ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG THỊ HUYỀN TRANG HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN LÝ Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

ĐẶNG THỊ HUYỀN TRANG

HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học quản lý Mã số: 17035238 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Toản Hà Nội - 2020

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu, học viên đã nhận đƣợc sự chỉ bảo

của các thầy, cô Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia

Hà Nội. Học viên cũng đã tiếp thu nhiều bài học bổ ích cả về chuyên môn, kỹ năng

và thái độ. Luận văn đã đƣợc hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các

thầy cô, sự quan tâm, ủng hộ của gia đình và bạn bè.

Trƣớc tiên học viên xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy TS. Nguyễn Ngọc Toản

đã định hƣớng và hƣớng dẫn trong quá trình lựa chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài.

Học viên xin cám ơn các thầy, cô khoa Khoa học quản lý, sự giảng dạy, chỉ

bảo, hƣớng dẫn của các thầy, cô đã giúp học viên hiểu rõ hơn vấn đề và gợi suy cho

học viên rất nhiều về ý tƣởng nghiên cứu.

Học viên cảm ơn Lãnh đạo cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân, các

cơ quan, đơn vị trên địa bàn quận Thanh Xuân, các bạn bè đồng nghiệp và gia đình

đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tìm hiểu tình hình thực tế và cung cấp tài

liệu, số liệu để học viên hoàn thành luận văn.

Do hạn chế về mặt thời gian nên trong quá trình nghiên cứu luận văn có thể

còn nhiều thiếu sót. Học viên mong nhận đƣợc sự góp ý và chỉ bảo của các thầy, các

cô và các bạn đồng nghiệp.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

Đặng Thị Huyền Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là: Đặng Thị Huyền Trang

Học viên lớp Cao học Khoa học quản lý năm 2017; Trƣờng Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình do tôi nghiên cứu, tìm hiểu,

tổng hợp và hoàn thiện dƣới sự chỉ bảo tận tình của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ

của gia đình, bạn bè. Nội dung luận văn hoàn toàn chân thực, không trùng lặp với

các luận văn và nghiên cứu khác.

Trong luận văn tôi có tham khảo các bài viết, công trình nghiên cứu có

liên quan của các tác giả khác và có dẫn nguồn cụ thể; các số liệu trích dẫn trong

luận văn hoàn toàn chính xác, trung thực và có chỉ rõ nguồn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Ngƣời cam đoan

Đặng Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

MỤC LỤC ............................................................................................................................ 1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. 3

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH ............................................................. 4

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 16

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI, NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ

HỘI VÀ CHẾ TÀI XỬ PHẠT .......................................................................................... 16

1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của bảo hiểm xã hội ............................................... 16

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội ....................................................................................... 16

1.1.2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội ......................................................... 18

1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội ...................................................................................... 24

1.2. Khái niệm, tác động, chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................... 26

1.2.1. Khái niệm nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................................................................ 26

1.2.2. Tác động của nợ đọng bảo hiểm xã hội ................................................................... 26

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội ...................................................... 28

1.3. Khái niệm doanh nghiệp và chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội .................. 29

1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp .............................................. 29

1.3.2. Chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp ............................ 33

1.4. Kinh nghiệm giải quyết xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội một số nƣớc ............... 40

Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................................. 42

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC THI CHẾ TÀI XỬ PHẠT NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM

XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH XUÂN,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ..................................................................................................... 43

2.1. Tổng quan các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân ............................... 43

2.2. Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn quận

Thanh Xuân…. ................................................................................................................... 46

2.2.1. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội và số nợ bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp46

2.2.2. Các chế tài xử phạt nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội đã thực hiện tại

quận Thanh Xuân ............................................................................................................... 52

1

2.3. Nguyên nhân và hậu quả của nợ đọng bảo hiểm xã hội. ......................................... 57

2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp. .............. 57

2.3.2. Hậu quả nợ đọng bảo hiểm xã hội ........................................................................... 65

Tiểu kết Chƣơng 2 ............................................................................................................. 67

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG

NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP

DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT ................................................................................... 68

3.1. Giải pháp hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp bằng

cách áp dụng các chế tài xử phạt ...................................................................................... 68

3.1.1. Đối với thủ tục hành chính ....................................................................................... 68

3.1.2. Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội .............................................................................. 69

3.1.3. Đối với các cơ quan liên quan .................................................................................. 75

3.1.4. Đối với người sử dụng lao động ............................................................................... 76

3.1.5. Đối với người lao động ............................................................................................. 77

3.2. Một số khuyến nghị ..................................................................................................... 78

3.2.1. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam ........................................................................... 78

3.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ........................................................... 79

3.2.3. Đối với các sở ngành có liên quan ........................................................................... 80

3.2.4. Đối với đại diện người lao động, người sử dụng lao động ..................................... 81

Tiểu kết Chƣơng 3 ............................................................................................................. 82

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 84

PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 89

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ viết đầy đủ

ASXH : An sinh xã hội

BHXH : Bảo hiểm xã hội

BHYT : Bảo hiểm y tế

BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp

DN : Doanh nghiệp

ILO : Tổ chức lao động quốc tế

ISSA : Hiệp hội An sinh xã hội quốc tế

NLĐ : Ngƣời lao động

NSDLĐ : Ngƣời sử dụng lao động

SDLĐ : Sử dụng lao động

TAND : Tòa án Nhân dân

3

TNLĐ & BNN : Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH

Sơ đồ 1.1: Chế tài xử phạt đối với ngƣời SDLĐ nợ tiền BHXH

Sơ đồ 1.2: Chế tài hình sự tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN

Bảng 2.1: Các thành phần kinh tế và số lao động của các doanh nghiệp tại quận

Thanh Xuân năm 2019

Bảng 2.2: Số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân năm 2019

Bảng 2.3: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH giai đoạn 2014-2019 của

BHXH quận Thanh Xuân

Bảng 2.4: Tổng số lƣợng lao động tham gia BHXH và tổng quỹ lƣơng trích nộp

BHXH tại BHXH quận Thanh Xuân (giai đoạn 2014-2019)

Bảng 2.5: Tốc độ tăng thu BHXH giai đoạn 2014-2019 tại BHXH Thanh Xuân

Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận

Thanh Xuân (giai đoạn 2014- 2019)

Bảng 2.7: Báo cáo nợ BHXH giai đoạn 2014- 2019 phân chia theo từng loại đơn

vị nợ của quận Thanh Xuân

Bảng 2.8: Báo cáo nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 của toàn thành phố Hà

Nội

Bảng 2.9: So sánh tình hình nợ đọng BHXH của quận Thanh Xuân với toàn thành

phố Hà Nội (giai đoạn 2014- 2019)

Bảng 2.10: Bảng tổng kết công tác điều tra năm 2018 và 2019

4

Hình 3.1: Quy định về hình thức phạt đối với doanh nghiệp nợ BHXH

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Con ngƣời muốn tồn tại và phát triển trƣớc hết phải ăn, mặc, ở… Để thỏa

mãn nhu cầu tối thiểu này, con ngƣời phải lao động làm ra những sản phẩm cần

thiết. Chính từ sự xuất hiện của lao động đã làm xuất hiện mối quan hệ giữa “ngƣời

lao động” và “ngƣời sử dụng lao động”. Thực tế ngƣời lao động có thể có đủ sức

khỏe, khả năng lao động, điều kiện tham gia làm việc, lao động để hoàn thành

nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm

no hạnh phúc. Ngƣợc lại, cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh nhƣ ốm đau,

tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hƣởng của tự nhiên, của

những điều kiện sống và sinh hoạt cũng nhƣ các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào

các trƣờng hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con ngƣời không vì thế mà mất đi.

Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Để khắc

phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài

việc tự mình khắc phục, ngƣời lao động phải đƣợc sự bảo trợ của cộng đồng và xã

hội. Bên cạnh việc ngƣời sử dụng lao động phải trả cho ngƣời lao động một khoản

tiền lƣơng hàng tháng thì họ còn cần phải chi trả một khoản tiền khi ngƣời lao động

ốm đau, tai nạn, qua đời... Nếu nhƣ ngƣời lao động không xảy ra vấn đề gì thì ngƣời

sử dụng lao động sẽ không phải bỏ ra chi phí gì nhƣng đôi khi lại xảy ra dồn dập

dẫn đến việc ngƣời sử dụng lao động phải mất một khoản tiền rất lớn.

Sự tƣơng trợ dần dần đƣợc mở rộng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác

nhau. Những yếu tố đoàn kết, hƣớng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và

công việc xã hội của các Nhà nƣớc dƣới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá

trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống

BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá

làm cho đội ngũ ngƣời làm công ăn lƣơng tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ

yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lƣơng trong các

trƣờng hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở

5

thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thƣờng của những ngƣời không có nguồn

thu nhập nào khác ngoài tiền lƣơng. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu

thiết yếu hàng ngày đã buộc những ngƣời làm công ăn lƣơng tìm cách khắc phục

bằng những hành động tƣơng thân, tƣơng ái (lập các quỹ tƣơng tế, các hội đoàn…);

đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nƣớc phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.

Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của

giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng

với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của ngƣời lao động ngày càng

đƣợc nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không

may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra

đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nhƣ những khó khăn mới đƣợc giải quyết

một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất

cho xã hội loài ngƣời trong quá trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH

là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần

thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết đƣợc BHXH. Vì vậy, BHXH đã

trở thành nhu cầu và quyền lợi của ngƣời lao động và đƣợc thừa nhận là một nhu

cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con ngƣời.

BHXH thuộc lĩnh vực phân phối lại, là một bộ phận trong hệ thống tài chính

của một quốc gia. BHXH là một chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã

hội của tất cả các nƣớc trên thế giới, vì nó liên quan trực tiếp đến con ngƣời và sự

an toàn xã hội của m i quốc gia. Ở nƣớc ta, BHXH là một trụ cột chính của hệ

thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn

định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với công cuộc đổi mới

đang diễn ra trên khắp các lĩnh vực, chính sách BHXH cũng từng bƣớc đƣợc sửa

đổi để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu

cơ sở lý luận và thực tiễn về BHXH là một vấn đề cấp bách và cơ bản không những

của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn cả những ngƣời lao động với tƣ

cách vừa là đối tƣợng, vừa là chủ thể của chính sách BHXH.

Chính sách BHXH đang là một vấn đề bức thiết trong điều kiện phát triển

6

nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Trong xã hội, sự phân hóa giàu nghèo đang có sự

chênh lệch khá lớn, do đó, ngƣời lao động cần có sự tƣơng trợ của cộng đồng, phát

huy vai trò của cộng đồng để giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống do các rủi

ro mang lại. Với nhu cầu này, chính sách bảo hiểm xã hội hƣớng tới mục tiêu vì

cuộc sống tốt đẹp của con ngƣời và văn minh của toàn xã hội.

Quận Thanh Xuân là quận nội thành của Thủ đô có nhiều điều kiện thuận lợi

để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Là một trong những quận có số dân

đông và địa bàn thuận lợi cho việc giao lực, phát triển kinh tế của thành phố Hà

Nội, Thanh Xuân là quận đƣợc nhiều doanh nghiệp lựa chọn tọa lạc. Trên địa bàn

quận Thanh Xuân hiện tập trung nhiều doanh nghiệp, đa số là những doanh nghiệp

có quy mô nhỏ, thuộc khối xây dựng, thi công cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng... trƣớc

tình hình khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tỷ lệ nợ BHXH đã diễn ra thƣờng

xuyên và ở mức cao. Việc nợ BHXH gần nhƣ xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp,

từ doanh nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ. Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm

nộp diễn ra gần nhƣ trong suốt quá trình kinh doanh. BHXH quận Thanh Xuân cũng

đã thực thi những biện pháp nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội nhƣng tình

trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp vẫn chƣa chấm dứt. Trong thời gian

vừa qua tình trạng các doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn nhiều, gây ảnh hƣởng

không nhỏ tới quyền lợi của ngƣời lao động, gây ra những hậu quả trực tiếp tới

ngƣời lao động và ảnh hƣởng tới quỹ BHXH. Nợ đọng BHXH tại BHXH quận

Thanh Xuân là một vấn đề khó xử lý, nan giải của các nhà quản lý. Thực tế, đã có

chế tài luật hình sự quy định về tội trốn đóng, chậm đóng BHXH cho ngƣời lao

động (Điều 216 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 đã đƣợc sửa

đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017) tuy

nhiên, trên thực tế, rất ít thậm chí là chƣa có doanh nghiệp nào bị xử lý hình sự.

Xuất phát từ nhu cầu thực tế, qua nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn

công tác, học viên lựa chọn đề tài: “Hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của

các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt (Nghiên cứu trƣờng hợp

7

các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội)” làm luận văn.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Liên quan đến nội dung bảo hiểm xã hội và cơ chế, chính sách đối với hệ

thống bảo hiểm xã hội, hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các đơn vị hiện nay,

tôi xin tổng quan một số công trình nghiên cứu nhƣ sau:

Đức là quốc gia đầu tiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH). Năm

1881, Thủ tƣớng Đức Otto Von Bismarck (1815-1898) đã đề xƣớng thiết kế chính

sách BHXH bắt buộc trên cơ sở các tổ chức tự phát của ngƣời lao động hoạt động

tƣơng trợ lẫn nhau. Văn bản pháp lý đầu tiên là Luật Bảo hiểm Y tế (1883), tiếp

theo là Luật Bảo hiểm tai nạn lao động (1884) và Luật Bảo hiểm hƣu trí (1889).

Mặc dù tỷ lệ hƣởng chỉ ở mức thấp, bằng khoảng 30-40% lƣơng, nhƣng lần đầu tiên

chế độ BHXH đƣợc áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sau ảnh hƣởng

của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ I (1914-1918), khi nhiều lao động mất việc làm,

tình trạng thất nghiệp nhiều, nhà nƣớc mới lần đầu áp dụng đánh giá gia cảnh để h

trợ thất nghiệp, kết quả là năm 1927, Luật Bảo hiểm thất nghiệp ra đời, dựa trên sự

kết hợp các dịch vụ hƣớng nghiệp, sắp xếp việc làm và trả một phần nhỏ bảo hiểm

thất nghiệp.

Mặc dù nhà nƣớc ban hành các quyết định cơ bản nhƣng các quy tắc bổ sung

lại do các tổ chức BHXH thông qua đại diện của ngƣời lao động, các tổ chức sử

dụng lao động và các đại biểu quốc gia tự phổ cập và quản lý. Kế hoạch triển khai

sẽ do các cá nhân, tổ chức, đơn vị đóng góp có liên quan, các thành viên là công

nhân và ngƣời lao động có đủ điều kiện hƣởng lợi. Nguyên tắc cơ bản là "phát huy

công bằng xã hội", nghĩa là chính sách bảo hiểm dựa vào sự tƣơng ứng quyền lợi

bảo hiểm và quá trình đóng góp, và nguyên tắc này, sau đó đã trở thành một trong

những nguyên tắc cơ bản của Đức "mô hình nhà nước xã hội".

Mô hình Nhà nƣớc phúc lợi của Lord Beveridge của Anh là mô hình ASXH

tiêu biểu có cách tiếp cận khác đƣợc phát triển ở Anh vào năm 1942 trong Chiến

tranh Thế giới thứ II với tên gọi là Báo cáo Beveridge. William Beveridge, một nhà

lãnh đạo Ủy ban cải cách ASXH của Anh có nhiệm vụ cải cách hệ thống ASXH còn

8

nhiều khiếm khuyết, thiếu hụt ở Anh. Bản báo cáo này không chỉ tham vọng có thể

giảm nghèo mà còn áp dụng nhằm cải cách và tái cấu trúc hệ thống ASXH, với

nguyên tắc cải cách hệ thống bao gồm: thống nhất, phổ cập và toàn diện (Liam

Byrne, 2012).

Thống nhất bao gồm hợp nhất các chi nhánh/tổ chức BHXH đang hoạt động

thành một tổ chức tập trung trong tay Nhà nƣớc. Mọi đóng góp phải đƣợc thanh

toán vào một quỹ xã hội duy nhất và tất cả các lợi ích phải đƣợc thanh toán từ quỹ

này. Theo nguyên tắc thống nhất này, Nhà nƣớc phải thực hiện chính sách bảo hiểm

cho tất cả các rủi ro xã hội (không chỉ cho ngƣời lao động nhƣ trong trƣờng phái

của Bismarck) đối với tất cả các thành viên của xã hội. Phổ cập đƣợc hiểu là mức

độ các lợi ích xã hội đƣợc đảm bảo để chống lại mọi rủi ro, nhƣng chỉ trên mức vừa

đủ, nhằm kích thích n lực cá nhân bổ sung thêm từ các nguồn khác. Toàn diện

đƣợc hiểu là hệ thống BHXH cần đƣợc áp dụng rộng rãi đối với mọi ngƣời dân

Anh, giúp đáp ứng các nhu cầu của họ và họ đƣợc tự do đóng góp bảo hiểm ở mức

độ tối thiểu (xã hội chấp nhận) nhƣng không bị giới hạn về thời gian hƣởng và

không phải tƣơng ứng với mức đóng góp cũng nhƣ mức thu nhập của cá nhân.

Đề xuất cải cách của Beveridge đã đƣợc chấp thuận và trở thành một trong

những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm 1946, thực hiện chức năng

phòng ngừa các rủi ro về thất nghiệp, bệnh tật hoặc tuổi già, làm mất thu nhập tạm

thời hoặc vĩnh viễn. Mặc dù ý tƣởng về một hệ thống "bảo hiểm quốc gia" cho toàn

dân là rất hấp dẫn, tuy nhiên trong thực tiễn không thực sự hiệu quả, do sự quản lý

tập trung của Nhà nƣớc về BHXH khiến cho hệ thống này bị phụ thuộc và dễ bị tổn

thƣơng do các quyết định chính trị của Chính phủ. Hơn nữa, quyền lợi bảo hiểm

nhƣ nhau, đòi hỏi mức phúc lợi phải thấp để không vƣợt quá mức tiền lƣơng thấp

nhất và thƣờng quá thấp để h trợ gia đình.

Ý tƣởng của William Henry Beveridge là ASXH phải bao phủ toàn dân, phải

bao phủ các rủi ro và phải đƣợc sự h trợ của Nhà nƣớc, nền tảng cho khái niệm

Nhà nước phúc lợi mà các nƣớc xã hội chủ nghĩa mong muốn. Ngƣợc lại với

Beveridge, mục tiêu của Bismarck cho rằng BHXH chỉ bao phủ những ngƣời lao

9

động chính thức, có khả năng tham gia vào hệ thống bắt buộc đối với những rủi ro

đã đƣợc xác định rõ. Nói cách khác, mô hình Nhà nước xã hội của Bismarckian

không thực sự nhằm vào ngƣời nghèo, mà hƣớng tới tầng lớp trung lƣu và nhân

viên văn phòng với số lƣợng ngày càng tăng trong xã hội.

Mô hình sàn an sinh xã hội (ILO 2012) đƣợc triển khai năm 2009 theo sáng

kiến của Liên hiệp quốc với mục đích đảm bảo cho mọi ngƣời dân có mức thu nhập

tối thiểu và tiếp cận đƣợc các dịch vụ xã hội thiết yếu, nhằm bảo đảm các quyền cơ

bản của con ngƣời đƣợc quốc tế và quốc gia thừa nhận, vì mục tiêu giảm nghèo,

đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững. Theo mô hình này hệ thống an sinh

xã hội có ba tầng cơ bản nhƣ sau. Tầng thứ nhất là bảo đảm y tế tối thiểu (chăm sóc

sức khỏe cơ bản và tham gia bảo hiểm y tế); Tầng thứ hai là thu nhập tối thiểu cho

ngƣời nghèo, ngƣời thất nghiệp, ngƣời già và trẻ em và các đối tƣợng đặc biệt khác;

Tầng thứ ba là bảo hiểm xã hội tự nguyện cho một số đối tƣợng nhất định. Nguồn

tài chính của tầng an sinh xã hội thứ nhất do nhà nƣớc đảm bảo là chính thông qua

nguồn thu từ thuế; Bảo hiểm xã hội bắt buộc và các hình thức an sinh khác có đóng

góp của ngƣời dân (hƣớng tới mọi đối tƣợng). Nguồn tài chính của tầng hai do

doanh nghiệp và ngƣời lao động đóng góp là chính, nhà nƣớc có thể h trợ một

phần cho một số đối tƣợng. Nguồn tài chính của tầng ba do doanh nghiệp và ngƣời

lao động đóng góp, nhà nƣớc h trợ thông qua chính sách thuế thu nhập (Nguyễn

Thị Lan Hƣơng và cộng sự 2010).

“Report on International social security (Báo cáo An sinh xã hội thế giới

2014/2015)” của ILO đã khẳng định các chính sách ASXH đóng một vai trò thiết

yếu trong việc thực hiện các quyền được BHXH cho mọi người, giảm đói nghèo –

bất bình đẳng và thúc đẩy tăng trưởng toàn diện. Bởi vì, các chính sách ASXH thúc

đẩy tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất, thúc đẩy nhu cầu

trong nước và tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế của các quốc gia. Tuy

nhiên, các quyền cơ bản của tất cả mọi ngƣời về an sinh xã hội vẫn còn là một

khoảng cách xa với thực tế đối với một bộ phận lớn dân số thế giới, mặc dù sự cần

thiết về đảm bảo ASXH đã đƣợc công nhận rộng rãi. Chỉ có 27% dân số thế giới có

10

thể tiếp cận đƣợc hệ thống bảo hiểm xã hội một cách toàn diện, trong khi 73% chỉ

hƣởng một phần bảo hiểm xã hội hoặc không đƣợc hƣởng.

Báo cáo “Dự báo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội và các khuyến nghị pháp lý”

do ILO thực hiện tại Việt Nam là một báo cáo nhấn mạnh đến sự bền vững về khía

cạnh tài chính của Quỹ bảo hiểm xã hội. Theo nghiên cứu này, hiện nay, chính sách

bảo hiểm xã hội đã bao phủ khoảng 20% lực lƣợng lao động ở Việt Nam. Nghiên

cứu cũng chỉ ra những rủi ro của Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam: tuổi nghỉ hƣu

sớm trong khi Việt Nam đang bƣớc vào giai đoạn già hóa, chế độ chi trả hào phóng,

chỉ có 47% doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động (năm 2010).

Nghiên cứu cũng dự báo rằng, nếu không thay đổi chính sách, đến năm 2021, Quỹ

Bảo hiểm xã hội sẽ bắt đầu thâm hụt và cạn kiệt vào năm 2034. Từ đó, nghiên cứu

cũng đề xuất các giải pháp: tăng tuổi về hƣu, tính lại công thức đóng và hƣởng, thay

đổi cách thức đầu tƣ sinh lời của nguồn quỹ, tăng cƣờng việc tham gia bảo hiểm xã

hội của ngƣời lao động có đủ điều kiện….

Đề án khoa học: “Xây dựng quy định quản lý thu nợ BHXH, BHYT, BHTN”,

Chủ nhiệm, Thạc sĩ Trần Đình Liệu, Trƣởng Ban Thu - BHXH Việt Nam.

Đề án đã nghiên cứu và đánh giá tình hình nợ BHXH, BHYT của các đơn vị

sử dụng lao động tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nƣớc và công tác quản lý thu nợ

BHXH, BHYT trong thời gian 03 năm 2010-2012. Xác định những nguyên nhân

khách quan, chủ quan đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý có hiệu quả nhằm

chống thất thu, ngăn ngừa tình trạng chiếm dụng tiền đóng và giảm nợ đọng BHXH,

BHYT nhƣ:

- Hoàn thiện Luật BHXH và các văn bản hƣớng dẫn có liên quan, giao thẩm

quyền thanh tra về thu BHXH, BHYT cho cơ quan BHXH.

- Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa

phƣơng, sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc ở địa phƣơng trong công

tác thu hồi nợ đọng BHXH, BHYT.

- Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông

tin trong công tác thu BHXH, BHYT...

11

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo

hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”, mã số CT 2007- 01- 02,

chủ nhiệm đề tài: TS Phạm Đ Nhật Tân.

Đề tài làm rõ cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận các yếu tố tác động đến thu,

chi và tăng trƣởng quỹ BHXH; đánh giá thực trạng quỹ BHXH và khả năng cân đối

của quỹ trong dài hạn thông qua việc phân tích các tác động từ những quy định mới

về chế độ, chính sách BHXH theo Luật BHXH và những tác động mới của việc

điều chỉnh tiền lƣơng, tiền công của Nhà nƣớc; Làm rõ vai trò, trách nhiệm của các

cơ quan quản lý Nhà nƣớc trong việc giám sát quản lý hoạt động thu, chi và sử dụng

quỹ BHXH; đề xuất các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ BHXH khi thực hiện Luật

BHXH.

Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng: đề cập đến quản lý thu, chi và

tăng trƣởng quỹ cho nên đề tài chƣa đề cập sâu đến một số vấn đề liên quan đến

hoạt động thu BHXH nhƣ: Sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống thu

BHXH; các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu BHXH.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống

chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”, mã số: KX.02.02/06-10, Chủ nhiệm đề tài,

GS.TS Mai Ngọc Cƣờng.

