intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Góp phần khảo sát cơ chế di truyền của bệnh teo cơ tủy sống týp 1 (werdnig hoffmann)

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

43
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xác định tỉ lệ gen SMN1/SMN2 ở người lành mang gen bệnh werdnig-hoffmann. Nghiên cứu đưa ra kết quả này hỗ trợ cho quan điểm cho rằng mất đoạn (deletion) chứ không phải chuyển đổi đoạn (conversion) là cơ chế di truyền chính trong bệnh Werdnig-Hoffmann.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Góp phần khảo sát cơ chế di truyền của bệnh teo cơ tủy sống týp 1 (werdnig hoffmann)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> GÓP PHẦN KHẢO SÁT CƠ CHẾ DI TRUYỀN<br /> CỦA BỆNH TEO CƠ TỦY SỐNG TÝP I (WERDNIG-HOFFMANN)<br /> Trần Diệp Tuấn*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Xác định tỉ lệ gen SMN1/SMN2 ở người lành mang gen bệnh Werdnig-Hoffmann.<br /> Phương pháp: Chúng tôi dùng phản ứng khuếch đại cạnh tranh tạo ra các sản phẩm PCR của<br /> SMN1 và SMN2. Sau đó, làm đứt đoạn sản phẩm PCR của gen SMN bằng men Hinfl. Sản phẩm thu<br /> được sẽ được chạy điện di trên gel, rồi scan bằng máy ảnh Polaroid dưới tia cực tím, và phân tích đậm độ<br /> (phần mềm 1.16/ppc NIH Image) đối với hai dãi band 101 bp (SMN2) và 78 bp (SMN1). Tỉ lệ gen<br /> SMN1/SMN2 được xác định dựa trên tỉ lệ đậm độ của đoạn 78 bp/101 bp.<br /> Kết quả: 11 (73,3%) người có tỉ lệ SMN1/SMN2 là 0,5 và 1; bốn người còn lại (26,7%) có tỉ lệ là<br /> 1/3.<br /> Kết luận: Kết quả này hỗ trợ cho quan điểm cho rằng mất đoạn (deletion) chứ không phải chuyển đổi<br /> đoạn (conversion) là cơ chế di truyền chính trong bệnh Werdnig-Hoffmann.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> THE GENE COPY RATIOS OF SMN1/SMN2 IN CARRIERS<br /> WITH TYPE I SPINAL MUSCULAR ATROPHY<br /> Tran Diep Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 2 - 2008: 75 – 80<br /> Objective: To determine the SMN1/SMN2 ratios of carriers of Werdnig-Hoffmann disease.<br /> Methods: We used competitive PCR to amplified SMN1 and SMN2 gene products. The PCR<br /> products were digested by Hinfl. The samples were run on gel, and scanned by Polaroid camera under<br /> UV-light. Densitometric analysis was performed on the two bands that correspond to the 101 bp fragment<br /> of SMN2 and the 78 bp fragment of SMN1. The SMN1/SMN2 copy ratio was determined based on the 78<br /> bp/101 bp ratio obtained from densitometric analysis.<br /> Results: We found that the SMN1/SMN2 ratio was 0.5 or 1 in 11 (73.3%) carriers; the remaining 4<br /> (26.7%) carriers had an SMN1/SMN2 ratio of 1/3.<br /> Conclusion: The finding supports the idea that deletion rather than conversion is the main genetic<br /> event in Werdnig-Hoffmann disease.<br /> đỡ, trong khi bệnh nhân SMA type III (bệnh<br /> Kugelberg-Welander) thì có thể đi được.