TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ TIẾN THỤY<br />
Self-deprecating tone in Do Tien Thuy’s novels<br />
<br />
Trần Văn Hải<br />
Trường THPT Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q.11, TP.HCM<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Giọng điệu có vai trò quan trọng trong nghệ thuật tự sự. Nó không chỉ thể hiện thái độ, tình cảm, lập<br />
trường, tư tưởng, đạo đức trước hiện thực cuộc sống mà còn mang tính chất riêng biệt, độc đáo của mỗi<br />
tác giả. Nhà văn Đỗ Tiến Thụy đã xác lập được giọng điệu tự sự mang dấu ấn của mình ở thể loại tiểu<br />
thuyết. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu giọng điệu triết luận, giễu nhại, trữ tình qua hai<br />
tác phẩm mà anh dành nhiều tâm huyết là Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z.<br />
Từ khóa: giọng điệu, giễu nhại, triết luận, trữ tình, Đỗ Tiến Thụy<br />
Abstract<br />
The tone plays a very important role in the art of narrative. It not only shows the attitude, feeling,<br />
viewpoint, ideal, morality towards reality but also contains the uniqueness, individuality of every<br />
author. The author Do Tien Thuy has established a narrative tone carrying his own remark in the novel<br />
genre. This article focuses on understanding the cynical, philosophical and romantic tone through two<br />
works of his enthusiasm, including “Color of forest field” and “The joong flies from A to Z”.<br />
Keywords: tone, cynical, philosophical, romantic, Do Tien Thuy<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu chúng ta sẽ nhận ra “khuôn mặt nhà văn”<br />
Nhà văn Marquer phải mất tới năm với bao trăn trở, day dứt trước hiện thực<br />
năm mới tìm ra giọng điệu thích hợp cho ngổn ngang của đời sống. Với bài viết này,<br />
tác phẩm kinh điển Trăm năm cô đơn. Đó chúng tôi hi vọng sẽ giúp cho độc giả nói<br />
chỉ là một trong rất nhiều ví dụ điển hình chung và những người làm công tác nghiên<br />
để thấy được quá trình khó khăn, gian khổ cứu văn học nói riêng củng cố thêm hiểu<br />
mà các nhà văn đi tìm kiếm, kiến tạo nên biết về giọng điệu trong tác phẩm tự sự, hỗ<br />
giọng điệu tự sự cho những “đứa con tinh trợ đắc lực cho việc dạy - học Ngữ văn<br />
thần” của mình. Với khả năng văn chương cũng như thấy được những giá trị còn ẩn<br />
trời phú cùng sự lao động nghệ thuật chăm tàng trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy.<br />
chỉ, miệt mài, Đỗ Tiến Thụy đã sớm định 2. Nội dung<br />
hình được những giọng điệu chủ yếu trong 2.1. Khái lược về giọng điệu tự sự<br />
hai cuốn tiểu thuyết đầu tay là Màu rừng Giọng và giọng điệu là hai thuật ngữ<br />
ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z. dùng để chỉ mặt âm thanh của tác phẩm<br />
Khi đi sâu tìm hiểu về các giọng điệu ấy, văn học. Ở bài báo Giọng và giọng điệu<br />
Email: tranvanhai438@gmail.com<br />
69<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br />
<br />
<br />
trong văn xuôi hiện đại, Lê Huy Bắc trọn vẹn, tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn đối<br />
(1998) đã phân biệt như sau: “Giọng là âm với độc giả.<br />
thanh được xét ở góc độ vật lí như cường 2.2. Sự thể hiện giọng điệu tự sự<br />
độ, trường độ, cách phối âm, âm lượng.v.v. trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy<br />
Giọng điệu là âm thanh được xét ở góc độ 2.2.1. Giọng điệu triết luận<br />
tâm lí, biểu hiện thái độ buồn, vui, giận, hờ Giọng điệu triết luận là giọng điệu<br />
hững…”. Các tác giả trong Từ điển thuật thiên về luận bàn, lí giải những vấn đề của<br />
ngữ văn học định nghĩa: “Giọng điệu là đời sống, nhằm khám phá bản chất, quy<br />
thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo luật của nó. Sự khám phá này bắt đầu từ<br />
đức của nhà văn đối với hiện tượng được những hiện tượng cụ thể để đạt tới chân lí<br />
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định mang tầm phổ quát. Trong các thể loại văn<br />
cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu học nói chung và tiểu thuyết nói riêng, triết<br />
tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, luận luôn là giọng chủ. Nó được sử dụng<br />
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm như một phương thức nghệ thuật hữu hiệu<br />
biếm…” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, và để người nghệ sĩ nghiền ngẫm, suy tư, luận<br />
Nguyễn Khắc Phi, 2010, tr.134). Còn Lê bàn về hiện thực nhân sinh trong xã hội.<br />
Ngọc Trà (2005) thì cho rằng: giọng điệu Qua giọng điệu này, chúng ta có thể nhận<br />
trong tác phẩm văn học “mang tính tổng ra nhà văn ấy là người có nhiều kinh<br />
hợp và độc đáo rất cao. Trong giọng thể nghiệm sống, có chiều sâu tư tưởng và độ<br />
hiện cả nhận thức, thái độ, lối sống và cả chín về tài năng hay không.<br />
nội lực của nhà văn. Đồng thời, giọng cũng Giọng điệu triết luận trong tiểu thuyết<br />
là cái không lẫn vào đâu được”. Từ những của Đỗ Tiến Thụy được thể hiện bằng<br />
cách hiểu trên, chúng ta thấy giọng điệu nhiều phương thức khác nhau. Chúng có<br />
trong tác phẩm tự sự (truyện, tiểu thuyết, kí thể là những triết lí đã trở thành “khuôn<br />
sự…) phải thể hiện quan điểm, thái độ của vàng thước ngọc” của cổ nhân được phát<br />
nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Nó ngôn qua những kiểu câu mang tính khẳng<br />
giống như một phạm trù thẩm mĩ, quy định định. Độc giả hẳn còn nhớ ông giáo Tiến –<br />
các sắc thái tình cảm được chuyên chở qua cha của nhân vật Vinh trong Màu rừng<br />
hệ thống ngôn ngữ, bối cảnh phát ngôn, ruộng. Khi nhìn cảnh con trai mình không<br />
chủ thể phát ngôn. đỗ đạt thành tài mà lại vác cày, dẫn trâu ra<br />
Giọng điệu có vai trò quan trọng trong vỡ đất hoang ven sông trồng hoa hồng thì<br />
các tác phẩm tự sự. Nó không chỉ là yếu tố ông đau đớn, xót xa. Ông gọi Vinh vào và<br />
hàng đầu trong việc xác lập phong cách nói: “Làm trai phải hùng tâm tráng chí núi<br />
nhà văn mà còn góp phần “làm thành bản rộng sông dài. Con phải học nữa để mà thi<br />
sắc của một trào lưu, một trường phái hay thố với năm châu bốn bể chứ bằng lòng ở<br />
một thời đại văn học” (Nguyễn Thị Bình, nhà như thế khác nào kiếp ếch, có ềnh<br />
2007, tr.182). Qua giọng điệu, chúng ta có oang cho lắm cũng chỉ vang động được<br />
thể phán đoán được hoàn cảnh sống, phẩm đáy ao làng…” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a,<br />
chất, tính cách, thế giới nội tâm của các tr.69). Người cha dạy con mình phải hùng<br />
nhân vật. Ngoài ra, nó còn liên kết với các tâm tráng chí, phải biết nghĩ lớn, làm lớn<br />
yếu tố hình thức khác của tác phẩm để góp mới xứng với thân nam nhi. Muốn như<br />
phần hình thành một chủ thể nghệ thuật vậy, con phải cố gắng học hành để thi thố<br />
<br />
<br />
70<br />
TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
với năm châu bốn bể chứ cứ ru rú ở nhà chỉ con cháu được thụ hưởng (Thái tông hưởng<br />
như kiếp ếch sống tù túng, trói buộc dưới công) nhưng càng về sau chúng lại ăn chơi<br />
đáy ao làng mà thôi. Giọng điệu của ông sa đọa (Nhân tông lông bông) khiến cho cơ<br />
giáo thấm đẫm tinh thần Nho gia. Nó gợi ta đồ sụp đổ (Thần tông phá hỏng). Giọng<br />
nhớ về những tín điều mà các bậc túc nho điệu của cụ Trưởng đầy tính triết luận của<br />
ngày xưa dạy người đàn ông phải biết: “tu một người am hiểu về thời thế, về lẽ hưng<br />
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân – vong ở đời. Chúng ta còn bắt gặp những<br />
vật cụ Tướng trong tiểu thuyết Con chim lời giáo huấn mà cụ dành cho Khoa khi<br />
joong bay từ A đến Z cũng răn dạy con biết ông quyết định ở rể: “dâu là con, rể là<br />
cháu mình về một ngôi nhà đúng nghĩa cần khách. Đàn ông muốn được nhà vợ tôn<br />
có bốn yếu tố thiết yếu: “Mộc - Nhân - Vân trọng thì phải độc lập tự chủ. Anh phải có<br />
- Mây”. Cụ nói: “Đó là bốn tiêu chí căn cơ ngơi riêng. Dù có phải ở lều che lá<br />
bản cần phải có ở mỗi ngôi nhà. Một ngôi chuối cũng là cơ ngơi của mình” (Đỗ Tiến<br />
nhà sẽ không ra ngôi nhà nếu thiếu cây, Thụy, 2017b, tr.269). Cụ Trưởng đã nhìn<br />