Trên cơ sở tổng quan về những công trình nghiên cứu, đồng thời xuất phát từ

nghiên cứu kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới và khu vực trong việc xây

dựng hệ thống chính sách An sinh xã hội, đề tài làm rõ những vấn đề cơ bản về an

sinh xã hội và hệ thống chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trƣờng;

Đề tài đánh giá thực trạng của hệ thống an sinh xã hội và việc thực hiện

chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những thành tựu,

hạn chế, những thuận lợi và khó khăn, những thách thức đặt ra đối với hệ thống

chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay;

Phân tích xu hƣớng đổi mới hệ thống an sinh xã hội và hệ thống chính sách

an sinh xã hội của thế giới và những chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về việc

xây dựng hệ thống an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội trong những năm tới

12

để làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với các vấn đề an sinh xã hội Việt Nam, đề xuất các

giải pháp xây dựng hệ thống tổng thể quốc gia về an sinh xã hội ở Việt Nam trong

giai đoạn 2006-2015;

Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng cho nên đề tài chƣa đề cập sâu đến

hoạt động thu BHXH nhƣ: Các bộ phận trong hệ thống thu BHXH; các tiêu chí, chỉ

tiêu đánh giá quản lý thu bảo hiểm xã hội.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Luận văn đƣa ra giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng

nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên

cứu sau đây:

- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, chế tài xử

phạt nợ đọng BHXH đối với doanh nghiệp.

- Phân tích thực trạng thực thi các chế tài xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh

nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

- Đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh

nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.

4. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội

của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu lấy dữ liệu, số liệu giai đoạn từ năm

2014 đến năm 2019.

Phạm vi nội dung: Nội dung nghiên cứu của luận văn tập trung vào tìm ra

nguyên nhân từ việc thực thi các chế tài xử phạt nhƣng vẫn dẫn đến nợ đọng BHXH

của các doanh nghiệp, từ đó đƣa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng

BHXH của các doanh nghiệp.

5. Câu hỏi nghiên cứu

13

5.1. Câu hỏi chủ đạo

Cần tiến hành giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt nhƣ thế nào nhằm hạn

chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp?

5.2. Các câu hỏi cụ thể

- Quận Thanh Xuân đã thực thi các hình thức xử phạt nhằm giảm tình trạng nợ

đọng BHXH của các doanh nghiệp nhƣng vẫn chƣa chấm dứt?

- Áp dụng các chế tài xử phạt nhƣ thế nào để hạn chế tình trạng nợ đọng

BHXH của các doanh nghiệp?

6. Giả thuyết nghiên cứu

6.1. Luận điểm chủ đạo

Để hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp, cần

tiến hành giải pháp áp dụng các chế tài xử phạt phân ra thành nhóm đối với thủ tục

hành chính, đối với cơ quan BHXH, đối với trách nhiệm của các bên liên quan, đối

với ngƣời sử dụng lao động.

6.2. Luận điểm cụ thể

- BHXH quận Thanh Xuân đã áp dụng một số biện pháp đối với các doanh

nghiệp nợ đọng BHXH nhƣ: thực hiện tính lãi chậm đóng, thực hiện việc đôn đốc

thu nợ, thực hiện việc thanh tra, kiểm tra giám sát nhƣng tình trạng nợ đọng BHXH

của các doanh nghiệp vẫn chƣa chấm dứt do vƣớng mắc trong việc thực hiện các

chế tài xử phạt, áp dụng các chế tài xử phạt chƣa đủ mạnh.

- Áp dụng chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội

của các doanh nghiệp thông qua xử lý hình sự.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu tài liệu: Các tài liệu liên quan đến BHXH, thực trạng nợ đọng

BHXH, áp dụng các chế tài xử phạt nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của

các doanh nghiệp.

Cụ thể: Tác giả đã nghiên cứu Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã

hội, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Báo bảo hiểm xã hội, các bài viết liên quan đến Bảo

hiểm xã hội và nợ đọng BHXH, Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017, các

14

báo cáo tài chính của BHXH quận Thanh Xuân từ năm 2014 đến năm 2019, báo cáo

tình hình nợ BHXH, BHYT, BHTN từ năm 2014 đến năm 2019 của BHXH thành

phố Hà Nội.

- Tổng hợp phân tích số liệu, xử lý thông tin: Phân tích số liệu nợ đọng BHXH

của các doanh nghiệp.

- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 8 ngƣời,

bao gồm: 2 cán bộ BHXH thành phố Hà Nội, 2 cán bộ BHXH quận Thanh Xuân, 2

chủ doanh nghiệp nợ đóng BHXH, và 2 ngƣời lao động.

8. Luận cứ

8.1. Luận cứ lý thuyết

Các khái niệm: bảo hiểm xã hội là gì?, Nợ đọng BHXH là gì?, Doanh nghiệp

là gì? Chế tài xử phạt nợ đọng BHXH là gì?

8.2. Luận cứ thực tế

Áp dụng nghiêm minh các chế tài xử phạt đối với các doanh nghiệp nợ đọng

BHXH giúp nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về chính sách BHXH, từ đó

hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp.

9. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn

đƣợc kết cấu gồm 03 chƣơng nhƣ sau:

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, và chế

tài xử phạt.

Chƣơng 2. Thực trạng thực thi chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội của

các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Chƣơng 3. Giải pháp và một số khuyến nghị hạn chế tình trạng nợ đọng bảo

15

hiểm xã hội của các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI,

NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ TÀI XỬ PHẠT

1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của bảo hiểm xã hội

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội

Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức đƣợc sử dụng làm tiêu

đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật đƣợc

thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế

giới thứ hai, thuật ngữ này đƣợc dùng trong Hiến chƣơng Đại Tây Dƣơng (the

Atlantic Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhanh chóng chấp nhận

thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ

này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhƣng phản ánh đƣợc nguyện vọng sâu sắc

nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới. [41]

Thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” đƣợc hiểu không giống nhau giữa các nƣớc về

mức độ phạm vi rộng hẹp của nó. Tuy nhiên, về cơ bản thì thuật ngữ này được hiểu

với nghĩa là sự bảo đảm an toàn của xã hội dành cho thành viên của nó thông qua

các quy trình của hệ thống công cộng, nhằm giải toả những lo âu về kinh tế và xã

hội cho thành viên. Nói cách khác, nó góp phần giúp các thành viên trong xã hội và

gia đình khắc phục sự suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thực tế do ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, và tử tuất; đồng thời

cung cấp về dịch vụ y tế, trợ cấp gia đình có con nhỏ.

Theo D. Pieters bảo hiểm xã hội đƣợc hiểu với tƣ cách là một tổ chức đƣợc

hình thành với mục đích h tƣơng giữa ngƣời với ngƣời để đối phó với sự thiếu hụt

thu nhập (chẳng hạn nhƣ thu nhập từ tiền công lao động), hoặc những tổn thất cụ

thể khác. [41]

Sinfield thì đề nghị BHXH nên đƣợc định nghĩa là một cơ chế bảo đảm an

16

toàn toàn diện cho con ngƣời chống lại sự mất mát về vật chất. Quan điểm của

Berghman cũng tƣơng tự nhƣ thế, Berghman quan niệm rằng BHXH là một cơ chế

bảo hộ toàn diện cho con ngƣời chống lại những tổn thất vật chất.

Theo Giancarlo Perone bảo hiểm xã hội là một hệ thống bao gồm những lợi

ích và dịch vụ cung cấp cho công dân khi cần thiết, bất kể công dân đó làm công

việc gì. [41]

Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH, tuỳ theo góc độ nghiên

cứu, cách tiếp cận mà ngƣời ta đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Có thể xác định

khái niệm BHXH nhƣ sau:

Dƣới góc độ kinh tế: bảo hiểm xã hội không trực tiếp chữa bệnh khi ngƣời

lao động ốm đau, tai nạn hay sắp xếp công việc mới cho họ khi họ mất việc làm mà

chỉ giúp đỡ họ có một phần thu nhập khi ngƣời lao động bị giảm hoặc mất khả năng

lao động.

Dƣới góc độ pháp lý, Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ ngƣời lao

động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và

đƣợc sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nƣớc nhằm trợ cấp vật chất cho ngƣời đƣợc bảo

hiểm trong trƣờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao

động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đƣa ra quan niệm: BHXH là sự bảo vệ của

xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng

để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu

nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp

chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. [42]

Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ban hành ngày

20/11/2014 đã có quy định về khái niệm bảo hiểm xã hội nhƣ sau: Bảo hiểm xã

hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của ngƣời lao động khi

họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. [27]

Cần phân biệt bảo hiểm xã hội với một số khái niệm có nội dung gần với nó

17

nhƣ: bảo hiểm thƣơng mại, an sinh xã hội, cứu tế xã hội v.v. . . .Khái niệm an sinh

xã hội có phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm xã hội, những chế định cơ bản của hệ

thống an toàn xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, trợ cấp gia đình, trợ

cấp do các quỹ công cộng tài trợ, quỹ dự phòng và sự bảo vệ đƣợc giới chủ và các

tổ chức xã hội cung cấp. Còn bảo hiểm thƣơng mại chủ yếu mang tính chất tự

nguyện, quan hệ bảo hiểm xuất hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, phạm vi đối

tƣợng tham gia bảo hiểm nhà nƣớc rộng hơn so với bảo hiểm xã hội (gồm mọi cá

nhân, tổ chức), mức hƣởng bảo hiểm đƣợc đề xuất trên cơ sở mức tham gia bảo

hiểm và hậu quả xảy ra.

Nhƣ vậy, có thể khái quát về khái niệm bảo hiểm xã hội nhƣ sau:

Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối

với ngƣời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao

động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm

đảm bảo đời sống cho ngƣời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã

hội.

1.1.2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội

BHXH là một hệ thống đa dạng và phức tạp với những nội dung khác nhau.

Tuy nhiên, có thể tập trung vào 4 nhóm nội dung cơ bản sau [31]:

1.1.2.1. Đối tượng BHXH

Đối tƣợng tham gia BHXH là ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và

Nhà nƣớc trong một số trƣờng hợp. Đối tƣợng của BHXH là thu nhập của ngƣời lao

động. Mục đích của BHXH góp phần cân bằng thu nhập cho ngƣời lao động khi họ

bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng

lao động không đƣợc sử dụng.

Mục đích, bảo đảm của BHXH là ngƣời lao động và gia đình họ theo quy

định của pháp luật BHXH.

1.1.2.2. Các chế độ BHXH

Chế độ BHXH là những quy định về mức hƣởng, điều kiện hƣởng, và thời

hạn hƣởng cho ngƣời lao động. Tùy theo quan điểm tiếp cận của m i quốc gia sẽ

18

quy định các chế độ BHXH khác nhau. Việt Nam quy định có 5 chế độ: chế độ trợ

cấp cho những trƣờng hợp bị ốm đau (gọi tắt là chế độ ốm đau); chế độ BHXH cho

lao động nữ khi sinh con (gọi tắt là chế độ thai sản); chế độ trợ cấp BHXH cho

ngƣời lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (gọi tắt là chế độ TNLĐ &

BNN); chế độ chôn cất và trợ cấp mất ngƣời nuôi dƣỡng (gọi tắt là chế độ tử tuất);

chế độ bảo hiểm tuổi già (gọi tắt là chế độ hƣu trí).

Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể

hiện đƣợc vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với ngƣời lao động khi họ

tham gia BHXH.

Trợ cấp BHXH là khoản tiền từ quỹ BHXH đƣợc bên BHXH (cơ quan

BHXH) chi trả cho mọi ngƣời khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập, mất khả năng lao

động hoặc mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định.

1.1.2.3. Quỹ BHXH

Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia

BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, đƣợc

sử dụng để chi trả cho những ngƣời đƣợc BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc

mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm hoặc bị chết.

Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, dự phòng; vừa mang tính kinh tế, vừa

mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo

cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.

Quỹ BHXH tạo ra khả năng giải quyết những “rủi ro xã hội” cho những

ngƣời tham gia BHXH, giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho ngƣời sử dụng lao

động, tiết kiệm chi phí cho cả ngân sách Nhà nƣớc và ngân sách gia đình.

Quỹ BHXH đƣợc hình thành từ các nguồn: (i) Nguồn đóng góp của ngƣời sử

dụng lao động, ngƣời lao động và Nhà nƣớc, đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất

của quỹ. (ii) Từ nguồn tăng thêm do bộ phận nhàn r i tƣơng đối của quỹ đƣợc tổ

chức BHXH chuyên trách đƣa vào hoạt động sinh lợi. (iii) Nộp phạt của những cá

nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Ngoài các nguồn trên, quỹ còn

19

có các nguồn thu hợp pháp khác đƣợc pháp luật của m i nƣớc quy định.

Quỹ BHXH sử dụng để chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH (khoản chi này

chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp (tiền

lƣơng, đào tạo…) và chi bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý

khác.

1.1.2.4. Tổ chức quản lý BHXH

Quản lý BHXH chung nhất, đƣợc hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào

đối tƣợng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt đƣợc mục

tiêu đề ra với những nguyên tắc và phƣơng pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản

lý chung của nền kinh tế.

Quản lý BHXH cho thấy phƣơng thức quản lý BHXH và các cơ quan chức

năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao gồm quản lý Nhà nƣớc về BHXH và quản lý

hoạt động sự nghiệp BHXH).

Do điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị của m i nƣớc khác nhau nên hệ

thống BHXH của các nƣớc đƣợc xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình

tổ chức BHXH chung cho tất cả các nƣớc. Có một số nƣớc giao cho một cơ quan

Chính phủ đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nƣớc về BHXH và tổ chức thực

hiện các nghiệp vụ BHXH. Đa số các nƣớc hoạt động sự nghiệp BHXH (quản lý

quỹ, quản lý đối tƣợng, thực hiện thu – chi BHXH) đƣợc giao cho cơ quan BHXH

độc lập đảm nhận dƣới sự điều hành của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản lý.

Tuy nhiên, dù có tổ chức thế nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý

Nhà nƣớc về BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH.

Quản lý Nhà nước về BHXH:

Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nƣớc về BHXH bao gồm:

 Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc gia:

Các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt động BHXH. Việc quản

lý thống nhất là chỉ có Nhà nƣớc mới ban hành luật pháp, chính sách định hƣớng

hoạt động của hệ thống BHXH. Nhà nƣớc định ra các chế độ BHXH, các nội dung

cơ bản của BHXH; các chính sách BHXH đối với các nhóm đối tƣợng cụ thể, phù

20

hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nƣớc trong từng giai đoạn phát triển.

 Xây dựng pháp luật BHXH:

Nhà nƣớc, thông qua các cơ quan chức năng của mình (tùy theo mô hình

quản lý Nhà nƣớc của m i nƣớc) xây dựng các văn bản pháp luật về BHXH bao

gồm các đạo luật, các luật, các văn bản pháp quy (Nghị định, quyết định…) và các

văn bản dƣới luật để thực hiện pháp luật BHXH.

 Định hƣớng các hoạt động BHXH:

Với chức năng của mình, Nhà nƣớc đề ra các chính sách BHXH nhằm định

hƣớng cho các hoạt động BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội

của đất nƣớc trong từng thời kỳ, bao gồm:

Không phải ngay một lúc, một thời điểm nội dung các chế độ đã đƣợc xây

dựng đầy đủ mà tuỳ từng thời kỳ, các nội dung này đƣợc bổ sung dần dần. Tuy

nhiên, bổ sung, sửa đổi nhƣ thế nào phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố kinh tế – xã

hội và có thời kỳ cả yếu tố chính trị nữa. Ở một số nƣớc ban đầu chỉ xây dựng một

vài chế độ (chủ yếu là hƣu trí và ốm đau) sau đó mới mở rộng dần các chế độ

BHXH khác. Việc mở rộng đối tƣợng, mở rộng nội dung chế độ BHXH và cơ chế

thực hiện BHXH là do Nhà nƣớc quy định. Ngoài ra, Nhà nƣớc còn định hƣớng về

mô hình tổ chức hệ thống BHXH. Có những nƣớc, ngoài hệ thống BHXH chính

thống của Nhà nƣớc còn có hệ thống BHXH của tƣ nhân, hệ thống BHXH của một

số ngành…

Để hoạt động này có hiệu quả, phục vụ cho các đối tƣợng thụ hƣởng BHXH

và góp phần lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, Nhà nƣớc ra những quy định về

mức đóng, mức hƣởng BHXH; quy định trách nhiệm của các bên khi tham gia

BHXH; quy định các chế độ và quản lý quỹ BHXH; quy định về kiểm tra, kiểm

toán… Ngoài ra, với vai trò là ngƣời quản lý xã hội, Nhà nƣớc định hƣớng đầu tƣ

để tăng trƣởng quỹ BHXH (đầu tƣ vào những lĩnh vực nào, đầu tƣ nhƣ thế nào…).

Mặc dù ở nhiều nƣớc, hoạt động đầu tƣ quỹ BHXH do Hội đồng quản trị quyết

định, nhƣng Nhà nƣớc vẫn giữ vai trò định hƣớng để đảm bảo an toàn cho quỹ

BHXH.

21

Quản lý tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH.

Quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH là việc quản lý các hoạt động thu- chi

BHXH, quản lý đối tƣợng tham gia BHXH, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các

hoạt động thanh tra, kiểm tra của BHXH Việt Nam.

Thông qua bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của m i nƣớc,

các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của các doanh

nghiệp và ngƣời lao động (còn gọi là phí BHXH) và triển khai chi trả các trợ cấp

cho ngƣời thụ hƣởng BHXH và các chi phí quản lý khác.

Thực hiện các nghiệp vụ kế toán – tài chính BHXH theo chính sách tài chính

của m i nƣớc.

Hoạt động BHXH có hai nhóm đối tƣợng đó là nhóm đối tƣợng tham gia

BHXH và nhóm đối tƣợng thụ hƣởng BHXH. Nhóm đối tƣợng tham gia BHXH bao

gồm các doanh nghiệp và ngƣời lao động. Khi tham gia BHXH, doanh nghiệp

(ngƣời sử dụng lao động) và ngƣời lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy, để

đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc đƣợc số

lƣợng các đơn vị tham gia BHXH, những di biến động trên từng địa bàn và trong

toàn quốc. Đồng thời, cũng phải có đƣợc những thông tin đầy đủ về ngƣời lao động

để xác định đƣợc nguồn thu và dự báo đƣợc các khoản chi trong tƣơng lai.

Nhóm đối tƣợng thụ hƣởng BHXH bao gồm ngƣời lao động và gia đình họ

(theo quy định của từng nƣớc). Cơ quan BHXH cũng phải có đầy đủ các thông tin

về ngƣời lao động khi thụ hƣởng BHXH để chi đúng, chi đủ cho đối tƣợng và hạn

chế những sự lạm dụng BHXH.

Để quản lý tốt đối tƣợng các cơ quan BHXH có các công cụ quản lý đó là sổ

và mã số BHXH. Trong đó có ghi chép (đƣợc mã hóa) các thông tin cần thiết về đối

tƣợng, đặc biệt là đối tƣợng thụ hƣởng BHXH. Hiện nay, các nƣớc đã ứng dụng

công nghệ tin học hiện đại để quản lý đối tƣợng tham gia và thụ hƣởng BHXH.

Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý công tác thu BHXH và quản lý công

tác chi BHXH, nhằm đảm bảo cho quỹ đƣợc an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ;

chi đúng, chi đủ cho đối tƣợng thụ hƣởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ

22

BHXH.

Xây dựng chiến lƣợc tăng trƣởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu

tƣ.

Tham gia vào thị trƣờng tài chính của quốc gia. Đây là một trong những chức

năng quan trọng của cơ quan BHXH. Bởi lẽ các quá trình thu và chi BHXH không

diễn ra song trùng và thông thƣờng sự tồn tích của quỹ BHXH rất lớn. Nếu đƣợc

Nhà nƣớc điều tiết thông qua các chính sách và công cụ tài chính, quỹ BHXH sẽ

góp phần rất lớn vào việc ổn định nền tài chính quốc gia.

Tuỳ mô hình của từng nƣớc mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH có

khác nhau. Với những nƣớc trao quyền tự chủ cao cho Hội đồng quản trị BHXH thì

trong hệ thống sự nghiệp BHXH chức năng thanh tra, kiểm tra rất quan trọng. Đối

với những nƣớc có quản lý Nhà nƣớc về BHXH riêng thì chức năng thanh tra, kiểm

tra hoạt động BHXH của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc rất lớn. Tuy nhiên, trong hệ

thống BHXH vẫn có chức năng thanh tra kiểm tra của mình nhằm đảm bảo các hoạt

động BHXH đúng với các quy định của pháp luật.

Song song với việc hoạch định chính sách BHXH, Nhà nƣớc tổ chức các

hoạt động sự nghiệp BHXH. Để các hoạt động này đúng định hƣớng, với chức năng

của mình, Nhà nƣớc thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp

BHXH theo quy định của pháp luật, xử lý các khiếu kiện, các tranh chấp về BHXH

theo luật định.

Trong hoạt động BHXH có các bên liên quan nhƣ ngƣời lao động, ngƣời sử

dụng lao động với những lợi ích khác nhau và vì vậy thƣờng có những sự lạm dụng,

lợi dụng pháp luật BHXH để trục lợi cho mình. Mặt khác, chính sách BHXH là

chính sách phát triển và phức tạp nên trong quá trình thực hiện cả ngƣời lao động,

ngƣời sử dụng lao động và cơ quan BHXH khó tránh khỏi những sai sót. Do đó,

thanh tra, kiểm tra các hoạt động BHXH là cần thiết nhằm đảm bảo cho các bên liên

quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời đảm bảo quyền

23

lợi hợp pháp của họ.

Nhà nƣớc luôn luôn bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH, nhằm đảm

bảo cho BHXH không bị ảnh hƣởng trƣớc những biến động về kinh tế và xã hội,

đặc biệt là những biến động về tài chính.

1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội

Vai trò của BHXH đối với người lao động:

BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Khi tham gia

BHXH, NLĐ phải trích một khoản phí nộp vào quỹ BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh

nhƣ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải

ngừng làm việc tạm thời. Do vậy, thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế

lâm vào tình cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách BHXH mà họ đƣợc nhận

một khoản tiền trợ cấp để bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm bảo

ổn định thu nhập, ổn định đời sống. Đồng thời BHXH cũng sẽ tạo đƣợc tâm lý an

tâm, tin tƣởng.

Vai trò của BHXH đối với xã hội:

Tăng cƣờng mối quan hệ giữa Nhà nƣớc, ngƣời SDLĐ và NLĐ là mối quan

hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro chỉ có đƣợc trong quan hệ

của BHXH. Tuy nhiên, mối quan hệ này thể hiện trên giác độ khác nhau. Ngƣời lao

động tham gia BHXH với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình đồng thời phải

có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Ngƣời SDLĐ tham gia BHXH là để

tăng cƣờng tình đoàn kết và cùng chia sẻ rủi ro cho NLĐ nhƣng đồng thời cũng bảo

vệ, ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện

tính nhân sinh, nhân văn sâu sắc của BHXH.

BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho những ngƣời bất

hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những biến cố

xã hội, hoà nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích cực của xã hội trong m i con

ngƣời giúp họ hƣớng tới những chuẩn mực của chân-thiện-mỹ nhờ đó có thể chống

lại tƣ tƣởng “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”. BHXH là yếu tố tạo nên sự hoà đồng mọi

ngƣời, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị thế BHXH đồng thời

24

giúp mọi ngƣời hƣớng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên.

BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tƣơng thân tƣơng ái

của cộng đồng, đây là nhân tố quan trọng của cộng đồng, giúp đỡ những ngƣời bất

hạnh, nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con ngƣời, tạo điều kiện cho một

xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.

BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác độ xã hội, BHXH là

một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho NLĐ; trên giác độ kinh tế, BHXH là

một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự

điều tiết này NLĐ đƣợc thực hiện bình đẳng không phân biệt các tầng lớp trong xã

hội.

Vai trò của BHXH đối với nền kinh tế:

Khi chuyển sang cơ chế thị trƣờng, thì sự phân tầng giữa các lớp trong xã hội

trở nên rõ rệt. Đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề

khác nhau trong xã hội. Những rủi ro xảy ra trong cuộc sống không loại trừ một ai,

nếu rơi vào những ngƣời có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì cuộc sống của họ trở

nên bần cùng, túng quẫn. BHXH đã góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình

họ.

Khi những NLĐ không may gặp rủi ro thì đã đƣợc chuyển giao cho cơ quan

BHXH chi trả. Nhờ vậy tình hình tài chính của các DN đƣợc ổn định hơn. Hệ thống

BHXH đã bảo đảm ổn định xã hội tạo tiền đề để phát triển kinh tế thị trƣờng.

Khi tham gia BHXH cho NLĐ sẽ phát huy tinh thần trách nhiệm, gắn bó tận

tình của NLĐ trong các DN, làm cho mối quan hệ thị trƣờng lao động đƣợc trở nên

lành mạnh hơn, thị trƣờng sức lao động vận động theo hƣớng tích cực góp phần xây

dựng và có kế hoạch phát triển chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát

triển nền kinh tế thị trƣờng.

Quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp đƣợc tích tụ tập trung rất lớn,

phần quỹ nhàn r i đƣợc đem đầu tƣ cho nền kinh tế tạo ra sự tăng trƣởng, phát triển

25

kinh tế và tạo công ăn việc làm cho NLĐ.

BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhƣng mặt

khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cƣ thông qua hệ thống phân phối lại

thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trƣờng lao động.

