Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
MỤC LỤC
Mục lục.....................................................................................................Trang 01
Danh mục những từ viết tắt................................................................................03
Lời mở đầu...........................................................................................................04
Chương I: Khái quát về quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật
Bản..............06
I. Đất nước và con người Nhật
Bản.............................................................06
1. Điều kiện tự nhiên..................................................................................06
2. Điều kiện xã hội.....................................................................................07
3. Thị trường và người tiêu dùng Nhật
Bản................................................09
II. Quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật
Bản..............................................12
1. Những nhân tố thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật
Bản.......................................................................................................12
2. Thực trạng quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản.........................17
3. Tầm quan trọng của thị trường Nhật Bản đối với hoạt động Thương
mại Quốc tế của Việt
Nam..........................................................................19
Chương II: Các rào cản kỹ thuật trong Thương mại của Nhật
Bản.......................................................................................................................23
I. Các rào cản kỹ thuật.................................................................................23
1. Khái niệm chung...................................................................................23
2. Rào cản.................................................................................................23
2.1 Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản.......................................................23
2.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng.......................................26
Trang 1
2.3 Dấu tiêu chuẩn môi trường Ecomark.............................................30
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
2.4 Luật trách nhiệm sản phẩm............................................................31
2.5 Luật vệ sinh thực phẩm...................................................................31
2.6 Hệ thống phân phối........................................................................31
II. Đánh giá về khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật trong thương mại
Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt Nam................................................32
1. Kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu Việt Nam-Nhật Bản......................33
2. Đánh giá khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật của hàng xuất khẩu
Việt Nam...............................................................................................41
Chương III. Các giải pháp nâng cao khả năng vượt qua hàng rào kỹ thuật
trong thương mại của Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt
Nam....................50
I. Các định hướng chiến lược xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến
2010...........................................................................................................50
1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
chung....................................................50
2. Định hướng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu...............................................51
3. Định hướng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến
2010...................51
II. Các giải pháp............................................................................................56
1. Về phía nhà nước..................................................................................56
1.1 Nhóm giải pháp phát triển quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật
Bản.......................................................................................................56
1.2 Các biện pháp hỗ trợ cho doanh
nghiệp..............................................65
2. Về phía doanh nghiệp Việt Nam...........................................................68
2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm...........................................................68
2.2 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi
Trang 2
trường.............................69
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
2.3 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.......................................................70
2.4 Nắm vững thông tin thị trường và người tiêu dùng Nhật
Bản.......................................................................................................74
Kết luận............................................................................................................... 78
Tài liệu tham khảo..............................................................................................80
Phụ lục.................................................................................................................82
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT
(General Agreement on Tariffs and Trade)
Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN
Kim ngạch xuất khẩu KNXK
Kim ngạch nhập khẩu KNNK
Kim ngạch xuất nhập khẩu KNXNK
Sở hữu công nghiệp SHCN
Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS
Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản JAS
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
Tối huệ quốc (Most favored nation) MFN
Tổng thu nhập quốc dân GDP
Trang 3
Viện trợ phát triển chính thức ODA
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa XHCN
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những bước đi đầu tiên của qúa trình mở cửa và hội nhập của Việt
nam, Chính phủ Nhật Bản đã dành cho Việt nam sự giúp đỡ qúi báu trên phương
diện tài chính và kỹ thuật. Các Doanh nhân Nhật Bản đã là những người đi tiên
phong hợp tác đầu tư và kinh doanh với các đối tác Việt nam. Với dân số trên
120 triệu người và là nước có thu nhập bình quân đầu người cao trên thế giới-
Nhật Bản được xem như một thị trường mơ ước đối với các Doanh nghiệp xuất
khẩu của Việt Nam.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đối với Nhật Bản đã tăng đều
hàng năm với mức bình quân khá cao là trên 20% kể từ năm 1990 đến nay, trong
đó tăng cao nhất là 25% trong năm 1999 (đạt 1,8 tỷ USD). Song đến nay Việt
Nam vẫn là một bạn hàng xuất khẩu nhỏ bé của Nhật Bản. Tỷ trọng của Việt
Nam trong kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản năm 1998 mới khoảng 0,5%;
trong khi tỷ trọng của Trung Quốc là 13,2%; của Singapo là 2,9%; Malaysia là
2,7%; Thái Lan là 2,6%; Indonesia là 2,3% và thấp nhất là Philippin cũng đạt tới
1,7%, còn cao hơn Việt nam 3,4 lần.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của thời kỳ suy
thoái kinh tế, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, do Nhật Bản
Trang 4
vẫn chưa ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam và các vấn đề bất cập khác
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
từ phía chính phủ Việt Nam thì một nguyên nhân cơ bản là các doanh nghiệp
Việt nam chưa nắm vững thị trường Nhật Bản từ thị hiếu, nhu cầu, các yêu cầu
về chất lượng, mẫu mã, phong cách kinh doanh, v.v.. Đây chính là hàng rào kỹ
thuật trong thương mại, chúng luôn là những thách thức đối với hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải luôn đầu tư nghiên
cứu, cập nhật thông tin, hiểu rõ thị trường Nhật để từ đó tìm ra các biện pháp,
cách thức tối ưu nhằm vượt qua rào cản, đưa các sản phẩm Made in Viet nam
thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này.
Góp phần luận giải vấn đề nêu trên, em quyết định chọn đề tài: “Hàng rào
kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất
khẩu Việt nam” làm trọng tâm nghiên cứu trong Khoá luận tốt nghiệp của mình.
Bài viết được hoàn thành trên cơ sở tổng hợp các thông tin, phân tích, so sánh và
đánh giá; có tham khảo nhận định của các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học
ở lĩnh vực có liên quan. Nội dung nghiên cứu được chia làm 3 phần như sau:
Chương I: Khái quát về quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản
Chương II: Các rào cản kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản
Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng vượt qua hàng rào kỹ
thuật trong Thương mại của Nhật Bản của hàng xuất khẩu Việt nam
Do những hạn chế nhất định về không gian và thời gian, nhất là về tư liệu,
cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo Khoa Kinh tế Ngoại Thương -
Trường Đại học Ngoại Thương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và đặc biệt là Cô
giáo - Thạc sĩ Nguyễn Thanh Bình - giảng viên bộ môn Marketing - người đã tận
Trang 5
tình hướng dẫn để em hoàn thành Khóa luận Tốt nghiệp này.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-NHẬT BẢN
I. Đất nước và con người Nhật bản
1. Điều kiện tự nhiên
1.1 Vẻ đẹp thiên thiên
Nhật Bản là một đảo quốc nằm ở cực đông Châu Á trải dài từ Bắc xuống
Nam trên một khoảng dài 3800 km (2360 dặm) gồm hơn 6800 đảo, đa số rất nhỏ, chỉ có 340 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2, trong đó đảo Hô-kai-đô ở phía bắc
chiếm 22%, đảo Si-kô-ku và Ky-u-su ở phía nam chiếm 5% và 11% tổng diện
tích Nhật Bản. Riêng đảo giữa Hôn-su chiếm 61% tổng diện tích và 80% dân số.
Quần đảo Ry-u-ky-u (trong đó có đảo Ô-ki-na-oa) nằm ở phía nam 4 đảo chính
này và phân bố rải rác đến tận Đài Loan. Gần 3/4 lãnh thổ Nhật Bản là núi. Núi
đồi và sông ngòi chiếm 84% diện tích, 16% còn lại là đồng bằng. Các đồng bằng
ven biển, nơi tập trung dân cư đông đúc, có diện tích không lớn. Các vùng đất
thấp chính là vùng Kan-to bao quanh Tô-ky-ô, vùng Nô-bi bao quanh Na-gô-y-a
và đồng bằng Sen-đai ở phía bắc đảo Hôn-su. Đỉnh núi cao nhất là ngọn núi lửa
đã tắt Fu-di-y-a-ma, cao 3.776m. Nhật Bản hiện có hơn 60 núi lửa đang hoạt
động, vì vậy động đất thường xảy ra.
Trang 6
1.2 Khí hậu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Nhật Bản nổi lên với núi Phũ Sĩ được coi là biểu tượng của đất nước.
Ngoài ra Nhật Bản còn có rất nhiều sông, hồ cùng với biển Nhật Bản và Thái
Bình Dương bao bọc xung quanh. Giữa các vùng của Nhật Bản có sự chênh lệch
lớn về khí hậu: miền bắc có mùa đông dài, lạnh và có tuyết, miền nam có mùa hè
nóng và mùa đông ôn hòa. Lượng mưa tương đối cao, mùa hè thường có mưa to
và bão. Tuy vậy, nhìn chung khí hậu nước Nhật ấm áp với bốn mùa rõ rệt: phong
cảnh tươi đẹp, muôn hình muôn dạng với hoa anh đào nở rộ vào mùa xuân. Mùa
thu là mùa lá đổ và rất nhiều cảnh đẹp thiên nhiên khác không gì thay thế được
quanh năm đã đem lại sự bình yên và mãn nguyện trong tiềm thức của người dân
nước này. Vẻ đẹp thiên nhiên vẫn được coi là nền tảng của đất nước và con
người Nhật Bản trong suốt 2000 năm qua.
2. Điều kiện xã hội
2.1 Dân cư, ngôn ngữ và cuộc sống của người Nhật Bản
Dân số Nhật bản là 126,7 triệu người (2000), làm việc trong nhiều ngành
công nghiệp, nông nghiệp và thương mại. Tiếng Nhật được sử dụng phổ biến và
được giảng dạy trong hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học. 90% người Nhật
coi mình thuộc tầng lớp trung lưu. Người Nhật cố gắng duy trì địa vị bậc trung
của mình mặc dù ở Nhật giá sinh hoạt đắt đỏ và nhà cửa rất thiếu thốn. Lối sống
của người Nhật đã bị Âu hoá, song các phòng ở nhỏ có trải chiếu Tatami vẫn có
thể thấy ở hầu hết trong các gia đình của người Nhật. Mẫu gia đình điển hình của
người Nhật hiện nay là một gia đình gồm có bố mẹ và từ một đến hai con, sống
trong trong căn nhà 3-4 phòng. Với việc giảm số con trong mỗi gia đình, người
Nhật ngày nay càng có điều kiện quan tâm hơn đến giáo dục con cái, cho nên
ngày nay kinh doanh về ngành giáo dục rất phát triển. Nhờ sự phát triển nhanh
chóng của các đồ điện dùng trong gia đình và các siêu thị nên phụ nữ Nhật ngày
nay có nhiều thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí. Cuộc sống được cải thiện, sự
phát triển của y tế đã làm cho Nhật bản trở thành một trong những nước đứng
Trang 7
đầu thế giới có tuổi thọ trung bình cao nhất.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
2.2 Làm việc
Năm 1992 tổng số người làm việc ở Nhật vào khoảng 64 triệu. Số người
làm các công việc về nông nghiệp, lâm nghiệp và nghề cá đang giảm xuống,
trong khi đó thì số người làm trong các công nghiệp lưu thông phân phối và sản
xuất chế biến lại tiếp tục tăng tới con số 58 triệu người. Các hãng, công ty Nhật
thường có truyền thống thuê người làm việc cho hãng hoặc công ty của mình
suốt đời, nhưng hiện nay việc tuyển dụng người làm việc theo chế độ như vậy
ngày càng trở nên khó khăn vì lực lượng lao động trẻ gần đây bị giảm sút và số
lượng công nhân muốn có chế độ làm việc linh hoạt và tự do hơn ngày càng
tăng. Do đó, số lượng công nhân làm việc không cố định và tạm thời đang tăng
lên. Một sự thay đổi quan trọng khác là số lượng lao động nữ ngày càng tăng.
Việc sử dụng các nhân công già tiếp tục ở lại làm việc là một vấn đề quan trọng,
điều này nói lên xã hội Nhật bản đang trở nên già cỗi. Hiện nay người ta đang
khuyến khích giảm giờ làm việc xuống còn 7 giờ một ngày và 5 ngày làm việc
trong một tuần, nhưng việc áp dụng vẫn còn hạn chế.
2.3 Công nghệ và các sản phẩm tuyệt hảo
Công nghệ tiên tiến của nước Nhật hiện đại đang sản xuất ra một loạt các
sản phẩm, kể cả ôtô, các thiết bị chính xác, hóa chất, máy tính, các sản phẩm
điện tử và bán dẫn khác. Hầu như không có nguồn tài nguyên thiên nhiên nào,
cho nên Nhật bản đã phải bù đắp cho sự thiếu hụt về tài nguyên bằng công nghệ
để sản suất ra các thiết bị cao cấp, nhỏ, dễ sử dụng. Hai cuộc khủng hoảng năng
lượng trong những năm 1970 đã buộc các công ty Nhật bản phải tồn tại bằng
cách phân phối hợp lý, dự trữ năng lượng và cải tiến kỹ thuật hơn nữa. Trong
những năm 1980 các sản phẩm Nhật bản với chất lượng cao, giá thành hạ đã nổi
tiếng trên toàn thế giới. Xuất khẩu của Nhật về ôtô, đồ điện, máy móc và các sản
phẩm khác ngày càng tăng. Đây là thời kỳ phát triển mạnh của các ngành công
nghiệp Nhật bản. Ngày nay các sản phẩm Nhật bản đang được sử dụng rộng rãi ở
Trang 8
hầu hết các nước. Một cuộc săn lùng công nghệ tiên tiến hơn đã làm cho các
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
ngành công nghiệp cao cấp của Nhật ngày càng phát triển. Công nghệ tiên tiến
này đã làm cho nước Nhật trở thành xã hội có lượng thông tin cao.
2.4 Các dịch vụ hỗ trợ xã hội hiện đại
Các mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc được trang bị hiện đại
vô cùng thiết yếu đối với một xã hội hiện đại. Năm 1964, Nhật bản là nước đầu
tiên trên thế giới đưa vào sử dụng tầu hỏa siêu tốc mang tên SHINKANSEN. Tại
các thành thị Nhật bản, hệ thống xe khách và tầu điện ngầm điều khiển bằng máy
tính tạo thành một mạng lưới hoạt động rất hiệu quả. Trong những năm gần đây,
lưu lượng sử dụng các phương tiện giao thông chở hàng, chở khách quá nhiều đã
làm cho việc duy trì bảo dưỡng, mở rộng hệ thống đường bộ và các đường khác
trở thành một vấn đề cấp bách. Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
hàng không cũng đã được sử dụng đến mức tối đa. Trong lĩnh vực thông tin liên
lạc, Nhật bản có tỷ lệ sử dụng phương tiện thông tin bằng điện thoại cao nhất thế
giới, một phần do việc sử dụng rộng rãi máy điện thoại nhỏ cầm tay. Từ một góc
phố người ta có thể gọi điện thoại ra nước ngoài một cách dễ dàng. Truyền fax
và các dữ liệu cũng được sử dụng rộng rãi. Ở Nhật bản hiện có tới 125 tờ báo
hàng ngày được xuất bản và được phát tới tận nhà những người đặt mua. Nhật
bản đang bước vào kỷ nguyên mỗi người dân Nhật có một máy truyền hình màu.
Truyền hình bằng vệ tinh hiện nay đã trở thành một ngành công nghiệp hoàn
chỉnh.
3. Thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản
Nhật Bản ngày nay là một thị trường mở, quy mô lớn đối với các nhà đầu
tư và hàng hóa nước ngoài với khoảng 125,9 triệu dân có mức sống khá cao
(GDP của Nhật Bản năm 2002-theo ước tính-là 35.039 USD một người). Năm
2002 tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản là 387 tỷ USD. Người tiêu dùng
Nhật Bản đánh giá các sản phẩm nội địa và nước ngoài theo tiêu chí chất lượng.
Trang 9
Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Nhật Bản cũng là thị trường cạnh tranh cao do lượng hàng nhập khẩu nhiều và
xuất xứ khác nhau.
3.1 Những thay đổi về mặt xã hội
Sự sụp đổ của nền “kinh tế bong bóng” dẫn đến sự suy thoái của nền kinh
tế Nhật Bản trong những năm 90. Lúc đó ở Nhật, vật giá cao vào loại nhất thế
giới. Đồng thời, sự vươn lên đòi quyền bình đẳng của phụ nữ nhất là phụ nữ trẻ
đã khá rõ rệt. Giờ đây, họ không chỉ ở nhà lo việc nội trợ mà nhiều người còn đi
làm ở các công sở hoặc tham gia công việc xã hội. Xã hội Nhật Bản tiếp nhận
ảnh hưởng của lối sống Mỹ và Châu Âu du nhập v.v.. Đó là những đặc điểm dẫn
đến những thay đổi về mặt xã hội của Nhật Bản dưới đây:
- Tiền công cho người có tuổi ngày càng giảm dần
- Phụ nữ ngày càng có ảnh hưởng đến những thay đổi xã hội
- Cơ cấu dân số thay đổi do số người trẻ tuổi không muốn kết hôn ngày
càng tăng, bình quân số con trong một gia đình giảm dẫn đến số người
già đang ngày một tăng, dự kiến năm 2005 dân số Nhật Bản là hơn 129
triệu người trong đó số người già trên 65 tuổi khoảng 25 triệu chiếm
hơn 19% dân số, số người từ 15 đến 64 tuổi khoảng 84 triệu chiếm
65% dân số.
3.2 Người tiêu dùng Nhật Bản
Người tiêu dùng Nhật Bản nhìn chung có độ thẩm mỹ cao, tinh tế. Đặc
tính của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu dùng cho
rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu. Phần lớn các hộ gia đình người Nhật đã
được trang bị những thiết bị sở hữu lâu dài như máy giặt, tủ lạnh, TV màu, máy
hút bụi, đầu video (95%), dàn máy nghe nhạc, lò vi sóng, máy điều hoà (50-
60%).
Người Nhật là người tiêu dùng có yêu cầu khắt khe nhất. Sống trong môi
trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản đặt ra những tiêu chuẩn
Trang 10
đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng
tốt. Yêu cầu này còn bao gồm dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà
sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản
phẩm đó. Những vết xước nhỏ, mẫu chỉ cắt còn xót lại trên mặt sản phẩm, bao bì
xô lệch v.v.., những lỗi nhỏ do sơ ý trong vận chuyển, hay khâu hoàn thiện sản
phẩm cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế
hoạch xuất khẩu lâu dài. Bởi vậy cần phải có sự quan tâm đúng mức tới khâu
hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển hàng. Người tiêu dùng
Nhật Bản không chỉ yêu cầu hàng chất lượng cao, bao bì đảm bảo, dịch vụ bán
hàng và sau bán hàng tốt mà còn muốn giá cả hợp lý, đặc biệt là từ sau khi nền
“kinh tế bong bóng” sụp đổ. Những năm 80, người Nhật sẵn sàng mua sản phẩm
đắt tiền cho những hàng cao cấp có nhãn mác nổi tiếng, nhưng từ sau năm 92 và
93, nhu cầu sản phẩm rẻ hơn đã tăng lên. Tuy nhiên người tiêu dùng Nhật Bản
vẫn có thể trả tiền cho những sản phẩm sáng tạo, chất lượng tốt mang tính thời
thượng hay loại hàng được gọi là ‘hàng xịn”. Tâm lý này vẫn không thay đổi.
Người tiêu dùng Nhật Bản nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày. Các
bà nội trợ đi chợ hàng ngày là lực lượng quan trọng ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu
dùng, họ hay để ý đến biến động giá và các mẫu mã mới.
Người Nhật rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa: Nhật Bản có 4
mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh giá và
khô. Đặc điểm khí hậu tác động đến khuynh hướng tiêu dùng. Quần áo, đồ dùng
trong nhà, thực phẩm là những mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng theo mùa. Việc
bao gói sản phẩm cũng phải đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong những điều
kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Cùng với tác động của khí hậu, yếu tố tập quán
tiêu dùng cũng cần phải được nghiên cứu tham khảo trong kế hoạch khuyếch
trương thị trường tại Nhật Bản. Ví dụ hầu như các gia đình người Nhật không có
hệ thống sưởi trung tâm và để bảo vệ môi trường. Nhiệt độ điều hoà trong nhà
Trang 11
luôn được khuyến khích không để ở mức qúa ấm (nhiệt độ cao) hoặc quá mát.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Bởi vậy quần áo trong nhà mùa đông của người Nhật phải dầy hơn áo dùng trên
thị trường Mỹ, hoặc áo có lót là không phù hợp trong mùa hè.
Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: hàng hóa
có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Vào một
siêu thị của Nhật Bản mới hình dung được tính đa dạng của sản phẩm đã phổ
biến đến mức nào ở Nhật. Ví dụ một mặt hàng dầu gội đầu nhưng bạn không thể
đếm xuể được các chủng loại: khác nhau do thành phần, màu sắc, hương thơm,...
Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất
quan trọng để đưa hàng của bạn tới người tiêu dùng.
3.3 Phân phối hàng hóa và thiết lập quan hệ kinh doanh
Hàng hóa vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu
thông nên đến tay người tiêu dùng có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các
khâu phân phối của Nhật từ sản xuất đến bán buôn, bán lẻ có những yêu cầu
khác nhau. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của
người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý (không bị lệ thuộc vào thông tin
về giá bán lẻ ở Nhật).
Tất cả các hàng hóa bán trên thị trường Nhật Bản hiện nay đều phải chịu
mức thuế tiêu thụ là 5% (cho tới năm 1997 là 3%) và hàng nhập khẩu cũng chịu
chung quy định này.
Tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau là yếu tố quyết định thành công trong quan
hệ với công ty Nhật Bản. Bởi vậy việc cung cấp những thông tin cần thiết cho
khách hàng là rất quan trọng. Bao gồm việc giới thiệu về công ty, catalogue giới
thiệu sản phẩm (ghi giá nếu có thể), mẫu hàng, bảng giá, yêu cầu về lượng hàng
cho lô tối thiểu, điều kiện giao hàng, khả năng cung cấp v.v...
Cần phải quản lý chất lượng nghiêm ngặt vì chất lượng là yêu cầu cơ bản
để duy trì quan hệ kinh doanh.
Trang 12
Thời gian giao hàng: đúng hạn, kịp thời và ổn định.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Sản phẩm phong phú về mẫu mã, đẹp về kiểu dáng, số lượng nhỏ và vòng
đời ngắn. Do mức sống cao nên người tiêu dùng không đòi hỏi tất cả các sản
phẩm nhất thiết phải có độ bền lâu năm. Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất
lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người
tiêu dùng Nhật Bản hiện nay.
II. Quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản
1. Những nhân tố thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt Nam - Nhật Bản
1.1 Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và khu vực hoá
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu những
năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế đối ngoại của hầu
hết các nước, trong đó có quan hệ kinh tế Việt nam-Nhật bản.
Bước vào thập kỷ 90, xu thế hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành
chủ đề chính của thời đại. Hình thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế đã chuyển
từ chạy đua vũ trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói
rằng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới tác động của quốc tế hóa sản
xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính tuỳ thuộc vào
nhau, bổ xung cho nhau của nền kinh tế các nước vốn đã khá phát triển lại càng
gia tăng mạnh mẽ trong xu thế của quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Chính quá
trình toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng chặt
chẽ đã làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như
các công ty trên thế giới ngày càng phức tạp, đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự
do hoá về thương mại và đầu tư đã trở thành đặc trưng của sự phát triển của nền
kinh tế thế giới trong nhưng năm gần đây. Xu hướng này làm cho các hoạt động
thương mại, đầu tư của các quốc gia và các công ty trong khu vực cũng ngày
càng mang tính quy định, bổ sung cho nhau như một chỉnh thể thống nhất.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế lớn
Trang 13
của thế giới như Mỹ, Nhật bản và EU đang dẫn dắt tiến trình tự do hoá-toàn cầu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
hoá hiện nay; đặc biệt là trong việc chi phối Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá cũng đang diễn ra
mạnh mẽ trong thời đại ngày nay. Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế là lưu thông
tự do hàng hoá và yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu; nhưng trong tương lai
gần, mục tiêu này chưa được thực hiện một cách thống nhất. Chính vì vậy, việc
từng nhóm nước liên kết lại với nhau, cùng nhau đưa ra những ưu huệ cao hơn
những ưu huệ quốc tế hiện hành, loại bỏ các hàng rào ngăn cách lưu thông hàng
hoá và các yếu tố sản xuất giữa các nước, tạo điều kiện cho việc lưu thông tự do
một vài loại hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất giữa các nước là một khâu quan
trọng đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế. Từ đó có thể khẳng
định rằng, khu vực hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu không mâu thuẫn với nhau,
mà thúc đẩy lẫn nhau, bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nảy sinh trong bối cảnh
toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định trong khi trình độ
hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn cầu hoá kinh tế. Khu vực hoá
phát triển rộng rãi trên toàn thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát
triển ngày càng sâu sắc hơn.
Là một nước thành viên của ASEAN, các quan hệ kinh tế của Việt nam
với Nhật bản vừa chịu sự chi phối của những nguyên tắc chung trong hợp tác
kinh tế của Hiệp hội với các nước và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh
chung và chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật bản với
các nước trong khu vực này. Thành công của hội nghị cấp cao các nước ASEAN
lần thứ 6 tại Hà nội cũng như các cuộc gặp với ba nước đối thoại trong khu vực
chứng tỏ ASEAN tiếp tục là một tổ chức có sức sống mạnh mẽ, trong khó khăn
thử thách càng thắt chặt đoàn kết, tranh thủ được lòng tin của cộng đồng quốc tế
cũng như sự hợp tác của các nước đối thoại, trong đó Nhật bản là một đối tác
quan trọng. Và, thành công của Hội nghị này cùng với các cuộc viếng thăm
Trang 14
chính thức Việt nam của Thủ tướng Nhật bản, Tổng thống Hàn quốc và Phó chủ
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa đã một lần nữa chứng tỏ vị trí của Việt
nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và quan hệ hợp tác kinh tế của
nước ta với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Nhật bản, ngày càng được
củng cố và phát triển.
1.2 Sự điều chỉnh trong chiến lược kinh tế đối ngoại của Nhật bản hướng về
Châu Á
Xét về động lực tăng trưởng, khu vực Đông và Đông Nam Á là nơi đang
diễn ra những biến động quan trọng, hay còn được mệnh danh là trung tâm của
các cuộc cách mạng sôi động về kinh tế mà trọng tâm là cuộc cách mạng về vốn.
Thông qua đó, người ta thực hiện các biện pháp kết hợp để huy động tối đa các
nguồn vốn trong nước và nước ngoài, thực hiện chế độ tài chính chặt chẽ. Cách
đây không lâu, công nghiệp dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch trong khu vực
chưa phát triển. Song trong những năm 1990, công nghiệp dịch vụ nói chung,
ngành du lịch nói riêng ở các nước trong khu vực đã thành ngành quan trọng,
chiếm trung bình từ 25% đến 30% GDP. Cuộc cách mạng về viễn thông đang
diễn ra mạnh mẽ cũng được tập trung nhiều vào các ngành dịch vụ thanh toán,
du lịch và hiện đang được coi là một ngành công nghiệp quan trọng trong các
nước công nghiệp phát triển Châu Á. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã
làm thay đổi một cách cơ bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc của Châu Á.
Gắn với quá trình chuyển đổi cơ cấu và tự do hoá thương mại, khu vực Châu Á
hiện nay đang tiến hành một cuộc cách mạng thương mại. Nó gia tăng khả năng
xuất khẩu cả hàng hoá lẫn dịch vụ với số lượng ngày càng tăng và chất lượng
ngày càng cao sang các thị trường thế giới.
Cùng với sự tác động của những thay đổi cơ bản trong môi trường kinh tế
quốc tế và khu vực đến các hoạt động kinh tế đối ngoại của tất cả các nước-trong
đó có Nhật Bản thì sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh
Trang 15
bành trướng kinh tế ra nước ngoài của Nhật Bản trong những năm 1990, đặc biệt
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
là vào các nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, còn xuất phát từ
những nhân tố mang đặc thù Nhật Bản như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế Nhật bản có đặc trưng là một nền kinh tế hướng
ngoại. Việc thiết lập các quan hệ trao đổi kinh tế với nước ngoài là điều kiện
quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế vững chắc của Nhật Bản.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản bắt đầu tăng mạnh từ giữa thập
niên 1980 chủ yếu là do đồng yên tăng giá nhanh kể từ sau Hiệp ước Plaza,
tháng 9-1985.
Thứ ba, động lực để các công ty Nhật Bản chuyển đổi chiến lược sang
Châu Á còn do họ muốn thực hiện tốt sự dịch chuyển cơ cấu thị trường và công
nghệ sang các nước đang theo đuổi chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu nhằm tạo dựng mô hình “Đàn nhạn bay” mà Nhật Bản là con chim nhạn
đầu đàn, có vị trí ngày càng chi phối tất cả các nền kinh tế Châu Á khác.
Thứ tư, cách thức tổ chức và quản lý của các công ty Nhật Bản mang
phong cách Á Đông mà đặc trưng của nó là chủ nghĩa phường hội và quan hệ
thân tộc là những thuộc tính rất dễ được các nước trong khu vực chấp nhận.
Từ những đặc thù đó ta có thể thấy triển vọng hợp tác phát triển kinh tế
Việt Nam-Nhật Bản là vô cùng khả quan, chắc chắn trong tương lai gần quan hệ
kinh tế đối ngoại của hai nước sẽ được đẩy lên một bước mới; xứng đáng với
mối quan hệ lâu bền về văn hoá, lịch sử của hai dân tộc.
1.3 Sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại, xây dựng và phát triển một
nền kinh tế mở của Việt nam
*. Chính sách kinh tế đối ngoại gắn liền và phục vụ cho việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế mở
Để hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực, nhà nước ta đã tiến hành hàng
loạt các biện pháp tích cực. Đó là việc xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ bao
cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất-nhập khẩu. Ngân hàng Ngoại thương được
Trang 16
kinh doanh mua bán ngoại tệ với mọi đối tượng thuộc các thành phần kinh tế.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở làm hàng xuất
khẩu thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời tình trạng độc quyền, tính cửa
quyền trong sản xuất kinh doanh xuất-nhập khẩu được xoá bỏ. Chính phủ cũng
tăng cường sự quản lý thống nhất, chặt chẽ đối với mọi hoạt động kinh tế đối
ngoại bằng luật pháp và chính sách.