<br /> MỞĐẦU<br /> SMA type II là thể trung gian với sự yếu cơ<br /> Bệnh teo cơ tủy sống (SMA) là bệnh di<br /> tiến triển chậm hơn SMA type I. Tần số mắc<br /> truyền gen lặn trên nhiễm sắc thể thường,<br /> của SMA là 1 trên 10.000 lần sinh, với tần số<br /> đặc trưng bởi sự yếu liệt và teo các cơ tiến<br /> người lành mang gen bệnh là 1/50(15). Gen<br /> triển do sự thoái hóa của các tế bào vận<br /> SMN là gen gây bệnh SMA và được xác<br /> động ở sừng trước tủy sống. SMA gồm 3<br /> định là nằm trên nhiễm sắc thể 5q13(1,12).<br /> thể lâm sàng, phân loại được dựa trên thời<br /> Không liên quan đến mức độ trầm trọng<br /> điểm khởi phát và mức độ trầm trọng của<br /> của bệnh, 90-98% các bệnh nhân SMA có sự<br /> biểu hiện lâm sàng(13). Bệnh nhân SMA type<br /> mất đồng hợp tử của SMN1, do mất exon 7<br /> I (còn gọi là bệnh Werdnig-Hoffmann)<br /> hoặc 8 hoặc cả hai(6,10,16,22). Phần lớn bệnh<br /> không thể ngồi được nếu không được giúp<br /> nhân người Trung Quốc, Hàn Quốc và<br /> 75<br /> * Bộ Môn Nhi, Đại Học Y Dược TPHCM<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> Nhật có sự mất đồng hợp tử của exon 7 và 8<br /> của gen SMN1(2,8,18). Gen protein ức chế sự<br /> tự chết tế bào thần kinh (neuronal apoptosis<br /> inhibitory protein: NAIP) là gen nằm gần<br /> với gen SMN. Chúng bị mất đoạn trong<br /> 50% bệnh nhân bị SMA type I(17). Tần suất bị<br /> mất gen NAIP trong bệnh SMA thể nhẹ xảy<br /> ra ít hơn so với trong bệnh SMA type I, điều<br /> này có lẽ phản ảnh mức độ rộng của sự mất<br /> đoạn trên nhiễm sắc thể SMA(21,25). Gen<br /> SMN là gen cần cho sự tồn tại và sống còn<br /> của các tế bào thần kinh vận động tủy sống.<br /> Gen SMN gồm hai gen khá giống nhau, đó<br /> là SMN1 và SMN2 trên nhiễm sắc thể 5q13.<br /> Cả hai gen đều có độ dài khoảng 20 kb<br /> nhưng chỉ khác nhau có 5 nucleotide. Ở<br /> bệnh nhân bị SMA, có ít nhất một gen<br /> SMN2 còn sót lại. Người bình thường có<br /> một gen SMN1 và một gen SMN2 trên mỗi<br /> nhiễm sắc thể, do đó, tỉ lệ SMN1/SMN2 là 1.<br /> Tỉ lệ gen SMN1/SMN2 ở cha mẹ của bệnh<br /> nhân đã được sử dụng để phân tích vai trò<br /> của số gen SMN2 trên độ nặng của bệnh<br /> SMA. McAndrew và cs, và Velasco và cs<br /> nhận thấy rằng ở người Tây Ban Nha, Mỹ<br /> và Canada thì cha mẹ của bệnh nhân bị<br /> SMA type II và III có tỉ lệ SMN1/SMN2 nhỏ<br /> hơn so với cha mẹ của bệnh nhân SMA type<br /> I(11,22). Tuy nhiên, Schwartz và cs(20) lại không<br /> ghi nhận hiện tượng này trong gia đình<br /> bệnh nhân người Scandinavi. Ngược lại,<br /> Nishio và cs lại ghi nhận tỉ lệ SMN1/SMN2<br /> bằng 2 ở hai trong số bốn người lành mang<br /> gen bệnh, họ là cha mẹ của hai bệnh nhi<br /> người Nhật bị SMA type I(14). Tác giả tiên<br /> đoán rằng tần suất tỉ lệ SMN1/SMN2 là 2 ở<br /> người lành mang gen bệnh trong dân Nhật<br /> cao hơn so với dân phương Tây(14). Chúng<br /> tôi muốn tìm hiểu liệu tiên đoán này có<br /> đúng không. Do đó, chúng tôi tiến hành xác<br /> định tỉ lệ SMN1/SMN2 trên 15 người Nhật<br /> là người lành mang gen bệnh SMA type I.