chữ Hán của dân tộc

v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY NHỮNG<br /> GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN<br /> THỐNG CHỮ HÁN CỦA DÂN TỘC<br /> ĐINH QUANG TRUNG<br /> Học viện Khoa học Quân sự<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> N<br /> gôn ngữ là ph­ương tiện chuyển tải văn hoá,<br /> bản thân ngôn ngữ không phải là văn hoá.<br /> Ngôn ngữ ghi chép, phản ánh, biểu đạt,<br /> truyền bá văn hoá. Văn hoá là sản phẩm của thực<br /> tiễn xã hội và lịch sử xã hội, nó không chỉ đư­ợc<br /> phản ánh qua ngôn ngữ, mà còn được thể hiện<br /> bằng những phư­ơng thức riêng trong đời sống<br /> TÓM TẮT<br /> cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ được hình thành<br /> Ngôn ngữ là ph­ương tiện chuyển tải văn và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử nhân văn<br /> hoá. Văn hoá chữ Hán từ lâu đã trở thành ở một địa vực nhất định, ngôn ngữ mang đậm<br /> tài sản tinh thần chung của nhân loại. Quá<br /> những yếu tố văn hoá dân tộc. Nói cách khác, yếu<br /> trình giao lưu văn hóa không có sự phân biệt<br /> văn hóa tốt xấu. Việc nghiên cứu ảnh hưởng tố văn hoá dân tộc là thành phần quan trọng tạo<br /> giữa các nền văn hóa khác nhau là nhằm giới nên văn hoá ngôn ngữ của một dân tộc. Chính<br /> thiệu với thế giới những nét đặc sắc của mỗi vì thế, trong quá trình học tập và nghiên cứu<br /> dân tộc, làm rõ hơn những vấn đề mang tính ngôn ngữ của bất kỳ một dân tộc nào đều cần<br /> quy luật trong giao lưu văn hóa, góp phần chú trọng tìm hiểu những đặc trư­ng văn hoá hàm<br /> gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của các chứa trong ngôn ngữ của dân tộc đó.<br /> dân tộc.<br /> Từ khóa: chữ Hán, giao lưu, văn hóa Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại<br /> theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. Ở thời kỳ Bắc<br /> thuộc, chữ Hán cùng với chữ Nôm đã phát triển<br /> mạnh mẽ, đủ để lưu lại cho ngày nay nhiều trước<br /> tác, dịch phẩm liên quan đến sử học, văn học,<br /> phật học, y học v.v... Đến thời kỳ độc lập tự chủ,<br /> trải qua các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần,<br /> Hồ, hậu Lê, Nguyễn, chữ Hán đóng vai trò công<br /> cụ hàng đầu của văn học bác học của Việt Nam;<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 50 Số 2 - 7/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> là văn tự chính thống trong lĩnh vực văn hóa xã triển. Với ý nghĩa đó, văn hoá chữ Hán từ lâu đã<br /> hội như hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn trở thành tài sản tinh thần chung không chỉ của<br /> học v.v... Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, mà<br /> chữ Nôm vẫn lệ thuộc vào chữ Hán trên phương của cả nhân loại trên toàn thế giới.<br /> diện cấu tạo; văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn át<br /> được văn hóa chữ Hán dưới triều đại phong kiến. Văn hoá cổ đại Trung Quốc phong phú, từ lâu đã<br /> Cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, cùng với sự có ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trong khu<br /> đổi thay của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chế độ vực. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng<br /> phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa giềng gần gũi, núi liền núi sông liền sông, giao<br /> phong kiến, kéo theo tình trạng văn hóa phong lưu văn hoá có từ rất sớm. Xã hội phong kiến Việt<br /> kiến Việt Nam vốn mang tính chất khu vực bị thay Nam, nhất là tầng lớp trí thức chịu ảnh hưởng sâu<br /> thế bằng văn hóa tư sản, sau đó là văn hóa vô sản sắc tư tưởng văn hóa cổ đại Trung Quốc mà chủ<br /> mang tính chất toàn cầu. Từ đó chữ Hán cùng yếu là tư tưởng Nho giáo.