Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

MỤC LỤC

Mục lục.....................................................................................................Trang 01

Danh mục những từ viết tắt................................................................................03

Lời mở đầu...........................................................................................................04

Chương I: Khái quát về quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật

Bản..............06

I. Đất nước và con người Nhật

Bản.............................................................06

1. Điều kiện tự nhiên..................................................................................06

2. Điều kiện xã hội.....................................................................................07

3. Thị trường và người tiêu dùng Nhật

Bản................................................09

II. Quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật

Bản..............................................12

1. Những nhân tố thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật

Bản.......................................................................................................12

2. Thực trạng quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản.........................17

3. Tầm quan trọng của thị trường Nhật Bản đối với hoạt động Thương

mại Quốc tế của Việt

Nam..........................................................................19

Chương II: Các rào cản kỹ thuật trong Thương mại của Nhật

Bản.......................................................................................................................23

I. Các rào cản kỹ thuật.................................................................................23

1. Khái niệm chung...................................................................................23

2. Rào cản.................................................................................................23

2.1 Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản.......................................................23

2.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng.......................................26

Trang 1

2.3 Dấu tiêu chuẩn môi trường Ecomark.............................................30

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

2.4 Luật trách nhiệm sản phẩm............................................................31

2.5 Luật vệ sinh thực phẩm...................................................................31

2.6 Hệ thống phân phối........................................................................31

II. Đánh giá về khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật trong thương mại

Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt Nam................................................32

1. Kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu Việt Nam-Nhật Bản......................33

2. Đánh giá khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật của hàng xuất khẩu

Việt Nam...............................................................................................41

Chương III. Các giải pháp nâng cao khả năng vượt qua hàng rào kỹ thuật

trong thương mại của Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt

Nam....................50

I. Các định hướng chiến lược xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến

2010...........................................................................................................50

1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng

chung....................................................50

2. Định hướng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu...............................................51

3. Định hướng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến

2010...................51

II. Các giải pháp............................................................................................56

1. Về phía nhà nước..................................................................................56

1.1 Nhóm giải pháp phát triển quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật

Bản.......................................................................................................56

1.2 Các biện pháp hỗ trợ cho doanh

nghiệp..............................................65

2. Về phía doanh nghiệp Việt Nam...........................................................68

2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm...........................................................68

2.2 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi

Trang 2

trường.............................69

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

2.3 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.......................................................70

2.4 Nắm vững thông tin thị trường và người tiêu dùng Nhật

Bản.......................................................................................................74

Kết luận............................................................................................................... 78

Tài liệu tham khảo..............................................................................................80

Phụ lục.................................................................................................................82

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT

(General Agreement on Tariffs and Trade)

Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN

Kim ngạch xuất khẩu KNXK

Kim ngạch nhập khẩu KNNK

Kim ngạch xuất nhập khẩu KNXNK

Sở hữu công nghiệp SHCN

Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS

Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản JAS

Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN

Tối huệ quốc (Most favored nation) MFN

Tổng thu nhập quốc dân GDP

Trang 3

Viện trợ phát triển chính thức ODA

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Xã hội chủ nghĩa XHCN

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những bước đi đầu tiên của qúa trình mở cửa và hội nhập của Việt

nam, Chính phủ Nhật Bản đã dành cho Việt nam sự giúp đỡ qúi báu trên phương

diện tài chính và kỹ thuật. Các Doanh nhân Nhật Bản đã là những người đi tiên

phong hợp tác đầu tư và kinh doanh với các đối tác Việt nam. Với dân số trên

120 triệu người và là nước có thu nhập bình quân đầu người cao trên thế giới-

Nhật Bản được xem như một thị trường mơ ước đối với các Doanh nghiệp xuất

khẩu của Việt Nam.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đối với Nhật Bản đã tăng đều

hàng năm với mức bình quân khá cao là trên 20% kể từ năm 1990 đến nay, trong

đó tăng cao nhất là 25% trong năm 1999 (đạt 1,8 tỷ USD). Song đến nay Việt

Nam vẫn là một bạn hàng xuất khẩu nhỏ bé của Nhật Bản. Tỷ trọng của Việt

Nam trong kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản năm 1998 mới khoảng 0,5%;

trong khi tỷ trọng của Trung Quốc là 13,2%; của Singapo là 2,9%; Malaysia là

2,7%; Thái Lan là 2,6%; Indonesia là 2,3% và thấp nhất là Philippin cũng đạt tới

1,7%, còn cao hơn Việt nam 3,4 lần.

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của thời kỳ suy

thoái kinh tế, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, do Nhật Bản

Trang 4

vẫn chưa ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam và các vấn đề bất cập khác

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

từ phía chính phủ Việt Nam thì một nguyên nhân cơ bản là các doanh nghiệp

Việt nam chưa nắm vững thị trường Nhật Bản từ thị hiếu, nhu cầu, các yêu cầu

về chất lượng, mẫu mã, phong cách kinh doanh, v.v.. Đây chính là hàng rào kỹ

thuật trong thương mại, chúng luôn là những thách thức đối với hàng hoá xuất

khẩu của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải luôn đầu tư nghiên

cứu, cập nhật thông tin, hiểu rõ thị trường Nhật để từ đó tìm ra các biện pháp,

cách thức tối ưu nhằm vượt qua rào cản, đưa các sản phẩm Made in Viet nam

thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này.

Góp phần luận giải vấn đề nêu trên, em quyết định chọn đề tài: “Hàng rào

kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất

khẩu Việt nam” làm trọng tâm nghiên cứu trong Khoá luận tốt nghiệp của mình.

Bài viết được hoàn thành trên cơ sở tổng hợp các thông tin, phân tích, so sánh và

đánh giá; có tham khảo nhận định của các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học

ở lĩnh vực có liên quan. Nội dung nghiên cứu được chia làm 3 phần như sau:

Chương I: Khái quát về quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản

Chương II: Các rào cản kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản

Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng vượt qua hàng rào kỹ

thuật trong Thương mại của Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt nam

Do những hạn chế nhất định về không gian và thời gian, nhất là về tư liệu,

cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được

những ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.

Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo Khoa Kinh tế Ngoại Thương -

Trường Đại học Ngoại Thương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và đặc biệt là Cô

giáo - Thạc sĩ Nguyễn Thanh Bình - giảng viên bộ môn Marketing - người đã tận

Trang 5

tình hướng dẫn để em hoàn thành Khóa luận Tốt nghiệp này.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-NHẬT BẢN

I. Đất nước và con người Nhật bản

1. Điều kiện tự nhiên

1.1 Vẻ đẹp thiên thiên

Nhật Bản là một đảo quốc nằm ở cực đông Châu Á trải dài từ Bắc xuống

Nam trên một khoảng dài 3800 km (2360 dặm) gồm hơn 6800 đảo, đa số rất nhỏ, chỉ có 340 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2, trong đó đảo Hô-kai-đô ở phía bắc

chiếm 22%, đảo Si-kô-ku và Ky-u-su ở phía nam chiếm 5% và 11% tổng diện

tích Nhật Bản. Riêng đảo giữa Hôn-su chiếm 61% tổng diện tích và 80% dân số.

Quần đảo Ry-u-ky-u (trong đó có đảo Ô-ki-na-oa) nằm ở phía nam 4 đảo chính

này và phân bố rải rác đến tận Đài Loan. Gần 3/4 lãnh thổ Nhật Bản là núi. Núi

đồi và sông ngòi chiếm 84% diện tích, 16% còn lại là đồng bằng. Các đồng bằng

ven biển, nơi tập trung dân cư đông đúc, có diện tích không lớn. Các vùng đất

thấp chính là vùng Kan-to bao quanh Tô-ky-ô, vùng Nô-bi bao quanh Na-gô-y-a

và đồng bằng Sen-đai ở phía bắc đảo Hôn-su. Đỉnh núi cao nhất là ngọn núi lửa

đã tắt Fu-di-y-a-ma, cao 3.776m. Nhật Bản hiện có hơn 60 núi lửa đang hoạt

động, vì vậy động đất thường xảy ra.

Trang 6

1.2 Khí hậu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Nhật Bản nổi lên với núi Phũ Sĩ được coi là biểu tượng của đất nước.

Ngoài ra Nhật Bản còn có rất nhiều sông, hồ cùng với biển Nhật Bản và Thái

Bình Dương bao bọc xung quanh. Giữa các vùng của Nhật Bản có sự chênh lệch

lớn về khí hậu: miền bắc có mùa đông dài, lạnh và có tuyết, miền nam có mùa hè

nóng và mùa đông ôn hòa. Lượng mưa tương đối cao, mùa hè thường có mưa to

và bão. Tuy vậy, nhìn chung khí hậu nước Nhật ấm áp với bốn mùa rõ rệt: phong

cảnh tươi đẹp, muôn hình muôn dạng với hoa anh đào nở rộ vào mùa xuân. Mùa

thu là mùa lá đổ và rất nhiều cảnh đẹp thiên nhiên khác không gì thay thế được

quanh năm đã đem lại sự bình yên và mãn nguyện trong tiềm thức của người dân

nước này. Vẻ đẹp thiên nhiên vẫn được coi là nền tảng của đất nước và con

người Nhật Bản trong suốt 2000 năm qua.

2. Điều kiện xã hội

2.1 Dân cư, ngôn ngữ và cuộc sống của người Nhật Bản

Dân số Nhật bản là 126,7 triệu người (2000), làm việc trong nhiều ngành

công nghiệp, nông nghiệp và thương mại. Tiếng Nhật được sử dụng phổ biến và

được giảng dạy trong hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học. 90% người Nhật

coi mình thuộc tầng lớp trung lưu. Người Nhật cố gắng duy trì địa vị bậc trung

của mình mặc dù ở Nhật giá sinh hoạt đắt đỏ và nhà cửa rất thiếu thốn. Lối sống

của người Nhật đã bị Âu hoá, song các phòng ở nhỏ có trải chiếu Tatami vẫn có

thể thấy ở hầu hết trong các gia đình của người Nhật. Mẫu gia đình điển hình của

người Nhật hiện nay là một gia đình gồm có bố mẹ và từ một đến hai con, sống

trong trong căn nhà 3-4 phòng. Với việc giảm số con trong mỗi gia đình, người

Nhật ngày nay càng có điều kiện quan tâm hơn đến giáo dục con cái, cho nên

ngày nay kinh doanh về ngành giáo dục rất phát triển. Nhờ sự phát triển nhanh

chóng của các đồ điện dùng trong gia đình và các siêu thị nên phụ nữ Nhật ngày

nay có nhiều thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí. Cuộc sống được cải thiện, sự

phát triển của y tế đã làm cho Nhật bản trở thành một trong những nước đứng

Trang 7

đầu thế giới có tuổi thọ trung bình cao nhất.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

2.2 Làm việc

Năm 1992 tổng số người làm việc ở Nhật vào khoảng 64 triệu. Số người

làm các công việc về nông nghiệp, lâm nghiệp và nghề cá đang giảm xuống,

trong khi đó thì số người làm trong các công nghiệp lưu thông phân phối và sản

xuất chế biến lại tiếp tục tăng tới con số 58 triệu người. Các hãng, công ty Nhật

thường có truyền thống thuê người làm việc cho hãng hoặc công ty của mình

suốt đời, nhưng hiện nay việc tuyển dụng người làm việc theo chế độ như vậy

ngày càng trở nên khó khăn vì lực lượng lao động trẻ gần đây bị giảm sút và số

lượng công nhân muốn có chế độ làm việc linh hoạt và tự do hơn ngày càng

tăng. Do đó, số lượng công nhân làm việc không cố định và tạm thời đang tăng

lên. Một sự thay đổi quan trọng khác là số lượng lao động nữ ngày càng tăng.

Việc sử dụng các nhân công già tiếp tục ở lại làm việc là một vấn đề quan trọng,

điều này nói lên xã hội Nhật bản đang trở nên già cỗi. Hiện nay người ta đang

khuyến khích giảm giờ làm việc xuống còn 7 giờ một ngày và 5 ngày làm việc

trong một tuần, nhưng việc áp dụng vẫn còn hạn chế.

2.3 Công nghệ và các sản phẩm tuyệt hảo

Công nghệ tiên tiến của nước Nhật hiện đại đang sản xuất ra một loạt các

sản phẩm, kể cả ôtô, các thiết bị chính xác, hóa chất, máy tính, các sản phẩm

điện tử và bán dẫn khác. Hầu như không có nguồn tài nguyên thiên nhiên nào,

cho nên Nhật bản đã phải bù đắp cho sự thiếu hụt về tài nguyên bằng công nghệ

để sản suất ra các thiết bị cao cấp, nhỏ, dễ sử dụng. Hai cuộc khủng hoảng năng

lượng trong những năm 1970 đã buộc các công ty Nhật bản phải tồn tại bằng

cách phân phối hợp lý, dự trữ năng lượng và cải tiến kỹ thuật hơn nữa. Trong

những năm 1980 các sản phẩm Nhật bản với chất lượng cao, giá thành hạ đã nổi

tiếng trên toàn thế giới. Xuất khẩu của Nhật về ôtô, đồ điện, máy móc và các sản

phẩm khác ngày càng tăng. Đây là thời kỳ phát triển mạnh của các ngành công

nghiệp Nhật bản. Ngày nay các sản phẩm Nhật bản đang được sử dụng rộng rãi ở

Trang 8

hầu hết các nước. Một cuộc săn lùng công nghệ tiên tiến hơn đã làm cho các

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

ngành công nghiệp cao cấp của Nhật ngày càng phát triển. Công nghệ tiên tiến

này đã làm cho nước Nhật trở thành xã hội có lượng thông tin cao.

2.4 Các dịch vụ hỗ trợ xã hội hiện đại

Các mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc được trang bị hiện đại

vô cùng thiết yếu đối với một xã hội hiện đại. Năm 1964, Nhật bản là nước đầu

tiên trên thế giới đưa vào sử dụng tầu hỏa siêu tốc mang tên SHINKANSEN. Tại

các thành thị Nhật bản, hệ thống xe khách và tầu điện ngầm điều khiển bằng máy

tính tạo thành một mạng lưới hoạt động rất hiệu quả. Trong những năm gần đây,

lưu lượng sử dụng các phương tiện giao thông chở hàng, chở khách quá nhiều đã

làm cho việc duy trì bảo dưỡng, mở rộng hệ thống đường bộ và các đường khác

trở thành một vấn đề cấp bách. Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường

hàng không cũng đã được sử dụng đến mức tối đa. Trong lĩnh vực thông tin liên

lạc, Nhật bản có tỷ lệ sử dụng phương tiện thông tin bằng điện thoại cao nhất thế

giới, một phần do việc sử dụng rộng rãi máy điện thoại nhỏ cầm tay. Từ một góc

phố người ta có thể gọi điện thoại ra nước ngoài một cách dễ dàng. Truyền fax

và các dữ liệu cũng được sử dụng rộng rãi. Ở Nhật bản hiện có tới 125 tờ báo

hàng ngày được xuất bản và được phát tới tận nhà những người đặt mua. Nhật

bản đang bước vào kỷ nguyên mỗi người dân Nhật có một máy truyền hình màu.

Truyền hình bằng vệ tinh hiện nay đã trở thành một ngành công nghiệp hoàn

chỉnh.

3. Thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản

Nhật Bản ngày nay là một thị trường mở, quy mô lớn đối với các nhà đầu

tư và hàng hóa nước ngoài với khoảng 125,9 triệu dân có mức sống khá cao

(GDP của Nhật Bản năm 2002-theo ước tính-là 35.039 USD một người). Năm

2002 tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản là 387 tỷ USD. Người tiêu dùng

Nhật Bản đánh giá các sản phẩm nội địa và nước ngoài theo tiêu chí chất lượng.

Trang 9

Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Nhật Bản cũng là thị trường cạnh tranh cao do lượng hàng nhập khẩu nhiều và

xuất xứ khác nhau.

3.1 Những thay đổi về mặt xã hội

Sự sụp đổ của nền “kinh tế bong bóng” dẫn đến sự suy thoái của nền kinh

tế Nhật Bản trong những năm 90. Lúc đó ở Nhật, vật giá cao vào loại nhất thế

giới. Đồng thời, sự vươn lên đòi quyền bình đẳng của phụ nữ nhất là phụ nữ trẻ

đã khá rõ rệt. Giờ đây, họ không chỉ ở nhà lo việc nội trợ mà nhiều người còn đi

làm ở các công sở hoặc tham gia công việc xã hội. Xã hội Nhật Bản tiếp nhận

ảnh hưởng của lối sống Mỹ và Châu Âu du nhập v.v.. Đó là những đặc điểm dẫn

đến những thay đổi về mặt xã hội của Nhật Bản dưới đây:

- Tiền công cho người có tuổi ngày càng giảm dần

- Phụ nữ ngày càng có ảnh hưởng đến những thay đổi xã hội

- Cơ cấu dân số thay đổi do số người trẻ tuổi không muốn kết hôn ngày

càng tăng, bình quân số con trong một gia đình giảm dẫn đến số người

già đang ngày một tăng, dự kiến năm 2005 dân số Nhật Bản là hơn 129

triệu người trong đó số người già trên 65 tuổi khoảng 25 triệu chiếm

hơn 19% dân số, số người từ 15 đến 64 tuổi khoảng 84 triệu chiếm

65% dân số.

3.2 Người tiêu dùng Nhật Bản

Người tiêu dùng Nhật Bản nhìn chung có độ thẩm mỹ cao, tinh tế. Đặc

tính của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu dùng cho

rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu. Phần lớn các hộ gia đình người Nhật đã

được trang bị những thiết bị sở hữu lâu dài như máy giặt, tủ lạnh, TV màu, máy

hút bụi, đầu video (95%), dàn máy nghe nhạc, lò vi sóng, máy điều hoà (50-

60%).

Người Nhật là người tiêu dùng có yêu cầu khắt khe nhất. Sống trong môi

trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản đặt ra những tiêu chuẩn

Trang 10

đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng

tốt. Yêu cầu này còn bao gồm dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà

sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản

phẩm đó. Những vết xước nhỏ, mẫu chỉ cắt còn xót lại trên mặt sản phẩm, bao bì

xô lệch v.v.., những lỗi nhỏ do sơ ý trong vận chuyển, hay khâu hoàn thiện sản

phẩm cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế

hoạch xuất khẩu lâu dài. Bởi vậy cần phải có sự quan tâm đúng mức tới khâu

hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển hàng. Người tiêu dùng

Nhật Bản không chỉ yêu cầu hàng chất lượng cao, bao bì đảm bảo, dịch vụ bán

hàng và sau bán hàng tốt mà còn muốn giá cả hợp lý, đặc biệt là từ sau khi nền

“kinh tế bong bóng” sụp đổ. Những năm 80, người Nhật sẵn sàng mua sản phẩm

đắt tiền cho những hàng cao cấp có nhãn mác nổi tiếng, nhưng từ sau năm 92 và

93, nhu cầu sản phẩm rẻ hơn đã tăng lên. Tuy nhiên người tiêu dùng Nhật Bản

vẫn có thể trả tiền cho những sản phẩm sáng tạo, chất lượng tốt mang tính thời

thượng hay loại hàng được gọi là ‘hàng xịn”. Tâm lý này vẫn không thay đổi.

Người tiêu dùng Nhật Bản nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày. Các

bà nội trợ đi chợ hàng ngày là lực lượng quan trọng ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu

dùng, họ hay để ý đến biến động giá và các mẫu mã mới.

Người Nhật rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa: Nhật Bản có 4

mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh giá và

khô. Đặc điểm khí hậu tác động đến khuynh hướng tiêu dùng. Quần áo, đồ dùng

trong nhà, thực phẩm là những mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng theo mùa. Việc

bao gói sản phẩm cũng phải đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong những điều

kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Cùng với tác động của khí hậu, yếu tố tập quán

tiêu dùng cũng cần phải được nghiên cứu tham khảo trong kế hoạch khuyếch

trương thị trường tại Nhật Bản. Ví dụ hầu như các gia đình người Nhật không có

hệ thống sưởi trung tâm và để bảo vệ môi trường. Nhiệt độ điều hoà trong nhà

Trang 11

luôn được khuyến khích không để ở mức qúa ấm (nhiệt độ cao) hoặc quá mát.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Bởi vậy quần áo trong nhà mùa đông của người Nhật phải dầy hơn áo dùng trên

thị trường Mỹ, hoặc áo có lót là không phù hợp trong mùa hè.

Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: hàng hóa

có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Vào một

siêu thị của Nhật Bản mới hình dung được tính đa dạng của sản phẩm đã phổ

biến đến mức nào ở Nhật. Ví dụ một mặt hàng dầu gội đầu nhưng bạn không thể

đếm xuể được các chủng loại: khác nhau do thành phần, màu sắc, hương thơm,...

Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất

quan trọng để đưa hàng của bạn tới người tiêu dùng.

3.3 Phân phối hàng hóa và thiết lập quan hệ kinh doanh

Hàng hóa vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu

thông nên đến tay người tiêu dùng có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các

khâu phân phối của Nhật từ sản xuất đến bán buôn, bán lẻ có những yêu cầu

khác nhau. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của

người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý (không bị lệ thuộc vào thông tin

về giá bán lẻ ở Nhật).

Tất cả các hàng hóa bán trên thị trường Nhật Bản hiện nay đều phải chịu

mức thuế tiêu thụ là 5% (cho tới năm 1997 là 3%) và hàng nhập khẩu cũng chịu

chung quy định này.

Tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau là yếu tố quyết định thành công trong quan

hệ với công ty Nhật Bản. Bởi vậy việc cung cấp những thông tin cần thiết cho

khách hàng là rất quan trọng. Bao gồm việc giới thiệu về công ty, catalogue giới

thiệu sản phẩm (ghi giá nếu có thể), mẫu hàng, bảng giá, yêu cầu về lượng hàng

cho lô tối thiểu, điều kiện giao hàng, khả năng cung cấp v.v...

Cần phải quản lý chất lượng nghiêm ngặt vì chất lượng là yêu cầu cơ bản

để duy trì quan hệ kinh doanh.

Trang 12

Thời gian giao hàng: đúng hạn, kịp thời và ổn định.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Sản phẩm phong phú về mẫu mã, đẹp về kiểu dáng, số lượng nhỏ và vòng

đời ngắn. Do mức sống cao nên người tiêu dùng không đòi hỏi tất cả các sản

phẩm nhất thiết phải có độ bền lâu năm. Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất

lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người

tiêu dùng Nhật Bản hiện nay.

II. Quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản

1. Những nhân tố thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản

1.1 Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và khu vực hoá

Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu những

năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế đối ngoại của hầu

hết các nước, trong đó có quan hệ kinh tế Việt nam-Nhật bản.

Bước vào thập kỷ 90, xu thế hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành

chủ đề chính của thời đại. Hình thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế đã chuyển

từ chạy đua vũ trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói

rằng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới tác động của quốc tế hóa sản

xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính tuỳ thuộc vào

nhau, bổ xung cho nhau của nền kinh tế các nước vốn đã khá phát triển lại càng

gia tăng mạnh mẽ trong xu thế của quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Chính quá

trình toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng chặt

chẽ đã làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như

các công ty trên thế giới ngày càng phức tạp, đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự

do hoá về thương mại và đầu tư đã trở thành đặc trưng của sự phát triển của nền

kinh tế thế giới trong nhưng năm gần đây. Xu hướng này làm cho các hoạt động

thương mại, đầu tư của các quốc gia và các công ty trong khu vực cũng ngày

càng mang tính quy định, bổ sung cho nhau như một chỉnh thể thống nhất.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế lớn

Trang 13

của thế giới như Mỹ, Nhật bản và EU đang dẫn dắt tiến trình tự do hoá-toàn cầu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

hoá hiện nay; đặc biệt là trong việc chi phối Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân

hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...

Cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá cũng đang diễn ra

mạnh mẽ trong thời đại ngày nay. Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế là lưu thông

tự do hàng hoá và yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu; nhưng trong tương lai

gần, mục tiêu này chưa được thực hiện một cách thống nhất. Chính vì vậy, việc

từng nhóm nước liên kết lại với nhau, cùng nhau đưa ra những ưu huệ cao hơn

những ưu huệ quốc tế hiện hành, loại bỏ các hàng rào ngăn cách lưu thông hàng

hoá và các yếu tố sản xuất giữa các nước, tạo điều kiện cho việc lưu thông tự do

một vài loại hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất giữa các nước là một khâu quan

trọng đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế. Từ đó có thể khẳng

định rằng, khu vực hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu không mâu thuẫn với nhau,

mà thúc đẩy lẫn nhau, bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nảy sinh trong bối cảnh

toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định trong khi trình độ

hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn cầu hoá kinh tế. Khu vực hoá

phát triển rộng rãi trên toàn thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát

triển ngày càng sâu sắc hơn.

Là một nước thành viên của ASEAN, các quan hệ kinh tế của Việt nam

với Nhật bản vừa chịu sự chi phối của những nguyên tắc chung trong hợp tác

kinh tế của Hiệp hội với các nước và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh

chung và chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật bản với

các nước trong khu vực này. Thành công của hội nghị cấp cao các nước ASEAN

lần thứ 6 tại Hà nội cũng như các cuộc gặp với ba nước đối thoại trong khu vực

chứng tỏ ASEAN tiếp tục là một tổ chức có sức sống mạnh mẽ, trong khó khăn

thử thách càng thắt chặt đoàn kết, tranh thủ được lòng tin của cộng đồng quốc tế

cũng như sự hợp tác của các nước đối thoại, trong đó Nhật bản là một đối tác

quan trọng. Và, thành công của Hội nghị này cùng với các cuộc viếng thăm

Trang 14

chính thức Việt nam của Thủ tướng Nhật bản, Tổng thống Hàn quốc và Phó chủ

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa đã một lần nữa chứng tỏ vị trí của Việt

nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và quan hệ hợp tác kinh tế của

nước ta với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Nhật bản, ngày càng được

củng cố và phát triển.

1.2 Sự điều chỉnh trong chiến lược kinh tế đối ngoại của Nhật bản hướng về

Châu Á

Xét về động lực tăng trưởng, khu vực Đông và Đông Nam Á là nơi đang

diễn ra những biến động quan trọng, hay còn được mệnh danh là trung tâm của

các cuộc cách mạng sôi động về kinh tế mà trọng tâm là cuộc cách mạng về vốn.

Thông qua đó, người ta thực hiện các biện pháp kết hợp để huy động tối đa các

nguồn vốn trong nước và nước ngoài, thực hiện chế độ tài chính chặt chẽ. Cách

đây không lâu, công nghiệp dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch trong khu vực

chưa phát triển. Song trong những năm 1990, công nghiệp dịch vụ nói chung,

ngành du lịch nói riêng ở các nước trong khu vực đã thành ngành quan trọng,

chiếm trung bình từ 25% đến 30% GDP. Cuộc cách mạng về viễn thông đang

diễn ra mạnh mẽ cũng được tập trung nhiều vào các ngành dịch vụ thanh toán,

du lịch và hiện đang được coi là một ngành công nghiệp quan trọng trong các

nước công nghiệp phát triển Châu Á. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã

làm thay đổi một cách cơ bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc của Châu Á.

Gắn với quá trình chuyển đổi cơ cấu và tự do hoá thương mại, khu vực Châu Á

hiện nay đang tiến hành một cuộc cách mạng thương mại. Nó gia tăng khả năng

xuất khẩu cả hàng hoá lẫn dịch vụ với số lượng ngày càng tăng và chất lượng

ngày càng cao sang các thị trường thế giới.

Cùng với sự tác động của những thay đổi cơ bản trong môi trường kinh tế

quốc tế và khu vực đến các hoạt động kinh tế đối ngoại của tất cả các nước-trong

đó có Nhật Bản thì sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh

Trang 15

bành trướng kinh tế ra nước ngoài của Nhật Bản trong những năm 1990, đặc biệt

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

là vào các nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, còn xuất phát từ

những nhân tố mang đặc thù Nhật Bản như sau:

Thứ nhất, nền kinh tế Nhật bản có đặc trưng là một nền kinh tế hướng

ngoại. Việc thiết lập các quan hệ trao đổi kinh tế với nước ngoài là điều kiện

quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế vững chắc của Nhật Bản.

Thứ hai, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản bắt đầu tăng mạnh từ giữa thập

niên 1980 chủ yếu là do đồng yên tăng giá nhanh kể từ sau Hiệp ước Plaza,

tháng 9-1985.

Thứ ba, động lực để các công ty Nhật Bản chuyển đổi chiến lược sang

Châu Á còn do họ muốn thực hiện tốt sự dịch chuyển cơ cấu thị trường và công

nghệ sang các nước đang theo đuổi chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất

khẩu nhằm tạo dựng mô hình “Đàn nhạn bay” mà Nhật Bản là con chim nhạn

đầu đàn, có vị trí ngày càng chi phối tất cả các nền kinh tế Châu Á khác.

Thứ tư, cách thức tổ chức và quản lý của các công ty Nhật Bản mang

phong cách Á Đông mà đặc trưng của nó là chủ nghĩa phường hội và quan hệ

thân tộc là những thuộc tính rất dễ được các nước trong khu vực chấp nhận.

Từ những đặc thù đó ta có thể thấy triển vọng hợp tác phát triển kinh tế

Việt Nam-Nhật Bản là vô cùng khả quan, chắc chắn trong tương lai gần quan hệ

kinh tế đối ngoại của hai nước sẽ được đẩy lên một bước mới; xứng đáng với

mối quan hệ lâu bền về văn hoá, lịch sử của hai dân tộc.

1.3 Sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại, xây dựng và phát triển một

nền kinh tế mở của Việt nam

*. Chính sách kinh tế đối ngoại gắn liền và phục vụ cho việc xây dựng và phát

triển nền kinh tế mở

Để hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực, nhà nước ta đã tiến hành hàng

loạt các biện pháp tích cực. Đó là việc xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ bao

cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất-nhập khẩu. Ngân hàng Ngoại thương được

Trang 16

kinh doanh mua bán ngoại tệ với mọi đối tượng thuộc các thành phần kinh tế.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở làm hàng xuất

khẩu thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời tình trạng độc quyền, tính cửa

quyền trong sản xuất kinh doanh xuất-nhập khẩu được xoá bỏ. Chính phủ cũng

tăng cường sự quản lý thống nhất, chặt chẽ đối với mọi hoạt động kinh tế đối

ngoại bằng luật pháp và chính sách.

Đồng thời Chính phủ cũng tăng cường, khuyến khích và thu hút vốn đầu

tư nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) bằng những biện

pháp và chính sách thích hợp. Để làm được điều này, chúng ta đã chủ trương xây

dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi có các chính sách, luật lệ,

quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên tâm đầu

tư phát triển sản xuất và kinh doanh. Nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục

hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuế đất, giải phóng

mặt bằng, lắp điện, nước, nhập máy móc thiết bị cho sản xuất...

Việt nam tích cực chuẩn bị và chủ động từng bước tham gia tiến trình toàn

cầu hoá và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới theo nguyên tắc giữ vững

độc lập chủ quyền. Chúng ta chủ trương hội nhập từng bước vững chắc, khai

thác tốt các nguồn lực bên trong và bên ngoài; tận dụng các tiềm năng của phân

công lao động quốc tế và các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.

Với sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại như trên, môi trường

đầu tư sẽ thuận lợi hơn, Việt Nam sẽ thu hút được nhiều hơn đầu tư trực tiếp của

các khu vực, đặc biệt là từ một nước giàu tiềm lực kinh tế như Nhật Bản. Chúng

ta tin tưởng rằng thương nhân Nhật sẽ đến với Việt Nam không chỉ để tìm hiểu

về một nền văn hoá truyền thống giàu bản sắc mà còn vì những lợi ích kinh tế

lâu dài.

2. Thực trạng quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản

Trang 17

2.1 Kim ngạch xuất, nhập khẩu Việt Nam-Nhật Bản

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Quan hệ thương mại giữa hai nước trước năm 1992 vẫn còn ở quy mô

nhỏ, nhiều hợp đồng làm ăn buôn bán tạm thời bị hoãn lại và hoàn toàn chưa

phản ánh đúng tiềm năng kinh tế của hai quốc gia. Từ năm 1992 giá trị buôn bán

Viêt-Nhật đã tăng mạnh và liên tục, đạt 1.321 triệu USD và lên đến 2.637 triệu

USD vào năm 1995, sau đó là 3.230 triệu USD năm 1998; 4.871 triệu USD năm

2000; 4.724 triệu USD năm 2001 và 4.947 triệu USD vào năm 2002 vừa qua.

Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam-Nhật Bản thì cán cân thương mại

ngày càng có lợi cho Việt Nam. Nếu từ năm 1992 đến 1995 Nhật Bản xuất siêu

sang Việt Nam thì từ năm 1997 đến nay, Việt Nam lại xuất siêu sang Nhật Bản.

Năm 1997, Việt Nam xuất siêu so với Nhật Bản là 900 triệu USD, và năm 1998,

do tác động của cuộc khủng hoảng nên mức xuất siêu của ta sang Nhật Bản có

hạ xuống nhưng vẫn đạt 400 triệu USD. Năm 2001 Việt Nam cũng đạt mức xuất

siêu gần 300 triệu USD. Từ năm 1993 đến 1998, giá trị xuất khẩu của Việt Nam

sang Nhật Bản trung bình tăng 40% và nhập khẩu từ Nhật Bản tăng trung bình

chỉ có 5%.

BẢNG 1

KIM NGẠCH MẬU DỊCH VIỆT NAM-NHẬT BẢN 2001-2002

2000

2001

2002

- Xuất khẩu sang Nhật

2.509

2.438

2.621

- Nhập khẩu từ Nhật

2.215

2.509

2.250

Cán cân mậu dịch

294

-71

371

Tổng kim ngạch

4.724

4.947

4.871

Nguồn: Hải quan Việt Nam, Đơn vị: triệu USD

2.2 Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản vào Việt Nam

Tính đến hết năm 2002, Nhật bản đã đầu tư vào Việt nam 369 dự án, với

tổng số vốn đầu tư 4,285 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện đạt 3,125 tỷ USD,

đứng thứ 3 trong danh sách các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam và là

Trang 18

nước có tỷ lệ vốn đã thực hiện cao nhất (đạt xấp xỉ 73%).

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Nhìn chung các dự án đầu tư của Nhật triển khai tốt, nhiều dự án hoạt

động hiệu quả cao, có những sản phẩm thay thế được hàng nhập khẩu và tham

gia xuất khẩu. Qui mô vốn trung bình của các dự án đầu tư của Nhật là 10,4 triệu

USD/dự án, xấp xỉ qui mô trung bình của các dự án đầu tư nước ngoài nói

chung.

BẢNG 2

FDI CỦA NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM 1996-8/2002

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Số vốn

687

620

199

50

77

159

150

Số dự án

62

55

19

10

23

39

39

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Đơn vị: triệu USD

Theo địa bàn, các nhà đầu tư Nhật bản có mặt ở 31 tỉnh và thành phố tại

Việt nam nhưng tập trung chủ yếu ở 3 địa phương lớn là Hà nội (66 dự án/ 948

triệu USD). TP.Hồ Chí Minh (134 dự án/ 708 triệu USD), Đồng Nai (33 dự án/

558 triệu USD).

Theo lĩnh vực, các công ty Nhật Bản tham gia vào nhiều lĩnh vực nhưng

tập trung vào công nghiệp (21 dự án/ 2,01 tỷ USD), xây dựng (26 dự án/ 541

triệu USD), giao thông-viễn thông (22 dự án/ 432 triệu USD).

2.3 Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật cho Việt nam

Kể từ khi nối lại viện trợ cho Việt nam (tháng 11/1992), Nhật bản luôn là

nhà tài trợ lớn nhất cho Việt nam. Tính đến nay, tổng ODA cam kết của Nhật

cho Việt nam đạt xấp xỉ 8 tỷ USD.

Viện trợ ODA của Nhật bản dành cho Việt nam gồm 3 loại: Viện trợ có

hoàn lại dành cho dự án, Viện trợ có hoàn lại phi dự án và Viện trợ không hoàn

lại. Việc thực hiện các chương trình, dự án vay tín dụng ODA Nhật bản đã có

tiến bộ qua các năm, tỷ lệ giải ngân của Việt nam trong tài khoá 1999 đạt 20,3%,

tài khoá 2000 là 17,1%, cao hơn tỷ lệ giải ngân trung bình của các nước tiếp

nhận tín dụng ODA Nhật bản tại các năm tài chính tương ứng (khoảng 14-15%).

BẢNG 3

Trang 19

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

QUY MÔ ODA CHÍNH PHỦ NHẬT BẢN ĐÃ CAM KẾT DÀNH CHO VIỆT NAM

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Viện trợ không hoàn lại

110

99

106

87

157

140

47

Viện trợ có hoàn lại

744

702

672

886

769

611

710

Tổng số

854

801

778

973

926

751

757

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đơn vị triệu USD

ODA Nhật bản tập trung hỗ trợ Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, trước

hết là giao thông vận tải biển, điện. Chính phủ Nhật hiện dành ưu tiên cao cho

các hoạt động hợp tác, hỗ trợ phát triển khu vực, đặc biệt là khu vực lưu vực

sông Mêkông, trong đó có sáng kiến hợp tác cả Việt Nam trong khuôn khổ hợp

tác ASEAN “Phát triển các vùng nghèo thuộc hành lang Đông-Tây”. Do vậy, ta

cần tham gia tích cực và thông qua các diễn đàn hợp tác khu vực để tranh thủ sự

hỗ trợ của Nhật bản cho khu vực trong một số lĩnh vực như: phát triển cơ sở hạ

tầng, phát triển công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm

nghèo...

3. Tầm quan trọng của thị trường Nhật bản đối với hoạt động Thương mại

Quốc tế của VN

*. Quan hệ thương mại Việt nam - Nhật Bản góp phần tích cực vào sự phát triển

của ngoại thương Việt nam

Quan hệ thương mại với Nhật Bản từ lâu đã giữ một vị trí quan trọng hàng

đầu trong quan hệ thương mại của nước ta với thế giới. Đóng góp vào kết quả,

thành tựu phát triển chung của ngoại thương Việt nam trên đây chắc chắn có vai

trò không nhỏ của ngoại thương Nhật Bản với vị trí là bạn hàng thứ nhất trong số

8 bạn hàng lớn nhất của Việt nam trong những năm vừa qua (1995-2002). Tốc

độ tăng trưởng thương mại bình quân giữa Việt Nam và Nhật Bản là 30%; trong

đó tăng trưởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9%, đều tăng nhanh hơn

so với tốc độ tăng trưởng chung của ngoại thương Việt Nam kể cả xuất và nhập

khẩu. Năm 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật đạt 4.947 triệu USD

Trang 20

chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Với sự tăng trưởng liên tục của các hoạt động xuất nhập khẩu trên đây cho

thấy rõ ràng là quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt-Nhật trong những năm

vừa qua đã ngày càng khẳng định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu

đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam. Kim ngạch buôn bán hai chiều từ

năm 1992 đến nay đã liên tục tăng về quy mô giá trị kể cả KNXK và KNNK,

trong đó tốc độ tăng của xuất khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng của nhập

khẩu. Đáng lưu ý trong các mặt hàng xuất khẩu, có tôm đông lạnh và mực, hàng

may mặc, cà phê, than đá đang là những mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng

nhanh nhất. Tôm đông lạnh Việt Nam chiếm tỷ phần xấp xỉ 10% thị phần nhập

khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản cũng đã trở thành thị trường lớn nhất đối với hàng

may mặc xuất khẩu của Việt Nam, lại là thị trường phi hạn ngạch nên tiềm năng

của thị trường này cho hàng may mặc của Việt Nam là rất lớn. Than đá Việt

Nam xuất sang thị trường Nhật gần đây đạt mức cao kỷ lục tới hơn triệu

tấn/năm. Thị trường cà phê, giầy dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triển

vọng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Có một số mặt hàng xuất khẩu của

Việt Nam trong vài năm gần đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng và

giá cả, đáng chú ý là hàng may mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ sản như tôm

và mực. Năm 1998, Việt nam đã vươn tới vị trí một trong bốn nước xuất khẩu

hàng đầu sang Nhật về một số mặt hàng như than đá (đứng thứ hai), mực (thứ

hai), tôm (thứ tư), sơ mi nam làm từ sợi tổng hợp hoặc nhân tạo (thứ tư).... Phần

lớn đối thủ cạnh tranh các mặt hàng này của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản là

các nước Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia,

Philippin, Ấn Độ...Rõ ràng là hàng hoá Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh thị

trường Nhật Bản, một thị trường có sức tiêu thụ rất mạnh nhưng cũng đã từng

nổi tiếng là khó tính. Không những thế, nhìn về triển vọng, xuất khẩu hàng hoá

Việt Nam sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp tục phát triển khả quan hơn nữa,

khi mà nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm 1999 bắt đầu được phục hồi trở lại. Nhu

Trang 21

cầu tiêu dùng của người Nhật đối với các hàng hoá tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

càng tăng hơn, nếu họ quen sử dụng. Còn đối với các hàng hoá tiêu dùng cho sản

xuất của Việt Nam vẫn xuất sang Nhật như dầu thô, than đá, sắt thép... thì thực

tiễn đã cho thấy đó là những hàng hoá nguyên liệu thiết yếu dùng cho sản xuất

công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần đến. Như ý kiến của các

chuyên gia Bộ Thương Mại Việt Nam, mặc dù năm 1998 là thời gian mà nề kinh

tế Nhật Bản đã chạm tới “đáy” của sự suy thoái, với tốc độ tăng trưởng –1,8%,

đạt “kỷ lục” chưa từng có kể từ 5 thập niên lại đây. Song trong quan hệ thương

mại với nước ta khi đó, Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới

60-70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản phẩm dầu thô, than đá và hàng may

mặc, hàng thủy hải sản của ta.

Hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ Nhật Bản vào Việt Nam, tuy về quy mô

giá trị cũng như tốc độ tăng trưởng hàng năm không mạnh mẽ, sôi động bằng

hoạt động xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Nhật Bản song lại có tác dụng

đòn bẩy rất quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nền kinh tế, mà trực tiếp là các hoạt động sản xuất kinh doanh

hướng về xuất khẩu. Ngoài các máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất công nghệ

hiện đại, các nguyên liệu vật tư kỹ thuật cao đã nhập vào nước ta thông qua con

đường thực thi các dự án liên doanh đầu tư Việt-Nhật (để phát triển sản xuất

kinh doanh trong nhiều ngành hàng khác nhau như xi măng, ôtô, xe máy, điện

tử...) hoặc thông qua con đường việc trợ phát triển chính thức (nhằm xây dựng

các cơ sở hạ tầng, các công trình kinh tế-kỹ thuật trọng điểm về đường giao

thông, cầu cảng, hệ thống cấp thoát nước, các nhà máy nhiệt điện, thủy điện...)

có giá trị nhiều tỷ đôla, thì hàng năm, chúng ta đã nhập khẩu từ Nhật nhiều mặt

hàng quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế nước ta, đó là

các loại phân bón hoá học (trên 150 ngàn tấn/năm), xăng dầu (150 ngàn

tấn/năm). Ngoài ra, cần nói thêm rằng, do chủ trương của ta nên những năm qua

việc nhập khẩu các hàng tiêu dùng từ Nhật Bản chiếm tỷ lệ không cao, khoảng

Trang 22

3%. Tuy nhiên trên thực tế, có thể thấy rằng không ít gia đình, nhất là các gia

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

đình có mức sống trung lưu trở lên đã có thói quen sử dụng hàng Nhật. Nhiều

loại hàng tiêu dùng của Nhật đã có mặt trên thị trường Việt Nam qua nhiều con

đường phi mậu dịch khác nhau mà Nhà nước ta không thể kiểm soát được hết.

Nếu loại trừ các yếu tố tiêu cực như nhập lậu, nhập trốn thuế... thì phải thừa nhận

rằng do có giao lưu mở cửa dễ dàng, kinh tế Việt Nam tăng trưởng, thu nhập của

nhân dân khá lên nhiều nên mức sống thực tế, trong đó có nhu cầu tiêu dùng

hàng ngoại đã được tăng lên. Đó lại là khía cạnh tích cực cần khuyến khích phát

triển và đương nhiên tương lai không xa trong quan hệ thương mại hai nước

Việt-Nhật với chức năng lưu thông, trao đổi hàng hoá quốc tế để mở rộng khả

năng tiêu dùng cho các tầng lớp dân cư ngày càng phát triển hơn cũng phải góp

phần tích cực thúc đẩy xu thế này. Đương nhiên, đó là tương lai tiến tới, vì thực

tế nước ta hiện nay do còn là nước nghèo nên cần phải tiết kiệm tiêu dùng, nhất

là đối với việc tiêu dùng các loại hàng xa xỉ phẩm của nước ngoài thì vẫn cần

phải hạn chế tối đa mới có điều kiện tích lũy vốn từ chính nội lực của nhân dân,

của đất nước để tăng cường cho đầu tư phát triển nền kinh tế, trong đó có ưu tiên

đầu tư cho phát triển mạnh các ngành hàng sản xuất để xuất khẩu.