<br /> Để xác định tỉ lệ SMN1/SMN2, điều quan<br /> trọng là phải phân biệt được hai loại gen<br /> này. Chúng tôi dùng phản ứng khuếch đại<br /> cạnh tranh (competitive polymerase chain<br /> reaction: competitive PCR) bằng cách dùng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008<br /> mồi ghép cặp sai (mismatch primer) để tạo<br /> nên các vị trí hạn chế khác nhau (restriction<br /> site) (xem thêm phần Đối Tượng và Phương<br /> Pháp Nghiên Cứu) trên gen SMN1 và<br /> SMN2. Điều này cho phép chúng tôi phân<br /> biệt được SMN1 với SMN2, qua đó xác định<br /> được tỉ lệ SMN1/SMN2.<br /> <br /> ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN<br /> CỨU<br /> Đối tƣợng nghiên cứu<br /> Đối tượng là 14 cha mẹ và 1 người em<br /> ruột bình thường về lâm sàng của 7 gia đình<br /> với 9 bệnh nhân bị SMA type I. Bảy gia đình<br /> này không có mối liên hệ huyết thống với<br /> nhau. Tất cả 9 bệnh nhân đều được xếp loại<br /> là SMA type I theo tuổi khởi phát và mốc<br /> vận động đạt được của trẻ dựa trên tiêu<br /> chuẩn<br /> của<br /> International<br /> SMA<br /> (13)<br /> Consortium . Tất cả bệnh nhân đều có<br /> đồng hợp tử mất đoạn exon 7 và 8(18). Phân<br /> tích haplotype của tất cả các bệnh nhân và<br /> thành viên trong gia đình cho thấy tất cả 14<br /> cha mẹ và 1 người em ruột đều là người<br /> lành mang gen bệnh (xem them chi tiết<br /> trong tài liệu tham khảo 3). Ngoài ra, nhóm<br /> chứng gồm 19 người tình nguyện bình<br /> thường cũng tham gia trong nghiên cứu<br /> này.<br /> <br /> Phƣơng pháp xác định tỉ lệ gen<br /> SMN1/SMN2<br /> Chúng tôi dùng phản ứng khuếch đại<br /> cạnh tranh (competitive PCR: PCR cạnh<br /> tranh) dựa trên mồi SMN ghép cặp sai như<br /> đã được mô tả bởi Wirth và cs(25). Mồi ghép<br /> cặp sai sẽ tạo ra các vị trí hạn chế HinfI khác<br /> nhau trên SMN1 và SMN2. Mồi theo chiều<br /> xuôi (forward primer) là mồi ghép cặp sai<br /> được thiết kế dựa trên trình tự các nucleotid<br /> của SMN1 exon 7 (SMN7F: 5’CTTCCTTTTATTTTCCTTACAGGGATT3’), và mồi ngược (reverse primer) trên<br /> intron<br /> 7<br /> (SMN7R:<br /> 5’TCCACAAACCATAAAGTTTTAC-3’). Sản<br /> phẩm PCR của gen SMN sẽ có chiều dài là<br /> 76<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> 135 bp. Phản ứng PCR cạnh tranh được<br /> thực hiện trong 20 µl hỗn hợp phản ứng,<br /> bao gồm 30 ng DNA của bộ gen (genomic<br /> DNA), 1 x Perkin-Elmer dung dịch đệm<br /> PCR, 200 µM của dNTP, 0,6 U Taq<br /> polymerase (Perkin-Elmer), và 10 pmol cho<br /> mỗi mồi SMN7F và SMN7R. Các điều kiện<br /> tiến hành phản ứng theo chu kỳ được thực<br /> hiện như đã được mô tả bởi Wirth và cs(25)<br /> với một chút thay đổi, là mẫu của chúng tôi<br /> được khuếch đại với 35 chu kỳ.