1.2. Khái niệm, tác động, chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội

1.2.1. Khái niệm nợ đọng bảo hiểm xã hội

Đứng trên góc độ của cơ quan BHXH, “Nợ đọng Bảo hiểm xã hội” là khoản

tiền đóng thiếu hoặc chậm đóng của các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động

cho các khoản phí của các chế độ BHXH đã đƣợc Pháp luật của m i quốc gia quy

định. Việc nợ đọng BHXH ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của ngƣời lao động,

sự an toàn của quỹ BHXH và hệ thống an sinh của m i quốc gia.

Nợ đọng BHXH tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau. Theo thời gian có

nợ đọng BHXH ngắn hạn và nợ đọng BHXH dài hạn. Nợ đọng BHXH ngắn hạn là

chậm đóng BHXH dƣới 3 tháng so với thời gian quy định; Nợ đọng BHXH dài hạn

là chậm đóng BHXH từ 3 tháng trở lên so với thời gian quy định. Khi xem xét các

loại nợ đọng này cơ quan BHXH sẽ xác định rõ những đơn vị sử dụng lao động nợ

dài hạn để tập trung đôn đốc thu, đồng thời xác định những đơn vị SDLĐ thuộc

diện nợ khó đòi để kịp thời thông tin phản hồi với các cơ quan chức năng, từ đó, có

biện pháp xử lý.

Theo quy mô có nợ BHXH ít (nợ dƣới 100 triệu đồng) và nợ BHXH nhiều (nợ

trên 100 triệu đồng). Làm rõ loại này, cơ quan chức năng xác định đƣợc quy mô nợ

của từng đơn vị, từ đó đƣa ra các biện pháp xử lý khác nhau. Trƣớc hết là ƣu tiên xử

lý các đơn vị nợ BHXH với số tiền nhiều bởi tại những đơn vị đó quyền lợi của

ngƣời lao động thƣờng bị ảnh hƣởng nhiều hơn. Đồng thời, nếu thu hồi đƣợc nợ của

các đơn vị này sẽ góp phần tích cực trong việc tăng thu cho quỹ BHXH.

1.2.2. Tác động của nợ đọng bảo hiểm xã hội

Theo Hiệp hội an sinh xã hội quốc tế (ISSA), dù không có thống kê chính

thức nhƣng tình trạng trốn tránh trong thực hiện trách nhiệm đóng góp nói chung,

26

nợ đọng BHXH riêng liên quan khá chặt chẽ với ý thức tuân thủ pháp luật của cả

NLĐ và ngƣời SDLĐ; đồng thời phụ thuộc vào mức đóng góp và những lợi ích mà

họ có thể thu đƣợc qua hành vi vi phạm này.

Theo ISSA, các hành vi vi phạm, trong đó có việc nợ đọng BHXH tạo ra

những tác động tiêu cực, có thể tạo ra những thiệt hại về kinh tế cũng nhƣ hậu quả

phi kinh tế có liên quan đến các hệ thống, chƣơng trình BHXH cũng nhƣ cuộc sống

của NLĐ. [1]

Về thiệt hại kinh tế, một nghiên cứu đƣợc thực hiện năm 2014 cho thấy, việc

không tuân thủ nghĩa vụ đóng góp là một vấn đề thực sự đối với tất cả các quốc gia

trên thế giới. Riêng tại các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và phát triển

kinh tế (OECD), ngƣời ta ƣớc tính những thiệt hại do gian lận đóng góp (bao gồm

cả nợ đọng) cao gấp 7 đến 8 lần so với thiệt hại kinh tế gây ra do các hành vi gian

lận lợi ích.

Việc không thu đƣợc các khoản đóng góp kịp thời, trƣớc hết, có thể làm suy

yếu nghiêm trọng tính bền vững kinh tế của các chƣơng trình BHXH. Khi quỹ

BHXH không đảm bảo nguồn thu đầu vào, các tính toán về việc đảm bảo quyền lợi

của ngƣời tham gia trong tƣơng lai.

Trong ngắn hạn, với các khoản kinh phí đáng ra phải đóng BHXH nhƣng

đƣợc giữ lại, ngƣời SDLĐ có thể giảm đƣợc chi phí cho các hoạt động sản xuất

kinh doanh, từ đó có lợi thế hơn trong cạnh tranh với các DN tuân thủ nghiêm túc

quy định. Điều đó dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những tác

động tiêu cực ngày càng tăng đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.

Về tác động phi kinh tế, tuy nhiên, tác động của hành vi vi phạm này đối với

các chƣơng trình an sinh xã hội còn vƣợt xa chi phí tiền tệ. Cụ thể, tình trạng nợ

đọng BHXH sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền thụ hƣởng BHXH của NLĐ và ngƣời

phụ thuộc của họ, gây mất niềm tin vào hệ thống an sinh xã hội, tạo ra sự bất ổn tài

chính của hệ thống an sinh xã hội, làm suy yếu nguyên tắc công bằng và đoàn kết

27

xã hội…

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng bảo hiểm xã hội

Có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá tình trạng này để có cái nhìn tổng

thể về BHXH.

Để đánh giá tình trạng nợ đọng BHXH, sử dụng các chỉ tiêu sau: [46]

(a) Các chỉ tiêu tuyệt đối:

Số tiền nợ BHXH trong kỳ: Là số tiền còn lại của số BHXH phải thu trong kì

với số BHXH đã nộp trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối tình trạng số

tiền nợ BHXH của từng đơn vị hoặc toàn hệ thống.

Cách tính:

Số tiền nợ Số phải thu - Số đã nộp BHXH trong = - - BHXH trong kỳ BHXH trong kỳ kỳ

Số đơn vị nợ BHXH trong kỳ: Là số đơn vị chƣa đóng đủ số tiền BHXH phải

thu trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối số đơn vị nợ BHXH của từng

đơn vị hoặc của toàn bộ hệ thống.

(b) Các chỉ tiêu tƣơng đối:

Tỷ lệ nợ BHXH: là tỷ lệ phần trăm tổng số tiền BHXH nợ đọng so với tổng

số tiền BHXH phải thu. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thu kịp thời, hoàn thành công

tác thu BHXH của bộ phận thu BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh số nợ đọng

BHXH so với tổng số tiền phải thu càng thấp, ngƣợc lại tỷ lệ này càng cao phản ánh

tình trạng nợ đóng BHXH diễn ra phổ biến.

Cách tính:

Tỷ lệ nợ đọng BHXH = x 100

Tỷ lệ đơn vị nợ BHXH: là tỷ lệ phần trăm tổng số doanh nghiệp nợ đọng BHXH

so với tổng số doanh nghiệp phải tham gia BHXH. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ

số đơn vị nợ BHXH trên tổng số đơn vị phải tham gia càng nhiều và ngƣợc lại. Xác

định chỉ tiêu này giúp cơ quan BHXH có những biện pháp xử lý kịp thời để ngăn

chặn tình trạng nợ BHXH.

28

Cách tính:

Tỷ lệ đơn vị nợ

đọng BHXH

1.3. Khái niệm doanh nghiệp và chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội

1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp

1.3.1.1. Khái niệm doanh nghiệp

Hiện nay trên phƣơng diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là một

doanh nghiệp, m i định nghĩa đều mang trong nó có một nội dung nhất định với

một giá trị nhất định.

Xét theo quan điểm luật pháp:

Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tƣ cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản,

có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo chế độ hạch toán độc lập, tự

chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn đầu tƣ do doanh

nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nƣớc bằng các loại luật và chính sách

thực thi

Xét theo quan điểm chức năng:

Doanh nghiệp đƣợc định nghĩa nhƣ sau: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức

sản xuất mà tại đó ngƣời ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của

các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị

trƣờng những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận đƣợc khoản tiền chênh lệch

giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. (M. Francois Peroux).

Xét theo quan điểm phát triển:

Doanh nghiệp là một cộng đồng ngƣời sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra,

phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vƣợt qua những thời kỳ

nguy kịch và ngƣợc lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải

những khó khăn không vƣợt qua đƣợc " (trích từ sách " kinh tế doanh nghiệp của D.

Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992)

Xét theo quan điểm hệ thống:

Doanh nghiệp đƣợc các tác giả nói trên xem rằng " doanh nghiệp bao gồm một

29

tập hợp các bộ phận đƣợc tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục

tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,

thƣơng mại, tổ chức, nhân sự.

Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét

doanh nghiệp dƣới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh

nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn

bao quát trên phƣơng diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,

phát triển đến các mối quan hệ với môi trƣờng, các chức năng và nội dung hoạt

động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải đƣợc cấu

thành bởi những yếu tố sau đây:

* Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện

các chức năng quản lý nhƣ các bộ phận sản xuất, bộ phận thƣơng mại, bộ phận hành

chính.

* Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tƣ, thông tin.

* Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thƣơng mại - mua các yếu tố đầu vào, bán

sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.

* Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà

nƣớc, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tƣơng lai của doanh nghiệp bằng khoản

lợi nhuận thu đƣợc.

Từ cách nhìn nhận nhƣ trên có thể phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp nhƣ

sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tƣ cách pháp nhân, quy tụ các phƣơng tiện

tài chính, vật chất và con ngƣời nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng,

tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của ngƣời tiêu dùng,

thông qua đó tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý

các mục tiêu xã hội.

Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2014, có hiệu lực từ ngày

01/07/2015, thay thế Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc

năm 2003 và Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài năm 1996; một số khái niệm cơ bản về doanh

30

nghiệp đƣợc thống nhất nhƣ sau:

DN là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng

kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.

DN thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà

pháp luật không cấm. Trên thực tế, khái niệm DN đƣợc dùng chung đối với các cơ

sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức, các

ngành nghề khác nhau, có tƣ cách pháp nhân.

1.3.1.2. Loại hình doanh nghiệp

Theo bản chất kinh tế của của chủ sở hữu chúng ta sẽ có 3 loại hình

doanh nghiệp là:

1. Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation)

2. Doanh nghiệp hợp danh (Partnership).

3. Doanh nghiệp tƣ nhân (Proprietorship).

Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp:

1. Công ty TNHH bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công

ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

2. Công ty cổ phần là DN trong đó vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng

nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân có cổ phần. Số

lƣợng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lƣợng tối đa. Cổ đông chỉ

chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong

phạm vi số vốn đã góp vào DN.

3. Công ty hợp danh là DN trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu

công ty, cùng nhau kinh doanh dƣới một cái tên chung. Ngoài các thành viên

hợp danh còn có các thành viên góp vốn.Thành viên hợp danh phải là cá nhân

chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.

Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong

phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không đƣợc phát hành

bất kỳ loại chứng khoán nào.

4. DN tƣ nhân là một loại DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm

31

bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DN tƣ nhân không

đƣợc phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. M i cá nhân chỉ đƣợc

quyền thành lập một DN tƣ nhân.

5. DN nhà nƣớc là là doanh nghiệp do Nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ.

6. Nhóm công ty là tập hợp công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về

lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trƣờng và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm

công ty bao gồm các hình thức: Công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế và

các hình thức khác.

7. DN có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là DN do nhà đầu tƣ từ nƣớc ngoài thành lập

để thực hiện đầu tƣ tại Việt Nam hoặc DN Việt Nam do nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.

8. DN công nghiệp là DN trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh

các sản phẩm công nghiệp. [30]

Căn cứ vào chế độ trách nhiệm:

Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn:

Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó

chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả

tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài

chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách

nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh.

Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế độ

trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân và của thành viên hợp

danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân và thành viên hợp danh

sẽ chịu trách nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không

giới hạn ở phần tài sản chủ doanh nghiệp, các thành viên hợp danh đã bỏ vào đầu tƣ

kinh doanh tại doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu

tài sản của doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh không đủ để thực hện các

nghĩa vụ về tài chính của doanh nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ

32

tục thanh lý trong thủ tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp

danh phải sử dụng cả tài sản riêng không đầu tƣ vào doanh nghiệp để thanh toán

cho các khoản nợ của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn:

Theo pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn

cụ thể gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh

và doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài không tiến hành đăng ký lại.

Những doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là những doanh nghiệp

mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài

chính của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có

nghĩa là khi số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có

nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.

Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là chế

độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tƣ – thành viên/chủ sở hữu công ty.

1.3.2. Chế tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp

Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật. Chế tài

là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lí khi có hành vi vi phạm với

những quy tắc xử sự chung đƣợc ghi trong phần quy định và giả định của quy phạm

pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều

chỉnh, chế tài đƣợc phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính,

chế tài dân sự... Việc áp dụng chế tài cũng phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi

ích mà pháp luật cần bảo vệ, căn cứ vào tính chất của hành vi phạm pháp, mức độ

thiệt hại và những vấn đề khác có liên quan (có ý nghĩa đối với việc tăng nặng hoặc

giảm nhẹ khi áp dụng chế tài). Chế tài gồm có các hình thức: chế tài trừng trị (trong

lĩnh vực hình sự), chế tài khôi phục trạng thái pháp lí ban đầu (trong lĩnh vực hành

chính, dân sự), chế tài bảo vệ và chế tài bảo đảm (trong lĩnh vực hành chính, kinh

tế, dân sự) và chế tài vô hiệu hoá.

Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh,

chế tài đƣợc phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài

33

dân sự...

Nhƣ vậy, khái niệm chế tài là bộ phận chỉ ra những biện pháp tác động mà

Nhà nƣớc sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

quy tắc xử sự.

Chế tài xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp đƣợc thể hiện qua sơ

đồ sau:

Sơ đồ 1.1. Chế tài xử phạt đối với ngƣời SDLĐ nợ tiền BHXH

Phạt vi phạm hành chính

Nộp tiền lãi chậm đóng BHXH Trích tài khoản để nộp tiền nợ và lãi

Chế tài đối với SDLĐ nợ BHXH

Xử lý hình sự Công đoàn khởi kiện

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

Theo Điều 122 Luật BHXH 2014 thì “Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm

quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm

hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Đối

với cá nhân có hành vi vi phạm thì “tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử

phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu

gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Nhƣ vậy các hình

thức xử lý vi phạm phạm luật về BHXH đƣợc phân thành các cấp độ từ nhẹ đến

nặng bao gồm:

Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính: cảnh cáo, phạt tiền và các biện pháp

34

khắc phục hậu quả.

Nghị định 88/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung NĐ 95/2013/NĐ-CP quy định về

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đƣa ngƣời Việt Nam

đi làm việc ở nƣớc ngoài. Tùy vào từng hành vi vi phạm pháp luật về BHXH mà

mức xử phạt sẽ khác nhau, cao nhất lên tới 1 triệu đồng với ngƣời lao động; đối với

ngƣời sử dụng lao động lên tới 75 triệu đồng hoặc lên tới 3 triệu đồng khi vi phạm

với m i ngƣời lao động.

Về các biện pháp khắc phục hậu quả: Tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP cũng

quy định một số biện pháp khắc phục hậu quả: buộc truy nộp số tiền BHXH bắt

buộc, bảo hiểm thất nghiệp chƣa đóng, chậm đóng đối với hành vi vi phạm quy

định; buộc đóng số tiền lãi của sổ BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp chƣa đóng,

chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tƣ quỹ BHXH; buộc trả đủ chế độ

BHXH, buộc nộp lại lợi nhuận thu đƣợc từ việc sử dụng quỹ BHXH sai mục đích...

về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Theo Điều 121 Luật BHXH 2014 và Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính

2012 thì thẩm quyền xử phạt thuộc về:

- Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4

Điều 46 của Luật Xử lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến mức tối

đa đối với lĩnh vực tƣơng ứng; Tƣớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề

có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.

Giám đốc BHXH cấp tỉnh có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 46

của Luật xử lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt

tối đa đối với lĩnh vực tƣơng ứng nhƣng không quá 50.000.000 đồng; Tƣớc quyền

sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có

thời hạn.

- Trƣởng đoàn thanh tra chuyên ngành do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam

quyết định thành lập có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 46 của Luật xử

lý vi phạm hành chính: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 70% mức tiền phạt tối đa đối

với lĩnh vực tƣơng ứng nhƣng không quá 250.000.000 đồng; Tƣớc quyền sử dụng

35

giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.

Ngoài ra tại khoản 2 điều 121 Luật BHXH 2014 cũng cho biết: Ngƣời có

thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều này có thể giao

cho cấp phó thực hiện xử lý vi phạm hành chính.

Thêm nữa tại Điều 36, 37 của Nghị định 95/2013/NĐ-CP thì chủ thể có thẩm

quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH còn đƣợc trao cho Chủ

tịch Ủy ban nhân dân các cấp và Thanh tra lao động.

Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: khi phát hiện ra hành vi vi phạm pháp

luật về BHXH cơ quan có thẩm quyền xử phạt cần kịp thời lập biên bản vi phạm

hành chính theo quy định tại Điều 40 của Nghị định 95/2013/NĐ-CP. Sau đó, cơ

quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục sau: Phát hiện và lập biên bản; xác minh

tình tiết của vụ việc; chuyển hồ sơ nếu thấy có dấu hiệu tội phạm; ra quyết định xử

phạt; thi hành quyết định xử phạt.

Thứ hai, bồi thường thiệt hại.

Điều 122 Luật BHXH 2014 quy định: “Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm

quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm

hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng theo quy định của pháp luật”. Bồi

thƣờng thiệt hại bao gồm bồi thƣờng thiệt hại về vật chất và tinh thần đƣợc phát

sinh do l i cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức.

Thẩm quyền yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại đƣợc trao cho Tòa án nhân dân

cấp có thẩm quyền tại nơi cƣ trú (nơi đăng ký trụ sở chính) của ngƣời bị yêu cầu

hoặc theo yêu cầu của ngƣời yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại.

Thủ tục yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại: theo quy định tại Bộ luật Dân sự

2014, cá nhân tổ chức cơ quan có quyền tự mình hoặc thông qua ngƣời đại diện hợp

pháp yêu cầu giải quyết việc dân sự có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm

quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cùng với đơn yêu cầu phải gửi

kèm các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ

và hợp pháp. Trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải

36

xem xét và có một trong các quyết định sau: tiến hành thủ tục thụ lý vụ việc thuộc

thẩm quyền của mình, chuyển đơn yêu cầu cho tòa có thẩm quyền. Sau khi thụ lý

đơn yêu cầu tòa án tiến hành hòa giải giữa các bên. Sau khi Tòa tiến hành hòa giải

giữa các bên đƣơng sự mà không đi đến sự thỏa thuận thống nhất thì Tòa sẽ mở

phiên tòa sơ thẩm để thực hiện giải quyết vụ việc. Phiên tòa sơ thẩm phải tiến hành

đúng thời gian, địa điểm đã đƣợc ghi trong quyết định đƣa vụ việc ra xét xử và có

sự tham gia đầy đủ của những ngƣời tham gia tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng.

Mặc dù pháp luật BHXH có thừa nhận bồi thƣờng thiệt hại là một trong những hình

thức xử lý vi phạm pháp luật nhƣng lại không hề có bất cứ quy định cụ thể nào về

hình thức xử lý khiến cho biện pháp này hiện nay khó áp dụng chƣa thực sự đi sâu

vào thực tiễn.

Thứ ba, truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự 2015 quy định những tội danh riêng đối với những hành vi

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH: Điều 214 về tội gian lận BHXH; Điều215

về tội gian lận BHYT; Điều 216 về tội trốn đóng BHXH. Việc tội phạm hóa hành vi

trốn đóng BHXH và quy định tách riêng tội gian lận BHXH và tội gian lận BHYT

trong bộ luật hình sự mới đã khắc phục đƣợc khoảng trống trong xử lý nhóm hành

vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN. Điều này tăng tính tƣơng h của

bộ luật hình sự trong việc tạo cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi có tính nguy hiểm

cho xã hội mà các luật chuyên ngành trong lĩnh vực BHXH đã cho phép truy cứu

trách nhiệm hình sự.

Ngoài các hình thức trên, pháp luật BHXH còn cho phép một số chủ thể có

thẩm quyền khởi kiện ra Tòa đối với những hành vi vi phạm pháp luật BHXH để

bảo vệ quyền lợi cho ngƣời lao động hoặc nhóm chủ thể bị xâm hại. Theo đó, tại

điểm d khoản 1 Điều 14 Luật BHXH 2014 quy định tổ chức công đoàn có quyền:

Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng

đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động theo quy

định tại khoản 8 Điều 10 của Luật Công đoàn (Đại diện cho tập thể ngƣời lao động

khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể ngƣời lao

37

động bị xâm phạm; đại diện cho ngƣời lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền và

lợi ích chính đáng của ngƣời lao động bị xâm phạm và đƣợc ngƣời lao động ủy

quyền”. Ngoài ra khởi kiện còn là đặc quyền mà pháp luật BHXH dành cho ngƣời

lao động và ngƣời sử dụng lao động khi họ nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị

xâm phạm: Khoản 8 điều 18 Luật BHXH 2014 quy định về quyền khởi kiện của

ngƣời lao động về BHXH; Khoản 2 điều 20 Luật BHXH 2014 quy định về quyền

khởi kiện của ngƣời sử dụng lao động về BHXH. Nhƣ vậy Luật BHXH 2014 cho

phép quyền khởi kiện đối với tổ chức Công đoàn, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động.

Theo đánh giá chung về việc khởi kiện ra Tòa đối với những vi phạm chế độ

đóng BHXH bắt buộc cho ngƣời lao động đã mang lại những kết quả ban đầu đáng

khích lệ nhƣng khi thi hành án theo phán quyết của tòa thì lại gặp phải một số trở

ngại khiến công tác thực thi trở lên khó khăn, các biện pháp khắc phục hậu quả đã

đƣợc pháp luật quy định song trên thực tế rất khó thực hiện. Mục đích thu hồi số

tiền BHXH bị các doanh nghiệp chiếm dụng không trọn vẹn, quyền lợi của ngƣời

lao động chƣa đƣợc bảo vệ, thậm chí có trƣờng hợp tòa án vừa tuyên bản án thì sau

đó doanh nghiệp biến mất không để lại dấu vết.

Khoản 1 và Khoản 2, Điều 122, Luật BHXH 2014 quy định nghĩa vụ pháp lý

của cá nhân, tổ chức và cơ quan trong trƣờng hợp họ có hành vi vi phạm pháp luật

về BHXH. Tùy thuộc tính chất, mức độ hành vi vi phạm mà cơ quan, tổ chức, cá

nhân sẽ phải chịu các hình thức xử phạt hành chính, bồi thƣờng thiệt hại.

Ngoài ra, riêng với trƣờng hợp cá nhân có hành vi vi phạm còn có thể phải chịu xử

lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức xử lý kỷ luật đối với

ngƣời lao động hiện nay đƣợc quy định bao gồm: khiển trách, kéo dài thời hạn nâng

lƣơng không quá 06 tháng hoặc cách chức, và sa thải. Còn đối với cán bộ, công

chức, viên chức, các hình thức xử lý kỷ luật đa dạng hơn, bao gồm: khiển trách,

cảnh cáo, hạ bậc lƣơng, buộc thôi việc; đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý thì có thêm 02 hình thức là cách chức và giáng chức.

Thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đƣợc trao cho Tòa án nhân dân

38

cấp có thẩm quyền theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015.

Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự: khi nhận đƣợc tin tố giác của các cá

nhân, tổ chức hay thông tin trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua

điều tra thì cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp cận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về

tội phạm BHXH. Sau đó cơ quan điều tra phải có trách nhiệm kiểm tra, xác minh

nguồn tin và ra quyết định có hay không khởi tố vụ án hình sự. Sau khi quyết định

khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra và nếu nhận thấy có

đủ căn cứ để xác định chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật BHXH thì ra

quyết định khởi tố bị can, tiếp tục tiến hành nghiệp vụ điều tra để bổ sung chứng cứ

chứng minh tội phạm và ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Đề nghị truy tố

sẽ đƣợc gửi tới Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Tòa án căn cứ vào chứng cứ

mà cơ quan điều tra thu thập, căn cứ vào bản cáo trạng cũng nhƣ lời khai của bị can

ra quyết định có hay không đƣa vụ án ra xét xử và ra bản án thích hợp. Tuy nhiên

hiện nay khởi tố vụ án hình sự liên quan tới vi phạm pháp luật BHXH vẫn còn khá

mới mẻ dù đã có quy định pháp luật.

• - Phạt tiền từ 50 - 200 triệu đồng • - Cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng - 1 năm • Đối với pháp nhân thƣơng mại: • - Phạt tiền từ 200 - 500 triệu đồng

Hành vi - Trốn đóng từ 50 - dƣới 300 triệu đồng - Trốn đóng cho từ 10 - dƣới 50 NLĐ

•Phạt tiền từ 200 -500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm •Đối với pháp nhân thƣơng mại: •Phạt tiền từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng

- Phạm tội 2 lần trở lên - Trốn đóng từ 300 triệu - dƣới 1 tỷ đồng - Trốn đóng cho từ 50 - dƣới 200 NLĐ - Không đóng tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của NLĐ (từ 50 triệu - dƣới 300 triệu đồng; của từ 10 - dƣới 50 ngƣời)

•- Phạt tiền từ 500 triệu - 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 2 đến 7 năm •Đối với pháp nhân thƣơng mại: •Phạt tiền từ 1 đến 3 tỷ đồng

- Trốn đóng 1 tỷ đồng trở lên - Trốn đóng cho 200 ngƣời trở lên - Không đóng tiền đã thu hoặc đã khấu trừ của NLĐ (từ 300 triệu - dƣới 1 tỷ đồng, của từ 50- dƣới 200 ngƣời)

Sơ đồ 1.2. Chế tài hình sự tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN

39

(Nguồn: Theo Điều 216 Bộ luật Hình sự)

Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20- 100 triệu đồng, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1- 5 năm.