Trong tương lai, với ưu thế là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế

giới, có vị trí địa lý gần Việt Nam, có cơ cấu kinh tế phù hợp cho hợp tác kinh tế,

trao đổi hàng hoá của ta, có tiềm năng lớn về kỹ thuật và vốn, Nhật Bản sẽ tiếp

tục giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt

Trang 23

Nam.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

CHƯƠNG II

CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN

I. Các rào cản kỹ thuật

1. Khái niệm chung

Là hệ thống các chỉ tiêu, quy định manh tính kỹ thuật của một quốc gia,

hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nước ngoài vào thị trường nội địa, nhằm bảo

hộ sản xuất trong nước.

2. Rào cản

2.1 Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản

Hiện tại, quyền này được chia làm hai phần: Các đối tượng sở hữu trí tuệ

và Luật bằng sáng chế nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh.

Các Luật mô hình hữu dụng, Luật thiết kế, Luật Bản quyền được xếp vào

loại sở hữu trí tuệ. Luật Nhãn hiệu hàng hoá, Luật ngăn chặn cạnh tranh không

lành mạnh và các luật tương tự được xếp vào loại được bảo hộ bởi Luật Bằng

sáng chế nhãn hiệu hàng hóa kinh doanh.

Thời hạn đối với phát minh sáng chế là 20 năm kể từ ngày được áp dụng

và thời hạn đối với bản quyền là 50 năm sau khi tác giả qua đời.

2.1.1 Luật mới về Quyền sở hữu trí tuệ

Phạm vi của Luật mới (1995) về quyền sở hữu trí tuệ đã được mở rộng

nhằm đáp ứng sự đa dạng của ngành công nghiệp và công nghệ cùng với sự phát

triển của hệ thống máy vi tính và sự cần thiết phải chú ý đến các sản phẩm mới

của ngành công nghệ sinh học. Vì vậy, những đối tượng mới không nằm trong

diện được bảo hộ của luật Sở hữu trí tuệ hoặc Luật Bản quyền hiện tại cần được

đề cập đến trong luật mới. Dưới đây là một số nội dung của Luật Sở hữu trí tuệ

mới.

Trang 24

- Bảo hộ mô hình kinh doanh

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

“Phát minh mô hình kinh doanh” là việc đưa ra một hình mẫu kinh doanh

kiểu mới bằng cách sử dụng các phương tiện, thiết bị công nghệ như hệ thống

hoặc mạng lưới xử lý thông tin.

Vì ý tưởng kinh doanh, mô hình kinh doanh hay phương pháp kinh doanh không

phải là một ý tưởng kỹ thuật nên nó không thể là đối tượng được cấp bằng sáng

chế. Tuy nhiên nó có thể được cấp bằng sáng chế nếu như ý tưởng kinh doanh đó

thực tế có sử dụng mạng vi tính hoặc tương tự.

- Bảo hộ các sản phẩm phần mềm

Phần quan trọng nhất trong máy tính là sản phẩm phần mềm vì thế việc

bảo hộ nó trở thành một vấn đề quan trọng. Ở Nhật Bản, Trung tâm Thông tin

Phần mềm đã đăng ký bản quyền phần mềm từ năm 1987. Theo đăng ký này

phải xác định rõ tên của người giữ bản quyền, ngày tạo lập và nội dung của nó.

Thời hạn bản hộ các sản phẩm phần mềm bắt đầu từ ngày tạo lập và kéo dài cho

tới khi tác giả của sản phẩm đó qua đời được 50 năm.

- Bảo hộ chíp bán dẫn

Luật bảo hộ chíp bán dẫn còn được gọi là “Luật chíp bán dẫn”. Luật này ra

đời vào năm 1985. Thời hạn bào hộ chíp bán dẫn là 10 năm.

- Bảo hộ giống cây trồng mới

Nâng cao chất lượng giống cây trồng bằng cách áp dụng công nghệ sinh

học, công nghệ gen ngày càng trở nên phổ biến. Có 2 phương pháp bảo hộ giống

cây trồng mới: Phương pháp thứ nhất là đăng ký giống cây trồng mới theo Luật

Hạt giống và cây giống. Phương pháp thứ hai là bảo hộ theo Luật bằng sáng chế.

Luật hạt giống và cây giống được áp dụng để đăng ký đối với loại giống

cây trồng mới thuộc ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp... và thời gian bảo hộ là 15

năm (đối với loại cây lâu năm thời gian bảo hộ là 18 năm).

Trang 25

2.1.2 Tác động của Quyền sở hữu trí tuệ đối với chiến lược của công ty Nhật

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Ngày nay chiến lược quản lý công ty của Nhật Bản đã thay đổi theo hướng

chú trọng đến vai trò của Quyền sở hữu trí tuệ trong việc kiểm soát chiến lược

của công ty.

- Từ trước tới nay hầu hết các công ty Nhật Bản sử dụng công nghệ căn

bản của Mỹ và cho ra các sản phẩm tràn ngập thế giới bằng cách sử dụng kỹ

thuật sản xuất cải tiến, hệ thống sản xuất hiệu quả và nâng cao chất lượng.

Ngày nay Nhật Bản đang chuyển dịch các cơ sở sản xuất của mình ra nước

ngoài. Có thể nói rằng các nhà sản xuất Nhật Bản đang bước vào một giai đoạn

mới trong đó việc sử dụng sở hữu trí tuệ được coi là rất quan trọng không chỉ

trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá.

- Nâng cao hiệu quả bằng việc vi tính hoá, tổng hợp hoá sở hữu trí tuệ

Hầu hết các công ty lớn của Nhật Bản đều tiến hành tổ chức lại phòng sáng chế

thành phòng sở hữu trí tuệ không chỉ để giải quyết những vấn đề về phát minh

sáng chế mà còn giải quyết các vấn đề về thiết kế, phần mềm, bí mật thương mại

và các vấn đề có liên quan khác.

Các công việc về giới thiệu công nghiệp, cung cấp công nghệ... dần dần

được chuyển sang phòng kinh doanh đảm nhiệm. Phòng sở hữu trí tuệ được đặt

dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Công ty vì thế các kế hoạch chiến lược,

các quyết định mang tính đường lối... được thực hiện mang nội dung khía cạnh

của sở hữu trí tuệ.

Những hoạt động cần chú ý trong bộ phận sở hữu trí tuệ của Công ty Nhật Bản

gồm những vấn đề sau:

- Quan tâm đến phát minh sáng chế của công ty mình và các công ty khác.

- Tích cực tìm kiếm những phát minh sáng chế có hiệu quả mang tính chất

chiến lược.

- Khuyến khích phát triển khả năng phát minh sáng chế.

- Giáo dục nhân viên liên quan đến Quyền sở hữu trí tuệ kể cả các nhà

Trang 26

nghiên cứu (Phụ lục)

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Trong những vấn đề lưu ý trên thì sự trao đổi về nhân sự và thông tin

(nghiên cứu kỹ thuật, thông tin nội bộ cơ quan) liên quan đến phát minh sáng chế

là vấn đề chung nhất; ở Việt Nam “khám phá” có thể được bảo hộ tương tự như

một phát minh, theo Luật Bằng sáng chế, nhưng ở Nhật “khám phá” không được

Luật Bằng sáng chế bảo hộ.

2.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng

2.2.1 Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản - JIS

- Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn

được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này dựa trên “Luật Tiêu chuẩn hoá

công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và thường được biết dưới cái

tên “dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” hay JIS. Hệ thống tiêu

chuẩn JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toàn bộ

nền công nghiệp Nhật. Theo quy định của điều 26 trong Luật Tiêu chuẩn hoá

công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với các sản phẩm

được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của

các cơ quan này.

- Hệ thống tiêu chuẩn JIS áp dụng đối với tất cả các sản phẩm công nghiệp

và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành

như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm và các sản phẩm nông nghiệp khác

được quy định trong Luật Về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các công ty lâm sản.

Dấu này lúc đầu được áp dụng để tạo ra một chuẩn mực cho các sản phẩm xuất

khẩu khi Nhật bắt đầu bán sản phẩm ra nước ngoài. Do đó, khi kiểm tra các sản

phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ để xác nhận chất

lượng của chúng.

- Các tiêu chuẩn JIS được sửa đổi, bổ sung định kỳ để phù hợp với tiến bộ

công nghiệp. Tuy nhiên, tất cả các tiêu chuẩn JIS đều được bổ sung ít nhất 5 năm

một lần kể từ ngày ban hành. Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo

Trang 27

cho các tiêu chuẩn luôn hợp lý, phù hợp với thực tế.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Cùng với sự phát triển của ngoại thương quốc tế về các sản phẩm công

nghiệp, việc thống nhất các tiêu chuẩn trên phạm vi quốc tế và áp dụng hệ thống

chấp nhận chất lượng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng trở nên quan

trọng. Vì vậy, tháng 4 năm 1980, Nhật đã sửa đổi Luật tiêu chuẩn hoá công

nghiệp. Theo luật sửa đổi này, thì các nhà sản xuất nước ngoài cũng có thể được

cấp giấy chứng nhận JIS trên sản phẩm của họ. Việc sửa đổi Luật tiêu chuẩn hoá

công nghiệp là kết quả của việc Nhật tham gia ký kết “Hiệp định về các hàng rào

kỹ thuật đối với ngoại thương” của GATT. Theo Hiệp định này thì hệ thống

chứng nhận chất lượng của các nước phải được áp dụng cho sản phẩm từ các

nước thành viên khác của Hiệp định.

Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với ngoại thương là bước tiến quan

trọng trong quá trình quốc tế hoá về tiêu chuẩn các sản phẩm công nghiệp. Quá

trình này cũng đặc biệt quan trọng đối với Nhật Bản, một nước có nền kinh tế

dựa trên ngoại thương quốc tế.

- Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp dấu chứng

nhận JIS phải làm đơn cấp giấy chứng nhận này. Bộ Công nghiệp và Thương

mại sau khi nhận được đơn (đơn được nhận qua phòng tiêu chuẩn, Cục Khoa học

và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và Thương mại) sẽ tiến hành điều tra sơ bộ dựa

trên hồ sơ, sau đó cử các thanh tra của Bộ tới giám định tại nhà máy của người

nộp đơn. Đối với các nhà sản xuất nước ngoài, các số liệu giám định do các tổ

chức giám định nước ngoài, do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật

Bản chỉ định, có thể được chấp nhận. Theo Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, kết

quả giám định tại nhà máy phải được trình lên Hội đồng thẩm định gồm các

chuyên gia của Bộ Công nghiệp và Thương mại để đánh giá. Bộ trưởng Bộ Công

nghiệp và Thương mại có phê duyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay

không dựa trên kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ

Trang 28

được thông báo cho người nộp đơn. Nếu đơn xin phép cấp JIS được phê duyệt

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

thì thông báo của Bộ trưởng sẽ được đăng trên công báo. Thời gian cần thiết kể

từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng.

Những ai cố tình đóng dấu chất lượng JIS lên hàng hoá mà không phải là

nhà sản xuất đã được Bộ trưởng Bộ công nghiệp và Thương mại cấp giấy phép

sẽ phải chịu án tù tới 1 năm hoặc nộp phạt tới 500.000 Yên.

2.2.2 Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản - JAS

Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (Luật JAS) được ban hành vào

tháng 5 năm 1970. Luật này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng, đưa ra các

quy tắc về việc ghi nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS.

Ngày nay hệ thống JAS đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa

chọn các thực phẩm chế biến.

Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS gồm: Đồ uống,

thực phẩm chế biến, dầu ăn, mỡ, các nông lâm sản chế biến. Tuy hiện nay không

phải tất cả các sản phẩm đều được liệt kê trong danh sách các sản phẩm do Luật

JAS điều chỉnh nhưng các tiêu chuẩn JAS bao quát cả các sản phẩm được sản

xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Các nhà sản xuất muốn được dán

nhãn hiệu chất lượng JAS lên các sản phẩm của họ thì phải thông qua các tổ

chức giám định để đánh giá chất lượng của hàng hóa đó. Việc giám định chất

lượng để cấp giấy chứng nhận phẩm chất JAS ở Nhật Bản có thể do 3 loại tổ

chức sau thực hiện:

1-Các tổ chức giám định thuộc Bộ nông, Lâm, Ngư nghiệp

2-Các tổ chức giám định của chính quyền địa phương

3-Các tổ chức giám định JAS khác.

Luật JAS được sửa dổi vào năm 1983, các nhà sản xuất nước ngoài cũng

có thể được cấp giấy chứng nhận phẩm chất JAS, nếu sản phẩm của họ đạt các

tiêu chuẩn do JAS đề ra. Để bao quát cả các nhà sản xuất nước ngoài, hệ thống

tiêu chuẩn JAS đã có những thay đổi thích hợp vào tháng 3 năm 1986, theo đó

Trang 29

các tổ chức giám định chất lượng Nhật Bản có thể sử dụng các kết quả giám định

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

của các tổ chức giám định nước ngoài do bộ trưởng Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp

chỉ định.

Đa số các sản phẩm như thực phẩm đóng hộp, nước hoa quả, các sản

phẩm chế biến từ cà chua, dấm bỗng, thịt lợn hun khói được sản xuất tại Nhật

đều mang dấu chất lượng JAS.

Việc sử dụng dấu chứng nhận phẩm chất JAS trên nhãn hiệu sản phẩm là

tự nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị buộc phải sản

xuất hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các

quy định về việc ghi nhãn sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do Bộ

Nông, Lâm, Ngư nghiệp quy định.

Một sản phẩm bị buộc phải tuân theo các quy định về nhãn chất lượng

JAS khi có đầy đủ các điều kiện sau:

Sản phẩm phải là một nông sản hoặc là nông sản mà đã có hoặc trong một -

tương lai gần sẽ có một tiêu chuẩn JAS được quy định cho nó.

Sản phẩm đó phải là một sản phẩm có chất lượng khó xác định. -

Là sản phẩm mà người tiêu dùng cần biết được chất lượng của nó trước -

khi quyết định mua.

Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp đặt ra các tiêu chuẩn về việc ghi nhãn chất

lượng và buộc tất cả các nhà sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn đó, các quy

định này được áp dụng đối với cả các sản phẩm nhập khẩu. Người tiêu dùng

Nhật Bản rất tin tưởng đối với chất lượng của các sản phẩm được đóng dấu JAS.

Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hóa vào Nhật Bản có

được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ

hàng hóa của mình tại đây.

2.2.3 Các dấu chứng nhận chất lượng khác

Ngoài tiêu chuẩn JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chất lượng khác được

sử dụng ở Nhật.

BẢNG 4

Trang 30

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Ý NGHĨA DẤU CHỮ LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT LƯỢNG VÀ ĐỘ AN TOÀN

PHẠM VI SỬ DỤNG

Ý NGHĨA Dấu Q: Chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm Dấu G: Thiết kế, dịch vụ, sau khi bán và chất lượng

Dấu S: Độ an toàn

Dùng cho các loại sản phẩm dệt bao gồm: quần áo trẻ con và các loại quần áo khác, khăn trải giường. Dùng cho các sản phẩm như máy ảnh, máy móc thiết bị, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ văn phòng, sản phẩm may mặc và nội thất. Dùng cho nhiều chủng loại hàng hoá dành cho trẻ con, đồ dùng gia dụng, dụng cụ thể thao.

Dấu S.G: Độ an toàn (bắt buộc) Xe tập đi, xe đẩy, nồi áp xuất, mũ đi xe đạp và mũ bóng

Dấu Len

chầy và các hàng hoá khác. Dùng cho sợi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan, thảm, hàng dệt kim, có trên 99% len mới. Hàng may mặc như quần áo nam, nữ, ô, áo khoác, balô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao.

Dấu SIF: Các hàng may mặc có chất lượng tốt Nguồn: Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam

2.2.4 Các quy định về ghi nhãn sản phẩm

Đối với một số sản phẩm quy định về ghi nhãn sản phẩm là bắt buộc. Các

sản phẩm phải buộc dán nhãn được chia thành 4 nhóm: Sản phẩm dệt, sản phẩm

nhựa, đồ điện, thiết bị điện và nhiều loại sản phẩm khác như ô, kính râm. Hiện

nay theo quy định của pháp luật có khoảng 100 mặt hàng bị buộc phải dán nhãn

chất lượng.

Các sản phẩm dệt gồm: vải, quần, váy, áo nỉ, áo sơ mi, áo mưa, ca vát, -

khăn trải giường, máy hút bụi, quạt, tivi.

- Sản phẩm nhựa gồm: bát, đĩa, chậu giặt.

Trong các sản phẩm khác thì bột giặt, găng tay da, bàn chải đánh răng là các sản

phẩm phải dán nhãn chất lượng.

Các nhãn chất lượng được dán lên sản phẩm gia dụng giúp cho người tiêu

dùngđược biết các thông tin về chất lượng sản phẩm và lưu ý khi sử dụng.

2.3 Dấu tiêu chuẩn môi trường Ecomark

Vấn đề môi trường đang được sự quan tâm của người tiêu dùng Nhật Bản.

Cục môi trường của Nhật đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản

phẩm không làm hại sinh thái (kể cả các sản phẩm trong nước cũng như nhập

Trang 31

khẩu), các sản phẩm này được đóng dấu “Ecomark”.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Để được đóng dấu Ecomark, sản phẩm phải đạt được ít nhất một trong các tiêu

chuẩn sau:

- Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có

nhưng ít.

- Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường.

- Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại

rất ít.

- Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường ngoài các

cách kể trên.

Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng

hay tính an toàn của sản phẩm. Ecomark ra đời năm 1989, đến nay dấu này được

rất nhiều người Nhật biết đến. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng

nhận Ecomark thông qua các nhà nhập khẩu.

2.4 Luật trách nhiệm sản phẩm

Luật trách nhiệm sản phẩm đã được ban hành vào tháng 7-1995 để bảo vệ

người tiêu dùng. Luật này quy định rằng nếu như một sản phẩm có khuyết tật

gây ra “thương tích cho người hoặc thiệt hại về của cải” thì nạn nhân có thể đòi

người sản xuất bồi thường cho các thiệt hại xảy ra liên quan đến sản phẩm có

khuyết tật và có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.

Luật trách nhiệm sản phẩm cũng được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu.

2.5 Luật vệ sinh thực phẩm

Luật vệ sinh thực phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu

dùng ở Nhật Bản. Hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại đều chịu quy định

giống nhau theo luật và được chia thành nhiều nhóm: các gia vị thực phẩm, các

máy móc dùng để sản xuất chế biến và bảo quản thực phẩm, các dụng cụ đựng

và bao bì cho các gia vị cũng như cho thực phẩm, đồ chơi trẻ em và các chất tẩy

rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ ăn. Các loại hàng này khi đưa vào

Trang 32

sử dụng phải có giấy phép của Bộ Y tế và phúc lợi Nhật Bản.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Bộ luật Vệ sinh thực phẩm áp dụng cho cả hàng nội, hàng nhập khẩu, cần

phải hiểu đúng chế độ quản lý về sinh thực phẩm để có thể kinh doanh thành

công ở Nhật Bản.

2.6 Hệ thống phân phối

Chức năng của hệ thống phân phối ở Nhật Bản không có gì khác biệt lắm

so với các nước khác. Nó giúp cho việc di chuyển hàng hóa từ sản xuất đến tiêu

dùng. Nó đồng thời đóng vai trò là kênh bán hàng cho nhà sản xuất và kênh mua

hàng cho người tiêu dùng. Hệ thống phân phối của Nhật bao gồm hai cấp, đó là

các khâu, mối quan hệ giữa các nhà sản xuất (nhà xuất khẩu), các công ty thương

mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu thị, các cửa

hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn bán ở các

khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ thống thông

tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng).

Các kênh phân phối hàng nhập khẩu thay đổi tuỳ theo từng loại sản phẩm,

mạng lưới bán buôn và các công ty tham gia vào quá trình này.

Ở Nhật bản, hoạt động và chức năng của công ty ngoại thương giữ một vai

trò quan trọng trong việc xuất khẩu của các nhà sản xuất nước ngoài vào thị

trường Nhật Bản. Các công ty ngoại thương có hai chức năng. Thứ nhất là thúc

đẩy bán buôn với chức năng là những nhà trung gian. Thứ hai là các công ty

ngoại thương thực hiện hàng loạt các công việc như: cung cấp vốn, gánh chịu rủi

ro, phát triển nguồn nhân lực, buôn bán, tổ chức và đầu tư. Ngoài ra, các công ty

ngoại thương còn thực hiện chức năng cung cấp thông tin.

Có thể nói hệ thống phân phối ở Nhật Bản rất phức tạp và có các đặc điểm

chủ yếu sau:

(cid:31) Có rất nhiều cửa hàng bán lẻ. Nói cách khác, mật độ cửa hàng bán lẻ

rất đông.

(cid:31) Giữa các nhà chế tạo và các nhà bán lẻ tồn tại rất nhiều cấp phân phối

Trang 33

trung gian

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

(cid:31) Tồn tại hệ thống duy trì bía bán lẻ.

Giữa các nhà sản xuất và bán lẻ có sự liên kết rất chặt chẽ, thể hiện ở chỗ

các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn; các nhà bán buôn lại cung

cấp tài chính cho các nhà bán lẻ. Các nhà sản xuất thực hiện chế độ chiết khấu

hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, sẵn sàng mua lại hàng nếu không bán được,

các nhà bán lẻ thường chỉ kinh doanh một số hàng hóa của các nhà sản xuất nhất

định ở trong nước. Mối quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối, bán

lẻ rất khăng khít, bền vững khiến cho hàng hóa nước ngoài rất khó khăn thâm

nhập thị trường Nhật Bản, mở rộng đại lý tiêu thụ.