thiếu người, thiếu khoảng không và thiếu thấu được thân phận bọt bèo của người đàn<br />
vật nuôi” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.47). ông mang thân đi ở rể. Họ chỉ là khách, là<br />
Bài học tưởng như giản đơn đó nhưng người ngoài và không nhận được sự tôn<br />
không phải ai cũng nhớ, cũng thực hiện trọng của nhà vợ. Cụ mong muốn Khoa<br />
được khi làm nhà, khi dựng xây không khí phải sống độc lập tự chủ, phải có cơ ngơi<br />
gia đình. Nó là triết lí về sự hài hòa giữa riêng dù là lều che lá chuối. Có như vậy, vị<br />
con người và thiên nhiên. Khi sự hài hòa thế của ông trong gia đình mới được giữ<br />
ấy luôn được lưu giữ, cố kết thì không khí vững, mới dám ngẩng cao đầu mà nhìn vào<br />
gia đình sẽ thoải mái, yên bình, hạnh phúc. bàn dân thiên hạ. Trong suy nghĩ của nhiều<br />
Giọng điệu triết luận hiện diện qua người thời nay, triết lí của cụ Trưởng có<br />
những lời nhận xét, đánh giá được đúc kết phần đã lỗi thời. Thế nhưng, đặt vào hoàn<br />
từ kinh nghiệm dân gian và sự trải nghiệm cảnh của nhân vật Khoa, lời nhắc nhở đó<br />
mang tính cá nhân. Trong tác phẩm Con quả không thừa. Phải sau khi chịu đựng<br />
chim joong bay từ A đến Z, khi cụ Tướng biết bao điếm nhục ở nhà vợ, ông mới thấm<br />
đến thăm nhà cụ Trưởng (cha ruột của thía. Cũng trong tác phẩm này, nhân vật<br />
Khoa) nhân dịp Tết đến xuân về, mọi Cậu Gấu đã có những triết luận mang tính<br />
người đã tranh luận sôi nổi về công cuộc tự nghiệm và được phát ngôn qua những<br />
chống tham nhũng mà cụ Tướng là người cuộc đối thoại mang tính xung đột cao. Dù<br />
phát động. Kết thúc cuộc tranh luận, cụ nhiều lần bị ông ngoại dùng ngôn ngữ tấn<br />
Trưởng đã làm một bài vè nghe rất đơn công áp đảo nhưng cậu cũng đủ lanh lợi để<br />
giản nhưng thâm sâu về ý nghĩa: “Thái tổ “phản đòn” bằng giọng điệu rất tự tin. Cụ<br />
gian khổ/Thái tông hưởng công/Nhân tông thể như khi ông ngoại yêu cầu cậu vào làm<br />
lông bông/Thần tông phá hỏng” (Đỗ Tiến trong cơ quan công quyền để đóng góp cho<br />
Thụy, 2017b, tr.95). Qua bài vè, cụ Trưởng đất nước, cho xứng đáng với truyền thống<br />
ngầm nhắc nhở thông gia nhà mình phải gia đình, cậu đã lập luận: “Vả lại, ông thử<br />
tỉnh táo mà suy xét, cẩn thận kẻo đi theo nghĩ xem, cháu làm sao có thể làm được<br />
vết xe đổ của lịch sử. Các thế hệ đi trước ra việc với đám con ông cháu cha đang ken<br />
sức gây dựng cơ đồ (Thái tổ gian khổ) để chật cứng trong cơ quan công quyền.<br />
<br />
<br />
71<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br />
<br />
<br />
Những kẻ ấy óc bằng quả nho nhưng bụng phụ thuộc nhưng không kém phần mờ ám<br />
đố kị to bằng quả mít. Nếu vào đấy, muốn mà những người sống ngay thẳng như ông<br />
được yên ổn cháu cũng sẽ phải sáng cắp ô Khoa ít khi được nghe. Nó vạch rõ bản<br />
tới cơ quan mở máy tính ra đọc báo chơi chất thực tế của những mối quan hệ chính<br />
games, tối vác ô về lại vào mạng bình luận yếu đang vận hành trong xã hội.<br />
ba lăng nhăng, nói xấu lãnh đạo, than thân Giọng điệu triết luận còn được thể hiện<br />
anh hùng không có đất dụng võ…” (Đỗ qua lời bình luận trữ tình ngoại đề. Người<br />
Tiến Thụy, 2017b, tr.40). Đó là giọng điệu kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt trong tiểu<br />
của một người trẻ khi dám nhìn thẳng vào thuyết Màu rừng ruộng đã xen vào lời bình<br />
hạn chế của những người mang danh làm luận khi nghe thông tin hải quân địch bất<br />
việc cho cơ quan nhà nước. Họ an phận thủ ngờ cho tàu tấn công chiếm đảo Đá Lớn<br />
thường khi có đồng lương cố định, có chỗ thuộc quần đảo Hoàng Sa: “Đất nước vốn<br />
trú ẩn an toàn, thiếu ý chí vươn lên, chỉ biết đã chẳng bao la vậy mà kẻ thù lại luôn<br />
làm những việc ba lăng nhăng rồi than vắn luôn cắm ngoạm. Máu Việt Nam đã lại đổ<br />
thở dài. Họ không có năng lực mà lòng đố đỏ nước Biển Đông. Trường Sa, cái tên cất<br />
kị, hơn thua thì lớn lắm. Sống và làm việc lên đã thấy xa ngút ngái đang kêu cứu”<br />
bên cạnh những người như vậy sớm muộn (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.123). Ba câu văn<br />
