ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG THỊ HUYỀN TRANG HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN LÝ Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
ĐẶNG THỊ HUYỀN TRANG
HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học quản lý Mã số: 17035238 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Toản Hà Nội - 2020
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, học viên đã nhận đƣợc sự chỉ bảo
của các thầy, cô Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội. Học viên cũng đã tiếp thu nhiều bài học bổ ích cả về chuyên môn, kỹ năng
và thái độ. Luận văn đã đƣợc hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các
thầy cô, sự quan tâm, ủng hộ của gia đình và bạn bè.
Trƣớc tiên học viên xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy TS. Nguyễn Ngọc Toản
đã định hƣớng và hƣớng dẫn trong quá trình lựa chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài.
Học viên xin cám ơn các thầy, cô khoa Khoa học quản lý, sự giảng dạy, chỉ
bảo, hƣớng dẫn của các thầy, cô đã giúp học viên hiểu rõ hơn vấn đề và gợi suy cho
học viên rất nhiều về ý tƣởng nghiên cứu.
Học viên cảm ơn Lãnh đạo cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân, các
cơ quan, đơn vị trên địa bàn quận Thanh Xuân, các bạn bè đồng nghiệp và gia đình
đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tìm hiểu tình hình thực tế và cung cấp tài
liệu, số liệu để học viên hoàn thành luận văn.
Do hạn chế về mặt thời gian nên trong quá trình nghiên cứu luận văn có thể
còn nhiều thiếu sót. Học viên mong nhận đƣợc sự góp ý và chỉ bảo của các thầy, các
cô và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
Đặng Thị Huyền Trang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Đặng Thị Huyền Trang
Học viên lớp Cao học Khoa học quản lý năm 2017; Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình do tôi nghiên cứu, tìm hiểu,
tổng hợp và hoàn thiện dƣới sự chỉ bảo tận tình của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ
của gia đình, bạn bè. Nội dung luận văn hoàn toàn chân thực, không trùng lặp với
các luận văn và nghiên cứu khác.
Trong luận văn tôi có tham khảo các bài viết, công trình nghiên cứu có
liên quan của các tác giả khác và có dẫn nguồn cụ thể; các số liệu trích dẫn trong
luận văn hoàn toàn chính xác, trung thực và có chỉ rõ nguồn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Ngƣời cam đoan
Đặng Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. 3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH ............................................................. 4
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 16
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI, NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ
HỘI VÀ CHẾ TÀI XỬ PHẠT .......................................................................................... 16
1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của bảo hiểm xã hội ............................................... 16
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội ....................................................................................... 16
1.1.2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội ......................................................... 18
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội ...................................................................................... 24
1.2. Khái niệm, tác động, chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................... 26
1.2.1. Khái niệm nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................................................................ 26
1.2.2. Tác động của nợ đọng bảo hiểm xã hội ................................................................... 26
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội ...................................................... 28
1.3. Khái niệm doanh nghiệp và chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội .................. 29
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp .............................................. 29
1.3.2. Chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp ............................ 33
1.4. Kinh nghiệm giải quyết xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội một số nƣớc ............... 40
Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................................. 42
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC THI CHẾ TÀI XỬ PHẠT NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM
XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ..................................................................................................... 43
2.1. Tổng quan các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân ............................... 43
2.2. Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn quận
Thanh Xuân…. ................................................................................................................... 46
2.2.1. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội và số nợ bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp46
2.2.2. Các chế tài xử phạt nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội đã thực hiện tại
quận Thanh Xuân ............................................................................................................... 52
1
2.3. Nguyên nhân và hậu quả của nợ đọng bảo hiểm xã hội. ......................................... 57
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp. .............. 57
2.3.2. Hậu quả nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................................................................... 65
Tiểu kết Chƣơng 2 ............................................................................................................. 67
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG
NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP
DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT ................................................................................... 68
3.1. Giải pháp hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp bằng
cách áp dụng các chế tài xử phạt ...................................................................................... 68
3.1.1. Đối với thủ tục hành chính ....................................................................................... 68
3.1.2. Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội .............................................................................. 69
3.1.3. Đối với các cơ quan liên quan .................................................................................. 75
3.1.4. Đối với người sử dụng lao động ............................................................................... 76
3.1.5. Đối với người lao động ............................................................................................. 77
3.2. Một số khuyến nghị ..................................................................................................... 78
3.2.1. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam ........................................................................... 78
3.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ........................................................... 79
3.2.3. Đối với các sở ngành có liên quan ........................................................................... 80
3.2.4. Đối với đại diện người lao động, người sử dụng lao động ..................................... 81
Tiểu kết Chƣơng 3 ............................................................................................................. 82
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 84
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 89
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
ASXH : An sinh xã hội
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
DN : Doanh nghiệp
ILO : Tổ chức lao động quốc tế
ISSA : Hiệp hội An sinh xã hội quốc tế
NLĐ : Ngƣời lao động
NSDLĐ : Ngƣời sử dụng lao động
SDLĐ : Sử dụng lao động
TAND : Tòa án Nhân dân
3
TNLĐ & BNN : Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH
Sơ đồ 1.1: Chế tài xử phạt đối với ngƣời SDLĐ nợ tiền BHXH
Sơ đồ 1.2: Chế tài hình sự tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN
Bảng 2.1: Các thành phần kinh tế và số lao động của các doanh nghiệp tại quận
Thanh Xuân năm 2019
Bảng 2.2: Số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân năm 2019
Bảng 2.3: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH giai đoạn 2014-2019 của
BHXH quận Thanh Xuân
Bảng 2.4: Tổng số lƣợng lao động tham gia BHXH và tổng quỹ lƣơng trích nộp
BHXH tại BHXH quận Thanh Xuân (giai đoạn 2014-2019)
Bảng 2.5: Tốc độ tăng thu BHXH giai đoạn 2014-2019 tại BHXH Thanh Xuân
Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận
Thanh Xuân (giai đoạn 2014- 2019)
Bảng 2.7: Báo cáo nợ BHXH giai đoạn 2014- 2019 phân chia theo từng loại đơn
vị nợ của quận Thanh Xuân
Bảng 2.8: Báo cáo nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 của toàn thành phố Hà
Nội
Bảng 2.9: So sánh tình hình nợ đọng BHXH của quận Thanh Xuân với toàn thành
phố Hà Nội (giai đoạn 2014- 2019)
Bảng 2.10: Bảng tổng kết công tác điều tra năm 2018 và 2019
4
Hình 3.1: Quy định về hình thức phạt đối với doanh nghiệp nợ BHXH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con ngƣời muốn tồn tại và phát triển trƣớc hết phải ăn, mặc, ở… Để thỏa
mãn nhu cầu tối thiểu này, con ngƣời phải lao động làm ra những sản phẩm cần
thiết. Chính từ sự xuất hiện của lao động đã làm xuất hiện mối quan hệ giữa “ngƣời
lao động” và “ngƣời sử dụng lao động”. Thực tế ngƣời lao động có thể có đủ sức
khỏe, khả năng lao động, điều kiện tham gia làm việc, lao động để hoàn thành
nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm
no hạnh phúc. Ngƣợc lại, cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh nhƣ ốm đau,
tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hƣởng của tự nhiên, của
những điều kiện sống và sinh hoạt cũng nhƣ các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào
các trƣờng hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con ngƣời không vì thế mà mất đi.
Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Để khắc
phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài
việc tự mình khắc phục, ngƣời lao động phải đƣợc sự bảo trợ của cộng đồng và xã
hội. Bên cạnh việc ngƣời sử dụng lao động phải trả cho ngƣời lao động một khoản
tiền lƣơng hàng tháng thì họ còn cần phải chi trả một khoản tiền khi ngƣời lao động
ốm đau, tai nạn, qua đời... Nếu nhƣ ngƣời lao động không xảy ra vấn đề gì thì ngƣời
sử dụng lao động sẽ không phải bỏ ra chi phí gì nhƣng đôi khi lại xảy ra dồn dập
dẫn đến việc ngƣời sử dụng lao động phải mất một khoản tiền rất lớn.
Sự tƣơng trợ dần dần đƣợc mở rộng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác
nhau. Những yếu tố đoàn kết, hƣớng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và
công việc xã hội của các Nhà nƣớc dƣới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá
trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống
BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá
làm cho đội ngũ ngƣời làm công ăn lƣơng tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ
yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lƣơng trong các
trƣờng hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở
5
thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thƣờng của những ngƣời không có nguồn
thu nhập nào khác ngoài tiền lƣơng. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu
thiết yếu hàng ngày đã buộc những ngƣời làm công ăn lƣơng tìm cách khắc phục
bằng những hành động tƣơng thân, tƣơng ái (lập các quỹ tƣơng tế, các hội đoàn…);
đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nƣớc phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của
giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng
với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của ngƣời lao động ngày càng
đƣợc nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không
may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra
đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nhƣ những khó khăn mới đƣợc giải quyết
một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất
cho xã hội loài ngƣời trong quá trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH
là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần
thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết đƣợc BHXH. Vì vậy, BHXH đã
trở thành nhu cầu và quyền lợi của ngƣời lao động và đƣợc thừa nhận là một nhu
cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con ngƣời.
BHXH thuộc lĩnh vực phân phối lại, là một bộ phận trong hệ thống tài chính
của một quốc gia. BHXH là một chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã
hội của tất cả các nƣớc trên thế giới, vì nó liên quan trực tiếp đến con ngƣời và sự
an toàn xã hội của m i quốc gia. Ở nƣớc ta, BHXH là một trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với công cuộc đổi mới
đang diễn ra trên khắp các lĩnh vực, chính sách BHXH cũng từng bƣớc đƣợc sửa
đổi để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn về BHXH là một vấn đề cấp bách và cơ bản không những
của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn cả những ngƣời lao động với tƣ
cách vừa là đối tƣợng, vừa là chủ thể của chính sách BHXH.
Chính sách BHXH đang là một vấn đề bức thiết trong điều kiện phát triển
6
nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Trong xã hội, sự phân hóa giàu nghèo đang có sự
chênh lệch khá lớn, do đó, ngƣời lao động cần có sự tƣơng trợ của cộng đồng, phát
huy vai trò của cộng đồng để giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống do các rủi
ro mang lại. Với nhu cầu này, chính sách bảo hiểm xã hội hƣớng tới mục tiêu vì
cuộc sống tốt đẹp của con ngƣời và văn minh của toàn xã hội.
Quận Thanh Xuân là quận nội thành của Thủ đô có nhiều điều kiện thuận lợi
để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Là một trong những quận có số dân
đông và địa bàn thuận lợi cho việc giao lực, phát triển kinh tế của thành phố Hà
Nội, Thanh Xuân là quận đƣợc nhiều doanh nghiệp lựa chọn tọa lạc. Trên địa bàn
quận Thanh Xuân hiện tập trung nhiều doanh nghiệp, đa số là những doanh nghiệp
có quy mô nhỏ, thuộc khối xây dựng, thi công cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng... trƣớc
tình hình khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tỷ lệ nợ BHXH đã diễn ra thƣờng
xuyên và ở mức cao. Việc nợ BHXH gần nhƣ xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp,
từ doanh nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ. Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm
nộp diễn ra gần nhƣ trong suốt quá trình kinh doanh. BHXH quận Thanh Xuân cũng
đã thực thi những biện pháp nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội nhƣng tình
trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp vẫn chƣa chấm dứt. Trong thời gian
vừa qua tình trạng các doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn nhiều, gây ảnh hƣởng
không nhỏ tới quyền lợi của ngƣời lao động, gây ra những hậu quả trực tiếp tới
ngƣời lao động và ảnh hƣởng tới quỹ BHXH. Nợ đọng BHXH tại BHXH quận
Thanh Xuân là một vấn đề khó xử lý, nan giải của các nhà quản lý. Thực tế, đã có
chế tài luật hình sự quy định về tội trốn đóng, chậm đóng BHXH cho ngƣời lao
động (Điều 216 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 đã đƣợc sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017) tuy
nhiên, trên thực tế, rất ít thậm chí là chƣa có doanh nghiệp nào bị xử lý hình sự.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, qua nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn
công tác, học viên lựa chọn đề tài: “Hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của
các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt (Nghiên cứu trƣờng hợp
7
các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội)” làm luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Liên quan đến nội dung bảo hiểm xã hội và cơ chế, chính sách đối với hệ
thống bảo hiểm xã hội, hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các đơn vị hiện nay,
tôi xin tổng quan một số công trình nghiên cứu nhƣ sau:
Đức là quốc gia đầu tiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH). Năm
1881, Thủ tƣớng Đức Otto Von Bismarck (1815-1898) đã đề xƣớng thiết kế chính
sách BHXH bắt buộc trên cơ sở các tổ chức tự phát của ngƣời lao động hoạt động
tƣơng trợ lẫn nhau. Văn bản pháp lý đầu tiên là Luật Bảo hiểm Y tế (1883), tiếp
theo là Luật Bảo hiểm tai nạn lao động (1884) và Luật Bảo hiểm hƣu trí (1889).
Mặc dù tỷ lệ hƣởng chỉ ở mức thấp, bằng khoảng 30-40% lƣơng, nhƣng lần đầu tiên
chế độ BHXH đƣợc áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sau ảnh hƣởng
của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ I (1914-1918), khi nhiều lao động mất việc làm,
tình trạng thất nghiệp nhiều, nhà nƣớc mới lần đầu áp dụng đánh giá gia cảnh để h
trợ thất nghiệp, kết quả là năm 1927, Luật Bảo hiểm thất nghiệp ra đời, dựa trên sự
kết hợp các dịch vụ hƣớng nghiệp, sắp xếp việc làm và trả một phần nhỏ bảo hiểm
thất nghiệp.
Mặc dù nhà nƣớc ban hành các quyết định cơ bản nhƣng các quy tắc bổ sung
lại do các tổ chức BHXH thông qua đại diện của ngƣời lao động, các tổ chức sử
dụng lao động và các đại biểu quốc gia tự phổ cập và quản lý. Kế hoạch triển khai
sẽ do các cá nhân, tổ chức, đơn vị đóng góp có liên quan, các thành viên là công
nhân và ngƣời lao động có đủ điều kiện hƣởng lợi. Nguyên tắc cơ bản là "phát huy
công bằng xã hội", nghĩa là chính sách bảo hiểm dựa vào sự tƣơng ứng quyền lợi
bảo hiểm và quá trình đóng góp, và nguyên tắc này, sau đó đã trở thành một trong
những nguyên tắc cơ bản của Đức "mô hình nhà nước xã hội".
Mô hình Nhà nƣớc phúc lợi của Lord Beveridge của Anh là mô hình ASXH
tiêu biểu có cách tiếp cận khác đƣợc phát triển ở Anh vào năm 1942 trong Chiến
tranh Thế giới thứ II với tên gọi là Báo cáo Beveridge. William Beveridge, một nhà
lãnh đạo Ủy ban cải cách ASXH của Anh có nhiệm vụ cải cách hệ thống ASXH còn
8
nhiều khiếm khuyết, thiếu hụt ở Anh. Bản báo cáo này không chỉ tham vọng có thể
giảm nghèo mà còn áp dụng nhằm cải cách và tái cấu trúc hệ thống ASXH, với
nguyên tắc cải cách hệ thống bao gồm: thống nhất, phổ cập và toàn diện (Liam
Byrne, 2012).
Thống nhất bao gồm hợp nhất các chi nhánh/tổ chức BHXH đang hoạt động
thành một tổ chức tập trung trong tay Nhà nƣớc. Mọi đóng góp phải đƣợc thanh
toán vào một quỹ xã hội duy nhất và tất cả các lợi ích phải đƣợc thanh toán từ quỹ
này. Theo nguyên tắc thống nhất này, Nhà nƣớc phải thực hiện chính sách bảo hiểm
cho tất cả các rủi ro xã hội (không chỉ cho ngƣời lao động nhƣ trong trƣờng phái
của Bismarck) đối với tất cả các thành viên của xã hội. Phổ cập đƣợc hiểu là mức
độ các lợi ích xã hội đƣợc đảm bảo để chống lại mọi rủi ro, nhƣng chỉ trên mức vừa
đủ, nhằm kích thích n lực cá nhân bổ sung thêm từ các nguồn khác. Toàn diện
đƣợc hiểu là hệ thống BHXH cần đƣợc áp dụng rộng rãi đối với mọi ngƣời dân
Anh, giúp đáp ứng các nhu cầu của họ và họ đƣợc tự do đóng góp bảo hiểm ở mức
độ tối thiểu (xã hội chấp nhận) nhƣng không bị giới hạn về thời gian hƣởng và
không phải tƣơng ứng với mức đóng góp cũng nhƣ mức thu nhập của cá nhân.
Đề xuất cải cách của Beveridge đã đƣợc chấp thuận và trở thành một trong
những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm 1946, thực hiện chức năng
phòng ngừa các rủi ro về thất nghiệp, bệnh tật hoặc tuổi già, làm mất thu nhập tạm
thời hoặc vĩnh viễn. Mặc dù ý tƣởng về một hệ thống "bảo hiểm quốc gia" cho toàn
dân là rất hấp dẫn, tuy nhiên trong thực tiễn không thực sự hiệu quả, do sự quản lý
tập trung của Nhà nƣớc về BHXH khiến cho hệ thống này bị phụ thuộc và dễ bị tổn
thƣơng do các quyết định chính trị của Chính phủ. Hơn nữa, quyền lợi bảo hiểm
nhƣ nhau, đòi hỏi mức phúc lợi phải thấp để không vƣợt quá mức tiền lƣơng thấp
nhất và thƣờng quá thấp để h trợ gia đình.
Ý tƣởng của William Henry Beveridge là ASXH phải bao phủ toàn dân, phải
bao phủ các rủi ro và phải đƣợc sự h trợ của Nhà nƣớc, nền tảng cho khái niệm
Nhà nước phúc lợi mà các nƣớc xã hội chủ nghĩa mong muốn. Ngƣợc lại với
Beveridge, mục tiêu của Bismarck cho rằng BHXH chỉ bao phủ những ngƣời lao
9
động chính thức, có khả năng tham gia vào hệ thống bắt buộc đối với những rủi ro
đã đƣợc xác định rõ. Nói cách khác, mô hình Nhà nước xã hội của Bismarckian
không thực sự nhằm vào ngƣời nghèo, mà hƣớng tới tầng lớp trung lƣu và nhân
viên văn phòng với số lƣợng ngày càng tăng trong xã hội.
Mô hình sàn an sinh xã hội (ILO 2012) đƣợc triển khai năm 2009 theo sáng
kiến của Liên hiệp quốc với mục đích đảm bảo cho mọi ngƣời dân có mức thu nhập
tối thiểu và tiếp cận đƣợc các dịch vụ xã hội thiết yếu, nhằm bảo đảm các quyền cơ
bản của con ngƣời đƣợc quốc tế và quốc gia thừa nhận, vì mục tiêu giảm nghèo,
đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững. Theo mô hình này hệ thống an sinh
xã hội có ba tầng cơ bản nhƣ sau. Tầng thứ nhất là bảo đảm y tế tối thiểu (chăm sóc
sức khỏe cơ bản và tham gia bảo hiểm y tế); Tầng thứ hai là thu nhập tối thiểu cho
ngƣời nghèo, ngƣời thất nghiệp, ngƣời già và trẻ em và các đối tƣợng đặc biệt khác;
Tầng thứ ba là bảo hiểm xã hội tự nguyện cho một số đối tƣợng nhất định. Nguồn
tài chính của tầng an sinh xã hội thứ nhất do nhà nƣớc đảm bảo là chính thông qua
nguồn thu từ thuế; Bảo hiểm xã hội bắt buộc và các hình thức an sinh khác có đóng
góp của ngƣời dân (hƣớng tới mọi đối tƣợng). Nguồn tài chính của tầng hai do
doanh nghiệp và ngƣời lao động đóng góp là chính, nhà nƣớc có thể h trợ một
phần cho một số đối tƣợng. Nguồn tài chính của tầng ba do doanh nghiệp và ngƣời
lao động đóng góp, nhà nƣớc h trợ thông qua chính sách thuế thu nhập (Nguyễn
Thị Lan Hƣơng và cộng sự 2010).
“Report on International social security (Báo cáo An sinh xã hội thế giới
2014/2015)” của ILO đã khẳng định các chính sách ASXH đóng một vai trò thiết
yếu trong việc thực hiện các quyền được BHXH cho mọi người, giảm đói nghèo –
bất bình đẳng và thúc đẩy tăng trưởng toàn diện. Bởi vì, các chính sách ASXH thúc
đẩy tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất, thúc đẩy nhu cầu
trong nước và tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế của các quốc gia. Tuy
nhiên, các quyền cơ bản của tất cả mọi ngƣời về an sinh xã hội vẫn còn là một
khoảng cách xa với thực tế đối với một bộ phận lớn dân số thế giới, mặc dù sự cần
thiết về đảm bảo ASXH đã đƣợc công nhận rộng rãi. Chỉ có 27% dân số thế giới có
10
thể tiếp cận đƣợc hệ thống bảo hiểm xã hội một cách toàn diện, trong khi 73% chỉ
hƣởng một phần bảo hiểm xã hội hoặc không đƣợc hƣởng.
Báo cáo “Dự báo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội và các khuyến nghị pháp lý”
do ILO thực hiện tại Việt Nam là một báo cáo nhấn mạnh đến sự bền vững về khía
cạnh tài chính của Quỹ bảo hiểm xã hội. Theo nghiên cứu này, hiện nay, chính sách
bảo hiểm xã hội đã bao phủ khoảng 20% lực lƣợng lao động ở Việt Nam. Nghiên
cứu cũng chỉ ra những rủi ro của Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam: tuổi nghỉ hƣu
sớm trong khi Việt Nam đang bƣớc vào giai đoạn già hóa, chế độ chi trả hào phóng,
chỉ có 47% doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động (năm 2010).
Nghiên cứu cũng dự báo rằng, nếu không thay đổi chính sách, đến năm 2021, Quỹ
Bảo hiểm xã hội sẽ bắt đầu thâm hụt và cạn kiệt vào năm 2034. Từ đó, nghiên cứu
cũng đề xuất các giải pháp: tăng tuổi về hƣu, tính lại công thức đóng và hƣởng, thay
đổi cách thức đầu tƣ sinh lời của nguồn quỹ, tăng cƣờng việc tham gia bảo hiểm xã
hội của ngƣời lao động có đủ điều kiện….
Đề án khoa học: “Xây dựng quy định quản lý thu nợ BHXH, BHYT, BHTN”,
Chủ nhiệm, Thạc sĩ Trần Đình Liệu, Trƣởng Ban Thu - BHXH Việt Nam.
Đề án đã nghiên cứu và đánh giá tình hình nợ BHXH, BHYT của các đơn vị
sử dụng lao động tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nƣớc và công tác quản lý thu nợ
BHXH, BHYT trong thời gian 03 năm 2010-2012. Xác định những nguyên nhân
khách quan, chủ quan đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý có hiệu quả nhằm
chống thất thu, ngăn ngừa tình trạng chiếm dụng tiền đóng và giảm nợ đọng BHXH,
BHYT nhƣ:
- Hoàn thiện Luật BHXH và các văn bản hƣớng dẫn có liên quan, giao thẩm
quyền thanh tra về thu BHXH, BHYT cho cơ quan BHXH.
- Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa
phƣơng, sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc ở địa phƣơng trong công
tác thu hồi nợ đọng BHXH, BHYT.
- Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác thu BHXH, BHYT...
11
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo
hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”, mã số CT 2007- 01- 02,
chủ nhiệm đề tài: TS Phạm Đ Nhật Tân.
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận các yếu tố tác động đến thu,
chi và tăng trƣởng quỹ BHXH; đánh giá thực trạng quỹ BHXH và khả năng cân đối
của quỹ trong dài hạn thông qua việc phân tích các tác động từ những quy định mới
về chế độ, chính sách BHXH theo Luật BHXH và những tác động mới của việc
điều chỉnh tiền lƣơng, tiền công của Nhà nƣớc; Làm rõ vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan quản lý Nhà nƣớc trong việc giám sát quản lý hoạt động thu, chi và sử dụng
quỹ BHXH; đề xuất các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ BHXH khi thực hiện Luật
BHXH.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng: đề cập đến quản lý thu, chi và
tăng trƣởng quỹ cho nên đề tài chƣa đề cập sâu đến một số vấn đề liên quan đến
hoạt động thu BHXH nhƣ: Sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống thu
BHXH; các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu BHXH.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”, mã số: KX.02.02/06-10, Chủ nhiệm đề tài,
GS.TS Mai Ngọc Cƣờng.