<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008<br /> phẩm này sẽ được chạy điện di trên gel<br /> polyacrylamide 16% ở điện thế 100 V trong<br /> 3 giờ, rồi được nhuộm bằng ethidium<br /> bromide, rồi scan gel đó bằng máy ảnh<br /> Polaroid dưới tia cực tím, và phân tích đậm<br /> độ bằng phần mềm 1.16/ppc NIH Image.<br /> Phân tích đậm độ được thực hiện đối với<br /> hai dải band trên cùng, tương ứng với đoạn<br /> 101 bp của SMN2 và đoạn 78 bp của SMN1<br /> (Hình 1). Tỉ lệ gen SMN1/SMN2 được xác<br /> định dựa trên tỉ lệ đậm độ của đoạn 78<br /> bp/101 bp.<br /> Để kiểm tra tính khả thi của việc xác<br /> định tỉ lệ gen SMN1/SMN2 bằng phân tích tỉ<br /> lệ đậm độ, chúng tôi xác lập khoảng chuẩn<br /> về tỉ lệ đậm độ bằng cách xử dụng các hỗn<br /> hợp biết trước với tỉ lệ SMN1/SMN2 khác<br /> nhau. Gen SMN1 và SMN2 được khuếch<br /> đại bằng hai phản ứng PCR riêng rẻ. Một<br /> PCR để khuếch đại SMN1 từ một bệnh<br /> nhân với một bệnh lý thần kinh khác, người<br /> này chỉ có SMN1 mà không có SMN2.<br /> Trong khi SMN2 được khuếch đại từ mẫu<br /> <br /> Hình 1. Sản phẩm PCR sau khi được ủ với men<br /> HinfI và điện di trên gel polyacrylamide 16%.<br /> Hai dải band trên cùng, tương ứng với đoạn<br /> 101 bp của SMN2 và đoạn 78 bp của SMN1. Tỉ<br /> lệ gen SMN1/SMN2 được xác định dựa trên tỉ<br /> lệ đậm độ của đoạn 78 bp/101 bp. Chúng ta thấy<br /> ở người lành mang gen bệnh vẫn còn đủ gen<br /> SMN1 và SMN2, như ở người cha (F) và mẹ<br /> (M). Trong khi bệnh nhân (P) thì không có gen<br /> SMN1 nhưng vẫn còn gen SMN2.<br /> Sau khi có sản phẩm PCR của SMN,<br /> chúng tôi ủ 10 µl sản phẩm PCR với 15 U<br /> men HinfI (Toyobo) ở nhiệt độ 37°C trong 3<br /> giờ, để làm đứt đoạn gen SMN. Do sản<br /> phẩm PCR của SMN2 chỉ có một vị trí hạn<br /> chế HinfI nên chúng sẽ bị cắt thành hai đoạn<br /> với chiều dài là 101 và 34 bp, trong khi sản<br /> phẩm PCR của SMN1 có hai vị trí hạn chế<br /> HinfI nên chúng sẽ bị cắt thành ba đoạn có<br /> chiều dài là 78, 34, và 23 bp. Sau đó các sản<br /> <br /> của một bệnh nhân SMA, người này không<br /> có gen SMN1 nhưng còn SMN2. Sản phẩm<br /> của hai PCR này được làm tinh khiết bằng<br /> gel agarose với bộ kit chiết xuất ADN<br /> SupreTM -02 và -01 (Takara-Biochemicals).<br /> Các khuôn mẫu (template) pha trộn 9000<br /> bản sao (copies) SMN1 với số lượng khác<br /> nhau<br /> <br /> của<br /> <br /> SMN2<br /> <br /> để<br /> <br /> tạo<br /> <br /> các<br /> <br /> tỉ<br /> <br /> lệ<br /> <br /> SMN1/SMN2 khác nhau là 2, 1, 0,5 và 1/3.<br /> Phản ứng PCR cạnh tranh với các tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2 khác nhau này được tiến hành<br /> tương tự như đã nêu ở trên.