1.4. Kinh nghiệm giải quyết xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội một số nƣớc

Việc tìm ra giải pháp, cách thức tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội luôn đƣợc

các nƣớc quan tâm; đặc biệt với nƣớc ta là một trong những quốc gia có tỷ lệ nợ

đọng BHXH tƣơng đối cao. Do đó, nghiên cứu khả năng giải quyết nợ đọng BHXH

của các nƣớc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam có ý nghĩa vô cùng

quan trọng. Cho đến nay đã có nhiều phƣơng pháp đƣợc các quốc gia áp dụng nhằm

giải quyết vấn đề nợ đọng BHXH. Có thể kể đến, kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ

BHXH của một số quốc gia:

Kinh nghiệm của Mỹ: [2]

Tại Mỹ, việc đóng góp thuế an sinh xã hội theo Đạo luật Đóng góp bảo hiểm

Liên bang (FICA) là trách nhiệm của cả ngƣời SDLĐ và NLĐ để chi trả cho

chƣơng trình an sinh xã hội. Thuế FICA đã trở thành một thành phần quan trọng

trong thu nhập của ngƣời Mỹ khi về già và nghỉ hƣu.

Theo quy định NSDLĐ kể cả các DN quy mô nhỏ cũng phải hiểu rõ và thực

hiện trách nhiệm của mình trong việc đóng góp. Việc hoàn thành nghĩa vụ thuế

FICA cũng đƣợc xem là quan trọng nhƣ việc hoàn thành bất kỳ nghĩa vụ thuế nào

khác theo luật pháp Mỹ. Tất nhiên, việc không tuân thủ là bất hợp pháp.

Cụ thể, trong trƣờng hợp các DN không thực hiện nghĩa vụ thuế FICA trong

năm, DN sẽ nhận đƣợc yêu cầu thanh toán nợ, cùng với một khoản phạt tài chính từ

2 đến 25%, tùy thuộc vào mức độ thanh toán quá hạn.

Nếu NSDLĐ cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình, họ phải tự chịu trách

nhiệm về tất cả các khoản nợ, cùng với mức phạt tiền tƣơng đƣơng 100% số tiền vi

phạm; đồng thời có thể phải chịu các cáo buộc hình sự, đối mặt với hình phạt tù.

Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức: [2]

Cộng hòa liên bang Đức là nƣớc đầu tiên thiết lập BHXH bắt buộc. Sự phát

triển của BHXH đƣợc phát triển theo từng bƣớc. Các chế độ BHXH bao gồm: bảo

40

hiểm ốm đau, thai sản: bảo hiểm tuồi già; tàn tật; bảo hiểm tai nạn lao động; bảo

hiểm thất nghiệp; bảo hiểm phụ thuôc. Hiện tại, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động có tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc là 19,9%. Ngoài ra, còn khoản trợ cấp của

liên bang. Các khoản đóng BHXH Là 180.5 tỷ EUR, h trợ từ ngân hàng liên bang

là 61,3 tỷ EUR. Để công tác quản lý thu BHXH đƣợc hiểu quả, Đức đã xây dựng hệ

thống giám sát chủ sử dụng lao động. Hằng năm kiểm tra tính tuân thủ khoảng 800

vụ việc, trong đó: 50% do các chuyên gia đƣợc đào tạo chuyên biệt của cơ quan bảo

hiểm hƣu trí liên bang Đức (DRV Bund) tiến hành, 50% do 14 cơ quan khu vực của

DRV Bund tiến hành.

Đức đã tiến hành xây dựng 20 khu vực giám sát ở tất cả liên bang với số lƣợng

nhân viên rất lớn 1,732 ngƣời, công tác quản lý hành chính đƣợc đặt tại 20 khu vực

số giám sát viên là 309 ngƣời. Cơ cấu tổ chức tại m i khu vực giám sát gồm: giám

đốc khu vực, thƣ ký, lãnh đạo nhóm (m i nhóm có từ 56 đến 100 giám sát viên).

Văn phòng của giám sát viên đƣợc trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại do liên bang

cung cấp nhƣ: máy tính nối mạng toàn hệ thống, điện thoại, ô tô… tất cả khoản chi

phí này do liên bang chi trả. Ngoài nhiệm vụ giám sát chủ lao động công tác quản lý

hành chính bao gồm: quan hệ cộng đồng, đƣa ra con số thống kê, báo cáo kiểm

soát… với các trƣờng hợp nợ quá hạn chia làm hai loại là: trƣờng hợp không cố ý sẽ

yêu cầu nộp các khoản quá tháng, trƣờng hợp cố ý sẽ yêu cầu nộp khoản quá hạn +

1% lãi suất m i tháng. Các trƣờng hợp dã mạo hồ sơ, gian lận, lao động bất hợp

pháp và những trƣờng hợp chủ ý phạm tội sẽ chuyển hồ sơ lên cơ quan công tố để

truy cứu trách nhiệm hình sự.

Kinh nghiệm của Philippines: [2]

Các thành viên của Hệ thống an sinh xã hội Philippines (SSS) đƣợc pháp luật

bảo vệ chống lại sự sơ suất hoặc hành vi không tuân thủ của chủ SDLĐ trong việc

đóng góp vào SSS.

Theo Đạo luật an sinh xã hội năm 1997, tất cả các chủ SDLĐ ở Philippines

phải khấu trừ các khoản đóng góp vào SSS hàng tháng từ tiền lƣơng của nhân viên,

trả phần đóng góp thuộc trách nhiệm của họ và nộp các khoản đóng góp này cho

41

SSS đúng hạn. Chủ SDLĐ cũng phải nộp báo cáo hàng tháng về đóng góp của nhân

viên cho văn phòng SSS gần nhất. Nếu vi phạm, chủ SDLĐ sẽ bị phạt từ 5.000 –

20.000 peso hoặc bị phạt tù đến 6 năm. Ngoài ra, họ cũng phải nộp tất cả các khoản

đóng góp chƣa thanh toán cùng mức phạt 3% m i tháng; đồng thời phải trả các

khoản trợ cấp cho nhân viên chết, bị tàn tật, bị bệnh hoặc đến tuổi nghỉ hƣu.

Ngoài hành vi này, nếu chủ SDLĐ không nhận tiền đóng góp SSS của nhân

viên cũng sẽ bị xem là phạm pháp và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Theo SSS, nếu phát hiện chủ SDLĐ chậm thanh toán các khoản đóng góp cho

SSS, NLĐ cần chủ động trong việc khẳng định quyền đƣợc bảo vệ an sinh xã hội

của mình qua việc báo cáo cho SSS. Đây là một biện pháp pháp lý rất cần thiết.

Theo thống kê, SSS đã thực hiện các biện pháp nghiêm khắc đối với những

ngƣời SDLĐ không tuân thủ nghĩa vụ đóng góp cho NLĐ. Chỉ tính từ năm 2010,

SSS đã đệ trình các vụ án hình sự và dân sự đối với hơn 34.000 NSDLĐ phạm pháp

ra tòa án. Trong số này, đã có ít nhất 41 ngƣời SDLĐ bị tòa kết án.

Tiểu kết Chƣơng 1

Trong Chƣơng 1, tác giả đã đƣa ra cơ sở lý luận liên quan đến bảo hiểm xã

hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội, chế tài xử phạt nợ đọng BHXH đối với doanh nghiệp.

Bảo hiểm xã hội có những quan điểm khác nhau; tuỳ theo góc độ nghiên cứu, cách

tiếp cận mà ngƣời ta đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Khái niệm liên quan đến

nợ đọng BHXH, các chỉ tiêu đánh giá nợ đọng BHXH, các chế tài xử phạt nợ đọng

BHXH đối với doanh nghiệp cũng đƣợc chỉ ra. Các khái niệm, phân loại, đặc điểm

về doanh nghiệp cũng đƣợc quy định rõ trong các bộ Luật/Nghị định. Chƣơng 1

cũng giới thiệu kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ BHXH của một số quốc gia. Tình

trạng các doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn nhiều, gây ảnh hƣởng không nhỏ tới

quyền lợi của ngƣời lao động và ảnh hƣởng tới quỹ BHXH. Đây là tiền đề lý luận

để tác giả nghiên cứu sâu về thực trạng và đề xuất giải pháp hạn chế tình trạng nợ

42

đọng BHXH của các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC THI CHẾ TÀI XỬ PHẠT NỢ ĐỌNG

BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN

QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.

2.1. Tổng quan các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Xuân

Ngày 22/11/1996 quận Thanh Xuân đƣợc thành lập theo Nghị định 74/NĐ-

CP của Chính phủ, quận Thanh Xuân nằm ở phía Tây Nam của Thủ đô Hà Nội, Bắc

giáp quận Đống Đa và Cầu Giấy, Đông giáp quận Hai Bà Trƣng, Nam giáp huyện

Thanh Trì, Tây giáp huyện Nam Từ Liêm và quận Hà Đông. Đơn vị hành chính

thuộc quận có 11 phƣờng, bao gồm: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh

Xuân Nam, Thƣợng Đình, Hạ Đình, Khƣơng Đình, Nhân Chính, Phƣơng Liệt,

Khƣơng Trung, Khƣơng Mai, Kim Giang; có diện tích tự nhiên là 913,2 ha; dân số

hiện nay là 285.614 ngƣời, tăng gấp hơn 2 lần so với năm đầu thành lập quận.

Thanh Xuân có các con đƣờng lớn, án ngữ các cửa ô ra vào Hà Nội nhƣ Quốc lộ 1A

(đƣờng Giải Phóng), Quốc lộ 6 (đƣờng Nguyễn Trãi) …; ngoài ra còn có hệ thống

các đƣờng giao thông mới đƣợc đầu tƣ, tạo ra sự thuận tiện trong giao thông không

chỉ trong quận mà còn cả với các quận huyện khác và các tỉnh thành khác xa hơn.

[39]

- Đặc điểm kinh tế:

Là quận nội thành của Thủ đô, quận Thanh Xuân có nhiều điều kiện thuận

lợi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, đó là: Giá trị sản xuất công

nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế 78,7% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn,

trong đó có nhiều ngành sản xuất mũi nhọn của Thành phố, đây là lợi thế quan

trọng để thu hút lực lƣợng lao động và tạo đà thúc đẩy các hoạt động dịch vụ; vị trí

địa lý của quận rất thuận tiện cho phát triển thƣơng mại và dịch vụ, mở rộng giao

lƣu hàng hoá, có thể trở thành trung tâm phát luồng, phục vụ phần lớn nhu cầu hàng

43

hoá cho các tỉnh phía bắc và phía nam.

Năm 2019, kinh tế trên địa bàn quận Thanh Xuân tiếp tục tăng trƣởng ổn

định; giá trị sản xuất trên địa bàn ƣớc đạt hơn 72 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9% so với

năm 2018... [39]

- Nguồn nhân lực:

Dân số của quận năm 2014 đã vƣợt 25 vạn ngƣời, tỷ lệ tăng tự nhiên:

1,056%. Do đặc điểm về sự hình thành nên quận có cơ cấu dân cƣ khá phức tạp.

Ngoài bộ phận chủ yếu dân cƣ là các gia đình cán bộ, công nhân, bộ đội, công an, các

trƣờng đại học... còn có bộ phận dân cƣ làm nghề nông. Mật độ dân số trung bình

toàn quận đến năm 2014 trung bình khoảng trên 28 nghìn ngƣời/km2.

Là một trong những quận có số dân đông và địa bàn thuận lợi cho việc giao

lực, phát triển kinh tế của thành phố Hà Nội, Thanh Xuân là quận đƣợc nhiều doanh

nghiệp lựa chọn tọa lạc. Trên địa bàn quận Thanh Xuân hiện tập trung nhiều doanh

nghiệp, đa số là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thuộc khối xây dựng, thi công

cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng… trƣớc tình hình khó khăn trong sản xuất kinh doanh,

tỷ lệ nợ BHXH đã diễn ra thƣờng xuyên và ở mức cao. Mặt khác, dân cƣ thƣờng

xuyên biến động về cơ học, địa bàn tập trung nhiều ngƣời lao động các địa phƣơng

khác đến thuê nhà ở, tỷ lệ doanh nghiệp có số lao động nhỏ chiếm hơn 85% chính là

những khó khăn không nhỏ trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn.

Chỉ trong khoảng từ năm 2015 đến năm 2017, số doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký

hoạt động tại quận Thanh Xuân đã tăng tới 1,6 lần, tỷ lệ doanh nghiệp tính trên đầu

dân của quận này đang ở mức cao nhất toàn thành phố, qua 3 năm thực hiện

Chƣơng trình số 03-CTr/TU của Thành ủy, kinh tế trên địa bàn quận tiếp tục tăng

trƣởng khá. Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn tăng bình quân 9%/năm. Đặc biệt, so

với năm 2015, hiện nay trên địa bàn quận đã có khoảng 10.500 doanh nghiệp tƣ

nhân, tăng gấp 1,6 lần; có 12.500 hộ kinh doanh cá thể, tăng gấp 1,2 lần. Đáng chú

ý, số hộ kinh doanh cá thể chuyển sang loại hình doanh nghiệp rất lớn, điển hình

nhƣ trong năm 2017 có tới hơn 1.000 hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận đăng

44

ký thành lập doanh nghiệp. [39]

Bảng 2.1: Các thành phần kinh tế và số lao động của các doanh nghiệp

tại Thanh Xuân năm 2019

Danh mục Số đơn vị Tỷ trọng Số lao động Tỷ trọng

Các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ 1 0.0% 12 0.0%

nhà nƣớc

Các doanh nghiệp tƣ nhân 140 0.6% 955 0.5%

Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc 1 0.0% 10 0.0%

ngoài >51%

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 23,653 99.4% 188,540 99.5%

Kinh tế h n hợp có vốn nhà nƣớc 3 0.0% 38 0.0%

>51% vốn điều lệ

Tổng 23,798 100.0% 189,555 100.0%

Nguồn: Chi cục thuế quận Thanh Xuân [22]

Thống kê trong bảng 2.1 cho thấy doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao

động chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số lao động của các doanh nghiệp tại địa bàn,

chiếm 99.5% với 188,540 lao động trên tổng số 189,555 lao động tại địa bàn quận

Thanh Xuân, số đơn vị thuộc thành phần kinh tế này cũng chiếm tỷ lệ cao có 99.4%

trên tổng số các doanh nghiệp của quận. Các thành phần kinh tế khác chiếm một tỷ

lệ không đáng kể cả về số lƣợng đơn vị và số lƣợng lao động chỉ khoảng từ trên 0%

đến mức cao nhất là 0.6%.

Thống kê về số lƣợng các doanh nghiệp trên địa bàn từng phƣờng tại Thanh

Xuân nhƣ sau:

Bảng 2.2: Số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn

quận Thanh Xuân năm 2019

Địa bàn Số lƣợng doanh nghiệp Tỷ lệ

Phƣờng Nhân Chính 4,106 21%

Phƣờng Khƣơng Trung 2,417 12%

45

Phƣờng Khƣơng Mai 2,280 12%

Phƣờng Thanh Xuân Trung 2,315 12%

Phƣờng Khƣơng Đình 1,840 9%

Phƣờng Phƣơng Liệt 1,851 9%

Phƣờng Hạ Đình 1,424 7%

Phƣờng Thanh Xuân Bắc 1,114 6%

Phƣờng Thƣợng Đình 1,041 5%

Phƣờng Thanh Xuân Nam 801 4%

Phƣờng Kim Giang 493 3%

Tổng số doanh nghiệp 19,682 100%

Nguồn: https://ha-noi.congtydoanhnghiep.com [43]

Đứng đầu về số lƣợng doanh nghiệp phải kể đến phƣờng Nhân Chính với

hơn 4000 doanh nghiệp chiếm tới 21% số doanh nghiệp tại các phƣờng của quận

Thanh Xuân, điều này có thể nhận thấy là do Nhân Chính tiếp giáp với quận Cầu

Giấy là một quận có mật độ dân số, sự phát triển kinh tế rất mạnh của thành phố Hà

Nội. Các phƣờng Khƣơng Trung, Khƣơng Mai, Thanh Xuân Trung với số doanh

nghiệp trên 2000 chiếm tỷ lệ gần tƣơng đƣơng ở mức 12%. Các phƣờng Phƣơng

Liệt, Khƣơng Đình có số doanh nghiệp ít hơn chiếm 9% số doanh nghiệp là trên

1.800. Các phƣờng Hạ Đình, Thanh Xuân Bắc, Thƣợng Đình lần lƣợt chiếm 7%,

6% và 5%. Các phƣờng có số lƣợng doanh nghiệp thấp nhất là Thanh Xuân Nam và

Kim Giang chỉ 3-4%, do 2 phƣờng này đa phần diện tích nằm ở ngoại thành Hà

Nội, số diện tích đất nông nghiệp còn khá lớn, dân cƣ thƣa thớt so với các phƣờng

khác của quận.

2.2. Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn

quận Thanh Xuân

2.2.1. Thực trạng thu bảo hiểm xã hội và số nợ bảo hiểm xã hội của các

doanh nghiệp

Việc nợ BHXH gần nhƣ xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp, từ doanh

nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây

46

dựng. Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm nộp diễn ra gần nhƣ trong suốt quá

trình kinh doanh. Chính việc nợ BHXH từ các doanh nghiệp đã gây một hậu quả

trực tiếp tới ngƣời lao động. Ngƣời lao động không hề biết các doanh nghiệp, nơi họ

làm việc đang trực tiếp sử dụng tiền họ đóng BHXH để làm vốn kinh doanh. Đến

khi gặp tai nạn nghề nghiệp, hoặc mất việc, ngƣời lao động cần tới sự giúp đỡ của

BHXH thì hầu nhƣ không nhận đƣợc sự trợ cấp nào, vì doanh nghiệp nơi họ làm

việc đang nợ BHXH.

Trƣớc khi phân tích tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa

bàn quận Thanh Xuân, tác giả phân tích kết quả thu bảo hiểm xã hội đối với doanh

nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân giai đoạn 2014-2019. Thu BHXH không những

là khâu đầu tiên của một quá trình thực hiện chính sách, chế độ BHXH, mà bản thân

nó thƣờng chiếm một khối lƣợng lớn công việc, chi phối đến các hoạt động của toàn

ngành BHXH. Vai trò của công tác thu BHXH đƣợc khẳng định là cơ sở hình thành

nguồn quỹ BHXH và cũng là cơ sở để giải quyết các chế độ BHXH cho ngƣời lao

động. Số thu và lao động tham gia BHXH nhƣ là sự sống còn của sự nghiệp BHXH.

Kết quả thu BHXH của toàn quận Thanh Xuân trong giai đoạn 2014- 2019

đƣợc thể hiện qua các số liệu sau:

Bảng 2.3: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH giai đoạn 2014-2019 của

BHXH quận Thanh Xuân

(đơn vị: tỷ đồng)

Kế hoạch thu Số thực thu Thời gian % Kế hoạch (đvt: Tỷ đồng) (đvt: Tỷ đồng)

Năm 2014 1,054,651 1,055,249 100%

Năm 2015 1,230,637 1,243,398 101%

Năm 2016 1,423,189 1,447,828 102%

Năm 2017 1,652,036 1,666,928 101%

Năm 2018 1,892,267 1,893,261 100%

Năm 2019 2,132,498 2,133,497 100%

47

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Qua bảng 2.3 ta thấy mức thu tăng đều qua các năm, số thực thu luôn vƣợt kế

hoạch đƣợc giao từ BHXH thành phố đạt mức cao nhất là 102% vào năm 2016. Số

thực thu năm 2019 tăng gấp đôi so với mức thu năm 2014 từ mức 1,055,249 tỷ đồng

lên mức 2,133,497 tỷ đồng. Lý do có thể hiểu đƣợc bởi có mức tăng đáng kể về số

lƣợng đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội, mức tăng quỹ lƣơng trích nộp bảo hiểm

xã hội đã tăng hơn gấp 2 lần trong năm 2019 so với năm 2014 thể hiện qua bảng

2.4:

Bảng 2.4: Tổng số lƣợng lao động tham gia BHXH và tổng quỹ lƣơng trích nộp

BHXH tại BHXH quận Thanh Xuân (giai đoạn 2014-2019)

Tổng số lƣợng

Mức tăng

Mức

tăng

Tốc

độ

Tốc độ tăng

Tổng quỹ

Chỉ tiêu

đối tƣợng tham

giảm

giảm tuyệt

tăng

giảm (%)

lƣơng

gia BHXH

tuyệt đối

đối

giảm (%)

(Đơn vị tính: ngƣời)

(Đơn vị tính: tỷ đồng)

69,511

2,911,379

Năm 2014

73,707

4,196

106%

3,279,512

368,133

113%

Năm 2015

77,282

3,575

105%

3,905,895

626,383

119%

Năm 2016

77,282

0

100%

4,413,658

507,763

113%

Năm 2017

87,054

9,772

113%

5,150,268

736,610

117%

Năm 2018

90,554

3,500

104%

5,895,888

745,620

114%

Năm 2019

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Mặc dù số lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH có tăng qua các năm nhƣng tỷ lệ

tăng thấp hơn khá nhiều so với mức tăng của tổng quỹ lƣơng tham gia bảo hiểm xã

hội, cụ thể năm 2015 mức tăng của số lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH là 106%

trong khi tổng quỹ lƣơng tăng tới 113%; đặc biệt nhất là trong năm 2017 mặc dù số

lƣợng đối tƣợng tham gia BHXH không hề tăng so với năm 2016 nhƣng tổng quỹ

48

lƣơng cũng đạt mức tăng 113%.

Bảng 2.5: Tốc độ tăng thu BHXH giai đoạn 2014-2019 tại BHXH Thanh Xuân

(đơn vị: tỷ đồng)

Thời gian

Năm 2014

Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

Số thực thu

1,055,249

1,243,398

1,447,828

1,666,928

1,893,261

2,133,497

12,7%

Tốc độ tăng thu

17,8%

16,4%

15,1%

13,6%

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Mặc dù tăng về số tuyệt đối nhƣng tốc độ tăng thu của BHXH từ năm 2014

đến năm 2019 lại có xu hƣớng giảm dần từ mức 17,8% vào năm 2015 xuống còn

12,7% vào năm 2019 trong khi tổng số đối tƣợng tham gia BHXH và quỹ lƣơng

đóng BHXH lại liên tục tăng qua các năm.

Từ việc phân tích kết quả thu BHXH trên cho thấy việc quản lý thu BHXH

tại Thanh Xuân đang còn chƣa đƣợc hoàn thiện. Kết quả thu BHXH có chiều hƣớng

giảm dần.

Phân tích tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận

Thanh Xuân. Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận

Thanh Xuân đƣợc thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn

quận Thanh Xuân (giai đoạn từ năm 2014- 2019)

(đơn vị: tỷ đồng)

Năm Tổng số nợ Số phải thu Tỷ lệ nợ

Năm 2014 205,762 16.24% 1,266,733

Năm 2015 174,386 11.98% 1,455,851

Năm 2016 149,485 9.51% 1,572,674

Năm 2017 144,629 8.05% 1,796,665

Năm 2018 115,235 5.74% 2,007,502

Năm 2019 126,862 5.71% 2,218,339

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Bảng 2.6 đã phản ánh rất rõ rệt tình hình nợ đọng BHXH tại Thanh Xuân với

49

tỷ lệ giảm rất đáng khích lệ. Tổng số nợ bảo hiểm không chỉ giảm về lƣợng tuyệt

đối mà còn giảm cả về tỷ lệ so với số phải thu. Trong năm 2014 trong khi số phải

thu BHXH là trên 1,200 tỷ đồng thì số nợ lên tới 205 tỷ chiếm 16.24%; từ năm

2015-2017 tỷ lệ nợ lần lƣợt là 11.98%, 9.51% và 8.05%; và đặc biệt là tỷ lệ này đã

giảm xuống còn 5.71% vào năm 2019 với số nợ BHXH là trên 126 tỷ đồng.

Tình hình nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh

Xuân có thể đƣợc phân chia theo từng loại đơn vị nợ nhƣ sau:

Bảng 2.7: Báo cáo nợ BHXH giai đoạn 2014- 2019 phân chia theo từng loại

đơn vị nợ của quận Thanh Xuân

(Đơn vị: tỷ đồng)

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Qua bảng 2.7 ta có thể thấy số nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 có

chiều hƣớng giảm rõ rệt, giảm cả về số doanh nghiệp nợ BHXH và số tiền nợ

BHXH, cụ thể: năm 2014 tổng số đơn vị nợ là 3065 đơn vị, thì đến năm 2019 giảm

xuống còn 2106 đơn vị; tổng số nợ của năm 2014 là 205,76 tỷ đồng thì đến năm

50

2019 giảm xuống còn 126,86 tỷ đồng.

Đa số là doanh nghiệp nợ dƣới 1 tháng và nợ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng, số

đơn vị và số tiền nợ cũng tăng, giảm qua các năm, từ năm 2014 đến năm 2016 số

đơn vị và số nợ có chiều hƣớng giảm nhƣng cũng không đáng kể, đến năm 2017 số

đơn vị và số nợ tăng, đến năm 2018 số đơn vị nợ và số nợ lại giảm, đến năm 2019

số đơn vị nợ và số nợ lại tăng, cụ thể số đơn vị nợ dƣới 1 tháng là 706 với số nợ

1.64 tỷ đồng, số đơn vị nợ từ 1 tháng đến dƣới 3 tháng là 796 với số nợ là 17,65 tỷ

đồng.