Trên cơ sở tổng quan về những công trình nghiên cứu, đồng thời xuất phát từ
nghiên cứu kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới và khu vực trong việc xây
dựng hệ thống chính sách An sinh xã hội, đề tài làm rõ những vấn đề cơ bản về an
sinh xã hội và hệ thống chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trƣờng;
Đề tài đánh giá thực trạng của hệ thống an sinh xã hội và việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế, những thuận lợi và khó khăn, những thách thức đặt ra đối với hệ thống
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay;
Phân tích xu hƣớng đổi mới hệ thống an sinh xã hội và hệ thống chính sách
an sinh xã hội của thế giới và những chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc
xây dựng hệ thống an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội trong những năm tới
12
để làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với các vấn đề an sinh xã hội Việt Nam, đề xuất các
giải pháp xây dựng hệ thống tổng thể quốc gia về an sinh xã hội ở Việt Nam trong
giai đoạn 2006-2015;
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng cho nên đề tài chƣa đề cập sâu đến
hoạt động thu BHXH nhƣ: Các bộ phận trong hệ thống thu BHXH; các tiêu chí, chỉ
tiêu đánh giá quản lý thu bảo hiểm xã hội.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn đƣa ra giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng
nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, chế tài xử
phạt nợ đọng BHXH đối với doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng thực thi các chế tài xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội
của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu lấy dữ liệu, số liệu giai đoạn từ năm
2014 đến năm 2019.
Phạm vi nội dung: Nội dung nghiên cứu của luận văn tập trung vào tìm ra
nguyên nhân từ việc thực thi các chế tài xử phạt nhƣng vẫn dẫn đến nợ đọng BHXH
của các doanh nghiệp, từ đó đƣa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng
BHXH của các doanh nghiệp.
5. Câu hỏi nghiên cứu
13
5.1. Câu hỏi chủ đạo
Cần tiến hành giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt nhƣ thế nào nhằm hạn
chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp?
5.2. Các câu hỏi cụ thể
- Quận Thanh Xuân đã thực thi các hình thức xử phạt nhằm giảm tình trạng nợ
đọng BHXH của các doanh nghiệp nhƣng vẫn chƣa chấm dứt?
- Áp dụng các chế tài xử phạt nhƣ thế nào để hạn chế tình trạng nợ đọng
BHXH của các doanh nghiệp?
6. Giả thuyết nghiên cứu
6.1. Luận điểm chủ đạo
Để hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp, cần
tiến hành giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt phân ra thành nhóm đối với thủ tục
hành chính, đối với cơ quan BHXH, đối với trách nhiệm của các bên liên quan, đối
với ngƣời sử dụng lao động.
6.2. Luận điểm cụ thể
- BHXH quận Thanh Xuân đã áp dụng một số biện pháp đối với các doanh
nghiệp nợ đọng BHXH nhƣ: thực hiện tính lãi chậm đóng, thực hiện việc đôn đốc
thu nợ, thực hiện việc thanh tra, kiểm tra giám sát nhƣng tình trạng nợ đọng BHXH
của các doanh nghiệp vẫn chƣa chấm dứt do vƣớng mắc trong việc thực hiện các
chế tài xử phạt, áp dụng các chế tài xử phạt chƣa đủ mạnh.
- Áp dụng chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội
của các doanh nghiệp thông qua xử lý hình sự.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu: Các tài liệu liên quan đến BHXH, thực trạng nợ đọng
BHXH, áp dụng các chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của
các doanh nghiệp.
Cụ thể: Tác giả đã nghiên cứu Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã
hội, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Báo bảo hiểm xã hội, các bài viết liên quan đến Bảo
hiểm xã hội và nợ đọng BHXH, Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017, các
14
báo cáo tài chính của BHXH quận Thanh Xuân từ năm 2014 đến năm 2019, báo cáo
tình hình nợ BHXH, BHYT, BHTN từ năm 2014 đến năm 2019 của BHXH thành
phố Hà Nội.
- Tổng hợp phân tích số liệu, xử lý thông tin: Phân tích số liệu nợ đọng BHXH
của các doanh nghiệp.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 8 ngƣời,
bao gồm: 2 cán bộ BHXH thành phố Hà Nội, 2 cán bộ BHXH quận Thanh Xuân, 2
chủ doanh nghiệp nợ đóng BHXH, và 2 ngƣời lao động.
8. Luận cứ
8.1. Luận cứ lý thuyết
Các khái niệm: bảo hiểm xã hội là gì?, Nợ đọng BHXH là gì?, Doanh nghiệp
là gì? Chế tài xử phạt nợ đọng BHXH là gì?
8.2. Luận cứ thực tế
Áp dụng nghiêm minh các chế tài xử phạt đối với các doanh nghiệp nợ đọng
BHXH giúp nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về chính sách BHXH, từ đó
hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp.
9. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
đƣợc kết cấu gồm 03 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, và chế
tài xử phạt.
Chƣơng 2. Thực trạng thực thi chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội của
các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Chƣơng 3. Giải pháp và một số khuyến nghị hạn chế tình trạng nợ đọng bảo
15
hiểm xã hội của các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI,
NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ TÀI XỬ PHẠT
1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức đƣợc sử dụng làm tiêu
đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật đƣợc
thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế
giới thứ hai, thuật ngữ này đƣợc dùng trong Hiến chƣơng Đại Tây Dƣơng (the
Atlantic Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhanh chóng chấp nhận
thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ
này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhƣng phản ánh đƣợc nguyện vọng sâu sắc
nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới. [41]
Thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” đƣợc hiểu không giống nhau giữa các nƣớc về
mức độ phạm vi rộng hẹp của nó. Tuy nhiên, về cơ bản thì thuật ngữ này được hiểu
với nghĩa là sự bảo đảm an toàn của xã hội dành cho thành viên của nó thông qua
các quy trình của hệ thống công cộng, nhằm giải toả những lo âu về kinh tế và xã
hội cho thành viên. Nói cách khác, nó góp phần giúp các thành viên trong xã hội và
gia đình khắc phục sự suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thực tế do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, và tử tuất; đồng thời
cung cấp về dịch vụ y tế, trợ cấp gia đình có con nhỏ.
Theo D. Pieters bảo hiểm xã hội đƣợc hiểu với tƣ cách là một tổ chức đƣợc
hình thành với mục đích h tƣơng giữa ngƣời với ngƣời để đối phó với sự thiếu hụt
thu nhập (chẳng hạn nhƣ thu nhập từ tiền công lao động), hoặc những tổn thất cụ
thể khác. [41]
Sinfield thì đề nghị BHXH nên đƣợc định nghĩa là một cơ chế bảo đảm an
16
toàn toàn diện cho con ngƣời chống lại sự mất mát về vật chất. Quan điểm của
Berghman cũng tƣơng tự nhƣ thế, Berghman quan niệm rằng BHXH là một cơ chế
bảo hộ toàn diện cho con ngƣời chống lại những tổn thất vật chất.
Theo Giancarlo Perone bảo hiểm xã hội là một hệ thống bao gồm những lợi
ích và dịch vụ cung cấp cho công dân khi cần thiết, bất kể công dân đó làm công
việc gì. [41]
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH, tuỳ theo góc độ nghiên
cứu, cách tiếp cận mà ngƣời ta đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Có thể xác định
khái niệm BHXH nhƣ sau:
Dƣới góc độ kinh tế: bảo hiểm xã hội không trực tiếp chữa bệnh khi ngƣời
lao động ốm đau, tai nạn hay sắp xếp công việc mới cho họ khi họ mất việc làm mà
chỉ giúp đỡ họ có một phần thu nhập khi ngƣời lao động bị giảm hoặc mất khả năng
lao động.
Dƣới góc độ pháp lý, Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ ngƣời lao
động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và
đƣợc sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nƣớc nhằm trợ cấp vật chất cho ngƣời đƣợc bảo
hiểm trong trƣờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đƣa ra quan niệm: BHXH là sự bảo vệ của
xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng
để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu
nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. [42]
Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ban hành ngày
20/11/2014 đã có quy định về khái niệm bảo hiểm xã hội nhƣ sau: Bảo hiểm xã
hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của ngƣời lao động khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. [27]
Cần phân biệt bảo hiểm xã hội với một số khái niệm có nội dung gần với nó
17
nhƣ: bảo hiểm thƣơng mại, an sinh xã hội, cứu tế xã hội v.v. . . .Khái niệm an sinh
xã hội có phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm xã hội, những chế định cơ bản của hệ
thống an toàn xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, trợ cấp gia đình, trợ
cấp do các quỹ công cộng tài trợ, quỹ dự phòng và sự bảo vệ đƣợc giới chủ và các
tổ chức xã hội cung cấp. Còn bảo hiểm thƣơng mại chủ yếu mang tính chất tự
nguyện, quan hệ bảo hiểm xuất hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, phạm vi đối
tƣợng tham gia bảo hiểm nhà nƣớc rộng hơn so với bảo hiểm xã hội (gồm mọi cá
nhân, tổ chức), mức hƣởng bảo hiểm đƣợc đề xuất trên cơ sở mức tham gia bảo
hiểm và hậu quả xảy ra.
Nhƣ vậy, có thể khái quát về khái niệm bảo hiểm xã hội nhƣ sau:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối
với ngƣời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm
đảm bảo đời sống cho ngƣời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã
hội.
1.1.2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội
BHXH là một hệ thống đa dạng và phức tạp với những nội dung khác nhau.
Tuy nhiên, có thể tập trung vào 4 nhóm nội dung cơ bản sau [31]:
1.1.2.1. Đối tượng BHXH
Đối tƣợng tham gia BHXH là ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và
Nhà nƣớc trong một số trƣờng hợp. Đối tƣợng của BHXH là thu nhập của ngƣời lao
động. Mục đích của BHXH góp phần cân bằng thu nhập cho ngƣời lao động khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng
lao động không đƣợc sử dụng.
Mục đích, bảo đảm của BHXH là ngƣời lao động và gia đình họ theo quy
định của pháp luật BHXH.
1.1.2.2. Các chế độ BHXH
Chế độ BHXH là những quy định về mức hƣởng, điều kiện hƣởng, và thời
hạn hƣởng cho ngƣời lao động. Tùy theo quan điểm tiếp cận của m i quốc gia sẽ
18
quy định các chế độ BHXH khác nhau. Việt Nam quy định có 5 chế độ: chế độ trợ
cấp cho những trƣờng hợp bị ốm đau (gọi tắt là chế độ ốm đau); chế độ BHXH cho
lao động nữ khi sinh con (gọi tắt là chế độ thai sản); chế độ trợ cấp BHXH cho
ngƣời lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (gọi tắt là chế độ TNLĐ &
BNN); chế độ chôn cất và trợ cấp mất ngƣời nuôi dƣỡng (gọi tắt là chế độ tử tuất);
chế độ bảo hiểm tuổi già (gọi tắt là chế độ hƣu trí).
Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể
hiện đƣợc vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với ngƣời lao động khi họ
tham gia BHXH.
Trợ cấp BHXH là khoản tiền từ quỹ BHXH đƣợc bên BHXH (cơ quan
BHXH) chi trả cho mọi ngƣời khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập, mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định.
1.1.2.3. Quỹ BHXH
Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia
BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, đƣợc
sử dụng để chi trả cho những ngƣời đƣợc BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm hoặc bị chết.
Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, dự phòng; vừa mang tính kinh tế, vừa
mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo
cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH tạo ra khả năng giải quyết những “rủi ro xã hội” cho những
ngƣời tham gia BHXH, giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho ngƣời sử dụng lao
động, tiết kiệm chi phí cho cả ngân sách Nhà nƣớc và ngân sách gia đình.
Quỹ BHXH đƣợc hình thành từ các nguồn: (i) Nguồn đóng góp của ngƣời sử
dụng lao động, ngƣời lao động và Nhà nƣớc, đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất
của quỹ. (ii) Từ nguồn tăng thêm do bộ phận nhàn r i tƣơng đối của quỹ đƣợc tổ
chức BHXH chuyên trách đƣa vào hoạt động sinh lợi. (iii) Nộp phạt của những cá
nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Ngoài các nguồn trên, quỹ còn
19
có các nguồn thu hợp pháp khác đƣợc pháp luật của m i nƣớc quy định.
Quỹ BHXH sử dụng để chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH (khoản chi này
chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp (tiền
lƣơng, đào tạo…) và chi bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý
khác.
1.1.2.4. Tổ chức quản lý BHXH
Quản lý BHXH chung nhất, đƣợc hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào
đối tƣợng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt đƣợc mục
tiêu đề ra với những nguyên tắc và phƣơng pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản
lý chung của nền kinh tế.
Quản lý BHXH cho thấy phƣơng thức quản lý BHXH và các cơ quan chức
năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao gồm quản lý Nhà nƣớc về BHXH và quản lý
hoạt động sự nghiệp BHXH).
Do điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị của m i nƣớc khác nhau nên hệ
thống BHXH của các nƣớc đƣợc xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình
tổ chức BHXH chung cho tất cả các nƣớc. Có một số nƣớc giao cho một cơ quan
Chính phủ đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nƣớc về BHXH và tổ chức thực
hiện các nghiệp vụ BHXH. Đa số các nƣớc hoạt động sự nghiệp BHXH (quản lý
quỹ, quản lý đối tƣợng, thực hiện thu – chi BHXH) đƣợc giao cho cơ quan BHXH
độc lập đảm nhận dƣới sự điều hành của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản lý.
Tuy nhiên, dù có tổ chức thế nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý
Nhà nƣớc về BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH.
Quản lý Nhà nước về BHXH:
Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nƣớc về BHXH bao gồm:
Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc gia:
Các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH. Việc quản
lý thống nhất là chỉ có Nhà nƣớc mới ban hành luật pháp, chính sách định hƣớng
hoạt động của hệ thống BHXH. Nhà nƣớc định ra các chế độ BHXH, các nội dung
cơ bản của BHXH; các chính sách BHXH đối với các nhóm đối tƣợng cụ thể, phù
20
hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nƣớc trong từng giai đoạn phát triển.
Xây dựng pháp luật BHXH:
Nhà nƣớc, thông qua các cơ quan chức năng của mình (tùy theo mô hình
quản lý Nhà nƣớc của m i nƣớc) xây dựng các văn bản pháp luật về BHXH bao
gồm các đạo luật, các luật, các văn bản pháp quy (Nghị định, quyết định…) và các
văn bản dƣới luật để thực hiện pháp luật BHXH.
Định hƣớng các hoạt động BHXH:
Với chức năng của mình, Nhà nƣớc đề ra các chính sách BHXH nhằm định
hƣớng cho các hoạt động BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội
của đất nƣớc trong từng thời kỳ, bao gồm:
Không phải ngay một lúc, một thời điểm nội dung các chế độ đã đƣợc xây
dựng đầy đủ mà tuỳ từng thời kỳ, các nội dung này đƣợc bổ sung dần dần. Tuy
nhiên, bổ sung, sửa đổi nhƣ thế nào phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố kinh tế – xã
hội và có thời kỳ cả yếu tố chính trị nữa. Ở một số nƣớc ban đầu chỉ xây dựng một
vài chế độ (chủ yếu là hƣu trí và ốm đau) sau đó mới mở rộng dần các chế độ
BHXH khác. Việc mở rộng đối tƣợng, mở rộng nội dung chế độ BHXH và cơ chế
thực hiện BHXH là do Nhà nƣớc quy định. Ngoài ra, Nhà nƣớc còn định hƣớng về
mô hình tổ chức hệ thống BHXH. Có những nƣớc, ngoài hệ thống BHXH chính
thống của Nhà nƣớc còn có hệ thống BHXH của tƣ nhân, hệ thống BHXH của một
số ngành…
Để hoạt động này có hiệu quả, phục vụ cho các đối tƣợng thụ hƣởng BHXH
và góp phần lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, Nhà nƣớc ra những quy định về
mức đóng, mức hƣởng BHXH; quy định trách nhiệm của các bên khi tham gia
BHXH; quy định các chế độ và quản lý quỹ BHXH; quy định về kiểm tra, kiểm
toán… Ngoài ra, với vai trò là ngƣời quản lý xã hội, Nhà nƣớc định hƣớng đầu tƣ
để tăng trƣởng quỹ BHXH (đầu tƣ vào những lĩnh vực nào, đầu tƣ nhƣ thế nào…).
Mặc dù ở nhiều nƣớc, hoạt động đầu tƣ quỹ BHXH do Hội đồng quản trị quyết
định, nhƣng Nhà nƣớc vẫn giữ vai trò định hƣớng để đảm bảo an toàn cho quỹ
BHXH.
21
Quản lý tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH.
Quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH là việc quản lý các hoạt động thu- chi
BHXH, quản lý đối tƣợng tham gia BHXH, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các
hoạt động thanh tra, kiểm tra của BHXH Việt Nam.
Thông qua bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của m i nƣớc,
các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của các doanh
nghiệp và ngƣời lao động (còn gọi là phí BHXH) và triển khai chi trả các trợ cấp
cho ngƣời thụ hƣởng BHXH và các chi phí quản lý khác.
Thực hiện các nghiệp vụ kế toán – tài chính BHXH theo chính sách tài chính
của m i nƣớc.
Hoạt động BHXH có hai nhóm đối tƣợng đó là nhóm đối tƣợng tham gia
BHXH và nhóm đối tƣợng thụ hƣởng BHXH. Nhóm đối tƣợng tham gia BHXH bao
gồm các doanh nghiệp và ngƣời lao động. Khi tham gia BHXH, doanh nghiệp
(ngƣời sử dụng lao động) và ngƣời lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy, để
đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc đƣợc số
lƣợng các đơn vị tham gia BHXH, những di biến động trên từng địa bàn và trong
toàn quốc. Đồng thời, cũng phải có đƣợc những thông tin đầy đủ về ngƣời lao động
để xác định đƣợc nguồn thu và dự báo đƣợc các khoản chi trong tƣơng lai.
Nhóm đối tƣợng thụ hƣởng BHXH bao gồm ngƣời lao động và gia đình họ
(theo quy định của từng nƣớc). Cơ quan BHXH cũng phải có đầy đủ các thông tin
về ngƣời lao động khi thụ hƣởng BHXH để chi đúng, chi đủ cho đối tƣợng và hạn
chế những sự lạm dụng BHXH.
Để quản lý tốt đối tƣợng các cơ quan BHXH có các công cụ quản lý đó là sổ
và mã số BHXH. Trong đó có ghi chép (đƣợc mã hóa) các thông tin cần thiết về đối
tƣợng, đặc biệt là đối tƣợng thụ hƣởng BHXH. Hiện nay, các nƣớc đã ứng dụng
công nghệ tin học hiện đại để quản lý đối tƣợng tham gia và thụ hƣởng BHXH.
Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý công tác thu BHXH và quản lý công
tác chi BHXH, nhằm đảm bảo cho quỹ đƣợc an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ;
chi đúng, chi đủ cho đối tƣợng thụ hƣởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ
22
BHXH.
Xây dựng chiến lƣợc tăng trƣởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu
tƣ.
Tham gia vào thị trƣờng tài chính của quốc gia. Đây là một trong những chức
năng quan trọng của cơ quan BHXH. Bởi lẽ các quá trình thu và chi BHXH không
diễn ra song trùng và thông thƣờng sự tồn tích của quỹ BHXH rất lớn. Nếu đƣợc
Nhà nƣớc điều tiết thông qua các chính sách và công cụ tài chính, quỹ BHXH sẽ
góp phần rất lớn vào việc ổn định nền tài chính quốc gia.
Tuỳ mô hình của từng nƣớc mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH có
khác nhau. Với những nƣớc trao quyền tự chủ cao cho Hội đồng quản trị BHXH thì
trong hệ thống sự nghiệp BHXH chức năng thanh tra, kiểm tra rất quan trọng. Đối
với những nƣớc có quản lý Nhà nƣớc về BHXH riêng thì chức năng thanh tra, kiểm
tra hoạt động BHXH của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc rất lớn. Tuy nhiên, trong hệ
thống BHXH vẫn có chức năng thanh tra kiểm tra của mình nhằm đảm bảo các hoạt
động BHXH đúng với các quy định của pháp luật.
Song song với việc hoạch định chính sách BHXH, Nhà nƣớc tổ chức các
hoạt động sự nghiệp BHXH. Để các hoạt động này đúng định hƣớng, với chức năng
của mình, Nhà nƣớc thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp
BHXH theo quy định của pháp luật, xử lý các khiếu kiện, các tranh chấp về BHXH
theo luật định.
Trong hoạt động BHXH có các bên liên quan nhƣ ngƣời lao động, ngƣời sử
dụng lao động với những lợi ích khác nhau và vì vậy thƣờng có những sự lạm dụng,
lợi dụng pháp luật BHXH để trục lợi cho mình. Mặt khác, chính sách BHXH là
chính sách phát triển và phức tạp nên trong quá trình thực hiện cả ngƣời lao động,
ngƣời sử dụng lao động và cơ quan BHXH khó tránh khỏi những sai sót. Do đó,
thanh tra, kiểm tra các hoạt động BHXH là cần thiết nhằm đảm bảo cho các bên liên
quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm bảo quyền
23
lợi hợp pháp của họ.
Nhà nƣớc luôn luôn bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH, nhằm đảm
bảo cho BHXH không bị ảnh hƣởng trƣớc những biến động về kinh tế và xã hội,
đặc biệt là những biến động về tài chính.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Vai trò của BHXH đối với người lao động:
BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Khi tham gia
BHXH, NLĐ phải trích một khoản phí nộp vào quỹ BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh
nhƣ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải
ngừng làm việc tạm thời. Do vậy, thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế
lâm vào tình cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách BHXH mà họ đƣợc nhận
một khoản tiền trợ cấp để bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm bảo
ổn định thu nhập, ổn định đời sống. Đồng thời BHXH cũng sẽ tạo đƣợc tâm lý an
tâm, tin tƣởng.
Vai trò của BHXH đối với xã hội:
Tăng cƣờng mối quan hệ giữa Nhà nƣớc, ngƣời SDLĐ và NLĐ là mối quan
hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro chỉ có đƣợc trong quan hệ
của BHXH. Tuy nhiên, mối quan hệ này thể hiện trên giác độ khác nhau. Ngƣời lao
động tham gia BHXH với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình đồng thời phải
có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Ngƣời SDLĐ tham gia BHXH là để
tăng cƣờng tình đoàn kết và cùng chia sẻ rủi ro cho NLĐ nhƣng đồng thời cũng bảo
vệ, ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện
tính nhân sinh, nhân văn sâu sắc của BHXH.
BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho những ngƣời bất
hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những biến cố
xã hội, hoà nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích cực của xã hội trong m i con
ngƣời giúp họ hƣớng tới những chuẩn mực của chân-thiện-mỹ nhờ đó có thể chống
lại tƣ tƣởng “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”. BHXH là yếu tố tạo nên sự hoà đồng mọi
ngƣời, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị thế BHXH đồng thời
24
giúp mọi ngƣời hƣớng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên.
BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tƣơng thân tƣơng ái
của cộng đồng, đây là nhân tố quan trọng của cộng đồng, giúp đỡ những ngƣời bất
hạnh, nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con ngƣời, tạo điều kiện cho một
xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác độ xã hội, BHXH là
một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho NLĐ; trên giác độ kinh tế, BHXH là
một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự
điều tiết này NLĐ đƣợc thực hiện bình đẳng không phân biệt các tầng lớp trong xã
hội.
Vai trò của BHXH đối với nền kinh tế:
Khi chuyển sang cơ chế thị trƣờng, thì sự phân tầng giữa các lớp trong xã hội
trở nên rõ rệt. Đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề
khác nhau trong xã hội. Những rủi ro xảy ra trong cuộc sống không loại trừ một ai,
nếu rơi vào những ngƣời có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì cuộc sống của họ trở
nên bần cùng, túng quẫn. BHXH đã góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình
họ.
Khi những NLĐ không may gặp rủi ro thì đã đƣợc chuyển giao cho cơ quan
BHXH chi trả. Nhờ vậy tình hình tài chính của các DN đƣợc ổn định hơn. Hệ thống
BHXH đã bảo đảm ổn định xã hội tạo tiền đề để phát triển kinh tế thị trƣờng.
Khi tham gia BHXH cho NLĐ sẽ phát huy tinh thần trách nhiệm, gắn bó tận
tình của NLĐ trong các DN, làm cho mối quan hệ thị trƣờng lao động đƣợc trở nên
lành mạnh hơn, thị trƣờng sức lao động vận động theo hƣớng tích cực góp phần xây
dựng và có kế hoạch phát triển chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trƣờng.
Quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp đƣợc tích tụ tập trung rất lớn,
phần quỹ nhàn r i đƣợc đem đầu tƣ cho nền kinh tế tạo ra sự tăng trƣởng, phát triển
25
kinh tế và tạo công ăn việc làm cho NLĐ.
BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhƣng mặt
khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cƣ thông qua hệ thống phân phối lại
thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trƣờng lao động.
1.2. Khái niệm, tác động, chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm nợ đọng bảo hiểm xã hội
Đứng trên góc độ của cơ quan BHXH, “Nợ đọng Bảo hiểm xã hội” là khoản
tiền đóng thiếu hoặc chậm đóng của các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động
cho các khoản phí của các chế độ BHXH đã đƣợc Pháp luật của m i quốc gia quy
định. Việc nợ đọng BHXH ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của ngƣời lao động,
sự an toàn của quỹ BHXH và hệ thống an sinh của m i quốc gia.
Nợ đọng BHXH tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau. Theo thời gian có
nợ đọng BHXH ngắn hạn và nợ đọng BHXH dài hạn. Nợ đọng BHXH ngắn hạn là
chậm đóng BHXH dƣới 3 tháng so với thời gian quy định; Nợ đọng BHXH dài hạn
là chậm đóng BHXH từ 3 tháng trở lên so với thời gian quy định. Khi xem xét các
loại nợ đọng này cơ quan BHXH sẽ xác định rõ những đơn vị sử dụng lao động nợ
dài hạn để tập trung đôn đốc thu, đồng thời xác định những đơn vị SDLĐ thuộc
diện nợ khó đòi để kịp thời thông tin phản hồi với các cơ quan chức năng, từ đó, có
biện pháp xử lý.
Theo quy mô có nợ BHXH ít (nợ dƣới 100 triệu đồng) và nợ BHXH nhiều (nợ
trên 100 triệu đồng). Làm rõ loại này, cơ quan chức năng xác định đƣợc quy mô nợ
của từng đơn vị, từ đó đƣa ra các biện pháp xử lý khác nhau. Trƣớc hết là ƣu tiên xử
lý các đơn vị nợ BHXH với số tiền nhiều bởi tại những đơn vị đó quyền lợi của
ngƣời lao động thƣờng bị ảnh hƣởng nhiều hơn. Đồng thời, nếu thu hồi đƣợc nợ của
các đơn vị này sẽ góp phần tích cực trong việc tăng thu cho quỹ BHXH.
1.2.2. Tác động của nợ đọng bảo hiểm xã hội
Theo Hiệp hội an sinh xã hội quốc tế (ISSA), dù không có thống kê chính
thức nhƣng tình trạng trốn tránh trong thực hiện trách nhiệm đóng góp nói chung,
26
nợ đọng BHXH riêng liên quan khá chặt chẽ với ý thức tuân thủ pháp luật của cả
NLĐ và ngƣời SDLĐ; đồng thời phụ thuộc vào mức đóng góp và những lợi ích mà
họ có thể thu đƣợc qua hành vi vi phạm này.
Theo ISSA, các hành vi vi phạm, trong đó có việc nợ đọng BHXH tạo ra
những tác động tiêu cực, có thể tạo ra những thiệt hại về kinh tế cũng nhƣ hậu quả
phi kinh tế có liên quan đến các hệ thống, chƣơng trình BHXH cũng nhƣ cuộc sống
của NLĐ. [1]
Về thiệt hại kinh tế, một nghiên cứu đƣợc thực hiện năm 2014 cho thấy, việc
không tuân thủ nghĩa vụ đóng góp là một vấn đề thực sự đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. Riêng tại các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD), ngƣời ta ƣớc tính những thiệt hại do gian lận đóng góp (bao gồm
cả nợ đọng) cao gấp 7 đến 8 lần so với thiệt hại kinh tế gây ra do các hành vi gian
lận lợi ích.
Việc không thu đƣợc các khoản đóng góp kịp thời, trƣớc hết, có thể làm suy
yếu nghiêm trọng tính bền vững kinh tế của các chƣơng trình BHXH. Khi quỹ
BHXH không đảm bảo nguồn thu đầu vào, các tính toán về việc đảm bảo quyền lợi
của ngƣời tham gia trong tƣơng lai.
Trong ngắn hạn, với các khoản kinh phí đáng ra phải đóng BHXH nhƣng
đƣợc giữ lại, ngƣời SDLĐ có thể giảm đƣợc chi phí cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh, từ đó có lợi thế hơn trong cạnh tranh với các DN tuân thủ nghiêm túc
quy định. Điều đó dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những tác
động tiêu cực ngày càng tăng đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Về tác động phi kinh tế, tuy nhiên, tác động của hành vi vi phạm này đối với
các chƣơng trình an sinh xã hội còn vƣợt xa chi phí tiền tệ. Cụ thể, tình trạng nợ
đọng BHXH sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền thụ hƣởng BHXH của NLĐ và ngƣời
phụ thuộc của họ, gây mất niềm tin vào hệ thống an sinh xã hội, tạo ra sự bất ổn tài
chính của hệ thống an sinh xã hội, làm suy yếu nguyên tắc công bằng và đoàn kết
27
xã hội…
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội
Có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá tình trạng này để có cái nhìn tổng
thể về BHXH.
Để đánh giá tình trạng nợ đọng BHXH, sử dụng các chỉ tiêu sau: [46]
(a) Các chỉ tiêu tuyệt đối:
Số tiền nợ BHXH trong kỳ: Là số tiền còn lại của số BHXH phải thu trong kì
với số BHXH đã nộp trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối tình trạng số
tiền nợ BHXH của từng đơn vị hoặc toàn hệ thống.
Cách tính:
Số tiền nợ Số phải thu - Số đã nộp BHXH trong = - - BHXH trong kỳ BHXH trong kỳ kỳ
Số đơn vị nợ BHXH trong kỳ: Là số đơn vị chƣa đóng đủ số tiền BHXH phải
thu trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối số đơn vị nợ BHXH của từng
đơn vị hoặc của toàn bộ hệ thống.
(b) Các chỉ tiêu tƣơng đối:
Tỷ lệ nợ BHXH: là tỷ lệ phần trăm tổng số tiền BHXH nợ đọng so với tổng
số tiền BHXH phải thu. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thu kịp thời, hoàn thành công
tác thu BHXH của bộ phận thu BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh số nợ đọng
BHXH so với tổng số tiền phải thu càng thấp, ngƣợc lại tỷ lệ này càng cao phản ánh
tình trạng nợ đóng BHXH diễn ra phổ biến.
Cách tính:
Tỷ lệ nợ đọng BHXH = x 100
Tỷ lệ đơn vị nợ BHXH: là tỷ lệ phần trăm tổng số doanh nghiệp nợ đọng BHXH
so với tổng số doanh nghiệp phải tham gia BHXH. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ
số đơn vị nợ BHXH trên tổng số đơn vị phải tham gia càng nhiều và ngƣợc lại. Xác
định chỉ tiêu này giúp cơ quan BHXH có những biện pháp xử lý kịp thời để ngăn
chặn tình trạng nợ BHXH.
28
Cách tính:
Tỷ lệ đơn vị nợ
đọng BHXH
1.3. Khái niệm doanh nghiệp và chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp
1.3.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Hiện nay trên phƣơng diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là một
doanh nghiệp, m i định nghĩa đều mang trong nó có một nội dung nhất định với
một giá trị nhất định.
Xét theo quan điểm luật pháp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tƣ cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản,
có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo chế độ hạch toán độc lập, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn đầu tƣ do doanh
nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nƣớc bằng các loại luật và chính sách
thực thi
Xét theo quan điểm chức năng:
Doanh nghiệp đƣợc định nghĩa nhƣ sau: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức
sản xuất mà tại đó ngƣời ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của
các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị
trƣờng những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận đƣợc khoản tiền chênh lệch
giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. (M. Francois Peroux).
Xét theo quan điểm phát triển:
Doanh nghiệp là một cộng đồng ngƣời sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra,
phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vƣợt qua những thời kỳ
nguy kịch và ngƣợc lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải
những khó khăn không vƣợt qua đƣợc " (trích từ sách " kinh tế doanh nghiệp của D.
Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992)
Xét theo quan điểm hệ thống:
Doanh nghiệp đƣợc các tác giả nói trên xem rằng " doanh nghiệp bao gồm một
29
tập hợp các bộ phận đƣợc tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục
tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,
thƣơng mại, tổ chức, nhân sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét
doanh nghiệp dƣới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh
nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn
bao quát trên phƣơng diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trƣờng, các chức năng và nội dung hoạt
động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải đƣợc cấu
thành bởi những yếu tố sau đây:
* Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện
các chức năng quản lý nhƣ các bộ phận sản xuất, bộ phận thƣơng mại, bộ phận hành
chính.
* Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tƣ, thông tin.
* Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thƣơng mại - mua các yếu tố đầu vào, bán
sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
* Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà
nƣớc, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tƣơng lai của doanh nghiệp bằng khoản
lợi nhuận thu đƣợc.
Từ cách nhìn nhận nhƣ trên có thể phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp nhƣ
sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tƣ cách pháp nhân, quy tụ các phƣơng tiện
tài chính, vật chất và con ngƣời nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng,
tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của ngƣời tiêu dùng,
thông qua đó tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý
các mục tiêu xã hội.
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2014, có hiệu lực từ ngày
01/07/2015, thay thế Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc
năm 2003 và Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài năm 1996; một số khái niệm cơ bản về doanh
30
nghiệp đƣợc thống nhất nhƣ sau:
DN là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng
kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
DN thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Trên thực tế, khái niệm DN đƣợc dùng chung đối với các cơ
sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức, các
ngành nghề khác nhau, có tƣ cách pháp nhân.
1.3.1.2. Loại hình doanh nghiệp
Theo bản chất kinh tế của của chủ sở hữu chúng ta sẽ có 3 loại hình
doanh nghiệp là:
1. Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation)
2. Doanh nghiệp hợp danh (Partnership).
3. Doanh nghiệp tƣ nhân (Proprietorship).
Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp:
1. Công ty TNHH bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
2. Công ty cổ phần là DN trong đó vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân có cổ phần. Số
lƣợng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lƣợng tối đa. Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào DN.
3. Công ty hợp danh là DN trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
công ty, cùng nhau kinh doanh dƣới một cái tên chung. Ngoài các thành viên
hợp danh còn có các thành viên góp vốn.Thành viên hợp danh phải là cá nhân
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không đƣợc phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào.
4. DN tƣ nhân là một loại DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
31
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DN tƣ nhân không
đƣợc phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. M i cá nhân chỉ đƣợc
quyền thành lập một DN tƣ nhân.
5. DN nhà nƣớc là là doanh nghiệp do Nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ.
6. Nhóm công ty là tập hợp công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về
lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trƣờng và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm
công ty bao gồm các hình thức: Công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế và
các hình thức khác.
7. DN có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là DN do nhà đầu tƣ từ nƣớc ngoài thành lập
để thực hiện đầu tƣ tại Việt Nam hoặc DN Việt Nam do nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
8. DN công nghiệp là DN trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm công nghiệp. [30]
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm:
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn:
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó
chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả
tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài
chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách
nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh.
Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế độ
trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân và của thành viên hợp
danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân và thành viên hợp danh
sẽ chịu trách nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không
giới hạn ở phần tài sản chủ doanh nghiệp, các thành viên hợp danh đã bỏ vào đầu tƣ
kinh doanh tại doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu
tài sản của doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh không đủ để thực hện các
nghĩa vụ về tài chính của doanh nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ
32
tục thanh lý trong thủ tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp
danh phải sử dụng cả tài sản riêng không đầu tƣ vào doanh nghiệp để thanh toán
cho các khoản nợ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn:
Theo pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn
cụ thể gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài không tiến hành đăng ký lại.
Những doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là những doanh nghiệp
mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài
chính của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có
nghĩa là khi số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có
nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là chế
độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tƣ – thành viên/chủ sở hữu công ty.
1.3.2. Chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp
Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật. Chế tài
là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lí khi có hành vi vi phạm với
những quy tắc xử sự chung đƣợc ghi trong phần quy định và giả định của quy phạm
pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều
chỉnh, chế tài đƣợc phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính,
chế tài dân sự... Việc áp dụng chế tài cũng phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi
ích mà pháp luật cần bảo vệ, căn cứ vào tính chất của hành vi phạm pháp, mức độ
thiệt hại và những vấn đề khác có liên quan (có ý nghĩa đối với việc tăng nặng hoặc
giảm nhẹ khi áp dụng chế tài). Chế tài gồm có các hình thức: chế tài trừng trị (trong
lĩnh vực hình sự), chế tài khôi phục trạng thái pháp lí ban đầu (trong lĩnh vực hành
chính, dân sự), chế tài bảo vệ và chế tài bảo đảm (trong lĩnh vực hành chính, kinh
tế, dân sự) và chế tài vô hiệu hoá.
Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh,
chế tài đƣợc phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài
33
dân sự...
Nhƣ vậy, khái niệm chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà
Nhà nƣớc sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy tắc xử sự.
Chế tài xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp đƣợc thể hiện qua sơ
đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Chế tài xử phạt đối với ngƣời SDLĐ nợ tiền BHXH
Phạt vi phạm hành chính
Nộp tiền lãi chậm đóng BHXH Trích tài khoản để nộp tiền nợ và lãi
Chế tài đối với SDLĐ nợ BHXH
Xử lý hình sự Công đoàn khởi kiện
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Theo Điều 122 Luật BHXH 2014 thì “Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm
quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm
hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Đối
với cá nhân có hành vi vi phạm thì “tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử
phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Nhƣ vậy các hình
thức xử lý vi phạm phạm luật về BHXH đƣợc phân thành các cấp độ từ nhẹ đến
nặng bao gồm:
Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính: cảnh cáo, phạt tiền và các biện pháp
34
khắc phục hậu quả.
Nghị định 88/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung NĐ 95/2013/NĐ-CP quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đƣa ngƣời Việt Nam
đi làm việc ở nƣớc ngoài. Tùy vào từng hành vi vi phạm pháp luật về BHXH mà
mức xử phạt sẽ khác nhau, cao nhất lên tới 1 triệu đồng với ngƣời lao động; đối với
ngƣời sử dụng lao động lên tới 75 triệu đồng hoặc lên tới 3 triệu đồng khi vi phạm
với m i ngƣời lao động.
Về các biện pháp khắc phục hậu quả: Tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP cũng
quy định một số biện pháp khắc phục hậu quả: buộc truy nộp số tiền BHXH bắt
buộc, bảo hiểm thất nghiệp chƣa đóng, chậm đóng đối với hành vi vi phạm quy
định; buộc đóng số tiền lãi của sổ BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp chƣa đóng,
chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tƣ quỹ BHXH; buộc trả đủ chế độ
BHXH, buộc nộp lại lợi nhuận thu đƣợc từ việc sử dụng quỹ BHXH sai mục đích...
về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Theo Điều 121 Luật BHXH 2014 và Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính
2012 thì thẩm quyền xử phạt thuộc về:
- Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4
Điều 46 của Luật Xử lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến mức tối
đa đối với lĩnh vực tƣơng ứng; Tƣớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.
Giám đốc BHXH cấp tỉnh có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 46
của Luật xử lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt
tối đa đối với lĩnh vực tƣơng ứng nhƣng không quá 50.000.000 đồng; Tƣớc quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có
thời hạn.
- Trƣởng đoàn thanh tra chuyên ngành do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
quyết định thành lập có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 46 của Luật xử
lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 70% mức tiền phạt tối đa đối
với lĩnh vực tƣơng ứng nhƣng không quá 250.000.000 đồng; Tƣớc quyền sử dụng
35
giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.
Ngoài ra tại khoản 2 điều 121 Luật BHXH 2014 cũng cho biết: Ngƣời có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều này có thể giao
cho cấp phó thực hiện xử lý vi phạm hành chính.
Thêm nữa tại Điều 36, 37 của Nghị định 95/2013/NĐ-CP thì chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH còn đƣợc trao cho Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các cấp và Thanh tra lao động.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: khi phát hiện ra hành vi vi phạm pháp
luật về BHXH cơ quan có thẩm quyền xử phạt cần kịp thời lập biên bản vi phạm
hành chính theo quy định tại Điều 40 của Nghị định 95/2013/NĐ-CP. Sau đó, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục sau: Phát hiện và lập biên bản; xác minh
tình tiết của vụ việc; chuyển hồ sơ nếu thấy có dấu hiệu tội phạm; ra quyết định xử
phạt; thi hành quyết định xử phạt.
Thứ hai, bồi thường thiệt hại.
Điều 122 Luật BHXH 2014 quy định: “Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm
quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm
hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Bồi
thƣờng thiệt hại bao gồm bồi thƣờng thiệt hại về vật chất và tinh thần đƣợc phát
sinh do l i cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức.
Thẩm quyền yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại đƣợc trao cho Tòa án nhân dân
cấp có thẩm quyền tại nơi cƣ trú (nơi đăng ký trụ sở chính) của ngƣời bị yêu cầu
hoặc theo yêu cầu của ngƣời yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại.
Thủ tục yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại: theo quy định tại Bộ luật Dân sự
2014, cá nhân tổ chức cơ quan có quyền tự mình hoặc thông qua ngƣời đại diện hợp
pháp yêu cầu giải quyết việc dân sự có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cùng với đơn yêu cầu phải gửi
kèm các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp. Trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải
36
xem xét và có một trong các quyết định sau: tiến hành thủ tục thụ lý vụ việc thuộc
thẩm quyền của mình, chuyển đơn yêu cầu cho tòa có thẩm quyền. Sau khi thụ lý
đơn yêu cầu tòa án tiến hành hòa giải giữa các bên. Sau khi Tòa tiến hành hòa giải
giữa các bên đƣơng sự mà không đi đến sự thỏa thuận thống nhất thì Tòa sẽ mở
phiên tòa sơ thẩm để thực hiện giải quyết vụ việc. Phiên tòa sơ thẩm phải tiến hành
đúng thời gian, địa điểm đã đƣợc ghi trong quyết định đƣa vụ việc ra xét xử và có
sự tham gia đầy đủ của những ngƣời tham gia tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng.
Mặc dù pháp luật BHXH có thừa nhận bồi thƣờng thiệt hại là một trong những hình
thức xử lý vi phạm pháp luật nhƣng lại không hề có bất cứ quy định cụ thể nào về
hình thức xử lý khiến cho biện pháp này hiện nay khó áp dụng chƣa thực sự đi sâu
vào thực tiễn.
Thứ ba, truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự 2015 quy định những tội danh riêng đối với những hành vi
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH: Điều 214 về tội gian lận BHXH; Điều215
về tội gian lận BHYT; Điều 216 về tội trốn đóng BHXH. Việc tội phạm hóa hành vi
trốn đóng BHXH và quy định tách riêng tội gian lận BHXH và tội gian lận BHYT
trong bộ luật hình sự mới đã khắc phục đƣợc khoảng trống trong xử lý nhóm hành
vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN. Điều này tăng tính tƣơng h của
bộ luật hình sự trong việc tạo cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi có tính nguy hiểm
cho xã hội mà các luật chuyên ngành trong lĩnh vực BHXH đã cho phép truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Ngoài các hình thức trên, pháp luật BHXH còn cho phép một số chủ thể có
thẩm quyền khởi kiện ra Tòa đối với những hành vi vi phạm pháp luật BHXH để
bảo vệ quyền lợi cho ngƣời lao động hoặc nhóm chủ thể bị xâm hại. Theo đó, tại
điểm d khoản 1 Điều 14 Luật BHXH 2014 quy định tổ chức công đoàn có quyền:
Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động theo quy
định tại khoản 8 Điều 10 của Luật Công đoàn (Đại diện cho tập thể ngƣời lao động
khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể ngƣời lao
37
động bị xâm phạm; đại diện cho ngƣời lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền và
lợi ích chính đáng của ngƣời lao động bị xâm phạm và đƣợc ngƣời lao động ủy
quyền”. Ngoài ra khởi kiện còn là đặc quyền mà pháp luật BHXH dành cho ngƣời
lao động và ngƣời sử dụng lao động khi họ nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị
xâm phạm: Khoản 8 điều 18 Luật BHXH 2014 quy định về quyền khởi kiện của
ngƣời lao động về BHXH; Khoản 2 điều 20 Luật BHXH 2014 quy định về quyền
khởi kiện của ngƣời sử dụng lao động về BHXH. Nhƣ vậy Luật BHXH 2014 cho
phép quyền khởi kiện đối với tổ chức Công đoàn, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng
lao động.
Theo đánh giá chung về việc khởi kiện ra Tòa đối với những vi phạm chế độ
đóng BHXH bắt buộc cho ngƣời lao động đã mang lại những kết quả ban đầu đáng
khích lệ nhƣng khi thi hành án theo phán quyết của tòa thì lại gặp phải một số trở
ngại khiến công tác thực thi trở lên khó khăn, các biện pháp khắc phục hậu quả đã
đƣợc pháp luật quy định song trên thực tế rất khó thực hiện. Mục đích thu hồi số
tiền BHXH bị các doanh nghiệp chiếm dụng không trọn vẹn, quyền lợi của ngƣời
lao động chƣa đƣợc bảo vệ, thậm chí có trƣờng hợp tòa án vừa tuyên bản án thì sau
đó doanh nghiệp biến mất không để lại dấu vết.
Khoản 1 và Khoản 2, Điều 122, Luật BHXH 2014 quy định nghĩa vụ pháp lý
của cá nhân, tổ chức và cơ quan trong trƣờng hợp họ có hành vi vi phạm pháp luật
về BHXH. Tùy thuộc tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà cơ quan, tổ chức, cá
nhân sẽ phải chịu các hình thức xử phạt hành chính, bồi thƣờng thiệt hại.
Ngoài ra, riêng với trƣờng hợp cá nhân có hành vi vi phạm còn có thể phải chịu xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức xử lý kỷ luật đối với
ngƣời lao động hiện nay đƣợc quy định bao gồm: khiển trách, kéo dài thời hạn nâng
lƣơng không quá 06 tháng hoặc cách chức, và sa thải. Còn đối với cán bộ, công
chức, viên chức, các hình thức xử lý kỷ luật đa dạng hơn, bao gồm: khiển trách,
cảnh cáo, hạ bậc lƣơng, buộc thôi việc; đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý thì có thêm 02 hình thức là cách chức và giáng chức.
Thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đƣợc trao cho Tòa án nhân dân
38
cấp có thẩm quyền theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.
Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự: khi nhận đƣợc tin tố giác của các cá
nhân, tổ chức hay thông tin trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua
điều tra thì cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp cận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về
tội phạm BHXH. Sau đó cơ quan điều tra phải có trách nhiệm kiểm tra, xác minh
nguồn tin và ra quyết định có hay không khởi tố vụ án hình sự. Sau khi quyết định
khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra và nếu nhận thấy có
đủ căn cứ để xác định chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật BHXH thì ra
quyết định khởi tố bị can, tiếp tục tiến hành nghiệp vụ điều tra để bổ sung chứng cứ
chứng minh tội phạm và ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Đề nghị truy tố
sẽ đƣợc gửi tới Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Tòa án căn cứ vào chứng cứ
mà cơ quan điều tra thu thập, căn cứ vào bản cáo trạng cũng nhƣ lời khai của bị can
ra quyết định có hay không đƣa vụ án ra xét xử và ra bản án thích hợp. Tuy nhiên
hiện nay khởi tố vụ án hình sự liên quan tới vi phạm pháp luật BHXH vẫn còn khá
mới mẻ dù đã có quy định pháp luật.