<br /> với nền Hán học truyền thống lâm vào suy thoái.<br /> Năm 1070 nhà Lý xây dựng Văn miếu ở thành<br /> Năm 1915 Miền Bắc bỏ khoa thi chữ Hán. Năm<br /> Thăng Long và khởi xướng việc tôn thờ Khổng<br /> 1918 Miền Trung bỏ thi Hương, năm 1919 bỏ thi<br /> Tử. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu<br /> Hội. Ở Miền Nam việc bỏ các kỳ thi chữ Hán đã tiên, tuyển chọn những người giỏi về Nho học.<br /> diễn ra sau khi thực dân Pháp chiếm đóng. Tiếp đó nhà Lý lại cho xây Quốc tử giám, thành<br /> lập Hàn lâm học viện, Mật thư các. Vị thế của Nho<br /> Cùng với sự phát triển của xã hội nói chung, văn<br /> học ngày càng được đề cao, tầng lớp Nho sĩ được<br /> hoá phong kiến Việt Nam đã bị thay thế bằng<br /> trọng dụng, nắm giữ những trọng trách trong bộ<br /> văn hoá hiện đại, chữ Hán đã không còn là chữ<br /> máy lãnh đạo của nhà nước phong kiến. Đến thời<br /> viết của người Việt Nam nữa, những văn tịch cổ<br /> kỳ nhà Trần (1225-1400), Nho học bắt đầu giữ vai<br /> của người Việt Nam cũng đã trở thành tư liệu lịch<br /> trò chủ đạo trong hệ tư tưởng phong kiến Việt<br /> sử đặc thù, ít người hiểu và sử dụng. Từ sau năm<br /> Nam. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xây dựng<br /> 1945, thì đại đa số người Việt Nam không còn sử một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, chế độ khoa<br /> dụng chữ Hán, thậm chí có người còn cho rằng, cử nghiêm ngặt, đặc biệt nội dung dạy học và thi<br /> “Hán tự không phải là thứ chữ viết của người Việt cử đều lấy từ những tác phẩm kinh điển của Nho<br /> Nam, mà chỉ là một thứ chữ vay mượn trong một học. Tầng lớp quan lại xuất thân từ Nho sĩ ngày<br /> giai đoạn lịch sử, do đó không thể nào chấp nhận đông đảo, chiếm ưu thế trong bộ máy thống trị<br /> những những tác phẩm Hán văn cũng như bất kỳ của nhà nước phong kiến Việt Nam. Những bậc<br /> một tác phẩm ngoại ngữ nào khác vào trong văn đại Nho như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Phạm Sư<br /> học Việt Nam”, vì thế mà lâu nay nghiên cứu về Mạnh v.v… là những người có những đóng góp<br /> văn hóa truyền thống chữ Hán của Việt Nam là to lớn trong việc truyền bá Nho học ở Việt Nam.<br /> lĩnh vực ít được quan tâm, số lượng và chất lượng<br /> những bài viết về mảng đề tài này luôn ở mức Nho học bắt đầu từ Khổng Tử, trải qua hàng ngàn<br /> khiêm tốn. năm phát triển nên nội dung của Nho học ở những<br /> thời đại khác nhau không hoàn toàn giống nhau,<br /> Từ ngàn xưa đến nay, dân tộc Việt Nam và dân ngay cả khi cùng trong một thời đại cũng tồn tại<br /> tộc Trung Hoa không ngừng sáng tạo văn hoá, nhiều trường phái Nho học khác nhau, chính vì<br /> đồng thời thông qua hợp tác giao lưu quốc tế thế khái niệm Nho học hàm chứa nhiều nội dung<br /> làm cho nội hàm văn hoá của mỗi dân tộc ngày phức tạp. Đơn cử một ví dụ, khi bàn về tính cách<br /> càng đa dạng và phong phú. Văn hoá bản thân của con người, Nho học có nhiều cách giải thích<br /> nó mang tính truyền bá và hun đúc, nó giống như khác nhau như: tính thiện; tính ác; thiện ác hoà<br /> một dòng chảy cuốn trôi tất cả những tư tưởng trộn v.v. Cũng do vậy mà các học thuyết về chính<br /> bảo thủ hòng cản trở quá trình giao lưu hội nhập trị, đạo đức xây dựng trên cơ sở những quan điểm<br /> giữa các dân tộc. Tách khỏi quá trình giao lưu văn ấy càng phức tạp, thậm chí là mâu thuẫn nhau. Dù<br /> hoá chúng ta sẽ khó sống, càng không thể phát vậy, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Nho<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 2 - 7/2016 51<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> học vẫn cứ giữ được những sắc