Số doanh nghiệp nợ từ 24 tháng trở lên chiếm ít nhất nhƣng lại có số tiền nợ

BHXH cao nhất. Số doanh nghiệp nợ từ 3 tháng đến dƣới 6 tháng, nợ từ 6 tháng đến

dƣới 12 tháng, nợ từ 12 tháng đến dƣới 24 tháng có số tiền nợ BHXH cũng tăng,

giảm thất thƣờng qua các năm từ năm 2014 đến năm 2019, tuy nhiên nhìn vào bảng

có thể thấy số đơn vị nợ và số tiền nợ có chiều hƣớng giảm sâu qua các năm, điều

đó chứng tỏ công tác đôn đốc, thu hồi nợ của BHXH quận Thanh Xuân ngày càng

đƣợc đẩy mạnh.

Bảng 2.8: Báo cáo nợ BHXH từ năm 2014 đến năm 2019 của toàn

thành phố Hà Nội (Đơn vị: tỷ đồng)

51

Nguồn: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội [21]

Bảng 2.9: So sánh tình hình nợ đọng BHXH của quận Thanh Xuân với

toàn thành phố Hà Nội

(đơn vị: %)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ bảng 2.7 và bảng 2.8

Nhìn vào bảng 2.9 ta thấy tỷ lệ nợ BHXH của quận Thanh Xuân so với toàn

thành phố Hà Nội có sự tăng giảm biến động, năm 2014 tổng số đơn vị nợ chiếm

15.59% toàn thành phố nhƣng đến năm 2019 giảm xuống chiếm 8.73% so với toàn

thành phố, và tỷ lệ nợ cũng tăng giảm biến động theo từng năm: năm 2014 là

11.93%, năm 2015 là 10.26%, năm 2016 là 8.35%, năm 2017 là 10.79%, năm 2018

là 11.04%, năm 2019 là 11.75% so với toàn thành phố Hà Nội, tỷ lệ đơn vị nợ dƣới

1 tháng có xu hƣớng giảm, nhƣng tỷ lệ đơn vị nợ từ 24 tháng trở lên có xu hƣớng

tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất năm 2018.

2.2.2. Các chế tài xử phạt nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng bảo hiểm xã hội đã thực

52

hiện tại quận Thanh Xuân

BHXH quận Thanh Xuân đã áp dụng một số biện pháp đối với các doanh

nghiệp nợ đọng BHXH nhƣ sau:

Thực hiện việc tính lãi

Các doanh nghiệp, đơn vị chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN chậm quá thời

hạn theo quy định từ 30 ngày trở lên phải đóng số tiền lãi tính trên số tiền BHXH,

BHYT, BHTN chƣa đóng theo Luật định. Cơ quan, tổ chức, ngƣời sử dụng lao

động có trách nhiệm đóng BHXH mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ theo

quy định thì phải đóng đủ số tiền chƣa đóng và nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi

suất liên ngân hàng tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; đồng thời phải hoàn trả

toàn bộ chi phí cho ngƣời lao động trong phạm vi quyền lợi, mức hƣởng BHYT mà

ngƣời lao động đã chi trả trong thời gian chƣa có thẻ BHYT.

Thực hiện việc đôn đốc, thu nợ

Hằng tháng, cơ quan BHXH quận Thanh Xuân gửi thông báo kết quả đóng

BHXH đến chủ sử dụng lao động để đôn đốc việc đóng, nộp BHXH. Trƣờng hợp

đối với doanh nghiệp nợ BHXH đến 03 tháng trở lên, cơ quan BHXH cử cán bộ

hoặc Tổ thu nợ của cơ quan BHXH trực tiếp đến doanh nghiệp để đôn đốc, đối

chiếu thu nộp và lập biên bản theo quy định, sau đó gửi văn bản đôn đốc 15 ngày

một lần. Trƣờng hợp đã thực hiện các biện pháp đôn đốc nêu trên nhƣng doanh

nghiệp vẫn tiếp tục nợ trên 03 tháng thì cơ quan BHXH gửi văn bản báo cáo UBND

quận và phối hợp với cơ quan công an, cơ quan thanh tra trên địa bàn để tiến hành

thanh tra, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trƣờng hợp doanh nghiệp nợ

kéo dài đến 04 tháng (hoặc 03 tháng đối với doanh nghiệp quy mô lớn, số tiền nợ

lớn) mà cơ quan có thẩm quyền chƣa thanh tra, xử lý vi phạm thì cơ quan BHXH

lập hồ sơ, khởi kiện doanh nghiệp ra tòa án dân sự. Hằng tháng, cùng kỳ, BHXH

quận Thanh Xuân gửi danh sách các đơn vị nợ từ 03 tháng trở lên về BHXH Thành

phố Hà Nội.

Tuy nhiên, kế hoạch đề ra thì nhƣ vậy nhƣng thực tế việc thực hiện các biện

pháp đôn đốc thu nợ vẫn chƣa thực sự đƣợc bám sát do cán bộ chuyên quản thu và

53

cán bộ thu nợ cũng phải thực hiện rất nhiều các nhiệm vụ trong cùng một lúc.

“Trong một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều việc, ví

dụ như lượt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên đến

trên 60 hồ sơ/mỗi cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn, nếu

không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hưởng đến đơn vị do đó đa

số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn vị, ngoài ra

việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hướng đến mục tiêu mỗi người một mã số

BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của người lao động trên sổ

BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả cho NLĐ (trước đây sổ

BHXH được viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải được in hết ra bằng tờ rời)

cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực hiện, trung bình mỗi cán bộ thu phải

nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công việc nhiều nhưng số lượng cán bộ thu có

hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ

không thể chú tâm hết vào việc bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu

quả không cao.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)

Trƣờng hợp đơn vị mất tích không còn giao dịch với cơ quan BHXH, tiếp tục

theo dõi và phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan để thu hồi số tiền nợ

BHXH; báo cáo cấp ủy, UBND quận, công an, tòa án... để xác minh tồn tại của

doanh nghiệp, đơn vị nợ; đƣa thông tin danh sách doanh nghiệp, đơn vị nợ lên các

phƣơng tiện thông tin đại chúng.

Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát

Hàng năm cơ quan BHXH quận Thanh Xuân có kế hoạch đi thanh tra, kiểm

tra các cơ sở sản xuất kinh doanh, các đơn vị sử dụng lao động, Tổ công tác thu hồi

nợ trực tiếp tới doanh nghiệp nợ BHXH kiểm tra, đôn đốc và xử lý theo thẩm

quyền; trƣờng hợp vƣợt quá thẩm quyền, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý,

giải quyết theo quy định; sau khi có quyết định xử phạt, phối hợp với các cơ quan

nhà nƣớc theo dõi, đôn đốc thực hiện; kiểm tra xem quá trình đăng kí kinh doanh có

hợp lệ, xem xét đối chiếu danh sách lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc

54

có đƣợc ngƣời sử dụng lao động đăng kí để đóng góp BHXH hay không và sự thay

đổi số lƣợng ngƣời lao động tham gia BHXH ở các cơ quan đơn vị sử dụng lao

động.

“Qua khảo sát thực tế cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thêm được

thông tin cũng như nhu cầu của người tham gia BHXH. Từ đó tạo lên sự gần gũi và

làm cho người lao động hiểu thêm về chính sách BHXH. Thực tế cho thấy, các

doanh nghiệp, đơn vị sau thanh, kiểm tra đã chấp hành nghiêm túc hơn việc bảo

đảm quyền lợi BHXH cho người lao động”. (Nữ, 45 tuổi, Cán bộ BHXH quận

Thanh Xuân)

Cũng nhƣ các năm trƣớc đây, trong năm 2018, 2019 BHXH quận Thanh

Xuân đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra, kiểm soát đƣợc thể hiện một phần qua bảng

số liệu sau:

Bảng 2.10: Bảng tổng kết công tác điều tra năm 2018 và 2019

(đơn vị: tỷ đồng)

Năm 2018

Năm 2019

STT Chỉ tiêu

Trong tháng 12 Lũy kế

Trong tháng 01 Lũy kế

Kiểm tra theo Quyết định

I

1

Số đơn vị

33

50

66

164

1.1

Số nợ

2.362.509.864

5.229.988.070 2.632.414.061

10.815.425.506

1.2

Số tiền thu hồi

2.624.877.398

3.761.010.792 1.798.800.990

8.709.250.446

Nguồn: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

Thực hiện khởi kiện

Luật BHXH (sửa đổi) bổ sung quyền các tổ chức công đoàn khởi kiện ra tòa

án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến quyền lợi và lợi

ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động. Tuy nhiên, việc khởi kiện

ra tòa các doanh nghiệp, đơn vị nợ BHXH còn ít so với các doanh nghiệp, đơn vị vi

phạm, tổ chức thi hành án hoạt động chƣa hiệu quả, việc thu hồi tiền nợ vẫn còn gặp

nhiều khó khăn.

BHXH quận Thanh Xuân cũng đề nghị các cơ quan: Công an, Viện Kiểm

55

sát, TAND xem xét, xử lý hình sự đối với những đơn vị, DN vi phạm theo quy định

của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều theo

Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Liên đoàn Lao động quận tiếp tục chỉ đạo

Công đoàn cơ sở khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với các DN nợ đóng

BHXH để bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Tuy nhiên, vẫn chƣa vụ án nào đƣợc khởi

tố, dù cơ quan BHXH đã gửi hồ sơ sang cơ quan điều tra. Từ khi Luật BHXH năm

2014 có hiệu lực thi hành, tổ chức công đoàn đƣợc trao quyền khởi kiện ra Tòa án

đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, cơ quan BHXH đã cung cấp kịp

thời, đầy đủ cho tổ chức công đoàn danh sách, hồ sơ các đơn vị nợ BHXH để phục

vụ khởi kiện. Song, vẫn còn nhiều vƣớng mắc do quy định về việc ủy quyền của

ngƣời lao động cũng nhƣ quyền khởi kiện của các tổ chức công đoàn trong các văn

bản liên quan nhƣ Luật Công đoàn, Bộ luật Tố tụng Dân sự có nhiều điểm chƣa rõ,

thiếu hƣớng dẫn cụ thể, khiến việc triển khai thực hiện gặp khó khăn. Do đó, việc

hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt hình sự là

chƣa đƣợc áp dụng một cách triệt để. Để hoàn thiện các thủ tục chuẩn bị khởi kiện

nhƣ theo dõi, tập hợp chứng từ, lập biên bản, đốc thúc, khởi kiện… thời gian phải

mất ít nhất 6 tháng.

“Trong thời gian này, nếu doanh nghiệp có động thái “tích cực” như nộp

một phần khoản nợ thì cơ quan BHXH vẫn không thể khởi kiện được. Đó là chưa

nói đến trường hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản, chủ doanh nghiệp không còn

trên địa bàn để khởi kiện.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)

Công tác khởi kiện trong năm 2018:

+ Lũy kế số đơn vị gửi hồ sơ sang LĐLĐ quận đề nghị khởi kiện đến tháng

12/2018: 70

+ Tổng số tiền nợ BHXH của các đơn vị SDLĐ khi gửi LĐLĐ khởi kiện:

44.490.651.869 đồng

+ Tổng số tiền đã thu hồi đƣợc sau khi gửi LĐLĐ khởi kiện: 10.457.537.043

đồng (đạt 23.5%) do BHXH quận đôn đốc bằng văn bản và cán bộ Thu hồi nợ trực

tiếp đến đơn vị đốc thu.

56

Công tác khởi kiện trong năm 2019:

+ Lũy kế số đơn vị gửi hồ sơ sang LĐLĐ quận đề nghị khởi kiện đến tháng

07/2019: 95

+ Tổng số tiền nợ BHXH của các đơn vị SDLĐ khi gửi LĐLĐ khởi kiện:

52.652.319.504 đồng

+ Tổng số tiền đã thu hồi đƣợc sau khi gửi LĐLĐ khởi kiện: 18.798.207.000

đồng (đạt 35.7%) do BHXH quận đôn đốc bằng văn bản và cán bộ Thu hồi nợ trực

tiếp đến đơn vị đốc thu.

Với số lƣợng nhân sự không quá lớn BHXH quận Thanh Xuân đã thực hiện

kiểm tra đƣợc 256 doanh nghiệp trong năm 2018 và 196 doanh nghiệp trong năm

2019, mặc dù chỉ là một phần rất nhỏ trong số lƣợng doanh nghiệp trên địa bàn

quận nhƣng cũng đã phát hiện đƣợc nhiều trƣờng hợp sai phạm, làm thí điểm để các

doanh nghiệp khác có ý thức hơn trong thực hiện nghĩa vụ BHXH cho ngƣời lao

động. Tuy nhiên, ngay cả khi thực hiện công tác khởi kiện thì số tiền nợ đọng

BHXH của các doanh nghiệp thu hồi đƣợc cũng chiếm tỷ lệ không cao.

Thực hiện tuyên truyền

Tổ chức các hội nghị tuyên truyền để gặp gỡ các doanh nghiệp cùng bàn về

những khó khăn đối với doanh nghiệp khi đóng, hƣởng BHXH để cùng nhau tháo

gỡ.

Cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thiết lập đƣờng dây nóng để có thể

nắm bắt đƣợc thông tin, nguyện vọng và nhu cầu từ ngƣời tham gia BHXH, để từ

đó ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động có thể chủ động thông báo những thông

tin cần thiết cho cơ quan BHXH góp phần làm cho cơ quan BHXH nắm bắt kịp thời

về đối tƣợng tham gia và tình hình hoạt động của các cơ sở tham gia BHXH. Và

ngƣợc lại cơ quan BHXH cũng có thể giải đáp đƣợc những yêu cầu thắc mắc từ

phía ngƣời tham gia BHXH làm cho họ hiểu rõ hơn về bản chất của BHXH và

chính sách BHXH đang đƣợc tiến hành triển khai thực hiện đến mọi ngƣời lao

động.

2.3. Nguyên nhân và hậu quả của nợ đọng bảo hiểm xã hội.

57

2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp.

- Về thủ tục hành chính:

Khuôn khổ pháp lý thiếu sự minh bạch; chƣa thuận lợi cho NLĐ và NSDLĐ;

chế tài còn chƣa đủ mạnh.

Tính minh bạch của các chính sách về thu BHXH: Về nguyên tắc, các chính

sách BHXH đều phải đƣợc công bố công khai cho tất cả ngƣời lao động, ngƣời sử

dụng lao động đƣợc biết và thực hiện. Tuy nhiên, nếu ngƣời tham gia BHXH gặp

khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin, tài liệu của cơ quan BHXH: về quy trình,

biểu mẫu, hồ sơ…, chƣa kể đến những quy định về việc thực hiện BHXH, các biểu

mẫu, thủ tục thì luôn thay đổi khiến cho doanh nghiệp không kịp nắm bắt, sẽ kéo

dài thời gian đăng ký tham gia BHXH và gián đoạn công tác đóng BHXH định kỳ,

nguyên nhân làm cho tình trạng nợ BHXH gia tăng.

Ví dụ, từ năm 2015 thì thực hiện theo quy định tại Quyết định 959/QĐ-

BHXH, đến năm 2017 thì thực hiện theo quy định tại Quyết định 595/QĐ-BHXH,

và đến nay lại thực hiện theo quy định tại Quyết định 505/QĐ-BHXH.

Quy trình xử phạt nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp cũng chƣa đƣợc quy

định một cách rõ ràng, mặc dù đã có những quy định pháp luật về xử lý vi phạm

pháp luật BHXH song thực tế vẫn chƣa đƣợc giải quyết toàn diện.

Nếu nhƣ việc thực hiện đóng BHXH đƣợc diễn ra thuận lợi, nhanh chóng; các

mẫu danh sách, bảng biểu thu BHXH đƣợc đơn giản hóa sẽ tạo điều kiện cho ngƣời

sử dụng lao động tuân thủ pháp luật. Ngƣợc lại, thủ tục hành chính rƣờm rà là

nguyên nhân đầu tiên mà ngành BHXH “tự đẩy” doanh nghiệp vào xu hƣớng không

tuân thủ pháp luật về BHXH và lao động bởi tâm lý không sẵn sàng thực hiện do

thủ tục rắc rối, phiền hà.

Ví dụ, hàng tháng cơ quan BHXH gửi thông báo đóng BHXH theo mẫu C12 -

TS cho đơn vị sử dụng lao động. Rất nhiều nhân viên phụ trách mảng BHXH tại

58

đơn vị hỏi về cách đọc, cách xem số liệu trong biểu mẫu này.

“Mẫu số: C12-TS (Ban hành kèm theo QĐ số: 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của BHXH Việt Nam) Bảo hiểm xã hội …............ Bảo hiểm xã hội …............

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------------

THÔNG BÁO KẾT QUẢ ĐÓNG BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN Tháng…….năm……..

Kính gửi: ................................................. Địa chỉ: ……………………Mã đơn vị…………

STT NỘI DUNG BHXH BHYT BHTN CỘNG BHTNLĐ, BNN

A B 1 2 3 4 5 = 1 + 2 + 3 +4

4. A Kỳ trƣớc mang sang 1 Số lao động 2 Phải đóng 2.1 Thừa 2.2. Thiếu 3 Thiếu lãi B Phát sinh trong kỳ 1 Số lao động 1.1 Tăng 1.2 Giảm 2 Phải đóng 2.1 Tăng 2.2 Giảm 3 Phải đóng 3.1 Tăng 3.2 Giảm Điều chỉnh phải đóng kỳ trước

4.1 Tăng

4.2 Giảm

59

Trong đó: Năm trước Trong đó: Năm trước 5 Lãi 5.1 Số tiền tính lãi 5.2 Tỷ lệ tính lãi 5.3 Tổng tiền lãi

C

1

2

Số tiền đã nộp trong kỳ +UNC số …, ngày../../.. + UNC số …, ngày../../.. n + UNC ……. D Phân bổ tiền đóng 1 Phải đóng 2 Tiền lãi Đ Chuyển kỳ sau 1 Số lao động 2 Phải đóng 2.1 Thừa 2.2 Thiếu 3 Thiếu lãi

Thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT, BHTN của đơn vị nhƣ sau: a) Kết quả đơn vị đã đóng BHXH bắt buộc cho…. lao động đến hết tháng/năm…… b) Kết quả đơn vị đã đóng BHTN cho .......... lao động đến hết tháng/năm................ c) Kết quả đơn vị đã đóng BHTNLĐ, BNN cho …lao động đến hết tháng/năm…. d) Tổng số nộp thiếu là… đồng đề nghị đơn vị nộp cho cơ quan BHXH trƣớc ngày… đ) Đề nghị đơn vị kiểm tra số liệu trên, nếu chƣa thống nhất đề nghị đến cơ quan BHXH… để kiểm tra điều chỉnh trƣớc ngày…/…/…Quá thời hạn trên nếu đơn vị không đến, số liệu trên là đúng.

…., ngày ……. tháng …… năm ……….

Giám đốc (Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)" Cán bộ thu (Ký, ghi rõ họ tên)

- Về cơ quan BHXH:

Công tác đôn đốc, thanh kiểm tra các đơn vị, doanh nghiệp nợ BHXH chƣa

thực sự sâu sát.

Nhận thức, thái độ phục vụ của các nhân viên ngành BHXH: Hiện nay, không

ít cán bộ thu trong cơ quan BHXH nói chung và BHXH quận Thanh Xuân nói riêng

60

ngồi chờ ngƣời sử dụng lao động mang tiền đến đóng, chuyển khoản vào tài khoản

của cơ quan BHXH. Cán bộ BHXH không chủ động đôn đốc, tìm đến ngƣời tham

gia BHXH nên cơ quan BHXH hầu nhƣ không phát hiện đƣợc ra các l hổng, bất

cập trong công tác thu nộp BHXH. Chỉ đến khi hệ thống có trục trặc ở khâu nào đó

mới tìm cách để tháo gỡ, do đó quá trình vận hành sẽ bị gián đoạn.

“Tuy nhiên, trong một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều

việc, ví dụ như lượt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên

đến trên 60 hồ sơ/mỗi cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn,

nếu không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hưởng đến đơn vị do

đó đa số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn vị,

ngoài ra việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hướng đến mục tiêu mỗi người một

mã số BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của người lao động

trên sổ BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả cho NLĐ (trước đây

sổ BHXH được viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải được in hết ra bằng tờ rời)

cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực hiện, trung bình mỗi cán bộ thu phải

nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công việc nhiều nhưng số lượng cán bộ thu có

hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ

không thể chú tâm hết vào việc bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu

quả không cao.” (Nữ, 30 tuổi, Cán bộ BHXH quận Thanh Xuân)

Những ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thu của hệ thống

công nghệ thông tin hiện đại là yếu tố quan trọng trong công tác quản lý điều hành

và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ. Tuy nhiên, việc quản lý thu không thể kiểm soát

hết đƣợc dữ liệu của ngƣời tham gia BHXH. Theo đó, việc quản lý thu nộp BHXH

chƣa đƣợc chặt chẽ.

Ngoài ra, một nguyên nhân đáng lƣu ý khác nữa là mức lãi suất phạt chậm nộp

BHXH chƣa linh hoạt. Hiện mức lãi suất chậm nộp BHXH trong năm thấp hơn so

với lãi suất tiền vay của các ngân hàng thƣơng mại do đó nhiều doanh nghiệp chấp

nhận chịu phạt để chiếm dụng vốn của cơ quan BHXH.

Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 6 Quyết định 60/2015/QĐ-TTg mức

61

lãi suất đối với các trƣờng hợp ngƣời sử dụng lao động chƣa đóng, chậm đóng,

chiếm dụng tiền đóng, hƣởng BHXH, BHTN từ 30 ngày trở lên sẽ bằng 02 lần mức

lãi suất đầu tƣ quỹ BHXH, BHTN bình quân của năm trƣớc liền kề.

Mức lãi suất đầu tƣ năm 2017 bằng 7,25 %/năm; tƣơng đƣơng bằng 0,604

%/tháng.

Theo đó, mức lãi suất chƣa đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền đóng, hƣởng

BHXH, BHTN áp dụng từ ngày 01/01/2018 bằng 1,208 %/tháng.

So với năm 2017, mức lãi suất chậm đóng BHYT đã giảm 0,217%/tháng, mức

lãi suất chậm đóng BHXH, BHTN đã giảm 0,109%/tháng.

- Về trách nhiệm của các bên liên quan:

Chế tài xử phạt đối với các đơn vị nợ BHXH chƣa đủ mạnh, mức xử phạt

còn thấp, tính khả thi của các biện pháp chƣa cao dẫn tới các doanh nghiệp còn trốn

tránh lách luật, cố tình chây ỳ, chậm đóng BHXH. Ví dụ, việc khởi kiện ra tòa các

doanh nghiệp, đơn vị nợ BHXH ở quận Thanh Xuân còn ít so với các doanh nghiệp,

đơn vị vi phạm, tổ chức thi hành án hoạt động chƣa hiệu quả, việc thu hồi tiền nợ

vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Công tác khởi kiện vẫn còn nhiều vƣớng mắc do quy

định về việc ủy quyền của ngƣời lao động cũng nhƣ quyền khởi kiện của các tổ

chức công đoàn trong các văn bản liên quan nhƣ Luật Công đoàn, Bộ luật Tố tụng

Dân sự có nhiều điểm chƣa rõ, thiếu hƣớng dẫn cụ thể, khiến việc triển khai thực

hiện gặp khó khăn. Do đó, việc hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH bằng cách áp

dụng các chế tài xử phạt hình sự là chƣa đƣợc áp dụng một cách triệt để. Để hoàn

thiện các thủ tục chuẩn bị khởi kiện nhƣ theo dõi, tập hợp chứng từ, lập biên bản,

đốc thúc, khởi kiện… thời gian phải mất ít nhất 6 tháng.

“Kể từ khi tổ chức công đoàn thực hiện quy định khởi kiện DN nợ BHXH ra

tòa án, Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức

công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.

Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện

nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả

toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng. Thực tế

62

cho thấy, quá trình thực hiện việc khởi kiện của công đoàn còn gặp khó khăn do các

quy định, thủ tục khởi kiện giữa các văn bản quy phạm pháp luật chưa thống nhất.

Hiện nay, để khởi kiện một vụ án nợ BHXH, phải có giấy ủy quyền của NLĐ hoặc

giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở, phải qua thủ tục hòa giải của Chủ tịch

UBND cấp quận. Nhưng trên thực tế, việc tổ chức công đoàn đi lấy hết ý kiến ủy

quyền của hàng nghìn NLĐ là khó khả thi, và cũng ít có tổ chức công đoàn cơ sở

nào đứng ra khởi kiện chủ SDLĐ của chính họ. Về phía NLĐ cũng không dám ủy

quyền để kiện chủ DN khi bản thân họ cần việc làm. Còn chủ SDLĐ luôn trốn

tránh, không hợp tác làm việc với các cơ quan chức năng, không ký nhận biên bản

đối chiếu công nợ để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ khởi kiện…” (Nam, 50 tuổi, cán

bộ BHXH thành phố Hà Nội)

Sự phối hợp của các cơ quan chức năng chƣa đƣợc thực hiện đồng bộ và hiệu

quả: chính sách BHXH chịu tác động, đan xen của nhiều chính sách khác nhƣ tiền

lƣơng, tiền công… Vì vậy thực hiện tốt chính sách BHXH rất cần sự phối hợp chặt

chẽ của nhiều cơ quan trong đó có các cơ quan nhƣ: Cục thuế, Sở Lao động Thƣơng

binh xã hội, Thanh tra ngƣời lao động, Sở kế hoạch đầu tƣ…bởi khi doanh nghiệp

thành lập phải đăng ký chế độ tiền lƣơng mà doanh nghiệp sẽ áp dụng, số ngƣời lao

động với Sở lao động thƣơng binh và xã hội. Song thực tế thời gian qua ở Việt Nam

nói chung và ở quận Thanh Xuân nói riêng do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các

cơ quan quản lý chuyên ngành nên dẫn đến tình trạng tạo ra nhiều kẻ hở, tạo thuận

lợi cho việc nợ đọng BHXH của các chủ lao động.