gì chúng ta cũng sẽ giống như họ mà thôi. trên khẳng định núi sông Việt Nam cũng<br />
Hoặc khi tranh luận với cha mình, cậu Gấu không phải bao la, rộng lớn vô tận. Ấy vậy<br />
cũng có những triết luận về công việc làm mà kẻ thù xung quanh vẫn không nguôi ý<br />
ăn đầy kinh nghiệm thực tế: “Doanh đồ cắm ngoạm, lấn chiếm từng tấc đất, tấc<br />
nghiệp dựa vào chính khách. Chính khách biển. Máu xương của biết bao thế hệ người<br />
dựa vào doanh nghiệp. Chính khách vừa là Việt đã đổ ra nhuộm đỏ nước biển Đông để<br />
người bảo kê, à quên, bảo lãnh cho doanh bảo vệ vùng biển, hải đảo của Tổ quốc.<br />
nghiệp, giúp doanh nghiệp thắng thầu, vừa Trường Sa đang kêu cứu vì ngoại bang<br />
là người cung cấp sớm cho doanh nghiệp xâm lấn. Tiếng kêu cứu làm nhói lòng<br />
những thông tin hữu ích… Doanh nghiệp những người dân yêu nước. Người kể<br />
có trách nhiệm trích lãi suất theo mức hợp chuyện ngôi thứ nhất là con chim joong<br />
lí lại quả cho chính khách, giúp chính trong Con chim joong bay từ A đến Z đã<br />
khách có nguồn lực tài chính để củng cố đưa ra một triết luận ở cuối tác phẩm để lại<br />
địa vị và tham gia những chiến dịch tranh nhiều dư âm trong lòng độc giả: “Hỡi các<br />
cử. Đây là mối quan hệ đôi bên cùng có chàng dũng sĩ, hãy quyết đấu đi! Rồi núi<br />
lợi, nâng đỡ nhau để tồn tại và phát rừng sẽ phân định. Người tốt sẽ được đắp<br />
triển…” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.189). mộ bằng ngà voi và gạc hươu nai, người<br />
Với giọng điệu cứng rắn, mạnh mẽ, ngôn xấu mộ sẽ được đắp bằng bọ hung và ruồi<br />
ngữ rõ ràng, mạch lạc, cậu Gấu đã chỉ ra nhặng…” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.315).<br />
mối quan hệ khăng khít giữa doanh nghiệp Người tốt khi mất đi sẽ được tôn vinh ghi<br />
và chính khách. Hai đối tượng này như hai nhận bằng nghi thức tiễn đưa thành kính<br />
mặt của đồng tiền, mặt này phụ thuộc mặt cùng những vật phẩm trân quý; kẻ xấu sẽ<br />
kia và cùng nắm tay nhau tiến lên. Triết lí bị chôn lấp bằng thái độ khinh rẻ cùng<br />
trên sự thật không có gì mới trong xã hội những thứ xú uế.<br />
hiện tại. Nó chỉ ra những mối quan hệ đầy Giọng điệu triết luận thực sự nổi bật<br />
<br />
<br />
72<br />
TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy. Nó 2005, tr.84). Bà Nga trong tiểu thuyết Con<br />
cần phải có để tác giả tỏ bày những quan chim joong bay từ A đến Z rất trăn trở về<br />
điểm, triết lí về mọi mặt của đời sống. Có cân nặng của mình. Bà hỏi con Xoan làm<br />
những triết lí đã tồn tại, lưu truyền từ hàng thế nào để giảm cân. Nó đáp ngắn gọn:<br />
ngàn năm qua, có những triết lí mới phát “Dễ mà bác. Chỉ cần bác… ăn ít đi thôi”<br />
hiện gần đây trong thực tế cuộc sống. Sẽ (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.68). Câu trả lời<br />
có người tán đồng, sẽ có người phản đối về khiến bà nổi điên nhưng sau đó người kể<br />
những vấn đề mà nhân vật cũng như nhà chuyện viết: “Bà xẵng làm con Xoan tiu<br />
văn đưa ra. Tuy nhiên, không ai có quyền nghỉu, len lét vào phòng thay đồ. Bà ngồi<br />
được áp đặt suy nghĩ, quan niệm của mình thẫn ra. Ừ, nó nói đúng. Mỗi buổi sáng bà<br />
vào người khác. Bởi mỗi chúng ta là một ăn đều đặn một tô phở tái hai trứng vịt lộn<br />
chủ thể độc lập có tiếng nói, giọng điệu kèm một đĩa quẩy mà vẫn thòm thèm. Bữa<br />
riêng biệt. Chính nhờ vậy mà tác phẩm của trưa bữa tối thì thịt gà, cá thu, giò chả…<br />
Đỗ Tiến Thụy đã có thể hòa giọng với ngồn ngộn mặt bàn. Ăn lắm thì béo. Béo<br />
những tiểu thuyết đương thời nhưng vẫn phải tìm cách giảm mỡ. Nhưng giảm theo<br />
giữ được bản sắc của mình. cách mà con Xoan nói thì đã được ối người<br />
2.2.2. Giọng điệu giễu nhại tư vấn rồi. Bà cần một phương pháp hiệu<br />
Bên cạnh giọng điệu triết luận, tiểu quả hơn cơ” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.68-<br />
thuyết của Đỗ Tiến Thụy còn có giọng giễu 69). Phần giải ngữ (gạch chân) mang tính<br />
nhại rất đáng chú ý. Giễu nhại là bắt chước giễu nhại sâu cay. Bà Nga tự nhận ra con<br />