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Để kiểm tra tính khả thi của việc xác<br /> định tỉ lệ gen SMN1/SMN2 bằng tỉ lệ đậm<br /> độ, chúng tôi xác lập khoảng chuẩn và<br /> đường biểu diễn về tỉ lệ đậm độ bằng cách<br /> <br /> 77<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> dùng các hỗn hợp khuôn mẫu với tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2 khác nhau đã được biết trước.<br /> Chúng tôi thấy có mối tương quan dương<br /> tính rõ rệt giữa tỉ lể phân tử (tỉ lệ khuôn<br /> mẫu SMN1/SMN2) và tỉ lệ sản phẩm PCR<br /> (tỉ lệ đậm độ SMN1/SMN2) trong khoảng<br /> 0-2 (Hình 2), với hệ số tương quan là r =<br /> 0,959. Điều này chứng tỏ rằng tỉ lệ gen<br /> SMN1/SMN2 có thể được xác định bằng<br /> cách phân tích đậm độ của các sản phẩm<br /> PCR.<br /> <br /> Tỉ lệ đậm độ<br /> <br /> Sau đó, chúng tôi đã tiến hành xác định<br /> tỉ lệ gen SMN1/SMN2 của 15 người lành<br /> mang gen bệnh và 19 người chứng bình<br /> thường. Tỉ lệ SMN1/SMN2 của mỗi người<br /> rơi vào một trong bốn nhóm là 1/3, 0,5, 1 và<br /> 2, mà không có trùng lắp. Điều đó chứng tỏ<br /> một cách tương ứng rằng số gen SMN1 là<br /> 1/3, phân nửa, bằng hoặc gấp đôi số gen của<br /> SMN2. Bốn người lành mang gen bệnh<br /> (26,7%) có tỉ lệ là 1/3, sáu người (40%, trong<br /> đó có người em) có tỉ lệ là 0,5, và năm người<br /> (33,3%) có tỉ lệ là 1 (Bảng 1 và Bảng 2).<br /> <br /> Không có người lành mang gen bệnh<br /> nào có tỉ lệ là 2 hoặc không có gen SMN2. Ở<br /> nhóm chứng, 2 người (10,5%), 12 người<br /> (63,2%) và 5 người (26,3%) có tỉ lệ tương<br /> ứng là 0,5, 1 và 2. Không có người chứng<br /> nào có tỉ lệ là 1/3.<br /> Bảng 1. Tỉ lệ SMN1/SMN2 của người lành<br /> mang gen bệnh SMA type I (NLMGB SMA I)<br /> và người chứng bình thường (NCBT)<br /> Tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2<br /> 1/3<br /> 0,5<br /> 1<br /> 2<br /> Tổng cộng<br /> <br /> Phạm vi tỉ lệ NLMGB SMA<br /> đậm độ<br /> I<br /> 0,86 – 0.90<br /> 4 (26,7)*<br /> 0,98 – 1,04<br /> 6 (40.0)<br /> 1,06 – 1,15<br /> 5 (33,3)<br /> 1,17 – 1,25<br /> 0<br /> 15<br /> <br /> NCBT<br /> 0<br /> 2 (10,5)<br /> 12 (63,2)<br /> 5 (26,3)<br /> 19<br /> <br /> * Số trong ngoặc đơn là giá trị phần trăm.<br /> Bảng 2. Phân bố của tỉ lệ SMN1/SMN2 trên<br /> người lành mang gen bệnh SMA type I<br /> (NLMGB SMA I); F: cha; M: mẹ và S: em;<br /> Gia đình<br /> thứ<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> <br /> NLMGB SMA I<br /> 1/3<br /> <br /> SMN1/SMN2<br /> 0,5<br /> 1<br /> M<br /> F<br /> M, S<br /> F<br /> F, M<br /> F<br /> M<br /> <br /> F, M<br /> F, M<br /> F, M<br /> <br /> BÀNLUẬN<br /> <br /> Tỉ lệ SMN1/SMN2<br /> <br /> Hình 2. Đường biểu diễn chuẩn PCR cạnh<br /> tranh. Trục hoành là tỉ lệ các hỗn hợp khuôn<br /> mẫu với tỉ lệ SMN1/SMN2 khác nhau đã được<br /> biết trước (1/3, 0,5, 1 và 2). Trục tung là tỉ lệ<br /> đậm độ của sản phẩm PCR cạnh tranh từ các<br /> khuôn mẫu với tỉ lệ SMN1/SMN2 khác nhau.<br /> Hệ số tương quan r là 0,959.