Đồng thời Chính phủ cũng tăng cường, khuyến khích và thu hút vốn đầu
tư nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) bằng những biện
pháp và chính sách thích hợp. Để làm được điều này, chúng ta đã chủ trương xây
dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi có các chính sách, luật lệ,
quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên tâm đầu
tư phát triển sản xuất và kinh doanh. Nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục
hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuế đất, giải phóng
mặt bằng, lắp điện, nước, nhập máy móc thiết bị cho sản xuất...
Việt nam tích cực chuẩn bị và chủ động từng bước tham gia tiến trình toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới theo nguyên tắc giữ vững
độc lập chủ quyền. Chúng ta chủ trương hội nhập từng bước vững chắc, khai
thác tốt các nguồn lực bên trong và bên ngoài; tận dụng các tiềm năng của phân
công lao động quốc tế và các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.
Với sự đổi mới trong chính sách kinh tế đối ngoại như trên, môi trường
đầu tư sẽ thuận lợi hơn, Việt Nam sẽ thu hút được nhiều hơn đầu tư trực tiếp của
các khu vực, đặc biệt là từ một nước giàu tiềm lực kinh tế như Nhật Bản. Chúng
ta tin tưởng rằng thương nhân Nhật sẽ đến với Việt Nam không chỉ để tìm hiểu
về một nền văn hoá truyền thống giàu bản sắc mà còn vì những lợi ích kinh tế
lâu dài.
2. Thực trạng quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản
Trang 17
2.1 Kim ngạch xuất, nhập khẩu Việt Nam-Nhật Bản
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Quan hệ thương mại giữa hai nước trước năm 1992 vẫn còn ở quy mô
nhỏ, nhiều hợp đồng làm ăn buôn bán tạm thời bị hoãn lại và hoàn toàn chưa
phản ánh đúng tiềm năng kinh tế của hai quốc gia. Từ năm 1992 giá trị buôn bán
Viêt-Nhật đã tăng mạnh và liên tục, đạt 1.321 triệu USD và lên đến 2.637 triệu
USD vào năm 1995, sau đó là 3.230 triệu USD năm 1998; 4.871 triệu USD năm
2000; 4.724 triệu USD năm 2001 và 4.947 triệu USD vào năm 2002 vừa qua.
Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam-Nhật Bản thì cán cân thương mại
ngày càng có lợi cho Việt Nam. Nếu từ năm 1992 đến 1995 Nhật Bản xuất siêu
sang Việt Nam thì từ năm 1997 đến nay, Việt Nam lại xuất siêu sang Nhật Bản.
Năm 1997, Việt Nam xuất siêu so với Nhật Bản là 900 triệu USD, và năm 1998,
do tác động của cuộc khủng hoảng nên mức xuất siêu của ta sang Nhật Bản có
hạ xuống nhưng vẫn đạt 400 triệu USD. Năm 2001 Việt Nam cũng đạt mức xuất
siêu gần 300 triệu USD. Từ năm 1993 đến 1998, giá trị xuất khẩu của Việt Nam
sang Nhật Bản trung bình tăng 40% và nhập khẩu từ Nhật Bản tăng trung bình
chỉ có 5%.
BẢNG 1
KIM NGẠCH MẬU DỊCH VIỆT NAM-NHẬT BẢN 2001-2002
2000
2001
2002
- Xuất khẩu sang Nhật
2.509
2.438
2.621
- Nhập khẩu từ Nhật
2.215
2.509
2.250
Cán cân mậu dịch
294
-71
371
Tổng kim ngạch
4.724
4.947
4.871
Nguồn: Hải quan Việt Nam, Đơn vị: triệu USD
2.2 Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản vào Việt Nam
Tính đến hết năm 2002, Nhật bản đã đầu tư vào Việt nam 369 dự án, với
tổng số vốn đầu tư 4,285 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện đạt 3,125 tỷ USD,
đứng thứ 3 trong danh sách các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam và là
Trang 18
nước có tỷ lệ vốn đã thực hiện cao nhất (đạt xấp xỉ 73%).
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Nhìn chung các dự án đầu tư của Nhật triển khai tốt, nhiều dự án hoạt
động hiệu quả cao, có những sản phẩm thay thế được hàng nhập khẩu và tham
gia xuất khẩu. Qui mô vốn trung bình của các dự án đầu tư của Nhật là 10,4 triệu
USD/dự án, xấp xỉ qui mô trung bình của các dự án đầu tư nước ngoài nói
chung.
BẢNG 2
FDI CỦA NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM 1996-8/2002
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Số vốn
687
620
199
50
77
159
150
Số dự án
62
55
19
10
23
39
39
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Đơn vị: triệu USD
Theo địa bàn, các nhà đầu tư Nhật bản có mặt ở 31 tỉnh và thành phố tại
Việt nam nhưng tập trung chủ yếu ở 3 địa phương lớn là Hà nội (66 dự án/ 948
triệu USD). TP.Hồ Chí Minh (134 dự án/ 708 triệu USD), Đồng Nai (33 dự án/
558 triệu USD).
Theo lĩnh vực, các công ty Nhật Bản tham gia vào nhiều lĩnh vực nhưng
tập trung vào công nghiệp (21 dự án/ 2,01 tỷ USD), xây dựng (26 dự án/ 541
triệu USD), giao thông-viễn thông (22 dự án/ 432 triệu USD).
2.3 Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật cho Việt nam
Kể từ khi nối lại viện trợ cho Việt nam (tháng 11/1992), Nhật bản luôn là
nhà tài trợ lớn nhất cho Việt nam. Tính đến nay, tổng ODA cam kết của Nhật
cho Việt nam đạt xấp xỉ 8 tỷ USD.
Viện trợ ODA của Nhật bản dành cho Việt nam gồm 3 loại: Viện trợ có
hoàn lại dành cho dự án, Viện trợ có hoàn lại phi dự án và Viện trợ không hoàn
lại. Việc thực hiện các chương trình, dự án vay tín dụng ODA Nhật bản đã có
tiến bộ qua các năm, tỷ lệ giải ngân của Việt nam trong tài khoá 1999 đạt 20,3%,
tài khoá 2000 là 17,1%, cao hơn tỷ lệ giải ngân trung bình của các nước tiếp
nhận tín dụng ODA Nhật bản tại các năm tài chính tương ứng (khoảng 14-15%).
BẢNG 3
Trang 19
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
QUY MÔ ODA CHÍNH PHỦ NHẬT BẢN ĐÃ CAM KẾT DÀNH CHO VIỆT NAM
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Viện trợ không hoàn lại
110
99
106
87
157
140
47
Viện trợ có hoàn lại
744
702
672
886
769
611
710
Tổng số
854
801
778
973
926
751
757
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đơn vị triệu USD
ODA Nhật bản tập trung hỗ trợ Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, trước
hết là giao thông vận tải biển, điện. Chính phủ Nhật hiện dành ưu tiên cao cho
các hoạt động hợp tác, hỗ trợ phát triển khu vực, đặc biệt là khu vực lưu vực
sông Mêkông, trong đó có sáng kiến hợp tác cả Việt Nam trong khuôn khổ hợp
tác ASEAN “Phát triển các vùng nghèo thuộc hành lang Đông-Tây”. Do vậy, ta
cần tham gia tích cực và thông qua các diễn đàn hợp tác khu vực để tranh thủ sự
hỗ trợ của Nhật bản cho khu vực trong một số lĩnh vực như: phát triển cơ sở hạ
tầng, phát triển công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm
nghèo...
3. Tầm quan trọng của thị trường Nhật bản đối với hoạt động Thương mại
Quốc tế của VN
*. Quan hệ thương mại Việt nam - Nhật Bản góp phần tích cực vào sự phát triển
của ngoại thương Việt nam
Quan hệ thương mại với Nhật Bản từ lâu đã giữ một vị trí quan trọng hàng
đầu trong quan hệ thương mại của nước ta với thế giới. Đóng góp vào kết quả,
thành tựu phát triển chung của ngoại thương Việt nam trên đây chắc chắn có vai
trò không nhỏ của ngoại thương Nhật Bản với vị trí là bạn hàng thứ nhất trong số
8 bạn hàng lớn nhất của Việt nam trong những năm vừa qua (1995-2002). Tốc
độ tăng trưởng thương mại bình quân giữa Việt Nam và Nhật Bản là 30%; trong
đó tăng trưởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9%, đều tăng nhanh hơn
so với tốc độ tăng trưởng chung của ngoại thương Việt Nam kể cả xuất và nhập
khẩu. Năm 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật đạt 4.947 triệu USD
Trang 20
chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Với sự tăng trưởng liên tục của các hoạt động xuất nhập khẩu trên đây cho
thấy rõ ràng là quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt-Nhật trong những năm
vừa qua đã ngày càng khẳng định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu
đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam. Kim ngạch buôn bán hai chiều từ
năm 1992 đến nay đã liên tục tăng về quy mô giá trị kể cả KNXK và KNNK,
trong đó tốc độ tăng của xuất khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng của nhập
khẩu. Đáng lưu ý trong các mặt hàng xuất khẩu, có tôm đông lạnh và mực, hàng
may mặc, cà phê, than đá đang là những mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng
nhanh nhất. Tôm đông lạnh Việt Nam chiếm tỷ phần xấp xỉ 10% thị phần nhập
khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản cũng đã trở thành thị trường lớn nhất đối với hàng
may mặc xuất khẩu của Việt Nam, lại là thị trường phi hạn ngạch nên tiềm năng
của thị trường này cho hàng may mặc của Việt Nam là rất lớn. Than đá Việt
Nam xuất sang thị trường Nhật gần đây đạt mức cao kỷ lục tới hơn triệu
tấn/năm. Thị trường cà phê, giầy dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triển
vọng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Có một số mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam trong vài năm gần đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng và
giá cả, đáng chú ý là hàng may mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ sản như tôm
và mực. Năm 1998, Việt nam đã vươn tới vị trí một trong bốn nước xuất khẩu
hàng đầu sang Nhật về một số mặt hàng như than đá (đứng thứ hai), mực (thứ
hai), tôm (thứ tư), sơ mi nam làm từ sợi tổng hợp hoặc nhân tạo (thứ tư).... Phần
lớn đối thủ cạnh tranh các mặt hàng này của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản là
các nước Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia,
Philippin, Ấn Độ...Rõ ràng là hàng hoá Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh thị
trường Nhật Bản, một thị trường có sức tiêu thụ rất mạnh nhưng cũng đã từng
nổi tiếng là khó tính. Không những thế, nhìn về triển vọng, xuất khẩu hàng hoá
Việt Nam sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp tục phát triển khả quan hơn nữa,
khi mà nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm 1999 bắt đầu được phục hồi trở lại. Nhu
Trang 21
cầu tiêu dùng của người Nhật đối với các hàng hoá tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
càng tăng hơn, nếu họ quen sử dụng. Còn đối với các hàng hoá tiêu dùng cho sản
xuất của Việt Nam vẫn xuất sang Nhật như dầu thô, than đá, sắt thép... thì thực
tiễn đã cho thấy đó là những hàng hoá nguyên liệu thiết yếu dùng cho sản xuất
công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần đến. Như ý kiến của các
chuyên gia Bộ Thương Mại Việt Nam, mặc dù năm 1998 là thời gian mà nề kinh
tế Nhật Bản đã chạm tới “đáy” của sự suy thoái, với tốc độ tăng trưởng –1,8%,
đạt “kỷ lục” chưa từng có kể từ 5 thập niên lại đây. Song trong quan hệ thương
mại với nước ta khi đó, Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới
60-70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản phẩm dầu thô, than đá và hàng may
mặc, hàng thủy hải sản của ta.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ Nhật Bản vào Việt Nam, tuy về quy mô
giá trị cũng như tốc độ tăng trưởng hàng năm không mạnh mẽ, sôi động bằng
hoạt động xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Nhật Bản song lại có tác dụng
đòn bẩy rất quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế, mà trực tiếp là các hoạt động sản xuất kinh doanh
hướng về xuất khẩu. Ngoài các máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất công nghệ
hiện đại, các nguyên liệu vật tư kỹ thuật cao đã nhập vào nước ta thông qua con
đường thực thi các dự án liên doanh đầu tư Việt-Nhật (để phát triển sản xuất
kinh doanh trong nhiều ngành hàng khác nhau như xi măng, ôtô, xe máy, điện
tử...) hoặc thông qua con đường việc trợ phát triển chính thức (nhằm xây dựng
các cơ sở hạ tầng, các công trình kinh tế-kỹ thuật trọng điểm về đường giao
thông, cầu cảng, hệ thống cấp thoát nước, các nhà máy nhiệt điện, thủy điện...)
có giá trị nhiều tỷ đôla, thì hàng năm, chúng ta đã nhập khẩu từ Nhật nhiều mặt
hàng quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế nước ta, đó là
các loại phân bón hoá học (trên 150 ngàn tấn/năm), xăng dầu (150 ngàn
tấn/năm). Ngoài ra, cần nói thêm rằng, do chủ trương của ta nên những năm qua
việc nhập khẩu các hàng tiêu dùng từ Nhật Bản chiếm tỷ lệ không cao, khoảng
Trang 22
3%. Tuy nhiên trên thực tế, có thể thấy rằng không ít gia đình, nhất là các gia
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
đình có mức sống trung lưu trở lên đã có thói quen sử dụng hàng Nhật. Nhiều
loại hàng tiêu dùng của Nhật đã có mặt trên thị trường Việt Nam qua nhiều con
đường phi mậu dịch khác nhau mà Nhà nước ta không thể kiểm soát được hết.
Nếu loại trừ các yếu tố tiêu cực như nhập lậu, nhập trốn thuế... thì phải thừa nhận
rằng do có giao lưu mở cửa dễ dàng, kinh tế Việt Nam tăng trưởng, thu nhập của
nhân dân khá lên nhiều nên mức sống thực tế, trong đó có nhu cầu tiêu dùng
hàng ngoại đã được tăng lên. Đó lại là khía cạnh tích cực cần khuyến khích phát
triển và đương nhiên tương lai không xa trong quan hệ thương mại hai nước
Việt-Nhật với chức năng lưu thông, trao đổi hàng hoá quốc tế để mở rộng khả
năng tiêu dùng cho các tầng lớp dân cư ngày càng phát triển hơn cũng phải góp
phần tích cực thúc đẩy xu thế này. Đương nhiên, đó là tương lai tiến tới, vì thực
tế nước ta hiện nay do còn là nước nghèo nên cần phải tiết kiệm tiêu dùng, nhất
là đối với việc tiêu dùng các loại hàng xa xỉ phẩm của nước ngoài thì vẫn cần
phải hạn chế tối đa mới có điều kiện tích lũy vốn từ chính nội lực của nhân dân,
của đất nước để tăng cường cho đầu tư phát triển nền kinh tế, trong đó có ưu tiên
đầu tư cho phát triển mạnh các ngành hàng sản xuất để xuất khẩu.
Trong tương lai, với ưu thế là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế
giới, có vị trí địa lý gần Việt Nam, có cơ cấu kinh tế phù hợp cho hợp tác kinh tế,
trao đổi hàng hoá của ta, có tiềm năng lớn về kỹ thuật và vốn, Nhật Bản sẽ tiếp
tục giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt
Trang 23
Nam.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
CHƯƠNG II
CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN
I. Các rào cản kỹ thuật
1. Khái niệm chung
Là hệ thống các chỉ tiêu, quy định manh tính kỹ thuật của một quốc gia,
hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nước ngoài vào thị trường nội địa, nhằm bảo
hộ sản xuất trong nước.
