ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------
BÙI BÍCH HÀ
TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ
NHU CẦU CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN
SINH HOẠT, LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN
(Nghiên cứu trƣờng hợp thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
1
Hà Nội - 2009
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 4 1. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................... 4 2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: .............................................................. 6 2.1. Ý nghĩa lý luận: .................................................................................. 6 2.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................ 6 3. Mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu: ..................... 6 3.1. Mục đích nghiên cứu: ......................................................................... 6 3.2.Câu hỏi nghiên cứu: ............................................................................. 7 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: ......................................................................... 7 4. Đối tượng, khách thể: ......................................................................................... 7 4.1. Đối tượng nghiên cứu: ........................................................................ 7 4.2. Khách thể nghiên cứu: ........................................................................ 7 5. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu: .................................................... 7 6. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................... 8 6.1. Phân tích tài liệu thứ cấp: .................................................................... 8 6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: ............................................................... 9 6.3. Phương pháp thảo luận nhóm: ............................................................. 9 6.4. Phương pháp quan sát: ........................................................................ 9 7. Giả thuyết nghiên cứu: ...................................................................................... 10 8. Khung lý thuyết: ............................................................................................... 11 PHẦN NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................. 12 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................. 12 1.1. Cơ sở lý luận : ................................................................................................ 12 1.1.1. Các lý thuyết tiếp cận: .................................................................... 12 1.1.1.1. Lý thuyết phân công lao động: ..................................................... 12 1.1.1.2. Lý thuyết trao đổi xã hội: ............................................................ 13 1.1.1.3. Các lý thuyết liên quan tới di dân: ................................................ 15 1.1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu: ....................................... 17 1.1.2.1. Khái niệm "Gia đình": ................................................................. 17 1.1.2.2. Khái niệm "Lao động", "Người lao động": ................................... 17 1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình": ...................................... 18 1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”: ........................................ 18 1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”: .................................. 19 1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”: ................................................................. 19 1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn": ...... 20
2
Bookmark
not
1.2. Cơ sở thực tiễn: .............................................................................................. 21 1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu: ......................................................... 21 1.2.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu: ....................................................... 25 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................... 30 2.1. Một số đặc trưng nhân khẩu - xã hội của người giúp việc gia đình và hộ gia đình thuê người giúp việc: .................................................................................... 30 2.1.1. Nhóm người giúp việc gia đình: ..................................................... 30 2.1.2. Hộ gia đình thuê người giúp việc: ................................................... 31 2.2. Thực trạng hoạt động giúp việc tại Hà Nội hiện nay: .................................... 33 2.2.1. Lý do lựa chọn nghề giúp việc và nguồn giới thiệu: ......................... 33 2.2.2. Các loại hình công việc: ................................................................. 36 2.2.3. Thù lao của người giúp việc gia đình: ............................................. 39 2.2.4. Tiền thưởng, phần thưởng và việc thoả mãn nhu cầu tinh thần của người giúp việc: ...................................................................................... 44 not 2.2.5. Điều kiện làm việc của người giúp việc:Error! Bookmark defined. 2.2.6. Kỹ năng của người giúp việc gia đình:Error! defined. 2.2.7. Những lợi ích và khó khăn của hoạt động giúp việc gia đình: .... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: NHU CẦU CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐIỀU KIỆN Error! Bookmark not defined. SINH HOẠT, LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN ... Error! Bookmark not defined. 3.1. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện sinh hoạt:Error! Bookmark not defined. 3.2. Nhu cầu của người giúp việc với điều kiện làm việc:Error! Bookmark not defined.
Bookmark
3.2.1. Mức thù lao: .................................. Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Thời gian làm việc: ........................ Error! Bookmark not defined. 3.2.3. Cách đối xử của người thuê và địa vị của người giúp việc:........ Error! Bookmark not defined. 3.2.4. Sự bảo đảm các quyền lợi, cam kết, hợp đồng:Error! not defined. Bookmark
3.3. Nhu cầu của người giúp việc với đào tạo chuyên môn:Error! not defined.
3.3.1. Nội dung đào tạo: .......................... Error! Bookmark not defined. 3.3.2. Người chịu trách nhiệm đào tạo chuyên môn:Error! Bookmark not defined.
3
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........... Error! Bookmark not defined.
1. Kết luận: ............................................................ Error! Bookmark not defined. 2. Khuyến nghị: ..................................................... Error! Bookmark not defined. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 46 PHỤ LỤC ............................................................ Error! Bookmark not defined.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế,
đất nước chúng ta đã có những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế-xã hội. Đời
sống vật chất và tinh thần của hầu hết các gia đình đã có sự thay đổi căn bản, nhất là
ở khu vực đô thị. Số lượng các gia đình có mức thu nhập ổn định và đời sống kinh
tế ở mức trung bình ở các thành phố lớn ngày càng tăng nhanh. Tuy nhiên, đồng
hành với sự phát triển kinh tế tương đối nhanh là sự phân hóa về thu nhập ngày
càng lớn giữa các nhóm xã hội, đặc biệt giữa nông thôn và đô thị. Trong khi nhiều
gia đình ở đô thị có thu nhập ngày càng được cải thiện và họ có nhu cầu thuê người
giúp việc gia đình để dành thời gian cho những công việc có thu nhập cao ở ngoài
xã hội và nghỉ ngơi, thì nhiều gia đình ở các khu vực nông thôn, dưới tác động của
việc giải thể các hợp tác xã nông nghiệp và khoán hộ gia đình, thu hẹp diện tích đất
sản xuất nông nghiệp nên có thu nhập thấp và thừa lao động.
Kết quả của cuộc Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 đã chỉ ra rằng kinh tế là
nguyên nhân có tác động lớn nhất tới việc di cư của người dân [24]. Qui luật về
cung cầu lao động cùng với sự tự do di chuyển được bảo đảm trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa một làn sóng những người lao động
4
nông thôn, trong đó có rất nhiều phụ nữ, ra các thành phố tìm việc làm. Một bộ
phận không nhỏ phụ nữ nông thôn đã ra đô thị để tham gia hoạt động giúp việc gia
đình.
Một khảo sát gần đây của Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em, Ủy
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (trước đây) được tổ chức vào năm 2005 cho thấy
nhu cầu về dịch vụ giúp việc gia đình ở khu vực đô thị, đặc biệt là tại các thành phố
lớn, ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, việc đáp ứng những nhu cầu về dịch vụ giúp
việc gia đình đang diễn ra một cách tự phát. Hoạt động giúp việc gia đình, về mặt
quản lý nhà nước, chưa được coi là một nghề. Các quy định của pháp luật về lao
động giúp việc gia đình còn chung chung, trong khi đây là một hình thức lao động
với những đặc trưng riêng. [21]
Một mặt, các hoạt động giúp việc gia đình đã đáp ứng phần nào nhu cầu kinh
tế - xã hội của cả những gia đình sử dụng dịch vụ giúp việc và những gia đình có
lao động đi giúp việc. Việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình ở nhiều gia đình đã
giúp người phụ nữ và các thành viên gia đình giảm bớt gánh nặng công việc gia
đình, có nhiều thời gian hơn cho công việc ở ngoài xã hội, nghỉ ngơi và giải trí. Các
hoạt động giúp việc gia đình cũng góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở
một bộ phận dân cư, trong đó có nhiều phụ nữ nông thôn. Mặt khác, do chưa có
những biện pháp quản lý nhà nước cần thiết, nên có những dấu hiệu cho thấy, đã
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội,
cũng như quyền lợi của các bên liên quan đến hoạt động này. Hiện tượng người
giúp việc bị đối xử thiếu công bằng, bị xâm hại thân thể hay những vụ việc hình sự
như người giúp việc lấy trộm tài sản, hoặc tùy tiện bỏ việc làm hoặc nghiêm trọng
hơn đe dọa tính mạng của gia đình người thuê đang trở thành những vấn đề gây bức
xúc dư luận xã hội
Nguồn cung chủ yếu của hoạt động giúp việc trong gia đình là những phụ nữ
nghèo từ nông thôn, họ có trình độ học vấn tương đối thấp, ít hiểu biết về đời sống
xã hội tại đô thị và hầu như chưa qua đào tạo bài bản về nghề giúp việc gia đình.
Việc gia nhập vào một gia đình khác với lối sống và hệ thống giá trị, chuẩn mực
5
khác biệt sẽ tạo ra những xung đột giữa gia đình thuê người giúp việc và người giúp
việc. Do vậy, họ sẽ gặp không ít khó khăn trong công việc của mình. Thêm nữa,
việc đào tạo kỹ năng cho người giúp việc, những cam kết và việc bảo vệ quyền lợi
cho cả hai phía người thuê và người được thuê hiện nay được thực hiện chưa bài
bản, tòan diện và thống nhất.
Trước thực tế ngày càng phổ biến của hoạt động giúp việc gia đình và những
vấn đề liên quan tới hoạt động này có liên quan tới nhiều gia đình ở cả khu vực đô
thị và nông thôn, tôi đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu hoạt động giúp việc gia đình và
nhu cầu của người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc, đào tạo chuyên
môn. Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình. Từ
đó đề xuất những khuyến nghị và giải pháp với hy vọng là những gợi ý cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc quản lý lĩnh vực nghề nghiệp không còn mới mẻ
nhưng chưa nhận được nhiều sự quan tâm này.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
2.1. Ý nghĩa lý luận:
Tìm hiểu và hệ thống hóa lại một số những nghiên cứu về dịch vụ giúp việc gia
đình đã có, những văn bản luật pháp có liên quan tới lĩnh vực này.
Vận dụng những lý thuyết xã hội học và một số cách tiếp cận vào việc nghiên
cứu đặc điểm loại hình giúp việc gia đình, nhu cầu của người giúp việc với điều
kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt và việc đào tạo chuyên môn để góp phần đề xuất
những phương hướng, giải pháp quản lý cho các nội dung này.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu đặc điểm của loại hình giúp việc gia đình đang
tồn tại trên địa bàn thành phố Hà Nội, những nhu cầu của người giúp việc đối với
điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt và việc đào tạo chuyên môn. Đề xuất các
khuyến nghị đối với Nhà nước, cơ quan quản lý và bản thân người lao động trong
việc xây dựng những chính sách đào tạo dành cho dịch vụ giúp việc gia đình đồng
thời là xây dựng chính sách bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm của người giúp việc và
6
người thuê.
3. Mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm làm rõ thực trạng hoạt động giúp việc gia đình hiện nay, qua đó
tìm hiểu nhu cầu về điều kiện sinh hoạt, làm việc cũng như việc đào tạo chuyên
môn của người giúp việc gia đình, nhằm đưa ra những kết luận, khuyến nghị giúp
cho việc xây dựng chính sách quản lý với dịch vụ giúp việc gia đình như một nghề
lao động chân chính.
3.2.Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài nhằm trả lời các câu hỏi như hiện nay hoạt động giúp việc gia đình ở
Hà Nội đang diễn ra như thế nào? Người giúp việc đang làm những công việc gì?
Điều kiện sống, làm việc của họ ra sao? Người giúp việc gia đình có nhu cầu đối
với việc thay đổi điều kiện sống, làm việc và đào tạo chuyên môn hay không?
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, xác định những khái niệm liên
quan.
- Tìm hiểu các hình thức giúp việc gia đình hiện có tại địa bàn nghiên cứu, qua tính
chất công việc, thời gian, cường độ lao động, thù lao, các chế độ đi kèm công việc.
- Tìm hiểu nhu cầu của người lao động về việc đảm bảo các điều kiện sống và làm
việc: nơi ở, chế độ ăn nghỉ, loại hình công việc, thời gian làm việc, chăm sóc sức
khỏe.
- Tìm hiểu nhu cầu được đào tạo chuyên môn của người lao động.
- Đưa ra một số khuyến nghị liên quan tới việc xây dựng chính sách quản lý hoạt
động của dịch vụ giúp việc gia đình và đào tạo nghề thuộc lĩnh vực này.
4. Đối tƣợng, khách thể:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động giúp việc gia đình tại Hà Nội và nhu cầu của người lao động đối
với điều kiện sinh hoạt, làm việc, đào tạo chuyên môn.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
7
- Người lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội.
- Đại diện hộ gia đình có thuê người giúp việc trong gia đình.