Ví dụ, ở quận Thanh Xuân khi doanh nghiệp mới thành lập sẽ phải đăng ký

với cơ quan Thuế nhƣng lại không thực hiện tham gia BHXH cho ngƣời lao động,

thực tế có rất nhiều đơn vị có mã số thuế nhƣng lại chƣa tham gia BHXH cho ngƣời

lao động, từ năm 2018 khi hệ thống phần mềm hoàn chỉnh hơn, cán bộ thu có thể

xuất danh sách những đơn vị có mã số thuế nhƣng chƣa tham gia BHXH để đi đến

từng địa chỉ xác minh xem đơn vị đó có còn tồn tại hay không, nếu còn tồn tại hoạt

động sẽ yêu cầu truy thu, việc truy thu nhiều dẫn đến nhiều đơn vị lại không có khả

63

năng đóng, nộp BHXH hoặc việc những đơn vị đã tham gia nhƣng nợ đóng BHXH

thì cũng chƣa có những chế tài để kết hợp với bên cơ quan Thuế hoặc sở Kế hoạch

đầu tƣ.

Do các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội chƣa quản lý,

quan sát chặt chẽ các đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội.

- Về người sử dụng lao động:

Do các đơn vị sử dụng lao động chƣa nhận thức hết vai trò của bảo hiểm xã

hội. NSDLĐ chƣa ý thức đƣợc trách nhiệm của mình trƣớc NLĐ và quyền lợi của

chính đơn vị, nhận thức của NSDLĐ về BHXH còn hạn chế, chƣa thực hiện đúng

các quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng lao động dẫn đến quyền lợi

chính đáng của ngƣời lao động không bảo đảm.

“BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do nhà nước tổ chức mà người lao

động và người sử dụng lao động bắt buộc tham gia.” (Nam, 55 tuổi, Chủ DN Công

ty TNHH xây dựng Rạng Đông)

Nguyên nhân số tiền nợ tăng cao là do nhiều doanh nghiệp trên địa bàn gặp

khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc gặp phải những thiên tai, hoạt động cầm

chừng. Một số đơn vị thật sự khó khăn trong kinh doanh sản xuất nhất là các doanh

nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao thông vận tải do chủ đầu tƣ chậm

thanh toán, đơn vị không đủ chi phí trả lƣơng và đóng BHXH cho ngƣời lao động.

“Do tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng khó khăn, để duy

trì ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên công ty có những thời điểm phải

cân đối nguồn tiền để đảm bảo chi trả tiền lương, tiền công và các nghĩa vụ thuế,

bảo hiểm với Nhà nước đúng hạn, đúng quy định. Tuy nhiên có những giai đoạn tài

chính eo hẹp nên DN có chút chậm trễ trong việc đóng nộp BHXH.” (Nữ, 30 tuổi,

NLĐ Công ty cổ phần Dệt Mùa đông)

Số tiền nợ ở khối DN ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn. Số DN giải thể,

ngừng hoạt động có chiều hƣớng tăng, việc xử lý nợ BHXH đối với DN giải thể,

ngừng hoạt động… chƣa có quy định, hƣớng dẫn giải quyết của pháp luật.

Do phƣơng thức trả lƣơng hai kỳ của doanh nghiệp thƣờng kéo dài đến đầu

64

tháng sau cho nên đa số các doanh nghiệp đóng BHXH thƣờng chậm.

Doanh nghiệp cố tình chậm đóng BHXH, chiếm dụng vốn để đầu tƣ, sản xuất

kinh doanh.

“Nguyên nhân nợ đọng BHXH: do khó khăn về tài chính, Công ty thường ưu

tiên những khoản cấp thiết trước như tiền lương, chi phí nguyên vật liệu để đầu tư

sản xuất.” (Nam, 55 tuổi, Chủ DN Công ty TNHH xây dựng Rạng Đông)

- Về người lao động:

Ngƣời lao động còn thiếu thông tin nên chƣa nhận thức hết vai trò của bảo

hiểm xã hội. NLĐ nhận thức về BHXH bắt buộc còn hạn chế.

Việc đấu tranh để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của NLĐ còn

yếu do NLĐ sợ va chạm và sợ mất việc làm và sợ tƣớc mất một số quyền lợi trong

doanh nghiệp.

2.3.2. Hậu quả nợ đọng bảo hiểm xã hội

- Đối với người lao động:

Cùng với sự phát triển lớn mạnh của khoa học kỹ thuật, công nghệ thì trong

giai đoạn hiện nay, yếu tố con ngƣời ngày càng phát huy đƣợc vai trò quan trọng

của mình trong lao động sản xuất cũng nhƣ trên mọi hoạt động chính trị, xã hội

khác, các chế độ chính sách nhà nƣớc luôn bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động,

đƣợc cụ thể bằng luật lao động, chế độ tiền lƣơng, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế. Một doanh nghiệp dù có cơ sở vật chất hay kỹ thuật hiện đại nhƣng

nguồn lao đông không đáp ứng đƣợc yêu cầu thì doanh nghiệp đó cũng khó có thể

tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt nhƣ hiện nay. Để phát

huy sức mạnh của ngƣời lao động, các doanh nghiệp cần phải có những chính sách

khuyến khích ngƣời lao động thông qua công tác tạo động lực cho họ. Một trong

các động lực để khuyến khích họ, không thể không kể đến đó là chính sách bảo

hiểm xã hội cho ngƣời lao động. BHXH có vai trò quan trọng, có tác dụng làm đòn

bẩy kinh tế tác động trực tiếp đến ngƣời lao động. Khi ngƣời lao động có động lực,

họ sẽ phát huy đƣợc sức mạnh, cũng nhƣ khả năng làm việc của mình, hăng say

công tác và cống hiến hết mình cho tổ chức. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tăng

65

cƣờng quan tâm đến ngƣời lao động khi doanh nghiệp không nộp BHXH cho ngƣời

lao động thì quyền lợi thụ hƣởng của họ sẽ bị tƣớc đoạt. Đi đôi với số lƣợng doanh

nghiệp nợ BHXH là số lƣợng lớn lao động không đƣợc đóng BHXH. Điều này

đồng nghĩa với việc lợi ích của hàng nghìn ngƣời lao động bị xâm phạm. Mọi chế

độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp… của ngƣời lao động đều

không đƣợc giải quyết.

- Đối với người sử dụng lao động:

Đơn vị sử dụng lao động có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ

phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP). Những năm gần đây, hoạt

động của đơn vị sử dụng lao động đã có bƣớc phát triển đột biến, góp phần giải

phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát triển nội lực vào phát triển kinh

tế xã hội góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trƣởng kinh tế, tăng kim ngạch

xuất khẩu, tăng thu ngân sách và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội nhƣ: Tạo

việc làm, xóa đói, giảm nghèo… là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch

các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân nhƣ: cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ

cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế của các vùng, địa phƣơng; đơn vị sử dụng lao

động là nhân tố đảm bảo cho mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nƣớc, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.

Đơn vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH đồng nghĩa với việc các đơn vị này

đã vi phạm pháp luật về BHXH, pháp luật về lao động. Ngƣời lao động mất niềm

tin vào doanh nghiệp, khi quyền lợi của họ không đƣợc đảm bảo thì năng suất lao

động của đơn vị cũng giảm, ảnh hƣởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị

trƣờng.

- Đối với hệ thống an sinh xã hội của đất nước:

Bảo hiểm xã hội là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội: vì BHXH có đối

tƣợng ngƣời lao động tham gia rất lớn, đây là những ngƣời trực tiếp tạo ra của cải

vật chất và dịch vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm và già

yếu…sẽ đe dọa đến cuộc sống bản thân ngƣời lao động và gia đình họ, làm ảnh

66

hƣởng xấu tới tâm lý của ngƣời lao động từ đó ảnh hƣởng tới xã hội. Yếu tố tâm lý

của con ngƣời luôn đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển trí tuệ và khả năng

khai thác nguồn chất xám trong m i con ngƣời. Nếu nhƣ trong công việc, thu nhập

là mục đích chính, là yếu tố kích thích hoạt động sản xuất thì yếu tố tâm lý sẽ nâng

cao hiệu quả của quá trình sản xuất. Do vậy sự vững chắc của hệ thống an sinh xã

hội ở một quốc gia đƣợc phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. Vì vậy,

việc các đơn vị nợ đọng BHXH cũng đồng nghĩa với việc không ổn định của tài

chính BHXH, nguy cơ phân hóa giàu nghèo lớn, gây bất bình đẳng xã hội, tiềm ẩn

bất ổn định xã hội.

Tiểu kết Chƣơng 2

Trong Chƣơng 2, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng về tình hình thu

BHXH và số tiền nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh

Xuân giai đoạn năm 2014 - 2019 và những biện pháp mà BHXH quận Thanh Xuân

đã áp dụng đối với những doanh nghiệp nợ đọng BHXH. Tình hình nợ đọng BHXH

của các đơn vị, doanh nghiệp đã đƣợc cải thiện nhiều song số nợ còn rất lớn và tình

trạng nợ đọng BHXH vẫn còn tồn tại. Chƣơng 2 tác giả cũng chỉ ra những nguyên

nhân từ việc thực thi các chế tài xử phạt nhƣng vẫn dẫn đến tình trạng nợ đọng

BHXH của các doanh nghiệp và hậu quả của việc nợ đọng bảo hiểm xã hội, để từ

đó đƣa ra những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của

67

các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt.

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HẠN CHẾ

TÌNH TRẠNG NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA CÁC

DOANH NGHIỆP BẰNG CÁCH ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI XỬ PHẠT

3.1. Giải pháp hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh

nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt

3.1.1. Đối với thủ tục hành chính

Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế xã hội đều cần đến sự chỉ đạo của

Đảng và Nhà nƣớc. Vì thế, để chính sách BHXH ở Việt Nam đƣợc hoàn thiện hơn

đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời tham gia BHXH thì cũng không thể nằm ngoài

phƣơng hƣớng hoạt động của Nhà nƣớc và sự chỉ đạo của Đảng. Các chế độ chính

sách về BHXH chƣa đƣợc hoàn chỉnh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện từng

bƣớc, cơ chế quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chƣa hợp lý, chế tài

xử phạt còn lỏng lẻo và nhẹ, đa số là xử phạt hành chính đối với lĩnh vực BHXH,

đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm pháp luật

và Luật BHXH còn rƣờm rà chƣa sâu sát cao, chƣa đƣa ra một số hành vi vi phạm

cụ thể… chính vì lý do đó mà BHXH Việt Nam rất cần có sự chỉ đạo của Đảng và

Nhà nƣớc để ngành BHXH phát triển đúng hƣớng, thực hiện đƣợc mục tiêu lâu dài

của toàn ngành.

Cần cải cách thủ tục hành chính trong giải quyết các chế độ BHXH. Các

chính sách BHXH đều phải đƣợc công bố công khai cho tất cả ngƣời lao động,

ngƣời sử dụng lao động đƣợc biết và thực hiện. Các mẫu biểu, bảng biểu thu BHXH

cần phải đƣợc đơn giản hóa để tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng lao động tuân thủ

pháp luật. Quy trình tra cứu thông tin cần đƣợc đơn giản hóa, đơn vị có thể lên trang

website của BHXH Việt Nam và đăng nhập để cập nhật thông tin số tiền phải đóng

BHXH hàng tháng kịp thời, biểu mẫu, bảng thông báo kết quả đóng BHXH cần

phải đƣợc đơn giản hóa để các doanh nghiệp đọc dễ hiểu.

Những quy định về việc thực hiện BHXH, các biểu mẫu, thủ tục cần phải

68

đƣợc nghiên cứu một cách kỹ càng và ổn định, không nên thay đổi liên tục.

Cần hoàn thiện quy trình khởi kiện ra Tòa, đối với các hành vi vi phạm pháp

luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động.

Cơ quan BHXH phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện khởi tố một số

doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHXH theo quy định của Bộ luật Hình sự năm

2015 nhằm răn đe đối với các doanh nghiệp khác.

3.1.2. Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội

- Cần thực thi pháp luật nghiêm minh để tăng tính răn đe với các doanh

nghiệp nợ BHXH:

Tăng cƣờng tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ

thu nộp BHXH của các doanh nghiệp. Cơ quan BHXH phải chú trọng đến các hình

thức xử phạt nghiêm minh hơn đối với các doanh nghiệp, các Giám đốc doanh

nghiệp có hành vi cố tình trốn đóng BHXH, cần có những biện pháp chế tài đủ

mạnh nhƣ phạt tiền với mức lãi suất cao, đƣợc phép kiểm tra số dƣ trên tài khoản

của các doanh nghiệp, đơn vị tại ngân hàng và yêu cầu chuyển thẳng tiền từ ngân

hàng để nộp số tiền BHXH cho cơ quan BHXH.

Cần tăng mức xử phạt đối với vi phạm hành chính về BHXH, việc xử phạt vi

phạm hành chính với các doanh nghiệp nợ tiền BHXH quá lớn, chây ỳ và bỏ trốn

mang lại hiệu quả không cao vì mức xử phạt tối đa cho hành vi vi phạm pháp luật

về BHXH mới chỉ dừng lại ở mức 75 triệu đồng. Có thể thấy mức xử phạt nhƣ hiện

nay không phù hợp với tính chất của hành vi vi phạm đặc biệt đối với doanh nghiệp

cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH.

Pháp luật đã có những quy định khá mạnh tay đối với những doanh nghiệp

trốn đóng BHXH cho ngƣời lao động và cả với những cá nhân ngƣời lao động

69

không muốn tham gia BHXH.

Hình 3.1: Quy định về hình thức phạt đối với doanh nghiệp nợ BHXH

Nguồn: http://bhxhhn.com.vn

Cụ thể:

Nhẹ - xử phạt vi phạm hành chính

Điều 26 Nghị định 95/2013/NĐ-CP phân định 03 mức phạt tiền đối với hành

vi vi phạm quy định về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, theo đó:

Mức 1: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối

với ngƣời lao động có hành vi thỏa thuận với doanh nghiệp không tham gia bảo

hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp;

Mức 2: Phạt tiền từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên

bản vi phạm hành chính nhƣng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với doanh

nghiệp có một trong các hành vi:

- Chậm đóng;

- Đóng không đúng mức quy định;

- Đóng không đủ số ngƣời thuộc diện tham gia.

Mức 3: Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên

bản vi phạm hành chính nhƣng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với doanh

nghiệp không đóng cho toàn bộ ngƣời lao động thuộc diện tham gia.

Bên cạnh việc bị phạt tiền, doanh nghiệp còn buộc phải thực hiện biện pháp

70

khắc phục hậu quả bằng việc:

(1) Truy nộp số tiền chƣa đóng, chậm đóng;

(2) Đóng số tiền lãi của số tiền chƣa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của

hoạt động đầu tƣ từ Quỹ bảo hiểm xã hội trong năm đối với hành vi vi phạm tƣơng

xứng mức phạt (2) và (3) nêu trên.

Nặng - truy cứu trách nhiệm hình sự

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà cá nhân, doanh nghiệp có nghĩa vụ

đóng bảo hiểm xã hội trốn đóng sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 216 Bộ luật Hình sự

năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 với các mức từ thấp đến cao, cụ thể: [28]

* Đối với ngƣời có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội

(1) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không

giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với hành vi gian dối

hoặc thủ đoạn khác để không đóng/không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng

trở lên, thuộc một trong những trƣờng hợp sau, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về

hành vi này mà còn vi phạm:

a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dƣới 300.000.000 đồng;

b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 ngƣời đến dƣới 50 ngƣời lao động.

(2) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06

tháng đến 03 năm, khi phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dƣới 1.000.000.000 đồng;

c) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 ngƣời đến dƣới 200 ngƣời

d) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của ngƣời lao động

quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 nêu trên.

(3) Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ

02 năm đến 07 năm, nếu phạm một trong các tội:

a) Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm cho 200 ngƣời trở lên;

c) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của ngƣời lao động

71

quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 nêu trên.

(4) Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

* Đối với doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội

- Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc

trƣờng hợp quy định tại khoản 1 nêu trên;

- Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc

trƣờng hợp quy định tại khoản 2 nêu trên;

- Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc

trƣờng hợp quy định tại khoản 3 nêu trên.

Đối với các doanh nghiệp trốn đóng BHXH mà đã bị xử phạt vi phạm hành

chính mà vẫn còn vi phạm thì có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm hoặc cải tạo

không giam giữ một năm.

Dù do nguyên nhân chủ quan hay khách quan để dẫn đến tình trạng trốn đóng

bảo hiểm xã hội thì cá nhân hay doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng đều sẽ bị pháp luật

xử lý thích đáng.

Các chế tài xử phạt đã đƣợc quy định rất rõ trong Bộ luật hình sự số

100/2015/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 tuy nhiên

thực tế việc áp dụng các chế tài này hiện nay vẫn chƣa đƣợc phổ biến, chƣa áp dụng

rộng rãi và chƣa thực sự nghiêm minh, do đó để hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH

của các doanh nghiệp thì cơ quan BHXH và các ban ngành cần phải áp dụng các

chế tài xử phạt một cách nghiêm minh. Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt cũng phải

đƣợc quy định rõ ràng, cụ thể, quy định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng

cơ quan. Cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân phải cùng phối hợp với cơ quan

BHXH trong việc kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các tổ chức đơn vị và cá

nhân trong việc chấp hành pháp luật về BHXH.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu quỹ bảo hiểm

72

xã hội:

Để nâng cao hiệu quả của công tác đóng góp BHXH thì cơ quan BHXH cũng

cần thƣờng xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu đóng

góp nhằm tránh tình trạng cán bộ chuyên quản thu của ngành BHXH Việt Nam từ

cấp Trung ƣơng đến cấp cơ sở “lơ là” trong công việc, coi công việc chuyên thu và

đốc thu là công việc chung của đội ngũ đồng nghiệp trong cơ quan mình. Tăng

cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra để tiến hành truy thu số tiền nợ đọng đối với

những đơn vị có số nợ đọng lớn. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra việc đóng

góp, trích nộp BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện ra những đối

tƣợng gian lận hay trốn đóng BHXH cho ngƣời lao động mà doanh nghiệp sử dụng.

Để từ đó đƣa ra hình thức xử phạt thích đáng đối với hành vi vi phạm pháp luật về

BHXH nhằm đem lại nguồn thu cho quỹ BHXH đƣợc tăng lên và đảm bảo công

bằng trong việc thực hiện chính sách BHXH.

- Nâng cao chất lượng nhân lực làm công tác thu nợ BHXH:

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan BHXH làm việc vẫn mang

tính thụ động, một số cán bộ vẫn chƣa năng động, sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ.

Cán bộ thu chỉ biết thực hiện tính toán số tiền nộp BHXH bắt buộc dựa trên bảng

lƣơng tăng, giảm lao động của đơn vị chuyển đến hàng tháng, không chủ động kiểm

soát đƣợc đơn vị có trốn tránh tiền BHXH hay không. Việc trốn tránh tiền nộp

BHXH bắt buộc là kết quả kiểm tra liên ngành mới phát hiện đƣợc, BHXH chỉ có

chức năng kiểm tra đơn vị về số lao động, quỹ lƣơng, chế độ chính sách... trong khi

các doanh nghiệp hàng tháng lại có biến động rất nhiều về số lao động, đặc biệt là

những doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Để cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thu BHXH nhận thức đƣợc

tầm quan trọng, vai trò của mình thì BHXH thành phố và các sở, ban, ngành cần

phải làm những công việc sau:

Trƣớc tiên, BHXH nâng cao trình độ nghiệp vụ và tác phong làm việc tích

cực, hiệu suất cao của các cán bộ chuyên môn. Khả năng làm việc và hiệu quả lao

động của đội ngũ cán bộ trong ngành và của những ngƣời cộng tác với cơ quan

73

BHXH có ảnh hƣởng quyết định đến việc quản lý các đối tƣợng tham gia BHXH

bắt buộc. Vì vậy, cần phải chú ý công tác đào tạo lại cho phù hợp. Trong đào tạo

cần xác định hình thức và nội dung đào tạo sát thực, nên tập trung vào nghiệp vụ

BHXH, kỹ năng, năng lực quản lý.

Cần bổ sung, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý, cán bộ từ thành phố đến

quận, huyện. Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chuyên làm

công tác thu nói riêng, có phẩm chất chính trị tốt; vững về lập trƣờng tƣ tƣởng, yên

tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề; giỏi về chuyên môn nghiệp vụ; nắm chắc chính

sách chế độ của Đảng và Nhà nƣớc; có ý thức trách nhiệm trong công việc, có năng

lực chỉ đạo điều hành, có ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động, khả năng giao tiếp,

am hiểu về công nghệ thông tin. Bố trí những cán bộ, công chức có đủ năng lực,

trình độ, phong cách và thái độ phục vụ tốt vào các bộ phận tiếp nhận, giải quyết

các công việc, đặc biệt là trực tiếp làm việc với đối tƣợng hƣởng chế độ BHXH bắt

buộc. Mọi khúc mắc của đối tƣợng phải đƣợc giải thích rõ ràng, thấu tình, đạt lý,

tránh tình trạng tùy tiện, đại khái qua loa, có tinh thần trách nhiệm để phục vụ Nhân

dân ngày càng tốt hơn.

Tăng cƣờng đào tạo, đào tạo lại và bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác thu nợ; đồng thời khuyến khích phong trào tự học bằng nhiều hình thức để

nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nƣớc, tin học, ngoại ngữ, về

công tác xã hội, trong đó hƣớng trọng tâm vào các kiến thức chuyên ngành BHXH,

quản lý ngành theo cơ chế mới và các kỹ năng hành chính, nghiệp vụ khác. Phối

hợp với trƣờng đào tạo tổ chức các chƣơng trình bồi dƣỡng kiến thức chuyên môn

nghiệp vụ trung hạn (từ 6 tháng đến 1 năm); thƣờng xuyên tổ chức các lớp tập huấn

ngắn hạn nhằm bổ sung kịp thời cho cán bộ thu những kiến thức mới về chính sách,

pháp luật kinh tế, tài chính, kế toán; cập nhật, bổ sung kịp thời những kiến thức, kỹ

năng máy tính cần thiết để thao tác, sử dụng trong công việc.

Áp dụng hình thức tuyển dụng công khai, tạo sự sàng lọc, cạnh tranh. Từ đó

mặt bằng trình độ đƣợc cải thiện. Bên cạnh đó là cần phải có các chính sách thu hút

nguồn nhân lực chất lƣợng cao đã qua đào tạo, hay nhƣ tuyển dụng những lao động

74

trẻ góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực giàu nhiệt huyết.

Tiếp tục xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp để thƣờng xuyên thay

thế, đƣa ra khỏi ngành số cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ bất cập với

yêu cầu nhiệm vụ, những ngƣời vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp,

thoái hóa, biến chất, kém ý thức tổ chức kỷ luật để tạo điều kiện đổi mới, trẻ hóa,

tuyển chọn đƣợc những ngƣời có đức, có tài...

Cùng với việc nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên BHXH là tăng cƣờng

trang thiết bị hiện đại trong các hoạt động trong đó áp dụng công nghệ tin học vào

quản lý BHXH. Giúp đẩy công tác quản lý lên một bƣớc, không chỉ đảm bảo trên

phƣơng diện thống kê, lƣu trữ mà nó còn phục vụ cho việc tác nghiệp xử lý công

việc và thông tin nhanh chóng, chính xác, giảm bớt những thao tác không cần thiết,

tạo thời gian cho cán bộ chuyên tâm nghiên cứu nghiệp vụ.

Việc quản lý, lƣu trữ, xử lý nghiệp vụ trong công tác quản lý đối tƣợng tham

gia BHXH là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để giải quyết mọi chính

sách, chế độ cho ngƣời lao động khi ngƣời lao động có đủ điều kiện và yêu cầu

đƣợc hƣởng chế độ BHXH theo Luật định.

3.1.3. Đối với các cơ quan liên quan

Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với các cơ quan

Thuế. Nhà nƣớc nên áp dụng việc thu nộp BHXH thông qua thu nộp thuế từ các

doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Nhà nƣớc nên áp dụng và cho phép Cơ

quan BHXH Việt Nam phối hợp với ban thu thuế Nhà nƣớc yêu cầu đối với các

doanh nghiệp kinh doanh trong và ngoài quốc doanh ngoài việc đăng kí kinh doanh

phải đăng kí mã số thuế, đăng kí số ngƣời lao động và số ngƣời lao động thay đổi

thì phải thông báo cho cơ quan BHXH biết, cơ quan BHXH sẽ lập danh sách và số

thu chi tiết gửi ban thu thuế nhà nƣớc có trách nhiệm thu nộp. Hàng tháng, quý và

cuối năm các doanh nghiệp này phải nộp thuế cho cơ quan thuế Nhà nƣớc bao gồm

phải nộp cả số tiền đóng quỹ BHXH cho NSDLĐ và NLĐ thì cơ quan thuế mới

chấp nhận việc thu nộp này. Bởi nếu trong trƣờng hợp các cơ quan này không nộp

thuế cho Nhà nƣớc thì sẽ bị coi là vi phạm Pháp luật của nhà nƣớc và luật kinh

75

doanh.