<br /> <br /> Bệnh nhân SMA có nhiều kiểu hình lâm<br /> sàng khác nhau, từ thể nhẹ cho đến thể<br /> nặng. Tất cả các thể đều có sự mất gen<br /> SMN1 đồng hợp tử, nhưng không có đột<br /> biến chuyên biệt nào trên gen SMN1 có thể<br /> giải thích cho các thể lâm sàng khác<br /> nhau(1,6,10,12). Nghiên cứu của Wirth và cs cho<br /> thấy rằng kích thước của sự mất đoạn liên<br /> quan đến độ nặng của bệnh(24), bởi vì một số<br /> gen lân cận của SMN1 được xem là có vai<br /> trò bù trừ và điều chỉnh thể lâm sàng của<br /> SMA, ví dụ như gen SARF1 và btfp44(19). Do<br /> đó, mất đoạn càng rộng thì thể lâm sàng<br /> càng nặng. Gen SMN2 là gen nằm gần với<br /> SMN1 trên vùng SMA của nhiễm sắc thể<br /> <br /> 78<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> 5q13, và giống gần như hoàn toàn với<br /> SMN1. Có nhiều protein xuất phát từ gen<br /> SMN2, do có sự kết nối ở những vị trí khác<br /> nhau trong quá trình giải mã(4,5) Trong số<br /> đó, chủ yếu là protein không có các axit<br /> amin được mã hóa bởi exon 7, một số lượng<br /> nhỏ là protein với chiều dài đầy đủ giống<br /> hoàn toàn với protein của SMN1, và một số<br /> protein khác với các tỉ lệ khác nhau. Chính<br /> lượng nhỏ protein có chiều dài đầy đủ này<br /> có vai trò bù trừ quan trọng khi bị mất gen<br /> SMN1(4,23). Ngoài ra, Hsieh-Li và cs đã<br /> chứng minh rằng có sự tương quan mạnh<br /> mẽ giữa số lượng gen SMN2 và thể lâm<br /> sàng của SMA ở chuột(7). Nghiên cứu của<br /> chúng tôi cũng cho thấy rằng những bệnh<br /> nhân bị SMA type I có tần suất mất đoạn<br /> vùng SMA rộng trên 5q13(3,9). Tất cả những<br /> điều này chứng tỏ rằng có sự mất kèm theo<br /> của các gen bù trừ lân cận trên bệnh SMA<br /> type I. Nếu một người lành mang gen bệnh<br /> SMA type I có mất đoạn rộng, mất cả SMN1<br /> và SMN2 trên nhiễm sắc thể bệnh, thì tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2 của họ vẫn là 1/1 do họ có một<br /> SMN1 và một SMN2 trên nhiễm sắc thể<br /> bình thường. Một người lành mang gen<br /> bệnh có tỉ lệ SMN1/SMN2 là 1:2 là do nhiễm<br /> sắc thể bệnh chỉ bị mất đoạn ngắn chứa<br /> SMN1. Vì phần lớn các bệnh nhân SMA<br /> type I trong lô nghiên cứu của chúng tôi có<br /> mất đoạn rộng(3,9), chúng tôi mong đợi tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2 không lớn hơn 1 trong phần<br /> lớn các người lành mang gen bệnh. Kết quả<br /> nghiên cứu cho thấy tất cả người lành mang<br /> gen bệnh trong nghiên cứu này đều có tỉ lệ<br /> nhỏ hơn hoặc bằng 1. Mặc dù Nishio và cs<br /> cho rằng tỉ lệ SMN1/SMN2 là 2 ở bệnh nhân<br /> SMA type I là đặc trưng của bệnh SMA ở<br /> người Nhật(14), kết quả nghiên cứu của<br /> chúng tôi không ủng hộ nhận xét này.