5. Phạm vi nghiên cứu và thời gian nghiên cứu:
* Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Hà Nội được chọn làm địa bàn nghiên cứu bởi
đây là thành phố có mức sống cao và họat động giúp việc gia đình được diễn ra
tương đối phổ biến hơn. Tại Hà Nội, nghiên cứu được chọn tiến hành tại phường
Vĩnh Phúc và Quán Thánh thuộc quận Ba Đình, phường Trung Hòa và Nghĩa Tân
thuộc quận Cầu Giấy, phường Cát Linh và Láng Hạ thuộc quận Đống Đa.
* Phạm vi nội dung nghiên cứu: Hoạt động giúp việc gia đình là một lĩnh vực bao
gồm nhiều nội dung khác nhau liên quan đến luật pháp, chính sách cũng như các
khía cạnh của vấn đề di dân hay ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, đề
tài này chỉ nhằm tìm hiểu về thực trạng dịch vụ giúp việc gia đình tại thành phố Hà
Nội, cụ thể hơn là về loại hình, tính chất và những yếu tố liên quan tới điều kiện làm
việc và sinh hoạt. Đồng thời tìm hiểu thêm nhu cầu của người lao động giúp việc về
việc được đào tạo chuyên môn cũng như điều kiện sinh hoạt và điều kiện làm việc.
* Thời gian nghiên cứu: Đề tài được tiến hành từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9
năm 2009.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
6.1. Phân tích tài liệu thứ cấp:
Đề tài phân tích số liệu định lượng từ 600 bảng hỏi của cuộc nghiên cứu về
“Nghiên cứu thực trạng một số loại hình hoạt động giúp việc gia đình ở Hà Nội hiện
nay và đề xuất giải pháp quản lý” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành từ
tháng 10 năm 2008. Cụ thể là:
- 300 bảng hỏi dành cho đối tượng người giúp việc.
- 300 bảng hỏi dành cho đối tượng hộ gia đình có người giúp việc.
Ban đầu, ý định của nhóm nghiên cứu là tiến hành thu thập thông tin từ 600
người giúp việc và đại diện chủ hộ trong cùng một gia đình. Điều này giúp có được
so sánh, đối chiếu thông tin thu được giữa hai nhóm. Tuy nhiên, điều tra thử cho
thấy việc này là khó khăn vì rất ít chủ hộ đồng ý cho người giúp việc của gia đình
8
mình cùng được tham gia cung cấp thông tin vì e ngại rằng họ sẽ nói ra những điều
khác với thông tin mà chủ hộ cung cấp. Do vậy, nhóm nghiên cứu quyết định chọn
2 nhóm độc lập để tiến hành thu thập thông tin.
Tác giả tham gia nghiên cứu này với tư cách thư ký đề tài, trực tiếp tham gia
từ xây dựng đề cương, thiết kế bộ công cụ cho tới việc lựa chọn địa bàn nghiên cứu.
Do vậy, tác giả có điều kiện nắm rõ mục tiêu cũng như hướng nghiên cứu để có thể
hình dung rõ ràng hơn về đề tài luận văn của mình. Đồng thời, cũng có điều kiện để
thu thập thêm những số liệu định tính và định lượng phục vụ riêng cho mục đích
nghiên cứu của luận văn.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ này đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động
giúp việc gia đình và đề xuất giải pháp quản lý. Tuy nhiên với mục đích tìm hiểu
những nhu cầu của người lao động - lực lượng quan trọng tạo nên chất lượng của
hoạt động này nên tôi đã bổ sung thêm một số câu hỏi về nhu cầu của người lao
động đối với điều kiện sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn.
6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Nhằm thu thập những thông tin sâu sắc hơn, phát hiện những vấn đề mới,
đáng chú ý liên quan tới đề tài nghiên cứu, phương pháp phỏng vấn sâu các đối
tượng được tiến hành với:
- 05 người lao động.
- 05 đại diện hộ gia đình thuê người giúp việc gia đình.
6.3. Phương pháp thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm được sử dụng trong đề tài này nhằm tìm hiểu và thu thập
những ý kiến của những nhóm đối tượng khác nhau khi bàn luận về cùng một chủ
đề. Những thông tin do vậy có tính đa dạng, nhiều chiều hơn. Phương pháp thảo
luận nhóm tập trung được tiến hành với:
- 01 nhóm cán bộ lãnh đạo cán bộ chính quyền.
- 02 nhóm chủ hộ gia đình
6.4. Phương pháp quan sát:
Trong nghiên cứu này, quan sát là một trong những phương pháp quan trọng
9
vì việc thu thập thông tin về hoạt động giúp việc gia đình thường được diễn ra trong
không gian là hộ gia đình có người giúp việc mà sự có mặt của đại diện chủ hộ gia
đình là một yếu tố có thể gây "nhiễu" cho cuộc phỏng vấn. Thông qua việc quan sát,
chúng ta có thể thu được những thông tin "ẩn" nhưng chân thực, khách quan về điều
kiện sinh hoạt, làm việc cũng như những yếu tố liên quan tới cách sống và ứng xử
giữa chủ nhà và người giúp việc.
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Loại hình giúp việc gia đình hiện nay tại đô thị rất đa dạng và tùy thuộc vào nhu
cầu của từng gia đình và khả năng đáp ứng của người lao động.
Điều kiện sinh hoạt và điều kiện làm việc của người lao động trong các gia đình
còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là trong việc ký kết hợp đồng, đăng ký tạm trú cũng
như vấn đề liên quan tới bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong các gia đình.
Đa số người lao động chưa được cung cấp các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho
công việc của mình. Do vậy, họ mong muốn được đào tạo để nâng cao kiến thức, kỹ
10
năng phục vụ công việc của mình.
8. Khung lý thuyết:
Điều kiện kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội
Ngƣời giúp việc Gia đình
Thực trạng hoạt động giúp việc gia đình Đặc trưng nhân khẩu Đặc trưng nhân khẩu
xã hội xã hội.
Lợi ích,
Động cơ cần việc làm Nhu cầu thuê người Loại Lý Điều
khó
khăn
giúp việc. hình do kiện
của
công làm sống,
hoạt
giúp việc làm
động
việc việc,
giúp
gia kỹ
việc gia
đình
đình năng
Nhu cầu của người lao động đối với điều kiện
11
sinh hoạt, làm việc và đào tạo chuyên môn
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận :
1.1.1. Các lý thuyết tiếp cận:
1.1.1.1. Lý thuyết phân công lao động:
Khái niệm phân công lao động được hiểu từ hai góc độ khoa học liên quan
tới khái niệm chức năng. Theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A. Smith, phân
công lao động là sự chuyên môn hoá lao động, là sự phân chia quá trình lao động
thành các công đoạn, các khâu, các thao tác kỹ thuật mà trong đó, mỗi người lao
động tập trung vào thực hiện một số thao tác nhất định trong một khâu hay một
công đoạn sản xuất. Sự phân công lao động như vậy làm tăng năng suất, chất lượng
và hiệu quả lao động. Do đó, giúp việc gia đình là một hình thức phân công lao
động xã hội, giúp cho nhiều gia đình thành thị đảm nhiệm tốt hơn chức năng gia
đình, có nhiều thời gian hơn tập trung vào công việc trả lương và chăm lo nhiều hơn
cho các thành viên gia đình trong lĩnh vực tình cảm, tinh thần. [11. tr.131-133]
Theo quan niệm xã hội học do A. Comte khởi xướng, phân công lao động là
sự chuyên môn hoá nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát
triển xã hội. Bên cạnh đó, phân công lao động xã hội không đơn thuần là sự chuyên
môn hoá lao động mà thực chất là quá trình gắn liền với sự phân hoá xã hội, phân
tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội. Theo Comte, phân công lao động dẫn tới sự
phân chia xã hội, cụ thể là những người phụ nữ ở vùng nông thôn, có thu nhập thấp
di cư ra thành thị để làm công việc có thu nhập cao hơn và thực hiện những yêu cầu
của người sử dụng lao động ở thành thị.
Tuy nhiên, nhìn phân công lao động theo lăng kính chức năng luận, Comte
và Durkheim cho rằng sự phân công lao động trong xã hội thực hiện chức năng
củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội.
Đối với Durkheim, sự phân công lao động tạo ra sự đoàn kết xã hội.
12
Durkheim viết rằng: sự phân công lao động không chỉ biến mỗi cá nhân thành một
tác nhân trao đổi như các nhà kinh tế học nhấn mạnh, mà còn tạo ra cả một hệ thống
các quyền lợi và nghĩa vụ gắn kết họ một cách lâu dài với nhau. Kết quả của sự
phân công lao động trong xã hội là sự hình thành phức hệ các lý tưởng, các giá trị,
chuẩn mực chung, khách quan có khả năng quy định trách nhiệm, quyền hạn, buộc
các cá nhân phải liên hệ phụ thuộc vào nhau theo một khuôn mẫu nhất định. Hình
thức phân công lao động đơn giản tạo ra loại đoàn kết xã hội cơ học hay đoàn kết
máy móc. Hình thức phân công lao động phức tạp tạo ra sự đoàn kết hữu cơ.
Sự phân công lao động trong xã hội có thể xảy ra trên cơ sở khác nhau về
đặc điểm tự nhiên của chủ thể lao động, cũng như dựa vào các đặc điểm, yêu cầu
phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Durkheim chia phân công lao động thành hai loại: Phân công lao động bình
thường và phân công lao động bất bình thường. Phân công lao động bình thường tạo
ra sự đoàn kết xã hội, ngược lại phân công lao động bất bình thường không tạo ra sự
đoàn kết xã hội, thậm chí còn gây mất trật tự, sự hỗn loạn và sự phân rã. [11. tr.131-
133]
Như vậy, vận dụng lý thuyết phân công lao động khi nghiên cứu vấn đề giúp
việc gia đình giúp ta hiểu sâu hơn nguyên nhân xuất hiện và hình thành loại hình
dịch vụ giúp việc gia đình, đồng thời phân tích những hệ quả của loại hình phân
công lao động này đối với các gia đình thông qua phân tích sự đoàn kết hay phân rã
xã hội, sự phát triển xã hội hay tạo nên bất bình đẳng xã hội.
1.1.1.2. Lý thuyết trao đổi xã hội:
Lý thuyết trao đổi xã hội của George Homans và nhiều nhà xã hội học khác
đã có những đóng góp quan trọng trong việc xem xét tương tác xã hội.
Theo Homans, các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi giá trị
vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự,....Cá nhân hành động
theo xu hướng cân bằng giữa trao và nhận với cá nhân khác trong quá trình tương
tác, hay theo cách nói của Homans là cân bằng giữa chi phí và phần thưởng. Xu
hướng cân bằng này thể hiện ở chỗ các cá nhân mong muốn đạt được những phần
13
thưởng lớn nhất so với những chi phí đã bỏ ra.[6, tr.150-151]
Homans đưa ra bốn nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như sau:
- Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng
lặp lại.
- Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu
hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh như vậy.
- Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều
chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó.
- Mức độ hài lòng, thoả mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân dành
được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần.
Đây là mô hình đơn giản nhất của tương tác giữa các cá nhân. Nhưng theo
Homans ngay cả với những tương tác xã hội phức tạp như quan hệ quyền lực....
cũng tuân theo những nguyên tắc trên. Trong thực tế cuộc sống xã hội, quá trình
tương tác theo mô hình trao đổi xã hội là rất phổ biến. Theo Homans, toàn bộ các
tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp của các trao đổi.
Lý thuyết trao đổi còn được phát triển bởi Peter Blau. Blau tập trung vào lý
giải các kết quả tập thể, như phân phối quyền lực trong xã hội. Thay vì điều kiện có
hiệu lực, ông nghiên cứu rõ hơn từ cơ cấu kinh tế, cho rằng tương tác kinh tế có giá
trị đối với con người. Con người để tâm đến trao đổi xã hội vì cùng một nguyên
nhân là họ gắn với các trao đổi kinh tế – họ cần ở nhau những thứ mà họ không thể
cung cấp cho bản thân mình. Hơn nữa, Peter Blau cố gắng phát triển lý thuyết trao
đổi mà không bỏ đi đặc tính không thể giảm bớt của các tương tác xã hội. Trái với
Homans, Blau nêu rõ một số đặc tính của trao đổi xã hội là nổi bật.