II. Đánh giá thực trạng xuất nhập khẩu Việt-Nhật và khả năng đáp ứng các

rào cản kỹ thuật của Doanh nghiệp Việt Nam

1. Kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu Việt-Nhật

1.1 Kim ngạch

Diễn biến của động thái cấu thành giá trị xuất nhập khẩu Việt-Nhật từ đầu

thập kỷ 90 đến nay xảy ra theo chiều hướng: phía Việt Nam chủ yếu là giá trị

xuất khẩu trong khi phía Nhật Bản thì chủ yếu là giá trị nhập khẩu. Do đó dẫn

đến tình hình là cán cân thương mại Việt-Nhật ngày càng xuất siêu lớn hơn về

phía Việt Nam. Cụ thể, nếu năm 1988 là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu sang

Nhật chỉ có 2 triệu USD thì năm sau đó, năm 1989 đã xuất siêu 178 triệu USD,

các năm tiếp theo đều tăng liên tục, năm 1990 là 381 triệu USD, năm 1992 là

419 triệu USD... năm 1995 là 795 triệu USD và năm 1997 đã lên đến 915 triệu

USD, gấp 2,2 lần so với năm 1992 và gấp 457,5 lần so với năm 1988. Chính vì

xuất siêu của Việt Nam sang Nhật đã diễn ra liên tục hàng năm và năm sau đều

cao hơn năm trước đã khiến cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật

luôn luôn cao hơn so với tăng trưởng của nhập khẩu từ Nhật sang Việt Nam. Cụ

thể, tính chung cho cả 10 năm (1988-1997), kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-

Nhật đạt 16.895 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 11.023 triệu USD và nhập

Trang 34

khẩu là 5.872 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân hàng năm

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

giữa Việt Nam và Nhật Bản là 28,5%, trong đó tăng trưởng xuất khẩu là 32,7%

và nhập khẩu là 27,2%. Tính chung cho cả 10 năm đó, Việt Nam đã xuất siêu

sang Nhật 5.151 triệu USD, chiếm 46,7% tổng KNXK và 30,5% tổng KNXNK.

Trong đó, nếu làm phép phân tích so sánh số liệu tổng cộng xuất siêu của 5 năm

sau (1993-1997) với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước (1988-1992) ta thấy 5

năm sau đạt xuất siêu tổng cộng là 3.726 triệu USD tăng gấp 2,6 lần so với tổng

cộng xuất siêu của 5 năm trước đã đạt được là 1.426 triệu USD.

Như vậy, cho đến kết thúc năm 1997, trong quan hệ thương mại giữa Việt

Nam và Nhật Bản, ta thấy động thái tiến triển KNXNK nói chung và KNXK nói

riêng về phía Việt Nam là luôn trong xu thế phát triển khả quan kể cả về tốc độ

tăng trưởng và quy mô giá trị đã đạt được. Bước sang năm 1998 và tiếp sau đó là

năm 1999, có một tình hình là bức tranh buôn bán đó đã khác trước. Căn cứ vào

các kết quả tổng hợp số liệu thống kê của Tổng cục thuế Bộ Tài chính, Bộ Công

thương Nhật Bản và Hội Mậu dịch Nhật-Việt ta thấy các hoạt động xuất nhập

khẩu giữa hai nước đều chững lại, thậm chí đã có sự suy giảm hơn trước (tuy

chưa nhiều) cả về tốc độ tăng trưởng và quy mô giá trị. Nếu như năm 1997

KNXNK đạt được về phía Việt Nam là 419,37 tỷ yên, tăng hơn 22,1% so với

năm 1996; thì sang năm 1998 với KNXNK đạt được 402,73 tỷ yên đã bị giảm

4% so với năm 1997. Và năm 1999, tính đến 7/1999, ta đã đạt được KNXNK là

215,84 tỷ yên, bị giảm 6,1% so với 7 tháng cùng kỳ năm 1998. Nếu tính riêng

hoạt động xuất khẩu ta thấy, KNXK đạt được của năm 1997 là 264,47 tỷ yên,

tăng hơn 20,5% so với năm 1996, thế nhưng sang năm 1998 với 228,93 tỷ yên,

KNXK đã bị giảm tới 13,4% so với năm 1997, còn trong 7 tháng đầu năm 1998,

ta đã đạt LNXK là 119,3 tỷ yên nếu so với 7 tháng cùng kỳ năm trước là đã bị

giảm 9,9%. Tình hình suy giảm cũng xảy ra tương tự với hoạt động nhập khẩu:

năm 1998 đã đạt được KNNK là 173,8 tỷ yên, chỉ tăng có 12,2% so với năm

Trang 35

1997 (trong khi năm 1997 đã tăng tới 24,9% so với năm 1996)l và 7 tháng đầu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

năm 1999 đã đạt KNNK là 96,53 tỷ yên, so với 7 tháng đầu năm 1998 đã giảm

0,9%.

Trong mấy năm gần đây kim ngạch 2 chiều luôn ở mức 4,7 tỷ-4,8 tỷ USD,

trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật ở mức 2,5 tỷ- 2,6 tỷ

USD. Một điều đáng chú ý là Việt nam luôn xuất siêu đối với Nhật bản trong

hơn 10 năm qua (riêng năm 2001 là khảng 300 triệu USD).

Trong năm 2002, xuất khẩu đạt 2,43 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm 2001

(giảm 2,8%). Như vậy đây là năm thứ 3 liên tiếp xuất khẩu của ta sang thị trường

Nhật Bản giảm. Nhập khẩu lại tăng mạnh (2,5tỷ USD) so với năm 2001(tăng

13,12%) dẫn tới nhập siêu 71 triệu USD. Tuy con số này không lớn nhưng đây là

lần đầu tiên ta nhập siêu từ Nhật sau hơn 10 năm liên tiếp xuất siêu sang thị

trường này.

BẢNG 5

GIÁ TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VIỆT-NHẬT

Năm

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam (Triệu USD)

Xuất (Triệu USD) 14 217 451 639 644 921 2.193 1.850 1.950 2.621 2.509 2.438

Nhập (Triệu USD) 95 662 870 1.069 1.351 1.716 1.293 1.380 1.450 2.250 2.215 2.509

Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật (Triệu USD) 809 879 1.321 1.708 1.994 2.638 3.481 3.230 3.400 4.871 4.724 4.947

Tỷ trọng (%) buôn bán Việt-Nhật so với buôn bán của Việt Nam với thế giới 18,9 19,8 25,8 24,7 20,2 20,8 17,3 16,0 16,5 18,4 18,2 19,0

4.289 4.438 5.512 6.904 9.880 12.700 20.105 20.855 21.250 25.530 25.615 26.854

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nguồn: Bộ Thương Mại Việt Nam

Như vậy là những phân tích, lý giải trên đây về diễn biến động thái tốc độ

tăng trưởng và quy mô giá trị buôn bán Việt-Nhật thể hiện ở KNXNK, KNXK

Trang 36

trong những năm vừa qua về cơ bản đã cho thấy kim ngạch buôn bán Việt-Nhật

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

kể cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tăng nhanh, tương đối ổn định. Thực tiễn

cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp nhận hàng hóa Việt Nam, triển vọng sẽ

còn tăng nhanh hơn nữa trong thời gian tới khi mà cuộc khủng hoảng tài chính-

tiền tệ khu vực qua đi cùng với việc kinh tế Nhật Bản dần phục hồi trở lại. Ngoài

ra, trường hợp ngược lại đối với hàng Nhật Bản xuất khẩu sang thị trường Việt

Nam, thực tiễn phát triển cũng đã cho thấy kể từ đầu thập niên 90 đến nay,

KNNK của Việt Nam đối với hàng hóa xuất từ thị trường Nhật Bản cũng đã

tăng nhanh mặc dù còn nhiều khó khăn xảy ra làm cho hoạt động nhập khẩu đã

bị giảm mạnh hơn so với sự giảm của hoạt động xuất khẩu. Song nhìn vào xu thế

phát triển, chúng ta vẫn có thể hy vọng rằng nhờ có đẩy mạnh tăng cường xuất

khẩu, chúng ta sẽ có đầy đủ khả năng để tăng nhanh nhập khẩu những mặt hàng

cần thiết cho sự thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước.

1.2 Cơ cấu xuất nhập khẩu của VN - Nhật Bản

1.2.1 Cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu

Xem xét tỷ trọng giá trị xuất khẩu từng loại hàng trong tổng giá trị xuất

khẩu hàng năm, đã có diễn biến như sau (%):

BẢNG 6

1990

1992

1995

1997

1999

2001

2002

Dầu thô

60

64,4

35,5

27,6

28,3

20,2

13,6

Sắt vụn

3,3

Gỗ

5,3

7

Tôm đông lạnh

16,4

12,1

11,1

11

2,2

4

Mực khô

1,6

Hàng dệt may

3,3

4,8

4,5

5,2

31,1

26,7

Giầy dép

3,6

3,5

Than không

2,3

3,3

3,1

3

khói

Dây và cáp điện

7,6

9,5

Trang 37

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Hải sản

12

25

30,3

Nguồn: Hải Quan Việt Nam

Trên đây là danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tổng giá trị xuất khẩu từng năm của nước ta. Có thể thấy rằng cơ cấu

xuất khẩu của Việt nam sang Nhật bản vẫn chưa có thay đổi gì lớn. Điều đó có

nghĩa cho đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu của ta vẫn còn đơn giản. Diện mặt

hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá hẹp, chưa có

thay đổi nhiều so với những năm đầu thập niên 90. Mặc dù, nếu xét riêng về việc

phấn đấu giảm tỷ trọng xuất các sản phẩm thô, tăng tỷ trọng xuất các sản phẩm

đã qua công nghiệp chế biến thì ta cũng đã có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu như

những năm đầu thập niên 90, hàng xuất sang Nhật bản của ta chủ yếu là nguyên

liệu thô và sản phẩm sơ chế, chiếm đến 90% KNXK, trong đó riêng dầu thô đã

chiếm đến 60%, thì hiện nay đã giảm xuống nhiều, nhưng vẫn còn tới trên 50%

là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Mặt hàng chủ yếu của ta xuất sang Nhật

đến nay vẫn là dầu thô, hải sản, dệt may, than đá, giầy dép, cà phê và một số mặt

hàng nông sản khác, ngoài ra là hàng tiêu dùng trong gia đình như dụng cụ gia

đình, vali, cặp túi, xắc các loại...

Về xuất khẩu: KNXK giảm chủ yếu là do mặt hàng dầu thô trước đây

chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của ta sang Nhật, nay sụt giảm về cả số lượng

lẫn kim ngạch. Trong khi các mặt hàng chủ lực ngoài dầu thô hầu hết đều tăng so

với năm 2001. Bên cạnh các mặt hàng chủ lực truyền thồng như dầu thô, cà phê,

chè, gạo, hàng dệt may, hải sản... đã xuất hiện một số mặt hàng mới vào thị

trường, nhưng đã đạt kim ngạch đáng khích lệ và không ngừng tăng trưởng là

dây điện và cáp điện 174 triệu USD, rau quả 14 triệu USD, cao su khoảng trên

10 triệu USD, hạt điều 5 triệu USD, dầu ăn và chè đều đạt khoảng 3 triệu USD.

BẢNG 7

10 MẶT HÀNG VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG NHẬT CÓ KIM NGẠCH LỚN NHẤT

NĂM 2001 VÀ 2002

Trang 38

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

2001

2002

Số TT Tên hàng

Trị giá

Tên hàng

Trị giá

(triệu USD)

(triệu USD)

Hàng dệt may

591,50 Hải sản

01

555,44

Hải sản

474,76 Hàng dệt may

02

489,95

Dầu thô

384,69 Dầu thô

03

249,85

Dây điện và cáp điện

145,66 Dây điện và cáp điện

04

174,10

Sản phẩm gỗ

100,39 Sản phẩm gỗ

05

128,39

Giầy dép

64,40 Máy tính& linh kiện

06

57,11

07 Máy tính& linh kiện

50,82 Giầy dép

53,92

Than đá

35,59 Than đá

08

48,50

Sản phẩm nhựa

28,27 Thủ công mỹ nghệ

09

43,17

Thủ công mỹ nghệ

25,16 Sản phẩm nhựa

10

30,16

Nguồn: Hải quan Việt Nam

1.2.2 Về cơ cấu sản phẩm nhập khẩu chủ yếu

Cũng theo cách xem xét như đối với cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu, cơ

cấu hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản sang nước ta có động thái tiến triển

như sau (%):

BẢNG 8

1990

1992

1995

1997

1999

2001

2002

Tivi

12,8

17,2

Xe máy

12,3

11,8

4,6

4,9

2,3

3,3

Ô tô

9,6

15

9,2

3,8

3,5

7,4

9,5

Sắt thép ống

2,9

2,9

2

2,2

Máy quay video

6,9

Mạng điện thoại

4,9

Dầu nhẹ

2,1

2,4

Thép hợp kim

3,1

2,2

2

2,2

Mạch điện tử

7,4

7,8

14,8

13,6

Trang 39

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Sợi tổng hợp

2

1,8

Máy khâu

1,9

1,7

Máy xây dựng

2,3

2,8

38,5

42,2

Hàng vải dệt

2

1,8

Sắt thép các loại

11,6

17,3

Chất dẻo

3,4

3,5

Nguồn: Hải Quan Việt Nam

Năm 1990 mặt hàng ôtô bị giảm xuống so với năm 1989 là do chủ trương hạn

chế của Nhà nước, nhưng sang đến đầu năm 1991 thì ôtô nhập vào Việt nam lại

tăng đột biến, đặc biệt là số ôtô tái xuất qua biên giới Việt-Trung không thể tính

chính xác được.

Năm 1995 tivi không nhập là do Nhà nước ban hành văn bản cấm nhập khẩu tạm

thời mặt hàng này để hỗ trợ cho ngành sản xuất tivi trong nước có điều kiện phát

triển. Năm 2002, do tốc độ đô thị hóa, xây dựng lớn nên nhu cầu về máy móc

xây dựng tăng đột biến.

Trên đây là động thái tiến triển của cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản

theo các năm. Theo đó, ta có thể thấy rằng các hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản

vẫn khá đa dạng như các năm trước và chủ yếu vẫn tập trung vào một số loại như

máy móc thiết bị công nghiệp và xây dựng (tăng đột biến trong 2 năm 2001 và

2002), nguyên nhiên liệu, hàng điện tử, ôtô và xe máy.

BẢNG 9

10 MẶT HÀNG VIỆT NAM NHẬP KHẨU TỪ NHẬT CÓ KIM NGẠCH LỚN NHẤT

NĂM 2001 VÀ 2002:

2001

2002

Số TT Tên hàng

Trị giá

Tên hàng

Trị giá

(triệu USD)

(triệu USD)

01 Máy móc thiết bị phụ tùng

580,53 Máy móc thiết bị phụ tùng

702,88

02 Linh kiện vi tính & điện tử

299,00 Sắt thép các loại

287,94

03 NPL dệt may da

221,91 Linh kiện vi tính & điện tử

226,99

04

Sắt thép các loại

175,08 Ô tô dạng CKD,SKD

158,29

Trang 40

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

05 Ô tô dạng CKD,SKD

111,61 NPL dệt may da

149,74

06 Chất dẻo nguyên liệu

49,23 Chất dẻo nguyên liệu

44,54

07 Xe máy dạng CKD,IKD

22,70 Xe máy dạng CKD,IKD

40,70

08

Phân bón các loại

19,30 Phân bón các loại

24,85

09 Tân dược

14,54 Ô tô nguyên chiếc các loại

20,14

10 Ô tô nguyên chiếc các loại

12,94 Tân dược

7,46

Nguồn: Hải quan Việt Nam

Tóm lại, có thể rút ra một số nhận định cơ bản sau khi đã xem xét thực trạng

động thái tiến triển cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt - Nhật như sau:

Trước và trong thập kỷ 90, Việt nam xuất khẩu sang Nhật bản chủ yếu (đến

90%) là các sản phẩm thô, trong đó dầu thô đã là sản phẩm xuất khẩu chủ lực số

1 kể từ năm 1988. Từ năm 1995 đến nay Việt nam ngày càng gia tăng khối

lượng hàng xuất khẩu đã qua chế biến (khoảng 30%), tuy nhiên mới chỉ qua sơ

chế, chưa có chế biến sâu và tinh.

Về nhập khẩu năm 2002: khác so với các năm trước, nhập khẩu tăng

mạnh. Chủ yếu là ở nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị (tăng 21% so với năm

2001), Ôtô dạng CKD, SKD (tăng 41%), xe máy dạng CKD IKD (tăng 79%). Sự

gia tăng nhóm hàng máy móc thiết bị phản ánh sự gia tăng trở lại của FDI Nhật

Bản vào Việt Nam và là sự gia tăng mang tính tích cực. Bên cạnh đó, thị trường

lắp ráp ôtô, xe máy Việt Nam trong năm 2002 phát triển mạnh kéo theo nhu cầu

nhập khẩu linh kiện. Dự kiến trong năm nay, do sự quản lý chặt chẽ của Nhà

nước, nhóm mặt hàng ôtô, xe máy dạng linh kiện nhập khẩu sẽ giảm.

Các mặt hàng nhập khẩu đa dạng từ tân dược, linh kiện vi tính và điện tử,

máy móc thiết bị phụ tùng đến nguyên, phụ liệu dệt may, da, ôtô dạng CKD-

SKD và nguyên chiếc, xe máy dạng CKD-SKD-IKD, sắt thép, xăng dầu, phân

bón, v.v...

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Nhật đã ngày càng đa

dạng hoá hơn để kịp thời phụ hợp với lợi thế so sánh sẵn có của đất nước và đáp

Trang 41

ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên sự tiến bộ đó

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

vẫn chậm. Mặt hàng đã có sự thay đổi (trước năm 1988 là than đá, cao su, gạo...

nhưng hiện nay đã là dầu thô, thủy hải sản, hàng may mặc) nhưng loại hàng còn

chậm thay đổi, vẫn chủ yếu là các sản phẩm thô, nhiều chất là nguyên liệu,

khoáng sản, hàng nông-lâm-ngư nghiệp, chưa có hàng công nghiệp kỹ thuật cao

do chính Việt Nam chế tạo.

Cơ cấu hàng nhập khẩu từ Nhật bản của Việt nam hầu như ít thay đổi, vẫn

là hàng chế tạo và nguyên vật liệu xong có xu hướng ngày càng đa dạng hơn về

loại hàng. Hàng tiêu dùng giảm dần về tỷ trọng. Hàng máy móc, thiết bị kỹ thuật,

nguyên vật liệu tăng tỷ trọng lên dần nhưng đến nay Việt nam vẫn chưa nhập

được những dây chuyền công nghệ hiện đại bậc nhất.

Với một cơ cấu các sản phẩm nhập khẩu như hiện nay là phản ánh đúng

thực trạng nền kinh tế hai nước; cụ thể là phản ánh đúng trình độ phát triển, lợi

thế so sánh và nhu cầu mua-bán, trao đổi mậu dịch của mỗi nước. Chính vì thế

quan hệ thương mại Việt-Nhật, nhất là từ năm 1992 đến nay, đã phát triển ngày

càng mạnh mẽ, sôi động. Điều này xuất phát trước hết từ nhu cầu, lợi ích kinh tế

đôi bên cùng gặp nhau, sau đó mới đến các lý do chủ quan về nhu cầu chính trị,

ngoại giao và các điều kiện thuận lợi khách quan của môi trường chính trị, kinh

tế quốc tế.

Mặt khác, cũng với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt-Nhật

như hiện nay đã phản ánh đúng thực trạng trình độ phát triển, lợi thế so sánh và

nhu cầu mua-bán, trao đổi mậu dịch. Vì thế hiện tượng Việt Nam ngày càng xuất

siêu sang Nhật là bình thường, không phản ánh đó là “thế mạnh” của Việt Nam

hoặc “thế yếu” của Nhật bản trong hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên, hiện

tượng này sẽ trở thành bất bình thường, mang lại thua thiệt cho kinh tế Việt Nam

ngày càng lớn nếu như cứ kéo dài mãi tình hình xuất siêu các sản phẩm thô chưa

qua chế tạo, chế biến, hoặc mới chỉ sơ chế. Vấn đề này giải quyết thế nào cho

hiệu quả, do đó cần thiết có một chiến lược phát triển mạnh xuất khẩu với việc

Trang 42

hoạch định, thực thi khẩn trương một chính sách cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

năng động, hợp lý. Theo đó, hàng lượng chất xám ngày càng tăng hơn và các sản

phẩm thô ngày càng giảm đi.

2. Đánh giá khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật của hàng xuất khẩu Việt

Nam

2.1 Chất lượng hàng hóa xuất khẩu

2.1.1 Tiêu chuẩn chất lượng công nghiệp Nhật Bản-JIS

Đây là một tiêu chuẩn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ

có một số ít các doanh nghiệp thương mại (bao gồm cả công ty liên doanh và

quốc doanh) tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng như sắt, thép,

kim loại mầu hoặc các ngành cơ khí chính xác... với Nhật Bản là áp dụng tiêu

chuẩn này. Hơn nữa, Việt Nam chưa có quy chế bắt buộc áp dụng JIS cho các

sản phẩm của mình. Mà thay vào đó, Hệ thống chất lượng theo TCVN được hầu

hết các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm áp dụng. Do vậy chỉ có doanh nghiệp

đơn lẻ nào muốn sản phẩm của mình thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản sẽ

cố gắng có được giấy chứng nhận JIS do Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công

nghiệp Nhật Bản cấp.

Kể từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã tích cực áp dụng Hệ thống quản lý

chất lượng theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000, Hệ thống quản lý môi trường ISO

14000, hệ thống HACCP, GMP và SQF 2000... Song điều bất cập là Nhật Bản

lại sử dụng hệ thống quản lý chất lượng khác hẳn so với thế giới, đó là hệ thống

quản lý chất lượng toàn bộ (TQM-Total Quality Management) và nó không chịu

sự chi phối của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế ISO bởi tính

ưu việt và độc lập. Điều này một phần giải thích tại sao hàng hoá của Việt Nam

lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc xâm nhập thị trường Nhật Bản.

2.1.2 Tiêu chuẩn chất lượng nông nghiệp Nhật Bản-JAS

Cũng giống như tiêu chuẩn JIS, các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực

nông nghiệp hầu hết chưa hiểu JAS là gì. Các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam

Trang 43

được chế biến trên các dây chuyền công nghệ lạc hậu. Hệ thống quản lý tiêu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

chuẩn con giống, cây giống hoàn toàn áp dụng hệ thống TCVN. Trên thực tế

cũng chưa có một cơ quan có thẩm quyền nào của Việt Nam tiến hành tuyên

truyền, quảng bá tiêu chuẩn JAS cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực có liên

quan hiểu và áp dụng mà chỉ có những doanh nghiệp thương mại đơn lẻ có hàng

hóa thuộc lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu sang Nhật Bản tự tìm cho mình giải

pháp để làm sao xin được giấy chứng nhận JAS của Bộ Nông, Lâm và Ngư

nghiệp Nhật Bản.