thái riêng không là chắp vá, làm theo thể lệ sách “Xuân thu” dám<br /> giống với bất cứ trường phái tư tưởng nào khác, mong ngôn từ nghiêm cẩn”. “Xuân thu” là cuốn<br /> điều ấy phần nào nói lên rằng Nho học cho dù sách sử biên niên của Trung Quốc, sau khi được<br /> ở thời đại nào, đất nước nào cũng đều có những Khổng Tử chỉnh sửa đã trở thành cuốn sách sử<br /> đặc trưng cơ bản giống nhau. Nhìn một cách mang đậm tư tưởng Nho giáo, khuyên người ta<br /> tổng thể thì Nho học có mấy đặc trưng cơ bản là: nên làm điều thiện, từ bỏ điều ác. Cuốn “Sử ký”<br /> Tôn sùng Khổng Tử, cho rằng Khổng Tử là ngưòi của Tư Mã Thiên là bức tranh lịch sử sống động về<br /> đầu tiên sáng lập ra Nho giáo và phàm những tư một đất nước Trung Hoa cổ đại, không chỉ có giá<br /> tưởng trái ngược với tư tưởng của Khổng Tử đều trị to lớn về mặt sử học, mà còn là một tuyệt tác<br /> không thuộc Nho học; coi Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh trong kho tàng văn học Trung Quốc. Bút pháp của<br /> Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu, Kinh Dịch là những Tư Mã Thiên có ảnh hưởng sâu rộng tới các thế<br /> tác phẩm kinh điển của Nho học; coi đạo đức là hệ sử gia đời sau. Là người tinh thông Hán học,<br /> sự phản ánh giá trị cuộc sống; lấy việc tích đức để nhà sử học Ngô Sĩ Liên chắc hẳn cũng muốn cuốn<br /> trở thành thánh nhân là mục tiêu phấn đấu; chủ “Đại Việt sử ký toàn thư” của ông ngang tầm thời<br /> trương lấy nhân đức để trị dân. đại, và sự thật nó đã trở thành một tác phẩm mẫu<br /> mực trong kho tàng sử học Việt Nam. Tầng lớp tri<br /> Chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh vào thời thức phong kiến Việt Nam có thế giới quan, nhân<br /> kỳ nhà Lê (1428-1527), giai cấp thống trị lấy Nho sinh quan và phương pháp tư duy độc đáo chính<br /> học làm tư tưởng chỉ đạo trong việc giữ nước trị do được tôi luyện bằng tư tưởng Nho giáo. Luân<br /> dân, lấy Nho học làm cơ sở lý luận để xây dựng lý Nho giáo đã góp phần không nhỏ bồi dưỡng<br /> các luật lệ, chế độ của nhà nước, coi tư tưởng nên những phẩm chất cao quí của người Việt<br /> Nho giáo là khuôn vàng thước ngọc mà trên dưới Nam như trọng tín nghĩa, trọng khí tiết, kính già<br /> đều phải tuân theo. Nền giáo dục dưới thời nhà trọng hiền…<br /> Lê phát triển vượt bậc về mọi mặt, đào tạo ra đội<br /> ngũ nho sĩ đông đảo. Quốc tử giám, Thái học viện Trong quá trình giao lưu văn hóa luôn tồn tại<br /> trở thành cơ quan giáo dục cao nhất trong cả vấn đề vị thế cao thấp giữa các nền văn hóa, nền<br /> nước, các phủ, châu, huyện đều xây dựng trường văn hóa tân tiến hơn thường có những tác động<br /> học. Các trường học đều lấy các tác phẩm kinh không nhỏ đến những nền văn hoá lạc hậu hơn.<br /> điển của Nho giáo làm tài liệu dạy học, việc thi Tuy không có sự phân biệt văn hóa tốt xấu, nhưng<br /> cử ngày càng chính quy và được tổ chức thường sự khác nhau về trình độ là rất rõ ràng. Quá trình<br /> xuyên hơn. Từ năm 1487, nhà vua đích thân ra giao lưu văn hóa luôn mang xu thế hai chiều, tức<br /> đề thi điện, cử hành lễ xướng danh, lễ vinh quy vừa chịu ảnh, lại vừa phát sinh ảnh hưởng. Lịch<br /> và lập bia tiến sĩ tại Văn miếu. Nhà nước phong sử cũng đã chứng minh, những biện pháp cưỡng<br /> kiến Việt Nam tích cực xúc tiến các hoạt động bức xâm lược hay thôn tính văn hóa đều là vô<br /> giáo dục xã hội với nội dung chủ yếu là các quan hiệu, chỉ có bình đẳng giao lưu mới là con đường<br /> điểm luân lý đạo đức của Nho giáo. Vua Lê Huyền tốt nhất để phát triển văn hóa. Các dân tộc cần<br /> Tông (1663-1671) từng tuyên truyền rằng: “làm phải thông qua giao lưu đối thoại để giải quyết<br /> thần phải tận trung, làm con phải tận hiếu, anh những xung đột về văn hóa, cố gắng giảm thiểu<br /> em phải hoà thuận, vợ chồng phải quý mến…” những hậu quả tiêu cực. Để tiến hành giao lưu<br /> càng làm cho tư tưởng Nho giáo phổ cập đến văn hóa, thì đại biểu của mỗi nền văn hóa cần<br /> toàn dân, thâm nhập vào đời sống tinh thần của được đặt trong bối cảnh chung của văn hóa khu<br /> dân chúng. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều nhà vực, trong quá trình so sánh với các nền văn hóa<br /> nho nổi tiếng như Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê khác đánh giá lại chính mình và hiểu rõ hơn về<br /> Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v… Đọc những các nền văn hóa trong khu vực, trên cơ sở đó phát<br /> tác phẩm của họ dù là thơ ca hay sử ký đều chất huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân<br /> chứa những tư tưởng Nho học. Ngô Sĩ Liên trong tộc và tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế<br /> “Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “học giới. Việc nghiên cứu những ảnh hưởng giữa các<br /> cách viết biên niên của “Sử ký” nhưng thẹn vì chỉ nền văn hóa khác nhau không ngoài mục đích<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 52 Số 2 - 7/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> giới thiệu với thế giới những nét đặc sắc của văn sử văn học Việt Nam như một trong những áng<br /> hóa mỗi dân tộc, xác định rõ giá trị và vị trí của hùng văn tiêu biểu nhất, một bản anh hùng ca<br /> nó trong văn hóa cộng đồng các dân tộc. Cùng yêu nước bất diệt. Rất nhiều những tác phẩm văn<br /> với điều đó, chúng ta sẽ học hỏi được nhiều hơn học viết bằng chữ Hán thời kỳ này vừa có nghệ<br /> những nét đẹp về văn hóa từ những dân tộc khác, thuật tinh diệu, lại vừa có tư tưởng lớn, thể hiện<br /> tìm kiếm những quy luật có thể áp dụng trong được tầm vóc tâm hồn và ý chí của dân tộc, khi<br /> hoạt động học tập của chúng ta. thịnh thì hào sảng, khi suy thì thâm trầm, chiêm<br /> nghiệm, nghĩ suy. Thời Trần, Nho giáo đã chiếm<br /> Trên thực tế, nghiên cứu ảnh hưởng ngôn ngữ địa vị trọng yếu, nhưng lại có sự hòa điệu của tam<br /> thuộc phạm trù giao lưu văn hoá, và nó được phát giáo đồng nguyên. Nho, Phật, Lão có khi được<br /> triển trên cơ sở của việc giao lưu văn hoá ngày biểu hiện rất sinh động trong một bài thơ cụ thể,<br /> càng sôi động. Thông qua việc nghiên cứu ảnh ví như bài thơ Yên Tử sơn am cư của Huyền Quang<br /> hưởng ngôn ngữ, nền văn hóa chữ Hán rực rỡ của Lý Đạo Tái, khi ông đã bỏ quan lên núi Yên Tử tu<br /> Việt Nam có cơ hội để trở thành tài sản tinh thần thiền, rồi trở thành vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc<br /> chung của nhân dân thế giới, phát huy vai trò tích Lâm Yên Tử. Đó chính là điểm thú vị, hiếm thấy ở<br /> cực trong tiến trình giao lưu hội nhập văn hóa thế thơ văn các triều đại khác.<br /> giới. Bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có những giá<br /> trị thẩm mỹ riêng, mỗi dân tộc đều có cách sáng Vấn đề thực tiễn đang đặt ra là, trong quá trình<br /> tạo độc đáo của mình, và mỗi nền văn hóa cũng phát triển đất nước, việc gìn giữ và phát huy giá<br /> đều có những quy luật phát triển không giống trị văn hóa truyền thống của dân tộc có xu hướng<br /> với những nền văn hóa khác. chạy theo phong trào, làm nghèo nàn bản sắc<br /> văn hóa vốn có của các dân tộc. Đây là nguy cơ tự<br /> Văn hóa truyền thống chữ Hán là quý giá và đánh mất mình, đánh mất những giá trị văn hóa<br /> thiêng liêng, nó tạo nên nét đặc thù của một dân truyền thống quí báu của dân tộc trong quá trình<br /> tộc ngàn năm văn hiến. Nó được hình thành trong phát triển kinh tế-xã hội. Nguyên nhân sâu