• - Phạt tiền từ 50 - 200 triệu đồng • - Cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng - 1 năm • Đối với pháp nhân thƣơng mại: • - Phạt tiền từ 200 - 500 triệu đồng
Hành vi - Trốn đóng từ 50 - dƣới 300 triệu đồng - Trốn đóng cho từ 10 - dƣới 50 NLĐ
•Phạt tiền từ 200 -500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm •Đối với pháp nhân thƣơng mại: •Phạt tiền từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng
- Phạm tội 2 lần trở lên - Trốn đóng từ 300 triệu - dƣới 1 tỷ đồng - Trốn đóng cho từ 50 - dƣới 200 NLĐ - Không đóng tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của NLĐ (từ 50 triệu - dƣới 300 triệu đồng; của từ 10 - dƣới 50 ngƣời)
•- Phạt tiền từ 500 triệu - 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 2 đến 7 năm •Đối với pháp nhân thƣơng mại: •Phạt tiền từ 1 đến 3 tỷ đồng
- Trốn đóng 1 tỷ đồng trở lên - Trốn đóng cho 200 ngƣời trở lên - Không đóng tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của NLĐ (từ 300 triệu - dƣới 1 tỷ đồng, của từ 50- dƣới 200 ngƣời)
Sơ đồ 1.2. Chế tài hình sự tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN
39
(Nguồn: Theo Điều 216 Bộ luật Hình sự)
Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20- 100 triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1- 5 năm.
1.4. Kinh nghiệm giải quyết xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội một số nƣớc
Việc tìm ra giải pháp, cách thức tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội luôn đƣợc
các nƣớc quan tâm; đặc biệt với nƣớc ta là một trong những quốc gia có tỷ lệ nợ
đọng BHXH tƣơng đối cao. Do đó, nghiên cứu khả năng giải quyết nợ đọng BHXH
của các nƣớc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Cho đến nay đã có nhiều phƣơng pháp đƣợc các quốc gia áp dụng nhằm
giải quyết vấn đề nợ đọng BHXH. Có thể kể đến, kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ
BHXH của một số quốc gia:
Kinh nghiệm của Mỹ: [2]
Tại Mỹ, việc đóng góp thuế an sinh xã hội theo Đạo luật Đóng góp bảo hiểm
Liên bang (FICA) là trách nhiệm của cả ngƣời SDLĐ và NLĐ để chi trả cho
chƣơng trình an sinh xã hội. Thuế FICA đã trở thành một thành phần quan trọng
trong thu nhập của ngƣời Mỹ khi về già và nghỉ hƣu.
Theo quy định NSDLĐ kể cả các DN quy mô nhỏ cũng phải hiểu rõ và thực
hiện trách nhiệm của mình trong việc đóng góp. Việc hoàn thành nghĩa vụ thuế
FICA cũng đƣợc xem là quan trọng nhƣ việc hoàn thành bất kỳ nghĩa vụ thuế nào
khác theo luật pháp Mỹ. Tất nhiên, việc không tuân thủ là bất hợp pháp.
Cụ thể, trong trƣờng hợp các DN không thực hiện nghĩa vụ thuế FICA trong
năm, DN sẽ nhận đƣợc yêu cầu thanh toán nợ, cùng với một khoản phạt tài chính từ
2 đến 25%, tùy thuộc vào mức độ thanh toán quá hạn.
Nếu NSDLĐ cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình, họ phải tự chịu trách
nhiệm về tất cả các khoản nợ, cùng với mức phạt tiền tƣơng đƣơng 100% số tiền vi
phạm; đồng thời có thể phải chịu các cáo buộc hình sự, đối mặt với hình phạt tù.
Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức: [2]
Cộng hòa liên bang Đức là nƣớc đầu tiên thiết lập BHXH bắt buộc. Sự phát
triển của BHXH đƣợc phát triển theo từng bƣớc. Các chế độ BHXH bao gồm: bảo
40
hiểm ốm đau, thai sản: bảo hiểm tuồi già; tàn tật; bảo hiểm tai nạn lao động; bảo
hiểm thất nghiệp; bảo hiểm phụ thuôc. Hiện tại, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng
lao động có tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc là 19,9%. Ngoài ra, còn khoản trợ cấp của
liên bang. Các khoản đóng BHXH Là 180.5 tỷ EUR, h trợ từ ngân hàng liên bang
là 61,3 tỷ EUR. Để công tác quản lý thu BHXH đƣợc hiểu quả, Đức đã xây dựng hệ
thống giám sát chủ sử dụng lao động. Hằng năm kiểm tra tính tuân thủ khoảng 800
vụ việc, trong đó: 50% do các chuyên gia đƣợc đào tạo chuyên biệt của cơ quan bảo
hiểm hƣu trí liên bang Đức (DRV Bund) tiến hành, 50% do 14 cơ quan khu vực của
DRV Bund tiến hành.
Đức đã tiến hành xây dựng 20 khu vực giám sát ở tất cả liên bang với số lƣợng
nhân viên rất lớn 1,732 ngƣời, công tác quản lý hành chính đƣợc đặt tại 20 khu vực
số giám sát viên là 309 ngƣời. Cơ cấu tổ chức tại m i khu vực giám sát gồm: giám
đốc khu vực, thƣ ký, lãnh đạo nhóm (m i nhóm có từ 56 đến 100 giám sát viên).
Văn phòng của giám sát viên đƣợc trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại do liên bang
cung cấp nhƣ: máy tính nối mạng toàn hệ thống, điện thoại, ô tô… tất cả khoản chi
phí này do liên bang chi trả. Ngoài nhiệm vụ giám sát chủ lao động công tác quản lý
hành chính bao gồm: quan hệ cộng đồng, đƣa ra con số thống kê, báo cáo kiểm
soát… với các trƣờng hợp nợ quá hạn chia làm hai loại là: trƣờng hợp không cố ý sẽ
yêu cầu nộp các khoản quá tháng, trƣờng hợp cố ý sẽ yêu cầu nộp khoản quá hạn +
1% lãi suất m i tháng. Các trƣờng hợp dã mạo hồ sơ, gian lận, lao động bất hợp
pháp và những trƣờng hợp chủ ý phạm tội sẽ chuyển hồ sơ lên cơ quan công tố để
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Kinh nghiệm của Philippines: [2]
Các thành viên của Hệ thống an sinh xã hội Philippines (SSS) đƣợc pháp luật
bảo vệ chống lại sự sơ suất hoặc hành vi không tuân thủ của chủ SDLĐ trong việc
đóng góp vào SSS.
Theo Đạo luật an sinh xã hội năm 1997, tất cả các chủ SDLĐ ở Philippines
phải khấu trừ các khoản đóng góp vào SSS hàng tháng từ tiền lƣơng của nhân viên,
trả phần đóng góp thuộc trách nhiệm của họ và nộp các khoản đóng góp này cho
41
SSS đúng hạn. Chủ SDLĐ cũng phải nộp báo cáo hàng tháng về đóng góp của nhân
viên cho văn phòng SSS gần nhất. Nếu vi phạm, chủ SDLĐ sẽ bị phạt từ 5.000 –
20.000 peso hoặc bị phạt tù đến 6 năm. Ngoài ra, họ cũng phải nộp tất cả các khoản
đóng góp chƣa thanh toán cùng mức phạt 3% m i tháng; đồng thời phải trả các
khoản trợ cấp cho nhân viên chết, bị tàn tật, bị bệnh hoặc đến tuổi nghỉ hƣu.
Ngoài hành vi này, nếu chủ SDLĐ không nhận tiền đóng góp SSS của nhân
viên cũng sẽ bị xem là phạm pháp và phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo SSS, nếu phát hiện chủ SDLĐ chậm thanh toán các khoản đóng góp cho
SSS, NLĐ cần chủ động trong việc khẳng định quyền đƣợc bảo vệ an sinh xã hội
của mình qua việc báo cáo cho SSS. Đây là một biện pháp pháp lý rất cần thiết.
Theo thống kê, SSS đã thực hiện các biện pháp nghiêm khắc đối với những
ngƣời SDLĐ không tuân thủ nghĩa vụ đóng góp cho NLĐ. Chỉ tính từ năm 2010,
SSS đã đệ trình các vụ án hình sự và dân sự đối với hơn 34.000 NSDLĐ phạm pháp
ra tòa án. Trong số này, đã có ít nhất 41 ngƣời SDLĐ bị tòa kết án.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong Chƣơng 1, tác giả đã đƣa ra cơ sở lý luận liên quan đến bảo hiểm xã
hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, chế tài xử phạt nợ đọng BHXH đối với doanh nghiệp.
Bảo hiểm xã hội có những quan điểm khác nhau; tuỳ theo góc độ nghiên cứu, cách
tiếp cận mà ngƣời ta đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Khái niệm liên quan đến
nợ đọng BHXH, các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng BHXH, các chế tài xử phạt nợ đọng
BHXH đối với doanh nghiệp cũng đƣợc chỉ ra. Các khái niệm, phân loại, đặc điểm
về doanh nghiệp cũng đƣợc quy định rõ trong các bộ Luật/Nghị định. Chƣơng 1
cũng giới thiệu kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ BHXH của một số quốc gia. Tình
trạng các doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn nhiều, gây ảnh hƣởng không nhỏ tới
quyền lợi của ngƣời lao động và ảnh hƣởng tới quỹ BHXH. Đây là tiền đề lý luận
để tác giả nghiên cứu sâu về thực trạng và đề xuất giải pháp hạn chế tình trạng nợ
42
đọng BHXH của các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC THI CHẾ TÀI XỬ PHẠT NỢ ĐỌNG
BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
2.1. Tổng quan các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân
Ngày 22/11/1996 quận Thanh Xuân đƣợc thành lập theo Nghị định 74/NĐ-
CP của Chính phủ, quận Thanh Xuân nằm ở phía Tây Nam của Thủ đô Hà Nội, Bắc
giáp quận Đống Đa và Cầu Giấy, Đông giáp quận Hai Bà Trƣng, Nam giáp huyện
Thanh Trì, Tây giáp huyện Nam Từ Liêm và quận Hà Đông. Đơn vị hành chính
thuộc quận có 11 phƣờng, bao gồm: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh
Xuân Nam, Thƣợng Đình, Hạ Đình, Khƣơng Đình, Nhân Chính, Phƣơng Liệt,
Khƣơng Trung, Khƣơng Mai, Kim Giang; có diện tích tự nhiên là 913,2 ha; dân số
hiện nay là 285.614 ngƣời, tăng gấp hơn 2 lần so với năm đầu thành lập quận.
Thanh Xuân có các con đƣờng lớn, án ngữ các cửa ô ra vào Hà Nội nhƣ Quốc lộ 1A
(đƣờng Giải Phóng), Quốc lộ 6 (đƣờng Nguyễn Trãi) …; ngoài ra còn có hệ thống
các đƣờng giao thông mới đƣợc đầu tƣ, tạo ra sự thuận tiện trong giao thông không
chỉ trong quận mà còn cả với các quận huyện khác và các tỉnh thành khác xa hơn.
[39]
- Đặc điểm kinh tế:
Là quận nội thành của Thủ đô, quận Thanh Xuân có nhiều điều kiện thuận
lợi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, đó là: Giá trị sản xuất công
nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế 78,7% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn,
trong đó có nhiều ngành sản xuất mũi nhọn của Thành phố, đây là lợi thế quan
trọng để thu hút lực lƣợng lao động và tạo đà thúc đẩy các hoạt động dịch vụ; vị trí
địa lý của quận rất thuận tiện cho phát triển thƣơng mại và dịch vụ, mở rộng giao
lƣu hàng hoá, có thể trở thành trung tâm phát luồng, phục vụ phần lớn nhu cầu hàng
43
hoá cho các tỉnh phía bắc và phía nam.
Năm 2019, kinh tế trên địa bàn quận Thanh Xuân tiếp tục tăng trƣởng ổn
định; giá trị sản xuất trên địa bàn ƣớc đạt hơn 72 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9% so với
năm 2018... [39]
- Nguồn nhân lực:
Dân số của quận năm 2014 đã vƣợt 25 vạn ngƣời, tỷ lệ tăng tự nhiên:
1,056%. Do đặc điểm về sự hình thành nên quận có cơ cấu dân cƣ khá phức tạp.
Ngoài bộ phận chủ yếu dân cƣ là các gia đình cán bộ, công nhân, bộ đội, công an, các
trƣờng đại học... còn có bộ phận dân cƣ làm nghề nông. Mật độ dân số trung bình
toàn quận đến năm 2014 trung bình khoảng trên 28 nghìn ngƣời/km2.
Là một trong những quận có số dân đông và địa bàn thuận lợi cho việc giao
lực, phát triển kinh tế của thành phố Hà Nội, Thanh Xuân là quận đƣợc nhiều doanh
nghiệp lựa chọn tọa lạc. Trên địa bàn quận Thanh Xuân hiện tập trung nhiều doanh
nghiệp, đa số là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thuộc khối xây dựng, thi công
cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng… trƣớc tình hình khó khăn trong sản xuất kinh doanh,
tỷ lệ nợ BHXH đã diễn ra thƣờng xuyên và ở mức cao. Mặt khác, dân cƣ thƣờng
xuyên biến động về cơ học, địa bàn tập trung nhiều ngƣời lao động các địa phƣơng
khác đến thuê nhà ở, tỷ lệ doanh nghiệp có số lao động nhỏ chiếm hơn 85% chính là
những khó khăn không nhỏ trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn.
Chỉ trong khoảng từ năm 2015 đến năm 2017, số doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký
hoạt động tại quận Thanh Xuân đã tăng tới 1,6 lần, tỷ lệ doanh nghiệp tính trên đầu
dân của quận này đang ở mức cao nhất toàn thành phố, qua 3 năm thực hiện
Chƣơng trình số 03-CTr/TU của Thành ủy, kinh tế trên địa bàn quận tiếp tục tăng
trƣởng khá. Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn tăng bình quân 9%/năm. Đặc biệt, so
với năm 2015, hiện nay trên địa bàn quận đã có khoảng 10.500 doanh nghiệp tƣ
nhân, tăng gấp 1,6 lần; có 12.500 hộ kinh doanh cá thể, tăng gấp 1,2 lần. Đáng chú
ý, số hộ kinh doanh cá thể chuyển sang loại hình doanh nghiệp rất lớn, điển hình
nhƣ trong năm 2017 có tới hơn 1.000 hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận đăng
44
ký thành lập doanh nghiệp. [39]
Bảng 2.1: Các thành phần kinh tế và số lao động của các doanh nghiệp
tại Thanh Xuân năm 2019
Danh mục Số đơn vị Tỷ trọng Số lao động Tỷ trọng
Các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ 1 0.0% 12 0.0%
nhà nƣớc
Các doanh nghiệp tƣ nhân 140 0.6% 955 0.5%
Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc 1 0.0% 10 0.0%
ngoài >51%
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 23,653 99.4% 188,540 99.5%
Kinh tế h n hợp có vốn nhà nƣớc 3 0.0% 38 0.0%
>51% vốn điều lệ
Tổng 23,798 100.0% 189,555 100.0%
Nguồn: Chi cục thuế quận Thanh Xuân [22]
Thống kê trong bảng 2.1 cho thấy doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao
động chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số lao động của các doanh nghiệp tại địa bàn,
chiếm 99.5% với 188,540 lao động trên tổng số 189,555 lao động tại địa bàn quận
Thanh Xuân, số đơn vị thuộc thành phần kinh tế này cũng chiếm tỷ lệ cao có 99.4%
trên tổng số các doanh nghiệp của quận. Các thành phần kinh tế khác chiếm một tỷ
lệ không đáng kể cả về số lƣợng đơn vị và số lƣợng lao động chỉ khoảng từ trên 0%
đến mức cao nhất là 0.6%.
Thống kê về số lƣợng các doanh nghiệp trên địa bàn từng phƣờng tại Thanh
Xuân nhƣ sau:
Bảng 2.2: Số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn
quận Thanh Xuân năm 2019
Địa bàn Số lƣợng doanh nghiệp Tỷ lệ
Phƣờng Nhân Chính 4,106 21%
Phƣờng Khƣơng Trung 2,417 12%
45
Phƣờng Khƣơng Mai 2,280 12%
Phƣờng Thanh Xuân Trung 2,315 12%
Phƣờng Khƣơng Đình 1,840 9%
Phƣờng Phƣơng Liệt 1,851 9%
Phƣờng Hạ Đình 1,424 7%
Phƣờng Thanh Xuân Bắc 1,114 6%
Phƣờng Thƣợng Đình 1,041 5%
Phƣờng Thanh Xuân Nam 801 4%
Phƣờng Kim Giang 493 3%
Tổng số doanh nghiệp 19,682 100%
Nguồn: https://ha-noi.congtydoanhnghiep.com [43]
Đứng đầu về số lƣợng doanh nghiệp phải kể đến phƣờng Nhân Chính với
hơn 4000 doanh nghiệp chiếm tới 21% số doanh nghiệp tại các phƣờng của quận
Thanh Xuân, điều này có thể nhận thấy là do Nhân Chính tiếp giáp với quận Cầu
Giấy là một quận có mật độ dân số, sự phát triển kinh tế rất mạnh của thành phố Hà
Nội. Các phƣờng Khƣơng Trung, Khƣơng Mai, Thanh Xuân Trung với số doanh
nghiệp trên 2000 chiếm tỷ lệ gần tƣơng đƣơng ở mức 12%. Các phƣờng Phƣơng
Liệt, Khƣơng Đình có số doanh nghiệp ít hơn chiếm 9% số doanh nghiệp là trên
1.800. Các phƣờng Hạ Đình, Thanh Xuân Bắc, Thƣợng Đình lần lƣợt chiếm 7%,
6% và 5%. Các phƣờng có số lƣợng doanh nghiệp thấp nhất là Thanh Xuân Nam và
Kim Giang chỉ 3-4%, do 2 phƣờng này đa phần diện tích nằm ở ngoại thành Hà
Nội, số diện tích đất nông nghiệp còn khá lớn, dân cƣ thƣa thớt so với các phƣờng
khác của quận.
2.2. Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn
quận Thanh Xuân
2.2.1. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội và số nợ bảo hiểm xã hội của các
doanh nghiệp
Việc nợ BHXH gần nhƣ xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp, từ doanh
nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây
46
dựng. Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm nộp diễn ra gần nhƣ trong suốt quá
trình kinh doanh. Chính việc nợ BHXH từ các doanh nghiệp đã gây một hậu quả
trực tiếp tới ngƣời lao động. Ngƣời lao động không hề biết các doanh nghiệp, nơi họ
làm việc đang trực tiếp sử dụng tiền họ đóng BHXH để làm vốn kinh doanh. Đến
khi gặp tai nạn nghề nghiệp, hoặc mất việc, ngƣời lao động cần tới sự giúp đỡ của
BHXH thì hầu nhƣ không nhận đƣợc sự trợ cấp nào, vì doanh nghiệp nơi họ làm
việc đang nợ BHXH.
Trƣớc khi phân tích tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa
bàn quận Thanh Xuân, tác giả phân tích kết quả thu bảo hiểm xã hội đối với doanh
nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân giai đoạn 2014-2019. Thu BHXH không những
là khâu đầu tiên của một quá trình thực hiện chính sách, chế độ BHXH, mà bản thân
nó thƣờng chiếm một khối lƣợng lớn công việc, chi phối đến các hoạt động của toàn
ngành BHXH. Vai trò của công tác thu BHXH đƣợc khẳng định là cơ sở hình thành
nguồn quỹ BHXH và cũng là cơ sở để giải quyết các chế độ BHXH cho ngƣời lao
động. Số thu và lao động tham gia BHXH nhƣ là sự sống còn của sự nghiệp BHXH.
Kết quả thu BHXH của toàn quận Thanh Xuân trong giai đoạn 2014- 2019
đƣợc thể hiện qua các số liệu sau:
Bảng 2.3: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH giai đoạn 2014-2019 của
BHXH quận Thanh Xuân
(đơn vị: tỷ đồng)
Kế hoạch thu Số thực thu Thời gian % Kế hoạch (đvt: Tỷ đồng) (đvt: Tỷ đồng)
Năm 2014 1,054,651 1,055,249 100%
Năm 2015 1,230,637 1,243,398 101%
Năm 2016 1,423,189 1,447,828 102%
Năm 2017 1,652,036 1,666,928 101%
Năm 2018 1,892,267 1,893,261 100%
Năm 2019 2,132,498 2,133,497 100%
47
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Qua bảng 2.3 ta thấy mức thu tăng đều qua các năm, số thực thu luôn vƣợt kế
hoạch đƣợc giao từ BHXH thành phố đạt mức cao nhất là 102% vào năm 2016. Số
thực thu năm 2019 tăng gấp đôi so với mức thu năm 2014 từ mức 1,055,249 tỷ đồng
lên mức 2,133,497 tỷ đồng. Lý do có thể hiểu đƣợc bởi có mức tăng đáng kể về số
lƣợng đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội, mức tăng quỹ lƣơng trích nộp bảo hiểm
xã hội đã tăng hơn gấp 2 lần trong năm 2019 so với năm 2014 thể hiện qua bảng
2.4:
Bảng 2.4: Tổng số lƣợng lao động tham gia BHXH và tổng quỹ lƣơng trích nộp
BHXH tại BHXH quận Thanh Xuân (giai đoạn 2014-2019)
Tổng số lƣợng
Mức tăng
Mức
tăng
Tốc
độ
Tốc độ tăng
Tổng quỹ
Chỉ tiêu
đối tƣợng tham
giảm
giảm tuyệt
tăng
giảm (%)
lƣơng
gia BHXH
tuyệt đối
đối
giảm (%)
(Đơn vị tính: ngƣời)
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
69,511
2,911,379
Năm 2014
73,707
4,196
106%
3,279,512
368,133
113%
Năm 2015
77,282
3,575
105%
3,905,895
626,383
119%
Năm 2016
77,282
0
100%
4,413,658
507,763
113%
Năm 2017
87,054
9,772
113%
5,150,268
736,610
117%
Năm 2018
90,554
3,500
104%
5,895,888
745,620
114%
Năm 2019
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Mặc dù số lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH có tăng qua các năm nhƣng tỷ lệ
tăng thấp hơn khá nhiều so với mức tăng của tổng quỹ lƣơng tham gia bảo hiểm xã
hội, cụ thể năm 2015 mức tăng của số lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH là 106%
trong khi tổng quỹ lƣơng tăng tới 113%; đặc biệt nhất là trong năm 2017 mặc dù số
lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH không hề tăng so với năm 2016 nhƣng tổng quỹ
48
lƣơng cũng đạt mức tăng 113%.
Bảng 2.5: Tốc độ tăng thu BHXH giai đoạn 2014-2019 tại BHXH Thanh Xuân
(đơn vị: tỷ đồng)
Thời gian
Năm 2014
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Số thực thu
1,055,249
1,243,398
1,447,828
1,666,928
1,893,261
2,133,497
12,7%
Tốc độ tăng thu
17,8%
16,4%
15,1%
13,6%
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Mặc dù tăng về số tuyệt đối nhƣng tốc độ tăng thu của BHXH từ năm 2014
đến năm 2019 lại có xu hƣớng giảm dần từ mức 17,8% vào năm 2015 xuống còn
12,7% vào năm 2019 trong khi tổng số đối tƣợng tham gia BHXH và quỹ lƣơng
đóng BHXH lại liên tục tăng qua các năm.
Từ việc phân tích kết quả thu BHXH trên cho thấy việc quản lý thu BHXH
tại Thanh Xuân đang còn chƣa đƣợc hoàn thiện. Kết quả thu BHXH có chiều hƣớng
giảm dần.
Phân tích tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận
Thanh Xuân. Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận
Thanh Xuân đƣợc thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn
quận Thanh Xuân (giai đoạn từ năm 2014- 2019)
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm Tổng số nợ Số phải thu Tỷ lệ nợ
Năm 2014 205,762 16.24% 1,266,733
Năm 2015 174,386 11.98% 1,455,851
Năm 2016 149,485 9.51% 1,572,674
Năm 2017 144,629 8.05% 1,796,665
Năm 2018 115,235 5.74% 2,007,502
Năm 2019 126,862 5.71% 2,218,339
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Bảng 2.6 đã phản ánh rất rõ rệt tình hình nợ đọng BHXH tại Thanh Xuân với
49
tỷ lệ giảm rất đáng khích lệ. Tổng số nợ bảo hiểm không chỉ giảm về lƣợng tuyệt
đối mà còn giảm cả về tỷ lệ so với số phải thu. Trong năm 2014 trong khi số phải
thu BHXH là trên 1,200 tỷ đồng thì số nợ lên tới 205 tỷ chiếm 16.24%; từ năm
2015-2017 tỷ lệ nợ lần lƣợt là 11.98%, 9.51% và 8.05%; và đặc biệt là tỷ lệ này đã
giảm xuống còn 5.71% vào năm 2019 với số nợ BHXH là trên 126 tỷ đồng.
Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh
Xuân có thể đƣợc phân chia theo từng loại đơn vị nợ nhƣ sau:
Bảng 2.7: Báo cáo nợ BHXH giai đoạn 2014- 2019 phân chia theo từng loại
đơn vị nợ của quận Thanh Xuân
(Đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Qua bảng 2.7 ta có thể thấy số nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 có
chiều hƣớng giảm rõ rệt, giảm cả về số doanh nghiệp nợ BHXH và số tiền nợ
BHXH, cụ thể: năm 2014 tổng số đơn vị nợ là 3065 đơn vị, thì đến năm 2019 giảm
xuống còn 2106 đơn vị; tổng số nợ của năm 2014 là 205,76 tỷ đồng thì đến năm
50
2019 giảm xuống còn 126,86 tỷ đồng.
Đa số là doanh nghiệp nợ dƣới 1 tháng và nợ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng, số
đơn vị và số tiền nợ cũng tăng, giảm qua các năm, từ năm 2014 đến năm 2016 số
đơn vị và số nợ có chiều hƣớng giảm nhƣng cũng không đáng kể, đến năm 2017 số
đơn vị và số nợ tăng, đến năm 2018 số đơn vị nợ và số nợ lại giảm, đến năm 2019
số đơn vị nợ và số nợ lại tăng, cụ thể số đơn vị nợ dƣới 1 tháng là 706 với số nợ
1.64 tỷ đồng, số đơn vị nợ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng là 796 với số nợ là 17,65 tỷ
đồng.
Số doanh nghiệp nợ từ 24 tháng trở lên chiếm ít nhất nhƣng lại có số tiền nợ
BHXH cao nhất. Số doanh nghiệp nợ từ 3 tháng đến dƣới 6 tháng, nợ từ 6 tháng đến
dƣới 12 tháng, nợ từ 12 tháng đến dƣới 24 tháng có số tiền nợ BHXH cũng tăng,
giảm thất thƣờng qua các năm từ năm 2014 đến năm 2019, tuy nhiên nhìn vào bảng
có thể thấy số đơn vị nợ và số tiền nợ có chiều hƣớng giảm sâu qua các năm, điều
đó chứng tỏ công tác đôn đốc, thu hồi nợ của BHXH quận Thanh Xuân ngày càng
đƣợc đẩy mạnh.
Bảng 2.8: Báo cáo nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 của toàn
thành phố Hà Nội (Đơn vị: tỷ đồng)
51
Nguồn: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội [21]
Bảng 2.9: So sánh tình hình nợ đọng BHXH của quận Thanh Xuân với
toàn thành phố Hà Nội
(đơn vị: %)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ bảng 2.7 và bảng 2.8
Nhìn vào bảng 2.9 ta thấy tỷ lệ nợ BHXH của quận Thanh Xuân so với toàn
thành phố Hà Nội có sự tăng giảm biến động, năm 2014 tổng số đơn vị nợ chiếm
15.59% toàn thành phố nhƣng đến năm 2019 giảm xuống chiếm 8.73% so với toàn
thành phố, và tỷ lệ nợ cũng tăng giảm biến động theo từng năm: năm 2014 là
11.93%, năm 2015 là 10.26%, năm 2016 là 8.35%, năm 2017 là 10.79%, năm 2018
là 11.04%, năm 2019 là 11.75% so với toàn thành phố Hà Nội, tỷ lệ đơn vị nợ dƣới
1 tháng có xu hƣớng giảm, nhƣng tỷ lệ đơn vị nợ từ 24 tháng trở lên có xu hƣớng
tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất năm 2018.
2.2.2. Các chế tài xử phạt nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội đã thực
52
hiện tại quận Thanh Xuân
BHXH quận Thanh Xuân đã áp dụng một số biện pháp đối với các doanh
nghiệp nợ đọng BHXH nhƣ sau:
Thực hiện việc tính lãi
Các doanh nghiệp, đơn vị chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN chậm quá thời
hạn theo quy định từ 30 ngày trở lên phải đóng số tiền lãi tính trên số tiền BHXH,
BHYT, BHTN chƣa đóng theo Luật định. Cơ quan, tổ chức, ngƣời sử dụng lao
động có trách nhiệm đóng BHXH mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ theo
quy định thì phải đóng đủ số tiền chƣa đóng và nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi
suất liên ngân hàng tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; đồng thời phải hoàn trả
toàn bộ chi phí cho ngƣời lao động trong phạm vi quyền lợi, mức hƣởng BHYT mà
ngƣời lao động đã chi trả trong thời gian chƣa có thẻ BHYT.
Thực hiện việc đôn đốc, thu nợ
Hằng tháng, cơ quan BHXH quận Thanh Xuân gửi thông báo kết quả đóng
BHXH đến chủ sử dụng lao động để đôn đốc việc đóng, nộp BHXH. Trƣờng hợp
đối với doanh nghiệp nợ BHXH đến 03 tháng trở lên, cơ quan BHXH cử cán bộ
hoặc Tổ thu nợ của cơ quan BHXH trực tiếp đến doanh nghiệp để đôn đốc, đối
chiếu thu nộp và lập biên bản theo quy định, sau đó gửi văn bản đôn đốc 15 ngày
một lần. Trƣờng hợp đã thực hiện các biện pháp đôn đốc nêu trên nhƣng doanh
nghiệp vẫn tiếp tục nợ trên 03 tháng thì cơ quan BHXH gửi văn bản báo cáo UBND
quận và phối hợp với cơ quan công an, cơ quan thanh tra trên địa bàn để tiến hành
thanh tra, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trƣờng hợp doanh nghiệp nợ
kéo dài đến 04 tháng (hoặc 03 tháng đối với doanh nghiệp quy mô lớn, số tiền nợ
lớn) mà cơ quan có thẩm quyền chƣa thanh tra, xử lý vi phạm thì cơ quan BHXH
lập hồ sơ, khởi kiện doanh nghiệp ra tòa án dân sự. Hằng tháng, cùng kỳ, BHXH
quận Thanh Xuân gửi danh sách các đơn vị nợ từ 03 tháng trở lên về BHXH Thành
phố Hà Nội.
Tuy nhiên, kế hoạch đề ra thì nhƣ vậy nhƣng thực tế việc thực hiện các biện
pháp đôn đốc thu nợ vẫn chƣa thực sự đƣợc bám sát do cán bộ chuyên quản thu và
53
cán bộ thu nợ cũng phải thực hiện rất nhiều các nhiệm vụ trong cùng một lúc.
“Trong một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều việc, ví
dụ như lượt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên đến
trên 60 hồ sơ/mỗi cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn, nếu
không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hưởng đến đơn vị do đó đa
số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn vị, ngoài ra
việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hướng đến mục tiêu mỗi người một mã số
BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của người lao động trên sổ
BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả cho NLĐ (trước đây sổ
BHXH được viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải được in hết ra bằng tờ rời)
cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực hiện, trung bình mỗi cán bộ thu phải
nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công việc nhiều nhưng số lượng cán bộ thu có
hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ
không thể chú tâm hết vào việc bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu
quả không cao.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)
Trƣờng hợp đơn vị mất tích không còn giao dịch với cơ quan BHXH, tiếp tục
theo dõi và phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan để thu hồi số tiền nợ
BHXH; báo cáo cấp ủy, UBND quận, công an, tòa án... để xác minh tồn tại của
doanh nghiệp, đơn vị nợ; đƣa thông tin danh sách doanh nghiệp, đơn vị nợ lên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát
Hàng năm cơ quan BHXH quận Thanh Xuân có kế hoạch đi thanh tra, kiểm
tra các cơ sở sản xuất kinh doanh, các đơn vị sử dụng lao động, Tổ công tác thu hồi
nợ trực tiếp tới doanh nghiệp nợ BHXH kiểm tra, đôn đốc và xử lý theo thẩm
quyền; trƣờng hợp vƣợt quá thẩm quyền, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý,
giải quyết theo quy định; sau khi có quyết định xử phạt, phối hợp với các cơ quan
nhà nƣớc theo dõi, đôn đốc thực hiện; kiểm tra xem quá trình đăng kí kinh doanh có
hợp lệ, xem xét đối chiếu danh sách lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
54
có đƣợc ngƣời sử dụng lao động đăng kí để đóng góp BHXH hay không và sự thay
đổi số lƣợng ngƣời lao động tham gia BHXH ở các cơ quan đơn vị sử dụng lao
động.
“Qua khảo sát thực tế cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thêm được
thông tin cũng như nhu cầu của người tham gia BHXH. Từ đó tạo lên sự gần gũi và
làm cho người lao động hiểu thêm về chính sách BHXH. Thực tế cho thấy, các
doanh nghiệp, đơn vị sau thanh, kiểm tra đã chấp hành nghiêm túc hơn việc bảo
đảm quyền lợi BHXH cho người lao động”. (Nữ, 45 tuổi, Cán bộ BHXH quận
Thanh Xuân)
Cũng nhƣ các năm trƣớc đây, trong năm 2018, 2019 BHXH quận Thanh
Xuân đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra, kiểm soát đƣợc thể hiện một phần qua bảng
số liệu sau:
Bảng 2.10: Bảng tổng kết công tác điều tra năm 2018 và 2019
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2018
Năm 2019
STT Chỉ tiêu
Trong tháng 12 Lũy kế
Trong tháng 01 Lũy kế
Kiểm tra theo Quyết định
I
1
Số đơn vị
33
50
66
164
1.1
Số nợ
2.362.509.864
5.229.988.070 2.632.414.061
10.815.425.506
1.2
Số tiền thu hồi
2.624.877.398
3.761.010.792 1.798.800.990
8.709.250.446
Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
Thực hiện khởi kiện
Luật BHXH (sửa đổi) bổ sung quyền các tổ chức công đoàn khởi kiện ra tòa
án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động. Tuy nhiên, việc khởi kiện
ra tòa các doanh nghiệp, đơn vị nợ BHXH còn ít so với các doanh nghiệp, đơn vị vi
phạm, tổ chức thi hành án hoạt động chƣa hiệu quả, việc thu hồi tiền nợ vẫn còn gặp
nhiều khó khăn.
BHXH quận Thanh Xuân cũng đề nghị các cơ quan: Công an, Viện Kiểm
55
sát, TAND xem xét, xử lý hình sự đối với những đơn vị, DN vi phạm theo quy định
của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Liên đoàn Lao động quận tiếp tục chỉ đạo
Công đoàn cơ sở khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với các DN nợ đóng
BHXH để bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Tuy nhiên, vẫn chƣa vụ án nào đƣợc khởi
tố, dù cơ quan BHXH đã gửi hồ sơ sang cơ quan điều tra. Từ khi Luật BHXH năm
2014 có hiệu lực thi hành, tổ chức công đoàn đƣợc trao quyền khởi kiện ra Tòa án
đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, cơ quan BHXH đã cung cấp kịp
thời, đầy đủ cho tổ chức công đoàn danh sách, hồ sơ các đơn vị nợ BHXH để phục
vụ khởi kiện. Song, vẫn còn nhiều vƣớng mắc do quy định về việc ủy quyền của
ngƣời lao động cũng nhƣ quyền khởi kiện của các tổ chức công đoàn trong các văn
bản liên quan nhƣ Luật Công đoàn, Bộ luật Tố tụng Dân sự có nhiều điểm chƣa rõ,
thiếu hƣớng dẫn cụ thể, khiến việc triển khai thực hiện gặp khó khăn. Do đó, việc
hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt hình sự là
chƣa đƣợc áp dụng một cách triệt để. Để hoàn thiện các thủ tục chuẩn bị khởi kiện
nhƣ theo dõi, tập hợp chứng từ, lập biên bản, đốc thúc, khởi kiện… thời gian phải
mất ít nhất 6 tháng.
“Trong thời gian này, nếu doanh nghiệp có động thái “tích cực” như nộp
một phần khoản nợ thì cơ quan BHXH vẫn không thể khởi kiện được. Đó là chưa
nói đến trường hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản, chủ doanh nghiệp không còn
trên địa bàn để khởi kiện.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)
Công tác khởi kiện trong năm 2018:
+ Lũy kế số đơn vị gửi hồ sơ sang LĐLĐ quận đề nghị khởi kiện đến tháng
12/2018: 70
+ Tổng số tiền nợ BHXH của các đơn vị SDLĐ khi gửi LĐLĐ khởi kiện:
44.490.651.869 đồng
+ Tổng số tiền đã thu hồi đƣợc sau khi gửi LĐLĐ khởi kiện: 10.457.537.043
đồng (đạt 23.5%) do BHXH quận đôn đốc bằng văn bản và cán bộ Thu hồi nợ trực
tiếp đến đơn vị đốc thu.
56
Công tác khởi kiện trong năm 2019:
+ Lũy kế số đơn vị gửi hồ sơ sang LĐLĐ quận đề nghị khởi kiện đến tháng
07/2019: 95
+ Tổng số tiền nợ BHXH của các đơn vị SDLĐ khi gửi LĐLĐ khởi kiện:
52.652.319.504 đồng
+ Tổng số tiền đã thu hồi đƣợc sau khi gửi LĐLĐ khởi kiện: 18.798.207.000
đồng (đạt 35.7%) do BHXH quận đôn đốc bằng văn bản và cán bộ Thu hồi nợ trực
tiếp đến đơn vị đốc thu.
Với số lƣợng nhân sự không quá lớn BHXH quận Thanh Xuân đã thực hiện
kiểm tra đƣợc 256 doanh nghiệp trong năm 2018 và 196 doanh nghiệp trong năm
2019, mặc dù chỉ là một phần rất nhỏ trong số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn
quận nhƣng cũng đã phát hiện đƣợc nhiều trƣờng hợp sai phạm, làm thí điểm để các
doanh nghiệp khác có ý thức hơn trong thực hiện nghĩa vụ BHXH cho ngƣời lao
động. Tuy nhiên, ngay cả khi thực hiện công tác khởi kiện thì số tiền nợ đọng
BHXH của các doanh nghiệp thu hồi đƣợc cũng chiếm tỷ lệ không cao.
Thực hiện tuyên truyền
Tổ chức các hội nghị tuyên truyền để gặp gỡ các doanh nghiệp cùng bàn về
những khó khăn đối với doanh nghiệp khi đóng, hƣởng BHXH để cùng nhau tháo
gỡ.
Cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thiết lập đƣờng dây nóng để có thể
nắm bắt đƣợc thông tin, nguyện vọng và nhu cầu từ ngƣời tham gia BHXH, để từ
đó ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động có thể chủ động thông báo những thông
tin cần thiết cho cơ quan BHXH góp phần làm cho cơ quan BHXH nắm bắt kịp thời
về đối tƣợng tham gia và tình hình hoạt động của các cơ sở tham gia BHXH. Và
ngƣợc lại cơ quan BHXH cũng có thể giải đáp đƣợc những yêu cầu thắc mắc từ
phía ngƣời tham gia BHXH làm cho họ hiểu rõ hơn về bản chất của BHXH và
chính sách BHXH đang đƣợc tiến hành triển khai thực hiện đến mọi ngƣời lao
động.
2.3. Nguyên nhân và hậu quả của nợ đọng bảo hiểm xã hội.
57
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp.
- Về thủ tục hành chính:
Khuôn khổ pháp lý thiếu sự minh bạch; chƣa thuận lợi cho NLĐ và NSDLĐ;
chế tài còn chƣa đủ mạnh.
Tính minh bạch của các chính sách về thu BHXH: Về nguyên tắc, các chính
sách BHXH đều phải đƣợc công bố công khai cho tất cả ngƣời lao động, ngƣời sử
dụng lao động đƣợc biết và thực hiện. Tuy nhiên, nếu ngƣời tham gia BHXH gặp
khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin, tài liệu của cơ quan BHXH: về quy trình,
biểu mẫu, hồ sơ…, chƣa kể đến những quy định về việc thực hiện BHXH, các biểu
mẫu, thủ tục thì luôn thay đổi khiến cho doanh nghiệp không kịp nắm bắt, sẽ kéo
dài thời gian đăng ký tham gia BHXH và gián đoạn công tác đóng BHXH định kỳ,
nguyên nhân làm cho tình trạng nợ BHXH gia tăng.
Ví dụ, từ năm 2015 thì thực hiện theo quy định tại Quyết định 959/QĐ-
BHXH, đến năm 2017 thì thực hiện theo quy định tại Quyết định 595/QĐ-BHXH,
và đến nay lại thực hiện theo quy định tại Quyết định 505/QĐ-BHXH.
Quy trình xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp cũng chƣa đƣợc quy
định một cách rõ ràng, mặc dù đã có những quy định pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật BHXH song thực tế vẫn chƣa đƣợc giải quyết toàn diện.
Nếu nhƣ việc thực hiện đóng BHXH đƣợc diễn ra thuận lợi, nhanh chóng; các
mẫu danh sách, bảng biểu thu BHXH đƣợc đơn giản hóa sẽ tạo điều kiện cho ngƣời
sử dụng lao động tuân thủ pháp luật. Ngƣợc lại, thủ tục hành chính rƣờm rà là
nguyên nhân đầu tiên mà ngành BHXH “tự đẩy” doanh nghiệp vào xu hƣớng không
tuân thủ pháp luật về BHXH và lao động bởi tâm lý không sẵn sàng thực hiện do
thủ tục rắc rối, phiền hà.
Ví dụ, hàng tháng cơ quan BHXH gửi thông báo đóng BHXH theo mẫu C12 -
TS cho đơn vị sử dụng lao động. Rất nhiều nhân viên phụ trách mảng BHXH tại
58
đơn vị hỏi về cách đọc, cách xem số liệu trong biểu mẫu này.
“Mẫu số: C12-TS (Ban hành kèm theo QĐ số: 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của BHXH Việt Nam) Bảo hiểm xã hội …............ Bảo hiểm xã hội …............
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------------
THÔNG BÁO KẾT QUẢ ĐÓNG BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN Tháng…….năm……..
Kính gửi: ................................................. Địa chỉ: ……………………Mã đơn vị…………
STT NỘI DUNG BHXH BHYT BHTN CỘNG BHTNLĐ, BNN
A B 1 2 3 4 5 = 1 + 2 + 3 +4
4. A Kỳ trƣớc mang sang 1 Số lao động 2 Phải đóng 2.1 Thừa 2.2. Thiếu 3 Thiếu lãi B Phát sinh trong kỳ 1 Số lao động 1.1 Tăng 1.2 Giảm 2 Phải đóng 2.1 Tăng 2.2 Giảm 3 Phải đóng 3.1 Tăng 3.2 Giảm Điều chỉnh phải đóng kỳ trước
4.1 Tăng
4.2 Giảm
59
Trong đó: Năm trước Trong đó: Năm trước 5 Lãi 5.1 Số tiền tính lãi 5.2 Tỷ lệ tính lãi 5.3 Tổng tiền lãi
C
1
2
Số tiền đã nộp trong kỳ +UNC số …, ngày../../.. + UNC số …, ngày../../.. n + UNC ……. D Phân bổ tiền đóng 1 Phải đóng 2 Tiền lãi Đ Chuyển kỳ sau 1 Số lao động 2 Phải đóng 2.1 Thừa 2.2 Thiếu 3 Thiếu lãi
Thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT, BHTN của đơn vị nhƣ sau: a) Kết quả đơn vị đã đóng BHXH bắt buộc cho…. lao động đến hết tháng/năm…… b) Kết quả đơn vị đã đóng BHTN cho .......... lao động đến hết tháng/năm................ c) Kết quả đơn vị đã đóng BHTNLĐ, BNN cho …lao động đến hết tháng/năm…. d) Tổng số nộp thiếu là… đồng đề nghị đơn vị nộp cho cơ quan BHXH trƣớc ngày… đ) Đề nghị đơn vị kiểm tra số liệu trên, nếu chƣa thống nhất đề nghị đến cơ quan BHXH… để kiểm tra điều chỉnh trƣớc ngày…/…/…Quá thời hạn trên nếu đơn vị không đến, số liệu trên là đúng.
…., ngày ……. tháng …… năm ……….
Giám đốc (Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)" Cán bộ thu (Ký, ghi rõ họ tên)
- Về cơ quan BHXH:
Công tác đôn đốc, thanh kiểm tra các đơn vị, doanh nghiệp nợ BHXH chƣa
thực sự sâu sát.
Nhận thức, thái độ phục vụ của các nhân viên ngành BHXH: Hiện nay, không
ít cán bộ thu trong cơ quan BHXH nói chung và BHXH quận Thanh Xuân nói riêng
60
ngồi chờ ngƣời sử dụng lao động mang tiền đến đóng, chuyển khoản vào tài khoản
của cơ quan BHXH. Cán bộ BHXH không chủ động đôn đốc, tìm đến ngƣời tham
gia BHXH nên cơ quan BHXH hầu nhƣ không phát hiện đƣợc ra các l hổng, bất
cập trong công tác thu nộp BHXH. Chỉ đến khi hệ thống có trục trặc ở khâu nào đó
mới tìm cách để tháo gỡ, do đó quá trình vận hành sẽ bị gián đoạn.
“Tuy nhiên, trong một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều
việc, ví dụ như lượt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên
đến trên 60 hồ sơ/mỗi cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn,
nếu không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hưởng đến đơn vị do
đó đa số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn vị,
ngoài ra việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hướng đến mục tiêu mỗi người một
mã số BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của người lao động
trên sổ BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả cho NLĐ (trước đây
sổ BHXH được viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải được in hết ra bằng tờ rời)
cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực hiện, trung bình mỗi cán bộ thu phải
nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công việc nhiều nhưng số lượng cán bộ thu có
hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ
không thể chú tâm hết vào việc bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu
quả không cao.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)
Những ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thu của hệ thống
công nghệ thông tin hiện đại là yếu tố quan trọng trong công tác quản lý điều hành
và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ. Tuy nhiên, việc quản lý thu không thể kiểm soát
hết đƣợc dữ liệu của ngƣời tham gia BHXH. Theo đó, việc quản lý thu nộp BHXH
chƣa đƣợc chặt chẽ.
Ngoài ra, một nguyên nhân đáng lƣu ý khác nữa là mức lãi suất phạt chậm nộp
BHXH chƣa linh hoạt. Hiện mức lãi suất chậm nộp BHXH trong năm thấp hơn so
với lãi suất tiền vay của các ngân hàng thƣơng mại do đó nhiều doanh nghiệp chấp
nhận chịu phạt để chiếm dụng vốn của cơ quan BHXH.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 6 Quyết định 60/2015/QĐ-TTg mức
61
lãi suất đối với các trƣờng hợp ngƣời sử dụng lao động chƣa đóng, chậm đóng,
chiếm dụng tiền đóng, hƣởng BHXH, BHTN từ 30 ngày trở lên sẽ bằng 02 lần mức
lãi suất đầu tƣ quỹ BHXH, BHTN bình quân của năm trƣớc liền kề.
Mức lãi suất đầu tƣ năm 2017 bằng 7,25 %/năm; tƣơng đƣơng bằng 0,604
%/tháng.
Theo đó, mức lãi suất chƣa đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền đóng, hƣởng
BHXH, BHTN áp dụng từ ngày 01/01/2018 bằng 1,208 %/tháng.
So với năm 2017, mức lãi suất chậm đóng BHYT đã giảm 0,217%/tháng, mức
lãi suất chậm đóng BHXH, BHTN đã giảm 0,109%/tháng.
- Về trách nhiệm của các bên liên quan:
Chế tài xử phạt đối với các đơn vị nợ BHXH chƣa đủ mạnh, mức xử phạt
còn thấp, tính khả thi của các biện pháp chƣa cao dẫn tới các doanh nghiệp còn trốn
tránh lách luật, cố tình chây ỳ, chậm đóng BHXH. Ví dụ, việc khởi kiện ra tòa các
doanh nghiệp, đơn vị nợ BHXH ở quận Thanh Xuân còn ít so với các doanh nghiệp,
đơn vị vi phạm, tổ chức thi hành án hoạt động chƣa hiệu quả, việc thu hồi tiền nợ
vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Công tác khởi kiện vẫn còn nhiều vƣớng mắc do quy
định về việc ủy quyền của ngƣời lao động cũng nhƣ quyền khởi kiện của các tổ
chức công đoàn trong các văn bản liên quan nhƣ Luật Công đoàn, Bộ luật Tố tụng
Dân sự có nhiều điểm chƣa rõ, thiếu hƣớng dẫn cụ thể, khiến việc triển khai thực
hiện gặp khó khăn. Do đó, việc hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH bằng cách áp
dụng các chế tài xử phạt hình sự là chƣa đƣợc áp dụng một cách triệt để. Để hoàn
thiện các thủ tục chuẩn bị khởi kiện nhƣ theo dõi, tập hợp chứng từ, lập biên bản,
đốc thúc, khởi kiện… thời gian phải mất ít nhất 6 tháng.