2.1.3 Các tiêu chuẩn chất lượng khác

Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc nâng cao

chất lượng hàng hóa, vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt

Nam càng có thêm những mặt hàng chiếm được uy tín cao về chất lượng. Hoạt

động đăng ký chất lượng hàng hóa được tiến hành liên tục từ năm 1996 đến 2000

với khoảng 50.000 sản phẩm được đăng ký hàng năm. Cho đến nay, trên 22.000

sản phẩm của trên 7.500 doanh nghiệp đã được công bố tiêu chuẩn chất lượng và

có 235 sản phẩm của 69 doanh nghiệp được công bố phù hợp Tiêu chuẩn Việt

Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên công bố áp dụng Hệ thống

Quản lý Chất lượng theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000. Kể từ doanh nghiệp đầu

tiên được chứng nhận Hệ thống Quản lý chất lượng theo ISO 9000 năm 1996,

đến nay đã có trên 900 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ ISO 9000 và 20

doanh nghiệp được nhận chứng chỉ áp dụng Hệ thống Quản lý Môi trường theo

ISO 14000. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp được nhận chứng chỉ về hệ

thống HACCP áp dụng cho các cơ sở sản xuất thực phẩm và GMP áp dụng cho

doanh nghiệp dược phẩm. Đề tài cấp nhà nước nghiên cứu áp dụng các hệ thống

chất lượng, các biện pháp kích thích nâng cao năng suất chất lượng hoà nhập với

quốc tế và khu vực đã được triển khai từ năm 1997 và kết thúc vào năm 1999 đã

có tác động mạnh mẽ trong việc đưa các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến

Trang 44

của thế giới vào áp dụng tại Việt Nam.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Phong trào chất lượng của Việt Nam đã được phát triển rộng rãi trong cả

nước. Phong trào này được đánh dấu bằng các Hội nghị Chất lượng Việt Nam

lần thứ nhất (8/1995 - Hà Nội), lần thứ 2 (9/1997 - Cần Thơ), lần thứ 3 (11/1999

- TP.HCM) và lần thứ 4 (11/2001 - Hà Nội) với sự tham gia của đông đảo doanh

nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, quản lý; các chuyên gia và các tổ chức quốc tế

về chất lượng.

Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu đã có những cải tiến

theo tinh thần Nghị định 86/CP của Chính Phủ. Danh mục hàng hóa phải kiểm

tra đã có thêm cả hàng xuất khẩu (chủ yếu là thủy sản) và được điều chỉnh hàng

năm; tập trung vào bảo đảm an toàn, sức khoẻ, vệ sinh và bảo vệ môi trường.

Mới đây, ngày 26/01/2000, trong buổi tọa đàm với hơn 100 doanh nghiệp

xuất khẩu của Việt Nam về chủ đề “đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị

trường Nhật Bản” do Văn phòng đại diện JETRO tại Hà nội tổ chức, ông

Masumoto-cố vấn phát triển thương mại của JETRO đã có sự đánh giá về chất

lượng các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Ông cho biết, nếu dựa

vào thang điểm từ 0 đến 100 điểm thì Việt Nam đã có một số hàng đạt chất

lượng cao như: hàng may mặc được trên 80 điểm, hàng thực phẩm hải sản đồ ăn

uống khác được xếp thứ 20 trong tổng số 120 nước. Đặc biệt tôm, mực, bạch

tuộc chiếm vị trí rất tốt-đứng thứ 5, dưa chuột muối đứng thứ hai sau Trung

Quốc, gừng muối đứng thứ 4. Các mặt hàng đã được xếp loại trên đều được đánh

giá đạt từ 70-80 điểm. Ngoài ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thêu ren, đặc

biệt là sơn mài cũng được người Nhật Bản ưa thích và đánh giá cao.

2.1.4 Nhãn hiệu hàng hóa

Các quy định về ghi nhãn sản phẩm được ban hành theo Quyết định

178QĐ-TTg ngày 30/08/1999 và Quyết định số 95/2000/TTg của Thủ tướng

Chính phủ. Theo nội dung của quy chế này, phạm vi áp dụng là các hàng hoá sản

xuất trong nước, xuất khẩu hoặc sản xuất tại nước ngoài được nhập khẩu để tiêu

Trang 45

thụ tại Việt nam. Các loại thực phẩm có giá trị tiêu dùng trong vòng 24 giờ; hàng

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

tạm nhập, tái xuất; gia công cho nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của

quy chế này. Các sản phẩm buộc phải dán nhãn gồm các mặt hàng sau đây: vật

liệu xây dựng, các sản phẩm nông nghiệp, thiết bị viễn thông, thủy sản, lâm sản

và các hàng hoá chế biến từ lâm sản, hạt ngũ cốc và hạt nông sản các loại có bao

gói.

Tuy nhiên, vấn đề thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam

cũng chưa được qua tâm thoả đáng. Sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam chưa

cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài nhất là khi tham gia thị trường quốc

tế.

Thực tiễn xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản những năm

qua, ta vẫn phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất lượng hàng hoá chưa

đều, còn thua kém nhiều nước trong khu vực. Đặc biệt, ngay cả chất lượng

quảng cáo, thông tin trên bao bì cũng như kỹ thuật đóng gói hàng còn đơn điệu,

kém hấp dẫn và độ dài thời gian bản hành sản phẩm còn chưa chuẩn xác như

quảng cáo giới thiệu trên các bao bì hàng hoá. Liên quan về vấn đề chất lượng

hàng xuất khẩu Việt Nam, theo Giáo sư tiến sĩ Furuta Motoo, chủ nhiệm Khoa

nghiên cứu khu vực, Đại học Tổng hợp Quốc gia Tokyo, Chủ tịch Hội Hữu nghị

Nhật Bản-Việt Nam và ông Hiroshi Miyauchi, Chủ tịch hội Mậu dịch Nhật Bản-

Việt Nam thì chưa hẳn tất cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường Nhật

Bản đều có chất lượng chưa cao, chỉ có một số ít và tuỳ theo từng đợt giao hàng.

Có nghĩa là hàng Việt Nam tuy có chất lượng cao nhưng chưa đều. Ngoài ra một

trong những nguyên nhân quan trọng khiến hàng Việt Nam còn ít xuất hiện ở thị

trường Tokyo mà chỉ có ở Osaka hoặc một số tỉnh thành phố khác, đó là vì nhiều

người Nhật Bản chưa có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam. Trong khi đó họ lại

rất quen với hàng của Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn

Quốc... Nhất là hàng Trung Quốc hiện đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường Nhật

Bản. Có hai nguyên nhân chính khiến cho ngay từ thời điểm ban đầu có mặt ở thị

Trang 46

trường Nhật Bản, hàng Trung Quốc đã được người Nhật Bản làm quen rất

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

nhanh, đó là khâu quảng cáo, giới thiệu trên vỏ bao bì và chất lượng, hình thức

bên ngoài bao bì rất đẹp và một nguyên nhân khác nữa rất quan trọng đó là giá rẻ

(rẻ hơn cả hàng Việt Nam) và đương nhiên là qua thực tế tiêu dùng, hàng Trung

Quốc đã được kiểm nghiệm đánh giá là có chất lượng phù hợp với nhu cầu của

họ.

Từ đó đặt ra, bên cạnh vấn đề chất lượng cao, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn nữa

đến khâu thông tin, quảng cáo, tiếp thị với thị trường Nhật Bản, trước hết là chú

ý ngay đến hình thức mỹ thuật và chất lượng kỹ thuật của bao bì hàng hoá. Đồng

thời chúng ta phải hạ thấp giá thành sản phẩm để giảm giá bán ở mức hợp lý mới

có thể cạnh tranh được với hàng hoá của nước khác.

2.2 Quyền sở hữu trí tuệ

2.2.1 Thực trạng đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

Từ đầu những năm 80 đến nay, Cục sở hữu công nghiệp (SHCN) đã tiến

hành cấp bản quyền SHCN cho các cá nhân, pháp nhân trong và ngoài nước.

Tính từ năm 1982 đến nay, Việt Nam đã cấp 2517 bằng sáng chế trong tổng số

9002 đơn đăng ký sáng chế từ năm 1981 đến 2001, chỉ đạt 28%. Trong số này,

doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 4%. Số còn lại thuộc về các cá nhân, tổ chức

nước ngoài. Như vậy đây là một con số còn rất khiêm tốn so với thực tế.

Số bằng độc quyền giải pháp hữu ích được cấp từ năm 1990 đến 2001 có

khả quan hơn, là 268 bằng trên tổng số 746 đơn đăng ký. Tuy vậy cũng chỉ đạt

con số 35%, tuy vậy doanh nghiệp Việt Nam đã chiếm đến 65% tổng số bằng

được cấp. Trong số 11.314 đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được nộp cho

Cục SHCN từ năm 1989 đến 2001 thì cũng chỉ có 6.628 bằng độc quyền kiểu

dáng công nghiệp được cấp, chiếm tỷ lệ 58% và điều đáng mừng là doanh

nghiệp Việt Nam đã chiếm đến 90%. Cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ chiếm có

10%. Nhưng trong tổng số 39.510 nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký từ năm

Trang 47

1982 đến 2001 chỉ có 16.846 (chiếm 42%) nhãn hiệu thuộc về các cá nhân,

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

doanh nghiệp của Việt Nam, số còn lại đến 22.664 (58%) nhãn hiệu đăng ký

thuộc về cá nhân, tổ chức nước ngoài.

2.2.2 Một số vấn đề về thực hiện quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

- Bảo hộ mô hình kinh doanh

Hiện tại pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chưa có quy định

cụ thể “mô hình kinh doanh” là đối tượng được bảo hộ. Đối tượng này còn quá

mới mẻ và nó không phải là một giải pháp kỹ thuật như trong điều 782 Bộ Luật

Dân sư của Việt Nam quy định về một sáng chế. Trong tương lai gần, nhất là

trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế, pháp luật Việt Nam nên có những

thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, tạo ra thế cạnh tranh cao

hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

- Bảo hộ các sản phẩm phần mềm

Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989 chưa theo kịp sự

phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên Nhà nước Việt

Nam đã thông qua Bộ Luật Dân sự và Hình sự để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Các sản phẩm phần mềm là đối tượng mới mẻ của bảo hộ sở hữu công nghiệp

song lại bị xâm hại một cách rất công khai. Tại các điều 224, 225 và 226 Bộ luật

Hình sự của ta đã quy định các tội: tạo ra và làm lan truyền, phát tán các chương

trình vi-rút tin học; tội vi phạm các quy định và vận hành, khai thác và sử dụng

mạng máy tính điện tử; tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy

tính. Tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà người vi phạm có thể

bị phạt tiền từ 5-100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt

tù từ 6 tháng đến 7 năm.

- Bảo hộ giống cây trồng mới

Giống cây trồng mới bao gồm giống cây nông nghiệp và giống cây công

nghiệp được Nghị định số 13/2001 ngày 20/04/2001 của Chính phủ bảo hộ. Các

tổ chức, cá nhân chọn tạo hoặc có quyền thừa kế hợp pháp các giống cây trồng

Trang 48

mới trên lãnh thổ Việt Nam được Nhà nước cấp văn bằng bảo hộ sau khi đã thẩm

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

định về hình thức và nội dung hồ sơ, không cấp lại. Người được cấp phải nộp lệ

phí thẩm định và phí hàng năm để duy trì hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Thời

hạn bảo hộ là 20 năm, đối với cây thân gỗ là 25 năm kể từ khi được cấp văn bằng

bảo hộ.

2.2.3 Tác động của quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động của doanh nghiệp Việt

Nam

Các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng đến vai trò của quyền sở hữu

trí tuệ trong việc kiểm soát chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Mới chỉ

gần đây, một số nhà sản xuất mới thấy được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ

trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, đặc biệt là khi sản phẩm của họ xuất khẩu ra

nước ngoài.

Việc vi tính hoá và tổng hợp hoá sở hữu trí tuệ chưa được các doanh

nghiệp Việt Nam qua tâm đúng mức. Các đơn vị này hầu hết chưa thành lập

phòng sở hữu trí tuệ hoặc phòng sáng chế thành các phòng chuyên biệt hoá mà

vẫn xem các hoạt động thiết kế, phần mềm, bí mật thương mại ... là công việc

của phòng kinh doanh. Chính vì chưa có sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo doanh

nghiệp đối với bộ phận sở hữu trí tuệ nên các kế hoạch, các quyết định mang tính

đường lối... được thực hiện chưa mang nội dung khía cạnh của sở hữu trí tuệ.

2.3 Tiêu chuẩn về môi trường

Hiện nay quản lý môi trường chưa phải là mối ưu tiên đối với đa số doanh

nghiệp Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém về quản lý môi

trường của doanh nghiệp. Ví dụ như: sự hiểu biết, kiến thức về môi trường và

quản lý môi trường còn hạn chế; trình độ năng lực quản lý chưa cao; máy móc

thiết bị lạc hậu; khó khăn về tài chính; quản lý môi trường của doanh nghiệp còn

mang tính bị động, chắp vá, đối phó. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa kết hợp

quản lý môi trường vào quá trình quản lý sản xuất kinh doanh...

Tiêu chuẩn về môi trường cho sản phẩm là một tiêu chí hoàn toàn mới mẻ

Trang 49

đối với phần đông các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, toàn quốc mới chỉ

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

có 20 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ áp dụng Hệ thống quản lý môi trường

theo ISO 14000 và 23 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ ISO 14001(trong số

này chỉ có 3 doanh nghiệp có 100% vốn trong nước và là quốc doanh, còn lại

đều là liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).

Số lượng doanh nghiệp áp dụng và được chứng nhận còn khiêm tốn có thể do

những nguyên nhân sau:

- Công tác tuyên truyền, quảng bá và nhận thức còn hạn chế

- Chứng nhận Hệ thống quản lý môi trường là hoạt động còn mới mẻ đối với các

doanh nghiệp Việt Nam.

- Các doanh nghiệp Việt Nam chưa cảm nhận được sức ép của vấn đề môi

trường đến kinh doanh hay lợi ích của doanh nghiệp.

- Các doanh nghiệp được chứng nhận đều là liên doanh hoặc 100% vốn nước

ngoài, thường chịu sức ép của công ty mẹ hoặc tập đoàn. Vì thế, họ thường xin

chứng nhận của tổ chức chứng nhận đã từng chứng nhận cho các chi nhánh hoặc

công ty khác của tập đoàn.

2.4 Quy định về trách nhiệm sản phẩm

Việt Nam chưa ban hành bộ luật riêng để điều chỉnh về trách nhiệm của

doanh nghiệp đối với sản phẩm mà chỉ quy định thành một điều trong Luật

Thương Mại được thông qua ngày 10/05/1997. Cụ thể điều 9 của Luật này quy

định như sau: Cấm thương nhân bán hàng kém chất lượng, sai quy cách lẫn với

hàng đã đăng ký, trường hợp lợi ích của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng có

quyền khiếu nại thương nhân đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi

kiện thương nhân tại Toà án theo quy định của pháp luật. Như vậy, quy định này

cũng góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và ràng buộc trách

nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm của mình.

Vì Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản áp dụng cho cả các sản phẩm

nhập khẩu do đó, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản sẽ phải

Trang 50

chịu sự điều chỉnh của Luật này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

những quy định của Luật Trách nhiệm sản phẩm để tránh phải chịu những thiệt

hại về kinh tế và làm mất uy tín sản phẩm của mình.

2.5 Quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm

Việt nam chưa ban hành Luật vệ sinh thực phẩm mà chỉ có các quy định

về đăng ký chất lượng sản phẩm bắt buộc đối với hàng hoá là thực phẩm tiêu thụ

trong nước. Danh mục hàng hoá thực phẩm tiêu thụ trong nước phải đăng ký

chất lượng theo quyết định QĐ 1010/2000 của Bộ Y tế ngày 30/03/2000 bao

gồm: thịt và các cơ quan nội tạng là thực phẩm; bột ăn và thức ăn chế biến từ

bột; sữa; cà phê; hương liệu; xúc xich; mía đường; bột ca cao; thực phẩm chiết

xuất từ hạt ngũ cốc; rau quả và các sản phẩm chế biến từ rau quả; các loại nước

tinh khiết hoặc được chiết xuất, pha chế.

Tuy nhiên chưa có quy định nào bắt buộc đăng ký chất lượng đối với các

sản phẩm là thực phẩm xuất khẩu mà trong trường hợp này nhà xuất khẩu phải

tự xin giấy chứng nhận chất lượng của nước nhập khẩu nếu muốn hàng hoá của

Trang 51

mình bán được ở thị trường của nước nhập khẩu.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

CHƯƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VƯỢT QUA HÀNG RÀO KỸ

THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN CỦA HÀNG XUẤT

KHẨU VIỆT NAM

I. Các định hướng chiến lược xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến năm

2010

1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng chung

Các chỉ tiêu xuất-nhập khẩu một phần quan trọng phụ thuộc vào chỉ tiêu

chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ

2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm

phải tăng khoảng 7,2%). Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%/ năm,

vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng

khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18,6% lên

20-25%. Thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá trị gia tăng của công nghiệp

tăng bình quân hàng năm 8-9%. Đến năm 2010, công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-

41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% tổng giá trị sản xuất công

nghiệp.

Dự thảo Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp

đôi nhịp độ tăng trưởng GDP tức là khoảng 14,4%/năm. Trong đó, nông sản xuất

khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD và năm 2010, lương thực bình quân

4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD; sản phẩm công

nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các chỉ tiêu này sẽ còn được

điều chỉnh).

Về xuất khẩu

*.Xuất khẩu hàng hóa

- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó

Trang 52

thời kỳ 2001-2005 tăng 16%, thời kỳ 2005-2010 tăng 14%/năm.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

- Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005

và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.

*. Xuất khẩu dịch vụ

- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.

- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD năm 2005 và 8,1 tỷ

USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần.

2. Định hướng cơ cấu hàng hoá xuất khẩu

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng

chủ yếu sau:

Trước mắt, huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất

khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ.

Đồng thời, cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo

với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công

nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô.

Chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.

3. Định hướng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến 2010

Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản tăng bình quân 22%

trong thời kỳ 1996-2000 và đạt 2,62 tỷ USD vào năm 2000, sau đó giảm liên tiếp

trong hai năm 2001 và 2002 do kinh tế Nhật Bản gặp khó khăn, sức mua yếu.

Gần đây Nhật đã bổ sung thêm 118 loại nông sản (trong đó có rau, trái cây nhiệt

đới) vào hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) 2003 và giảm thuế GSP đối

với khoảng 60 mặt hàng nhập khẩu.

Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được nâng từ 15,8% hiện nay lên

17-18% ngang với mức của năm 1997. Với đà phục hồi kinh tế Nhật Bản, có thể

và cần phải tăng xuất khẩu vào Nhật ở mức 21-22%/năm để đến năm 2005 tổng

kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt mức 5,4-5,9 tỷ USD. Ta và Nhật cần

có sự trao đổi, bàn bạc (tốt nhất là trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến

Trang 53

đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hóa của Việt Nam quy chế MFN đầy đủ.

Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông tin liên quan đến phương

thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark

cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của Nhật.

Như vậy có thể thấy rằng, ít nhất từ nay đến năm 2010, theo như cách tính

toán của các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, Nhật Bản vẫn là thị trường

trọng điểm từ năm 2001 đến 2010 để được ưu tiên hỗ trợ xúc tiến thương mại.

Hướng xúc tiến sẽ là hỗ trợ một phần kinh phí để doanh nghiệp tham gia hội trợ

triển lãm, tổ chức đoàn chuyên ngành đi khảo sát thị trường, phát triển thương

hiệu và đăng ký thương hiệu tại thị trường Nhật Bản, phát huy những mô hình

như nhà Việt Nam tại Tokyo để tiến tới thành lập Trung tâm thương mại tại Nhật

Bản. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại xúc tiến đàm phán ký Hiệp định mậu dịch tự

do với Nhật Bản và ủng hộ xu hướng liên kết Nhật Bản-ASEAN.

Trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản trong những năm tới đây sẽ

vẫn là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế mạnh như hàng dệt may, hải sản,

giầy dép và sản phẩm da, than đá, cao su, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ

gốm sứ và sản phẩm gỗ. Đồng thời, chúng ta tăng cường đầu tư đi sâu vào khai

thác các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao mà kim ngạch của các

sản phẩm này đã không ngừng được nâng cao trong năm 2002, đó là dây-cáp

điện và máy vi tính-linh kiện điện tử.

Hàng dệt may hiện đang xuất khẩu được vào thị trường Nhật Bản với kim

ngạch hàng năm trên 400 triệu USD, nhưng thị phần của Việt Nam tại Nhật Bản

còn rất nhỏ bé, chỉ khoảng 2%, so với Trung Quốc là 65%, Italia là 8% và Hàn

Quốc là 6%. Thái Lan dù đang mất dần thị trường cũng còn chiếm được 2,2%

kim ngạch hàng dệt may nhập khẩu của Nhật Bản. Xu hướng nhập khẩu mặt

hàng này tại Nhật Bản tăng nhanh từ những năm 1980 đến những năm 1990,

nhưng trong hai năm 1997 và 1998, kim ngạch nhập khẩu có giảm sút do đồng

Trang 54

yên mất giá và sức mua giảm sút vì kinh tế suy thoái. Tuy nhiên, khi nền kinh tế

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

hồi phục, nội nhu tăng lên và trong tình hình đồng yên đang lên giá mạnh như

hiện nay thì nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này vào Nhật Bản lại tăng lên. Để bắt

kịp được biến động này của thị trường nhằm tăng cường xuất khẩu hàng dệt

may, các doanh nghiệp dệt may cần chú trọng hơn nữa đến cải tiến mẫu mã và

nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm phục vụ thị trường đại chúng ở Nhật Bản.

Mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho ngành dệt may là khoảng 20%/ năm để đến năm

2000 đạt kim ngạch 570 - 580 triệu USD xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản,

năm 2010 khoảng 1,9-2,0 tỷ USD.