<br /> Ngược lại, kết quả này phù hợp với các kết<br /> quả nghiên cứu được thực hiện ở các nước<br /> phương Tây. Velasco và cs nhận thấy rằng<br /> không có người nào trong 112 cha mẹ của<br /> bệnh nhận SMA type I người Tây Ban Nha<br /> có tỉ lệ SMN1/SMN2 là 2(22). Schwartz và cs<br /> cũng không ghi nhận một trường hợp nào<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008<br /> có tỉ lệ là 2 trong 60 cha mẹ của bệnh nhân<br /> người Scandinavi(20). McAndrew và cs chỉ<br /> ghi nhận 1 trường hợp (1,3%) trong tổng số<br /> 79 cha mẹ có tỉ lệ SMN1/SMN2 là 2 ở người<br /> Mỹ và Canada(11). Nghiên cứu của chúng tôi<br /> không ghi nhận một trường hợp nào có tỉ lệ<br /> SMN1/SMN2 là 2.<br /> Để kết luận, mặc dù đã có nghiên cứu<br /> cho rằng cơ sở di truyền học của bệnh SMA<br /> ở bệnh nhân người Nhật khác với người<br /> phương Tây, kết quả nghiên cứu của chúng<br /> tôi cho thấy tỉ lệ SMN1/SMN2 ở người lành<br /> Nhật mang gen bệnh SMA type I phù hợp<br /> với kết quả nghiên cứu được thực hiện ở<br /> người phương Tây. Kết quả này cũng hổ trợ<br /> cho quan điểm cho rằng mất đoạn chứ<br /> không phải chuyển đổi đoạn là cơ chế di<br /> truyền chính trong bệnh SMA type I.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Brzustowicz LM, Lehner T, Castilla LH, Penchaszadeh<br /> GK, Wilhelmsen KC, Daniels R, et al. (1990) Genetic<br /> mapping of chronic childhood-onset spinal muscular<br /> atrophy to chromosome 5q11.2-13.3. Nature 344:540541.<br /> Chang JG, Jong YJ, Huang JM, Wang WS, Yang TY,<br /> Chang CP, et al. (1995) Molecular basis of spinal<br /> muscular atrophy in Chinese. Am Hum Genet 57:15031505.<br /> Diep Tran T, Kroepfl T, Saito M, Nagura M, Ichiseki H,<br /> Kubota M, Toda T, Sakakihara Y. (2001) The gene<br /> copy ratios of SMN1/SMN2 in Japanese carriers with<br /> type<br /> <br /> I<br /> <br /> spinal<br /> <br /> muscular<br /> <br /> atrophy.<br /> <br /> Brain<br /> <br /> Dev.;<br /> <br /> 23(5):321-6.<br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> Gavrulev DK, Shi X, Das K, Gilliam TC, Wang CH.<br /> (1998) Differential SMN2 expression associated with<br /> SMA severity. Nat Genet 20:230-231 (Letter).<br /> Gennarelli M, Lucarelli M, Capon F, Pizzuti A, Merlini<br /> L, Angelini C, et al. (1995) Survival motor neuron gene<br /> transcript analysis in muscles from spinal muscular<br /> atrophy patients. Biochem Biophys Res Commun<br /> 213:342-348.<br /> Hahnen E, Forkert R, Merke C, Rudnik-Schoneborn S,<br /> Schonling J, Zerres K, et al. (1995) Molecular analysis of<br /> candidate genes on chromosome 5q13 in autosomal<br /> recessive spinal muscular atrophy: evidence of<br /> homozygous deletions of the SMN gene in unaffected<br /> individuals. Hum Mol Genet 4:1927-1933.<br /> Hsieh-Li HM, Chang JG, Jong YJ, Wu MH, Wang NM,<br /> Tsai CH, et al. (2000) A mouse model for spinal<br /> muscular atrophy. Nat Genet 24:66-70 (Letter).<br /> Ishikawa Y, Ishikawa Y, Minami R. (1996) Survival<br /> motor neuron and neuronal apoptosis inhibitory<br /> protein gene deletion analysis of childhood spinal<br /> <br /> 79<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2