2. Rào cản
2.1 Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản
Hiện tại, quyền này được chia làm hai phần: Các đối tượng sở hữu trí tuệ
và Luật bằng sáng chế nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh.
Các Luật mô hình hữu dụng, Luật thiết kế, Luật Bản quyền được xếp vào
loại sở hữu trí tuệ. Luật Nhãn hiệu hàng hoá, Luật ngăn chặn cạnh tranh không
lành mạnh và các luật tương tự được xếp vào loại được bảo hộ bởi Luật Bằng
sáng chế nhãn hiệu hàng hóa kinh doanh.
Thời hạn đối với phát minh sáng chế là 20 năm kể từ ngày được áp dụng
và thời hạn đối với bản quyền là 50 năm sau khi tác giả qua đời.
2.1.1 Luật mới về Quyền sở hữu trí tuệ
Phạm vi của Luật mới (1995) về quyền sở hữu trí tuệ đã được mở rộng
nhằm đáp ứng sự đa dạng của ngành công nghiệp và công nghệ cùng với sự phát
triển của hệ thống máy vi tính và sự cần thiết phải chú ý đến các sản phẩm mới
của ngành công nghệ sinh học. Vì vậy, những đối tượng mới không nằm trong
diện được bảo hộ của luật Sở hữu trí tuệ hoặc Luật Bản quyền hiện tại cần được
đề cập đến trong luật mới. Dưới đây là một số nội dung của Luật Sở hữu trí tuệ
mới.
Trang 24
- Bảo hộ mô hình kinh doanh
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
“Phát minh mô hình kinh doanh” là việc đưa ra một hình mẫu kinh doanh
kiểu mới bằng cách sử dụng các phương tiện, thiết bị công nghệ như hệ thống
hoặc mạng lưới xử lý thông tin.
Vì ý tưởng kinh doanh, mô hình kinh doanh hay phương pháp kinh doanh không
phải là một ý tưởng kỹ thuật nên nó không thể là đối tượng được cấp bằng sáng
chế. Tuy nhiên nó có thể được cấp bằng sáng chế nếu như ý tưởng kinh doanh đó
thực tế có sử dụng mạng vi tính hoặc tương tự.
- Bảo hộ các sản phẩm phần mềm
Phần quan trọng nhất trong máy tính là sản phẩm phần mềm vì thế việc
bảo hộ nó trở thành một vấn đề quan trọng. Ở Nhật Bản, Trung tâm Thông tin
Phần mềm đã đăng ký bản quyền phần mềm từ năm 1987. Theo đăng ký này
phải xác định rõ tên của người giữ bản quyền, ngày tạo lập và nội dung của nó.
Thời hạn bản hộ các sản phẩm phần mềm bắt đầu từ ngày tạo lập và kéo dài cho
tới khi tác giả của sản phẩm đó qua đời được 50 năm.
- Bảo hộ chíp bán dẫn
Luật bảo hộ chíp bán dẫn còn được gọi là “Luật chíp bán dẫn”. Luật này ra
đời vào năm 1985. Thời hạn bào hộ chíp bán dẫn là 10 năm.
- Bảo hộ giống cây trồng mới
Nâng cao chất lượng giống cây trồng bằng cách áp dụng công nghệ sinh
học, công nghệ gen ngày càng trở nên phổ biến. Có 2 phương pháp bảo hộ giống
cây trồng mới: Phương pháp thứ nhất là đăng ký giống cây trồng mới theo Luật
Hạt giống và cây giống. Phương pháp thứ hai là bảo hộ theo Luật bằng sáng chế.
Luật hạt giống và cây giống được áp dụng để đăng ký đối với loại giống
cây trồng mới thuộc ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp... và thời gian bảo hộ là 15
năm (đối với loại cây lâu năm thời gian bảo hộ là 18 năm).
Trang 25
2.1.2 Tác động của Quyền sở hữu trí tuệ đối với chiến lược của công ty Nhật
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Ngày nay chiến lược quản lý công ty của Nhật Bản đã thay đổi theo hướng
chú trọng đến vai trò của Quyền sở hữu trí tuệ trong việc kiểm soát chiến lược
của công ty.
- Từ trước tới nay hầu hết các công ty Nhật Bản sử dụng công nghệ căn
bản của Mỹ và cho ra các sản phẩm tràn ngập thế giới bằng cách sử dụng kỹ
thuật sản xuất cải tiến, hệ thống sản xuất hiệu quả và nâng cao chất lượng.
Ngày nay Nhật Bản đang chuyển dịch các cơ sở sản xuất của mình ra nước
ngoài. Có thể nói rằng các nhà sản xuất Nhật Bản đang bước vào một giai đoạn
mới trong đó việc sử dụng sở hữu trí tuệ được coi là rất quan trọng không chỉ
trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá.
- Nâng cao hiệu quả bằng việc vi tính hoá, tổng hợp hoá sở hữu trí tuệ
Hầu hết các công ty lớn của Nhật Bản đều tiến hành tổ chức lại phòng sáng chế
thành phòng sở hữu trí tuệ không chỉ để giải quyết những vấn đề về phát minh
sáng chế mà còn giải quyết các vấn đề về thiết kế, phần mềm, bí mật thương mại
và các vấn đề có liên quan khác.
Các công việc về giới thiệu công nghiệp, cung cấp công nghệ... dần dần
được chuyển sang phòng kinh doanh đảm nhiệm. Phòng sở hữu trí tuệ được đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Công ty vì thế các kế hoạch chiến lược,
các quyết định mang tính đường lối... được thực hiện mang nội dung khía cạnh
của sở hữu trí tuệ.
Những hoạt động cần chú ý trong bộ phận sở hữu trí tuệ của Công ty Nhật Bản
gồm những vấn đề sau:
- Quan tâm đến phát minh sáng chế của công ty mình và các công ty khác.
- Tích cực tìm kiếm những phát minh sáng chế có hiệu quả mang tính chất
chiến lược.
- Khuyến khích phát triển khả năng phát minh sáng chế.
- Giáo dục nhân viên liên quan đến Quyền sở hữu trí tuệ kể cả các nhà
Trang 26
nghiên cứu (Phụ lục)
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Trong những vấn đề lưu ý trên thì sự trao đổi về nhân sự và thông tin
(nghiên cứu kỹ thuật, thông tin nội bộ cơ quan) liên quan đến phát minh sáng chế
là vấn đề chung nhất; ở Việt Nam “khám phá” có thể được bảo hộ tương tự như
một phát minh, theo Luật Bằng sáng chế, nhưng ở Nhật “khám phá” không được
Luật Bằng sáng chế bảo hộ.
2.2 Các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng
2.2.1 Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản - JIS
- Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn
được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này dựa trên “Luật Tiêu chuẩn hoá
công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và thường được biết dưới cái
tên “dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” hay JIS. Hệ thống tiêu
chuẩn JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toàn bộ
nền công nghiệp Nhật. Theo quy định của điều 26 trong Luật Tiêu chuẩn hoá
công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với các sản phẩm
được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của
các cơ quan này.
- Hệ thống tiêu chuẩn JIS áp dụng đối với tất cả các sản phẩm công nghiệp
và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành
như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm và các sản phẩm nông nghiệp khác
được quy định trong Luật Về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các công ty lâm sản.
Dấu này lúc đầu được áp dụng để tạo ra một chuẩn mực cho các sản phẩm xuất
khẩu khi Nhật bắt đầu bán sản phẩm ra nước ngoài. Do đó, khi kiểm tra các sản
phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ để xác nhận chất
lượng của chúng.
- Các tiêu chuẩn JIS được sửa đổi, bổ sung định kỳ để phù hợp với tiến bộ
công nghiệp. Tuy nhiên, tất cả các tiêu chuẩn JIS đều được bổ sung ít nhất 5 năm
một lần kể từ ngày ban hành. Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo
Trang 27
cho các tiêu chuẩn luôn hợp lý, phù hợp với thực tế.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Cùng với sự phát triển của ngoại thương quốc tế về các sản phẩm công
nghiệp, việc thống nhất các tiêu chuẩn trên phạm vi quốc tế và áp dụng hệ thống
chấp nhận chất lượng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng trở nên quan
trọng. Vì vậy, tháng 4 năm 1980, Nhật đã sửa đổi Luật tiêu chuẩn hoá công
nghiệp. Theo luật sửa đổi này, thì các nhà sản xuất nước ngoài cũng có thể được
cấp giấy chứng nhận JIS trên sản phẩm của họ. Việc sửa đổi Luật tiêu chuẩn hoá
công nghiệp là kết quả của việc Nhật tham gia ký kết “Hiệp định về các hàng rào
kỹ thuật đối với ngoại thương” của GATT. Theo Hiệp định này thì hệ thống
chứng nhận chất lượng của các nước phải được áp dụng cho sản phẩm từ các
nước thành viên khác của Hiệp định.
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với ngoại thương là bước tiến quan
trọng trong quá trình quốc tế hoá về tiêu chuẩn các sản phẩm công nghiệp. Quá
trình này cũng đặc biệt quan trọng đối với Nhật Bản, một nước có nền kinh tế
dựa trên ngoại thương quốc tế.
- Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp dấu chứng
nhận JIS phải làm đơn cấp giấy chứng nhận này. Bộ Công nghiệp và Thương
mại sau khi nhận được đơn (đơn được nhận qua phòng tiêu chuẩn, Cục Khoa học
và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và Thương mại) sẽ tiến hành điều tra sơ bộ dựa
trên hồ sơ, sau đó cử các thanh tra của Bộ tới giám định tại nhà máy của người
nộp đơn. Đối với các nhà sản xuất nước ngoài, các số liệu giám định do các tổ
chức giám định nước ngoài, do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật
Bản chỉ định, có thể được chấp nhận. Theo Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, kết
quả giám định tại nhà máy phải được trình lên Hội đồng thẩm định gồm các
chuyên gia của Bộ Công nghiệp và Thương mại để đánh giá. Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp và Thương mại có phê duyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay
không dựa trên kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ
Trang 28
được thông báo cho người nộp đơn. Nếu đơn xin phép cấp JIS được phê duyệt
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
thì thông báo của Bộ trưởng sẽ được đăng trên công báo. Thời gian cần thiết kể
từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng.
Những ai cố tình đóng dấu chất lượng JIS lên hàng hoá mà không phải là
nhà sản xuất đã được Bộ trưởng Bộ công nghiệp và Thương mại cấp giấy phép
sẽ phải chịu án tù tới 1 năm hoặc nộp phạt tới 500.000 Yên.
2.2.2 Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản - JAS
Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (Luật JAS) được ban hành vào
tháng 5 năm 1970. Luật này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng, đưa ra các
quy tắc về việc ghi nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS.
Ngày nay hệ thống JAS đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa
chọn các thực phẩm chế biến.
Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS gồm: Đồ uống,
thực phẩm chế biến, dầu ăn, mỡ, các nông lâm sản chế biến. Tuy hiện nay không
phải tất cả các sản phẩm đều được liệt kê trong danh sách các sản phẩm do Luật
JAS điều chỉnh nhưng các tiêu chuẩn JAS bao quát cả các sản phẩm được sản
xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Các nhà sản xuất muốn được dán
nhãn hiệu chất lượng JAS lên các sản phẩm của họ thì phải thông qua các tổ
chức giám định để đánh giá chất lượng của hàng hóa đó. Việc giám định chất
lượng để cấp giấy chứng nhận phẩm chất JAS ở Nhật Bản có thể do 3 loại tổ
chức sau thực hiện:
1-Các tổ chức giám định thuộc Bộ nông, Lâm, Ngư nghiệp
2-Các tổ chức giám định của chính quyền địa phương
3-Các tổ chức giám định JAS khác.
Luật JAS được sửa dổi vào năm 1983, các nhà sản xuất nước ngoài cũng
có thể được cấp giấy chứng nhận phẩm chất JAS, nếu sản phẩm của họ đạt các
tiêu chuẩn do JAS đề ra. Để bao quát cả các nhà sản xuất nước ngoài, hệ thống
tiêu chuẩn JAS đã có những thay đổi thích hợp vào tháng 3 năm 1986, theo đó
Trang 29
các tổ chức giám định chất lượng Nhật Bản có thể sử dụng các kết quả giám định
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
của các tổ chức giám định nước ngoài do bộ trưởng Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp
chỉ định.
Đa số các sản phẩm như thực phẩm đóng hộp, nước hoa quả, các sản
phẩm chế biến từ cà chua, dấm bỗng, thịt lợn hun khói được sản xuất tại Nhật
đều mang dấu chất lượng JAS.
Việc sử dụng dấu chứng nhận phẩm chất JAS trên nhãn hiệu sản phẩm là
tự nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị buộc phải sản
xuất hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các
quy định về việc ghi nhãn sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do Bộ
Nông, Lâm, Ngư nghiệp quy định.
Một sản phẩm bị buộc phải tuân theo các quy định về nhãn chất lượng
JAS khi có đầy đủ các điều kiện sau:
Sản phẩm phải là một nông sản hoặc là nông sản mà đã có hoặc trong một -
tương lai gần sẽ có một tiêu chuẩn JAS được quy định cho nó.
Sản phẩm đó phải là một sản phẩm có chất lượng khó xác định. -
Là sản phẩm mà người tiêu dùng cần biết được chất lượng của nó trước -
khi quyết định mua.
Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp đặt ra các tiêu chuẩn về việc ghi nhãn chất
lượng và buộc tất cả các nhà sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn đó, các quy
định này được áp dụng đối với cả các sản phẩm nhập khẩu. Người tiêu dùng
Nhật Bản rất tin tưởng đối với chất lượng của các sản phẩm được đóng dấu JAS.
Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hóa vào Nhật Bản có
được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ
hàng hóa của mình tại đây.
2.2.3 Các dấu chứng nhận chất lượng khác
Ngoài tiêu chuẩn JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chất lượng khác được
sử dụng ở Nhật.
BẢNG 4
Trang 30
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Ý NGHĨA DẤU CHỮ LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT LƯỢNG VÀ ĐỘ AN TOÀN
PHẠM VI SỬ DỤNG
Ý NGHĨA Dấu Q: Chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm Dấu G: Thiết kế, dịch vụ, sau khi bán và chất lượng
Dấu S: Độ an toàn
Dùng cho các loại sản phẩm dệt bao gồm: quần áo trẻ con và các loại quần áo khác, khăn trải giường. Dùng cho các sản phẩm như máy ảnh, máy móc thiết bị, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ văn phòng, sản phẩm may mặc và nội thất. Dùng cho nhiều chủng loại hàng hoá dành cho trẻ con, đồ dùng gia dụng, dụng cụ thể thao.
Dấu S.G: Độ an toàn (bắt buộc) Xe tập đi, xe đẩy, nồi áp xuất, mũ đi xe đạp và mũ bóng
Dấu Len
chầy và các hàng hoá khác. Dùng cho sợi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan, thảm, hàng dệt kim, có trên 99% len mới. Hàng may mặc như quần áo nam, nữ, ô, áo khoác, balô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao.