xa của<br /> lịch sử lâu dài, được đúc kết từ kinh nghiệm sống, vấn đề này chính là ý thức tự tôn dân tộc và ý thức<br /> được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tồn tại tự nhiên giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự có<br /> không ép buộc, có khi thể được biểu hiện ra bên chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần của<br /> ngoài nhưng cũng có khi ẩn sâu trong tâm hồn người dân. Công tác giáo dục, tuyên truyền và<br /> người Việt. Những tác phẩm văn học viết bằng biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa<br /> chữ Hán là tài sản vô giá của cha ông ta để lại. thật sự đi vào chiều sâu một cách có hệ thống,<br /> Chúng ta chỉ mới tôn vinh, biểu dương những tác mới chỉ là những giải pháp tình thế trước mắt.<br /> phẩm tiêu biểu cho hào khí dân tộc, đó cũng là<br /> điều dễ hiểu, nhưng một nền văn học được xem Giao lưu quốc tế là một quá trình chứa đựng<br /> là hoàn thiện, không phải chỉ có những tráng ca. nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt<br /> Những mất mát đau thương, những nỗi thống tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, tạo ra<br /> khổ của dân đen, những suy tư trăn trở về nhân một môi trường phát triển, đồng thời cũng phân<br /> tình thế thái vẫn chưa được đánh giá đầy đủ, chưa chia thế giới thành hai cực giàu nghèo, dẫn đến sự<br /> được nhìn nhận đúng với giá trị đích thực của nó. phụ thuộc khó tránh khỏi của các nước kém phát<br /> Thơ văn viết bằng chữ Hán của ông cha ta, tuy triển vào các nước phát triển. Đó cũng là nguyên<br /> chưa thể cẩn luật bằng thơ Đường, nhưng nó là nhân của sự bất bình đẳng giữa các quốc gia dân<br /> tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Thời Lý - tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình<br /> Trần, từ thống soái tối cao như Trần Hưng Đạo, đẳng này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh<br /> Trần Quang Khải... đến các tướng lĩnh như Phạm tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, quá<br /> Ngũ Lão, Trương Hán Siêu… đều đồng thời là trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm<br /> những nhà văn, nhà thơ rất nổi tiếng. Trần Hưng phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình<br /> Đạo, chỉ với bài Hịch tướng sĩ cũng đã đủ tạo nên thành lối sống hưởng thụ, coi nhẹ những giá trị<br /> một tượng đài văn học. Hịch tướng sĩ đi vào lịch tinh thần thuộc về dân tộc. Trong điều kiện kinh<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 2 - 7/2016 53<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, nêu thách và phát triển ngày càng vững mạnh. Những<br /> cao tinh thần tự tôn dân tộc không chỉ để khẳng giá trị tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những<br /> định mình với dân tộc khác mà còn giúp chung nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng<br /> ta có thái độ đúng mực với cái mới, cái hiện đại, yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập. Ngày<br /> không quá tự ti hay quá tự cao tự đại để khép kín, nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù<br /> bảo thủ hay phủ định sạch trơn những giá trị văn xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát<br /> hóa truyền thống trước cái mới lạ xâm nhập từ triển về mọi mặt để có thể “bình đẳng” cùng các<br /> bên ngoài trong quá trình hội nhập quốc tế. Giữ dân tộc khác trên trường quốc tế, yêu nước là để<br /> gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc bảo vệ sự ổn định không chỉ cho mỗi dân tộc mà<br /> là để khẳng định sự độc lập tự chủ của dân tộc về còn cho một thế giới tốt đẹp hơn.