để gây cười. Tuy nhiên, tiếng cười trong Xoan nói đúng. Những đồ ăn thức uống<br />
tác phẩm của anh không vỗ mặt như Tú hàng ngày bà nạp vào mình đều thập toàn<br />
Xương, không trào phúng cay nghiệt như đại bổ. Đã thế, bà lại ít vận động nên<br />
Vũ Trọng Phụng mà nó chừng mực, vừa chuyện bị béo, bị rơi vào tình trạng “khủng<br />
phải. Tác giả dùng nó để châm biếm, phê hoảng thừa” cũng dễ hiểu. Vấn đề bà đang<br />
phán những mặt trái trong xã hội. Để có cần là một phương pháp hiệu quả hơn chứ<br />
được giọng điệu này, tác giả đã sử dụng không phải chỉ ăn ít đi. Vì phương pháp đó<br />
nhiều phương thức mang tính đặc trưng nhiều người tư vấn rồi và tất nhiên bà thất<br />
như các kiểu câu có thành phần giải ngữ; bại khi áp dụng.<br />
tạo nên những đối nghịch giữa hai mệnh Giọng điệu giễu nhại còn được kiến<br />
đề, hai câu, hai vế câu; kĩ thuật nhại lời của tạo nhờ vào sự đối nghịch giữa hai vế câu,<br />
nhân vật này với nhân vật khác; những hai mệnh đề hoặc hai câu, hai ý: một –<br />
cách nói lái, bóng gió xa xôi.v.v. trang trọng, nghiêm túc và hai – bỡn cợt,<br />
Xét về cấu trúc câu, giọng điệu giễu châm chọc; một – kể, đánh giá khách quan<br />
nhại thường xuất hiện ở kiểu câu có thành và hai – giải thích thêm theo cái nhìn chủ<br />
phần giải ngữ. Theo Từ điển tu từ - Phong quan của người kể. Khi phê phán thói quan<br />
cách – Thi pháp học: “Giải ngữ là biện liêu của những người tham gia phòng<br />
pháp tu từ dùng một từ, một cụm từ hay chống dịch cúm gia cầm trên địa bàn Hà<br />
một câu, một chuỗi câu xen vào câu chính Nội, cụ Tướng gọi điện cho người có trách<br />
để lí giải, nhấn mạnh hoặc bổ sung một nhiệm để bày tỏ ý kiến: “Cụ chủ quắc mắt,<br />
giọng điệu khác với giọng kể hay giọng nhưng giọng chùng xuống bất ngờ “Nhưng<br />
trình bày các lập luận” (Nguyễn Thái Hòa, chỉ một tiếng sau, số gà vịt mà các người<br />
<br />
<br />
73<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br />
<br />
<br />
cho là nhiễm mầm bệnh ấy đã bị dân nghèo sau bỡn cợt, châm chích. Cụ thể:<br />
ngoại thành quật lên, mang về ăn sạch. Và Đám trai tráng buông lời tán tỉnh:<br />
tôi cũng biết, những người dân kia vẫn cứ Hò lơ... hò... Chơi cho bằng chạc bằng chà<br />
sống khỏe, chưa thấy ai bị làm sao” (Đỗ Lớn thì không dám bé đà không chơi<br />
Tiến Thụy, 2017b, tr.35). Chúng ta thấy rõ Sao em lại đi yêu cái thằng miệng<br />
sự đối lập giữa vế không bôi đậm và bôi còn hoi sữa em ơi?... (Đỗ Tiến Thụy,<br />
đậm. Vế không bôi đậm được cụ Tướng 2017a, tr.94).<br />
nói từ tốn, phân trần nhưng đến vế sau thì Chị Miền đáp lại:<br />
đầy mỉa mai, châm chích vào thói làm việc Hò lơ… hò… Vì em sợ cảnh đò ngang<br />
quan liêu, vơ đũa cả nắm, không phân biệt Nằm dọc thì chật nằm ngang chẳng<br />
đúng – sai, tốt – xấu của một bộ phận cơ vừa (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.94).<br />
quan nhà nước. Hay lúc phản ánh cảnh Đám trai làng kia cũng chẳng chịu<br />
nhận hối lộ đầy ô trọc của mẹ con bà Nga, thua nên đốp chát ngay:<br />
con joong kể: “Cụ chủ đứng trên một cái Anh yêu em từ cổ tới kheo<br />
bục giữa phòng khách, cao lớn như một Nếu em sợ đò chật đò nghèo anh chỉ<br />
khối đá vàng. Dưới chân cụ là bà chủ và dám yêu em từ kheo đến rốn… (Đỗ Tiến<br />
cậu chủ… Từng người khách tiến vào. Bà Thụy, 2017a, tr.95).<br />
chủ và cậu chủ khẽ gật đầu một cái. Khách Giọng điệu giễu nhại còn xuất hiện ở<br />
nào cũng cười cười, vồ tay bà chủ lắc lắc một vài trường hơp khác. Nó có trong lời<br />
ba cái, tóm tay cậu chủ giật giật năm cái. thoại do nhân vật này nhại lời nhân vật kia.<br />
Rồi họ đặt những gói quà dưới chân cụ Điển hình như con joong nhại lại lời chàng<br />
chủ. Quà nhiều lắm, đã cao gần ngập mặt kiểm lâm “khovilon”, nhại lời cậu Gấu<br />
cụ rồi. Chỉ một lúc nữa thôi cụ sẽ bị “Việt Nam không làm được đâu, thiếu gia<br />
những gói quà chôn kín” (Đỗ Tiến Thụy, giá lâm” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b); những<br />
2017b, tr.119). Toàn bộ phần không bôi câu nói mang tính khẩu ngữ, nói lái, bóng<br />