Đối với Blau, cơ sở của trao đổi xã hội dựa trên phần thưởng dự đoán trước
của liên kết. Phần thưởng có thể hoặc ở bên trong (sự hài lòng trong thâm tâm khi ở
với ai đó), bên ngoài (lợi ích hoặc dịch vụ hữu hình mà người ta có thể cung cấp),
hoặc cả hai. Trao đổi xã hội, giống như trao đổi kinh tế, xuất hiện khi liên kết mang
lại cho cả hai bên phần thưởng mà họ không thể tự có được.
Liên hệ với nội dung nghiên cứu của đề tài, quá trình tương tác giữa người
14
giúp việc và người thuê là một quá trình trao đổi xã hội, trong đó cả hai cùng hướng
tới "phần thưởng" mà mình nhận được từ mối quan hệ này. Để có được phần
thưởng là sự nghỉ ngơi hoặc dành thời gian cho các hoạt động cá nhân khác, hay
con cái, cha mẹ có người chăm sóc, người thuê phải bỏ ra các chi phí như tiền
lương, tiền thưởng hoặc sự chăm sóc, đối xử phù hợp với người giúp việc. Ngược
lại, người giúp việc vì muốn giữ công việc của mình, được nhận thù lao và những
phần thưởng xứng đáng, phải bỏ công sức để lao động. Đồng thời, cả hai bên, nếu
muốn quá trình trao đổi được diễn ra lâu dài và xuôn sẻ, đều phải chấp nhận hy sinh
những sở thích, thói quen của cá nhân. [12, tr.319-321]
1.1.1.3. Các lý thuyết liên quan tới di dân:
Trên thế giới đã xuất hiện một số lý thuyết nghiên cứu về di dân quốc tế và
khu vực. Có thể nêu ra một số lý thuyết sau:
Lý thuyết của Ravestein: đây là một trong những lý thuyết về di dân sớm
nhất trong trường phái cổ điển, được đưa ra vào cuối thế kỉ XIX. Theo ông, di cư
xảy ra sớm bởi sự khác biệt về trình độ phát triển, bởi tiến trình công nghiệp hoá và
phát triển thương mại giữa các khu vực của một quốc gia. Mặt khác, sự di cư bị chi
phối bởi khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người sống ở khu vực
kém phát triển hay nghèo khổ thường có xu hướng chuyển đến những khu vực phát
triển hơn. Theo Ravestein, tỉ lệ người tham gia di cư có quan hệ thuận với khoảng
cách giữa hai khu vực nơi họ xuất phát và nơi họ đến. [17]
Lý thuyết của Lewis: Lý thuyết này ra đời vào những năm 50 của thế kỉ XX.
Lý thuyết của Lewis ra đời trong bối cảnh các nước trong thế giới thứ 3 bước vào
giai đoạn công nghiệp hoá, dẫn đến sự bùng nổ của làn sóng di cư từ nông thôn ra
các thành phố công nghiệp và các đô thị. Lewis đã trình bày quan điểm của di cư từ
nông thôn ra thành thị trong cuốn “Sự phát triển kinh tế đối với việc cung cấp
không giới hạn về lao động” (Economic Development with Unlimited Suplies of
Labour, xuất bản năm 1954). Theo ông, lí do di cư dân số từ nông thôn ra đô thị là:
Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế và sự mở rộng của khu vực công nghiệp đặt ra đòi
hỏi phải có thêm lực lượng lao động đáp ứng. Sự tăng lên không ngừng của dân số
15
trong khi đất đai không tăng đã làm cho lao động nông nghiệp dư thừa. Số lao động
dư thừa này có khuynh hướng tìm kiếm các cơ hội làm việc tại các khu công nghiệp
và thành phố, nơi có nhu cầu tuyển dụng. Lewis coi đây là sự điều tiết có tính chất
tự nhiên, là sự cân bằng lao động giữa các khu vực, các ngành nghề. Thứ hai, do sự
chênh lệch về mức lương giữa nông thôn và đô thị. Sự di cư lao động này sẽ dừng
lại khi mức lương ở đô thị cân bằng với mức thu nhập của người dân ở nông thôn.
Từ quan điểm này người ta gọi lí thuyết của Lewis là mô hình cân bằng. Lý thuyết
của Lewis đã đặt nền móng cho lý thuyết mới có tên gọi là Mô hình kinh tế đôi của
Ranis và Fei ra đời vào thập kỷ 60 thế kỷ XX.
Trong thập kỉ 50, khi mà các làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị không
ngừng tăng lên ngay cả khi lao động ở đô thị thất nghiệp nhiều. Điều này làm cho lý
thuyết của Lewis đã đơn giản hoá nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng di dân từ
nông thôn ra đô thị là do yếu tố kinh tế quyết định. [17]
Lý thuyết di cư của Everett S.Lee: Trong cuốn sách “Một học thuyết chung
về di cư” (A general theory of migration, xuất bản năm 1966), E.S. Lee, một nhà
nghiên cứu thuộc đại học Pensylvania, Hoa Kỳ, đã tổng kết một số các yếu tố quyết
định đến việc di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị. Ông chia thành hai
nhóm yếu tố: a/ Nhóm yếu tố tiêu cực - nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế,
thiếu đất, mức sống thấp ở quê nhà; b/ Nhóm yếu tố tích cực - sự thịnh vượng, cơ
hội, công việc làm ăn, mức sống cao ở nơi đến… Trong hai nhóm yếu tố này,
những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc người ta phải rời nơi sinh sống của
mình còn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp dẫn của nơi đến.
Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di
dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh nghiệm bản
thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là điều mà
các lý thuyết trước đó ít đề cập tới. Việc di cư, theo Lee còn phụ thuộc vào tính toán
và thu nhập mong đợi trong thời gian nhất định hơn là tính toán về khác biệt thu
nhập giữa thành thị và nông thôn. [17]
Việc áp dụng các lý thuyết về di dân khi tìm hiểu về hoạt động giúp việc gia
16
đình giúp làm sáng tỏ những nguyên nhân dẫn đến quyết định ra thành phố làm
nghề giúp việc gia đình của người lao động và nhìn nhận những lý do này dưới góc
độ quản lý xã hội.
1.1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu:
1.1.2.1. Khái niệm "Gia đình":
Có rất nhiều định nghĩa về gia đình được các nhà tư tưởng, các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội đưa ra. Nhưng nhìn chung họ đều thống nhất rằng gia đình là
một thiết chế xã hội, dựa trên hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân (chồng - vợ) và
huyết thống (cha mẹ - con cái).
Theo Levy Strauss, gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc
điểm thường thấy nhiều nhất:
+ Hôn nhân
+ Quan hệ huyết thống
+ Những ràng buộc về mặt pháp lý, nghĩa vụ, quyền lợi có tính chất kinh tế,
cấm đoán tình dục gắn với các thành viên và những ràng buộc về tình cảm, tâm lý,
tình yêu, tình thương và sự kính trọng, sợ hãi.[1, tr.237-238]
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 định nghĩa gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này. (theo Chƣơng I, điều 8 - Những quy định chung). Đây cũng là định
nghĩa về gia đình được sử dụng trong đề tài này.
1.1.2.2. Khái niệm "Lao động", "Người lao động":
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi
những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình hay của xã hội.
Xã hội học coi lao động như là hành động xã hội có cấu trúc gồm các thành
phần: mục đích lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, điều kiện lao
động, chủ thể lao động và xu hướng lao động. Các yếu tố này có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Trong đó, vai trò quyết định với nghĩa là chủ động, tích cực "tác động,
17
điều tiết, kiểm soát" toàn bộ quá trình lao động thuộc về con người xã hội với tất cả
các đặc điểm, phẩm chất người được hình thành và phát triển trong cuộc sống. [11,
tr.122-123]
Chủ thể lao động: là cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm, phẩm
chất được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa và trong hoạt động lao
động. Chính chủ thể lao động với sự nỗ lực vật chất - tinh thần của họ đã gắn kết
các yếu tố lao động thành một quá trình sản xuất. Đồng thời, thông qua lao động,
con người không những cải tạo thế giới mà còn biến đổi chính bản thân mình.
[11,tr.122-123]
Như vậy, có thể định nghĩa rằng người lao động là các cá nhân thuộc các
nhóm, tổ chức xã hội với các đặc điểm và phẩm chất riêng được hình thành và phát
triển trong quá trình xã hội hóa và trong quá trình lao động.
1.1.2.3. Khái niệm "Dịch vụ giúp việc gia đình":
Hiện nay chưa có một định nghĩa chung nhất về dịch vụ giúp việc gia đình
dù cụm từ này được sử dụng trong rất nhiều văn bản và được chấp nhận trong xã
hội. Trên cơ sở những đặc trưng của loại hình dịch vụ này, tác giả xin đưa ra cách
hiểu của mình về dịch vụ giúp việc gia đình là loại hình dịch vụ thuộc khu vực kinh
tế phi chính thức nhằm cung cấp nguồn lao động làm các công việc nội trợ hoặc
chăm sóc các thành viên cho các gia đình có nhu cầu. Người được thuê giúp việc
trong gia đình trực tiếp làm những công việc như đi chợ, chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp
nhà cửa, trông trẻ, trông người già yếu và nhận lương theo thỏa thuận giữa người
thuê và người giúp việc.
Dịch vụ giúp việc gia đình còn có thể hiểu đơn giản là những công việc được
làm bởi người không phải thành viên của gia đình.
1.1.2.4. Khái niệm “Người giúp việc gia đình”:
"Người giúp việc gia đình, (người hầu hay người ở theo cách gọi trong các
xã hội trước đây )là những người làm việc và thường chung sống cùng hộ gia đình
với người thuê. Ở những hộ gia đình lớn, có thể có nhiều người giúp việc làm các
18
công việc khác nhau, như một phần của hệ thống thứ bậc phức tạp.
Người giúp việc gia đình thường làm những công việc như nấu ăn, giặt là,
dọn dẹp nhà cửa, đi chợ..., chăm sóc trẻ em. Tại nhiều nước, người giúp việc (phụ
nữ) giữ vai trò như y tá chăm sóc người già và người khuyết tật. Người giúp việc
(phụ nữ) thường được yêu cầu làm việc ít nhất 15 tiếng một ngày." [22]
Trong xã hội Việt Nam phong kiến, người giúp việc gia đình thường được
gọi bằng những cái tên như “con sen”, “thằng ở” với hàm ý khinh miệt, coi thường.
Sau này, khi bộ phim Nhật Bản có tên “Oshin” được trình chiếu tại Việt Nam với
nội dung chính xoay quanh cuộc đời của một người phụ nữ với tinh thần vượt khó
khăn, từ vị trí của một người giúp việc gia đình thành một người thành đạt thì cụm
từ “osin” xuất hiện và được dùng để chỉ người giúp việc trong gia đình. Đến nay,
cách gọi này vẫn được chấp nhận trong xã hội.
1.1.2.5. Khái niệm “Hoạt động giúp việc gia đình”:
Khái niệm “hoạt động giúp việc gia đình” được sử dụng trong đề tài này
dùng để chỉ một lĩnh vực dịch vụ nhằm cung cấp nguồn lao động thực hiện các công
việc chuyên biệt trong môi trường gia đình bao gồm những hoạt động như nội trợ,
dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc các thành viên, giúp các gia đình thực hiện tốt các chức
năng của mình. Bên cạnh đó, nó còn bao gồm các yếu tố liên quan như mối quan hệ
giữa người thuê và người lao động cả về mặt pháp luật và xã hội, mức độ hài lòng,
khả năng đáp ứng cũng như các nhu cầu, mong muốn của các bên.
1.1.2.6. Khái niệm “Nhu cầu”:
Nhà tâm lý học Abraham Maslow đã đưa ra học thuyết về nhu cầu trong bài
viết "A theory of Human Motivation" (tạm dịch là học thuyết về động lực của con
người) của mình năm 1943. Đây được coi là học thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc
nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con người nói chung và cho đến nay chưa có
thuyết nào thay thế tốt hơn cho học thuyết này. A.Maslow đã chia các nhu cầu của
con người thành hai nhóm: nhu cầu bậc thấp (bao gồm nhu cầu về thể chất và sinh
lý và nhu cầu về an toàn và an ninh) và nhu cầu bậc cao (nhu cầu về quyền sở hữu
và tình cảm, nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng, nhu cầu được thể hiện mình).
19
Theo đó, việc thoả mãn các nhu cầu bậc thấp sẽ giúp thoả mãn các nhu cầu bậc cao.