Dấu SIF: Các hàng may mặc có chất lượng tốt Nguồn: Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam
2.2.4 Các quy định về ghi nhãn sản phẩm
Đối với một số sản phẩm quy định về ghi nhãn sản phẩm là bắt buộc. Các
sản phẩm phải buộc dán nhãn được chia thành 4 nhóm: Sản phẩm dệt, sản phẩm
nhựa, đồ điện, thiết bị điện và nhiều loại sản phẩm khác như ô, kính râm. Hiện
nay theo quy định của pháp luật có khoảng 100 mặt hàng bị buộc phải dán nhãn
chất lượng.
Các sản phẩm dệt gồm: vải, quần, váy, áo nỉ, áo sơ mi, áo mưa, ca vát, -
khăn trải giường, máy hút bụi, quạt, tivi.
- Sản phẩm nhựa gồm: bát, đĩa, chậu giặt.
Trong các sản phẩm khác thì bột giặt, găng tay da, bàn chải đánh răng là các sản
phẩm phải dán nhãn chất lượng.
Các nhãn chất lượng được dán lên sản phẩm gia dụng giúp cho người tiêu
dùngđược biết các thông tin về chất lượng sản phẩm và lưu ý khi sử dụng.
2.3 Dấu tiêu chuẩn môi trường Ecomark
Vấn đề môi trường đang được sự quan tâm của người tiêu dùng Nhật Bản.
Cục môi trường của Nhật đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản
phẩm không làm hại sinh thái (kể cả các sản phẩm trong nước cũng như nhập
Trang 31
khẩu), các sản phẩm này được đóng dấu “Ecomark”.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Để được đóng dấu Ecomark, sản phẩm phải đạt được ít nhất một trong các tiêu
chuẩn sau:
- Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có
nhưng ít.
- Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường.
- Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại
rất ít.
- Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường ngoài các
cách kể trên.
Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng
hay tính an toàn của sản phẩm. Ecomark ra đời năm 1989, đến nay dấu này được
rất nhiều người Nhật biết đến. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng
nhận Ecomark thông qua các nhà nhập khẩu.
2.4 Luật trách nhiệm sản phẩm
Luật trách nhiệm sản phẩm đã được ban hành vào tháng 7-1995 để bảo vệ
người tiêu dùng. Luật này quy định rằng nếu như một sản phẩm có khuyết tật
gây ra “thương tích cho người hoặc thiệt hại về của cải” thì nạn nhân có thể đòi
người sản xuất bồi thường cho các thiệt hại xảy ra liên quan đến sản phẩm có
khuyết tật và có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.
Luật trách nhiệm sản phẩm cũng được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu.
2.5 Luật vệ sinh thực phẩm
Luật vệ sinh thực phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu
dùng ở Nhật Bản. Hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại đều chịu quy định
giống nhau theo luật và được chia thành nhiều nhóm: các gia vị thực phẩm, các
máy móc dùng để sản xuất chế biến và bảo quản thực phẩm, các dụng cụ đựng
và bao bì cho các gia vị cũng như cho thực phẩm, đồ chơi trẻ em và các chất tẩy
rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ ăn. Các loại hàng này khi đưa vào
Trang 32
sử dụng phải có giấy phép của Bộ Y tế và phúc lợi Nhật Bản.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Bộ luật Vệ sinh thực phẩm áp dụng cho cả hàng nội, hàng nhập khẩu, cần
phải hiểu đúng chế độ quản lý về sinh thực phẩm để có thể kinh doanh thành
công ở Nhật Bản.
2.6 Hệ thống phân phối
Chức năng của hệ thống phân phối ở Nhật Bản không có gì khác biệt lắm
so với các nước khác. Nó giúp cho việc di chuyển hàng hóa từ sản xuất đến tiêu
dùng. Nó đồng thời đóng vai trò là kênh bán hàng cho nhà sản xuất và kênh mua
hàng cho người tiêu dùng. Hệ thống phân phối của Nhật bao gồm hai cấp, đó là
các khâu, mối quan hệ giữa các nhà sản xuất (nhà xuất khẩu), các công ty thương
mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu thị, các cửa
hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn bán ở các
khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ thống thông
tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng).
Các kênh phân phối hàng nhập khẩu thay đổi tuỳ theo từng loại sản phẩm,
mạng lưới bán buôn và các công ty tham gia vào quá trình này.
Ở Nhật bản, hoạt động và chức năng của công ty ngoại thương giữ một vai
trò quan trọng trong việc xuất khẩu của các nhà sản xuất nước ngoài vào thị
trường Nhật Bản. Các công ty ngoại thương có hai chức năng. Thứ nhất là thúc
đẩy bán buôn với chức năng là những nhà trung gian. Thứ hai là các công ty
ngoại thương thực hiện hàng loạt các công việc như: cung cấp vốn, gánh chịu rủi
ro, phát triển nguồn nhân lực, buôn bán, tổ chức và đầu tư. Ngoài ra, các công ty
ngoại thương còn thực hiện chức năng cung cấp thông tin.
Có thể nói hệ thống phân phối ở Nhật Bản rất phức tạp và có các đặc điểm
chủ yếu sau:
(cid:31) Có rất nhiều cửa hàng bán lẻ. Nói cách khác, mật độ cửa hàng bán lẻ
rất đông.
(cid:31) Giữa các nhà chế tạo và các nhà bán lẻ tồn tại rất nhiều cấp phân phối
Trang 33
trung gian
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
(cid:31) Tồn tại hệ thống duy trì bía bán lẻ.
Giữa các nhà sản xuất và bán lẻ có sự liên kết rất chặt chẽ, thể hiện ở chỗ
các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn; các nhà bán buôn lại cung
cấp tài chính cho các nhà bán lẻ. Các nhà sản xuất thực hiện chế độ chiết khấu
hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, sẵn sàng mua lại hàng nếu không bán được,
các nhà bán lẻ thường chỉ kinh doanh một số hàng hóa của các nhà sản xuất nhất
định ở trong nước. Mối quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối, bán
lẻ rất khăng khít, bền vững khiến cho hàng hóa nước ngoài rất khó khăn thâm
nhập thị trường Nhật Bản, mở rộng đại lý tiêu thụ.
II. Đánh giá thực trạng xuất nhập khẩu Việt-Nhật và khả năng đáp ứng các
rào cản kỹ thuật của Doanh nghiệp Việt Nam
1. Kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu Việt-Nhật
1.1 Kim ngạch
Diễn biến của động thái cấu thành giá trị xuất nhập khẩu Việt-Nhật từ đầu
thập kỷ 90 đến nay xảy ra theo chiều hướng: phía Việt Nam chủ yếu là giá trị
xuất khẩu trong khi phía Nhật Bản thì chủ yếu là giá trị nhập khẩu. Do đó dẫn
đến tình hình là cán cân thương mại Việt-Nhật ngày càng xuất siêu lớn hơn về
phía Việt Nam. Cụ thể, nếu năm 1988 là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu sang
Nhật chỉ có 2 triệu USD thì năm sau đó, năm 1989 đã xuất siêu 178 triệu USD,
các năm tiếp theo đều tăng liên tục, năm 1990 là 381 triệu USD, năm 1992 là
419 triệu USD... năm 1995 là 795 triệu USD và năm 1997 đã lên đến 915 triệu
USD, gấp 2,2 lần so với năm 1992 và gấp 457,5 lần so với năm 1988. Chính vì
xuất siêu của Việt Nam sang Nhật đã diễn ra liên tục hàng năm và năm sau đều
cao hơn năm trước đã khiến cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật
luôn luôn cao hơn so với tăng trưởng của nhập khẩu từ Nhật sang Việt Nam. Cụ
thể, tính chung cho cả 10 năm (1988-1997), kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-
Nhật đạt 16.895 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 11.023 triệu USD và nhập
Trang 34
khẩu là 5.872 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân hàng năm
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
giữa Việt Nam và Nhật Bản là 28,5%, trong đó tăng trưởng xuất khẩu là 32,7%
và nhập khẩu là 27,2%. Tính chung cho cả 10 năm đó, Việt Nam đã xuất siêu
sang Nhật 5.151 triệu USD, chiếm 46,7% tổng KNXK và 30,5% tổng KNXNK.
Trong đó, nếu làm phép phân tích so sánh số liệu tổng cộng xuất siêu của 5 năm
sau (1993-1997) với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước (1988-1992) ta thấy 5
năm sau đạt xuất siêu tổng cộng là 3.726 triệu USD tăng gấp 2,6 lần so với tổng
cộng xuất siêu của 5 năm trước đã đạt được là 1.426 triệu USD.
Như vậy, cho đến kết thúc năm 1997, trong quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản, ta thấy động thái tiến triển KNXNK nói chung và KNXK nói
riêng về phía Việt Nam là luôn trong xu thế phát triển khả quan kể cả về tốc độ
tăng trưởng và quy mô giá trị đã đạt được. Bước sang năm 1998 và tiếp sau đó là
năm 1999, có một tình hình là bức tranh buôn bán đó đã khác trước. Căn cứ vào
các kết quả tổng hợp số liệu thống kê của Tổng cục thuế Bộ Tài chính, Bộ Công
thương Nhật Bản và Hội Mậu dịch Nhật-Việt ta thấy các hoạt động xuất nhập
khẩu giữa hai nước đều chững lại, thậm chí đã có sự suy giảm hơn trước (tuy
chưa nhiều) cả về tốc độ tăng trưởng và quy mô giá trị. Nếu như năm 1997
KNXNK đạt được về phía Việt Nam là 419,37 tỷ yên, tăng hơn 22,1% so với
năm 1996; thì sang năm 1998 với KNXNK đạt được 402,73 tỷ yên đã bị giảm
4% so với năm 1997. Và năm 1999, tính đến 7/1999, ta đã đạt được KNXNK là
215,84 tỷ yên, bị giảm 6,1% so với 7 tháng cùng kỳ năm 1998. Nếu tính riêng
hoạt động xuất khẩu ta thấy, KNXK đạt được của năm 1997 là 264,47 tỷ yên,
tăng hơn 20,5% so với năm 1996, thế nhưng sang năm 1998 với 228,93 tỷ yên,
KNXK đã bị giảm tới 13,4% so với năm 1997, còn trong 7 tháng đầu năm 1998,
ta đã đạt LNXK là 119,3 tỷ yên nếu so với 7 tháng cùng kỳ năm trước là đã bị
giảm 9,9%. Tình hình suy giảm cũng xảy ra tương tự với hoạt động nhập khẩu:
năm 1998 đã đạt được KNNK là 173,8 tỷ yên, chỉ tăng có 12,2% so với năm
Trang 35
1997 (trong khi năm 1997 đã tăng tới 24,9% so với năm 1996)l và 7 tháng đầu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
năm 1999 đã đạt KNNK là 96,53 tỷ yên, so với 7 tháng đầu năm 1998 đã giảm
0,9%.
Trong mấy năm gần đây kim ngạch 2 chiều luôn ở mức 4,7 tỷ-4,8 tỷ USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật ở mức 2,5 tỷ- 2,6 tỷ
USD. Một điều đáng chú ý là Việt nam luôn xuất siêu đối với Nhật bản trong
hơn 10 năm qua (riêng năm 2001 là khảng 300 triệu USD).
Trong năm 2002, xuất khẩu đạt 2,43 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm 2001
(giảm 2,8%). Như vậy đây là năm thứ 3 liên tiếp xuất khẩu của ta sang thị trường
Nhật Bản giảm. Nhập khẩu lại tăng mạnh (2,5tỷ USD) so với năm 2001(tăng
13,12%) dẫn tới nhập siêu 71 triệu USD. Tuy con số này không lớn nhưng đây là
lần đầu tiên ta nhập siêu từ Nhật sau hơn 10 năm liên tiếp xuất siêu sang thị
trường này.
BẢNG 5
GIÁ TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VIỆT-NHẬT
Năm
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam (Triệu USD)
Xuất (Triệu USD) 14 217 451 639 644 921 2.193 1.850 1.950 2.621 2.509 2.438
Nhập (Triệu USD) 95 662 870 1.069 1.351 1.716 1.293 1.380 1.450 2.250 2.215 2.509
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật (Triệu USD) 809 879 1.321 1.708 1.994 2.638 3.481 3.230 3.400 4.871 4.724 4.947
Tỷ trọng (%) buôn bán Việt-Nhật so với buôn bán của Việt Nam với thế giới 18,9 19,8 25,8 24,7 20,2 20,8 17,3 16,0 16,5 18,4 18,2 19,0
4.289 4.438 5.512 6.904 9.880 12.700 20.105 20.855 21.250 25.530 25.615 26.854
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nguồn: Bộ Thương Mại Việt Nam
Như vậy là những phân tích, lý giải trên đây về diễn biến động thái tốc độ
tăng trưởng và quy mô giá trị buôn bán Việt-Nhật thể hiện ở KNXNK, KNXK
Trang 36
trong những năm vừa qua về cơ bản đã cho thấy kim ngạch buôn bán Việt-Nhật
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
kể cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tăng nhanh, tương đối ổn định. Thực tiễn
cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp nhận hàng hóa Việt Nam, triển vọng sẽ
còn tăng nhanh hơn nữa trong thời gian tới khi mà cuộc khủng hoảng tài chính-
tiền tệ khu vực qua đi cùng với việc kinh tế Nhật Bản dần phục hồi trở lại. Ngoài
ra, trường hợp ngược lại đối với hàng Nhật Bản xuất khẩu sang thị trường Việt
Nam, thực tiễn phát triển cũng đã cho thấy kể từ đầu thập niên 90 đến nay,
KNNK của Việt Nam đối với hàng hóa xuất từ thị trường Nhật Bản cũng đã
tăng nhanh mặc dù còn nhiều khó khăn xảy ra làm cho hoạt động nhập khẩu đã
bị giảm mạnh hơn so với sự giảm của hoạt động xuất khẩu. Song nhìn vào xu thế
phát triển, chúng ta vẫn có thể hy vọng rằng nhờ có đẩy mạnh tăng cường xuất
khẩu, chúng ta sẽ có đầy đủ khả năng để tăng nhanh nhập khẩu những mặt hàng
cần thiết cho sự thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1.2 Cơ cấu xuất nhập khẩu của VN - Nhật Bản
1.2.1 Cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
Xem xét tỷ trọng giá trị xuất khẩu từng loại hàng trong tổng giá trị xuất
khẩu hàng năm, đã có diễn biến như sau (%):
BẢNG 6
1990
1992
1995
1997
1999
2001
2002
Dầu thô
60
64,4
35,5
27,6
28,3
20,2
13,6
Sắt vụn
3,3
Gỗ
5,3
7
Tôm đông lạnh
16,4
12,1
11,1
11
2,2
4
Mực khô
1,6
Hàng dệt may
3,3
4,8
4,5
5,2
31,1
26,7
Giầy dép
3,6
3,5
Than không
2,3
3,3
3,1
3
khói
Dây và cáp điện
7,6
9,5
Trang 37
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Hải sản
12
25
30,3
Nguồn: Hải Quan Việt Nam
Trên đây là danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng giá trị xuất khẩu từng năm của nước ta. Có thể thấy rằng cơ cấu
xuất khẩu của Việt nam sang Nhật bản vẫn chưa có thay đổi gì lớn. Điều đó có
nghĩa cho đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu của ta vẫn còn đơn giản. Diện mặt
hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá hẹp, chưa có
thay đổi nhiều so với những năm đầu thập niên 90. Mặc dù, nếu xét riêng về việc
phấn đấu giảm tỷ trọng xuất các sản phẩm thô, tăng tỷ trọng xuất các sản phẩm
đã qua công nghiệp chế biến thì ta cũng đã có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu như
những năm đầu thập niên 90, hàng xuất sang Nhật bản của ta chủ yếu là nguyên
liệu thô và sản phẩm sơ chế, chiếm đến 90% KNXK, trong đó riêng dầu thô đã
chiếm đến 60%, thì hiện nay đã giảm xuống nhiều, nhưng vẫn còn tới trên 50%
là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Mặt hàng chủ yếu của ta xuất sang Nhật
đến nay vẫn là dầu thô, hải sản, dệt may, than đá, giầy dép, cà phê và một số mặt
hàng nông sản khác, ngoài ra là hàng tiêu dùng trong gia đình như dụng cụ gia
đình, vali, cặp túi, xắc các loại...