Ngành Lao động – Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với cơ quan BHXH các

cấp tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra để xử lý kịp thời các vi phạm về

BHXH. Cần phải bổ sung, sửa đổi một số hình phạt theo hƣớng đủ mạnh để có thể

ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm có hiệu quả hơn. Nhƣ có thể quy định mức

nợ tối đa là bao nhiêu thì chịu mức phạt là 20 triệu đồng còn trên mức đó lại là

những hình phạt khác cao hơn… và mức phạt cao nhất có thể truy cứu trách nhiệm

hình sự nếu có hành vi vi phạm nghiêm trọng nhƣ: chiếm dụng quỹ đóng BHXH

thu đƣợc từ các bên tham gia BHXH để sử dụng sai mục đích, hoặc lợi dụng chức

vụ, quyền hạn sử dụng sai tiền thu BHXH, mức phạt đối với cơ quan chức năng

thực thi BHXH không đúng với quy định của Luật BHXH…

Cơ quan BHXH cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an trong việc điều

tra, thực hiện thanh tra, kiểm tra, xác minh thông tin theo quy định để có kết luận cụ

thể về hành vi vi phạm BHXH đối với những đơn vị trốn đóng BHXH, những đơn

vị có hành vi gian lận chiếm đoạt tiền BHXH, làm căn cứ kiến nghị khởi tố vụ án.

Đối với việc vi phạm có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều

ngành, nếu xét thấy cần thiết thì trƣớc khi chính thức kiến nghị khởi tố, BHXH tổ

chức họp liên ngành gồm cơ quan BHXH, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các

cơ quan liên quan để phân tích, đánh giá tính chất, mức độ trên cơ sở những tài liệu

đã thu thập đƣợc. Trƣờng hợp liên ngành thống nhất xác định vụ việc đã có dấu

hiệu tội phạm, BHXH có văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển ngay cho Cơ quan

điều tra có thẩm quyền kèm theo hồ sơ, tài liệu có liên quan để xem xét, quyết định

việc khởi tố vụ án hình sự.

3.1.4. Đối với người sử dụng lao động

Tăng cƣờng công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội và đổi mới

công tác thu bảo hiểm xã hội. Cơ quan BHXH Việt Nam cần phối hợp với một số

cơ quan ban ngành có chức năng nhằm tăng cƣờng công tác thông tin tuyên truyền

rộng rãi hơn nữa về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, trƣớc

hết đối với các đơn vị sử dụng lao động, để có sự nhận thức đúng đắn khi tham gia

76

BHXH của cả NSDLĐ và NLĐ.

Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH đến với từng

NSDLĐ, đến các doanh nghiệp cũng là một điều rất cần thiết bởi một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng số ngƣời tham gia BHXH còn ít, số tiền nợ đọng

đóng BHXH nhiều… là do sự nhận thức, sự hiểu biết của NSDLĐ còn hạn chế, đối

với NSDLĐ thì tham gia BHXH cho cả NLĐ và chính họ thì họ sẽ yên tâm trong

sản xuất kinh doanh khi không may NLĐ của họ gặp rủi ro… từ đó làm cho năng

suất lao động tăng lên. Chính vì thế cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền

rộng rãi về BHXH đến với từng đơn vị sử dụng lao động, đến từng doanh nghiệp

nhằm góp phần hiểu biết của ngƣời dân trong toàn xã hội về BHXH.

Với những doanh nghiệp thực sự khó khăn thì Nhà nƣớc phải có những chính

sách h trợ cho doanh nghiệp.

Với những doanh nghiệp chiếm dụng vốn thì cần phải áp dụng nghiêm minh

các chế tài xử phạt và cần phải linh hoạt trong việc tính lãi chậm đóng BHXH.

Xuất phát từ thực tế để có thể giảm bớt số nợ đọng trên tổng số quỹ và đôn

đốc đƣợc các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có thể nhanh chóng đóng tiền

BHXH thì trên cơ quan BHXH nên tổ chức triển khai cho các cán bộ chuyên thu

của mình cùng một số cán bộ trong ngành khác có thể giải đáp đƣợc thắc mắc của

ngƣời tham gia BHXH cũng nhƣ cung cấp tài liệu hƣớng dẫn thu nộp, đóng góp

BHXH của ngƣời lao động để từ đó có thể nâng cao hiệu quả của công tác thu

BHXH.

3.1.5. Đối với người lao động

Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH cũng cần đƣợc

phổ biến đến với từng NLĐ để NLĐ có sự nhận thức, sự hiểu biết về vai trò của

BHXH. Ngƣời lao động thấy đƣợc quyền lợi tham gia BHXH sẽ mang lại cho họ sự

yên tâm trong cuộc sống khi không may có xảy ra rủi ro đối với họ hoặc khi về già

họ sẽ đƣợc hƣởng quyền lợi về một số chế độ phần nào bù đắp đƣợc nhu cầu cuộc

sống của họ. Từ đó, NLĐ sẽ có những thông tin cần thiết để đấu tranh lại với doanh

77

nghiệp khi doanh nghiệp chậm đóng BHXH cho họ.

Phải giải đáp kịp thời, thỏa đáng cho ngƣời lao động, giải quyết ngay khi

ngƣời lao động đang làm việc và cả khi đã thôi việc, đặc biệt làm cho ngƣời lao

động hiểu đây là một quyền lợi hợp pháp, đƣợc pháp luật bảo hộ và tƣ vấn cho họ

cách thức để tự bảo vệ quyền lợi của mình.

Thông tin kết quả công tác giải quyết thắc mắc khiếu nại, tố cáo trên báo, đài

để tạo sự h trợ tinh thần, tƣ tƣởng cho ngƣời lao động, chỉ rõ nguy cơ tiềm ẩn lâu

dài của sự vi phạm và nghĩa vụ không thể trốn tránh của doanh nghiệp.

Phải xây dựng hệ thống tổ chức tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phải nhận thức đƣợc mục tiêu cụ thể là giải

quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân ngƣời lao động, những mục tiêu bao trùm, thông

qua đó cơ quan BHXH và các cơ quan chức năng của Nhà nƣớc biết và giải quyết

đƣợc những vấn đề còn tồn tại, hạn chế của chế độ chính sách BHXH ở từng đơn vị

thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và cơ sở ngoài công lập cũng nhƣ trên

phạm vi toàn xã hội.

3.2. Một số khuyến nghị

3.2.1. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả tổ chức thực hiện các chính sách BHXH

nói chung và tổ chức quản lý thu BHXH nói riêng, hạn chế tình trạng nợ đọng

BHXH của các đơn vị thì cần có sự cải tiến cơ chế quản lý, điều hành. Việc cải tiến

này cần tập trung vào một số điểm sau:

- Xúc tiến và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực Đào tạo, trao đổi

và học hỏi kinh nghiệm, đầu tƣ…nhằm giúp cho quá trình hội nhập với hệ thống an

sinh xã hội quốc tế, mà gần nhất là các nƣớc Đông Nam Á ngày càng sâu rộng.

- Tiếp tục phân cấp cho BHXH ở huyện, thị xã, thành phố trong quản lý thu

BHXH bắt buộc. Xây dựng quy trình quản lý thu BHXH phù hợp với đặc điểm tổ

chức hoạt động của các đơn vị, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ

kinh doanh cá thể, tổ hợp tác...đảm bảo liên thông với BHXH tự nguyện và bảo

78

hiểm thất nghiệp, phù hợp với hội nhập kinh tế thế giới.

- Bổ sung nhân sự đủ về số lƣợng và có chất lƣợng để bố trí trực tiếp quản lý

thu BHXH, vì hiện nay còn quá mỏng; thƣờng xuyên tập huấn nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ chuyên

quản thu nói riêng. Thí điểm thành lập Phòng thu của BHXH cấp huyện ở những

nơi có số thu BHXH hằng năm tƣơng đối lớn và quản lý thu số đơn vị nhiều.

- Cần giữ vai trò chủ chốt trong công tác phối hợp với các bộ ngành liên

quan, giúp cho không bỏ sót các đối tƣợng hƣởng chế độ và không bỏ sót chế độ

đáng đƣợc hƣởng của ngƣời hƣởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.

- Ngày càng hoàn thiện các phần mềm quản trị dữ liệu thông tin quốc gia,

xây dựng cơ sở dữ liệu gốc để việc quản lý doanh nghiệp, quản lý số lƣợng tăng

giảm, quản lý số tiền nợ đọng BHXH của lao động tại doanh nghiêp đƣợc thuận

tiện, chính xác.

3.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội

- Chỉ đạo các ngành chức năng, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng

cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ chính sách, pháp luật về BHXH, tăng

cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, giám sát việc thực hiện Luật BHXH trên địa bàn.

- Chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cƣờng phối hợp thanh, kiểm tra việc

thực hiện chế độ BHXH cho ngƣời lao động, kiên quyết xử lý các trƣờng hợp vi

phạm pháp luật BHXH, nhƣ: không tham gia, tham gia không đầy đủ, tham gia

không kịp thời, gian lận BHXH, trốn đóng BHXH…

- Giao nhiệm vụ cụ thể cho cơ quan cấp giấy phép, cơ quan quản lý nhà nƣớc

về lao động trên địa bàn có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, tổng hợp báo cáo tình

hình chấp hành Luật BHXH cho ngƣời lao động tại đơn vị sau khi đã đƣợc cấp giấy

phép hoạt động.

- Có cơ chế chính sách để nuôi dƣỡng nguồn thu nhƣ h trợ phát triển sản

xuất, đào tạo nguồn nhân lực, chính sách tiền lƣơng, chính sách việc làm... Đây là

việc làm hết sức cần thiết trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay nhằm tháo gỡ

khó khăn cho các doanh nghiệp, nhằm giảm bớt tình trạng vi phạm pháp luật

79

BHXH ở một số doanh nghiệp, do lý do khách quan kể trên.

3.2.3. Đối với các sở ngành có liên quan

* Sở Kế hoạch - Đầu tư

Sở Kế hoạch - Đầu tƣ là nơi mà doanh nghiệp đăng ký thành lập. Vì vậy đây

là cơ quan nắm rất rõ về số lƣợng doanh nghiệp thực tế hoạt động trên địa bàn quận.

Vì vậy, cơ quan BHXH cần có sự phối hợp với Sở Kế hoạch - Đầu tƣ để đƣợc cung

cấp kịp thời tên những doanh nghiệp đang hoạt động và mới bắt đầu đăng ký thành

lập để cơ quan BHXH có thể đối chiếu với các doanh nghiệp đã tham gia BHXH.

Từ đó, tìm ra những đơn vị đã hoạt động, có đủ điều kiện tham gia nhƣng chƣa

tham gia BHXH bắt buộc cho ngƣời lao động. Qua đó, lên kế hoạch phối hợp với

các cơ quan có thẩm quyền để xử lý. Đồng thời cũng là cơ sở để cơ quan BHXH

quận nhìn nhận lại công tác tuyên truyền về BHXH đến các doanh nghiệp đã đƣợc

thực hiện hiệu quả hay chƣa.

* Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội

Các doanh nghiệp khi sử dụng lao động đều phải đăng ký với phòng Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội về danh sách lao động và thang bảng lƣơng. Cơ quan

này cần có trách nhiệm cung cấp những thông tin này cho cơ quan BHXH để đối

chiếu, phát hiện vi phạm về đăng ký số ngƣời tham gia và mức lƣơng để tiến hành

xử phạt. Cử thanh tra lao động cùng với cơ quan BHXH để tăng cƣờng công tác

thanh, kiểm tra thanh tra lao động tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì hoạt

động kinh doanh của những đối tƣợng này rất phức tạp, liên tục có sự thay đổi về

nhân sự. Vì có nhiều nghiệp vụ kiểm tra lao động mà cơ quan BHXH không có

quyền hạn để thực hiện mà phải nhờ đến sự can thiệp của thanh tra lao động thì cơ

quan BHXH mới có đƣợc những số liệu cần thiết liên quan đến những vấn đề đó.

Do đó việc thanh kiểm tra cùng với thanh tra lao động sẽ giúp cơ quan chức năng

nắm rõ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện đƣợc những vi phạm về

BHXH, trốn đóng BHXH.

* Liên đoàn lao động quận

Công đoàn là tổ chức đại diện cho ngƣời lao động để bảo vệ quyền lợi cho

80

ngƣời lao động trong doanh nghiệp. Vì vậy công đoàn có trách nhiệm bảo vệ ngƣời

lao động khi có các vi phạm về BHXH xảy ra trong doanh nghiệp làm ảnh hƣởng

đến quyền lợi BHXH của ngƣời lao động. Nhƣ vậy, công đoàn là một cánh tay h

trợ đắc lực cho cơ quan BHXH trong việc tạo áp lực cho doanh nghiệp trong vấn đề

đóng BHXH.

Liên đoàn lao động quận cần có các biện pháp yêu cầu thành lập công đoàn

đầy đủ tại các đơn vị có sử dụng lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp dù

thành lập đã lâu nhƣng vẫn không có tổ chức công đoàn. Không phải do họ không

biết mà do họ cố tình không thành lập. Liên đoàn cũng cần phải đƣa ra các quy định

chặt chẽ để đảm bảo công đoàn tại các doanh nghiệp thực hiện đúng với vai trò của

mình là bảo vệ quyền và lợi ích ngƣời lao động, khâu thành lập công đoàn phải

đƣợc thực hiện dân chủ, công khai. Vì khi có những vi phạm về quyền lợi của ngƣời

lao động xảy ra, công đoàn sẽ là tổ chức đại diện cho ngƣời lao động đòi doanh

nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ trong đó có cả nghĩa vụ tham gia BHXH

cho ngƣời lao động.

Tổ chức tập huấn về Luật Bảo hiểm xã hội cho tổ chức công đoàn, từ đó tổ

chức này sẽ nắm đƣợc những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của ngƣời lao động

về BHXH. Nếu trong doanh nghiệp có xảy ra vi phạm về BHXH thì tổ chức công

đoàn có thể phát hiện đƣợc và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng luật bảo vệ

ngƣời lao động về quyền tham gia BHXH.

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến về quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH thông

qua nhiều hình thức nhƣ tổ chức các lớp tập huấn, tìm hiểu, phát tờ rơi cung cấp

thông tin, nội dung về ý nghĩa, mục đích của chính sách BHXH và nội dung Luật

BHXH.

3.2.4. Đối với đại diện người lao động, người sử dụng lao động

Công đoàn là tổ chức bảo vệ quyền lợi của NLĐ, vì vậy tổ chức công đoàn cần

tích cực tuyên truyền, phổ biến chính sách đối với NLĐ; chủ động yêu cầu đơn vị

sử dụng lao động thực hiện đúng quyền lợi cho ngƣời lao động khi chú ý sử dụng

81

lao động có hành vi nợ đọng BHXH; đại diện của ngƣời lao động khi xảy ra tranh

chấp, khiếu kiện liên quan đến BHXH; phối hợp với BHXH các Tỉnh thành để cùng

đề xuất chính sách BHXH cho phù hợp với thực tế.

Đại diện ngƣời sử dụng lao động là phòng thƣơng mại Công nghiệp Việt Nam

và Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Tổ chức đại diện của NSDLĐ là một chủ thể

không thể thiếu trong quy định của Luật lao động. Đại diện NSDLĐ phải thƣờng

xuyên phổ biến chính sách đối với chủ sƣ dụng lao động về thực hiện Pháp luật

BHXH; phối hợp chặt chẽ với BHXH các cấp nhằm hoàn thiện, cải cách thủ tục

tham gia BHXH; Đại diện cho NSDLĐ về khiếu nại, tố cáo về BHXH.

Tiểu kết Chƣơng 3

Chƣơng 3 đã nêu ra các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của

các doanh nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt, các giải pháp đƣợc phân ra

thành nhóm đối với thủ tục hành chính, đối với cơ quan BHXH, đối với trách nhiệm

của các bên liên quan, đối với ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động; ngoài ra

còn đƣa ra một số những khuyến nghị với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban nhân

dân thành phố Hà Nội, các sở ban ngành có liên quan, đối với đại diện ngƣời lao

82

động và ngƣời sử dụng lao động.

KẾT LUẬN

Bảo hiểm xã hội luôn là một chính sách quan trọng của m i quốc gia. Ở Việt

Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, BHXH ngày càng khẳng

định đƣợc vai trò trụ cột cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất trong hệ thống

ASXH. Tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp nói chung và trên địa bàn

quận Thanh Xuân nói riêng đã làm ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền lợi của ngƣời

lao động, trong những năm qua BHXH quận đã có nhiều cố gắng n lực trong việc

thực hiện các biện pháp thu nợ nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng BHXH nhƣng tình trạng

nợ đọng BHXH vẫn diễn ra ở các doanh nghiệp, tình trạng đóng thiếu, đóng không

đúng thời gian quy định của các doanh nghiệp gây không ít khó khăn cho hoạt động

của quỹ BHXH; điều kiện hệ thống cơ sở pháp lý cho chính sách BHXH còn chƣa

đầy đủ và đồng bộ, việc thực thi pháp luật, áp dụng các chế tài xử phạt đối với

những doanh nghiệp nợ đọng BHXH còn chƣa nghiêm. Do đó, tìm ra nguyên nhân

và đƣa ra các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh

nghiệp là hết sức cần thiết, nhằm góp phần ổn định, từng bƣớc nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần cho ngƣời lao động trong thành phần kinh tế có số lƣợng ngƣời

tham gia bảo hiểm xã hội đông đảo nhất này; tạo lập sự bình đẳng giữa các thành

phần kinh tế, xoá bỏ ranh giới ngƣời lao động làm việc khu vực nhà nƣớc và ngoài

nhà nƣớc.

Với đề tài “Hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp

bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt (Nghiên cứu trƣờng hợp các doanh nghiệp

trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội)”, đã chỉ ra thực trạng thực thi chế

tài xử phạt nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh

Xuân, thành phố Hà Nội và các nguyên nhân dẫn đến nợ đọng BHXH. Đồng thời

một số giải pháp và khuyến nghị hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh

nghiệp bằng cách áp dụng các chế tài xử phạt cũng đƣợc đề xuất giúp BHXH và các

ngành liên quan hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác thu nợ nhằm

hạn chế tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trong giai đoạn

83

tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Việt Anh (2019), “Xử lý tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Bảo hiểm xã

hội, tập 73 (số 5), tr.4-7.

2. Thái An, Duy Anh (2019), “Kinh nghiệm quản lý, xử lý nợ BHXH của một số quốc

gia”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.10-11.

3. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo tài chính năm 2014.

4. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo tài chính năm 2015.

5. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo tài chính năm 2016.

6. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo tài chính năm 2017.

7. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo tài chính năm 2018.

8. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo tài chính năm 2019.

9. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2014.

10. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2015.

11. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2016.

12. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2017.

13. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2018.

14. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo thanh tra, kiểm tra đơn vị

năm 2019.

15. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2014), Báo cáo thu nợ năm 2014.

16. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2015), Báo cáo thu nợ năm 2015.

17. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2016), Báo cáo thu nợ năm 2016.

18. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2017), Báo cáo thu nợ năm 2017.

84

19. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2018), Báo cáo thu nợ năm 2018.

20. Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo thu nợ năm 2019.

21. Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo nợ BHXH, BHTN, BHYT từ

năm 2014 đến năm 2019 của toàn thành phố.

22. Chi cục Thuế quận Thanh Xuân (2019), Báo cáo các thành phần kinh tế và số lao

động tại quận Thanh Xuân năm 2019.

23. Nguyễn Thị Lan Hƣơng và cộng sự (2010), Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam

đến năm 2020, Hà Nội.

24. Bùi Thị Thanh Hƣơng (2017), “Cánh mạng công nghiệp lần thứ tƣ cơ hội và thách

thức đối với bảo hiểm xã hội”, Tạp chí báo cáo viên của Trung tâm thông tin công

tác tuyên giáo - Ban Tuyên giáo Trung ương, Tập 71 (số 4), tr.27-32.

25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình khoa học quản lý,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Thanh Nghị (2019), “Xử lý doanh nghiệp nợ BHXH tại Việt Nam đảm bảo

quyền lợi cho NLĐ”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.12-13.

27. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, luật số

58/2014/QH13, Quốc hội khoá 13, Hà Nội.

28. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự, luật số

100/2015/QH13, Quốc hội khóa 13, Hà Nội.

29. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Quốc hội khóa 13, Hà Nội.

30. Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật số:

68/2014/QH13, Luật Doanh nghiệp.

31. Phạm Đ Nhật Tân (2009), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, NXB lao động xã hội,

Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Phƣơng Thảo (2019), “Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh

nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân”, Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý,

Trƣờng Đại học Công nghệ giao thông, vận tải.

33. Nguyễn Thắng (2019), “Giải pháp nào để đảm bảo việc tuân thủ đóng góp?”, Tạp

85

chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr. 8-9.

34. V.Thu (2019), “Quyết liệt các giải pháp giảm nợ đóng, chậm đóng BHXH”, Tạp

chí Bảo hiểm xã hội, tập 73 (số 5), tr.16-17.

35. Trần Quốc Tuý (2006), “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp

ngoài quốc doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

36. Nguyễn Viết Vƣợng (2006), Giáo trình kinh tế bảo hiểm, Nxb. Lao Động, Hà Nội.

Website

37. Tùng Anh, Nợ và xử lý nợ BHXH, BHYT, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, cập nhật

ngày 11/01/2018, truy cập ngày 20/05/2019.

http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tap-chi-so/no-xu-ly-no-bhxh-bhyt-403

38. Liam Byrne (2012), A William Beveridge for this century's welfare state. The

Guardian: https://www.theguardian.com/commentisfree/2012/jan/02/, cập nhật

ngày 01/02/2012, truy cập ngày 20/09/2019.

39. Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân, Tình hình kinh tế - xã hội quận năm

2019, cập nhật ngày 11/03/2019, truy cập ngày 24/04/2019.

https://thanhxuan.hanoi.gov.vn/portal/home/default.aspx

40. Cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam, Các giải pháp triển khai thực hiện Bộ

Luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN, cập nhật ngày

11/10/2018, truy cập 01/02/2019.

https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-su-

kien.aspx?CateID=136&ItemID=11436

41. Cổng thông tin điện tử Voer, Sơ lược sự ra đời và lịch sử phát triển của bảo

hiểm xã hội, cập nhật ngày 01/02/2008, truy cập ngày 28/04/2019.

https://voer.edu.vn/m/so-luoc-su-ra-doi-va-lich-su-phat-trien-cua-bao-hiem-xa-

hoi/f0fa7c3e

42. Cổng thông tin điện tử Voer, Bản chất của bảo hiểm xã hội, cập nhật ngày

11/02/2018, truy cập ngày 28/04/2019.

86

https://voer.edu.vn/m/ban-chat-cua-bao-hiem-xa-hoi/f0166fd6

43. Cổng thông tin điện tử Công ty doanh nghiệp, báo cáo doanh nghiệp, cập nhật

ngày 01/03/2019, truy cập ngày 24/04/2019.

https://ha-noi.congtydoanhnghiep.com

44. Thu Cúc, Cần hướng dẫn cụ thể xử lý hình sự tội phạm về BHXH, Thƣ viện

pháp luật, cập nhật ngày 05/01/2019, truy cập ngày 25/02/2019.

https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi-su/22481/can-

huong-dan-cu-the-xu-ly-hinh-su-toi-pham-ve-bhxh

45. Ngọc Dung, Mai Chi, Rốt ráo đòi nợ bảo hiểm xã hội, Tạp chí tài chính, cập

nhật ngày 08/10/2019, truy cập ngày 13/12/2019.

http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/rot-rao-doi-no-bao-hiem-xa-hoi-

313761.html

46. Kho tài liệu, “Nợ đọng bảo hiểm xã hội - vấn đề nóng của nước ta hiện nay”,

cập nhật ngày 01/01/2012, truy cập ngày 01/08/2019.

https://khotailieu.com

47. H.Nga, Những biện pháp kiên quyết xử lý doanh nghiệp nợ đọng BHXH, Tạp chí

tài chính, cập nhật ngày 10/10/2019, truy cập ngày 12/11/2019.

http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/nhieu-bien-phap-kien-quyet-xu-ly-doanh-

nghiep-no-dong-bao-hiem-xa-hoi-313881.html

48. Đ Quyên, Xử lý hình sự tội phạm lĩnh vực bảo hiểm xã hội: loay hoay chờ

hướng dẫn, Tạp chí tài chính, cập nhật ngày 08/01/2019, truy cập ngày

24/02/2019.

http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/xu-ly-hinh-su-toi-pham-linh-vuc-bao-

hiem-xa-hoi-loay-hoay-cho-huong-dan-301808.html

49. Ngọc Tùng, Những nội dung đáng chú ý hướng dẫn áp dụng xử lý tội phạm về

BHXH, BHYT trong Bộ luật Hình sự, Tạp chí Tài chính, cập nhật ngày

11/10/2019, truy cập ngày 12/11/2019.

http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/nhung-noi-dung-dang-chu-y-huong-dan-ap-

87

dung-xu-ly-toi-pham-ve-bhxh-bhyt-trong-bo-luat-hinh-su-313885.html

50. Thái Yến, Xử lý hình sự đối với các tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm, Báo điện

tử Đại biểu nhân dân, cập nhật ngày 05/01/2019, truy cập ngày 25/02/2019.