“Kể từ khi tổ chức công đoàn thực hiện quy định khởi kiện DN nợ BHXH ra
tòa án, Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức
công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.
Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện
nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả
toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng. Thực tế
62
cho thấy, quá trình thực hiện việc khởi kiện của công đoàn còn gặp khó khăn do các
quy định, thủ tục khởi kiện giữa các văn bản quy phạm pháp luật chưa thống nhất.
Hiện nay, để khởi kiện một vụ án nợ BHXH, phải có giấy ủy quyền của NLĐ hoặc
giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở, phải qua thủ tục hòa giải của Chủ tịch
UBND cấp quận. Nhưng trên thực tế, việc tổ chức công đoàn đi lấy hết ý kiến ủy
quyền của hàng nghìn NLĐ là khó khả thi, và cũng ít có tổ chức công đoàn cơ sở
nào đứng ra khởi kiện chủ SDLĐ của chính họ. Về phía NLĐ cũng không dám ủy
quyền để kiện chủ DN khi bản thân họ cần việc làm. Còn chủ SDLĐ luôn trốn
tránh, không hợp tác làm việc với các cơ quan chức năng, không ký nhận biên bản
đối chiếu công nợ để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ khởi kiện…” (Nam, 50 tuổi, cán
bộ BHXH thành phố Hà Nội)
Sự phối hợp của các cơ quan chức năng chƣa đƣợc thực hiện đồng bộ và hiệu
quả: chính sách BHXH chịu tác động, đan xen của nhiều chính sách khác nhƣ tiền
lƣơng, tiền công… Vì vậy thực hiện tốt chính sách BHXH rất cần sự phối hợp chặt
chẽ của nhiều cơ quan trong đó có các cơ quan nhƣ: Cục thuế, Sở Lao động Thƣơng
binh xã hội, Thanh tra ngƣời lao động, Sở kế hoạch đầu tƣ…bởi khi doanh nghiệp
thành lập phải đăng ký chế độ tiền lƣơng mà doanh nghiệp sẽ áp dụng, số ngƣời lao
động với Sở lao động thƣơng binh và xã hội. Song thực tế thời gian qua ở Việt Nam
nói chung và ở quận Thanh Xuân nói riêng do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các
cơ quan quản lý chuyên ngành nên dẫn đến tình trạng tạo ra nhiều kẻ hở, tạo thuận
lợi cho việc nợ đọng BHXH của các chủ lao động.
Ví dụ, ở quận Thanh Xuân khi doanh nghiệp mới thành lập sẽ phải đăng ký
với cơ quan Thuế nhƣng lại không thực hiện tham gia BHXH cho ngƣời lao động,
thực tế có rất nhiều đơn vị có mã số thuế nhƣng lại chƣa tham gia BHXH cho ngƣời
lao động, từ năm 2018 khi hệ thống phần mềm hoàn chỉnh hơn, cán bộ thu có thể
xuất danh sách những đơn vị có mã số thuế nhƣng chƣa tham gia BHXH để đi đến
từng địa chỉ xác minh xem đơn vị đó có còn tồn tại hay không, nếu còn tồn tại hoạt
động sẽ yêu cầu truy thu, việc truy thu nhiều dẫn đến nhiều đơn vị lại không có khả
63
năng đóng, nộp BHXH hoặc việc những đơn vị đã tham gia nhƣng nợ đóng BHXH
thì cũng chƣa có những chế tài để kết hợp với bên cơ quan Thuế hoặc sở Kế hoạch
đầu tƣ.
Do các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội chƣa quản lý,
quan sát chặt chẽ các đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội.
- Về người sử dụng lao động:
Do các đơn vị sử dụng lao động chƣa nhận thức hết vai trò của bảo hiểm xã
hội. NSDLĐ chƣa ý thức đƣợc trách nhiệm của mình trƣớc NLĐ và quyền lợi của
chính đơn vị, nhận thức của NSDLĐ về BHXH còn hạn chế, chƣa thực hiện đúng
các quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động dẫn đến quyền lợi
chính đáng của ngƣời lao động không bảo đảm.
“BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do nhà nước tổ chức mà người lao
động và người sử dụng lao động bắt buộc tham gia.” (Nam, 55 tuổi, Chủ DN Công
ty TNHH xây dựng Rạng Đông)
Nguyên nhân số tiền nợ tăng cao là do nhiều doanh nghiệp trên địa bàn gặp
khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc gặp phải những thiên tai, hoạt động cầm
chừng. Một số đơn vị thật sự khó khăn trong kinh doanh sản xuất nhất là các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao thông vận tải do chủ đầu tƣ chậm
thanh toán, đơn vị không đủ chi phí trả lƣơng và đóng BHXH cho ngƣời lao động.
“Do tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng khó khăn, để duy
trì ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên công ty có những thời điểm phải
cân đối nguồn tiền để đảm bảo chi trả tiền lương, tiền công và các nghĩa vụ thuế,
bảo hiểm với Nhà nước đúng hạn, đúng quy định. Tuy nhiên có những giai đoạn tài
chính eo hẹp nên DN có chút chậm trễ trong việc đóng nộp BHXH.” (Nữ, 30 tuổi,
NLĐ Công ty cổ phần Dệt Mùa đông)
Số tiền nợ ở khối DN ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn. Số DN giải thể,
ngừng hoạt động có chiều hƣớng tăng, việc xử lý nợ BHXH đối với DN giải thể,
ngừng hoạt động… chƣa có quy định, hƣớng dẫn giải quyết của pháp luật.
Do phƣơng thức trả lƣơng hai kỳ của doanh nghiệp thƣờng kéo dài đến đầu
64
tháng sau cho nên đa số các doanh nghiệp đóng BHXH thƣờng chậm.
Doanh nghiệp cố tình chậm đóng BHXH, chiếm dụng vốn để đầu tƣ, sản xuất
kinh doanh.
“Nguyên nhân nợ đọng BHXH: do khó khăn về tài chính, Công ty thường ưu
tiên những khoản cấp thiết trước như tiền lương, chi phí nguyên vật liệu để đầu tư
sản xuất.” (Nam, 55 tuổi, Chủ DN Công ty TNHH xây dựng Rạng Đông)
- Về người lao động:
Ngƣời lao động còn thiếu thông tin nên chƣa nhận thức hết vai trò của bảo
hiểm xã hội. NLĐ nhận thức về BHXH bắt buộc còn hạn chế.
Việc đấu tranh để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của NLĐ còn
yếu do NLĐ sợ va chạm và sợ mất việc làm và sợ tƣớc mất một số quyền lợi trong
doanh nghiệp.
2.3.2. Hậu quả nợ đọng bảo hiểm xã hội
- Đối với người lao động:
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của khoa học kỹ thuật, công nghệ thì trong
giai đoạn hiện nay, yếu tố con ngƣời ngày càng phát huy đƣợc vai trò quan trọng
của mình trong lao động sản xuất cũng nhƣ trên mọi hoạt động chính trị, xã hội
khác, các chế độ chính sách nhà nƣớc luôn bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động,
đƣợc cụ thể bằng luật lao động, chế độ tiền lƣơng, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế. Một doanh nghiệp dù có cơ sở vật chất hay kỹ thuật hiện đại nhƣng
nguồn lao đông không đáp ứng đƣợc yêu cầu thì doanh nghiệp đó cũng khó có thể
tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt nhƣ hiện nay. Để phát
huy sức mạnh của ngƣời lao động, các doanh nghiệp cần phải có những chính sách
khuyến khích ngƣời lao động thông qua công tác tạo động lực cho họ. Một trong
các động lực để khuyến khích họ, không thể không kể đến đó là chính sách bảo
hiểm xã hội cho ngƣời lao động. BHXH có vai trò quan trọng, có tác dụng làm đòn
bẩy kinh tế tác động trực tiếp đến ngƣời lao động. Khi ngƣời lao động có động lực,
họ sẽ phát huy đƣợc sức mạnh, cũng nhƣ khả năng làm việc của mình, hăng say
công tác và cống hiến hết mình cho tổ chức. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tăng
65
cƣờng quan tâm đến ngƣời lao động khi doanh nghiệp không nộp BHXH cho ngƣời
lao động thì quyền lợi thụ hƣởng của họ sẽ bị tƣớc đoạt. Đi đôi với số lƣợng doanh
nghiệp nợ BHXH là số lƣợng lớn lao động không đƣợc đóng BHXH. Điều này
đồng nghĩa với việc lợi ích của hàng nghìn ngƣời lao động bị xâm phạm. Mọi chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp… của ngƣời lao động đều
không đƣợc giải quyết.
- Đối với người sử dụng lao động:
Đơn vị sử dụng lao động có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của đơn vị sử dụng lao động đã có bƣớc phát triển đột biến, góp phần giải
phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát triển nội lực vào phát triển kinh
tế xã hội góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trƣởng kinh tế, tăng kim ngạch
xuất khẩu, tăng thu ngân sách và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội nhƣ: Tạo
việc làm, xóa đói, giảm nghèo… là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch
các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân nhƣ: cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế của các vùng, địa phƣơng; đơn vị sử dụng lao
động là nhân tố đảm bảo cho mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Đơn vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH đồng nghĩa với việc các đơn vị này
đã vi phạm pháp luật về BHXH, pháp luật về lao động. Ngƣời lao động mất niềm
tin vào doanh nghiệp, khi quyền lợi của họ không đƣợc đảm bảo thì năng suất lao
động của đơn vị cũng giảm, ảnh hƣởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trƣờng.
- Đối với hệ thống an sinh xã hội của đất nước:
Bảo hiểm xã hội là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội: vì BHXH có đối
tƣợng ngƣời lao động tham gia rất lớn, đây là những ngƣời trực tiếp tạo ra của cải
vật chất và dịch vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm và già
yếu…sẽ đe dọa đến cuộc sống bản thân ngƣời lao động và gia đình họ, làm ảnh
66
hƣởng xấu tới tâm lý của ngƣời lao động từ đó ảnh hƣởng tới xã hội. Yếu tố tâm lý
của con ngƣời luôn đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển trí tuệ và khả năng
khai thác nguồn chất xám trong m i con ngƣời. Nếu nhƣ trong công việc, thu nhập
là mục đích chính, là yếu tố kích thích hoạt động sản xuất thì yếu tố tâm lý sẽ nâng
cao hiệu quả của quá trình sản xuất. Do vậy sự vững chắc của hệ thống an sinh xã
hội ở một quốc gia đƣợc phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. Vì vậy,
việc các đơn vị nợ đọng BHXH cũng đồng nghĩa với việc không ổn định của tài
chính BHXH, nguy cơ phân hóa giàu nghèo lớn, gây bất bình đẳng xã hội, tiềm ẩn
bất ổn định xã hội.
Tiểu kết Chƣơng 2
Trong Chƣơng 2, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng về tình hình thu
BHXH và số tiền nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh
Xuân giai đoạn năm 2014 - 2019 và những biện pháp mà BHXH quận Thanh Xuân
đã áp dụng đối với những doanh nghiệp nợ đọng BHXH. Tình hình nợ đọng BHXH
của các đơn vị, doanh nghiệp đã đƣợc cải thiện nhiều song số nợ còn rất lớn và tình
trạng nợ đọng BHXH vẫn còn tồn tại. Chƣơng 2 tác giả cũng chỉ ra những nguyên
nhân từ việc thực thi các chế tài xử phạt nhƣng vẫn dẫn đến tình trạng nợ đọng
BHXH của các doanh nghiệp và hậu quả của việc nợ đọng bảo hiểm xã hội, để từ
đó đƣa ra những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của
67
các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HẠN CHẾ
TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT
3.1. Giải pháp hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh
nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt
3.1.1. Đối với thủ tục hành chính
Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế xã hội đều cần đến sự chỉ đạo của
Đảng và Nhà nƣớc. Vì thế, để chính sách BHXH ở Việt Nam đƣợc hoàn thiện hơn
đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời tham gia BHXH thì cũng không thể nằm ngoài
phƣơng hƣớng hoạt động của Nhà nƣớc và sự chỉ đạo của Đảng. Các chế độ chính
sách về BHXH chƣa đƣợc hoàn chỉnh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện từng
bƣớc, cơ chế quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chƣa hợp lý, chế tài
xử phạt còn lỏng lẻo và nhẹ, đa số là xử phạt hành chính đối với lĩnh vực BHXH,
đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm pháp luật
và Luật BHXH còn rƣờm rà chƣa sâu sát cao, chƣa đƣa ra một số hành vi vi phạm
cụ thể… chính vì lý do đó mà BHXH Việt Nam rất cần có sự chỉ đạo của Đảng và
Nhà nƣớc để ngành BHXH phát triển đúng hƣớng, thực hiện đƣợc mục tiêu lâu dài
của toàn ngành.
Cần cải cách thủ tục hành chính trong giải quyết các chế độ BHXH. Các
chính sách BHXH đều phải đƣợc công bố công khai cho tất cả ngƣời lao động,
ngƣời sử dụng lao động đƣợc biết và thực hiện. Các mẫu biểu, bảng biểu thu BHXH
cần phải đƣợc đơn giản hóa để tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng lao động tuân thủ
pháp luật. Quy trình tra cứu thông tin cần đƣợc đơn giản hóa, đơn vị có thể lên trang
website của BHXH Việt Nam và đăng nhập để cập nhật thông tin số tiền phải đóng
BHXH hàng tháng kịp thời, biểu mẫu, bảng thông báo kết quả đóng BHXH cần
phải đƣợc đơn giản hóa để các doanh nghiệp đọc dễ hiểu.
Những quy định về việc thực hiện BHXH, các biểu mẫu, thủ tục cần phải
68
đƣợc nghiên cứu một cách kỹ càng và ổn định, không nên thay đổi liên tục.
Cần hoàn thiện quy trình khởi kiện ra Tòa, đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động.
Cơ quan BHXH phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện khởi tố một số
doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHXH theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015 nhằm răn đe đối với các doanh nghiệp khác.
3.1.2. Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội
- Cần thực thi pháp luật nghiêm minh để tăng tính răn đe với các doanh
nghiệp nợ BHXH:
Tăng cƣờng tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
thu nộp BHXH của các doanh nghiệp. Cơ quan BHXH phải chú trọng đến các hình
thức xử phạt nghiêm minh hơn đối với các doanh nghiệp, các Giám đốc doanh
nghiệp có hành vi cố tình trốn đóng BHXH, cần có những biện pháp chế tài đủ
mạnh nhƣ phạt tiền với mức lãi suất cao, đƣợc phép kiểm tra số dƣ trên tài khoản
của các doanh nghiệp, đơn vị tại ngân hàng và yêu cầu chuyển thẳng tiền từ ngân
hàng để nộp số tiền BHXH cho cơ quan BHXH.
Cần tăng mức xử phạt đối với vi phạm hành chính về BHXH, việc xử phạt vi
phạm hành chính với các doanh nghiệp nợ tiền BHXH quá lớn, chây ỳ và bỏ trốn
mang lại hiệu quả không cao vì mức xử phạt tối đa cho hành vi vi phạm pháp luật
về BHXH mới chỉ dừng lại ở mức 75 triệu đồng. Có thể thấy mức xử phạt nhƣ hiện
nay không phù hợp với tính chất của hành vi vi phạm đặc biệt đối với doanh nghiệp
cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH.
Pháp luật đã có những quy định khá mạnh tay đối với những doanh nghiệp
trốn đóng BHXH cho ngƣời lao động và cả với những cá nhân ngƣời lao động
69
không muốn tham gia BHXH.
Hình 3.1: Quy định về hình thức phạt đối với doanh nghiệp nợ BHXH
Nguồn: http://bhxhhn.com.vn
Cụ thể:
Nhẹ - xử phạt vi phạm hành chính
Điều 26 Nghị định 95/2013/NĐ-CP phân định 03 mức phạt tiền đối với hành
vi vi phạm quy định về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, theo đó:
Mức 1: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối
với ngƣời lao động có hành vi thỏa thuận với doanh nghiệp không tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp;
Mức 2: Phạt tiền từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên
bản vi phạm hành chính nhƣng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với doanh
nghiệp có một trong các hành vi:
- Chậm đóng;
- Đóng không đúng mức quy định;
- Đóng không đủ số ngƣời thuộc diện tham gia.
Mức 3: Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên
bản vi phạm hành chính nhƣng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với doanh
nghiệp không đóng cho toàn bộ ngƣời lao động thuộc diện tham gia.
Bên cạnh việc bị phạt tiền, doanh nghiệp còn buộc phải thực hiện biện pháp
70
khắc phục hậu quả bằng việc:
(1) Truy nộp số tiền chƣa đóng, chậm đóng;
(2) Đóng số tiền lãi của số tiền chƣa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của
hoạt động đầu tƣ từ Quỹ bảo hiểm xã hội trong năm đối với hành vi vi phạm tƣơng
xứng mức phạt (2) và (3) nêu trên.
Nặng - truy cứu trách nhiệm hình sự
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà cá nhân, doanh nghiệp có nghĩa vụ
đóng bảo hiểm xã hội trốn đóng sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 216 Bộ luật Hình sự
năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 với các mức từ thấp đến cao, cụ thể: [28]
* Đối với ngƣời có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội
(1) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với hành vi gian dối
hoặc thủ đoạn khác để không đóng/không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng
trở lên, thuộc một trong những trƣờng hợp sau, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm:
a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dƣới 300.000.000 đồng;
b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 ngƣời đến dƣới 50 ngƣời lao động.
(2) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm, khi phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dƣới 1.000.000.000 đồng;
c) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 ngƣời đến dƣới 200 ngƣời
d) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của ngƣời lao động
quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 nêu trên.
(3) Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm, nếu phạm một trong các tội:
a) Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Trốn đóng bảo hiểm cho 200 ngƣời trở lên;
c) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của ngƣời lao động
71
quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 nêu trên.
(4) Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
* Đối với doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội
- Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc
trƣờng hợp quy định tại khoản 1 nêu trên;
- Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc
trƣờng hợp quy định tại khoản 2 nêu trên;
- Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc
trƣờng hợp quy định tại khoản 3 nêu trên.
Đối với các doanh nghiệp trốn đóng BHXH mà đã bị xử phạt vi phạm hành
chính mà vẫn còn vi phạm thì có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm hoặc cải tạo
không giam giữ một năm.
Dù do nguyên nhân chủ quan hay khách quan để dẫn đến tình trạng trốn đóng
bảo hiểm xã hội thì cá nhân hay doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng đều sẽ bị pháp luật
xử lý thích đáng.
Các chế tài xử phạt đã đƣợc quy định rất rõ trong Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 tuy nhiên
thực tế việc áp dụng các chế tài này hiện nay vẫn chƣa đƣợc phổ biến, chƣa áp dụng
rộng rãi và chƣa thực sự nghiêm minh, do đó để hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH
của các doanh nghiệp thì cơ quan BHXH và các ban ngành cần phải áp dụng các
chế tài xử phạt một cách nghiêm minh. Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt cũng phải
đƣợc quy định rõ ràng, cụ thể, quy định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng
cơ quan. Cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân phải cùng phối hợp với cơ quan
BHXH trong việc kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các tổ chức đơn vị và cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật về BHXH.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu quỹ bảo hiểm
72
xã hội:
Để nâng cao hiệu quả của công tác đóng góp BHXH thì cơ quan BHXH cũng
cần thƣờng xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu đóng
góp nhằm tránh tình trạng cán bộ chuyên quản thu của ngành BHXH Việt Nam từ
cấp Trung ƣơng đến cấp cơ sở “lơ là” trong công việc, coi công việc chuyên thu và
đốc thu là công việc chung của đội ngũ đồng nghiệp trong cơ quan mình. Tăng
cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra để tiến hành truy thu số tiền nợ đọng đối với
những đơn vị có số nợ đọng lớn. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra việc đóng
góp, trích nộp BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện ra những đối
tƣợng gian lận hay trốn đóng BHXH cho ngƣời lao động mà doanh nghiệp sử dụng.
Để từ đó đƣa ra hình thức xử phạt thích đáng đối với hành vi vi phạm pháp luật về
BHXH nhằm đem lại nguồn thu cho quỹ BHXH đƣợc tăng lên và đảm bảo công
bằng trong việc thực hiện chính sách BHXH.
- Nâng cao chất lượng nhân lực làm công tác thu nợ BHXH:
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan BHXH làm việc vẫn mang
tính thụ động, một số cán bộ vẫn chƣa năng động, sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ.
Cán bộ thu chỉ biết thực hiện tính toán số tiền nộp BHXH bắt buộc dựa trên bảng
lƣơng tăng, giảm lao động của đơn vị chuyển đến hàng tháng, không chủ động kiểm
soát đƣợc đơn vị có trốn tránh tiền BHXH hay không. Việc trốn tránh tiền nộp
BHXH bắt buộc là kết quả kiểm tra liên ngành mới phát hiện đƣợc, BHXH chỉ có
chức năng kiểm tra đơn vị về số lao động, quỹ lƣơng, chế độ chính sách... trong khi
các doanh nghiệp hàng tháng lại có biến động rất nhiều về số lao động, đặc biệt là
những doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Để cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thu BHXH nhận thức đƣợc
tầm quan trọng, vai trò của mình thì BHXH thành phố và các sở, ban, ngành cần
phải làm những công việc sau:
Trƣớc tiên, BHXH nâng cao trình độ nghiệp vụ và tác phong làm việc tích
cực, hiệu suất cao của các cán bộ chuyên môn. Khả năng làm việc và hiệu quả lao
động của đội ngũ cán bộ trong ngành và của những ngƣời cộng tác với cơ quan
73
BHXH có ảnh hƣởng quyết định đến việc quản lý các đối tƣợng tham gia BHXH
bắt buộc. Vì vậy, cần phải chú ý công tác đào tạo lại cho phù hợp. Trong đào tạo
cần xác định hình thức và nội dung đào tạo sát thực, nên tập trung vào nghiệp vụ
BHXH, kỹ năng, năng lực quản lý.
Cần bổ sung, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý, cán bộ từ thành phố đến
quận, huyện. Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chuyên làm
công tác thu nói riêng, có phẩm chất chính trị tốt; vững về lập trƣờng tƣ tƣởng, yên
tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề; giỏi về chuyên môn nghiệp vụ; nắm chắc chính
sách chế độ của Đảng và Nhà nƣớc; có ý thức trách nhiệm trong công việc, có năng
lực chỉ đạo điều hành, có ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động, khả năng giao tiếp,
am hiểu về công nghệ thông tin. Bố trí những cán bộ, công chức có đủ năng lực,
trình độ, phong cách và thái độ phục vụ tốt vào các bộ phận tiếp nhận, giải quyết
các công việc, đặc biệt là trực tiếp làm việc với đối tƣợng hƣởng chế độ BHXH bắt
buộc. Mọi khúc mắc của đối tƣợng phải đƣợc giải thích rõ ràng, thấu tình, đạt lý,
tránh tình trạng tùy tiện, đại khái qua loa, có tinh thần trách nhiệm để phục vụ Nhân
dân ngày càng tốt hơn.
Tăng cƣờng đào tạo, đào tạo lại và bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác thu nợ; đồng thời khuyến khích phong trào tự học bằng nhiều hình thức để
nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nƣớc, tin học, ngoại ngữ, về
công tác xã hội, trong đó hƣớng trọng tâm vào các kiến thức chuyên ngành BHXH,
quản lý ngành theo cơ chế mới và các kỹ năng hành chính, nghiệp vụ khác. Phối
hợp với trƣờng đào tạo tổ chức các chƣơng trình bồi dƣỡng kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ trung hạn (từ 6 tháng đến 1 năm); thƣờng xuyên tổ chức các lớp tập huấn
ngắn hạn nhằm bổ sung kịp thời cho cán bộ thu những kiến thức mới về chính sách,
pháp luật kinh tế, tài chính, kế toán; cập nhật, bổ sung kịp thời những kiến thức, kỹ
năng máy tính cần thiết để thao tác, sử dụng trong công việc.
Áp dụng hình thức tuyển dụng công khai, tạo sự sàng lọc, cạnh tranh. Từ đó
mặt bằng trình độ đƣợc cải thiện. Bên cạnh đó là cần phải có các chính sách thu hút
nguồn nhân lực chất lƣợng cao đã qua đào tạo, hay nhƣ tuyển dụng những lao động
74
trẻ góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực giàu nhiệt huyết.
Tiếp tục xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp để thƣờng xuyên thay
thế, đƣa ra khỏi ngành số cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ bất cập với
yêu cầu nhiệm vụ, những ngƣời vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp,
thoái hóa, biến chất, kém ý thức tổ chức kỷ luật để tạo điều kiện đổi mới, trẻ hóa,
tuyển chọn đƣợc những ngƣời có đức, có tài...