Và con người là thực thể xã hội, khác với các loài động vật khác, họ luôn hướng tới
việc thoả mãn các nhu cầu của mình, nói cách khác, họ hành động theo nhu cầu.
Việc được đáp ứng các nhu cầu từ thấp tới cao như một cái thang dẫn họ tới việc tự
hoàn thiện mình và giúp ích cho xã hội. [12]
Người giúp việc cũng là một nhóm đối tượng với những đặc trưng riêng, do
vậy họ cũng có những nhu cầu riêng gắn với hoàn cảnh sống và làm việc của mình.
Ở đây, chúng tôi cũng xem xét nhu cầu của người lao động theo hai nhóm nhu cầu
bậc thấp, bao gồm các nhu cầu về đảm bảo điều kiện sinh hoạt (nơi ăn, chỗ ở, chăm
sóc sức khỏe, nghỉ ngơi giải trí) và điều kiện làm việc và các nhu cầu bậc cao liên
quan đến nhu cầu về địa vị trong gia đình chủ nhà và đào tạo chuyên môn để được
nâng cao vị thế của mình.
1.1.2.7. Khái niệm “Chuyên môn”, “Đào tạo", "Đào tạo chuyên môn":
Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng
năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm,
lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm
nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã
hội. [13, tr.11]
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Khái niệm
đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, đào tạo được dùng để đề cập
đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ
nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo
chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo... [13,tr.11]
Đào tạo chuyên môn là hoạt động nhằm cung cấp kiến thức cũng như kỹ
20
năng chuyên sâu thuộc một lĩnh vực nghề nghiệp cho người lao động. [13,tr.11]
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
* Trên thế giới:
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ là sự phát
triển của các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ phục vụ gia đình. Đối với dịch vụ
giúp việc gia đình, Philippine là một trong những nước đứng đầu. Tác giả Parrenas
trong một nghiên cứu của mình năm 2000 đã chỉ ra rằng, hiện nay ước tính có hơn
2,2 triệu người giúp việc gia đình trong tổng số 6,5 triệu người lao động Philipine
làm việc ở hơn 100 nước trên thế giới. Đa số phụ nữ Philippine ra nước ngoài kiếm
sống đều tốt nghiệp phổ thông và qua đào tạo nghề, hơn nữa, họ lại thông thạo tiếng
Anh. Do đó, lao động của Philippnes làm nghề này có khả năng cạnh tranh rất lớn.
Chính phủ Philipine coi xuất khẩu lao động bao gồm cả lao động nữ giúp việc gia
đình như là một ngành kinh tế rất quan trọng của đất nước. Nguồn tiền gửi về gia
đình hàng năm của riêng số phụ nữ làm nghề giúp việc gia đình ước tính khoảng
14-16 tỷ đô la Mỹ [ 16, tr.560-580]
Theo báo cáo khảo sát của Viện Nghiên cứu Dân số và Xã hội của Đại học
Mahidol, Thái Lan (2007), sự tăng trưởng kinh tế của Thái Lan trong hơn 30 năm
qua cũng làm tăng mạnh mẽ số lượng các gia đình cần thuê người giúp việc gia
đình. Trong những năm 1980, các gia đình chủ yếu thuê người giúp việc là người
Thái. Bắt đầu từ những năm 1990, mức cung lao động giúp việc gia đình là người
Thái bị giảm đi, do kinh tế phát triển và tâm lý xã hội ít coi trọng nghề lao động
này, người lao động phổ thông ở Thái Lan có nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp hơn.
Sự thiếu hụt lao động giúp việc gia đình của xã hội Thái Lan đã thu hút những phụ
nữ lao động nghèo từ các nước láng giềng là Myanma, Lào và Căm Pu Chia. Những
năm gần đây, tham gia đội ngũ những người làm nghề giúp việc gia đình ở Thái
Lan có cả phụ nữ Việt Nam đến chủ yếu từ một số tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ
như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế.
Một nghiên cứu của Philip N.Cohen (Đại học Maryland College Park, 1998)
21
về sự thay thế công việc nhà trong nền kinh tế dịch vụ cũng đã đánh giá sự tiêu
dùng dịch vụ giúp việc gia đình. Qua phân tích số liệu cuộc điều tra sự tiêu dùng tại
Hoa Kỳ năm 1993, tác giả đã chỉ ra rằng việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình và
việc lựa chọn hình thức đi ăn bên ngoài đã giúp người phụ nữ giảm bớt gánh nặng
công việc nhà. Tác giả đã đánh giá sự tác động của các yếu tố: vị trí của người phụ
nữ trong hôn nhân (thu nhập, nghề nghiệp của người phụ nữ), địa vị kinh tế - xã hội
của gia đình (mức sống, chủng tộc, thu nhập, nghề nghiệp, học vấn của người
chồng) tới việc sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy,
nếu như mọi yếu tố khác là như nhau, những gia đình mà người phụ nữ có địa vị
cao hơn cũng như những gia đình có địa vị kinh tế- xã hội cao hơn sử dụng dịch vụ
giúp việc gia đình và đi ăn bên ngoài nhiều hơn. [5, tr.219-231]
Qua tìm hiểu một số nghiên cứu nước ngoài về chủ đề dịch vụ giúp việc gia
đình, có thể thấy chủ đề này đã được quan tâm tìm hiểu ở nhiều quốc gia trên các
khía cạnh khác nhau. Đây sẽ là cơ sở khoa học cho việc tiếp cận, so sánh kết quả
trong nghiên cứu tình hình thực tế Việt nam về thực trạng giúp việc gia đình, các
yếu tố tác động đến thực trạng này, những vấn đề còn tồn tại.
* Ở Việt Nam:
Lao động giúp việc gia đình là một hoạt động kinh tế xã hội có từ lâu đời ở
nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Hoạt động giúp việc gia đình ở
Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây trở nên phổ biến và phát triển so với giai
đoạn trước đó là do có nhiều gia đình có điều kiện kinh tế khá hơn hẳn so với thời
kỳ kinh tế bao cấp, cũng như sự dư thừa lao động phổ thông ở khu vực nông thôn
dưới tác động của công cuộc cải cách kinh tế. Một yếu tố cơ bản khác thúc đẩy loại
hình dịch vụ này phát triển là chính sách của Nhà nước ta cho phép và khuyến khích
phát triển dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân và phi chính thức. Yếu tố thứ ba là việc
mở rộng những hình thức quản lý về mặt hộ khẩu hay đăng ký tạm trú tạo điều kiện
để những người lao động nông thôn được tự do ra thành phố tìm việc làm.
Tác giả Mai Huy Bích trong bài viết “Người làm thuê việc nhà và tác động
của họ đến gia đình trong thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội” đã nghiên cứu lao động
22
làm thuê việc nhà của những người phụ nữ nghèo, ít học từ nông thôn ra thành thị.
Tác giả đã phân tích một số điểm tích cực và tiêu cực của hình thức lao động này.
Đó là nhu cầu thuê mướn lao động làm việc nhà nhưng điều này chưa được đáp ứng
vì người ta ra thành phố tìm việc làm khác chứ không phải để làm giúp việc gia
đình. Sự xuất hiện của loại hình giúp việc gia đình đã và đang khẳng định vai trò,
tầm quan trọng của công việc gia đình. Trước đây những công việc gia đình do
người vợ, người mẹ làm, thường không được tính đến, còn nếu thuê người làm thì
phải mất từ 300.000 đến 500.000 đồng/tháng với cơm nuôi và chỗ ở. Điều này đã
làm lay chuyển mạnh mẽ quan niệm thịnh hành lâu nay cho rằng việc nhà là loại
hình lao động chỉ tạo ra giá trị sử dụng chứ không tạo ra lời lãi, không được trả
công, không sinh lợi. [4]
Năm 2005, Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em đã thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu nhu cầu dịch vụ gia đình Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới”. Đề tài được tiến hành thành 2 giai đoạn dành cho khảo sát tại 2
địa bàn là thành thị và nông thôn và được áp dụng nhiều phương pháp khác nhau
trong đó có thu thập thông tin bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Dịch vụ gia đình
được đề cập tới trong đề tài này rất rộng, bao gồm 6 lĩnh vực từ y tế, chăm sóc sức
khỏe; chăm sóc học tập của con cái; nội trợ và sinh hoạt gia đình; phương tiện đi lại
tới giải trí văn hóa tinh thần. Trong đó, mảng hoạt động giúp việc gia đình được xếp
vào nhóm các dịch vụ phục vụ công việc nội trợ và sinh hoạt gia đình. Đề tài đã chỉ
ra rằng các gia đình hiện nay đã có nhu cầu sử dụng dịch vụ giúp việc gia đình.
Đồng thời cũng tìm hiểu thêm về lý do lựa chọn dịch vụ, đánh giá chất lượng dịch
vụ và những yếu tố tác động đến việc sử dụng người giúp việc gia đình. Tuy nhiên,
do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên hoạt động giúp việc gia đình mới chỉ
được đề cập như một trong các khía cạnh nhỏ của loại hình dịch vụ gia đình. Mặt
khác, đề tài mới chỉ nghiên cứu từ góc độ gia đình – đối tượng thụ hưởng dịch vụ
mà ít quan tâm tới đối tượng cung cấp dịch vụ. [21]
Một nghiên cứu khác của tác giả Lê Việt Nga năm 2005 đã thực hiện thu
thập thông tin từ cả ba đối tượng liên quan trực tiếp đến hoạt động này là người lao
23
động, chủ hộ gia đình thuê người giúp việc và người làm nghề môi giới hoạt động
này. Nghiên cứu này bước đầu chỉ ra những tác động của việc thuê người giúp việc
tới gia đình sử dụng dịch vụ, một số khó khăn trở ngại của các bên liên quan trong
hoạt động này. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhu cầu về thuê người giúp việc hiện
nay ở Hà Nội là rất lớn. Nghiên cứu của Lê Việt Nga chỉ dựa trên một qui mô mẫu
nghiên cứu khá nhỏ bao gồm 20 phỏng sâu người làm thuê, 20 người sử dụng lao
động và 5 cán bộ giới thiệu việc làm. Nghiên cứu chỉ mới tập trung vào một số khía
cạnh trong công việc của người lao động ở trong gia đình có sử dụng dịch vụ. [15]
Khảo sát của Dương Kim Hồng được tiến hành năm 2007 là một nghiên cứu
có liên quan trực tiếp nhất đến nội dung nghiên cứu của đề tài này. Khảo sát này đã
phần nào phản ánh được thực trạng hoạt động giúp việc gia đình ở hai thành phố
lớn nhất nước ta là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả của nghiên cứu này đã chỉ
ra hai loại hình cơ bản trong hoạt động giúp việc gia đình là người lao động ở ngay
trong nhà của gia chủ và người lao động thuê nhà trọ ở ngoài. Tuy nhiên, hạn chế
của nghiên cứu này là chỉ chủ yếu lấy ý kiến của những người là chủ hộ gia đình có
thuê người giúp việc và phỏng vấn một vài người giúp việc. Có 300 phiếu được
phát ra và dưới hình thức là phỏng vấn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện và email.
Do vậy, ít thu được những thông tin phản ánh trực tiếp tâm trạng, hoàn cảnh và
những nguyện vọng của người lao động giúp việc gia đình. [10]
Các nghiên cứu liên quan nêu trên đã phần nào cung cấp những thông tin về
các loại hình giúp việc gia đình hiện có nhưng chưa phân tích sâu về điều kiện làm
việc, điều kiện sinh hoạt của người lao động cũng như nhu cầu được đào tạo chuyên
môn của họ. Nhằm có đầy đủ luận cứ về mặt khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất
các kiến nghị về quản lý các hoạt động dịch vụ giúp việc gia đình, đề tài nghiên cứu
này sẽ tập trung vào tìm hiểu đặc điểm loại hình giúp việc gia đình, các nhu cầu của
người lao động đối với điều kiện sinh hoạt, điều kiện làm việc và đào tạo chuyên
24
môn.
1.2.2. Tổng quan địa bàn nghiên cứu:
Hà Nội là trái tim của đất nước, có vị trí và địa thế thuận lợi, là trung tâm
chính trị, kinh tế, vǎn hoá, thương mại, giao dịch quốc tế, du lịch, khoa học và đầu
mối giao thông quan trọng của Việt Nam.