Về xuất khẩu: KNXK giảm chủ yếu là do mặt hàng dầu thô trước đây
chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của ta sang Nhật, nay sụt giảm về cả số lượng
lẫn kim ngạch. Trong khi các mặt hàng chủ lực ngoài dầu thô hầu hết đều tăng so
với năm 2001. Bên cạnh các mặt hàng chủ lực truyền thồng như dầu thô, cà phê,
chè, gạo, hàng dệt may, hải sản... đã xuất hiện một số mặt hàng mới vào thị
trường, nhưng đã đạt kim ngạch đáng khích lệ và không ngừng tăng trưởng là
dây điện và cáp điện 174 triệu USD, rau quả 14 triệu USD, cao su khoảng trên
10 triệu USD, hạt điều 5 triệu USD, dầu ăn và chè đều đạt khoảng 3 triệu USD.
BẢNG 7
10 MẶT HÀNG VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG NHẬT CÓ KIM NGẠCH LỚN NHẤT
NĂM 2001 VÀ 2002
Trang 38
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
2001
2002
Số TT Tên hàng
Trị giá
Tên hàng
Trị giá
(triệu USD)
(triệu USD)
Hàng dệt may
591,50 Hải sản
01
555,44
Hải sản
474,76 Hàng dệt may
02
489,95
Dầu thô
384,69 Dầu thô
03
249,85
Dây điện và cáp điện
145,66 Dây điện và cáp điện
04
174,10
Sản phẩm gỗ
100,39 Sản phẩm gỗ
05
128,39
Giầy dép
64,40 Máy tính& linh kiện
06
57,11
07 Máy tính& linh kiện
50,82 Giầy dép
53,92
Than đá
35,59 Than đá
08
48,50
Sản phẩm nhựa
28,27 Thủ công mỹ nghệ
09
43,17
Thủ công mỹ nghệ
25,16 Sản phẩm nhựa
10
30,16
Nguồn: Hải quan Việt Nam
1.2.2 Về cơ cấu sản phẩm nhập khẩu chủ yếu
Cũng theo cách xem xét như đối với cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu, cơ
cấu hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản sang nước ta có động thái tiến triển
như sau (%):
BẢNG 8
1990
1992
1995
1997
1999
2001
2002
Tivi
12,8
17,2
Xe máy
12,3
11,8
4,6
4,9
2,3
3,3
Ô tô
9,6
15
9,2
3,8
3,5
7,4
9,5
Sắt thép ống
2,9
2,9
2
2,2
Máy quay video
6,9
Mạng điện thoại
4,9
Dầu nhẹ
2,1
2,4
Thép hợp kim
3,1
2,2
2
2,2
Mạch điện tử
7,4
7,8
14,8
13,6
Trang 39
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Sợi tổng hợp
2
1,8
Máy khâu
1,9
1,7
Máy xây dựng
2,3
2,8
38,5
42,2
Hàng vải dệt
2
1,8
Sắt thép các loại
11,6
17,3
Chất dẻo
3,4
3,5
Nguồn: Hải Quan Việt Nam
Năm 1990 mặt hàng ôtô bị giảm xuống so với năm 1989 là do chủ trương hạn
chế của Nhà nước, nhưng sang đến đầu năm 1991 thì ôtô nhập vào Việt nam lại
tăng đột biến, đặc biệt là số ôtô tái xuất qua biên giới Việt-Trung không thể tính
chính xác được.
Năm 1995 tivi không nhập là do Nhà nước ban hành văn bản cấm nhập khẩu tạm
thời mặt hàng này để hỗ trợ cho ngành sản xuất tivi trong nước có điều kiện phát
triển. Năm 2002, do tốc độ đô thị hóa, xây dựng lớn nên nhu cầu về máy móc
xây dựng tăng đột biến.
Trên đây là động thái tiến triển của cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản
theo các năm. Theo đó, ta có thể thấy rằng các hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản
vẫn khá đa dạng như các năm trước và chủ yếu vẫn tập trung vào một số loại như
máy móc thiết bị công nghiệp và xây dựng (tăng đột biến trong 2 năm 2001 và
2002), nguyên nhiên liệu, hàng điện tử, ôtô và xe máy.
BẢNG 9
10 MẶT HÀNG VIỆT NAM NHẬP KHẨU TỪ NHẬT CÓ KIM NGẠCH LỚN NHẤT
NĂM 2001 VÀ 2002:
2001
2002
Số TT Tên hàng
Trị giá
Tên hàng
Trị giá
(triệu USD)
(triệu USD)
01 Máy móc thiết bị phụ tùng
580,53 Máy móc thiết bị phụ tùng
702,88
02 Linh kiện vi tính & điện tử
299,00 Sắt thép các loại
287,94
03 NPL dệt may da
221,91 Linh kiện vi tính & điện tử
226,99
04
Sắt thép các loại
175,08 Ô tô dạng CKD,SKD
158,29
Trang 40
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
05 Ô tô dạng CKD,SKD
111,61 NPL dệt may da
149,74
06 Chất dẻo nguyên liệu
49,23 Chất dẻo nguyên liệu
44,54
07 Xe máy dạng CKD,IKD
22,70 Xe máy dạng CKD,IKD
40,70
08
Phân bón các loại
19,30 Phân bón các loại
24,85
09 Tân dược
14,54 Ô tô nguyên chiếc các loại
20,14
10 Ô tô nguyên chiếc các loại
12,94 Tân dược
7,46
Nguồn: Hải quan Việt Nam
Tóm lại, có thể rút ra một số nhận định cơ bản sau khi đã xem xét thực trạng
động thái tiến triển cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt - Nhật như sau:
Trước và trong thập kỷ 90, Việt nam xuất khẩu sang Nhật bản chủ yếu (đến
90%) là các sản phẩm thô, trong đó dầu thô đã là sản phẩm xuất khẩu chủ lực số
1 kể từ năm 1988. Từ năm 1995 đến nay Việt nam ngày càng gia tăng khối
lượng hàng xuất khẩu đã qua chế biến (khoảng 30%), tuy nhiên mới chỉ qua sơ
chế, chưa có chế biến sâu và tinh.
Về nhập khẩu năm 2002: khác so với các năm trước, nhập khẩu tăng
mạnh. Chủ yếu là ở nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị (tăng 21% so với năm
2001), Ôtô dạng CKD, SKD (tăng 41%), xe máy dạng CKD IKD (tăng 79%). Sự
gia tăng nhóm hàng máy móc thiết bị phản ánh sự gia tăng trở lại của FDI Nhật
Bản vào Việt Nam và là sự gia tăng mang tính tích cực. Bên cạnh đó, thị trường
lắp ráp ôtô, xe máy Việt Nam trong năm 2002 phát triển mạnh kéo theo nhu cầu
nhập khẩu linh kiện. Dự kiến trong năm nay, do sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước, nhóm mặt hàng ôtô, xe máy dạng linh kiện nhập khẩu sẽ giảm.
Các mặt hàng nhập khẩu đa dạng từ tân dược, linh kiện vi tính và điện tử,
máy móc thiết bị phụ tùng đến nguyên, phụ liệu dệt may, da, ôtô dạng CKD-
SKD và nguyên chiếc, xe máy dạng CKD-SKD-IKD, sắt thép, xăng dầu, phân
bón, v.v...
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Nhật đã ngày càng đa
dạng hoá hơn để kịp thời phụ hợp với lợi thế so sánh sẵn có của đất nước và đáp
Trang 41
ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên sự tiến bộ đó
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
vẫn chậm. Mặt hàng đã có sự thay đổi (trước năm 1988 là than đá, cao su, gạo...
nhưng hiện nay đã là dầu thô, thủy hải sản, hàng may mặc) nhưng loại hàng còn
chậm thay đổi, vẫn chủ yếu là các sản phẩm thô, nhiều chất là nguyên liệu,
khoáng sản, hàng nông-lâm-ngư nghiệp, chưa có hàng công nghiệp kỹ thuật cao
do chính Việt Nam chế tạo.
Cơ cấu hàng nhập khẩu từ Nhật bản của Việt nam hầu như ít thay đổi, vẫn
là hàng chế tạo và nguyên vật liệu xong có xu hướng ngày càng đa dạng hơn về
loại hàng. Hàng tiêu dùng giảm dần về tỷ trọng. Hàng máy móc, thiết bị kỹ thuật,
nguyên vật liệu tăng tỷ trọng lên dần nhưng đến nay Việt nam vẫn chưa nhập
được những dây chuyền công nghệ hiện đại bậc nhất.
Với một cơ cấu các sản phẩm nhập khẩu như hiện nay là phản ánh đúng
thực trạng nền kinh tế hai nước; cụ thể là phản ánh đúng trình độ phát triển, lợi
thế so sánh và nhu cầu mua-bán, trao đổi mậu dịch của mỗi nước. Chính vì thế
quan hệ thương mại Việt-Nhật, nhất là từ năm 1992 đến nay, đã phát triển ngày
càng mạnh mẽ, sôi động. Điều này xuất phát trước hết từ nhu cầu, lợi ích kinh tế
đôi bên cùng gặp nhau, sau đó mới đến các lý do chủ quan về nhu cầu chính trị,
ngoại giao và các điều kiện thuận lợi khách quan của môi trường chính trị, kinh
tế quốc tế.
Mặt khác, cũng với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt-Nhật
như hiện nay đã phản ánh đúng thực trạng trình độ phát triển, lợi thế so sánh và
nhu cầu mua-bán, trao đổi mậu dịch. Vì thế hiện tượng Việt Nam ngày càng xuất
siêu sang Nhật là bình thường, không phản ánh đó là “thế mạnh” của Việt Nam
hoặc “thế yếu” của Nhật bản trong hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên, hiện
tượng này sẽ trở thành bất bình thường, mang lại thua thiệt cho kinh tế Việt Nam
ngày càng lớn nếu như cứ kéo dài mãi tình hình xuất siêu các sản phẩm thô chưa
qua chế tạo, chế biến, hoặc mới chỉ sơ chế. Vấn đề này giải quyết thế nào cho
hiệu quả, do đó cần thiết có một chiến lược phát triển mạnh xuất khẩu với việc
Trang 42
hoạch định, thực thi khẩn trương một chính sách cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
năng động, hợp lý. Theo đó, hàng lượng chất xám ngày càng tăng hơn và các sản
phẩm thô ngày càng giảm đi.
2. Đánh giá khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật của hàng xuất khẩu Việt
Nam
2.1 Chất lượng hàng hóa xuất khẩu
2.1.1 Tiêu chuẩn chất lượng công nghiệp Nhật Bản-JIS
Đây là một tiêu chuẩn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ
có một số ít các doanh nghiệp thương mại (bao gồm cả công ty liên doanh và
quốc doanh) tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng như sắt, thép,
kim loại mầu hoặc các ngành cơ khí chính xác... với Nhật Bản là áp dụng tiêu
chuẩn này. Hơn nữa, Việt Nam chưa có quy chế bắt buộc áp dụng JIS cho các
sản phẩm của mình. Mà thay vào đó, Hệ thống chất lượng theo TCVN được hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm áp dụng. Do vậy chỉ có doanh nghiệp
đơn lẻ nào muốn sản phẩm của mình thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản sẽ
cố gắng có được giấy chứng nhận JIS do Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công
nghiệp Nhật Bản cấp.
Kể từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã tích cực áp dụng Hệ thống quản lý
chất lượng theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000, Hệ thống quản lý môi trường ISO
14000, hệ thống HACCP, GMP và SQF 2000... Song điều bất cập là Nhật Bản
lại sử dụng hệ thống quản lý chất lượng khác hẳn so với thế giới, đó là hệ thống
quản lý chất lượng toàn bộ (TQM-Total Quality Management) và nó không chịu
sự chi phối của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế ISO bởi tính
ưu việt và độc lập. Điều này một phần giải thích tại sao hàng hoá của Việt Nam
lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc xâm nhập thị trường Nhật Bản.
2.1.2 Tiêu chuẩn chất lượng nông nghiệp Nhật Bản-JAS
Cũng giống như tiêu chuẩn JIS, các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực
nông nghiệp hầu hết chưa hiểu JAS là gì. Các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam
Trang 43
được chế biến trên các dây chuyền công nghệ lạc hậu. Hệ thống quản lý tiêu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
chuẩn con giống, cây giống hoàn toàn áp dụng hệ thống TCVN. Trên thực tế
cũng chưa có một cơ quan có thẩm quyền nào của Việt Nam tiến hành tuyên
truyền, quảng bá tiêu chuẩn JAS cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực có liên
quan hiểu và áp dụng mà chỉ có những doanh nghiệp thương mại đơn lẻ có hàng
hóa thuộc lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu sang Nhật Bản tự tìm cho mình giải
pháp để làm sao xin được giấy chứng nhận JAS của Bộ Nông, Lâm và Ngư
nghiệp Nhật Bản.
2.1.3 Các tiêu chuẩn chất lượng khác
Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc nâng cao
chất lượng hàng hóa, vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt
Nam càng có thêm những mặt hàng chiếm được uy tín cao về chất lượng. Hoạt
động đăng ký chất lượng hàng hóa được tiến hành liên tục từ năm 1996 đến 2000
với khoảng 50.000 sản phẩm được đăng ký hàng năm. Cho đến nay, trên 22.000
sản phẩm của trên 7.500 doanh nghiệp đã được công bố tiêu chuẩn chất lượng và
có 235 sản phẩm của 69 doanh nghiệp được công bố phù hợp Tiêu chuẩn Việt
Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên công bố áp dụng Hệ thống
Quản lý Chất lượng theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000. Kể từ doanh nghiệp đầu
tiên được chứng nhận Hệ thống Quản lý chất lượng theo ISO 9000 năm 1996,
đến nay đã có trên 900 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ ISO 9000 và 20
doanh nghiệp được nhận chứng chỉ áp dụng Hệ thống Quản lý Môi trường theo
ISO 14000. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp được nhận chứng chỉ về hệ
thống HACCP áp dụng cho các cơ sở sản xuất thực phẩm và GMP áp dụng cho
doanh nghiệp dược phẩm. Đề tài cấp nhà nước nghiên cứu áp dụng các hệ thống
chất lượng, các biện pháp kích thích nâng cao năng suất chất lượng hoà nhập với
quốc tế và khu vực đã được triển khai từ năm 1997 và kết thúc vào năm 1999 đã
có tác động mạnh mẽ trong việc đưa các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến
Trang 44
của thế giới vào áp dụng tại Việt Nam.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Phong trào chất lượng của Việt Nam đã được phát triển rộng rãi trong cả
nước. Phong trào này được đánh dấu bằng các Hội nghị Chất lượng Việt Nam
lần thứ nhất (8/1995 - Hà Nội), lần thứ 2 (9/1997 - Cần Thơ), lần thứ 3 (11/1999
- TP.HCM) và lần thứ 4 (11/2001 - Hà Nội) với sự tham gia của đông đảo doanh
nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, quản lý; các chuyên gia và các tổ chức quốc tế
về chất lượng.
Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu đã có những cải tiến
theo tinh thần Nghị định 86/CP của Chính Phủ. Danh mục hàng hóa phải kiểm
tra đã có thêm cả hàng xuất khẩu (chủ yếu là thủy sản) và được điều chỉnh hàng
năm; tập trung vào bảo đảm an toàn, sức khoẻ, vệ sinh và bảo vệ môi trường.
Mới đây, ngày 26/01/2000, trong buổi tọa đàm với hơn 100 doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam về chủ đề “đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản” do Văn phòng đại diện JETRO tại Hà nội tổ chức, ông
Masumoto-cố vấn phát triển thương mại của JETRO đã có sự đánh giá về chất
lượng các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Ông cho biết, nếu dựa
vào thang điểm từ 0 đến 100 điểm thì Việt Nam đã có một số hàng đạt chất
lượng cao như: hàng may mặc được trên 80 điểm, hàng thực phẩm hải sản đồ ăn
uống khác được xếp thứ 20 trong tổng số 120 nước. Đặc biệt tôm, mực, bạch
tuộc chiếm vị trí rất tốt-đứng thứ 5, dưa chuột muối đứng thứ hai sau Trung
Quốc, gừng muối đứng thứ 4. Các mặt hàng đã được xếp loại trên đều được đánh
giá đạt từ 70-80 điểm. Ngoài ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thêu ren, đặc
biệt là sơn mài cũng được người Nhật Bản ưa thích và đánh giá cao.
2.1.4 Nhãn hiệu hàng hóa
Các quy định về ghi nhãn sản phẩm được ban hành theo Quyết định
178QĐ-TTg ngày 30/08/1999 và Quyết định số 95/2000/TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Theo nội dung của quy chế này, phạm vi áp dụng là các hàng hoá sản
xuất trong nước, xuất khẩu hoặc sản xuất tại nước ngoài được nhập khẩu để tiêu
Trang 45
thụ tại Việt nam. Các loại thực phẩm có giá trị tiêu dùng trong vòng 24 giờ; hàng
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
tạm nhập, tái xuất; gia công cho nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của
quy chế này. Các sản phẩm buộc phải dán nhãn gồm các mặt hàng sau đây: vật
liệu xây dựng, các sản phẩm nông nghiệp, thiết bị viễn thông, thủy sản, lâm sản
và các hàng hoá chế biến từ lâm sản, hạt ngũ cốc và hạt nông sản các loại có bao
gói.
Tuy nhiên, vấn đề thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam
cũng chưa được qua tâm thoả đáng. Sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam chưa
cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài nhất là khi tham gia thị trường quốc
tế.
Thực tiễn xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản những năm
qua, ta vẫn phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất lượng hàng hoá chưa
đều, còn thua kém nhiều nước trong khu vực. Đặc biệt, ngay cả chất lượng
quảng cáo, thông tin trên bao bì cũng như kỹ thuật đóng gói hàng còn đơn điệu,
kém hấp dẫn và độ dài thời gian bản hành sản phẩm còn chưa chuẩn xác như
quảng cáo giới thiệu trên các bao bì hàng hoá. Liên quan về vấn đề chất lượng
hàng xuất khẩu Việt Nam, theo Giáo sư tiến sĩ Furuta Motoo, chủ nhiệm Khoa
nghiên cứu khu vực, Đại học Tổng hợp Quốc gia Tokyo, Chủ tịch Hội Hữu nghị
Nhật Bản-Việt Nam và ông Hiroshi Miyauchi, Chủ tịch hội Mậu dịch Nhật Bản-
Việt Nam thì chưa hẳn tất cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường Nhật
Bản đều có chất lượng chưa cao, chỉ có một số ít và tuỳ theo từng đợt giao hàng.
Có nghĩa là hàng Việt Nam tuy có chất lượng cao nhưng chưa đều. Ngoài ra một
trong những nguyên nhân quan trọng khiến hàng Việt Nam còn ít xuất hiện ở thị
trường Tokyo mà chỉ có ở Osaka hoặc một số tỉnh thành phố khác, đó là vì nhiều
người Nhật Bản chưa có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam. Trong khi đó họ lại
rất quen với hàng của Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn
Quốc... Nhất là hàng Trung Quốc hiện đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường Nhật
Bản. Có hai nguyên nhân chính khiến cho ngay từ thời điểm ban đầu có mặt ở thị
Trang 46
trường Nhật Bản, hàng Trung Quốc đã được người Nhật Bản làm quen rất
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
nhanh, đó là khâu quảng cáo, giới thiệu trên vỏ bao bì và chất lượng, hình thức
bên ngoài bao bì rất đẹp và một nguyên nhân khác nữa rất quan trọng đó là giá rẻ
(rẻ hơn cả hàng Việt Nam) và đương nhiên là qua thực tế tiêu dùng, hàng Trung
Quốc đã được kiểm nghiệm đánh giá là có chất lượng phù hợp với nhu cầu của
họ.
Từ đó đặt ra, bên cạnh vấn đề chất lượng cao, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn nữa
đến khâu thông tin, quảng cáo, tiếp thị với thị trường Nhật Bản, trước hết là chú
ý ngay đến hình thức mỹ thuật và chất lượng kỹ thuật của bao bì hàng hoá. Đồng
thời chúng ta phải hạ thấp giá thành sản phẩm để giảm giá bán ở mức hợp lý mới
có thể cạnh tranh được với hàng hoá của nước khác.
2.2 Quyền sở hữu trí tuệ
2.2.1 Thực trạng đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Từ đầu những năm 80 đến nay, Cục sở hữu công nghiệp (SHCN) đã tiến
hành cấp bản quyền SHCN cho các cá nhân, pháp nhân trong và ngoài nước.
Tính từ năm 1982 đến nay, Việt Nam đã cấp 2517 bằng sáng chế trong tổng số
9002 đơn đăng ký sáng chế từ năm 1981 đến 2001, chỉ đạt 28%. Trong số này,
doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 4%. Số còn lại thuộc về các cá nhân, tổ chức
nước ngoài. Như vậy đây là một con số còn rất khiêm tốn so với thực tế.
Số bằng độc quyền giải pháp hữu ích được cấp từ năm 1990 đến 2001 có
khả quan hơn, là 268 bằng trên tổng số 746 đơn đăng ký. Tuy vậy cũng chỉ đạt
con số 35%, tuy vậy doanh nghiệp Việt Nam đã chiếm đến 65% tổng số bằng
được cấp. Trong số 11.314 đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được nộp cho
Cục SHCN từ năm 1989 đến 2001 thì cũng chỉ có 6.628 bằng độc quyền kiểu
dáng công nghiệp được cấp, chiếm tỷ lệ 58% và điều đáng mừng là doanh
nghiệp Việt Nam đã chiếm đến 90%. Cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ chiếm có
10%. Nhưng trong tổng số 39.510 nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký từ năm
Trang 47
1982 đến 2001 chỉ có 16.846 (chiếm 42%) nhãn hiệu thuộc về các cá nhân,
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
doanh nghiệp của Việt Nam, số còn lại đến 22.664 (58%) nhãn hiệu đăng ký
thuộc về cá nhân, tổ chức nước ngoài.
2.2.2 Một số vấn đề về thực hiện quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
- Bảo hộ mô hình kinh doanh
Hiện tại pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chưa có quy định
cụ thể “mô hình kinh doanh” là đối tượng được bảo hộ. Đối tượng này còn quá
mới mẻ và nó không phải là một giải pháp kỹ thuật như trong điều 782 Bộ Luật
Dân sư của Việt Nam quy định về một sáng chế. Trong tương lai gần, nhất là
trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế, pháp luật Việt Nam nên có những
thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, tạo ra thế cạnh tranh cao
hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
- Bảo hộ các sản phẩm phần mềm
Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989 chưa theo kịp sự
phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên Nhà nước Việt
Nam đã thông qua Bộ Luật Dân sự và Hình sự để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Các sản phẩm phần mềm là đối tượng mới mẻ của bảo hộ sở hữu công nghiệp
song lại bị xâm hại một cách rất công khai. Tại các điều 224, 225 và 226 Bộ luật
Hình sự của ta đã quy định các tội: tạo ra và làm lan truyền, phát tán các chương
trình vi-rút tin học; tội vi phạm các quy định và vận hành, khai thác và sử dụng
mạng máy tính điện tử; tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy
tính. Tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà người vi phạm có thể
bị phạt tiền từ 5-100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt
tù từ 6 tháng đến 7 năm.
- Bảo hộ giống cây trồng mới
Giống cây trồng mới bao gồm giống cây nông nghiệp và giống cây công
nghiệp được Nghị định số 13/2001 ngày 20/04/2001 của Chính phủ bảo hộ. Các
tổ chức, cá nhân chọn tạo hoặc có quyền thừa kế hợp pháp các giống cây trồng
Trang 48
mới trên lãnh thổ Việt Nam được Nhà nước cấp văn bằng bảo hộ sau khi đã thẩm
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
định về hình thức và nội dung hồ sơ, không cấp lại. Người được cấp phải nộp lệ
phí thẩm định và phí hàng năm để duy trì hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Thời
hạn bảo hộ là 20 năm, đối với cây thân gỗ là 25 năm kể từ khi được cấp văn bằng
bảo hộ.
2.2.3 Tác động của quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động của doanh nghiệp Việt
Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng đến vai trò của quyền sở hữu
trí tuệ trong việc kiểm soát chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Mới chỉ
gần đây, một số nhà sản xuất mới thấy được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ
trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, đặc biệt là khi sản phẩm của họ xuất khẩu ra
nước ngoài.
Việc vi tính hoá và tổng hợp hoá sở hữu trí tuệ chưa được các doanh
nghiệp Việt Nam qua tâm đúng mức. Các đơn vị này hầu hết chưa thành lập
phòng sở hữu trí tuệ hoặc phòng sáng chế thành các phòng chuyên biệt hoá mà
vẫn xem các hoạt động thiết kế, phần mềm, bí mật thương mại ... là công việc
của phòng kinh doanh. Chính vì chưa có sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo doanh
nghiệp đối với bộ phận sở hữu trí tuệ nên các kế hoạch, các quyết định mang tính
đường lối... được thực hiện chưa mang nội dung khía cạnh của sở hữu trí tuệ.
2.3 Tiêu chuẩn về môi trường
Hiện nay quản lý môi trường chưa phải là mối ưu tiên đối với đa số doanh
nghiệp Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém về quản lý môi
trường của doanh nghiệp. Ví dụ như: sự hiểu biết, kiến thức về môi trường và
quản lý môi trường còn hạn chế; trình độ năng lực quản lý chưa cao; máy móc
thiết bị lạc hậu; khó khăn về tài chính; quản lý môi trường của doanh nghiệp còn
mang tính bị động, chắp vá, đối phó. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa kết hợp
quản lý môi trường vào quá trình quản lý sản xuất kinh doanh...
Tiêu chuẩn về môi trường cho sản phẩm là một tiêu chí hoàn toàn mới mẻ
Trang 49
đối với phần đông các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, toàn quốc mới chỉ
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
có 20 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ áp dụng Hệ thống quản lý môi trường
theo ISO 14000 và 23 doanh nghiệp được nhận chứng chỉ ISO 14001(trong số
này chỉ có 3 doanh nghiệp có 100% vốn trong nước và là quốc doanh, còn lại
đều là liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).
Số lượng doanh nghiệp áp dụng và được chứng nhận còn khiêm tốn có thể do
những nguyên nhân sau:
- Công tác tuyên truyền, quảng bá và nhận thức còn hạn chế
- Chứng nhận Hệ thống quản lý môi trường là hoạt động còn mới mẻ đối với các
doanh nghiệp Việt Nam.
- Các doanh nghiệp Việt Nam chưa cảm nhận được sức ép của vấn đề môi
trường đến kinh doanh hay lợi ích của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp được chứng nhận đều là liên doanh hoặc 100% vốn nước
ngoài, thường chịu sức ép của công ty mẹ hoặc tập đoàn. Vì thế, họ thường xin
chứng nhận của tổ chức chứng nhận đã từng chứng nhận cho các chi nhánh hoặc
công ty khác của tập đoàn.
2.4 Quy định về trách nhiệm sản phẩm
Việt Nam chưa ban hành bộ luật riêng để điều chỉnh về trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với sản phẩm mà chỉ quy định thành một điều trong Luật
Thương Mại được thông qua ngày 10/05/1997. Cụ thể điều 9 của Luật này quy
định như sau: Cấm thương nhân bán hàng kém chất lượng, sai quy cách lẫn với
hàng đã đăng ký, trường hợp lợi ích của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng có
quyền khiếu nại thương nhân đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi
kiện thương nhân tại Toà án theo quy định của pháp luật. Như vậy, quy định này
cũng góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và ràng buộc trách
nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm của mình.
Vì Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản áp dụng cho cả các sản phẩm
nhập khẩu do đó, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản sẽ phải
Trang 50
chịu sự điều chỉnh của Luật này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
những quy định của Luật Trách nhiệm sản phẩm để tránh phải chịu những thiệt
hại về kinh tế và làm mất uy tín sản phẩm của mình.
2.5 Quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm
Việt nam chưa ban hành Luật vệ sinh thực phẩm mà chỉ có các quy định
về đăng ký chất lượng sản phẩm bắt buộc đối với hàng hoá là thực phẩm tiêu thụ
trong nước. Danh mục hàng hoá thực phẩm tiêu thụ trong nước phải đăng ký
chất lượng theo quyết định QĐ 1010/2000 của Bộ Y tế ngày 30/03/2000 bao
gồm: thịt và các cơ quan nội tạng là thực phẩm; bột ăn và thức ăn chế biến từ
bột; sữa; cà phê; hương liệu; xúc xich; mía đường; bột ca cao; thực phẩm chiết
xuất từ hạt ngũ cốc; rau quả và các sản phẩm chế biến từ rau quả; các loại nước
tinh khiết hoặc được chiết xuất, pha chế.
Tuy nhiên chưa có quy định nào bắt buộc đăng ký chất lượng đối với các
sản phẩm là thực phẩm xuất khẩu mà trong trường hợp này nhà xuất khẩu phải
tự xin giấy chứng nhận chất lượng của nước nhập khẩu nếu muốn hàng hoá của
Trang 51
mình bán được ở thị trường của nước nhập khẩu.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VƯỢT QUA HÀNG RÀO KỸ
THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN CỦA HÀNG XUẤT
KHẨU VIỆT NAM
I. Các định hướng chiến lược xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến năm
2010
1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng chung
Các chỉ tiêu xuất-nhập khẩu một phần quan trọng phụ thuộc vào chỉ tiêu
chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ
2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm
phải tăng khoảng 7,2%). Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%/ năm,
vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng
khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18,6% lên
20-25%. Thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá trị gia tăng của công nghiệp
tăng bình quân hàng năm 8-9%. Đến năm 2010, công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-
41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp.