đậm là lời kể khách quan, trung thực của gió xa xôi: “ngu thì chết chứ bệnh tật gì;<br />
con joong. Còn vế bôi đậm là giải thích, sến vãi nước hến; dùng T.N.T bắn vào các<br />
bình luận của nó khi nhận ra quà cắp nhiều kho I, K, M, N… mỗi nơi một tạ là mọi<br />
quá và dự báo chỉ một lát nữa thôi chân chướng ngại bay sạch, đường thông hè<br />
dung cụ Tướng đặt giữa nhà sẽ bị những thoáng hết; vẫn công thức vàng thôi. Vét<br />
gói quà chôn kín. Đây quả thực là một sự dưới, cúng trên, bớt lại một ít; Là vì, cái<br />
giễu nhại sâu cay của tác giả khi chĩa thẳng việc thanh tra í mà, nó có năm giai đoạn.<br />
ngòi bút của mình vào tình trạng tham Để cháu trình bày ngắn gọn cho cụ hiểu.<br />
nhũng và nhận hối lộ đang ngày càng phổ Một: trên nhìn xuống ở đâu cũng thấy cộm.<br />
biến trong xã hội. Hoặc khi biết chị Miền Hai: đã thấy nổi cộm thì muốn… thọc vào.<br />
xinh đẹp có tình cảm với cậu nhóc mới Ba: Thọc vào không dễ nên phải tìm mọi<br />
mười bảy tuổi như Vinh trong tiểu thuyết cách. Nếu thọc được rồi thì tha hồ ngó<br />
Màu rừng ruộng, một đám trai tráng chèo ngoáy. Bốn: Đã ngó ngoáy thì thể nào cũng<br />
thuyền qua sông đã buông lời chọc ghẹo ra một cái gì đấy. Năm: Khi rút ra cả hai<br />
chị. Cuộc đối đáp giữa họ diễn ra hài hước, đều sướng; Lỗ sinh sự nghiệp hay huyệt<br />
đầy giễu nhại. Mỗi lời đối đáp đều có hai táng công danh (Đỗ Tiến Thụy, 2017b).<br />
vế. Vế đầu nghiêm túc, dễ nghe nhưng vế Giọng điệu giễu nhại đã trở thành trợ<br />
<br />
<br />
74<br />
TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
thủ đắc lực cho Đỗ Tiến Thụy đả phá vào trắng tơ lúa phơ đòng. Những con rô béo<br />
những hạn chế, tiêu cực trong xã hội. Anh vàng tung mình đớp chấu rơi oạch vào<br />
không ngần ngại giễu nhại những phong giữa bụi lúa lạch đạch mãi mới thoát. Á à!<br />
tục tập quán lạc hậu còn tồn tại ở nhiều Thế là Vinh sắm cần câu. Một chiếc giỏ<br />
miền quê trên đất nước ta. Đặc biệt, với nhỏ như quả bầu be thắt eo đeo bên sườn.<br />
tiểu thuyết Con chim joong bay từ A đến Z, Một ống bơ bỏ đầy cào cào, châu chấu.<br />
nhà văn gốc Hà Tây đã bóc trần hiện tượng Vinh ngồi vắt vẻo trên lưng Nghé Hoa nhịp<br />
tham nhũng, nhận hối lộ đang tồn tại như nhịp cần câu. Gió đồng thơm lựng. Nắng<br />
những ung nhọt nhức nhối của xã hội. Có hanh vàng óng ả. Bầu trời lãng đãng mây<br />
thể nói, những trang văn phản ánh về vấn trôi. Mỗi lần Vinh búng cần nhấc lên một<br />
nạn này không chỉ gây ám ảnh cho độc giả chú rô là Nghé Hoa quay cổ lại, nhe hàm<br />
mà còn cho thấy tinh thần phê phán của lợi trọc như cười. Vinh cảm thấy cuộc đời<br />
một nhà văn, của một công dân có trách chưa đến nỗi nào. Ai bảo chăn trâu là<br />
nhiệm trước thời cuộc. khổ?” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.15). Với<br />
2.2.3. Giọng điệu trữ tình giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng; câu chữ,<br />
Giọng điệu trữ tình là giọng điệu nhẹ hình ảnh đep đẽ, giàu chất thơ, đoạn văn<br />
nhàng, sâu lắng, đầy chất thơ, khơi gợi trên đưa người đọc trở về cánh đồng quê<br />
trong lòng độc giả những xúc cảm thẩm vùng đồng bằng Bắc bộ, trở về với những<br />
mĩ. Nó được khởi phát từ những cảm xúc kí ức tươi đẹp của tuổi thơ. Ở đó, có màu<br />
mang tính chủ quan của chủ thể trong tác trắng tơ của lúa phơ đòng, màu vàng của<br />
phẩm, thường xuất hiện trong thơ hoặc văn con rô béo, vàng óng ả của nắng hanh; có<br />
học lãng mạn. Giọng điệu này được chuyển hình ảnh cánh đồng vào tháng tám lúa trổ,<br />
tải qua hệ thống ngôn từ, hình ảnh gợi con cá rô tung mình đớp chấu rồi rơi oạch<br />
hình, gợi cảm, giàu chất thơ; qua việc dùng vào giữa bụi lúa; có cào cào, châu chấu, có<br />
đa dạng các kiểu câu; tận dụng triệt để các Nghé Hoa nhe hàm lợi trọc như cười; gió<br />
biện pháp tu từ, nhất là so sánh để gợi đồng thơm lựng; bầu trời mây trôi lãng<br />
những liên tưởng độc đáo… Khảo sát tiểu đãng; có trò chơi trẻ thơ câu cá rô đồng,<br />
thuyết Màu rừng ruộng và Con chim joong chăn trâu đầy mộng mơ.v.v. Từ cảm thán<br />