Hà Nội có diện tích 3.324,92 km2, dân số 6.448.837 nghìn người, trong đó
dân số sống ở khu vực thành thị là 2.632.087 nghìn người, nông thôn là 3.816.750 nghìn người. Mật độ dân số bình quân hiện nay là 1.926 nghìn người/km2 [19]. Hà
Nội nằm ở đồng bằng Bắc bộ, tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở
phía bắc; phía nam giáp Hà Nam và Hoà Bình; phía đông giáp các tỉnh Bắc Giang,
Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú Thọ. Thành phố Hà
Nội có 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ,
Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 1 thị xã: Sơn Tây; và 18
huyện bao gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Ba Vì,
Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai,
Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà và Mê Linh.
Đề tài đã chọn 3 quận: Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa là những quận đại diện
cho mức độ phát triển đô thị khác nhau trong khu vực nội thành Hà Nội để tiến
hành điều tra về người giúp việc gia đình. Trong mỗi quận, nhóm nghiên cứu lựa
chọn 2 phường để tiến hành thu thập thông tin phục vụ đề tài. Có 6 phường được
chọn, cụ thể là: quận Ba Đình: phường Vĩnh Phúc, phường Quan Thánh; quận Đống
Đa: phường Cát Linh, phường Láng Thượng; quận Cầu Giấy: phường Nghĩa Tân,
phường Trung Hoà. Sau đây là vài nét khái quát về tình hình phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội và trật tự an ninh trên địa bàn 3 quận:
Quận Ba Đình có diện tích: 9,248 km2, dấn số: 225,282 người, với mật độ dân số trung bình: 24.360 người/km2. Ba Đình là quận nằm ở trung tâm của thủ đô
Hà Nội, phía bắc giáp quận Tây Hồ, phía nam giáp quận Đống Đa, phía đông giáp
sông Hồng, đông nam giáp quận Hoàn Kiếm, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Quận có
25
14 phường: Ngọc Hà, Đội Cấn, Cống Vị, Quán Thánh, Phúc Xá, Nguyễn Trung
Trực, Trúc Bạch, Điện Biên, Thành Công, Giảng Võ, Kim Mã, Ngọc Khánh, Liễu
Giai, Vĩnh Phúc.
Về kinh tế: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận năm 2008 đạt
2.410 tỷ đồng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ước đạt
12%, tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước đạt 15%. Giá trị giải ngân
các nguồn vốn ước được 43 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch. Chi ngân sách đảm bảo thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn từ
quận đến phường và các nhiệm vụ đột xuất; ước tổng chi ngân sách được 240,8 tỷ
đồng, đạt 99% kế hoạch.
Về văn hoá - xã hội: hoạt động của các cụm văn hoá thể thao, các câu lạc bộ
sức khoẻ ngoài trời, bóng đá, bóng bàn, cầu lông... phát triển mạnh. Quận đã tổ chức
các lễ hội đảm bảo nếp sống văn minh nơi thờ tự, an toàn, lành mạnh, tiết kiệm.
Công tác giáo dục - đào tạo đạt được kết quả tốt, tỷ lệ học sinh được xét tốt nghiệp
trung học cơ sở đạt 99,7% (tỷ lệ khá, giỏi là 62%), tỷ lệ học sinh được xét tốt nghiệp
tiểu học đạt 100% (tỷ lệ khá, giỏi là 88%). Trong năm qua, quận đã phối hợp tổ chức
cho vay vốn quỹ quốc gia với tổng số tiền ước được 7,3 tỷ đồng, góp phần giải quyết
việc làm cho gần 700 lao động.
Công tác dân số, gia đình và trẻ em đạt kết quả tốt. Mức giảm tỷ lệ sinh là
0,08%o, mức giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 0,02%. Thực hiện tốt các chiến
dịch truyền thông, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tư vấn pháp lý cho học sinh. Tiếp
tục thực hiện mô hình truyền thông khu dân cư đặc thù và mô hình cung cấp thông
tin, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho dân di cư, mô hình chăm sóc sức khoẻ
sinh sản tuổi vị thành niên, triển khai mô hình phòng chống tai nạn thương tích cho
trẻ em.
Về trật tự an ninh: trong năm qua, quận đã tiến hành điều tra khám phá 199
vụ phạm pháp hình sự, trong đó điều tra khám phá 10 vụ trọng án; phát hiện, xử lý
46 vụ phạm pháp kinh tế, 215 vụ phạm pháp về ma tuý; xử lý hình sự 01 đối tượng
26
lợi dụng khiếu kiện thường xuyên gây rối trật tự công cộng; kiểm tra trên 2.000 lượt
cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện về an ninh trật tự, xử lý 59 cơ sở vi phạm.
Địa bàn quận là nơi tập trung các cơ quan trung ương, do đó nhiệm vụ đảm bảo
tuyệt đối an toàn các hoạt động của Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế, các
hội nghị quốc tế diễn ra trên địa bàn quận được thực hiện tốt. Phối hợp giải quyết
các trường hợp tập trung đông người, khiếu kiện không đúng quy định tại các cơ
quan Trung ương, nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
- Quận Cầu Giấy được lập năm 1996, có diện tích: 12,04 km2, dân số: 147.000 người, với mật độ dân số trung bình: 12.209 người/km2. Quận có 8
phường: Nghĩa Đô, Quan Hoa, Dịch Vọng, Dịch Vọng Hậu, Trung Hoà, Nghĩa Tân,
Mai Dịch, Yên Hoà.
Về kinh tế: Thu ngân sách quận 6 tháng đầu năm 2009 đạt 535,5 tỷ đồng tăng
15% so với năm 2008, trong đó thu thuế đạt 302,6 tỷ đồng, thu xây dựng đạt 145,8
tỷ đồng. Hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn quận đạt 13.130,7 tỷ đồng
tăng 43% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó khu vực kinh tế cá thể đạt 1.842,8 tỷ
đồng, kinh tế hỗn hợp đạt 10.918,7 tỷ đồng, kinh tế tư nhân đạt 369,3 tỷ đồng. Giá
trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 139 tỷ đồng, trong đó khối các công
ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân đạt 58,7 tỷ đồng; khối các công ty cổ phần đạt 53 tỷ
đồng; khối doanh nghiệp tư nhân đạt 227 triệu đồng; khối kinh tế tập thể đạt 250
triệu đồng; hộ cá thể đạt 26,8 tỷ đồng.
Về văn hoá - xã hội: Giáo dục và đào tạo được thực hiện một cách toàn diện,
chất lượng giáo dục được nâng cao, tỷ lệ học sinh xếp loại giỏi ở bậc tiểu học đạt
84,12%; bậc THCS đạt 41,7%. Công tác y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình thực
hiện tốt, công tác xã hội được quan tâm, quận đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho
2.500 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Các hoạt động thông tin tuyên truyền văn hoá,
văn nghệ, thể dục thể thao triển khai sâu rộng đảm bảo phục vụ tốt các nhiệm vụ
chính trị.
Về trật tự an ninh: tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục
27
được giữ vững và ổn định. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên
mọi lĩnh vực, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật với 42 hội nghị thu hút
4.120 người tham gia. Công tác hoà giải ở cơ sở đã hoà giải được 162/196 vụ việc
đạt tỷ lệ 82,65%. Quản lý đô thị, vệ sinh môi trường được triển khai có hiệu quả,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn được đảm bảo.
- Quận Đống Đa có diện tích 9.96 km², dân số 352.000 người, với mật độ dân số trung bình 35,341 người/km2, là một quận đông dân số nhất trong các quận,
huyện của Hà Nội. Phía bắc giáp quận Ba Đình, phía đông bắc giáp quận Hoàn
Kiếm, phía đông giáp quận Hai Bà Trưng, phía nam giáp quận Thanh Xuân, phía
tây giáp quận Cầu Giấy. Đống Đa, có 21 phường: Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hàng
Bột, Nam Đồng, Trung Liệt, Khâm Thiên, Phương Liên, Cát Linh, Văn Chương,
Phương Mai, Khương Thượng, Ngã Tư Sở, Láng Thượng, Ô Chợ Dừa, Quang
Trung, Thổ Quan, Trung Phụng, Kim Liên, Trung Tự, Thịnh Quang, Láng Hạ.
- Về kinh tế: Năm 2008 thu ngân sách đạt 843,64 tỷ đồng, tăng 29,2% so với
kết quả thực hiện năm 2007, có 10/10 khoản thu đạt và vượt kế hoạch. Thuế công
thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm 72,38% tổng thu, tăng 48,5% so
với năm 2007. Quận đã hoàn thành vượt mức công tác thu ngân sách và tạo chuyển
biến tốt về kinh tế với tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009
tổng thu ngân sách nhà nước đạt 573,8 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài
quốc doanh đạt 772,6 tỷ đồng tăng 7,25% so với cùng kỳ năm trước, tăng chủ yếu ở
ngành sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất thiết bị điện.
- Về văn hoá - xã hội: Triển khai kế hoạch tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử
văn hoá và khoanh vùng bảo vệ di tích Lăng Hoàng Cao Khải, đón nhận Bằng xếp
hạng di tích lịch sử Đình Thịnh Quang. Vận động được trên 90% nhân dân tại các
tuyến phố treo cờ tổ quốc trong các dịp lễ, tết, 98% hộ gia đình đăng ký gia đình
văn hoá, 95% tổ dân phố đăng ký tổ dân phố văn hoá.
- Về trật tự an ninh: Năm 2008, công tác đấu tranh xử lý tội phạm được tăng
cường, đã phát hiện xử lý 72 vụ vi phạm các quy định về trật tự quản lý kinh tế, thu
28
nộp ngân sách Nhà nước 1,5 tỷ đồng; phạm pháp hình sự xẩy ra 515 vụ, giảm 115
vụ so với năm 2007, đã khám phá 380 vụ đạt tỷ lệ 83,3%. Quận đã cơ bản giải
quyết dứt điểm đơn thư tồn đọng, kịp thời phát hiện và xử lý dịch bệnh, giữ vững an
29
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Một số đặc trƣng nhân khẩu - xã hội của ngƣời giúp việc gia đình và hộ gia
đình thuê ngƣời giúp việc:
2.1.1. Nhóm người giúp việc gia đình:
2.1.1.1. Tuổi:
Số liệu cho thấy độ tuổi của người giúp việc trong gia đình (sau đây xin gọi
là người giúp việc) có khoảng cách khá rộng, từ 14 đến 64 tuổi, trong đó tỷ lệ người
trong độ tuổi thanh niên (14-28) chiếm 36.2%, tỷ lệ người trung niên (32-49) chiếm
37.3% và người thuộc độ tuổi từ 50 đến 64 chiếm 26.5%. Tỷ lệ trẻ em (14-16 tuổi)
tham gia làm giúp việc gia đình là 6.7%.
2.1.1.2. Giới tính:
Với đặc thù hoạt động của nghề giúp việc gia đình là những công việc mang
tính chất "việc nhà" hoặc chăm sóc người già, em bé nên tỷ lệ phụ nữ tham gia làm
nghề này chiếm đa số. Điều tra cho thấy có tới 96.7% người giúp việc là nữ, chỉ có
1.3% ( 4 trường hợp) người giúp việc là nam. Và cả 4 trường hợp này đều chỉ làm
công việc phụ giúp bán hàng cho gia đình. Nếu trước đây trong xã hội phong kiến,
người giúp việc nhà có cả nam và nữ phụ trách những công việc khác nhau (thường
được gọi là vú em, anh bếp, "con sen", "thằng ở") thì dần dần cùng với quá trình
biến đổi xã hội, loại hình nghề nghiệp này cũng thu hẹp lại đối tượng tham gia khi
hầu như chỉ có người phụ nữ làm công việc này. Cùng với điều này, đồng nghĩa với
rất nhiều những vấn đề nảy sinh khi những gia đình thiếu vắng người mẹ, người vợ
trong một thời gian dài.
2.1.1.3. Trình độ học vấn:
Người giúp việc gia đình đa số có trình độ học vấn là cấp 2, chiếm 58%;
người có học vấn cấp 1 chiếm 25.3%, người có học vấn cấp 3 chiếm 16% và 0.6 %
30
(2 trường hợp) hiện là sinh viên làm công việc này nhưng chỉ phụ giúp bán hàng.