Hải sản của Việt nam, nhất là tôm và mực, được thị trường Nhật Bản đánh

giá khá cao. Việt Nam hiện là một trong bốn nước hàng đầu xuất khẩu tôm và

mực vào thị trường Nhật Bản. Hơn 88% nhu cầu tôm tại Nhật Bản dựa vào nhập

khẩu, và cho đến đầu những năm 1990, Thái Lan vẫn là nguồn cung cấp chính

tôm sú cho Nhật Bản. Tuy nhiên, do ô nhiễm của vùng nuôi tôm và việc phát

triển dịch bệnh ở Thái Lan, nên nguồn cung cấp chính chuyển sang Inđônêxia.

Nhưng năm gần đây, dịch bệnh lại phát triển ở Inđônêxia, nên các nhà nhập khẩu

Nhật Bản lại chuyển hướng sang Ấn Độ và Việt Nam. Do vậy, để duy trì nguồn

hàng và giữ được khách hàng Nhật Bản, vấn đề chất lượng và vệ sinh thực phẩm

cần phải được qua tâm hơn nữa, trong đó vấn đề lấy xác nhận trước về chất

lượng hàng hoá đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần làm giảm chi phí lưu

thông, nâng cao được tính cạnh tranh. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu hải sản

vào Nhật Bản đạt mức 340-350 triệu USD/năm. Mục tiêu tăng trưởng mặt hàng

này là 10% năm để đến năm 2005 đạt kim ngạch 700 triệu USD xuất khẩu vào

thị trường Nhật Bản, đến năm 2010 là 1 tỷ USD.

Kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da vào thị trường Nhật Bản

còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu trên 1 tỷ USD của ngành da giầy

Việt Nam. Năm 1999, Việt Nam xuất sang Nhật Bản mặt hàng này trị giá 9.545

triệu yên (khoảng 79 triệu USD), năm 2000 là 5.071 triệu yên (khoảng 42 triệu

Trang 55

USD). Xu hướng nhập khẩu các mặt hàng giầy dép, đặc biệt là giầy da ở Nhật

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

không ngừng tăng lên. Hiện nay, Italia là nước đứng đầu về xuất khẩu giầy da

sang Nhật Bản, chiếm 36,7% thị phần năm 2000. Tiếp theo là Trung Quốc

(15,4%) nhưng số lượng nhập khẩu nhiều hơn Italia, và có xu hướng ngày càng

tăng, Mỹ(8,9%), Anh (6,5%), Hàn Quốc (6,3%). Việc nhập khẩu giầy da vào

Nhật Bản hiện nay vẫn phải chịu hạn ngạch về thuế quan (thay cho hạn ngạch

nhập khẩu áp dụng từ trước tháng 4 năm 1986) theo Điều 9 của Luật thuế quan

Nhật Bản. Các sản phẩm phải chịu hạn ngạch thuế quan sẽ được tính theo hai

mức thuế, mức ban đầu áp dụng đối với một số lượng nhất định trong giới hạn

hạn ngạch thuế quan hàng năm do Nghị định của Chính phủ Nhật quy định, và

sau đó sẽ áp dụng mức thuế thứ cấp cao hơn đánh vào hàng nhập khẩu qúa mức

giới hạn đó. Đối với mặt hàng giầy da, mức ban đầu là từ 19,5% đến 27%, trong

khi mức thứ cấp là 45% hoặc 4.550yên/đôi, lấy theo con số nào cao hơn. Các

doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu giấy dép vào thị trường Nhật Bản cần phải

nắm vững những quy định này để có thể đưa hàng vào thị trường này đúng thời

điểm, tránh phải chịu mức thuế cao, làm cho hàng hoá của Việt Nam có giá cạnh

tranh hơn. Trong xu thế nhập khẩu các mặt hàng này ở Nhật Bản ngày càng tăng

lên, nếu khắc phục được những yếu kém chủ quan như chất lượng da, việc cung

cấp phụ kiện... ngành giầy da Việt Nam có thể đẩy mạnh được xuất khẩu vào

Nhật Bản trong thập kỷ tới, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và đa dạng hoá

thị trường. Với mục tiêu tăng trưởng trên 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu giầy

dép và các sản phẩm da vào Nhật Bản năm 2005 có thể đạt 220-230 triệu USD

và năm 2010 là 320-330 triệu USD.

Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu mặt hàng

này vào Nhật Bản, luôn chiếm hơn 40% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Trong

năm nay, số lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn không

giảm nhưng kim ngạch có thể sẽ thấp hơn năm ngoái do giá than trên thị trường

thế giới giảm. Nhìn chung, vấn đề duy nhất đặt ra cho ngành than trong thời gian

Trang 56

tới đây là tiếp tục củng cố và giữ vững các đầu mối tiêu thụ tại Nhật Bản.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Cao su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được nhiều vào thị

trường Nhật Bản (hàng năm khoảng 3-4 ngàn tấn, mặc dù mức thuế nhập khẩu

mặt hàng này là 0%) do chủng loại cao su của Việt Nam hiện nay chưa thích hợp

với thị trường Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu cao su RSS của

Thái Lan và đóng vai trò chủ đạo đối với tiêu thụ cao su của Thái Lan. Vì vậy,

để đẩy mạnh xuất khẩu cao su vào Nhật Bản, cần nhanh chóng chuyển đổi cơ

cấu sản phẩm trong ngành cao su, tăng tỷ trọng các loại cao su RS và cao su

RSS, đáp ứng đúng thị hiếu của thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp thuộc

ngành cao su cần phối kết hợp với Tổng Công ty Hoá chất để tìm hiểu khả năng

liên kết với Nhật Bản trong việc phát triển công nghiệp chế biến cao su và xuất

khẩu cao su vào thị trường Nhật Bản.

Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là những mặt

hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nhật Bản.

Hàng năm Nhật Bản phải nhập khẩu hơn 3 tỷ USD rau quả nhưng Việt Nam mới

bán được cho Nhật khoảng 7-8 triệu USD, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Trong

những năm tới, nhu cầu của Nhật Bản về các mặt hàng rau quả vẫn không ngừng

tăng lên do nội cung bị thiếu hụt vì giới làm nghề nông ngày càng già đi không

có người thay thế, do việc các siêu thị tăng cường nhập khẩu nhằm ổn định

nguồn cung, do đồng yên lên giá làm giảm giá hàng nhập khẩu. Vì vậy, tiềm

năng phát triển các mặt hàng rau quả của Việt Nam là rất lớn bởi người Nhật

Bản có nhu cầu cao về hành, cải bắp, gừng, ớt, chuối, bưởi, cam, dứa, xoài, đu

đủ những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam. Rau qủa Việt Nam có một số

loại được người Nhật Bản chấp nhận nhưng nhìn chung còn nhiều yếu kém về

mặt chất lượng, bảo quản và đảm bảo thời hạn giao hàng. Tuy nhiên, do thực

phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ theo Luật vệ sinh thực phẩm và

phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe nên các doanh nghiệp Việt Nam cần

chú trọng hợp tác với các bạn hàng Nhật Bản nhằm không những đáp ứng đúng

Trang 57

thị hiếu người tiêu dùng, mà còn phải thực hiện các biện pháp đáp ứng tiêu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

chuẩn vệ sinh của Nhật Bản. Mục tiêu kim ngạch đặt ra cho hàng rau qủa xuất

sang Nhật Bản là 90-100 triệu USD năm 2005 và 180-200 triệu USD năm 2010.

Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị trường

Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật Bản đang tăng rất mạnh trong những

năm gần đây, tới khoảng 23 tỷ yên (khoảng hơn 200 triệu USD) trong năm 2000.

Từ năm 1996 đến năm 2000 khối lượng nhập khẩu gốm tăng 1,4 lần và sứ tăng

2,7 lần. Về đồ gốm, Anh là nước đứng đầu các nước xuất khẩu sang Nhật Bản

chiếm 43,3% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2000, tiếp theo là Đức

(12,7%), Italia (11,3%) và Đan Mạch (10,2%). Gần đây xuất khẩu từ Trung

Quốc tăng nhanh, chiếm đến 5,8% kim ngạch. Về đồ sứ, Trung Quốc đã vượt lên

dẫn đầu chiếm 43,2% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2000, tiếp theo là

Anh (16,2%), Italia (11,7&), Thái Lan (6,1%) và Pháp (3,9%). Đồ gốm sứ của

Việt Nam xuất sang Nhật Bản còn khá ít, chỉ khoảng 5 triệu USD/năm, trong khi

thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (từ 0-3%). Đây là mặt hàng Việt Nam có

thể tăng được kim ngạch nếu như các nhà sản xuất quan tâm hơn đến khâu tạo

hình, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm và thường xuyên thay đổi mẫu mã. Các

nhà xuất khẩu cũng cần quan tâm hơn đến khâu tiếp thị, chú trọng quan hệ với

các siêu thị và các nhà kinh doanh bán lẻ mới dễ đưa hàng thâm nhập vào được

thị trường.

Về đồ gỗ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu hơn 3 tỷ USD, chiếm khoảng

25% thị phần, phần lớn từ các nước Châu Á và Mỹ. Các loại đồ gỗ giá rẻ nhập

khẩu từ Đài Loan và các nước ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia, Philippin và từ

Trung Quốc những năm gần đây, trong khi các sản phẩm giá cao được nhập từ

các nước châu Âu và Mỹ. Đồ dùng gia đình của Việt Nam, trong đó có đồ gỗ

xuất sang Nhật Bản hàng năm khoảng 58-60 triệu USD, chiếm chưa đến 2% kim

ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Nhật Bản. Với lợi thế về nhân công rẻ và tay

nghề cao trong việc xử lý gỗ, và tận dụng được nguồn gỗ cung cấp từ Lào và

Trang 58

Campuchia, Việt Nam trong những năm tới sẽ có khả năng tăng nhanh được kim

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Mục tiêu đặt ra cho mặt hàng này là 300 triệu

USD năm 2005 và tiến tới 500 triệu USD năm 2010.

II.Các giải pháp

1.Về phía Nhà nước

1.1 Nhóm giải pháp phát triển quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản

*. Định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có

hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững

Như đã biết, cơ cấu hàng hoá trao đổi của nước ta trong buôn bán với Nhật

Bản hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù nó phản ánh giai đoạn phát

triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh về tài nguyên

và lao động. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô như nguyên

liệu. Đặc biệt, dầu thô chiếm 35% KNXK Việt-Nhật, ngoài ra là hàng có mức dộ

gia công chế biến thấp-sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều

lao động (như hàng thủy, hải sản trên 19%, may mặc 21%, còn lại 25% là than,

cà phê, gỗ...). Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có những mặt hàng chế biến sâu

và tinh để xuất khẩu sang Nhật Bản.

Một cơ cấu xuất khẩu như trên, trước mắt có thể trong giai đoạn ngắn từ 3-

5 năm hoặc tối đa là 7 năm tới còn có thể chấp nhận được, song nếu kéo dài hơn

sẽ gây bất lợi cho phía Việt Nam. Những thặng dư thương mại nhờ xuất siêu

hoặc ít nhất là sự chênh lệch cán cân thương mại Việt Nam đã giữ được ở mức

tương đối thấp như hiện nay nếu xét thực chất không phải là phán ánh sự phồn

vinh của nền kinh tế, cũng như thế mạnh trong buôn bán với Nhật Bản nói riêng

và thế giới nói chung mà nó bộc lộ tính chất kém phát triển của một nền kinh tế

sống dựa vào bán rẻ tài nguyên và lao động. Như vậy, Việt Nam sẽ luôn luôn

thiệt thòi về giá trị xuất khẩu thu được trong khi lại phải trả giá cao cho việc

nhập khẩu các thiết bị cao cấp từ bên ngoài.

Vấn đề đặt ra là cùng với việc phải chấp nhận một cơ cấu xuất khẩu như

Trang 59

vậy, song để rút ngắn sự “trả giá” do phải thua thiệt vì một cơ cấu xuất khẩu

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

“bán rẻ các nguồn tài nguyên thiên nhiên” thì ngay từ bây giờ người ta phải tận

dụng các nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu, kêu gọi vốn đầu tư nước

ngoài... để nhập khẩu các máy móc, thiết bị, kỹ thuật mới, dây chuyền công nghệ

hiện đại. Động thái này nhằm phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế tạo,

chế biến, kịp thời cho việc sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm xuất khẩu. Chẳng

hạn như thay dần cho việc xuất nhiều dầu thô, trong khi đó ta lại phải nhập khẩu

một lượng lớn xăng, dầu đã qua chế biến sâu của Nhật bằng cách nhập khẩu các

máy móc thiết bị kỹ thuật mới, dây chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản

hoặc của các nước phát triển khác để từ đó phát triển các nhà máy lọc dầu. Từ

đó, không những ta có đủ lượng dầu tinh dùng cho nhu cầu nội địa mà còn dư

thừa cho xuất khẩu. Với các mặt hàng thô nông lâm sản như gạo, ngũ cốc khác,

thủy hải sản...cũng vậy, phải tiến tới sản xuất để xuất khẩu các sản phẩm đó sau

khi đã qua công nghệ chế biến thực phẩm, do đó sẽ thu được giá trị xuất khẩu

cao hơn...

Ngoài ra, ta có thể tận dụng lợi thế so sánh của đất nước về nguồn lực phát

triển các loại hình xuất khẩu vô hình trong quan hệ thương mại với Nhật Bản

như: dịch vụ sản xuất gia công tái chế, lắp ráp hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu

hàng hoá, chuyển khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ khác như: du lịch, vận tải, bảo

hiểm, ngận hàng, xuất khẩu lao động, thông tin, quảng cáo...

1.1.2 Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách, cơ chế quản lý

ngoại thương Việt Nam theo hướng năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, thị

trường Nhật Bản và lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam

*. Cải thiện môi trường kinh doanh

Phải thừa nhận rằng, kể từ đầu thập niên 90 đến nay về phía Việt Nam

chúng ta đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống các chính sách kinh tế, cơ

chế quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu nhằm nhanh chóng tháo gỡ những ảnh

hưởng ràng buộc, ách tắc phi lý của cơ chế độc quyền quản lý Nhà nước về

Trang 60

ngoại thương trước đây. Cơ chế này không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

trường Việt Nam hiện nay, cho dù vẫn biết nền kinh tế thị trường đó còn đang ở

những bước khởi đầu của sự phát triển. Sự đổi mới, hoàn thiện này là một đòi

hỏi tất yếu không chỉ từ ý thức chủ quan của chúng ta là muốn cho hoạt động

ngoại thương được năng động, thông thoáng hơn mà còn do tác động bắt buộc

của các điều kiện khách quan. Đó là: đổi mới phải phù hợp với thông lệ quốc tế

của hệ thống các nền kinh tế thị trường, bạn hàng có quan hệ buôn bán với ta.

Đương nhiên một nguyên tắc cơ bản đặt ra khi thực hiện các điều kiện khách

quan đó là phải phù hợp với việc phát triển một nền kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN ở nước ta. Có nghĩa là một nền kinh tế vừa mang lại hiệu quả cao,

vừa bảo đảm các lợi ích chính trị-xã hội của đất nước ta đang trong quá trình tiến

lên CNXH. Đã có đến hàng trăm các loại văn bản của các cấp quản lý liên quan

khác trong lĩnh vực hoạt động thương mại. Các quy định này sửa đổi và không

ngừng hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo xu

hướng ngày càng thông thoáng hơn, phù hợp hơn. Các thành phần kinh tế trong,

ngoài nước được khuyến khích, tự do, bình đẳng thực hiện các hoạt động đầu tư

phát triển sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng luật định của Nhà nước

Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương. Những nỗ

lực đó có thể nói đã là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra động lực trực

tiếp thúc đẩy hoạt động ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất

khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản nói riêng trong thời gian vừa qua.

Chúng duy trì sự tăng trưởng khả quan liên tục, cho dù hai năm 1997-1998 Việt

Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính-tiền tệ khu vực và suy thoái kinh tế Nhật Bản.

Tuy nhiên, nghiêm túc nhìn nhận như đã đề cập đến, riêng trong quan hệ

thương mại giữa nước ta với Nhật Bản, vẫn còn sự tồn đọng khá nhiều hạn chế,

bất cập. Tác động xấu này cản trở tiềm năng và nhu cầu phát triển thực tiễn của

cả hai nước. Trong đó, chúng ta thấy có những hạn chế, bất cập thuộc về hệ

Trang 61

thống các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý ngoại thương của Việt Nam. Mặc

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

dù đã được sửa đổi nhiều lần song hệ thống này vẫn chứa đựng những nhược

điểm mà chúng ta cần phải kiên quyết hoàn thiện. Chính vì thế, xuất phát từ quá

trình nghiên cứu làm rõ thực trạng khó khăn, ách tắc còn tồn đọng trong quan hệ

xuất nhập khẩu của Việt Nam và Nhật Bản; qua nhiều buổi hội thảo, tọa đàm

khoa học, cũng như khi có điều kiện trực tiếp nghiên cứu khảo sát thực tiễn về

chủ đề này tại Nhật Bản, chúng ta thấy rằng: để quan hệ xuất nhập khẩu nói

chung, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng sang Nhật Bản tiếp tục phát

triển có hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản cần có

phối hợp chặt chẽ trong việc nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, ách tắc

trong các hoạt động buôn bán giữa hai nước. Riêng về phía Việt Nam, chúng ta

phải có những chính sách, biện pháp thích hợp cải thiện môi trường kinh doanh ở

Việt Nam cho năng động, thông thoáng hơn để hấp dẫn hơn nữa trong việc thu

hút các nhà đầu tư và các bạn hàng Nhật Bản vào làm ăn, buôn bán với ta. Đồng

thời, chúng ta phải tìm biện pháp chủ động biến tiềm năng còn rất lớn của thị

trường Nhật Bản trở thành hiện thực có ích đối với Việt Nam. Đương nhiên, để

đáp lại những cố gắng của phía Việt Nam đòi hỏi phía Nhật Bản cũng phải có sự

nỗ lực hợp tác với Việt Nam hơn nữa trong việc nhanh chóng tháo gỡ những khó

khăn, ách tắc còn tồn đọng về phía Nhật Bản.

Chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp hữu hiệu làm giảm tệ nạn

quan liêu giấy tờ, quan tâm và hỗ trợ nhiều hơn nữa cho các doanh nghiệp Nhật

Bản đang kinh doanh tại Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam nên ban hành những chính sách khuyến khích các

công ty Nhật chuyển cơ sở sản xuất và kinh doanh của mình sang Việt Nam.

Những chính sách này phải rõ ràng, quy định cụ thể ngành công nghiệp nào của

Việt Nam, mà các công ty Nhật nên và có thể đầu tư với những điều kiện cụ thể

như hiện nay.

Việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu Việt-Nhật là điều mà Chính phủ Việt

Trang 62

Nam đặc biệt quan tâm. Muốn vậy Việt Nam cần phải hạn chế xuất khẩu các

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

nguyên liệu thô và thực phẩm chưa qua chế biến mà Nhật Bản là thị trường nhập

khẩu chủ yếu. Để tăng nhanh khối lượng hàng hoá đã qua chế biến sang Nhật,

cách tốt nhất là Chính phủ Việt Nam nên đưa ra các chính sách tích cực, khuyến

khích sự tham gia của các hãng Nhật Bản trong quá trình sản xuất hàng xuất

khẩu tại Việt Nam.

Việt Nam cần phải ban hành những chính sách cụ thể và tích cực hơn, lôi

cuốn các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia tích cực vào công nghiệp khai thác, chế

biến và công nghiệp may. Đây là những ngành công nghiệp mà sản phẩm của

chúng chủ yếu được xuất sang thị trường Nhật Bản. Sự tham gia của họ không

những đảm bảo cho sự có mặt của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

mà còn giúp cho Việt Nam khai thác có hiệu quả những tiềm năng sẵn có của

mình.

Chính phủ Việt Nam nên có kế hoạch cụ thể cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ

tầng của ngành thương mại tương xứng với tầm cỡ quốc tế, bảo đảm cho hoạt

động buôn bán của Việt Nam với thế giới ngày càng phát triển. Chỉ có khi đó các

doanh nghiệp Nhật Bản mới hết phàn nàn về việc giao hàng không đúng tiến độ,

thiết bị vận chuyển, kho tàng... không đủ tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề này được

tháo gỡ, thị trường Việt Nam sẽ thu hút được sự quan tâm hơn nữa của các

doanh nghiệp Nhật Bản.

Một khi những tồn tại trên đây được giải quyết-môi trường kinh doanh của

Việt Nam mới trở nên hấp dẫn với các công ty Nhật Bản thì khi đó chẳng có lý

do gì khiến họ phải vội vã đi khỏi thị trường hay buộc họ phải ở lại vì mục đích

đòi nợ chứ không phải hoạt động kinh doanh mà ngược lại có thể họ còn muốn ở

lại lâu hơn thời gian dự định.

Chỉ khi nào tệ quan liêu giấy tờ hạn chế quan hệ song phương bị đẩy lùi,

Việt Nam mới thực sự trở thành môi trường kinh doanh lý tưởng cho các doanh

nghiệp Nhật Bản. Lúc đó triển vọng thị trường Việt Nam đối với Nhật Bản sẽ là

Trang 63

hiện thực.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

*. Khai thác tốt hơn thị trường Nhật Bản

Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt Nam cần căn cứ

vào sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản và vai trò của nó trong khu vực

Đông Nam Á, Châu Á -Thái Bình Dương. Nói cụ thể hơn, chúng ta cần có một

chính sách công nghiệp và thương mại coi thị trường Nhật Bản như một trong

những hướng xuất khẩu quan trọng nhất.

Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với

những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện nay thị trường Nhật Bản

vẫn được coi là thị trường có mức độ bảo hộ cao. Sự bảo hộ này có thể là dưới

hình thức phi thuế quan. Vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có một

ảnh hưởng rất lớn đến các nước khác trong khu vực.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, tạo cho họ

nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản. Kinh

nghiệm của chính Nhật Bản và các nền kinh tế xuất khẩu thành công như Hàn

Quốc về phương diện này là rất đáng chú ý.

Các doanh nghiệp có thể lựa chọn các chiến lược thâm nhập thị trường sau:

(cid:31) Xuất khẩu

(cid:31) Liên doanh

(cid:31) Đầu tư trực tiếp

Mỗi cách thâm nhập thị trường trên đây có ưu thế và những hạn chế riêng.