bay từ A đến Z, chúng tôi nhận ra giọng “á à”, câu khẳng định “Vinh cảm thấy cuộc<br />
điệu trữ tình được thể hiện chủ yếu ở việc đời chưa đến nỗi nào”, câu hỏi tu từ mượn<br />
miêu tả bức tranh thiên nhiên và nội tâm từ lời thơ của Giang Nam “Ai bảo chăn<br />
nhân vật. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trâu là khổ?”… đã cho thấy cảm xúc hạnh<br />
trung tìm hiểu ở khía cạnh miêu tả bức phúc, sung sướng ngất ngây của nhân vật<br />
tranh thiên nhiên. chính khi được đắm mình vào một không<br />
Có thể nói, Đỗ Tiến Thụy đã dành gian thơ mộng, bình yên như vậy. Làng<br />
nhiều tâm huyết khi miêu tả những bức quê của Vinh không chỉ đẹp vào ban ngày<br />
tranh thiên nhiên sống động, nên thơ, nhiều mà khi màn đêm buông xuống, trăng lên<br />
màu sắc. Đọc tác phẩm của anh, chúng ta cũng đẹp không kém: “Lần đầu tiên trong<br />
như lạc vào thế giới đa sắc của ruộng, của đời Vinh được ăn một bữa ngon như thế.<br />
rừng. Khi chăn trâu trên Đồng Mồ, nhân Bữa ăn trên cỏ, dưới trăng vàng ngần<br />
vật Vinh đã cảm nhận về vẻ đẹp của quê ngận. Gió đồng rời rợi mê tơi. Hai anh em<br />
mình: “Tháng tám lúa trổ. Cả cánh đồng táng bay con gà và chai rượu nếp. Lần đầu<br />
<br />
<br />
75<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)<br />
<br />
<br />
tiên Vinh uống rượu nên đầu óc lầng đẹp thanh tao, nhã nhặn cùng bộ bàn ghế<br />
khầng. Cậu nằm dài trên bãi cỏ gà thênh làm từ rễ cây rừng, làn mây mỏng bay vấn<br />
thênh ngửa mắt nhìn trăng. Trăng mùng vít quanh hoa, quanh cụ chủ mang đến một<br />
tám như cánh diều vàng. Trên trăng là sao. không gian như thoát tục. Một cụ già xuất<br />
Những vì sao li ti nhấp nháy liên hồi…” hiện với mái tóc trắng hoa lau ngồi trên<br />
(Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.57-58). Cảnh vật bàn viết, dưới chân là thằng lợn khoang<br />
vốn dĩ đã đẹp lại được nhìn qua đôi mắt nằm ngoan ngoãn. Nó khiến joong phải<br />
của chàng trai tuổi mười bảy đang chếnh thốt lên: “Nom cụ hệt một tiên ông giữa<br />
choáng men say sau chầu nhậu lại càng động hoa rừng”. Giọng điệu trữ tình ở đây<br />
lung linh, huyền ảo hơn. Câu văn ngắn, các đã phát huy tác dụng khiến cho độc giả<br />
từ láy “ngần ngận, rời rợi, thênh thênh, li như rũ bỏ được những ồn ào, “bụi bặm”<br />
ti, nhấp nháy” cùng biện pháp tu từ so sánh của cuộc sống xô bồ ngoài kia mà sống<br />
“Trăng mùng tám như cánh diều vàng” đã một cách yên bình trong sự hài hòa với<br />
đặc tả vẻ đẹp nên thơ của ánh trăng, gió thiên nhiên.<br />
đồng, bãi cỏ.v.v. Chúng hiện lên trước mắt Đỗ Tiến Thụy có hơn mười năm gắn<br />
người đọc một cách sống động như thật. bó với Tây Nguyên. Vì vậy, khi bàn về<br />
Đó là nhờ vào công sức lao động nghệ giọng điệu trữ tình ở phương diện miêu tả<br />
thuật của Đỗ Tiến Thụy khi những câu văn bức tranh thiên nhiên, cảnh vật, độc giả<br />
miêu tả cảnh vật được anh trau chuốt kĩ không thể bỏ sót những phân đoạn khiến<br />
lưỡng để mang đến rung cảm thẩm mĩ mình phải trầm trồ thán phục khi anh viết<br />
mạnh mẽ trong tâm hồn độc giả. về nơi ấy. Nhà văn đã miêu tả một trận<br />
Với tiểu thuyết Con chim joong bay từ mưa đá trên đỉnh núi Sa Man thật ấn<br />
A đến Z, chúng tôi thấy dù không gian tượng: “Tiếng lộp bộp dày dần. Một viên<br />
nghệ thuật ở Hà Nội khá chật chội, chủ sỏi ném trúng mũ đánh cốp rồi văng tóe ra<br />
yếu chỉ được khắc họa ở nhà cụ Tướng xa. Suýt nữa thì Vinh buột miệng reo lên<br />
nhưng không vì thế mà giọng điệu trữ tình “mưa đá!”. Những viên đá trắng tinh khôi<br />
khi miêu tả bức tranh thiên nhiên bị thiếu nhảy lao xao trên nền đất thẫm. Vinh đứng<br />
hụt. Lần đầu tiên đến nhà cụ Tướng, con nép vào mái lán ngắm nhìn… Cửa sổ lều<br />
joong đã phải thốt lên: “Chòe! Một giàn Juny bất ngờ được vén lên. Juny vươn tay<br />
phong lan buông hoa tha thiết. Một cụ già ra ngoài trời. Cánh tay trắng muốt hấp tấp<br />
tóc trắng hoa lau ngồi viết trên bộ bàn ghế gỡ giò phong lan treo ngoài cột. Những<br />
làm từ gốc rễ cây rừng gân guốc. Những bông hoa trắng mỏng manh run rẩy trước<br />