2.1.1.4. Nơi xuất thân:
Địa bàn tiến hành khảo sát là thành phố Hà Nội, do vậy nơi xuất thân của
người giúp việc tập trung ở các tỉnh từ khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung cho tới trung du miền núi phía Bắc. Trong đó, người giúp việc có quê quán
thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng chiếm 54.2%; khu vực trung du và miền núi
phía Bắc có số lượng người giúp việc chiếm 26.6% và khu vực bắc Trung bộ và
duyên hải miền Trung chiếm 19.2%. Khi so sánh các tỉnh thì Thái Bình là địa
phương có người đi làm nghề giúp việc gia đình cao nhất, chiếm 14%, Hà Tây (nay
thuộc Hà Nội) và Thanh Hóa có tỷ lệ người đi làm giúp việc thấp hơn, chiếm
12.7%; còn lại là các tỉnh khác.
2.1.1.5. Tình trạng hôn nhân:
Đa số người giúp việc thuộc mẫu điều tra chưa lập gia đình, chiếm 57.3%.
Tỷ lệ người đã có gia đình là 34.7%, người hiện đang góa bụa là 6.7%, người đang
ly thân là 0.7%.
2.1.2. Hộ gia đình thuê người giúp việc:
2.1.2.1.Quy mô và cơ cấu hộ gia đình thuê người giúp việc:
Các hộ gia đình Hà Nội thuộc địa bàn khảo sát có số nhân khẩu từ 1-4 người
chiếm 46.7%, các gia đình có từ 6 tới 10 người chiếm 53.3 %. Như vậy, có thể thấy
gia đình có quy mô lớn chiếm ưu thế trong tổng số hộ gia đình tham gia điều tra.
Đối với cơ cấu của hộ, số liệu cho thấy điều thú vị là các gia đình hạt nhân
chiếm 40.7%, trong khi đó số gia đình mở rộng chiếm tới 59.3%. Như vậy, xu
hướng nhiều thế hệ sống trong cùng một gia đình vẫn chiếm ưu thế trong mô hình
chung sống của gia đình Hà Nội tại địa bàn khảo sát.
Số các gia đình có trẻ dưới 6 tuổi chiếm 64.7% và số các gia đình có người
cao tuổi cùng chung sống chiếm 62.7% trên tổng số hộ gia đình tham gia nghiên
cứu.
2.1.2.2.Nghề nghiệp của người được hỏi:
Cơ cấu nghề nghiệp của các gia đình có thuê người giúp việc tương đối đa
31
dạng. Trong đó tỷ lệ người đang làm việc cho khối các cơ quan nhà nước, và người
đã về hưu chiếm tỷ lệ tương đối so với các lĩnh vực nghề nghiệp khác. Nhóm gia
đình hoạt động trong lĩnh vực buôn bán, kinh doanh nhỏ chiếm tỷ lệ thấp hơn hai
nhóm trên. Còn lại là các loại hình nghề nghiệp như nhân viên văn phòng, bán hàng
dịch vụ, công nhân, giáo viên...
Cơ cấu nghề nghiệp phản ánh đặc thù của các gia đình thuê người giúp việc,
theo đó, các gia đình làm tại các cơ quan nhà nước hoặc đã từng làm việc trong khối
cơ quan, doanh nghiệp hưởng lương từ ngân sách có tỷ lệ thuê người giúp việc cao
hơn so với các nhóm nghề nghiệp khác. Bởi, đây là nhóm có thời gian làm việc hầu
như cố định theo ngày nên ít có thời gian dành cho hoạt động chăm sóc gia đình đặc
biệt là trẻ nhỏ và người cao tuổi, đồng thời mức thu nhập trung bình cho phép họ có
điều kiện để thuê người giúp việc.
Bảng 2.1: Nghề nghiệp của ngƣời đƣợc hỏi (Tỷ lệ %)
Chồng Vợ Nghề nghiệp Tần Tần Nghề nghiệp của chồng Tỷ lệ Tỷ lệ suất suất
Cán bộ viên chức Nhà nước 78 26.4% 80 27.2%
Công nhân 8 2.7% 2 0.7%
Nhân viên văn phòng, bán hàng, dịch vụ 21 7.1% 38 12.9%
Công an, quân đội 18 6.1% 2 0.7%
Giáo viên 2 0.7% 10 3.4%
Buôn bán kinh doanh nhỏ 44 14.9% 38 12.9%
112 38.0% 106 36.1% Hưu trí
12 4.1% 8 2.7% Lao động tự do
0 0% 10 3.4% Nội trợ
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
32
295 100% 294 100% Tổng
2.1.2.3. Loại hình nhà ở:
Loại hình nhà ở là một trong những yếu tố thể hiện mức sống của gia đình. Ở
địa bàn khảo sát, có 79.2% gia đình đang ở nhà có từ 2 đến 3 tầng kiên cố trở lên,
2.0% gia đình ở các chung cư hiện đại, 17.4% hiện ở tại các chung cư kiểu cũ và số
gia đình đang ở nhà cấp 4 chỉ chiếm 1.3%. Đây là một yếu tố cho thấy mức sống
ngày một nâng cao của các gia đình ở Hà Nội và chỉ ra phần nào đặc điểm của các
gia đình thuê người giúp việc là đa số đều có mức sống từ trung bình trở lên.
2.2. Thực trạng hoạt động giúp việc tại Hà Nội hiện nay:
2.2.1. Lý do lựa chọn nghề giúp việc và nguồn giới thiệu:
2.2.1.1. Lý do lựa chọn nghề giúp việc
E.S.Lee, nhà nghiên cứu thuộc đại học Pensylvania, Hoa Kỳ khi nghiên cứu
về lý thuyết di cư đã tổng kết một số các yếu tố quyết định đến việc di cư của người
dân từ nông thôn ra thành thị. Ông chia thành hai nhóm yếu tố:
- Yếu tố tiêu cực: nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế, thiếu đất, mức sống
thấp ở quê nhà.
- Yếu tố tích cực - sự thịnh vượng, cơ hội, công việc làm ăn, mức sống cao ở nơi
đến…
Trong hai nhóm yếu tố này, những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc
người ta phải rời nơi sinh sống của mình còn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp
dẫn của nơi đến. [16]
Áp dụng lý thuyết của E.S.Lee khi tìm hiểu về lý do làm nghề giúp việc gia
đình, chúng ta có thể thấy rằng một trong những nguyên nhân căn bản là mức sống
thấp tại vùng nông thôn, sự khó khăn khi tìm kiếm các công việc có thu nhập để
trang trải cuộc sống.
Khi tìm hiểu về việc làm ở quê trước khi làm giúp việc gia đình, 56% người
trả lời cho biết họ đang đi làm, 20% đang đi học, 19.3% không có việc làm và 4.7%
ở nhà làm nội trợ. Như vậy số người có thu nhập thường xuyên từ công việc chỉ
chiếm hơn một nửa số người trả lời. Đối với nhóm này, thu nhập của họ từ công
33
việc ở mức như sau:
Bảng 2.2: Thu nhập từ công việc trƣớc khi làm giúp việc gia đình (Tỷ lệ %)
Mức thu nhập Tần suất Tỷ lệ
Dưới 500.000 đồng 106 79%
Từ 550.000 - 1.000.000 24 18%
Từ 1.200.000 - 1.500.000 4 3%
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
Tổng 134 100%
Số người có thu nhập dưới 500.000 đồng/tháng chiếm đa số trong số người
giúp việc tham gia trả lời câu hỏi này, 79% số người được hỏi. Số người có mức thu
nhập từ 1.200.000 đến 1.500.000 đồng/tháng chỉ chiếm 3%. Số người giúp việc
trong độ tuổi lao động thuộc nghiên cứu này chiếm tỷ lệ cao, họ là những lao động
chính trong gia đình của mình, tuy nhiên với mức thu nhập ít ỏi như những con số
trên đã phản ánh thì rõ ràng họ buộc phải tìm kiếm những công việc khác có tiền
công hợp lý hơn để có thể nuôi sống mình và gia đình của mình. Khi đó, khu vực đô
thị với sự đa dạng hơn về loại hình công việc và mức sống cao là thị trường việc
làm hấp dẫn để thu hút lao động từ nông thôn, đặc biệt là người phụ nữ.
Một giả thuyết thứ hai về lý do lựa chọn nghề giúp việc gia đình là sự thu
hẹp diện tích đất nông nghiệp tại khu vực nông thôn. 54.2% người giúp việc xuất
thân từ các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, đây cũng chính là một trong
các khu vực đang diễn ra quá trình thu hẹp đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Theo
thông tin từ trang tin điện tử của tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam thì đồng bằng
sông Hồng là vùng có diện tích đất nông nghiệp thu hồi lớn so với cả nước. Trong
khi đó, người nông dân bị thu hồi đất lại chưa được chuẩn bị kỹ năng cũng như cơ
hội để tham gia vào các lĩnh vực lao động mới. Điều này đã vô tình đẩy nhiều nông
34
dân phải đối mặt với việc tự bươn chải trong thị trường lao động đầy cạnh tranh. Và
họ phải tự mình tìm kiếm những cơ hội việc làm để có thể ổn định cuộc sống mà
giúp việc gia đình là một trong số đó. (Xem thêm hộp 1.1, Phần Phụ lục).
Như vậy hai lý do chi phối nhiều nhất tới quyết định làm giúp việc gia đình
là để có thêm thu nhập nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và sự thu hẹp diện tích
đất nông nghiệp dẫn tới thiếu việc làm ở khu vực nông thôn.
2.2.1.2. Nguồn giới thiệu và chi phí môi giới:
Sự thay đổi của hoàn cảnh sống trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy
người lao động phải năng động tìm kiếm cơ hội việc làm cho mình. Nghề giúp việc
gia đình tại Việt Nam hiện nay đang trở thành một công việc mới, đáp ứng nhu cầu
của cả hai nhóm người có thu nhập nhưng thiếu thời gian, nguồn lực (sức lực, khả
năng) dành cho các công việc gia đình và người chưa có việc làm hoặc việc làm có
thu nhập thấp nhưng có thời gian và năng lực đáp ứng. Kênh kết nối hai nhóm đối
tượng này với nhau cũng rất đa dạng, phản ánh đặc trưng của loại hình nghề nghiệp
này.
Bảng 2.3: Nguồn giới thiệu công việc cho ngƣời giúp việc gia đình (Tỷ lệ %)
Nguồn giới thiệu Tần suất Tỷ lệ
Trung tâm môi giới việc làm 12.7% 38
32.7% Bà con, họ hàng 98
50% Bạn bè, người quen 150
4.7 Tự tìm đến 14
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
100% Tổng 300
Số liệu cho thấy, nguồn giới thiệu công việc cho người giúp việc chiếm tỷ lệ
cao là bạn bè, người quen (50%), sau đó là tới nhóm bà con, họ hàng (32.7%). Tại
Việt Nam hiện nay, giúp việc gia đình chưa phải là một nghề nghiệp chính thức,
35
đồng thời chưa có một cơ quan, tổ chức nhà nước nào đào tạo cũng như cung cấp
nguồn lao động này cho thị trường mà mới chỉ có các trung tâm giới thiệu việc làm
thực hiện chức năng môi giới. Với tính chất công việc và phạm vi hoạt động là tại
các gia đình nên cả người thuê và người tìm việc đều mong muốn tìm hiểu kỹ về
người làm việc hoặc gia đình tới làm việc. Do vậy, nhóm đối tượng thân quen và có
khả năng biết rõ về hoàn cảnh sống của gia đình đang tìm người chiếm lợi thế hơn
so với các trung tâm môi giới việc làm. Một lý do nữa là hoạt động của các trung
tâm môi giới việc làm còn nhiều điều đáng bàn, trong đó những phản ánh tiêu cực
nhiều hơn là đánh giá tích cực cả từ phía người thuê và người lao động. Người giúp
việc vốn không thể trông cậy vào tổ chức nào bảo vệ quyền lợi của mình, cần có sự
đảm bảo và giúp đỡ khi cần thiết từ những người thân quen hơn là từ phía đại diện
các trung tâm - thường chỉ làm việc với mục đích lợi nhuận hơn là quan tâm tới
quyền lợi người lao động.
Số người giúp việc tự tìm được công việc cho mình chiếm tỷ lệ thấp, 4.7%
bởi đa số họ đều có nơi cư trú tại những địa phương khác Hà Nội nên khó nắm bắt
được những thông tin về công việc tại địa bàn này.