<br /> mọi mặt, đồng thời cũng tạo niềm tin và là cơ sở<br /> vững chắc cho các quan hệ hợp tác quốc tế. Được biết mới đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã<br /> cho ra mắt cuốn Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập<br /> Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống thành, công trình là kết quả của sự hợp tác khoa<br /> chữ Hán của dân tộc là hướng tới một nền văn học của nhiều đơn vị và cá nhân trong và ngoài<br /> hóa dân tộc đa dạng, phong phú về sắc thái chứ nước, trong đó có Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Đại<br /> không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống học Sư phạm Thượng Hải, Đại học Thành Công<br /> nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú về Đài Loan (Trung Quốc) và Trung tâm Nghiên cứu<br /> bản sắc là một thuộc tính của văn hóa, thể hiện Khoa học xã hội (Cộng hòa Pháp). Việt Nam Hán<br /> khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những văn tiểu thuyết tập thành gồm 20 tập do Nhà xuất<br /> điều kiện lịch sử cụ thể. Hội nhập quốc tế, một bản Cổ tịch Thượng Hải, Trung Quốc ấn hành,<br /> mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc được phân thành 5 loại lớn: Tiểu thuyết Thần<br /> được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, thoại như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập<br /> cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, gồm 17 loại; Tiểu thuyết truyền kỳ như Truyền kỳ<br /> về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Giữ mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Việt Nam kỳ phùng sự<br /> gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân lục gồm 14 loại; Tiểu thuyết lịch sử như Hoàng Việt<br /> tộc phải gắn liền với chống lạc hậu, lỗi thời “trong xuân thu, Việt Nam khai quốc chí truyện, An Nam<br /> phong tục, tập quán”, đồng thời phải biết bổ sung nhất thống chí, Hoan Châu ký  gồm 5 loại; Tiểu<br /> và phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đời thuyết bút ký như Nam quốc dị khai lục, Đại Nam<br /> sống hiện đại. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa kỳ truyện, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Nhân<br /> truyền thống dân tộc là để xây dựng một nền văn vật chí gồm hơn 10 loại; Tiểu thuyết cận đại, tập<br /> hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở hợp tiểu thuyết Hán văn trong  Nam phong tạp<br /> phát huy tính sáng tạo của dân tộc. Mọi sự thụ chí...  Hơn 80 tác phẩm tiểu thuyết Hán văn Việt<br /> động, bảo thủ, trì trệ đều kìm hãm phát triển. Chỉ Nam được biên tập, nghiên cứu và giới thiệu lần<br /> có tư duy sáng tạo, chúng ta mới làm chủ được này với tiêu đề Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập<br /> quá trình giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, kế thành do Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải ấn<br /> thừa và phát triển, mối quan hệ giữa cái cũ và cái hành có một qui mô rất lớn, là nguồn tài liệu mới<br /> mới, cái truyền thống và cái hiện đại. quý báu vô giá của giới học thuật, nhằm quảng bá<br /> văn hóa Việt Nam với bạn đọc trên thế giới. Cuốn<br /> Trải qua thăng trầm của lịch sử, mỗi dân tộc hun Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập thành  ra đời là<br /> đúc cho mình rất nhiều giá trị văn hóa trở thành biểu hiện sinh động của hoạt động hợp tác cùng<br /> truyền thống tốt đẹp. Những truyền thống đó nhau gìn giữ và phát huy những giá trị quý báu<br /> được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với của di sản văn hóa truyền thống chữ Hán Việt<br /> điều kiện mới và đáp ứng những yêu cầu phát Nam trong bối cảnh giao lưu văn hoá khu vực và<br /> triển của lịch sử. Trong thực tế, nhiều những giá quốc tế.