88

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=415453

PHỤ LỤC

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU

PHỤC VỤ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: “HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NỢ

ĐỌNG BHXH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THANH

XUÂN (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA

BÀN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI”

Học viên thực hiện: Đặng Thị Huyền Trang

Lớp: Cao học Khoa học quản lý, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN

Đối tƣợng phỏng vấn: 8 ngƣời, bao gồm: 2 cán bộ BHXH thành phố Hà Nội, 2

cán bộ BHXH quận Thanh Xuân, 2 chủ doanh nghiệp nợ đóng BHXH, và 2 ngƣời

lao động.

Hình thức phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp.

I. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ NHẤT

1. Thông tin chung

- Giới tính: Nam, tuổi: 50

- Chức vụ: Cán bộ

- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội

2. Nội dung phỏng vấn

Câu 1: Theo ông, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải

tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH thành phố Hà Nội đã và

đang triển khai những giải pháp gì?

Trả lời:

Phải nói rằng, chúng tôi luôn xác định việc đôn đốc thu, thu nợ tiền đóng

BHXH, BHYT kịp thời có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích

hợp pháp của NLĐ. Thời gian qua, BHXH thành phố Hà Nội đã quyết liệt triển khai

89

nhiều giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác thu, giảm nợ BHXH, BHYT. Để giảm nợ

tiền đóng BHXH, BHYT xuống mức thấp nhất, BHXH TP. Hà Nội tiếp tục và tăng

cƣờng thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Yêu cầu cán bộ chuyên quản thu bám sát đơn vị để đôn đốc đóng kịp thời số

phát sinh hàng tháng, đề nghị đơn vị lập kế hoạch trả nợ tiền đóng BHXH, BHYT.

Hàng tháng, báo cáo tình hình thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa

bàn với cấp ủy, chính quyền địa phƣơng để chỉ đạo. Công khai danh tính đơn vị nợ

tiền đóng BHXH, BHYT trên phƣơng tiện thông tin đại chúng.

Đẩy mạnh thanh tra đột xuất đối với các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT từ 3

tháng trở lên, kết thúc thanh tra phải có quyết định xử lý và gửi kết quả xử lý đến cơ

quan chức năng để làm căn cứ xử lý hình sự.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT

đến chủ SDLĐ và NLĐ nhằm thay đổi nhận thức, từ đó thay đổi hành vi của chủ

SDLĐ và NLĐ, để họ tự giác tham gia và đóng BHXH, BHYT kịp thời theo quy

định của pháp luật.

Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình

trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy

kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa ông?

Trả lời:

Kể từ khi tổ chức công đoàn thực hiện quy định khởi kiện DN nợ BHXH ra

tòa án, Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức

công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.

Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện

nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả

toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng. Thực tế

cho thấy, quá trình thực hiện việc khởi kiện của công đoàn còn gặp khó khăn do các

quy định, thủ tục khởi kiện giữa các văn bản quy phạm pháp luật chƣa thống nhất.

Hiện nay, để khởi kiện một vụ án nợ BHXH, phải có giấy ủy quyền của NLĐ hoặc

giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở, phải qua thủ tục hòa giải của Chủ tịch

90

UBND cấp quận. Nhƣng trên thực tế, việc tổ chức công đoàn đi lấy hết ý kiến ủy

quyền của hàng nghìn NLĐ là khó khả thi, và cũng ít có tổ chức công đoàn cơ sở

nào đứng ra khởi kiện chủ SDLĐ của chính họ. Về phía NLĐ cũng không dám ủy

quyền để kiện chủ DN khi bản thân họ cần việc làm. Còn chủ SDLĐ luôn trốn

tránh, không hợp tác làm việc với các cơ quan chức năng, không ký nhận biên bản

đối chiếu công nợ để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ khởi kiện…

Câu 3: Theo ông, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH TP. Hà Nội

và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải quyết quyền

lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?

Trả lời:

Từ thực tiễn tổ chức thực hiện nhiệm vụ, BHXH TP. Hà Nội vẫn đang tích cực

kiến nghị với các cơ quan chức năng sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo

cơ chế đầy đủ việc xử lý nợ BHXH, BHYT đƣợc giải quyết, nhằm bảo đảm ngày

càng tốt hơn quyền lợi của ngƣời tham gia BHXH, BHYT.

Hiện nay, TAND tối cao cũng đang hoàn thiện văn bản hƣớng dẫn quy trình

khởi kiện đối với đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT cũng nhƣ việc xử lý đối với các

hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, theo quy định tại các Điều 214, 215, 216

Bộ luật hình sự. Chúng tôi tin rằng khi những khó khăn, vƣớng mắc này đƣợc tháo

gỡ, sẽ có những tác động tích cực đến công tác thu nợ BHXH, BHYT.

II. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ HAI

1. Thông tin chung,

- Giới tính: Nữ. Tuổi: 45

- Chức vụ: Cán bộ

- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội

2. Nội dung phỏng vấn

Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải

tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH thành phố Hà Nội đã và

đang triển khai những giải pháp gì?

91

Trả lời:

Chúng tôi cũng thực hiện nhiều biện pháp để giảm tỷ lệ nợ đọng BHXH của

các đơn vị, ví dụ nhƣ một số biện pháp sau:

Hàng tháng, chúng tôi gửi thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT, BHTN đến

từng doanh nghiệp, cán bộ chuyên quản thu gửi thông báo nợ ngày 15 hàng tháng

đến từng doanh nghiệp.

Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các đơn vị nợ đọng BHXH,

BHYT từ 3 tháng trở lên, để kiểm tra xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp và

cùng chia sẻ tháo gỡ những khó khăn với doanh nghiệp.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT

đến chủ SDLĐ và NLĐ nhằm thay đổi nhận thức, nâng cao sự hiểu biết của họ về

chính sách, pháp luật BHXH, BHYT.

Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình

trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy

kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?

Trả lời:

Tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp đang diễn biễn phức tạp.

Tính đến tháng 8/2019 có trên 32.642 đơn vị nợ tiền BHXH, BHYT, BHTN với

454.029 lao động; số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN phải tính lãi là 1.811,4 tỷ đồng,

chiếm 4,17% Kế hoạch thu.

Từ năm 2016 đến nay, cơ quan BHXH đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị tổ chức

công đoàn khởi kiện đối với 592 đơn vị, với số tiền nợ đóng BHXH 475,6 tỷ đồng.

Tổ chức Công đoàn đã gửi thông báo khởi kiện và nhắc nhở các đơn vị thực hiện

nghĩa vụ đóng số tiền BHXH đang nợ. Qua đó, đã có một số đơn vị khắc phục trả

toàn bộ hoặc trả một phần số tiền nợ, số tiền nợ thu hồi là 100,1 tỷ đồng.

Thực tế cho thấy công tác đôn đốc thu BHXH, BHTN, giảm tỷ lệ nợ đóng

BHXH, BHTN ngày càng khó khăn. Hiện nay, TP Hà Nội còn khoảng 70.000

doanh nghiệp với hơn 410.000 lao động có kê khai thuế nhƣng chƣa tham gia

92

BHXH. Tính đến tháng 8/2019, đã có 10.534 doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải

thể, phá sản, hết lao động thuộc đối tƣợng tham gia với số tiền nợ là 1.160,9 tỷ

đồng.

Một số doanh nghiệp không chấp hành quyết định thanh tra, kiểm tra; không

phối hợp cung cấp hồ sơ, tài liệu và làm việc với đoàn thanh tra, kiểm tra. Đối

tƣợng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN chƣa đạt 100% đối tƣợng lao động phải

tham gia theo quy định của pháp luật. Nhiều đơn vị sử dụng lao động trốn đóng,

không tham gia BHXH, BHTN cho ngƣời lao động, nợ đóng, trốn đóng BHXH,

BHTN. Nhiều doanh nghiệp chây ì không chấp hành nộp tiền phạt theo các Quyết

định hành chính đã ban hành, mặc dù đã đƣợc đôn đốc nhiều lần.

Việc xử lý hình sự với các doanh nghiệp cố tình trốn đóng, nợ đọng BHXH

kéo dài đƣợc coi là biện pháp mạnh cuối cùng. Từ năm 2017 đến nay, CATP Hà

Nội tiếp nhận 10 vụ việc cơ quan BHXH chuyển hồ sơ sang đề nghị xử lý hình sự

doanh nghiệp vi phạm về BHXH.

Với các vụ việc này, mặc dù số tiền doanh nghiệp nợ lớn, song số tiền nợ tập

trung chủ yếu vào thời điểm trƣớc 01/01/2018 (thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015

có hiệu lực) nên chỉ bị xử lý hành chính. Có vụ việc, khi cơ quan Công an thực hiện

xác minh và đôn đốc thì doanh nghiệp đã thực hiện nộp đầy đủ nghĩa vụ đóng

BHXH, BHYT, BHTN cho ngƣời lao động. Từ 2015 đến nay, Viện Kiểm sát nhân

dân thành phố chƣa truy tố, xét xử vụ án nào liên quan đến các tội phạm trong lĩnh

vực bảo hiểm.

Trong khi đó, tỷ lệ nợ BHXH vẫn cao, trong đó có nguyên nhân tổ chức Công

đoàn khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH chƣa hiệu quả. Nhƣng thực sự công tác này

đang rất vƣớng. Theo “Điều 14 Luật BHXH quy định “Tổ chức công đoàn có quyền

khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hƣởng đến

quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động, tập thể ngƣời lao động”. Thế

nhƣng, theo Luật Tố tụng dân sự, khi tổ chức công đoàn khởi kiện ra tòa án đối với

hành vi vi phạm pháp luật về BHXH thì phải có sự ủy quyền của ngƣời lao động

93

cho Công đoàn và thực hiện theo thủ tục tố tụng tranh chấp lao động của từng cá

nhân. Ví dụ, doanh nghiệp có 1.000 lao động thì phải có 1.000 chữ ký của ngƣời lao

động ủy quyền cho Công đoàn khởi kiện. Quy định này khó khả thi, khó thực hiện.

Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH TP. Hà Nội

và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải quyết quyền

lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?

Trả lời:

Về vấn đề này, chúng tôi cũng kiến nghị Công an, Tòa án nhân dân, Viện

Kiểm sát nhân dân thành phố hƣớng dẫn trình tự thủ tục để thiết lập, củng cố hồ sơ,

chứng cứ, tài liệu chuyển cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi

tố các doanh nghiệp vi phạm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xử lý theo

quy định của Luật Hình sự 2015 và Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP của Tòa án

Nhân dân tối cao.

Bên cạnh đó, Thành ủy HĐND cũng kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tiến

hành khởi tố một số vụ việc điển hình để đƣa ra xét xử, tăng tính răn đe với các

doanh nghiệp vi phạm.

III. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ BA

1. Thông tin chung

- Giới tính: Nữ. Tuổi: 45

- Chức vụ: Cán bộ

- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân.

2. Nội dung phỏng vấn

Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải

tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH quận Thanh Xuân đã và

đang triển khai những giải pháp gì?

Trả lời:

Hàng năm BHXH quận thƣờng xuyên thực hiện kế hoạch thông tin tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT; quan tâm chỉ đạo thu hồi nợ

BHXH, BHYT, bám sát những đơn vị nợ để đôn đốc thu hồi số tiền nợ, rà soát lập

94

danh sách những đơn vị nợ để ra Quyết định Thanh tra, kiểm tra đơn vị. Qua khảo

sát thực tế cơ quan BHXH quận Thanh Xuân đã có thêm đƣợc thông tin cũng nhƣ

nhu cầu của ngƣời tham gia BHXH. Từ đó tạo lên sự gần gũi và làm cho ngƣời lao

động hiểu thêm về chính sách BHXH. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, đơn vị

sau thanh, kiểm tra đã chấp hành nghiêm túc hơn việc bảo đảm quyền lợi BHXH

cho ngƣời lao động.

Tỷ lệ nợ BHXH, BHYT của các DN trên địa bàn có xu hƣớng giảm dần.

Song, một phần do địa bàn tập trung quá nhiều DN hoạt động về xây dựng, thi công

cơ giới, xây lắp, cầu đƣờng vẫn gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, khiến tỷ lệ

nợ của các DN vẫn cao.

Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình

trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy

kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?

Trả lời:

Từ năm 2016 đến nay, thực hiện Luật BHXH sửa đổi bổ sung, BHXH quận

cũng đã chuyển LĐLĐ quận hồ sơ đề nghị khởi kiện. Tuy nhiên, LĐLĐ quận chƣa

khởi kiện các DN nợ do khó khăn trong hoàn thiện hồ sơ khởi kiện theo quy định.

Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH quận

Thanh Xuân và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải

quyết quyền lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?

Trả lời:

Về phía quận, Trƣởng đoàn giám sát đề nghị tăng cƣờng công tác tuyên

truyền cho toàn ngƣời dân và DN về các quy định liên quan đến BHXH, BHYT

cũng nhƣ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền trong giải quyết nợ đọng

BHXH; đẩy mạnh thanh, kiểm tra việc chấp hành quy định BHXH, BHYT tại DN;

chỉ đạo quyết liệt các biện pháp thu hồi nợ đọng và không để phát sinh nợ mới. Với

các hành vi vi phạm, cần kiên quyết xử lý, trong đó, từ 1/1/2018 có quyền truy tố

với các DN này theo quy định.

IV. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ TƢ

95

1. Thông tin chung

- Giới tính: Nữ. Tuổi: 30

- Chức vụ: Cán bộ

- Đơn vị công tác: Bảo hiểm xã hội quận Thanh Xuân

2. Nội dung phỏng vấn

Câu 1: Theo bà, trước tình trạng nợ BHXH gia tăng, đặc biệt số nợ phải

tính lãi cao hơn nhiều so với những tháng trước, BHXH quận Thanh Xuân đã và

đang triển khai những giải pháp gì?

Trả lời

- Hàng tháng, cán bộ chuyên quản thu và thu nợ gửi thông báo kết quả đóng

BHXH, BHYT, BHTN cho từng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp

nợ BHXH. Lập danh sách những đơn vị nợ BHXH từ 02 tháng trở lên để gọi

điện thoại đôn đốc đơn vị nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN. Tuy nhiên, trong

một ngày, cán bộ chuyên quản thu phải thực hiện rất nhiều việc, ví dụ nhƣ

lƣợt hồ sơ phát sinh tăng, giảm, chốt sổ BHXH của đơn vị có thể lên đến trên

60 hồ sơ/m i cán bộ thu/1 ngày và thời hạn giải quyết hồ sơ thì có hạn, nếu

không giải quyết kịp thời thì hồ sơ bị chậm muộn sẽ ảnh hƣởng đến đơn vị do

đó đa số cán bộ chuyên quản thu sẽ chú tâm vào việc giải quyết hồ sơ của đơn

vị, ngoài ra việc thực hiện đồng bộ mã số BHXH để hƣớng đến mục tiêu m i

ngƣời một mã số BHXH và việc cập nhật hết quá trình tham gia BHXH của

ngƣời lao động trên sổ BHXH vào hệ thống phần mềm để in lại sổ BHXH trả

cho NLĐ (trƣớc đây sổ BHXH đƣợc viết bằng tay thì bây giờ sổ BHXH phải

đƣợc in hết ra bằng tờ rời) cũng là một nhiệm vụ mà cán bộ thu phải thực

hiện, trung bình m i cán bộ thu phải nhập đến hàng nghìn sổ BHXH…,công

việc nhiều nhƣng số lƣợng cán bộ thu có hạn (BHXH quận Thanh Xuân chỉ

có 20 cán bộ thu), dẫn đến việc cán bộ thu sẽ không thể chú tâm hết vào việc

bám sát các đơn vị nợ BHXH để đôn đốc, do đó hiệu quả không cao.

- Cán bộ thu phối hợp với cán bộ kiểm tra để đi kiểm tra những đơn vị nợ đọng

BHXH theo Quyết định Thanh tra, kiểm tra của BHXH Thành phố hoặc kiểm

96

tra Liên ngành.

- Tổ chức các buổi hội nghị tuyên truyền về chính sách, pháp luật BHXH,

BHYT đặc biệt là mời các doanh nghiệp nợ đóng BHXH trên địa bàn. Qua

đó, có thể nghe những thông tin phản ánh từ phía doanh nghiệp để hiểu rõ

hơn những khó khăn, vƣớng mắc của doanh nghiệp.

- Phối hợp với các ban ngành nhƣ công an, UBND quận, BHXH Thành phố để

kiểm tra xác minh tình trạng hoạt động của đơn vị.

Câu 2: Một trong những giải pháp được kỳ vọng sẽ giải quyết được tình

trạng nợ BHXH trong Luật năm 2014 là khởi kiện các doanh nghiệp ra Tòa, vậy

kết quả triển khai thực tế ra sao, thưa bà?

Trả lời:

BHXH quận cũng đã chuyển LĐLĐ quận hồ sơ đề nghị khởi kiện. Tuy

nhiên, LĐLĐ quận chƣa khởi kiện các DN nợ do khó khăn trong hoàn thiện hồ sơ

khởi kiện theo quy định.

Trong thời gian này, nếu doanh nghiệp có động thái “tích cực” nhƣ nộp một

phần khoản nợ thì cơ quan BHXH vẫn không thể khởi kiện đƣợc. Đó là chƣa nói

đến trƣờng hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản, chủ doanh nghiệp không còn trên

địa bàn để khởi kiện.

Câu 3: Theo bà, vậy từ những vướng mắc trên sẽ được BHXH quận

Thanh Xuân và các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào, đặc biệt việc giải

quyết quyền lợi NLĐ trong DN phá sản, giải thể?

Trả lời:

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách BHXH, BHYT đến với

NLĐ và NSDLĐ.

Tập trung mở rộng diện bao phủ BHXH thông qua khai thác dữ liệu từ cơ

quan Thuế.

BHXH quận Thanh Xuân sẽ tích cực kiến nghị với các cơ quan chức năng

sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo cơ chế đầy đủ để việc xử lý nợ

BHXH, BHYT đƣợc giải quyết, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi của

97

ngƣời tham gia BHXH, BHYT.

V. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ NĂM

1. Thông tin chung:

- Giới tính: Nữ. Tuổi: 30

- Chức vụ: Ngƣời lao động

- Đơn vị công tác: Công ty cổ phần dệt Mùa đông

Câu 1: Nhận thức của chị như thế nào về BHXH bắt buộc?

Trả lời:

BHXH bắt buộc là bảo hiểm do Nhà nƣớc tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải

tham gia, nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.

BHXH bắt buộc mang lại rất nhiều quyền lợi cho ngƣời lao động để ngƣời

lao động yên tâm làm việc gắn bó với doanh nghiệp và đƣợc hƣởng các quyền lợi

chế độ nhƣ: chế độ ốm đau, thai sản, hƣu trí, tử tuất, thất nghiệp trong quá trình làm

việc và về nghỉ hƣu.

Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty chị nợ đóng BHXH?

Trả lời:

Do tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng khó khăn, để duy trì

ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên công ty có những thời điểm phải cân

đối nguồn tiền để đảm bảo chi trả tiền lƣơng, tiền công và các nghĩa vụ thuế, bảo

hiểm với Nhà nƣớc đúng hạn, đúng quy định. Tuy nhiên có những giai đoạn tài

chính eo hẹp nên DN có chút chậm trễ trong việc đóng nộp BHXH.

Câu 3: Công ty chị nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?

Trả lời:

Doanh nghiệp nhận thức đƣợc việc chậm đóng BHXH sẽ làm ảnh hƣởng đến

quyền lợi của NLĐ nhƣ không sử dụng đƣợc thẻ BHYT, chậm giải quyết chế độ ốm

đau, thai sản... cho NLĐ khi có yêu cầu. Do vậy dù có những thời điểm chậm đóng,

nhƣng khi NLĐ có phát sinh yêu cầu, DN đều cố gắng cân đối đóng đủ để tối thiểu

có thể giải quyết trƣớc chế độ cho NLĐ đó, tránh làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của

98

NLĐ.

Việc nợ đóng bảo hiểm xã hội lâu dài thì mọi chế độ quyền lợi của ngƣời lao

động sẽ bị ngừng hết và không đƣợc hƣởng bất cứ quyền lợi gì, từ đó sẽ ảnh hƣởng

đến tâm lý làm việc của NLĐ, ảnh hƣởng đến động lực làm việc của NLĐ.

VI. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ SÁU

1. Thông tin chung:

- Giới tính: Nam. Tuổi: 37

- Chức vụ: Ngƣời lao động

- Đơn vị công tác: Công ty thƣơng mại và dịch vụ Duy Trang.

Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?

Trả lời:

BHXH bắt buộc là phần h trợ thu nhập cho ngƣời lao động khi họ không

may gặp phải những rủi ro nhƣ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, hƣu trí, tử tuất. BHXH bắt buộc là một chế độ an sinh xã hội đảm bảo

quyền lợi cho NLĐ. BHXH là một chế độ có đóng, có hƣởng.

Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?

Trả lời:

Nguyên nhân dẫn đến Công ty nợ BHXH là do nguồn tài chính gặp khó

khăn. Mặc dù cá nhân ngƣời lao động hàng tháng vẫn đóng tiền BHXH theo tỷ lệ

quy định. Tuy nhiên, có thể vì những khó khăn nào đó của doanh nghiệp mà bỏ qua

việc thực hiện đóng nộp tiền BHXH.

Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?

Trả lời:

Ngƣời lao dộng gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các chế độ từ BHXH,

có thể không đƣợc hƣởng quyền lợi khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp…

Có lao động dù đã làm việc ở doanh nghiệp 10 năm, sinh con lần thứ hai

nhƣng vẫn chƣa nhận đƣợc tiền trợ cấp thai sản từ lần sinh thứ nhất chỉ vì doanh

nghiệp không đóng BHXH, dù cá nhân ngƣời lao động hàng tháng vẫn đóng tiền

99

BHXH theo tỷ lệ quy định. Tuy nhiên, không thể vì những khó khăn nào đó của

doanh nghiệp mà bỏ qua việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sử

dụng lao động với ngƣời lao động, để quyền lợi của họ không đƣợc đảm bảo.

VII. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ BẢY

1. Thông tin chung:

- Giới tính: Nam. Tuổi: 40

- Chức vụ: Chủ doanh nghiệp.

- Đơn vị công tác: Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Hà Đăng

Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?

Trả lời:

BHXH bắt buộc là:

- BHXH bắt buộc do Nhà nƣớc tổ chức và bắt buộc ngƣời lao động và ngƣời

sử dụng lao động phải tham gia.

- BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ : Thai sản, ốm đau, tai nạn lao động,

hƣu trí…

- BHXH bắt buộc là nghĩa vụ và quyền lợi của ngƣời sử dụng lao động và

ngƣời lao động. Ngƣời sử dụng và ngƣời lao động bắt buộc tham gia đóng BHXH

khi có giao kết hợp đồng lao động.

Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?

Trả lời:

Đặc thù của công ty liên quan nhiều đến hợp đồng của các khách hàng, trong

trƣờng hợp công ty bị ảnh hƣởng bởi khách hàng cắt hợp đồng thuê dịch vụ dẫn đến

doanh thu bị sụt giảm nặng nề, nguy cơ giải thể, phá sản không có khả năng chi trả

tiền BHXH.

Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?

Trả lời:

Quỹ BHXH của nhà nƣớc sẽ không có khả năng chi trả, ngƣời lao động sẽ

không đƣợc hƣởng quyền lợi chính đáng của mình.

Chƣa thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với pháp luật về BHXH, lợi ích của cá

100

nhân và tổ chức bị giảm khi có các trƣờng hợp rủi ro xảy ra, nợ kéo dài với số tiền

lớn có thể dẫn đến việc không có khả năng chi trả, chƣa kể nợ BHXH sẽ phát sinh

lãi chậm nộp, ảnh hƣởng đến cả NSDLĐ và NLĐ.

VIII. PHẦN PHỎNG VẤN THỨ TÁM

1. Thông tin chung:

- Giới tính: Nam. Tuổi: 55

- Chức vụ: Chủ doanh nghiệp.

- Đơn vị công tác: Công ty TNHH xây dựng Rạng Đông

Câu 1: Nhận thức của anh như thế nào về BHXH bắt buộc?

Trả lời:

BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do nhà nƣớc tổ chức mà ngƣời lao động

và ngƣời sử dụng lao động bắt buộc tham gia.

Câu 2: Nguyên nhân nào dẫn đến việc công ty anh nợ đóng BHXH?

Trả lời:

Nguyên nhân nợ đọng BHXH: do khó khăn về tài chính, Công ty thƣờng ƣu

tiên những khoản cấp thiết trƣớc nhƣ tiền lƣơng, chi phí nguyên vật liệu.

Câu 3: Công ty anh nợ đóng BHXH đã để lại những hậu quả gì?

Trả lời:

Hậu quả nợ đóng BHXH: các thủ tục BHXH cho ngƣời lao động chậm trễ,

ảnh hƣởng đến quyền lợi NLĐ, ảnh hƣởng uy tín của đơn vị, chịu lãi chậm nộp

101

BHXH trả cao hơn lãi suất của ngân hàng.