Một số người giúp việc nhờ trung tâm hoặc người quen giới thiệu công việc
cho mình phải trả tiền cho môi giới. Số tiền dao động từ 250.000 đồng/lần đến
800.000 đồng/lần. Qua phỏng vấn sâu thì thường là những người thuê phải chịu
phần chi phí này cho phía môi giới. Cũng có trường hợp, người giúp việc phải trả
chi phí như số liệu đã phản ánh.
2.2.2. Các loại hình công việc:
Loại hình công việc mà người giúp việc đảm nhận là một trong những nội
dung nghiên cứu quan trọng khi tìm hiểu về thực trạng hoạt động giúp việc gia đình
hiện nay. Bởi chỉ báo này sẽ cho chúng ta biết về những mảng dịch vụ dành cho
nhóm gia đình mà xã hội có thể cung cấp được tốt nhất, đồng thời chỉ ra tính chất
cũng như những đặc trưng của công việc giúp việc gia đình hiện nay.
2.2.2.1. Chia theo nội dung công việc:
Với tiêu chí phân loại là nội dung công việc hiện đang thực hiện thì số liệu
36
cho thấy tỷ lệ người giúp việc phụ trách nhóm việc liên quan tới công việc nội trợ,
dọn dẹp nhà cửa là cao nhất. Điều này cho thấy sự thay đổi trong việc thực hiện vai
trò giới của người phụ nữ trong gia đình bởi việc nhà vốn luôn được coi là thuộc về
người vợ, người mẹ dần dần được chuyển giao sang cho người giúp việc. Và vế thứ
hai của sự biến đổi này là những người giúp việc nữ không còn thực hiện việc chăm
sóc gia đình của mình mà phải dành thời gian cho việc kiếm tiền ngoài xã hội.
Bảng 2.4: Nội dung công việc của ngƣời giúp việc gia đình (Tỷ lệ %)
Nội dung công việc Tần suất Tỷ lệ
Dọn dẹp vệ sinh nhà cửa 284 94.7%
Chuẩn bị bữa ăn 270 90%
Giặt giũ 258 86%
Trông coi trẻ em 189 60%
Đi chợ 126 42%
Trông coi người già đau yếu 62 20.7%
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
Việc khác 82 27.3%
Nhóm việc liên quan tới chăm sóc người già và trẻ em chiếm tỷ lệ ít hơn,
trong đó 60% người giúp việc giúp trông coi các em nhỏ và 20.7% trông coi người
già đau yếu. Đây cũng chính là một trong những lý do các gia đình cần thuê người
giúp việc bởi cả hai nhóm này đều đòi hỏi có người thường xuyên ở bên cạnh, chăm
sóc
Theo quy định của Nhà nước, sau khi kết thúc thời gian nghỉ thai sản 4
tháng, người mẹ thường phải trở lại làm việc. Trong khi đó, các trường học mầm
non lại chỉ nhận trẻ đủ 3 tuổi, cho dù Điều lệ về trường mầm non mới có nêu rõ về
việc tiếp nhận trẻ từ 3 tháng tuổi. Nhưng trên thực tế, quy định mới chỉ là quy định,
còn cả nhà trường và cha mẹ đều có những e ngại riêng ảnh hưởng tới quyết định
gửi cũng như nhận trông trẻ ở lứa tuổi này. Và rất nhiều gia đình phải lựa chọn giải
37
pháp là thuê người giúp việc để giúp trông nom con nhỏ khi cha mẹ phải đi làm.
Còn đối với người cao tuổi, truyền thống của gia đình Việt Nam và sự hạn chế của
các loại hình dịch vụ dành cho đối tượng này khiến cho các thành viên trong gia
đình nếu không thể trực tiếp chăm sóc thì phải thuê người đảm nhận thay mình.
Việc chia loại hình công việc theo tiêu chí nội dung không phải hoàn toàn
chính xác vì đa số người giúp việc thường làm nhiều việc trong gia đình. Tuy nhiên,
chỉ báo này này giúp chúng ta thấy được tính đa dạng của công việc của người giúp
việc gia đình cũng như phản ánh phần nào sự thay đổi trong việc thực hiện các chức
năng của gia đình hiện nay.
2.2.2.2.Chia theo thời gian làm việc:
Tiêu chí thứ hai dùng để xác định loại hình công việc của hoạt động giúp
việc gia đình là thời gian làm việc. Đa số người giúp việc thuộc mẫu điều tra đều
làm việc theo ngày, tức là ở cùng với gia đình thuê, chiếm 98% số mẫu. Chỉ có 2%
(6 trường hợp) người giúp việc làm theo giờ và không ở cùng với gia đình chủ nhà.
Đối với nhóm người giúp việc ở cùng chủ nhà, thời gian làm việc của họ là không
xác định bởi họ thường bắt đầu làm việc từ sáng và chỉ kết thúc khi công việc mà họ
"Hỏi(H): Thời gian làm việc của cháu như thế nào?
Trả lời (TL): Cháu thường dậy lúc 6h sáng và đi ngủ khoảng 10h tối.
H: Tức là làm việc liên tục từ sáng tới lúc đó à?
TL: Vâng, sáng thì cháu trông em, cho em ăn, trưa cô về cô cho em ăn và ngủ. Trưa
cháu ngủ với em rồi nếu có thời gian thì tranh thủ lau nhà. Em dậy lại cho em ăn. Cô về
thì cháu nấu cơm. Rồi thì rửa bát, dọn dẹp, giặt giũ. Hết việc cũng phải 10h tối".
(PVS người giúp việc, 14 tuổi, Đống Đa).
được giao kết thúc.
Đối với nhóm người giúp việc theo giờ, thời gian làm việc của họ tùy thuộc vào sự
thỏa thuận giữa họ và chủ nhà. Thù lao được tính theo giờ và được trả theo ngày
hoặc tuần bởi tính chất công việc của họ không liên tục. Tại thời điểm hiện nay, đây
38
cũng là một dịch vụ được các gia đình ưa thích bởi nó không đòi hỏi sự cam kết lâu
dài cũng như phải chia sẻ không gian riêng tư hay tránh được những mâu thuẫn,
xung đột.
Những người làm việc theo giờ thường là những người có nơi ở ngay trên địa
bàn Hà Nội hoặc lân cận, họ cũng có thể có những công việc khác và làm giúp việc
trong thời gian rỗi rãi như một cách tăng thu nhập cho bản thân và gia đình. Thu
nhập của người làm việc theo giờ tương đối cao hơn so với người giúp việc theo
"H: Thế mỗi giờ em được trả bao nhiêu?
TL: Trước thì 10.000 đồng, bây giờ là 15.000 đồng chị ạ.
H: Em thấy làm việc thế này có thoải mái không?
TL: Nói chung là thoải mái vì không bắt buộc cái gì. Có nhà em đến thường xuyên,
có nhà lại chỉ khi cần họ gọi mới đến. Đến làm xong thì về, chả phải nói chuyện nói trò gì,
xong là về thôi"
(PVS người giúp việc theo giờ, 25 tuổi, Cầu Giấy)
ngày.
Như vậy, xét theo tiêu chí là thời gian làm việc thì hình thức giúp việc gia
đình theo ngày phổ biến hơn bởi nó đáp ứng được nhu cầu của cả nhóm gia đình và
người lao động. Đối với người lao động (mà ở đây phần lớn là người ngoại tỉnh), họ
không phải lo lắng về nơi ăn chốn ở của mình, còn với nhóm gia đình, họ có thể yên
tâm khi không phải phụ thuộc vào thời gian làm việc của người lao động.
2.2.3. Thù lao của người giúp việc gia đình:
2.2.3.1. Tiền công:
Tiền công là một yếu tố quan trọng quyết định đến việc lựa chọn công việc.
Như đã phân tích ở phần trên, một trong những lý do cơ bản của lựa chọn đi làm
giúp việc gia đình là những người phụ nữ này không thể kiếm đủ thu nhập để chi
tiêu cho bản thân và gia đình tại nơi mình sinh sống.
Nghiên cứu này chia mức tiền công mà những người giúp việc nhận được
thành 2 mức: từ 700.000 đồng/tháng (mức tiền công thấp nhất mà người giúp việc
được nhận) tới 1 triệu đồng/tháng và trên 1 triệu đồng/tháng. Sở dĩ tác giả lựa chọn
39
cách chia như thế này bởi thứ nhất là căn cứ vào đặc điểm của thị trường loại hình
lao động này, thứ hai, đối với người Việt Nam nói chung, từ 1 triệu đống trở lên có
thể được coi là một khoản tiền có giá trị, nó giống như tiêu chí để đánh giá chất
lượng người giúp việc gia đình.
Biểu đồ 2.1: Tƣơng quan giữa độ tuổi ngƣời giúp việc và tiền công hàng tháng
(Tỷ lệ %)
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
Nếu tính thời gian làm việc của mỗi ngày là 8 tiếng và một tuần làm 7 ngày
thì với mức lương là 1 triệu đồng, mỗi giờ trong một tháng, một người giúp việc
được trả là 4.464 đồng. Số tiền công này thấp hơn nhiều so với mức tiền công mà
người giúp việc theo giờ được hưởng. Tuy nhiên, vì những lý do như mọi chi phí
dành cho ăn, nghỉ, sinh hoạt đã được chủ nhà chi trả nên mức lương như vậy vẫn
được coi là hợp lý cho cả hai đối tượng người thuê và người lao động.
Xét tương quan giữa độ tuổi của người giúp việc với tiền công nhận được,
chúng ta có thể thấy với mức tiền công từ 1 triệu đồng trở xuống, nhóm có độ tuổi
từ 14 đến 29 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, còn với mức tiền công trên 1 triệu đồng thì
40
nhóm người giúp việc từ 30 đến 49 tuổi lại chiếm ưu thế. Có thể nhận định rằng,
kinh nghiệm và tuổi đời là những yếu tố quyết định tới mức tiền công được trả. Với
nhóm thanh niên, đây là nhóm có sức khỏe nhưng lại thiếu kinh nghiệm làm việc,
thêm nữa vì còn trẻ nên thời gian họ làm nghề giúp việc chưa lâu. Do vậy, tiền công
họ nhận được thường ở mức khởi điểm.
Với nhóm người giúp việc từ 50 tuổi trở lên, đây là những người có tuổi đời
cao nhưng lại gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là trong tiếp thu những kiến thức, kỹ năng
mới khi gia nhập vào cuộc sống của một gia đình mới. Đặc biệt, với phụ nữ từ 50
tuổi trở lên, sức khỏe giảm sút nên họ không thể đáp ứng được hết những yêu cầu
của chủ nhà đặt ra trong công việc, nhất là khi hầu hết các việc nhà đều do người
giúp việc đảm nhiệm.
Nhóm tuổi trung niên được coi là độ tuổi lý tưởng bởi đây là nhóm tuổi có
độ chín về sức khỏe, kiến thức và kỹ năng. Đây cũng là những người đã có gia đình
hoặc có con nhỏ do vậy có kinh nghiệm hơn nhóm thanh niên đồng thời xốc vác và
khéo léo hơn nhóm người lớn tuổi. Đây là lý do nhóm tuổi này chiếm ưu thế khi xét
theo mức tiền công được trả là trên 1 triệu đồng một tháng.
Đối với hình thức trả tiền công thì đa số người giúp việc được nhận tiền
lương theo tháng (chiếm 72%), 21.3% được nhận trước mỗi lần về quê, 4.7% được
nhận theo quý và chỉ có 2% người giúp việc không nhận mà được gửi trực tiếp cho
gia đình ở quê.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra nhận định rằng chỉ báo về tuổi có tác động
tới mức tiền công mà người giúp việc nhận được bởi nó liên quan tới kinh nghiệm,
độ chín chắn cũng như yếu tố sức khỏe và sự ổn định của cá nhân.
2.2.3.2. Việc sử dụng tiền công của người giúp việc gia đình và số tiền gửi về nhà
hàng tháng:
Đối với người giúp việc gia đình thì động cơ đi làm nghề giúp việc gia đình
xét đến cùng thì cũng giống như bao nghề nghiệp khác, đó là có thu nhập để nuôi
sống bản thân và gia đình của mình. Khi được hỏi "Chị đi làm giúp việc để nuôi
41
ai?", số liệu cho thấy những đối tượng được hưởng lợi ích từ sự lao động của người
giúp việc bao gồm 4 nhóm: con cái, chồng, cha mẹ già yếu và bản thân người giúp
việc.