Cùng với việc nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên BHXH là tăng cƣờng
trang thiết bị hiện đại trong các hoạt động trong đó áp dụng công nghệ tin học vào
quản lý BHXH. Giúp đẩy công tác quản lý lên một bƣớc, không chỉ đảm bảo trên
phƣơng diện thống kê, lƣu trữ mà nó còn phục vụ cho việc tác nghiệp xử lý công
việc và thông tin nhanh chóng, chính xác, giảm bớt những thao tác không cần thiết,
tạo thời gian cho cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.
Việc quản lý, lƣu trữ, xử lý nghiệp vụ trong công tác quản lý đối tƣợng tham
gia BHXH là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để giải quyết mọi chính
sách, chế độ cho ngƣời lao động khi ngƣời lao động có đủ điều kiện và yêu cầu
đƣợc hƣởng chế độ BHXH theo Luật định.
3.1.3. Đối với các cơ quan liên quan
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với các cơ quan
Thuế. Nhà nƣớc nên áp dụng việc thu nộp BHXH thông qua thu nộp thuế từ các
doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Nhà nƣớc nên áp dụng và cho phép Cơ
quan BHXH Việt Nam phối hợp với ban thu thuế Nhà nƣớc yêu cầu đối với các
doanh nghiệp kinh doanh trong và ngoài quốc doanh ngoài việc đăng kí kinh doanh
phải đăng kí mã số thuế, đăng kí số ngƣời lao động và số ngƣời lao động thay đổi
thì phải thông báo cho cơ quan BHXH biết, cơ quan BHXH sẽ lập danh sách và số
thu chi tiết gửi ban thu thuế nhà nƣớc có trách nhiệm thu nộp. Hàng tháng, quý và
cuối năm các doanh nghiệp này phải nộp thuế cho cơ quan thuế Nhà nƣớc bao gồm
phải nộp cả số tiền đóng quỹ BHXH cho NSDLĐ và NLĐ thì cơ quan thuế mới
chấp nhận việc thu nộp này. Bởi nếu trong trƣờng hợp các cơ quan này không nộp
thuế cho Nhà nƣớc thì sẽ bị coi là vi phạm Pháp luật của nhà nƣớc và luật kinh
75
doanh.
Ngành Lao động – Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với cơ quan BHXH các
cấp tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra để xử lý kịp thời các vi phạm về
BHXH. Cần phải bổ sung, sửa đổi một số hình phạt theo hƣớng đủ mạnh để có thể
ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm có hiệu quả hơn. Nhƣ có thể quy định mức
nợ tối đa là bao nhiêu thì chịu mức phạt là 20 triệu đồng còn trên mức đó lại là
những hình phạt khác cao hơn… và mức phạt cao nhất có thể truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu có hành vi vi phạm nghiêm trọng nhƣ: chiếm dụng quỹ đóng BHXH
thu đƣợc từ các bên tham gia BHXH để sử dụng sai mục đích, hoặc lợi dụng chức
vụ, quyền hạn sử dụng sai tiền thu BHXH, mức phạt đối với cơ quan chức năng
thực thi BHXH không đúng với quy định của Luật BHXH…
Cơ quan BHXH cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an trong việc điều
tra, thực hiện thanh tra, kiểm tra, xác minh thông tin theo quy định để có kết luận cụ
thể về hành vi vi phạm BHXH đối với những đơn vị trốn đóng BHXH, những đơn
vị có hành vi gian lận chiếm đoạt tiền BHXH, làm căn cứ kiến nghị khởi tố vụ án.
Đối với việc vi phạm có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành, nếu xét thấy cần thiết thì trƣớc khi chính thức kiến nghị khởi tố, BHXH tổ
chức họp liên ngành gồm cơ quan BHXH, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các
cơ quan liên quan để phân tích, đánh giá tính chất, mức độ trên cơ sở những tài liệu
đã thu thập đƣợc. Trƣờng hợp liên ngành thống nhất xác định vụ việc đã có dấu
hiệu tội phạm, BHXH có văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển ngay cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền kèm theo hồ sơ, tài liệu có liên quan để xem xét, quyết định
việc khởi tố vụ án hình sự.
3.1.4. Đối với người sử dụng lao động
Tăng cƣờng công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội và đổi mới
công tác thu bảo hiểm xã hội. Cơ quan BHXH Việt Nam cần phối hợp với một số
cơ quan ban ngành có chức năng nhằm tăng cƣờng công tác thông tin tuyên truyền
rộng rãi hơn nữa về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, trƣớc
hết đối với các đơn vị sử dụng lao động, để có sự nhận thức đúng đắn khi tham gia
76
BHXH của cả NSDLĐ và NLĐ.
Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH đến với từng
NSDLĐ, đến các doanh nghiệp cũng là một điều rất cần thiết bởi một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng số ngƣời tham gia BHXH còn ít, số tiền nợ đọng
đóng BHXH nhiều… là do sự nhận thức, sự hiểu biết của NSDLĐ còn hạn chế, đối
với NSDLĐ thì tham gia BHXH cho cả NLĐ và chính họ thì họ sẽ yên tâm trong
sản xuất kinh doanh khi không may NLĐ của họ gặp rủi ro… từ đó làm cho năng
suất lao động tăng lên. Chính vì thế cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền
rộng rãi về BHXH đến với từng đơn vị sử dụng lao động, đến từng doanh nghiệp
nhằm góp phần hiểu biết của ngƣời dân trong toàn xã hội về BHXH.
Với những doanh nghiệp thực sự khó khăn thì Nhà nƣớc phải có những chính
sách h trợ cho doanh nghiệp.
Với những doanh nghiệp chiếm dụng vốn thì cần phải áp dụng nghiêm minh
các chế tài xử phạt và cần phải linh hoạt trong việc tính lãi chậm đóng BHXH.
Xuất phát từ thực tế để có thể giảm bớt số nợ đọng trên tổng số quỹ và đôn
đốc đƣợc các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có thể nhanh chóng đóng tiền
BHXH thì trên cơ quan BHXH nên tổ chức triển khai cho các cán bộ chuyên thu
của mình cùng một số cán bộ trong ngành khác có thể giải đáp đƣợc thắc mắc của
ngƣời tham gia BHXH cũng nhƣ cung cấp tài liệu hƣớng dẫn thu nộp, đóng góp
BHXH của ngƣời lao động để từ đó có thể nâng cao hiệu quả của công tác thu
BHXH.
3.1.5. Đối với người lao động
Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH cũng cần đƣợc
phổ biến đến với từng NLĐ để NLĐ có sự nhận thức, sự hiểu biết về vai trò của
BHXH. Ngƣời lao động thấy đƣợc quyền lợi tham gia BHXH sẽ mang lại cho họ sự
yên tâm trong cuộc sống khi không may có xảy ra rủi ro đối với họ hoặc khi về già
họ sẽ đƣợc hƣởng quyền lợi về một số chế độ phần nào bù đắp đƣợc nhu cầu cuộc
sống của họ. Từ đó, NLĐ sẽ có những thông tin cần thiết để đấu tranh lại với doanh
77
nghiệp khi doanh nghiệp chậm đóng BHXH cho họ.
Phải giải đáp kịp thời, thỏa đáng cho ngƣời lao động, giải quyết ngay khi
ngƣời lao động đang làm việc và cả khi đã thôi việc, đặc biệt làm cho ngƣời lao
động hiểu đây là một quyền lợi hợp pháp, đƣợc pháp luật bảo hộ và tƣ vấn cho họ
cách thức để tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Thông tin kết quả công tác giải quyết thắc mắc khiếu nại, tố cáo trên báo, đài
để tạo sự h trợ tinh thần, tƣ tƣởng cho ngƣời lao động, chỉ rõ nguy cơ tiềm ẩn lâu
dài của sự vi phạm và nghĩa vụ không thể trốn tránh của doanh nghiệp.
Phải xây dựng hệ thống tổ chức tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phải nhận thức đƣợc mục tiêu cụ thể là giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân ngƣời lao động, những mục tiêu bao trùm, thông
qua đó cơ quan BHXH và các cơ quan chức năng của Nhà nƣớc biết và giải quyết
đƣợc những vấn đề còn tồn tại, hạn chế của chế độ chính sách BHXH ở từng đơn vị
thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và cơ sở ngoài công lập cũng nhƣ trên
phạm vi toàn xã hội.
3.2. Một số khuyến nghị
3.2.1. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả tổ chức thực hiện các chính sách BHXH
nói chung và tổ chức quản lý thu BHXH nói riêng, hạn chế tình trạng nợ đọng
BHXH của các đơn vị thì cần có sự cải tiến cơ chế quản lý, điều hành. Việc cải tiến
này cần tập trung vào một số điểm sau:
- Xúc tiến và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực Đào tạo, trao đổi
và học hỏi kinh nghiệm, đầu tƣ…nhằm giúp cho quá trình hội nhập với hệ thống an
sinh xã hội quốc tế, mà gần nhất là các nƣớc Đông Nam Á ngày càng sâu rộng.
- Tiếp tục phân cấp cho BHXH ở huyện, thị xã, thành phố trong quản lý thu
BHXH bắt buộc. Xây dựng quy trình quản lý thu BHXH phù hợp với đặc điểm tổ
chức hoạt động của các đơn vị, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ
kinh doanh cá thể, tổ hợp tác...đảm bảo liên thông với BHXH tự nguyện và bảo
78
hiểm thất nghiệp, phù hợp với hội nhập kinh tế thế giới.
- Bổ sung nhân sự đủ về số lƣợng và có chất lƣợng để bố trí trực tiếp quản lý
thu BHXH, vì hiện nay còn quá mỏng; thƣờng xuyên tập huấn nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ chuyên
quản thu nói riêng. Thí điểm thành lập Phòng thu của BHXH cấp huyện ở những
nơi có số thu BHXH hằng năm tƣơng đối lớn và quản lý thu số đơn vị nhiều.
- Cần giữ vai trò chủ chốt trong công tác phối hợp với các bộ ngành liên
quan, giúp cho không bỏ sót các đối tƣợng hƣởng chế độ và không bỏ sót chế độ
đáng đƣợc hƣởng của ngƣời hƣởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
- Ngày càng hoàn thiện các phần mềm quản trị dữ liệu thông tin quốc gia,
xây dựng cơ sở dữ liệu gốc để việc quản lý doanh nghiệp, quản lý số lƣợng tăng
giảm, quản lý số tiền nợ đọng BHXH của lao động tại doanh nghiêp đƣợc thuận
tiện, chính xác.
3.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
- Chỉ đạo các ngành chức năng, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng
cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ chính sách, pháp luật về BHXH, tăng
cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, giám sát việc thực hiện Luật BHXH trên địa bàn.
- Chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cƣờng phối hợp thanh, kiểm tra việc
thực hiện chế độ BHXH cho ngƣời lao động, kiên quyết xử lý các trƣờng hợp vi
phạm pháp luật BHXH, nhƣ: không tham gia, tham gia không đầy đủ, tham gia
không kịp thời, gian lận BHXH, trốn đóng BHXH…
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho cơ quan cấp giấy phép, cơ quan quản lý nhà nƣớc
về lao động trên địa bàn có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, tổng hợp báo cáo tình
hình chấp hành Luật BHXH cho ngƣời lao động tại đơn vị sau khi đã đƣợc cấp giấy
phép hoạt động.
- Có cơ chế chính sách để nuôi dƣỡng nguồn thu nhƣ h trợ phát triển sản
xuất, đào tạo nguồn nhân lực, chính sách tiền lƣơng, chính sách việc làm... Đây là
việc làm hết sức cần thiết trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay nhằm tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp, nhằm giảm bớt tình trạng vi phạm pháp luật
79
BHXH ở một số doanh nghiệp, do lý do khách quan kể trên.
3.2.3. Đối với các sở ngành có liên quan
* Sở Kế hoạch - Đầu tư
Sở Kế hoạch - Đầu tƣ là nơi mà doanh nghiệp đăng ký thành lập. Vì vậy đây
là cơ quan nắm rất rõ về số lƣợng doanh nghiệp thực tế hoạt động trên địa bàn quận.
Vì vậy, cơ quan BHXH cần có sự phối hợp với Sở Kế hoạch - Đầu tƣ để đƣợc cung
cấp kịp thời tên những doanh nghiệp đang hoạt động và mới bắt đầu đăng ký thành
lập để cơ quan BHXH có thể đối chiếu với các doanh nghiệp đã tham gia BHXH.
Từ đó, tìm ra những đơn vị đã hoạt động, có đủ điều kiện tham gia nhƣng chƣa
tham gia BHXH bắt buộc cho ngƣời lao động. Qua đó, lên kế hoạch phối hợp với
các cơ quan có thẩm quyền để xử lý. Đồng thời cũng là cơ sở để cơ quan BHXH
quận nhìn nhận lại công tác tuyên truyền về BHXH đến các doanh nghiệp đã đƣợc
thực hiện hiệu quả hay chƣa.
* Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội
Các doanh nghiệp khi sử dụng lao động đều phải đăng ký với phòng Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội về danh sách lao động và thang bảng lƣơng. Cơ quan
này cần có trách nhiệm cung cấp những thông tin này cho cơ quan BHXH để đối
chiếu, phát hiện vi phạm về đăng ký số ngƣời tham gia và mức lƣơng để tiến hành
xử phạt. Cử thanh tra lao động cùng với cơ quan BHXH để tăng cƣờng công tác
thanh, kiểm tra thanh tra lao động tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì hoạt
động kinh doanh của những đối tƣợng này rất phức tạp, liên tục có sự thay đổi về
nhân sự. Vì có nhiều nghiệp vụ kiểm tra lao động mà cơ quan BHXH không có
quyền hạn để thực hiện mà phải nhờ đến sự can thiệp của thanh tra lao động thì cơ
quan BHXH mới có đƣợc những số liệu cần thiết liên quan đến những vấn đề đó.
Do đó việc thanh kiểm tra cùng với thanh tra lao động sẽ giúp cơ quan chức năng
nắm rõ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện đƣợc những vi phạm về
BHXH, trốn đóng BHXH.
* Liên đoàn lao động quận
Công đoàn là tổ chức đại diện cho ngƣời lao động để bảo vệ quyền lợi cho
80
ngƣời lao động trong doanh nghiệp. Vì vậy công đoàn có trách nhiệm bảo vệ ngƣời
lao động khi có các vi phạm về BHXH xảy ra trong doanh nghiệp làm ảnh hƣởng
đến quyền lợi BHXH của ngƣời lao động. Nhƣ vậy, công đoàn là một cánh tay h
trợ đắc lực cho cơ quan BHXH trong việc tạo áp lực cho doanh nghiệp trong vấn đề
đóng BHXH.
Liên đoàn lao động quận cần có các biện pháp yêu cầu thành lập công đoàn
đầy đủ tại các đơn vị có sử dụng lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp dù
thành lập đã lâu nhƣng vẫn không có tổ chức công đoàn. Không phải do họ không
biết mà do họ cố tình không thành lập. Liên đoàn cũng cần phải đƣa ra các quy định
chặt chẽ để đảm bảo công đoàn tại các doanh nghiệp thực hiện đúng với vai trò của
mình là bảo vệ quyền và lợi ích ngƣời lao động, khâu thành lập công đoàn phải
đƣợc thực hiện dân chủ, công khai. Vì khi có những vi phạm về quyền lợi của ngƣời
lao động xảy ra, công đoàn sẽ là tổ chức đại diện cho ngƣời lao động đòi doanh
nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ trong đó có cả nghĩa vụ tham gia BHXH
cho ngƣời lao động.
Tổ chức tập huấn về Luật Bảo hiểm xã hội cho tổ chức công đoàn, từ đó tổ
chức này sẽ nắm đƣợc những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của ngƣời lao động
về BHXH. Nếu trong doanh nghiệp có xảy ra vi phạm về BHXH thì tổ chức công
đoàn có thể phát hiện đƣợc và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng luật bảo vệ
ngƣời lao động về quyền tham gia BHXH.
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến về quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH thông
qua nhiều hình thức nhƣ tổ chức các lớp tập huấn, tìm hiểu, phát tờ rơi cung cấp
thông tin, nội dung về ý nghĩa, mục đích của chính sách BHXH và nội dung Luật
BHXH.
3.2.4. Đối với đại diện người lao động, người sử dụng lao động
Công đoàn là tổ chức bảo vệ quyền lợi của NLĐ, vì vậy tổ chức công đoàn cần
tích cực tuyên truyền, phổ biến chính sách đối với NLĐ; chủ động yêu cầu đơn vị
sử dụng lao động thực hiện đúng quyền lợi cho ngƣời lao động khi chú ý sử dụng
81
lao động có hành vi nợ đọng BHXH; đại diện của ngƣời lao động khi xảy ra tranh
chấp, khiếu kiện liên quan đến BHXH; phối hợp với BHXH các Tỉnh thành để cùng
đề xuất chính sách BHXH cho phù hợp với thực tế.
Đại diện ngƣời sử dụng lao động là phòng thƣơng mại Công nghiệp Việt Nam
và Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Tổ chức đại diện của NSDLĐ là một chủ thể
không thể thiếu trong quy định của Luật lao động. Đại diện NSDLĐ phải thƣờng
xuyên phổ biến chính sách đối với chủ sƣ dụng lao động về thực hiện Pháp luật
BHXH; phối hợp chặt chẽ với BHXH các cấp nhằm hoàn thiện, cải cách thủ tục
tham gia BHXH; Đại diện cho NSDLĐ về khiếu nại, tố cáo về BHXH.
Tiểu kết Chƣơng 3
Chƣơng 3 đã nêu ra các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của
các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt, các giải pháp đƣợc phân ra
thành nhóm đối với thủ tục hành chính, đối với cơ quan BHXH, đối với trách nhiệm
của các bên liên quan, đối với ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động; ngoài ra
còn đƣa ra một số những khuyến nghị với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội, các sở ban ngành có liên quan, đối với đại diện ngƣời lao
82
động và ngƣời sử dụng lao động.
KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội luôn là một chính sách quan trọng của m i quốc gia. Ở Việt
Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, BHXH ngày càng khẳng
định đƣợc vai trò trụ cột cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất trong hệ thống
ASXH. Tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp nói chung và trên địa bàn
quận Thanh Xuân nói riêng đã làm ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền lợi của ngƣời
lao động, trong những năm qua BHXH quận đã có nhiều cố gắng n lực trong việc
thực hiện các biện pháp thu nợ nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng BHXH nhƣng tình trạng
nợ đọng BHXH vẫn diễn ra ở các doanh nghiệp, tình trạng đóng thiếu, đóng không
đúng thời gian quy định của các doanh nghiệp gây không ít khó khăn cho hoạt động
của quỹ BHXH; điều kiện hệ thống cơ sở pháp lý cho chính sách BHXH còn chƣa
đầy đủ và đồng bộ, việc thực thi pháp luật, áp dụng các chế tài xử phạt đối với
những doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn chƣa nghiêm. Do đó, tìm ra nguyên nhân
và đƣa ra các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp là hết sức cần thiết, nhằm góp phần ổn định, từng bƣớc nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho ngƣời lao động trong thành phần kinh tế có số lƣợng ngƣời
tham gia bảo hiểm xã hội đông đảo nhất này; tạo lập sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế, xoá bỏ ranh giới ngƣời lao động làm việc khu vực nhà nƣớc và ngoài
nhà nƣớc.
Với đề tài “Hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp
bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt (Nghiên cứu trƣờng hợp các doanh nghiệp
trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội)”, đã chỉ ra thực trạng thực thi chế
tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội và các nguyên nhân dẫn đến nợ đọng BHXH. Đồng thời
một số giải pháp và khuyến nghị hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt cũng đƣợc đề xuất giúp BHXH và các
ngành liên quan hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác thu nợ nhằm
hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trong giai đoạn
83
tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Việt Anh (2019), “Xử lý tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Bảo hiểm xã
hội, tập 73 (số 5), tr.4-7.
2. Thái An, Duy Anh (2019), “Kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ BHXH của một số quốc
gia”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.10-11.
3. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo tài chính năm 2014.
4. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo tài chính năm 2015.
5. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo tài chính năm 2016.
6. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo tài chính năm 2017.
7. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo tài chính năm 2018.
8. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo tài chính năm 2019.
9. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2014.
10. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2015.
11. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2016.
12. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2017.
13. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2018.
14. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị
năm 2019.
15. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo thu nợ năm 2014.
16. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo thu nợ năm 2015.
17. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo thu nợ năm 2016.
18. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo thu nợ năm 2017.
84
19. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo thu nợ năm 2018.
20. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo thu nợ năm 2019.
21. Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo nợ BHXH, BHTN, BHYT từ
năm 2014 đến năm 2019 của toàn thành phố.
22. Chi cục Thuế quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo các thành phần kinh tế và số lao
động tại quận Thanh Xuân năm 2019.
23. Nguyễn Thị Lan Hƣơng và cộng sự (2010), Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam
đến năm 2020, Hà Nội.
24. Bùi Thị Thanh Hƣơng (2017), “Cánh mạng công nghiệp lần thứ tƣ cơ hội và thách
thức đối với bảo hiểm xã hội”, Tạp chí báo cáo viên của Trung tâm thông tin công
tác tuyên giáo - Ban Tuyên giáo Trung ương, Tập 71 (số 4), tr.27-32.
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình khoa học quản lý,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Thanh Nghị (2019), “Xử lý doanh nghiệp nợ BHXH tại Việt Nam đảm bảo
quyền lợi cho NLĐ”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.12-13.
27. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, luật số
58/2014/QH13, Quốc hội khoá 13, Hà Nội.
28. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự, luật số
100/2015/QH13, Quốc hội khóa 13, Hà Nội.
29. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Quốc hội khóa 13, Hà Nội.
30. Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật số:
68/2014/QH13, Luật Doanh nghiệp.
31. Phạm Đ Nhật Tân (2009), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, NXB lao động xã hội,
Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Phƣơng Thảo (2019), “Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh
nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân”, Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý,
Trƣờng Đại học Công nghệ giao thông, vận tải.
33. Nguyễn Thắng (2019), “Giải pháp nào để đảm bảo việc tuân thủ đóng góp?”, Tạp
85
chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr. 8-9.
34. V.Thu (2019), “Quyết liệt các giải pháp giảm nợ đóng, chậm đóng BHXH”, Tạp
chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.16-17.
35. Trần Quốc Tuý (2006), “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp
ngoài quốc doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Viết Vƣợng (2006), Giáo trình kinh tế bảo hiểm, Nxb. Lao Động, Hà Nội.
Website
37. Tùng Anh, Nợ và xử lý nợ BHXH, BHYT, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, cập nhật
ngày 11/01/2018, truy cập ngày 20/05/2019.
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/no-xu-ly-no-bhxh-bhyt-403
38. Liam Byrne (2012), A William Beveridge for this century's welfare state. The
Guardian: https://www.theguardian.com/commentisfree/2012/jan/02/, cập nhật
ngày 01/02/2012, truy cập ngày 20/09/2019.
39. Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Tình hình kinh tế - xã hội quận năm
2019, cập nhật ngày 11/03/2019, truy cập ngày 24/04/2019.
https://thanhxuan.hanoi.gov.vn/portal/home/default.aspx
40. Cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam, Các giải pháp triển khai thực hiện Bộ
Luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN, cập nhật ngày
11/10/2018, truy cập 01/02/2019.
https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-su-
kien.aspx?CateID=136&ItemID=11436
41. Cổng thông tin điện tử Voer, Sơ lược sự ra đời và lịch sử phát triển của bảo
hiểm xã hội, cập nhật ngày 01/02/2008, truy cập ngày 28/04/2019.
https://voer.edu.vn/m/so-luoc-su-ra-doi-va-lich-su-phat-trien-cua-bao-hiem-xa-
hoi/f0fa7c3e
42. Cổng thông tin điện tử Voer, Bản chất của bảo hiểm xã hội, cập nhật ngày
11/02/2018, truy cập ngày 28/04/2019.