làn mây mỏng bay vấn vít quanh hoa những viên đá lạnh... Nàng vẫn vươn tay<br />
quanh tóc cụ. Dưới chân cụ là một thằng ra ngoài đón bắt những viên đá nhỏ. Bàn<br />
lợn khoang nằm ngoan ngoãn. Nom cụ hệt tay ngửa lòng cong cong như chiếc thuyền<br />
một tiên ông giữa động hoa rừng” (Đỗ xinh xắn chao đi chao lại nhẹ nhàng.<br />
Tiến Thụy, 2017b, tr.20). Câu cảm thán, Những viên đá nhỏ tinh nghịch cố tình<br />
ngôn từ có tính hình tượng, giàu cảm xúc chơi trò cút bắt nên không viên nào đậu<br />
đã mang đến cho chúng ta một bức tranh vào bàn tay chào đón. Juny mải mê với trò<br />
thủy mặc có sự hài hòa giữa con người và hứng đá, thi thoảng lại cất tiếng cười thích<br />
thiên nhiên. Giàn phong lan buông hoa tha thú…” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.229).<br />
thiết đã làm cho người đọc trầm trồ về cái Cảnh ấy, người ấy quá đẹp trong đêm<br />
<br />
<br />
76<br />
TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
khuya giữa núi rừng Tây Nguyên. Giọng 3. Kết luận<br />
văn nhẹ nhàng, tinh tế, thậm chí run rẩy Giọng điệu mang đặc trưng riêng của<br />
như giò phong lan run rẩy trước những mỗi nhà văn, thể hiện tính cá thể hóa rất<br />
viên đá lạnh làm lòng ta xốn xang. Hình cao. Nó cho thấy bản lĩnh trong quá trình<br />
ảnh những viên đá trắng tinh khôi nhảy lao sáng tạo nghệ thuật. Tiểu thuyết của Đỗ<br />
xao, bông hoa trắng mỏng manh, bàn tay Tiến Thụy có ba giọng chủ là triết luận, giễu<br />
ngửa lòng cong cong của Juny như chiếc nhại, trữ tình. Nếu giọng điệu triết luận<br />
thuyền xinh xắn chao đi chao lại nhẹ mang tính thâm sâu, giảng giải về các quy<br />
nhàng hứng những viên đá nhỏ khiến ta luật, kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn;<br />
chao đảo tâm hồn. Cái đẹp hiện lên trong giọng điệu giễu nhại đầy mai mỉa vào nhiều<br />
trẻo, tinh khôi, thuần khiết. Nó giúp nhân thói tật qua tiếng cười ý nhị thì giọng điệu<br />
vật Vinh lần đầu tiên cảm nhận “một tiếng trữ tình lại nhẹ nhàng, sâu lắng mang đến<br />
gác trong đêm sao mà ngắn ngủi…” (Đỗ những rung cảm thẩm mĩ cho bạn đọc.<br />
Tiến Thụy, 2017a, tr.230). Chúng không tồn tại độc lập, riêng lẻ mà<br />
Có thể nói, về phía tác giả, giọng điệu hòa quyện vào nhau mang lại hiệu quả cao<br />
trữ tình sẽ giúp cho lời văn thêm cảm xúc, cho nghệ thuật tự sự. Qua đó, chúng ta có<br />
đậm chất thơ; giúp cho dòng sự kiện được thể phác họa ra chân dung của Đỗ Tiến<br />
miêu tả trở nên nhẹ nhàng, bớt xung đột, Thụy. Đây là nhà văn giàu suy tư, thường<br />
căng thẳng. Về phía độc giả, nó giúp họ nghiền ngẫm về thế sự, về những quan điểm<br />
chững lại để nhìn nhận sự việc, để cùng tư tưởng trong xã hội; luôn quan tâm đến<br />
ngẫm suy, vui buồn với nhân vật cũng như hiện thực phức tạp của đời sống, sẵn sàng<br />
được hòa mình vào những bức tranh thiên lên tiếng vạch trần cái xấu, cái ác để bảo vệ<br />
nhiên thơ mộng, hiền hòa. Chính nhờ giọng điều thiện, lẽ công bằng nhưng cũng không<br />
điệu này mà tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy kém phần sâu sắc, tinh tế khi quan sát, miêu<br />
trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn. tả thiên nhiên và tâm trạng con người.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
Lê Huy Bắc. (1998). Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí Văn học,<br />
(số 9), tr.56-62.<br />
Nguyễn Thị Bình. (2007). Văn xuôi Việt Nam 1975 -1995, Những vấn đề cơ bản. Hà Nội:<br />
NXB Giáo dục.<br />
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (2010). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội:<br />
NXB Giáo dục.<br />
Nguyễn Thái Hòa. (2005). Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục.<br />
Đỗ Tiến Thụy. (2017a). Màu rừng ruộng. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.<br />
Đỗ Tiến Thụy. (2017b). Con chim joong bay từ A đến Z. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.<br />
Lê Ngọc Trà. (2005). Lý luận và văn học. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019<br />
<br />
77<br />