Xuất khẩu là con đường thâm nhập thị trường chính hiện nay của các doanh

nghiệp Việt Nam. Hình thức này thích hợp với thời kỳ đầu, khi quy mô buôn bán

còn nhỏ bé và các mặt hàng còn phân tán nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các

nhà xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường Nhật Bản.

Vì thế cần áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp

chưa phải là hướng chính trong thời gian trước mắt, nhưng chí ít nó cũng cần

Trang 64

thiết trong một số lĩnh vực như các cơ sở tiếp thị và dịch vụ.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Liên doanh có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như sử dụng giấy phép

sử dụng nhãn mác hàng hoá. Kinh nghiệm Đài Loan trong lĩnh vực này là rất

đáng chú ý. Các nhà xuất khẩu Đài Loan đã đưa hàng hoá của mình ra thị trường

thế giới dưới danh hiệu của nhiều công ty nổi tiếng nước ngoài.

Cần tính đến một xu hướng đang là vấn đề thời sự, đó là sự gia tăng buôn

bán nội bộ công ty và tái xuất của các doanh nghiệp Nhật Bản để triển khai các

hình thức liên doanh cũng như tham gia trực tiếp vào mạng lưới phân công lao

động quốc tế. Nếu không liên doanh rất khó thâm nhập vào thị trường. Hình thức

này không chỉ giúp cho sự gia tăng xuất khẩu sang Nhật mà còn sang các thị

trường khác mà các công ty Nhật Bản đang có mặt.

Tham gia các thể chế thương mại toàn cầu và khu vực (WTO, APEC...) để

được hưởng các quy chế tối huệ quốc và những ưu đãi dành cho các nước đang

phát triển trong buôn bán quốc tế.

Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách và biện pháp thích hợp để

kết hợp lợi thế so sánh của thương mại và đầu tư. Việc kết hợp giữa hai lĩnh vực

kinh tế là cực kỳ quan trọng, đỏi hỏi phải có sự thận trọng, nếu gắn đồng bộ sẽ

thu được kết quả như mong muốn, ngược lại là gắn không đồng bộ thì không

những không thu được kết quả mà còn phải giải quyết hậu qủa.

Hiện nay, Việt Nam vừa là thị trường tiêu thụ hàng hoá vừa là đối tượng

cần sự việc trợ kinh tế của Nhật Bản. Nhật Bản có thể đầu tư vốn vào Việt Nam

trong các lĩnh vực xây dựng kết cầu kỹ thuật hạ tầng và công nghệ. Đồng thời

bằng việc khai thác nguồn tài nguyên phong phú của mình, Việt Nam có thể

cung cấp cho Nhật Bản các nguyên liệu và sản phẩm cần thiết.

Quan hệ xuất nhập khẩu Việt-Nhật đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn

liền với những chuyển biến kinh tế của hai nước. Triển vọng của các quan hệ này

phụ thuộc vào đường lối, chính sách tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp Nhật Bản

Trang 65

vào thị trường Việt Nam và những định hướng dài hạn trong chính sách thị

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

trường, những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt

Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản.

*. Hợp tác Việt-Nhật

Việt Nam và Nhật Bản cần có trao đổi, bàn bạc cụ thể trong khuôn khổ

song phương để đi đến ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước, trong đó

Nhật Bản dành cho Việt Nam quy chế MFN đầy đủ. Vấn đề này đã được nêu tại

hội nghị lần thứ nhất Nhóm công tác Việt Nam-Nhật Bản vào giữa tháng 9 năm

1999, tuy nhiên phía Nhật Bản có ý chưa nhiệt tình đáp ứng. Hiệp định này được

ký kết sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho quan hệ thương mại hai nước phát triển

hơn nữa.

Tăng cường trao đổi, thu thập và phổ biến các thông tin về thị trường nước

ngoài. Đối với thị trường Nhật Bản, các thông tin có liên quan đến phương thức

phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng đối hàng công nghiệp (hệ

thống JIS, hàng nông nghiệp và thực phẩm (hệ thống JAS) và chứng nhận về bảo

vệ sinh thái (dấu Ecomark), có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định việc đẩy

mạnh xuất khẩu hàng hóa , đặc biệt là hàng nông sản và thực phẩm mà Việt Nam

đang có thế mạnh, vào thị trường có đòi hỏi cao như Nhật Bản. Hàng hóa đáp

ứng được tiêu chuẩn JIS và JAS sẽ dễ tiêu thụ hơn trên thị trường Nhật Bản bởi

người tiêu dùng rất tin tưởng những sản phẩm được đóng JIS hoặc JAS.

Các doanh nghiệp phải được tạo điều kiện nắm bắt thông tin, tìm hiểu,

khảo sát thị trường Nhật Bản. Việc tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các doanh

nghiệp Việt Nam và Nhật Bản thông qua các cuộc triển lãm, gặp gỡ trực tiếp là

hết sức quan trọng. Cũng cần có các cơ quan đảm trách hoặc phối hợp với các cơ

quan chức năng của Nhật Bản trong việc hướng dẫn các tiêu chuẩn kỹ thuật,

phẩm chất hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản. Chẳng hạn, hiện có Công ty

OMIC, một trong những công ty lớn về kiểm tra chất lượng hàng nông sản của

Nhật đang có mặt tại Việt Nam kiểm tra tiêu chuẩn, phẩm chất gạo xuất khẩu

Trang 66

sang Nhật.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Việt Nam nên đề nghị phía Nhật Bản hợp tác và sớm cử chuyên gia kiểm

dịch động thực vật sang Việt Nam để cùng phía Việt Nam kiểm tra các sản phẩm

nông sản Việt Nam đang bị phía Nhật Bản cấm đưa vào Nhật; xác định và công

bố những mặt hàng đã đủ tiêu chuẩn đưa vào Nhật để tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp hai nước mua bán các mặt hàng này. Ngoài ra, phía Nhật cần xem

xét, cho áp dụng chế độ xác nhận về chất lượng của thực phẩm nhập khẩu vào

Nhật Bản đối với một số nhà sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam đáp ứng được

tiêu chuẩn của Nhật, tao điều kiện cho việc thông quan, giảm chi phí lưu kho tại

Nhật Bản và tiêu thụ các mặt hàng này dễ dàng hơn.

Trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư

nước ngoài, phía Nhà nước Việt Nam cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn

đầu tư của Nhật Bản vì các nhà đầu tư Nhật Bản khi chuyển sang sản xuất tại

Việt Nam sẽ xuất khẩu trở lại Nhật Bản một phần, hoặc có thể toàn bộ sản phẩm

của nhà máy của họ tại Việt Nam. Hoạt động này góp phần nâng cao kim ngạch

hàng hóa sản xuất tại Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Đặc biệt, các nhà

đầu tư Nhật Bản cũng rất quan tâm đến sự kiện vừa qua, ngày 13/7/2000, Việt

Nam đã lý Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ. Vì, đây sẽ là cơ hội cho

các cơ sở đầu tư của họ tại Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hóa không chỉ sang

Nhật Bản mà còn sang Mỹ và một số nước khác, giúp cho việc tăng kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam nói chung.

Về gạo, mấy năm qua Nhật Bản đã bắt đầu mở cửa thị trường gạo và đã

chấp nhận mua gạo của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan. Chúng ta nên đề nghị Chính

phủ Nhật có chính sách công bằng hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho gạo Việt

Nam (gạo gia công, gạo nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm) bán vào thị

trường Nhật; yêu cầu Chính phủ Nhật khuyến khích tư nhân chuyển giao công

nghệ gì cho một số nước khác trong khu vực thì cũng chuyển giao công nghệ đó

cho Việt Nam.

Trang 67

1.2 Các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

1.2.1 Nhóm các biện pháp hành chính

Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố hoạt động các

văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng

xuất khẩu của Việt Nam. Tới nay, Việt Nam vẫn hay phó thác việc này cho các

tham tán thương mại tại Sứ quán của mình ở nước ngoài. Tuy nhiên, những tham

tán thương mại lại thường chú trọng tới các vấn đề thương mại song phương ở

cấp Chính phủ hoặc chỉ đơn thuần đưa ra các giải pháp chung chung.

Bản thân các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam ít chịu bỏ

tiền hoặc không có khả năng bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm

dò thị trường hay tổ chức các cuộc hội thảo ngoài nước để khuyếch trương sản

phẩm của mình. Đây là những hoạt động mà các hãng nước ngoài đang thực hiện

rầm rộ tại Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam phải đẩy mạnh hoạt động của văn

phòng xúc tiến thương mại. Đây là việc làm cấp bách đối với Việt Nam trong

tình hình hiện nay. Những văn phòng này sẽ đứng ra tổ chức và đài thọ phần

kinh phí những chuyến đi nghiên cứu thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt

Nam và các tổ chức trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại Nhật.

Chính phủ Việt Nam nên tổ chức những chương trình đào tạo chuyên sâu

về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thương mại của các công

ty Việt Nam có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là nâng

cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ thương mại Việt Nam để họ có thể đưa

ra những quyết định sáng suốt, kịp thời và rút ngắn được thời gian quá dài không

cần thiết của các cuộc thương lượng. Chính sự chậm trễ này làm cho nhiều cơ

hội “làm ăn” bị bỏ lỡ.

Nhà nước cần thành lập Đại diện các công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu

Việt Nam tại Tokyo do Bộ Thương mại trực tiếp chỉ đạo thông qua nghiệp vụ

kinh doanh ngay trên thị trường Nhật; cơ quan đại diện sẽ là đơn vị cùng với

Trang 68

Thương vụ cung cấp các thông tin kinh tế thương mại, đặc biệt là những thông

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

tin về nghiệp vụ kinh doanh cho Bộ cũng như các công ty và các tổ chức xuất

nhập khẩu trong nước.

1.2.2 Nhóm các biện pháp kinh tế

- Thanh toán nợ thương mại

Chính phủ Việt Nam phải có những chính sách và biện pháp tích cực để

giải quyết các khoản nợ mà các công ty Việt Nam mua chưa trả. Nhiều công ty

Nhật Bản bán hàng cho Việt Nam nhưng không thu được tiền. Chính phủ Việt

Nam phải có trách nhiệm đứng ra đảm bảo lợi ích cho họ thì họ mới có thể tiếp

tục kinh doanh ở Việt Nam, không nên để tình trạng như hiện nay: “Một công ty

duy trì văn phòng tại Việt Nam chủ yếu là để thu tiền nợ hơn là để tìm kiếm các

hợp đồng mới”. Có một số công ty Nhật đã đề nghị được gia hạn giấy phép hoạt

động của văn phòng một phần với lý do là để theo đuổi các món nợ mà khách

mua Việt Nam chưa trả. Thu hút các công ty Nhật vào thị trường Việt Nam đã

khó nhưng giữ chân được họ ở lại còn khó hơn rất nhiều và đây là điều mà Chính

phủ Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn nữa.

- Trợ cấp xuất khẩu

Trợ cấp trực tiếp có thể là những khoản chi của chính phủ, hay những

khoản đóng góp của chính phủ cho các nhà sản xuất hay xuất khẩu trong nước để

họ xuất khẩu hàng hóa hay dịch vụ. Chính phủ có thể áp dụng thuế suất ưu đãi

đối với hàng hóa xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nhà xuất khẩu để sản

xuất hàng xuất khẩu, cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi cho các

đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất

khẩu. Hoặc chính phủ có thể dùng ngân sách nhà nước để giới thiệu, triển lãm,

quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu, hoặc nhà nước giúp

đỡ kỹ thuật, đào tạo chuyên gia.

- Đảm bảo và cấp tín dụng

Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc

Trang 69

bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hóa với lãi suất ưu đãi

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi

ro (do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị) dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp

đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng bằng cách bán

chịu, quĩ bảo hiểm của nhà nước đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Tỷ lệ

đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường tỷ lệ đền bù chỉ 60-70%

khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh

toán của nhà nhập khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời

hạn tín dụng.

Nhà nước đứng ra bảo đảm tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất

khẩu, còn nâng được giá bán hàng vì giá bán chịu còn bao gồm cả giá bán trả

tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức.

Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu thông qua hình thức trực tiếp

cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua

hàng của nước cho vay. Hình thức này có tác dụng giúp doanh nghiệp đẩy mạnh

được xuất khẩu vì có sẵn thị trường và giải quyết được tình trạng dư thừa hàng

hoá ở trong nước. Nhà nước cũng có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất

khẩu trong nước. Theo đó nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể

thiếu được việc cấp tín dụng của chính phủ theo những điều kiền ưu đãi. Điều đó

giảm được các chi phí xuất khẩu. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương

trình xuất khẩu bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi

giao hàng.

2. Về phía doanh nghiệp Việt Nam

Nhiều công ty nước ngoài đã nắm bắt được nét đặc trưng của xã hội Nhật

Bản và những đặc điểm nổi bật của thị trường này. Các công ty này cũng rất am

hiểu các xu hướng tiêu dùng của người Nhật cũng như các quy định và bộ luật

liên quan của Nhật Bản. Cùng với kiến thức của mình, họ đã thành công ở thị

Trang 70

trường Nhật Bản. Sau đây là một số ý kiến quan trọng giúp tìm ra con đường đi

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

tới thành công, được đúc kết bởi rất nhiều các Công ty nước ngoài đã thành công

trên đất Nhật Bản.

2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm

Đối với các loại sản phẩm, người tiêu dùng và người sử dụng Nhật Bản

đòi hỏi cao về nhiều tiêu chuẩn. Có một số công ty nước ngoài phàn nàn là

những tiêu chuẩn người Nhật đề ra là quá cao và việc đáp ứng được những tiêu

chuẩn và những yêu cầu đó là không thể được vì quá tốn kém. Tuy nhiên những

công ty nước ngoài đã thành công ở Nhật đều nhận ra rằng người Nhật không

bao giờ bỏ qua mặt chất lượng. Các công ty này nhận về mình trách nhiệm phải

đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và độ an toàn của hàng

hóa đối với người tiêu dùng Nhật Bản.

Sự thật là một sản phẩm độc đáo tất nhiên sẽ hấp dẫn khách hàng. Nhưng

khách hàng sẽ còn bị cuốn hút hơn khi công ty đó và sản phẩm của nó độc đáo,

khác biệt với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Để có được tính độc đáo của

sản phẩm cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị, trình độ công nghệ,

nghiên cứu và phát triển. Điều chủ yếu là phải tạo được sự khác biệt giữa Công

ty mình và các đối thủ cạnh tranh, bí quyết ở đây chính là tính sáng tạo. Do vậy

nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là yếu tố quan trọng hàng đầu và bắt buộc,

để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, muốn vậy

doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp sau đây:

- Đầu tư đổi mới thiết bị xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm và lắp đặt dây chuyền

công nghệ mới.

- Đổi mới công tác quản lý sản xuất, kinh doanh theo hướng có hiệu quả, đặc

biệt chú trọng chất lượng từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và dịch vụ sau bán

hàng.

- Nỗ lực để được nhận chứng chỉ của Hệ thống quản lý Chất lượng theo tiêu

Trang 71

chuẩn Quốc tế ISO 9000

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

- Đầu tư chiều sâu về vốn, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới,

thị trường mới

- Tích cực tham gia vào phong trào chất lượng Việt Nam, các hội chợ chất lượng

Quốc tế.

2.2 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường

2.2.1 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường

Để đẩy mạnh việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường,

đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ. Hệ thống tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường

của nước ta cần phải được hoàn thiện theo các hướng sau đây:

Đối với nhóm các tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh, cụ thể là

các tiêu chuẩn về chất lượng đất, nước cần phải bổ sung các tiêu chuẩn phân loại

đất và nước theo mục đích, yêu cầu sử dụng, trên cơ sở đó xây dựng mới hoặc

soát xét lại các tiêu chuẩn chất lượng đất, nước theo phân loại đã được tiêu

chuẩn hoá.

Đổi mới các tiêu chuẩn về thải, chúng ta cần soát xét các tiêu chuẩn khí

thải hoặc nước thải chung cho tất cả các ngành công nghiệp như: nhiệt, điện, dệt,

nhuộm, xi măng, phân bón, hoá chất, luyện kim, chế biến thực phẩm. Chính phủ

cần quy định các tiêu chuẩn khác nhau đối với mỗi loại chất ô nhiễm nào đó để

có thể áp dụng cho từng loại vùng thích hợp, đặc biệt là những khu vực có nguy

cơ ô nhiễm cao. Mặt khác, các tiêu chuẩn về tổng thải cho một số khu vực quá

tải ô nhiễm cần phải được thiết lập, trên cơ sở đó quy định các tổng lượng thải

cho các nguồn thải trong khu vực đó. Đối với chất thải rắn của các ngành công

nghiệp và dịch vụ, Chính phủ cần phải xây dựng các tiêu chuẩn quy định phương

pháp, phương tiện, thiết bị nhằm thiêu, đốt, chôn, lấp, hoặc tái sử dụng.

Đối với các tiêu chuẩn về phương pháp thử, mặc dù hiện nay các TCVN

về phương pháp thử chiếm 75% số TCVN về môi trường song thời gian tới

Chính phủ cần phải bổ sung nhiều phương pháp thử các chất ô nhiễm của khí

Trang 72

thải công nghiệp, phương pháp đo ồn, rung, phương pháp thử một chất ô nhiễm

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

trong nước thải công nghiệp, một số loại dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật trong

đất.

Đối với một số lĩnh vực bảo vệ môi trường như hệ sinh thái, bảo vệ biển,

khai thác khoáng sản, Chính phủ cần phải xây dựng các tiêu chuẩn về phương

pháp đánh bắt, khai thác nguồn lợi sinh vật, thủy hải sản, sử dụng đất, nhằm đảm

bảo cân bằng sinh thái, chống suy thoái môi trường. Các tiêu chuẩn cho sản

phẩm, quá trình phải được bổ xung nhằm khuyến khích việc sử dụng các sản

phẩm này như các tiêu chuẩn xăng không pha chì, các thiết bị làm lạnh hay điều

hoà không khí không sử dụng các chất có thể gây tác hại cho tầng ô zôn...

Nhà nước cần tăng cường việc phổ biến, hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn,

tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho các cơ sở sản xuất,

kinh doanh cho mọi người dân, đồng thời cần dựa vào các tiêu chuẩn để đánh giá

tác động môi trường, đẩy mạnh việc kiểm tra, xử lý các vi phạm đối với tiêu

chuẩn môi trường.

2.2.2 Đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn Quốc tế về vệ sinh và môi trường

Nhà nước cần tuyên truyền, quảng bá để các doanh nghiệp Việt Nam thấy

được sức ép của vấn đề môi trường đến kinh doanh và lợi ích của doanh nghiệp,

thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ làm công tác xuất nhập khẩu ở các

doanh nghiệp về Ecomark để họ hiểu đúng, hiểu rõ hơn tầm quan trọng của yếu

tố môi trường trong chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Các cơ quan hữu quan cần

đẩy mạnh công tác chứng nhận đạt tiêu chuẩn về môi trường theo Hệ thống quản

lý môi trường ISO 14000; đạt tiêu chuẩn chất lượng thực phẩm HACCP, dược

phẩm GMP và SQF 2000.

2.3 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

Mặc dù bản thân các doanh nghiệp cũng dần thấy được tầm quan trọng

của quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại và đang nỗ lực để bảo vệ

nó. Song hiện nay, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng giả, xâm phạm quyền

Trang 73

sở hữu trí tuệ (trong đó có các đối tượng SHCN) có xu hướng gia tăng; nhất là

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, nguồn gốc xuất xứ hàng

hóa, chỉ dẫn địa lý và bản quyền tác giả...

Đặc biệt tình trạng hàng giả xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ nhập khẩu từ

nước ngoài vào nước ta diễn ra bằng nhiều phương thức và thủ đoạn tinh vi, dưới

mọi hình thức: nhập tiêu ngạch, nhập lậu và cả hàng hóa nhập chính ngạch.

Hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đưa qua biên giới sau đó được nhập khẩu

quay trở lại Việt Nam như hàng nhập khẩu. Hàng hóa được làm giả theo nhãn

hiệu tương tự hoặc trùng nhãn hiệu nổi tiếng nước ngoài nhằm đánh lừa người

tiêu dùng trong nước. Hành vi xâm phạm quyền SHCN thường xảy ra đối với

các mặt hàng mới xuất hiện, được sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng, trong

khi đó các doanh nghiệp có liên quan thường chưa kịp “trở tay”.

Điều quan ngại hơn cả là hàng giả xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xuất

hiện cả trong những trung tâm thương mại và siêu thị tại các thành phố lớn, gồm

nhiều ngành hàng, mặt hàng khác nhau: từ những mặt hàng công nghệ sản xuất

đơn giản, giá trị thấp (như chai tương ớt...), đến những mặt hàng có giá trị cao

(như đầu video, tủ lạnh, ti vi, xe máy...).

Những hành vi vi phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm quyền

SHCN đã được các cơ quan thực thi pháp luật tăng cường kiểm tra, xử lý, nhưng

chưa có biện pháp ngăn chặn một cách hiệu quả. Tình trạng này tác động xấu

đến môi trường cạnh tranh, đầu tư trong nước cũng như quyền lợi hợp pháp của

các nhà sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh, thiệt hại tới lợi ích của người tiêu

dùng. Chỉ tính riêng trong 3 năm từ 1999 đến 2001, lực lượng quản lý thị trường

cả nước đã kiểm tra phát hiện và xử lý 9307 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả,

trong đó hơn 50% số vụ liên quan đến SHCN, chủ yếu là các vi phạm về nhãn

hiệu, kiểu dáng công nghiệp.

So với thực tế, kết quả này còn rất hạn chế, có thể vì đây chỉ là phần nổi

của “tảng băng chìm”. Hàng giả lưu thông trên thị trường rất khó kiểm soát nhất

Trang 74

là các loại hàng giả nhập khẩu từ nước ngoài. Bản thân hoạt động kiểm tra mới

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

chỉ dừng ở việc xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển hàng nhập lậu, hành vi kinh

doanh trái pháp luật; chưa xử lý hành vi vi phạm về SHCN. Như khi kiểm tra

băng đĩa hình, chỉ xử lý vi phạm về tem, nhãn băng, đĩa ngoài luồng, sang băng

đĩa trái phép... không xử lý những vi phạm về các lĩnh vực SHCN và bản quyền.