86
https://voer.edu.vn/m/ban-chat-cua-bao-hiem-xa-hoi/f0166fd6
43. Cổng thông tin điện tử Công ty doanh nghiệp, báo cáo doanh nghiệp, cập nhật
ngày 01/03/2019, truy cập ngày 24/04/2019.
https://ha-noi.congtydoanhnghiep.com
44. Thu Cúc, Cần hướng dẫn cụ thể xử lý hình sự tội phạm về BHXH, Thƣ viện
pháp luật, cập nhật ngày 05/01/2019, truy cập ngày 25/02/2019.
https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi-su/22481/can-
huong-dan-cu-the-xu-ly-hinh-su-toi-pham-ve-bhxh
45. Ngọc Dung, Mai Chi, Rốt ráo đòi nợ bảo hiểm xã hội, Tạp chí tài chính, cập
nhật ngày 08/10/2019, truy cập ngày 13/12/2019.
http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/rot-rao-doi-no-bao-hiem-xa-hoi-
313761.html
46. Kho tài liệu, “Nợ đọng bảo hiểm xã hội - vấn đề nóng của nước ta hiện nay”,
cập nhật ngày 01/01/2012, truy cập ngày 01/08/2019.
https://khotailieu.com
47. H.Nga, Những biện pháp kiên quyết xử lý doanh nghiệp nợ đọng BHXH, Tạp chí
tài chính, cập nhật ngày 10/10/2019, truy cập ngày 12/11/2019.
http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/nhieu-bien-phap-kien-quyet-xu-ly-doanh-
nghiep-no-dong-bao-hiem-xa-hoi-313881.html
48. Đ Quyên, Xử lý hình sự tội phạm lĩnh vực bảo hiểm xã hội: loay hoay chờ
hướng dẫn, Tạp chí tài chính, cập nhật ngày 08/01/2019, truy cập ngày
24/02/2019.
http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/xu-ly-hinh-su-toi-pham-linh-vuc-bao-
hiem-xa-hoi-loay-hoay-cho-huong-dan-301808.html
49. Ngọc Tùng, Những nội dung đáng chú ý hướng dẫn áp dụng xử lý tội phạm về
BHXH, BHYT trong Bộ luật Hình sự, Tạp chí Tài chính, cập nhật ngày
11/10/2019, truy cập ngày 12/11/2019.
http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/nhung-noi-dung-dang-chu-y-huong-dan-ap-
87
dung-xu-ly-toi-pham-ve-bhxh-bhyt-trong-bo-luat-hinh-su-313885.html
50. Thái Yến, Xử lý hình sự đối với các tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm, Báo điện
tử Đại biểu nhân dân, cập nhật ngày 05/01/2019, truy cập ngày 25/02/2019.
88
http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=415453
PHỤ LỤC
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU
PHỤC VỤ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: “HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ
ĐỌNG BHXH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH
XUÂN (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI”
Học viên thực hiện: Đặng Thị Huyền Trang
Lớp: Cao học Khoa học quản lý, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN
Đối tƣợng phỏng vấn: 8 ngƣời, bao gồm: 2 cán bộ BHXH thành phố Hà Nội, 2
cán bộ BHXH quận Thanh Xuân, 2 chủ doanh nghiệp nợ đóng BHXH, và 2 ngƣời
lao động.
Hình thức phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp.
I. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ NHẤT
1. Thông tin chung
- Giới tính: Nam, tuổi: 50
- Chức vụ: Cán bộ
- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội
2. Nội dung phỏng vấn
Câu 1: Theo ông, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải
tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH thành phố Hà Nội đã và
đang triển khai những giải pháp gì?
Trả lời:
Phải nói rằng, chúng tôi luôn xác định việc đôn đốc thu, thu nợ tiền đóng
BHXH, BHYT kịp thời có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của NLĐ. Thời gian qua, BHXH thành phố Hà Nội đã quyết liệt triển khai
89
nhiều giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác thu, giảm nợ BHXH, BHYT. Để giảm nợ
tiền đóng BHXH, BHYT xuống mức thấp nhất, BHXH TP. Hà Nội tiếp tục và tăng
cƣờng thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Yêu cầu cán bộ chuyên quản thu bám sát đơn vị để đôn đốc đóng kịp thời số
phát sinh hàng tháng, đề nghị đơn vị lập kế hoạch trả nợ tiền đóng BHXH, BHYT.
Hàng tháng, báo cáo tình hình thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa
bàn với cấp ủy, chính quyền địa phƣơng để chỉ đạo. Công khai danh tính đơn vị nợ
tiền đóng BHXH, BHYT trên phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh thanh tra đột xuất đối với các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT từ 3
tháng trở lên, kết thúc thanh tra phải có quyết định xử lý và gửi kết quả xử lý đến cơ
quan chức năng để làm căn cứ xử lý hình sự.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT
đến chủ SDLĐ và NLĐ nhằm thay đổi nhận thức, từ đó thay đổi hành vi của chủ
SDLĐ và NLĐ, để họ tự giác tham gia và đóng BHXH, BHYT kịp thời theo quy
định của pháp luật.
Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình
trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy
kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa ông?
Trả lời:
Kể từ khi tổ chức công đoàn thực hiện quy định khởi kiện DN nợ BHXH ra
tòa án, Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức
công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.
Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện
nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả
toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng. Thực tế
cho thấy, quá trình thực hiện việc khởi kiện của công đoàn còn gặp khó khăn do các
quy định, thủ tục khởi kiện giữa các văn bản quy phạm pháp luật chƣa thống nhất.
Hiện nay, để khởi kiện một vụ án nợ BHXH, phải có giấy ủy quyền của NLĐ hoặc
giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở, phải qua thủ tục hòa giải của Chủ tịch
90
UBND cấp quận. Nhƣng trên thực tế, việc tổ chức công đoàn đi lấy hết ý kiến ủy
quyền của hàng nghìn NLĐ là khó khả thi, và cũng ít có tổ chức công đoàn cơ sở
nào đứng ra khởi kiện chủ SDLĐ của chính họ. Về phía NLĐ cũng không dám ủy
quyền để kiện chủ DN khi bản thân họ cần việc làm. Còn chủ SDLĐ luôn trốn
tránh, không hợp tác làm việc với các cơ quan chức năng, không ký nhận biên bản
đối chiếu công nợ để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ khởi kiện…
Câu 3: Theo ông, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH TP. Hà Nội
và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải quyết quyền
lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?
Trả lời:
Từ thực tiễn tổ chức thực hiện nhiệm vụ, BHXH TP. Hà Nội vẫn đang tích cực
kiến nghị với các cơ quan chức năng sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo
cơ chế đầy đủ việc xử lý nợ BHXH, BHYT đƣợc giải quyết, nhằm bảo đảm ngày
càng tốt hơn quyền lợi của ngƣời tham gia BHXH, BHYT.
Hiện nay, TAND tối cao cũng đang hoàn thiện văn bản hƣớng dẫn quy trình
khởi kiện đối với đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT cũng nhƣ việc xử lý đối với các
hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, theo quy định tại các Điều 214, 215, 216
Bộ luật hình sự. Chúng tôi tin rằng khi những khó khăn, vƣớng mắc này đƣợc tháo
gỡ, sẽ có những tác động tích cực đến công tác thu nợ BHXH, BHYT.
II. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ HAI
1. Thông tin chung,
- Giới tính: Nữ. Tuổi: 45
- Chức vụ: Cán bộ
- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội
2. Nội dung phỏng vấn
Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải
tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH thành phố Hà Nội đã và
đang triển khai những giải pháp gì?
91
Trả lời:
Chúng tôi cũng thực hiện nhiều biện pháp để giảm tỷ lệ nợ đọng BHXH của
các đơn vị, ví dụ nhƣ một số biện pháp sau:
Hàng tháng, chúng tôi gửi thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT, BHTN đến
từng doanh nghiệp, cán bộ chuyên quản thu gửi thông báo nợ ngày 15 hàng tháng
đến từng doanh nghiệp.
Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các đơn vị nợ đọng BHXH,
BHYT từ 3 tháng trở lên, để kiểm tra xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp và
cùng chia sẻ tháo gỡ những khó khăn với doanh nghiệp.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT
đến chủ SDLĐ và NLĐ nhằm thay đổi nhận thức, nâng cao sự hiểu biết của họ về
chính sách, pháp luật BHXH, BHYT.
Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình
trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy
kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?
Trả lời:
Tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp đang diễn biễn phức tạp.
Tính đến tháng 8/2019 có trên 32.642 đơn vị nợ tiền BHXH, BHYT, BHTN với
454.029 lao động; số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN phải tính lãi là 1.811,4 tỷ đồng,
chiếm 4,17% Kế hoạch thu.
Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức
công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.
Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện
nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả
toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng.
Thực tế cho thấy công tác đôn đốc thu BHXH, BHTN, giảm tỷ lệ nợ đóng
BHXH, BHTN ngày càng khó khăn. Hiện nay, TP Hà Nội còn khoảng 70.000
doanh nghiệp với hơn 410.000 lao động có kê khai thuế nhƣng chƣa tham gia
92
BHXH. Tính đến tháng 8/2019, đã có 10.534 doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải
thể, phá sản, hết lao động thuộc đối tƣợng tham gia với số tiền nợ là 1.160,9 tỷ
đồng.
Một số doanh nghiệp không chấp hành quyết định thanh tra, kiểm tra; không
phối hợp cung cấp hồ sơ, tài liệu và làm việc với đoàn thanh tra, kiểm tra. Đối
tƣợng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN chƣa đạt 100% đối tƣợng lao động phải
tham gia theo quy định của pháp luật. Nhiều đơn vị sử dụng lao động trốn đóng,
không tham gia BHXH, BHTN cho ngƣời lao động, nợ đóng, trốn đóng BHXH,
BHTN. Nhiều doanh nghiệp chây ì không chấp hành nộp tiền phạt theo các Quyết
định hành chính đã ban hành, mặc dù đã đƣợc đôn đốc nhiều lần.
Việc xử lý hình sự với các doanh nghiệp cố tình trốn đóng, nợ đọng BHXH
kéo dài đƣợc coi là biện pháp mạnh cuối cùng. Từ năm 2017 đến nay, CATP Hà
Nội tiếp nhận 10 vụ việc cơ quan BHXH chuyển hồ sơ sang đề nghị xử lý hình sự
doanh nghiệp vi phạm về BHXH.
Với các vụ việc này, mặc dù số tiền doanh nghiệp nợ lớn, song số tiền nợ tập
trung chủ yếu vào thời điểm trƣớc 01/01/2018 (thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015
có hiệu lực) nên chỉ bị xử lý hành chính. Có vụ việc, khi cơ quan Công an thực hiện
xác minh và đôn đốc thì doanh nghiệp đã thực hiện nộp đầy đủ nghĩa vụ đóng
BHXH, BHYT, BHTN cho ngƣời lao động. Từ 2015 đến nay, Viện Kiểm sát nhân
dân thành phố chƣa truy tố, xét xử vụ án nào liên quan đến các tội phạm trong lĩnh
vực bảo hiểm.
Trong khi đó, tỷ lệ nợ BHXH vẫn cao, trong đó có nguyên nhân tổ chức Công
đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH chƣa hiệu quả. Nhƣng thực sự công tác này
đang rất vƣớng. Theo “Điều 14 Luật BHXH quy định “Tổ chức công đoàn có quyền
khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động”. Thế
nhƣng, theo Luật Tố tụng dân sự, khi tổ chức công đoàn khởi kiện ra tòa án đối với
hành vi vi phạm pháp luật về BHXH thì phải có sự ủy quyền của ngƣời lao động
93
cho Công đoàn và thực hiện theo thủ tục tố tụng tranh chấp lao động của từng cá
nhân. Ví dụ, doanh nghiệp có 1.000 lao động thì phải có 1.000 chữ ký của ngƣời lao
động ủy quyền cho Công đoàn khởi kiện. Quy định này khó khả thi, khó thực hiện.
Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH TP. Hà Nội
và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải quyết quyền
lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?
Trả lời:
Về vấn đề này, chúng tôi cũng kiến nghị Công an, Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân thành phố hƣớng dẫn trình tự thủ tục để thiết lập, củng cố hồ sơ,
chứng cứ, tài liệu chuyển cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi
tố các doanh nghiệp vi phạm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xử lý theo
quy định của Luật Hình sự 2015 và Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP của Tòa án
Nhân dân tối cao.
Bên cạnh đó, Thành ủy HĐND cũng kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tiến
hành khởi tố một số vụ việc điển hình để đƣa ra xét xử, tăng tính răn đe với các
doanh nghiệp vi phạm.
III. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ BA
1. Thông tin chung
- Giới tính: Nữ. Tuổi: 45
- Chức vụ: Cán bộ
- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân.
2. Nội dung phỏng vấn
Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải
tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH quận Thanh Xuân đã và
đang triển khai những giải pháp gì?
Trả lời:
Hàng năm BHXH quận thƣờng xuyên thực hiện kế hoạch thông tin tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT; quan tâm chỉ đạo thu hồi nợ
BHXH, BHYT, bám sát những đơn vị nợ để đôn đốc thu hồi số tiền nợ, rà soát lập
94
danh sách những đơn vị nợ để ra Quyết định Thanh tra, kiểm tra đơn vị. Qua khảo
sát thực tế cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thêm đƣợc thông tin cũng nhƣ
nhu cầu của ngƣời tham gia BHXH. Từ đó tạo lên sự gần gũi và làm cho ngƣời lao
động hiểu thêm về chính sách BHXH. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, đơn vị
sau thanh, kiểm tra đã chấp hành nghiêm túc hơn việc bảo đảm quyền lợi BHXH
cho ngƣời lao động.
Tỷ lệ nợ BHXH, BHYT của các DN trên địa bàn có xu hƣớng giảm dần.
Song, một phần do địa bàn tập trung quá nhiều DN hoạt động về xây dựng, thi công
cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng vẫn gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, khiến tỷ lệ
nợ của các DN vẫn cao.
Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình
trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy
kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?
Trả lời:
Từ năm 2016 đến nay, thực hiện Luật BHXH sửa đổi bổ sung, BHXH quận
cũng đã chuyển LĐLĐ quận hồ sơ đề nghị khởi kiện. Tuy nhiên, LĐLĐ quận chƣa
khởi kiện các DN nợ do khó khăn trong hoàn thiện hồ sơ khởi kiện theo quy định.
Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH quận
Thanh Xuân và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải
quyết quyền lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?
Trả lời:
Về phía quận, Trƣởng đoàn giám sát đề nghị tăng cƣờng công tác tuyên
truyền cho toàn ngƣời dân và DN về các quy định liên quan đến BHXH, BHYT
cũng nhƣ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền trong giải quyết nợ đọng
BHXH; đẩy mạnh thanh, kiểm tra việc chấp hành quy định BHXH, BHYT tại DN;
chỉ đạo quyết liệt các biện pháp thu hồi nợ đọng và không để phát sinh nợ mới. Với
các hành vi vi phạm, cần kiên quyết xử lý, trong đó, từ 1/1/2018 có quyền truy tố
với các DN này theo quy định.
IV. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ TƢ
95
1. Thông tin chung
- Giới tính: Nữ. Tuổi: 30
- Chức vụ: Cán bộ
- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân
2. Nội dung phỏng vấn
Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải
tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH quận Thanh Xuân đã và
đang triển khai những giải pháp gì?
Trả lời
- Hàng tháng, cán bộ chuyên quản thu và thu nợ gửi thông báo kết quả đóng
BHXH, BHYT, BHTN cho từng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp
nợ BHXH. Lập danh sách những đơn vị nợ BHXH từ 02 tháng trở lên để gọi
điện thoại đôn đốc đơn vị nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN. Tuy nhiên, trong
một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều việc, ví dụ nhƣ
lƣợt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên đến trên
60 hồ sơ/m i cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn, nếu
không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hƣởng đến đơn vị do
đó đa số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn
vị, ngoài ra việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hƣớng đến mục tiêu m i
ngƣời một mã số BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của
ngƣời lao động trên sổ BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả
cho NLĐ (trƣớc đây sổ BHXH đƣợc viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải
đƣợc in hết ra bằng tờ rời) cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực
hiện, trung bình m i cán bộ thu phải nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công
việc nhiều nhƣng số lƣợng cán bộ thu có hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ
có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ không thể chú tâm hết vào việc
bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu quả không cao.
- Cán bộ thu phối hợp với cán bộ kiểm tra để đi kiểm tra những đơn vị nợ đọng
BHXH theo Quyết định Thanh tra, kiểm tra của BHXH Thành phố hoặc kiểm
96
tra Liên ngành.
- Tổ chức các buổi hội nghị tuyên truyền về chính sách, pháp luật BHXH,
BHYT đặc biệt là mời các doanh nghiệp nợ đóng BHXH trên địa bàn. Qua
đó, có thể nghe những thông tin phản ánh từ phía doanh nghiệp để hiểu rõ
hơn những khó khăn, vƣớng mắc của doanh nghiệp.
- Phối hợp với các ban ngành nhƣ công an, UBND quận, BHXH Thành phố để
kiểm tra xác minh tình trạng hoạt động của đơn vị.
Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình
trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy
kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?
Trả lời:
BHXH quận cũng đã chuyển LĐLĐ quận hồ sơ đề nghị khởi kiện. Tuy
nhiên, LĐLĐ quận chƣa khởi kiện các DN nợ do khó khăn trong hoàn thiện hồ sơ
khởi kiện theo quy định.
Trong thời gian này, nếu doanh nghiệp có động thái “tích cực” nhƣ nộp một
phần khoản nợ thì cơ quan BHXH vẫn không thể khởi kiện đƣợc. Đó là chƣa nói
đến trƣờng hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản, chủ doanh nghiệp không còn trên
địa bàn để khởi kiện.
Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH quận
Thanh Xuân và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải
quyết quyền lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?
Trả lời:
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách BHXH, BHYT đến với
NLĐ và NSDLĐ.
Tập trung mở rộng diện bao phủ BHXH thông qua khai thác dữ liệu từ cơ
quan Thuế.
BHXH quận Thanh Xuân sẽ tích cực kiến nghị với các cơ quan chức năng
sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo cơ chế đầy đủ để việc xử lý nợ
BHXH, BHYT đƣợc giải quyết, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi của
97
ngƣời tham gia BHXH, BHYT.
V. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ NĂM
1. Thông tin chung:
- Giới tính: Nữ. Tuổi: 30
- Chức vụ: Ngƣời lao động
- Đơn vị công tác: Công ty cổ phần dệt Mùa đông
Câu 1: Nhận thức của chị như thế nào về BHXH bắt buộc?
Trả lời:
BHXH bắt buộc là bảo hiểm do Nhà nƣớc tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải
tham gia, nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.
BHXH bắt buộc mang lại rất nhiều quyền lợi cho ngƣời lao động để ngƣời
lao động yên tâm làm việc gắn bó với doanh nghiệp và đƣợc hƣởng các quyền lợi
chế độ nhƣ: chế độ ốm đau, thai sản, hƣu trí, tử tuất, thất nghiệp trong quá trình làm
việc và về nghỉ hƣu.
Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty chị nợ đóng BHXH?
Trả lời:
Do tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng khó khăn, để duy trì
ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên công ty có những thời điểm phải cân
đối nguồn tiền để đảm bảo chi trả tiền lƣơng, tiền công và các nghĩa vụ thuế, bảo
hiểm với Nhà nƣớc đúng hạn, đúng quy định. Tuy nhiên có những giai đoạn tài
chính eo hẹp nên DN có chút chậm trễ trong việc đóng nộp BHXH.
Câu 3: Công ty chị nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?
Trả lời:
Doanh nghiệp nhận thức đƣợc việc chậm đóng BHXH sẽ làm ảnh hƣởng đến
quyền lợi của NLĐ nhƣ không sử dụng đƣợc thẻ BHYT, chậm giải quyết chế độ ốm
đau, thai sản... cho NLĐ khi có yêu cầu. Do vậy dù có những thời điểm chậm đóng,
nhƣng khi NLĐ có phát sinh yêu cầu, DN đều cố gắng cân đối đóng đủ để tối thiểu
có thể giải quyết trƣớc chế độ cho NLĐ đó, tránh làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của
98
NLĐ.
Việc nợ đóng bảo hiểm xã hội lâu dài thì mọi chế độ quyền lợi của ngƣời lao
động sẽ bị ngừng hết và không đƣợc hƣởng bất cứ quyền lợi gì, từ đó sẽ ảnh hƣởng
đến tâm lý làm việc của NLĐ, ảnh hƣởng đến động lực làm việc của NLĐ.
VI. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ SÁU
1. Thông tin chung:
- Giới tính: Nam. Tuổi: 37
- Chức vụ: Ngƣời lao động
- Đơn vị công tác: Công ty thƣơng mại và dịch vụ Duy Trang.
Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?
Trả lời:
BHXH bắt buộc là phần h trợ thu nhập cho ngƣời lao động khi họ không
may gặp phải những rủi ro nhƣ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hƣu trí, tử tuất. BHXH bắt buộc là một chế độ an sinh xã hội đảm bảo
quyền lợi cho NLĐ. BHXH là một chế độ có đóng, có hƣởng.
Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?
Trả lời:
Nguyên nhân dẫn đến Công ty nợ BHXH là do nguồn tài chính gặp khó
khăn. Mặc dù cá nhân ngƣời lao động hàng tháng vẫn đóng tiền BHXH theo tỷ lệ
quy định. Tuy nhiên, có thể vì những khó khăn nào đó của doanh nghiệp mà bỏ qua
việc thực hiện đóng nộp tiền BHXH.
Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?
Trả lời:
Ngƣời lao dộng gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các chế độ từ BHXH,
có thể không đƣợc hƣởng quyền lợi khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp…
Có lao động dù đã làm việc ở doanh nghiệp 10 năm, sinh con lần thứ hai
nhƣng vẫn chƣa nhận đƣợc tiền trợ cấp thai sản từ lần sinh thứ nhất chỉ vì doanh
nghiệp không đóng BHXH, dù cá nhân ngƣời lao động hàng tháng vẫn đóng tiền
99
BHXH theo tỷ lệ quy định. Tuy nhiên, không thể vì những khó khăn nào đó của
doanh nghiệp mà bỏ qua việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sử
dụng lao động với ngƣời lao động, để quyền lợi của họ không đƣợc đảm bảo.
VII. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ BẢY
1. Thông tin chung:
- Giới tính: Nam. Tuổi: 40
- Chức vụ: Chủ doanh nghiệp.
- Đơn vị công tác: Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Hà Đăng
Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?
Trả lời:
BHXH bắt buộc là:
- BHXH bắt buộc do Nhà nƣớc tổ chức và bắt buộc ngƣời lao động và ngƣời
sử dụng lao động phải tham gia.
- BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ : Thai sản, ốm đau, tai nạn lao động,
hƣu trí…
- BHXH bắt buộc là nghĩa vụ và quyền lợi của ngƣời sử dụng lao động và
ngƣời lao động. Ngƣời sử dụng và ngƣời lao động bắt buộc tham gia đóng BHXH
khi có giao kết hợp đồng lao động.
Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?
Trả lời:
Đặc thù của công ty liên quan nhiều đến hợp đồng của các khách hàng, trong
trƣờng hợp công ty bị ảnh hƣởng bởi khách hàng cắt hợp đồng thuê dịch vụ dẫn đến
doanh thu bị sụt giảm nặng nề, nguy cơ giải thể, phá sản không có khả năng chi trả
tiền BHXH.
Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?
Trả lời:
Quỹ BHXH của nhà nƣớc sẽ không có khả năng chi trả, ngƣời lao động sẽ
không đƣợc hƣởng quyền lợi chính đáng của mình.
Chƣa thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với pháp luật về BHXH, lợi ích của cá
100
nhân và tổ chức bị giảm khi có các trƣờng hợp rủi ro xảy ra, nợ kéo dài với số tiền
lớn có thể dẫn đến việc không có khả năng chi trả, chƣa kể nợ BHXH sẽ phát sinh
lãi chậm nộp, ảnh hƣởng đến cả NSDLĐ và NLĐ.
VIII. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ TÁM
1. Thông tin chung:
- Giới tính: Nam. Tuổi: 55
- Chức vụ: Chủ doanh nghiệp.
- Đơn vị công tác: Công ty TNHH xây dựng Rạng Đông
Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?
Trả lời:
BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do nhà nƣớc tổ chức mà ngƣời lao động
và ngƣời sử dụng lao động bắt buộc tham gia.
Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?
Trả lời:
Nguyên nhân nợ đọng BHXH: do khó khăn về tài chính, Công ty thƣờng ƣu
tiên những khoản cấp thiết trƣớc nhƣ tiền lƣơng, chi phí nguyên vật liệu.
Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?
Trả lời:
Hậu quả nợ đóng BHXH: các thủ tục BHXH cho ngƣời lao động chậm trễ,
ảnh hƣởng đến quyền lợi NLĐ, ảnh hƣởng uy tín của đơn vị, chịu lãi chậm nộp
101
BHXH trả cao hơn lãi suất của ngân hàng.