Trong đó 41.3% người trả lời cho biết mục đích đi làm là để nuôi bố mẹ già
yếu, 46% là để có thu nhập chi cho bản thân, 36% là để nuôi con và 9.3% là để nuôi
chồng. Cho dù phương án cuối cùng có tỷ lệ lựa chọn không cao nhưng cũng cho
chúng ta thấy một thực tế đang tồn tại là đang có những người phụ nữ phải làm việc
như lao động chính trong gia đình khi mà lẽ ra người chồng cũng phải là người lao
động để kiếm thu nhập.
Số tiền gửi về nhà hàng tháng của người giúp việc được chia thành 3 mức là
dưới 700.000 đồng/tháng, từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng/tháng và trên
1.000.000 đồng/tháng để tiện so sánh với mức tiền công mà họ nhận được.
Bảng 2.5: Số tiền gửi về nhà hàng tháng (Tỷ lệ %)
Từ 700.000 Dƣới 700.000 Trên 1 triệu đồng đến 1 Tổng Phƣơng án đồng đồng triệu đồng
112 44 Tần suất 50 206
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
54.4% 21.3% Tỷ lệ 24.3% 100%
Có 68.6% người giúp việc (206 trường hợp) có gửi tiền về nhà hàng tháng
bởi đối tượng tham gia thụ hưởng thu nhập của người giúp việc hầu hết là đối tượng
phụ thuộc, chưa thể hoặc không thể lao động để nuôi sống bản thân (phần lớn là cha
mẹ già yếu và con nhỏ).
Số tiền gửi về nhà được chia thành 3 mức như bảng 1.5 và kết quả cho thấy
trong 206 người giúp việc có tới 54.4% số người giúp việc có gửi tiền về nhà
thường gửi từ 700.000 đồng đến 1 triệu đồng hàng tháng cho gia đình ở quê, 24.3%
gửi dưới 700.000 đồng và 21.3% gửi trên 1 triệu đồng. Và khi so sánh tỷ lệ giữa
42
mức tiền công nhận được với số tiền gửi về cho gia đình, có thể thấy rằng người
giúp việc gia đình dành một phần không nhỏ thu nhập của mình cho việc nuôi sống
và phụ giúp gia đình. Và thực tế cho thấy, thu nhập của người lao động di cư gửi về
cho gia đình là một phần quan trọng trong đời sống kinh tế của gia đình họ.
Để xem xét rõ hơn vai trò của người lao động giúp việc đối với gia đình họ,
chúng ta sẽ tìm hiểu mục đích sử dụng của khoản tiền mà người giúp việc gửi về
nhà.
Bảng 2.6: Mục đích sử dụng của nguồn tiền gửi về gia đình (Tỷ lệ %)
Phƣơng án Tần suất Tỷ lệ
Sản xuất nông nghiệp 70 23.3%
Tiểu thủ công nghiệp 2 0.7%
Buôn bán kinh doanh 2 0.7%
Học hành 94 31.3%
Chăm sóc sức khỏe 98 32.7%
Giỗ chạp, ma chay, cưới xin 32 10.7%
Mua đất 0 0%
Tu sửa thiết kế nhà cửa 0 14%
Mua sắm đồ đạc có giá trị 40 13.3%
Chi tiêu hàng ngày 112 37.3%
Trả nợ 56 18.7%
Cho vay/để dành/gửi tiết kiệm 74 24.7%
(Nguồn số liệu: Đề tài khoa học cấp Bộ ”Nghiên cứu thực trạng một số loại hình giúp việc
gia đình ở Hà Nội hiện nay và đề xuất giải pháp quản lý”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, 2009)
Việc khác 22 7.3
Có thể thấy rằng số tiền do người giúp việc gửi về nhà được sử dụng vào rất
nhiều những mục đích khác nhau, từ việc phát triển kinh tế tới chi tiêu cho học
hành, y tế hoặc chi tiêu cho những sinh hoạt thường ngày cho đến việc thành một
khoản tiết kiệm. Trong đó chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày, học hành và chăm sóc
43
sức khỏe chiếm tỷ lệ cao hơn các phương án khác (lần lượt là 37.3%, 31.3% và
32.7%), đây cũng là những khoản chi có tính thiết yếu như là sinh hoạt phí cho cuộc
sống gia đình.
Đối với mục đích phát triển kinh tế, ngành nghề được quan tâm đầu tư trong
số tiền do người lao động gửi về nhà là sản xuất nông nghiệp, chiếm 23.3%. Như
vậy, thu nhập từ một hoạt động kinh tế đã được tái đầu tư để có thể kéo dài hơn lợi
ích cho người sử dụng.
Số tiền từ thu nhập của người giúp việc gửi về cũng được dùng để chi cho
những công việc lớn trong gia đình như tu sửa nhà cửa, mua sắm đồ đạc hay quan
trọng hơn là để trả nợ.
24.7% người trả lời lựa chọn phương án là số tiền gửi về được dùng để cho
vay, để dành hoặc gửi tiết kiệm. Nói một cách khác đây là cách để khoản tiền này
được gìn giữ an toàn cho một mục đích lớn hơn và cũng là một khoản để dành
phòng khi gia đình gặp khó khăn, cơ nhỡ.
Như vậy, đa số người giúp việc có gửi tiền về nhà hàng tháng và số tiền này
chiếm một tỷ lệ đáng kể so với thu nhập của họ. Có thể thấy rằng thu nhập của
người giúp việc gia đình là một trong những nguồn quan trọng để giúp đỡ bản thân
và đóng góp vào đời sống kinh tế của gia đình họ.
2.2.4. Tiền thưởng, phần thưởng và việc thoả mãn nhu cầu tinh thần của người
giúp việc:
2.2.4.1. Tiền thưởng, phần thưởng:
Bên cạnh tiền công được nhận, những chế độ đi kèm với công việc như tiền
thưởng hay quà thưởng, thời gian nghỉ trong năm hoặc những khoảng thời gian
dành cho nhu cầu cá nhân như nghỉ ngơi giải trí, liên lạc với gia đình cũng là những
yếu tố cần được quan đến khi xem xét nghề giúp việc gia đình. Bởi cũng như những
loại hình nghề nghiệp khác, giúp việc gia đình tuy chưa phải là một nghề chính thức
nhưng người lao động cũng cần được hưởng những quyền lợi nhất định để có thể tái
sản xuất sức lao động và thêm gắn bó với công việc.
Đa số người giúp việc gia đình đều nhận được tiền thưởng hoặc quà từ gia
44
đình chủ nhà (chiếm 83.3% số người tham gia nghiên cứu). Đây không phải là điều
kiện bắt buộc khi họ nhận lời thực hiện công việc này nhưng lại là một trong những
yếu tố quan trọng khiến họ cảm thấy sức lao động của mình được coi trọng.
Peter Blau khi nghiên cứu về lý thuyết trao đổi xã hội đã cho rằng cơ sở của
trao đổi xã hội là dựa trên phần thưởng được dự đoán trước của liên kết đó. Phần
thưởng này có thể ở bên trong (tồn tại dưới dạng những lời khen, sự hài lòng với ai
đó) hoặc ở bên ngoài (lợi ích hoặc dịch vụ được nhận) hoặc cả hai. Và quá trình trao
đổi xã hội, tương tác xã hội chỉ xảy ra khi liên kết mang lại cho hai bên phần
thưởng mà họ không thể có được.
Xét theo góc độ lý thuyết này, gia đình chủ nhà và người giúp việc luôn tham
gia vào một quá trình trao đổi xã hội, trong quá trình đó, để nhằm đạt được mục
đích của mình, họ phải không ngừng trao cho nhau những "phần thưởng". Đối với
chủ nhà, phần thưởng dành cho người giúp việc là những lợi ích vật chất mà họ
được hưởng như tiền thưởng, những món quà như quần áo, đồ dùng hay sự quan
tâm, chia sẻ, những lời khen ngợi, động viên. Rất nhiều gia đình nghĩ rằng "phải coi
người giúp việc như người nhà của mình thì họ mới làm tốt công việc cho mình
được". Ở đây, vị trí "người nhà" như một phần thưởng dành cho người giúp việc bởi
vị trí đó xóa đi mọi ngăn cách giữa hai nhóm đối tượng này. Về phía người giúp
việc, để có được những phần thưởng mà họ mong muốn cả về vật chất (tiền, quà
tặng...) cả về tinh thần (sự tin tưởng, tình cảm, thời gian nghỉ ngơi...), họ cũng phải
không ngừng cố gắng để gia đình chủ nhà được hài lòng. Quá trình trao đổi này
diễn ra liên tục và không có những phần thưởng cho cả đôi bên thì chất lượng của
quá trình tương tác sẽ không được như mong muốn của cả hai.
Quay trở lại với vấn đề tiền thưởng của người giúp việc, khi tiến hành phỏng
vấn sâu chúng tôi thấy rằng, người giúp việc thường được nhận tiền thưởng hoặc
quà tặng vào mỗi dịp như lễ Tết, khi họ về quê hoặc có thể là vào ngày sinh nhật.
Số tiền thưởng cũng không cố định mà khác nhau với mỗi gia đình và mỗi dịp, đặc
biệt là vào dịp Tết cổ truyền. Đây cũng là cách để các gia đình giữ người giúp việc
của mình bởi thời điểm sau Tết được coi là thời điểm "nhạy cảm" khi người giúp
45
việc không muốn quay trở lại làm việc hoặc đòi tăng lương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung Á – Nguyễn Đình Tấn (1997), Nghiên cứu xã hội học, Nhà xuất bản
(NXB) Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội, 2005.
3. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt Nam và
người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Mai Huy Bích (2004), Người làm thuê việc nhà và tác động của họ đến gia đình
trong thời kì đổi mới kinh tế - xã hội, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4/2004.
5. Philip N.Cohen (1998), Replacing house work in the service economy: gender,
class and race – ethnicity in service spending, Gender and Society Vol. 1, No.2.
6. Phạm Tất Dong – Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
7. Vũ Dũng (2002), Tâm trạng của người dân đối với vấn đề đi làm thuê, Tạp chí
Tâm lí học, số 6/2002.
8. Vũ Ngọc Hà (2002), Người nông thôn ra thành thị kiếm việc - vấn đề cần nghiên
cứu, Tạp chí Tâm lí học, số 3/2002.
9. Nguyễn Kim Hà (2001), Một số vấn đề đặt ra trong nghiên cứu phụ nữ và di dân
ở Việt Nam, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 2/2001.
10. Dương Kim Hồng (2007), Làn sóng di cư của phụ nữ trẻ từ nông thôn ra thành
thị làm nghề giúp việc gia đình: Những vấn đề và giải pháp, Bài trình bày trong Hội
thảo của diễn đàn Phát triển Việt Nam giới thiệu sách về các vấn đề xã hội tại thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 6/12/2007.
11. Lê Ngọc Hùng (1999), Xã hội học kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
46
Nội.
12. Lê Ngọc Hùng (2001), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Hùng (2008), Sổ tay Tư vấn Hướng Nghiệp và chọn nghề, NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
14. Nga My (1997), Di dân nông thôn - đô thị với nhà ở, một vấn đề xã hội, Tạp chí
Xã hội học, số 2/1997.
15. Lê Việt Nga( 2006), Tác động của dịch vụ giúp việc tới gia đình, Tạp chí nghiên
cứu Gia đình và giới, quyển 16 số 1/2006.
16. Rhacel Salazar Parrenas (2000), Migrant Filipina domestic workers and the
international division of reproductive labor, Gender & Society, Vol. 14, No.
17. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2003), Một số quan điểm lý thuyết về di dân và phụ nữ
di cư, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 6/2003.
18. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
19. Tổng cục Thống kê (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2009: Kết quả
sơ bộ, Hà Nội.
20. Lê Ngọc Văn (chủ biên) (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia
đình Việt Nam hiện nay, Hà Nội.
21. Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em (2005), Nghiên cứu nhu cầu dịch vụ
gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hà Nội.
22. http://encyclopedia.thefreedictionary.com/Domestic+servants
23. http://www.tinkinhte.com/nd5/detail/viet-nam/phong-van-yeu-nhan/ty-le-that-
nghiep-o-viet-nam-hien-la/32909.113209.html
47
24. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=407&idmid=4&ItemID=3853