<br /> trị nhân văn sâu sắc tiềm ẩn trong di sản Hán Nôn<br /> Việt Nam đã tỏa sáng và trở thành sức mạnh tinh Di sản văn hóa truyền thống chữ Hán là tài sản<br /> thần to lớn để dân tộc ta vượt qua khó khăn thử quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc,<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 54 Số 2 - 7/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn 5. 郭延以 (1987)《中越文化论集》,台湾中华<br /> hóa phi vật thể. Di sản văn hóa truyền thống chữ 文化出版事业。<br /> Hán không chỉ là cơ sở để liên kết cộng đồng, mà<br /> còn là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa 6. 林明华 (1984)《越南文字浅谈》,《中国东<br /> mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với 南亚研究会通讯》,第1期。<br /> các dân tộc khác trên thế giới. Những giá trị của<br /> văn hóa truyền thống không chỉ nhằm thoả mãn 7. 塔 娜 (1983)《越南科举制的产生和发展》<br /> nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng ,《印支研究》,第4期。<br /> định niềm tự hào dân tộc, mà còn là nguồn lực để<br /> 8. 吴士连 (1998)《大越史记全书》,河内社会<br /> phát triển kinh tế - xã hội. Việc giáo dục tinh thần<br /> 科学出版社。<br /> yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc qua hệ thống<br /> di sản văn hóa truyền thống chữ Hán có ý nghĩa<br /> đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay.<br /> Chính vì vậy, đầu tư cho việc gìn giữ và phát huy PRESERVATION AND PROMOTION OF THE<br /> những giá trị văn hóa truyền thống nói chung và TRADITIONAL AND CULTURAL VALUES OF<br /> văn hóa truyền thống chữ Hán nói riêng là công CHỮ HÁN (OLD CHINESE SCRIPT)<br /> việc vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần phải được tiến<br /> hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.<br /> Abstract: Language is a significant means to<br /> Trong bài viết này, tác giả cũng không định chỉ convey culture. Han ideogram culture has for<br /> đơn thuần chỉ ra những điểm dị đồng trong các a long time become common property of the<br /> hiện tượng ngôn ngữ và văn hóa, mà muốn thảo human spirit. There is no cultural discrimination<br /> luận và hiểu sâu sắc hơn những vấn đề mang in the process of cultural exchange. The study<br /> tính quy luật trong giao lưu văn hóa chữ Hán nói on influences between different cultures is to<br /> chung, tìm kiếm những phương thức hiệu quả introduce to the world the unique characteristics<br /> nhất trong việc giao lưu và học hỏi lẫn nhau giữa of individual nations, as well as to look into<br /> các dân tộc, nhằm góp phần làm phong phú và issues and find out rules in cultural exchanges,<br /> phát triển ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Chúng contributing to preserving and promoting the<br /> ta chỉ có thể gìn giữ và phát huy những giá trị văn cultural characteristics of nations.<br /> hóa truyền thống chữ Hán của Việt Nam khi đã<br /> nhận thức đầy đủ ý nghĩa và xác định rõ vị trí của Keywords: Han ideogram, cultural exchange<br /> nó trong lịch sử phát triển của văn hóa khu vực<br /> và thế giới, bởi lẽ bất kỳ một nền văn hoá nào<br /> đơn độc và bưng bít đều sẽ bị nhân loại bỏ qua Ngày nhận: 23/5/2016<br /> và lãng quên./. Ngày phản biện: 14/7/2016<br /> Ngày duyệt đăng: 21/7/2016<br /> Tài liệu tham khảo:<br /> <br /> 1. Trần Văn Giáp (1971), Tìm hiểu kho sách Hán<br /> Nôm, Thư viện Quốc gia Hà Nội.<br /> <br /> 2. Trần Nghĩa (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam thư<br /> mục đề yếu, Nxb Khoa học Xã hội.<br /> <br /> 3. Lê Sĩ Thắng (1994) Nho giáo Việt Nam, Nxb Khoa<br /> học Xã hội.<br /> <br /> 4. 陈玉龙 (1993)《汉文化论纲》,北京大学出<br /> 版社。<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 2 - 7/2016 55<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2