Một thực tế là rất nhiều hàng giả xâm phạm quyền SHCN có địa chỉ,

nguồn gốc xuất sứ không rõ ràng lưu thông trên thị trường, hoặc các loại hàng

làm giả nhãn hiệu của các nhà sản xuất nước ngoài được sản xuất trong nước

hoặc nhập từ nước ngoài. Vì nhiều nguyên nhân mà hầu hết các hành vi sản xuất,

kinh doanh các loại hàng giả này lại không bị khiếu nại bởi chủ sở hữu, nhưng

nếu không có biện pháp xử lý và ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng xấu đến thị

trường trong nước, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và uy tín của doanh nghiệp

có hàng bị làm giả. Các cơ quan thực thi chưa chủ động trong việc kiểm tra, xử

lý đối với hàng giả về SHCN hoặc thông báo cho các doanh nghiệp có hàng bị

làm giả biết. Nguyên nhân của tình trạng này là do chưa có quy định hay hướng

dẫn cụ thể trong trường hợp nào thì cơ quan thực thi có quyền chủ động kiểm tra,

xử lý và trong trường hợp nào thì có trách nhiệm thông báo yêu cầu đối với các

doanh nghiệp có hàng bị làm giả.

Như đã đề cập ở trên, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành

quốc nạn. Vấn đề bức xúc hiện nay là chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ thẩm

quyền kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN của các cơ quan thực thi

các cấp nên có tình trạng kiểm tra, xử lý tràn lan, tuỳ tiện, gây tác động xấu tới

thị trường hoặc kiểm tra, xử lý không nghiêm minh, không triệt để, gặp đâu làm

đấy... Nên chăng, Nhà nước cần thực hiện chính sách “một cửa” trong việc giải

quyết khiếu nại xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, thành lập một bộ phận thường

trực chuyên tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tùy theo tính chất từng vụ việc, bộ

phận này có thể giao cho các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ khác nhau

Trang 75

giải quyết.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Ngay cả các doanh nghiệp là chủ sở hữu các đối tượng SHCN cũng nhận

thức không đầy đủ vai trò quan trọng của mình trong công tác đấu tranh chống

hàng giả xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vì quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín và

thị phần của doanh nghiệp. Mới có một số ít doanh nghiệp chủ động hành động,

phối hợp với cơ quan chức năng trong việc chống hàng giả, xâm phạm quyền sở

hữu trí tuệ. Còn hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm, hoặc có tình

trạng dù biết sản phẩm của mình bị làm giả nhưng “ngại” thông tin, tuyên truyền

vì sợ ảnh hưởng tới doanh thu; xem công tác chống hàng giả là chức năng và

trách nhiệm của các cơ quan thực thi pháp luật nhà nước. Hơn nữa, các doanh

nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những hoạt động tích cực trong việc hợp

tác để đấu tranh chống hàng giả, bảo vệ quyền lợi của mình và người tiêu dùng.

Hiện nay việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ là một tiêu chuẩn cơ bản để

tham gia các hoạt động thương mại quốc tế theo các Hiệp định thương mại giữa

các quốc gia cũng như việc tham gia Tổ chức thương mại quốc tế. Các đối tượng

của SHCN ngày càng mở rộng, Nhà nước không chỉ bảo hộ quyền SHCN đối

với các sản phẩm sản xuất trong nước mà còn phải có chính sách rõ ràng đối phó

với hàng hóa, dịch vụ được nhập khẩu từ nước ngoài; bảo hộ SHCN cho các

doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.

Từ khi Chính phủ ban hành pháp lệnh về Bảo hộ quyền SHCN năm 1989,

hệ thống pháp luật bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đã có những bước phát triển quan

trọng. Quốc hội đã thông qua Bộ luật Dân sự và Hình sự trong đó có các điều

khoản về bảo hộ Sở hữu trí tuệ và chống hàng giả. Chính phủ cũng đã ban hành

hàng loạt các văn bản về quyền SHCN và quyền tác giả. Tuy nhiên so với yêu

cầu thực tiễn, hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ và chống hàng

giả còn phải tiếp tục được hoàn thiện, nhất là việc thiết lập một cơ chế hoạt động

có hiệu quả, bảo đảm thực thi quyền SHCN và chống hàng giả.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chúng ta phải từng bước hoàn

Trang 76

chỉnh hệ thống thực thi pháp luật về chống hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

tuệ; cần sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ từ phía các cơ quan nhà nước, doanh

nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, người tiêu dùng, các tổ chức đối tác nước

ngoài...Hy vọng trong thời gian tới khi Quốc hội phê chuẩn Luật về Sở hữu trí

tuệ thì những vướng mắc và chồng chéo văn bản như hiện nay sẽ được cởi bỏ.

Đăng ký quyền sở hữu công nghiệp để bảo vệ thương hiệu cho hàng hoá

xuất khẩu cũng quan trọng không kém việc tạo ra một sản phẩm chất lượng tốt,

được người tiêu dùng ưa chuộng. Vì thế, việc thực hiện đồng bộ những biện

pháp trên đây góp phần quan trọng để hàng xuất khẩu Việt Nam có thể đứng

vững trên thị trường Nhật Bản.

2.4 Nắm vững thông tin thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản

Tăng cường hiểu biết thị trường, tập quán tiêu dùng, hệ thống phân phối,

quy chế nhập khẩu nhất là đối với hàng thực phẩm tươi sống là vô cùng cần thiết

đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Hàng hóa vào thị trường Nhật qua

nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng thường có giá cả rất

cao so với giá nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chấp nhận thực tế này để chào

hàng cạnh tranh. Tăng cường, chủ động đi khảo sát thị trường, thăm các siêu thị

của Nhật Bản để hiểu thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người Nhật là điều cần

thiết.

Nắm chắc thông tin thị trường một cách thường xuyên, tranh thủ nguồn

thông tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và

Công nghiệp Việt Nam, Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản JETRO. Hiện

nay JETRO có mẫu hướng dẫn tìm bạn hàng bên Nhật, các doanh nghiệp Việt

Nam có thể liên hệ nhờ giúp đỡ. Thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược với

tầm nhìn sâu rộng. Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như:

dung lượng thị trường, các đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, mức giá, giới hạn

thời gian, những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng, những xu

hướng nghiên cứu và phát triển. Trước khi có thể thâm nhập thị trường Nhật

Trang 77

Bản, các công ty phải điều tra nghiên cứu thị trường này.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Doanh nghiệp Việt Nam phải đa dạng hoá sản phẩm, khai thác điểm

mạnh, tính độc đáo của sản phẩm, sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật trong việc cải

tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, quản

lý chất lượng, giảm giá thành v.v.. Hiện nay Nhật Bản đang có chương trình cử

chuyên gia của tổ chức JODC (Japan Overseas Development Corporation) sang

giúp các nước đang phát triển trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng cường

chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ và thiết bị, kinh nghiệm quản lý, nghiên

cứu phát triển sản phẩm và thị trường, phát triển nguồn nhân lực (chương trình

JESA-I) hoặc trong các lĩnh vực cải tiến kỹ thuật, công nghệ, quản lý chất lượng,

hiện đại hoá hệ thống kế toán, tư vấn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ

phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industries) bảo vệ môi

trường...(JESA-II). Chương trình JESA-II giành cho các hiệp hội, tổ chức Nhà

nước và tư nhân với toàn bộ chi phí do phía Nhật chịu. Thông tin về chương

trình này có thể tìm hiểu qua Văn phòng Đại diện JETRO hoặc qua Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Bộ phận thị trường Nhật).

Doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tham gia các hội chợ triển lãm quốc

tế giới thiệu hàng hóa sản phẩm của mình với các khách hàng Nhật. Để có thể

thiết lập mối quan hệ kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động

tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại Nhật Bản hoặc mở văn phòng đại diện

tại Nhật để giới thiệu sản phẩm. Trong thời buổi cạnh tranh cao, việc chủ động

tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội

kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Hiện nay, lượng khách du lịch Nhật

Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống

và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng

bán đồ lưu niệm tại những điểm du lịch hoặc cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt

tạo tiếng vang cho sản phẩm.

Do đặc điểm của công việc, chính sách kinh doanh và cách thức thành lập

Trang 78

công ty ở Nhật, việc đưa ra quyết định ở Nhật thường tốn nhiều thời gian hơn so

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

với các nước khác. Việc tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản

là điều không thích hợp. Điều cốt yếu là không được bỏ cuộc giữa chừng, muốn

thành công phải có sự quyết đoán và lòng kiên trì. Trong khi mỗi thị trường trên

thế giới đều có những điểm khác nhau thì đối với thị trường Nhật Bản một điểm

dễ nhận thấy nhất là ta không thể hiểu rõ thị trường này nếu không sống ở đó.

Rất nhiều công ty ở Nhật rất khó khăn trong việc thuyết phục công ty mẹ về

những ý kiến họ đưa ra. Một số cho rằng tình trạng trên là do phải làm việc với

các sếp ở xa, không ở trên đất Nhật. Công ty mẹ cần sớm xem xét thấu đáo việc

giao quyền quyết định cho công ty con hay phía đối tác Nhật Bản trong liên

doanh. Song việc chuyển giao quyền này đến mức nào là một vấn đề quan trọng

để công việc kinh doanh được trôi chảy ở Nhật.

Khi thành lập một công ty con hay một liên doanh để thâm nhập vào thị

trường Nhật, chiến lược quản lý của phía đối tác Nhật Bản sẽ ảnh hưởng sâu sắc

đến hoạt động của công ty. Những hoạt động kinh doanh sau này của phía Nhật

Bản cũng gây ra những ảnh hưởng tương tự. Câu hỏi chính luôn được đặt ra là

liệu có hay không sự tương đồng về triết lý và chủ thuyết kinh doanh giữa hai

bên. Nếu hai bên có sự tương đồng thì việc hợp tác kinh doanh sẽ diễn ra trôi

chảy, nhưng nếu hai bên có sự bất đồng, khác biệt thì cần sớm có sự bàn bạc

(tham khảo ý kiến). Trường hợp này, hai bên cần có những cuộc tranh luận, bàn

bạc tham khảo để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.

Trong ngành công nghiệp sản xuất chế tạo công ty cần phải quan tâm đến

các hoạt động nghiên cứu - phát triển và công nghệ. Rất nhiều công ty khi tham

nhập vào thị trường Nhật đã đầu tư khá nhiều (dành nhiều ngân sách) tiền của và

nguồn nhân lực cho bộ phận nghiên cứu - phát triển (R & D).

Nhiều Công ty nước ngoài thường cho rằng sản phẩm của mình tiêu thụ

được ở thị trường nội địa chẳng có lý gì không bán được ở Nhật. Tuy nhiên,

những sản phẩm và dịch vụ đó không đáp ứng được nhu cầu tại thị trường Nhật

Trang 79

Bản nên kết cục thường thất vọng. Một nhà sản xuất thiết bị gia dụng Mỹ đã thử

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

bán sản phẩm tủ lạnh của mình ở Nhật nhưng không thành công vì tủ lạnh của

công ty này quá to, không phù hợp với nhà ở của người Nhật. Trường hợp khác,

một công ty liên doanh vốn nước ngoài chuyên sản xuất đồ nội thất đã thành

công khi sản xuất ghế sô-pha có gầm thấp sát dưới sàn, phù hợp với thói quen

ngồi dưới sàn nhà của người Nhật. Một quản lý của công ty lý giải: “Sản xuất đồ

nội thất là ngành liên quan mật thiết đến đặc điểm từng khu vực và khách hàng

sống ở khu vực đó” chúng tôi thiết kế và làm ra những sản phẩm mà người tiêu

dùng địa phương mong muốn.

Những Công ty có cơ sở sản xuất và nhà máy ở những vùng xa trung tâm

có thể nhận được những ưu đãi về thuế, trợ giá và những khoản vay lãi nhẹ. Đây

là những biện pháp ưu đãi mà Chính phủ Nhật cũng như các nước khác áp dụng

để khuyến khích phát triển. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có

thể tận dụng những hệ thống cho vay nhẹ lãi điều hành bởi các cơ quan tài chính

của Chính phủ.

Tóm lại, Nhật Bản là thị trường có mức bảo hộ cao, người tiêu dùng Nhật

Bản cũng là những khách hàng thuộc vào loại khó tính nhất thế giới. Do đó, nếu

chúng ta không nắm vững những đặc điểm riêng của thị trường này về tập quán,

văn hoá sinh hoạt, tiêu dùng của người dân; lưu thông, phân phối hàng hóa;

chính sách kinh doanh của các công ty Nhật v.v.. mà vội vã xuất khẩu hàng hóa

thì sẽ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam không có

sự lựa chọn khác là phải nghiên cứu, trau dồi kinh nghiệm, học hỏi qua các kênh

Trang 80

thông tin, đầu tư các chuyến đi khảo sát thực tế... để kinh doanh thành công.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

KẾT LUẬN

Quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản trong những năm trở lại đây đã

có bước phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò đầu tàu trong các hoạt động kinh tế đối

ngoại giữa hai nước. Về tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của thương mại

Việt-Nhật cao hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung của ngoại thương

Việt Nam. Điều này góp phần bảo đảm vị trí hàng đầu của Nhật trong quan hệ

thương mại với Việt Nam. Trên thực tế cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp

nhận hàng hóa của Việt Nam và triển vọng tương lai sẽ còn gia tăng hơn nữa.

Đồng thời, Nhật cũng ngày càng là thị trường nhập khẩu quan trọng của Việt

Nam, nhất là với những thiết bị hàng hóa phục vụ cho nhu cầu của quá trình

công nghiệp hoá.

Tuy nhiên, trong xuất khẩu, chúng ta chưa tạo được nguồn hàng chủ lực

có tính dài hạn. Phần lớn là chỉ tìm kiếm những cái có sẵn (không phải nhiều) để

xuất khẩu. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong giai đoạn trước mắt là phải xây dựng được

một chiến lược về sản phẩm xuất khẩu nói chung, đối với từng thị trường, trong

đó có Nhật Bản nói riêng. Đây là một vấn đề lớn đối với Việt Nam. Để giải

quyết, Nhà nước cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang

hướng mạnh vào xuất khẩu. Nhà nước cần có chính sách nuôi dưỡng các ngành

kinh tế tạo nguồn hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng hiện đại

hoá công nghệ v.v..

Tuy kim ngạch buôn bán hai chiều của ta với Nhật Bản có sự gia tăng

mạnh trong thập niên vừa qua, song cần thấy với mức khoảng 4,7-4,8 tỷ USD là

còn nhỏ so với quan hệ thương mại của Nhật với các quốc gia khác. Tỷ trọng

thương mại Việt-Nhật chỉ chiếm khoảng trên 0,2% tổng kim ngạch ngoại thương

của Nhật nhưng lại chiếm tới 18%-19% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt

Nam. Như vậy thị trường Nhật Bản rõ ràng có vai trò, ý nghĩa đối với xuất-nhập

khẩu của Việt Nam, song ngược lại, thị trường Việt Nam, xét trên phương diện

Trang 81

kinh tế, chưa phải có sức nặng đối với hoạt động ngoại thương của Nhật Bản.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Mặt khác, hàng xuất khẩu của ta đã vấp phải sức cản mãnh liệt của hàng

rào kỹ thuật. Đó là những lực cản vô hình song lại vô cùng hiệu quả của Chính

phủ Nhật Bản để hạn chế nhập khẩu. Các doanh nghiệp của Việt Nam muốn

vượt qua được các rào cản này để đưa hàng hóa đến được với người tiêu dùng

Nhật Bản sẽ không chỉ phải tìm hiểu cặn kẽ luật pháp Nhật Bản mà còn phải

nghiên cứu kỹ những tập quán thương mại mà đặc biệt là văn hoá, thị hiếu, nhu

cầu tiêu dùng của người Nhật. Họ cũng cần phải có định hướng thâm nhập thị

trường Nhật Bản rõ ràng và thích hợp, lựa chọn đúng đối tác, tạo uy tín bằng

việc nâng cao chất lượng hàng hóa và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Hàng

hóa của ta phải có mẫu mã đa dạng, chủng loại phong phú, tạo được sự độc đáo

và khác biệt so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ. Ngoài ra, để có một

chiến lược lâu dài doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư cho công nghệ,

nghiên cứu và phát triển; năng động trong chính sách kinh doanh và coi trọng

yếu tố con người. Đồng thời họ cũng cần phải tranh thủ các ưu đãi, sự giúp đỡ

cũng như các yếu tố thuận lợi từ phía Chính phủ Nhật Bản, tranh thủ cơ hội thâm

nhập thị trường từ các tổ chức xúc tiến thương mại của hai bên.

Trong xu thế ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực Châu Á-Thái Bình

Dương cùng dấu hiệu tích cực trong cải cách phát triển kinh tế ở cả hai quốc gia,

với việc phối hợp chặt chẽ triển khai những giải pháp cơ bản nêu trên, chúng ta

có cơ sở hy vọng nâng cao khả năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam vào thị

Trang 82

trường Nhật Bản, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước.

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] - Bộ Thương Mại-Báo cáo về quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam-Nhật

Bản, ngày 05/03/2003.

[2] - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự báo phát triển thương mại Việt Nam đến 2010

[3] - Bộ Thương mại. Báo cáo phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 1996-2000

[4] - Bộ Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995

[5] - Bộ Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000

[6] - Báo Doanh Nghiệp, các số năm 2002 và 2003

[7] - Báo Đầu tư, các số năm 2002 và 2003

[8] - Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam, các số năm 2002 và 2003

[9] - Bùi Xuân Lưu, Trần Quang Minh-Chính sách ngoại thương Nhật Bản, Nhà

xuất bản Giáo dục, 2001

[10] - Các quy định của pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, 2001.

[11] - Đại sứ quán Nhật bản - Gương mặt Nhật Bản, 2003

[12]- Đại sứ quán Nhật Bản-Các bản tin năm 2002

[13] - JETRO (Japan Eternal Trade Organization) - Nhật Bản, 2003

[14] - Vũ Thị Kim Nhung – Kinh doanh với thị trường Nhật Bản, Nhà xuất bản

lao động, 2001.

[15] - Luật Thương mại Việt nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1997

[16] - VJCC-FTU – Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam

sang một số thị trường khu vực và Nhật Bản, Khoá học 11/2001

[17] - Dương Hữu Hạnh-Nghiên cứu thị trường xuất khẩu, Nhà xuất bản Thống

kê, 2000

[18] - Ngô Xuân Bình-Hồ Việt Hạnh – Nhật Bản năm đầu thế kỷ 21, Nhà xuất

Trang 83

bản Khoa học Xã hội, 2002

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

[19] - United Publishers Inc., - Nhật Bản, tăng cường hợp tác và hiểu biết, 97-98,

Xuất bản lần thứ ba

[20] - Nguyễn Anh Tuấn-Nguyễn Thị Như Hoa – Quan hệ kinh tế của Mỹ và

Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,

2001.

[21] - Vũ Văn Hà - Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong những năm 90 và

triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2000.

[22] - Cục Sở hữu Công Nghiệp – Tạp chí chuyền đề 20 năm xây dựng và phát

triển, 2002

[23] - Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng-Tạp chí chuyên đề, các số năm 2001

và 2002

[24] - Thông tấn xã Việt Nam-Tạp chí Kinh tế Việt Nam và Thế giới, số 1246,

Chủ Nhật, ngày 30/03/2003

[25] - Tạp chí Thị trường Chủ Nhật-Ban Vật giá Chính phủ, số 3882, ngày

09/032003.

[26] - Trần Anh Phương: Tác động của thương mại Việt Nam-Nhật Bản đối với

ngoại thương nước ta những năm 90, Nghiên cứu kinh tế, số7, tháng7/2000

[27] - Tạp chí “Nghiên cứu Nhật Bản”, các số năm 2001, 2002 và 2003

Trang 84

[28] - Thị trường Nhật Bản, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 1997

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

PHỤ LỤC

CÁC TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ PHỤ TRÁCH VÀ LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở NHẬT BẢN

Loại

Ví dụ

Phát minh Một ý tưởng về một sản phẩm

Luật áp dụng Luật Bằng sáng chế

Cơ quan đăng ký Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản

Thời gian bảo hộ 20 năm kể từ ngày ứng dụng (từ 7- 1945)

Thiết bị

hoặc một phương pháp kỹ thuật tân tiến (kể cả một chương trình máy vi tính liên quan đến một thiết bị phần cứng, một giống cây trồng mới, một vi sinh vật) Thiết bị kỹ thuật của một sản phẩm (hình dáng kết cấu hoặc toàn bộ).

6 năm kể từ ngày ứng dụng

Luật mô hình hữu dụng

Thiết kế

Thiết kế hình dáng một sản phẩm có sức truyền cảm đẹp

Luật Thiết kế

15 năm kể từ ngày đăng ký

Nhãn hiệu hàng hoá

Nhãn hiệu hàng hoá bằng chữ hoặc hình ảnh đối với sản phẩm hoặc dịch vụ.

Luật Nhãn hiệ hàng hoá

Luật Bản quyền

10 năm kể từ ngày đăng ký (có thể gia hạn) 50 năm sau ngày mất của tác giả

Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan văn hoá (Trung tâm thông tin phần mềm).

Mạch IC bán dẫn

Tác phẩm Một ý tưởng hoặc cảm nghĩ được thể hiện một cách sáng tạo (văn học, khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, chương trình vi tính, cơ sở dữ liệu). Cách bố trí mạch IC bán dẫn (việc bố trí các bộ phận của mạch và kết nối dây đồng)

10 năm kể từ ngày đăng ký

Trung tâm hợp tác sở hữu công nghiệp

Giống cây trồng mới

Luật Về việc bố trí mạch của mạch IC bán dẫn. Luật Hạt giống và cây trồng.

Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp.

Các giống mới do Sắc lệnh của Nội các xác định nằm trong số cây trồng đực gieo trồng để sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp và hải sản.

15 năm kể từ ngày đăng ký (18 năm sau với loại cây lâu năm).

Hiện không có hệ thống đăng ký nào

Bí mật thương mại

Những bí mật thương mại như bí quyết kỹ thuật, danh sách khách hàng...

Luật dân sự, Luật Hình sự, Luật ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.

Trang 85

Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam

Không cần thiết đăng ký.

Luật Ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.

Những hành động cạnh tranh không lành mạnh

Những hành động gây lầm lẫn đối với một sản phẩm đã có tiếng hoặc biểu hiện kinh doanh của một bên khác, một nhãn hiệu hàng hoá chưa đăng ký, một nhãn hiệu thương mại, một nhãn hiệu dịch vụ chưa đăng ký...

Trang 86