Dự thảo Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp
đôi nhịp độ tăng trưởng GDP tức là khoảng 14,4%/năm. Trong đó, nông sản xuất
khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD và năm 2010, lương thực bình quân
4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD; sản phẩm công
nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các chỉ tiêu này sẽ còn được
điều chỉnh).
Về xuất khẩu
*.Xuất khẩu hàng hóa
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó
Trang 52
thời kỳ 2001-2005 tăng 16%, thời kỳ 2005-2010 tăng 14%/năm.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
- Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005
và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
*. Xuất khẩu dịch vụ
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD năm 2005 và 8,1 tỷ
USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần.
2. Định hướng cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng
chủ yếu sau:
Trước mắt, huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất
khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ.
Đồng thời, cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo
với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô.
Chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.
3. Định hướng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đến 2010
Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản tăng bình quân 22%
trong thời kỳ 1996-2000 và đạt 2,62 tỷ USD vào năm 2000, sau đó giảm liên tiếp
trong hai năm 2001 và 2002 do kinh tế Nhật Bản gặp khó khăn, sức mua yếu.
Gần đây Nhật đã bổ sung thêm 118 loại nông sản (trong đó có rau, trái cây nhiệt
đới) vào hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) 2003 và giảm thuế GSP đối
với khoảng 60 mặt hàng nhập khẩu.
Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được nâng từ 15,8% hiện nay lên
17-18% ngang với mức của năm 1997. Với đà phục hồi kinh tế Nhật Bản, có thể
và cần phải tăng xuất khẩu vào Nhật ở mức 21-22%/năm để đến năm 2005 tổng
kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt mức 5,4-5,9 tỷ USD. Ta và Nhật cần
có sự trao đổi, bàn bạc (tốt nhất là trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến
Trang 53
đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hóa của Việt Nam quy chế MFN đầy đủ.
Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông tin liên quan đến phương
thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark
cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của Nhật.
Như vậy có thể thấy rằng, ít nhất từ nay đến năm 2010, theo như cách tính
toán của các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, Nhật Bản vẫn là thị trường
trọng điểm từ năm 2001 đến 2010 để được ưu tiên hỗ trợ xúc tiến thương mại.
Hướng xúc tiến sẽ là hỗ trợ một phần kinh phí để doanh nghiệp tham gia hội trợ
triển lãm, tổ chức đoàn chuyên ngành đi khảo sát thị trường, phát triển thương
hiệu và đăng ký thương hiệu tại thị trường Nhật Bản, phát huy những mô hình
như nhà Việt Nam tại Tokyo để tiến tới thành lập Trung tâm thương mại tại Nhật
Bản. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại xúc tiến đàm phán ký Hiệp định mậu dịch tự
do với Nhật Bản và ủng hộ xu hướng liên kết Nhật Bản-ASEAN.
Trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản trong những năm tới đây sẽ
vẫn là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế mạnh như hàng dệt may, hải sản,
giầy dép và sản phẩm da, than đá, cao su, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ
gốm sứ và sản phẩm gỗ. Đồng thời, chúng ta tăng cường đầu tư đi sâu vào khai
thác các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao mà kim ngạch của các
sản phẩm này đã không ngừng được nâng cao trong năm 2002, đó là dây-cáp
điện và máy vi tính-linh kiện điện tử.
Hàng dệt may hiện đang xuất khẩu được vào thị trường Nhật Bản với kim
ngạch hàng năm trên 400 triệu USD, nhưng thị phần của Việt Nam tại Nhật Bản
còn rất nhỏ bé, chỉ khoảng 2%, so với Trung Quốc là 65%, Italia là 8% và Hàn
Quốc là 6%. Thái Lan dù đang mất dần thị trường cũng còn chiếm được 2,2%
kim ngạch hàng dệt may nhập khẩu của Nhật Bản. Xu hướng nhập khẩu mặt
hàng này tại Nhật Bản tăng nhanh từ những năm 1980 đến những năm 1990,
nhưng trong hai năm 1997 và 1998, kim ngạch nhập khẩu có giảm sút do đồng
Trang 54
yên mất giá và sức mua giảm sút vì kinh tế suy thoái. Tuy nhiên, khi nền kinh tế
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
hồi phục, nội nhu tăng lên và trong tình hình đồng yên đang lên giá mạnh như
hiện nay thì nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này vào Nhật Bản lại tăng lên. Để bắt
kịp được biến động này của thị trường nhằm tăng cường xuất khẩu hàng dệt
may, các doanh nghiệp dệt may cần chú trọng hơn nữa đến cải tiến mẫu mã và
nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm phục vụ thị trường đại chúng ở Nhật Bản.
Mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho ngành dệt may là khoảng 20%/ năm để đến năm
2000 đạt kim ngạch 570 - 580 triệu USD xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản,
năm 2010 khoảng 1,9-2,0 tỷ USD.
Hải sản của Việt nam, nhất là tôm và mực, được thị trường Nhật Bản đánh
giá khá cao. Việt Nam hiện là một trong bốn nước hàng đầu xuất khẩu tôm và
mực vào thị trường Nhật Bản. Hơn 88% nhu cầu tôm tại Nhật Bản dựa vào nhập
khẩu, và cho đến đầu những năm 1990, Thái Lan vẫn là nguồn cung cấp chính
tôm sú cho Nhật Bản. Tuy nhiên, do ô nhiễm của vùng nuôi tôm và việc phát
triển dịch bệnh ở Thái Lan, nên nguồn cung cấp chính chuyển sang Inđônêxia.
Nhưng năm gần đây, dịch bệnh lại phát triển ở Inđônêxia, nên các nhà nhập khẩu
Nhật Bản lại chuyển hướng sang Ấn Độ và Việt Nam. Do vậy, để duy trì nguồn
hàng và giữ được khách hàng Nhật Bản, vấn đề chất lượng và vệ sinh thực phẩm
cần phải được qua tâm hơn nữa, trong đó vấn đề lấy xác nhận trước về chất
lượng hàng hoá đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần làm giảm chi phí lưu
thông, nâng cao được tính cạnh tranh. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu hải sản
vào Nhật Bản đạt mức 340-350 triệu USD/năm. Mục tiêu tăng trưởng mặt hàng
này là 10% năm để đến năm 2005 đạt kim ngạch 700 triệu USD xuất khẩu vào
thị trường Nhật Bản, đến năm 2010 là 1 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da vào thị trường Nhật Bản
còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu trên 1 tỷ USD của ngành da giầy
Việt Nam. Năm 1999, Việt Nam xuất sang Nhật Bản mặt hàng này trị giá 9.545
triệu yên (khoảng 79 triệu USD), năm 2000 là 5.071 triệu yên (khoảng 42 triệu
Trang 55
USD). Xu hướng nhập khẩu các mặt hàng giầy dép, đặc biệt là giầy da ở Nhật
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
không ngừng tăng lên. Hiện nay, Italia là nước đứng đầu về xuất khẩu giầy da
sang Nhật Bản, chiếm 36,7% thị phần năm 2000. Tiếp theo là Trung Quốc
(15,4%) nhưng số lượng nhập khẩu nhiều hơn Italia, và có xu hướng ngày càng
tăng, Mỹ(8,9%), Anh (6,5%), Hàn Quốc (6,3%). Việc nhập khẩu giầy da vào
Nhật Bản hiện nay vẫn phải chịu hạn ngạch về thuế quan (thay cho hạn ngạch
nhập khẩu áp dụng từ trước tháng 4 năm 1986) theo Điều 9 của Luật thuế quan
Nhật Bản. Các sản phẩm phải chịu hạn ngạch thuế quan sẽ được tính theo hai
mức thuế, mức ban đầu áp dụng đối với một số lượng nhất định trong giới hạn
hạn ngạch thuế quan hàng năm do Nghị định của Chính phủ Nhật quy định, và
sau đó sẽ áp dụng mức thuế thứ cấp cao hơn đánh vào hàng nhập khẩu qúa mức
giới hạn đó. Đối với mặt hàng giầy da, mức ban đầu là từ 19,5% đến 27%, trong
khi mức thứ cấp là 45% hoặc 4.550yên/đôi, lấy theo con số nào cao hơn. Các
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu giấy dép vào thị trường Nhật Bản cần phải
nắm vững những quy định này để có thể đưa hàng vào thị trường này đúng thời
điểm, tránh phải chịu mức thuế cao, làm cho hàng hoá của Việt Nam có giá cạnh
tranh hơn. Trong xu thế nhập khẩu các mặt hàng này ở Nhật Bản ngày càng tăng
lên, nếu khắc phục được những yếu kém chủ quan như chất lượng da, việc cung
cấp phụ kiện... ngành giầy da Việt Nam có thể đẩy mạnh được xuất khẩu vào
Nhật Bản trong thập kỷ tới, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và đa dạng hoá
thị trường. Với mục tiêu tăng trưởng trên 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu giầy
dép và các sản phẩm da vào Nhật Bản năm 2005 có thể đạt 220-230 triệu USD
và năm 2010 là 320-330 triệu USD.
Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu mặt hàng
này vào Nhật Bản, luôn chiếm hơn 40% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Trong
năm nay, số lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn không
giảm nhưng kim ngạch có thể sẽ thấp hơn năm ngoái do giá than trên thị trường
thế giới giảm. Nhìn chung, vấn đề duy nhất đặt ra cho ngành than trong thời gian
Trang 56
tới đây là tiếp tục củng cố và giữ vững các đầu mối tiêu thụ tại Nhật Bản.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Cao su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được nhiều vào thị
trường Nhật Bản (hàng năm khoảng 3-4 ngàn tấn, mặc dù mức thuế nhập khẩu
mặt hàng này là 0%) do chủng loại cao su của Việt Nam hiện nay chưa thích hợp
với thị trường Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu cao su RSS của
Thái Lan và đóng vai trò chủ đạo đối với tiêu thụ cao su của Thái Lan. Vì vậy,
để đẩy mạnh xuất khẩu cao su vào Nhật Bản, cần nhanh chóng chuyển đổi cơ
cấu sản phẩm trong ngành cao su, tăng tỷ trọng các loại cao su RS và cao su
RSS, đáp ứng đúng thị hiếu của thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp thuộc
ngành cao su cần phối kết hợp với Tổng Công ty Hoá chất để tìm hiểu khả năng
liên kết với Nhật Bản trong việc phát triển công nghiệp chế biến cao su và xuất
khẩu cao su vào thị trường Nhật Bản.
Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là những mặt
hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nhật Bản.
Hàng năm Nhật Bản phải nhập khẩu hơn 3 tỷ USD rau quả nhưng Việt Nam mới
bán được cho Nhật khoảng 7-8 triệu USD, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Trong
những năm tới, nhu cầu của Nhật Bản về các mặt hàng rau quả vẫn không ngừng
tăng lên do nội cung bị thiếu hụt vì giới làm nghề nông ngày càng già đi không
có người thay thế, do việc các siêu thị tăng cường nhập khẩu nhằm ổn định
nguồn cung, do đồng yên lên giá làm giảm giá hàng nhập khẩu. Vì vậy, tiềm
năng phát triển các mặt hàng rau quả của Việt Nam là rất lớn bởi người Nhật
Bản có nhu cầu cao về hành, cải bắp, gừng, ớt, chuối, bưởi, cam, dứa, xoài, đu
đủ những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam. Rau qủa Việt Nam có một số
loại được người Nhật Bản chấp nhận nhưng nhìn chung còn nhiều yếu kém về
mặt chất lượng, bảo quản và đảm bảo thời hạn giao hàng. Tuy nhiên, do thực
phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ theo Luật vệ sinh thực phẩm và
phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe nên các doanh nghiệp Việt Nam cần
chú trọng hợp tác với các bạn hàng Nhật Bản nhằm không những đáp ứng đúng
Trang 57
thị hiếu người tiêu dùng, mà còn phải thực hiện các biện pháp đáp ứng tiêu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
chuẩn vệ sinh của Nhật Bản. Mục tiêu kim ngạch đặt ra cho hàng rau qủa xuất
sang Nhật Bản là 90-100 triệu USD năm 2005 và 180-200 triệu USD năm 2010.
Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị trường
Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật Bản đang tăng rất mạnh trong những
năm gần đây, tới khoảng 23 tỷ yên (khoảng hơn 200 triệu USD) trong năm 2000.
Từ năm 1996 đến năm 2000 khối lượng nhập khẩu gốm tăng 1,4 lần và sứ tăng
2,7 lần. Về đồ gốm, Anh là nước đứng đầu các nước xuất khẩu sang Nhật Bản
chiếm 43,3% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2000, tiếp theo là Đức
(12,7%), Italia (11,3%) và Đan Mạch (10,2%). Gần đây xuất khẩu từ Trung
Quốc tăng nhanh, chiếm đến 5,8% kim ngạch. Về đồ sứ, Trung Quốc đã vượt lên
dẫn đầu chiếm 43,2% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2000, tiếp theo là
Anh (16,2%), Italia (11,7&), Thái Lan (6,1%) và Pháp (3,9%). Đồ gốm sứ của
Việt Nam xuất sang Nhật Bản còn khá ít, chỉ khoảng 5 triệu USD/năm, trong khi
thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (từ 0-3%). Đây là mặt hàng Việt Nam có
thể tăng được kim ngạch nếu như các nhà sản xuất quan tâm hơn đến khâu tạo
hình, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm và thường xuyên thay đổi mẫu mã. Các
nhà xuất khẩu cũng cần quan tâm hơn đến khâu tiếp thị, chú trọng quan hệ với
các siêu thị và các nhà kinh doanh bán lẻ mới dễ đưa hàng thâm nhập vào được
thị trường.
Về đồ gỗ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu hơn 3 tỷ USD, chiếm khoảng
25% thị phần, phần lớn từ các nước Châu Á và Mỹ. Các loại đồ gỗ giá rẻ nhập
khẩu từ Đài Loan và các nước ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia, Philippin và từ
Trung Quốc những năm gần đây, trong khi các sản phẩm giá cao được nhập từ
các nước châu Âu và Mỹ. Đồ dùng gia đình của Việt Nam, trong đó có đồ gỗ
xuất sang Nhật Bản hàng năm khoảng 58-60 triệu USD, chiếm chưa đến 2% kim
ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Nhật Bản. Với lợi thế về nhân công rẻ và tay
nghề cao trong việc xử lý gỗ, và tận dụng được nguồn gỗ cung cấp từ Lào và
Trang 58
Campuchia, Việt Nam trong những năm tới sẽ có khả năng tăng nhanh được kim
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Mục tiêu đặt ra cho mặt hàng này là 300 triệu
USD năm 2005 và tiến tới 500 triệu USD năm 2010.
II.Các giải pháp
1.Về phía Nhà nước
1.1 Nhóm giải pháp phát triển quan hệ Thương mại Việt Nam-Nhật Bản
*. Định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có
hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững
Như đã biết, cơ cấu hàng hoá trao đổi của nước ta trong buôn bán với Nhật
Bản hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù nó phản ánh giai đoạn phát
triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh về tài nguyên
và lao động. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô như nguyên
liệu. Đặc biệt, dầu thô chiếm 35% KNXK Việt-Nhật, ngoài ra là hàng có mức dộ
gia công chế biến thấp-sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều
lao động (như hàng thủy, hải sản trên 19%, may mặc 21%, còn lại 25% là than,
cà phê, gỗ...). Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có những mặt hàng chế biến sâu
và tinh để xuất khẩu sang Nhật Bản.
Một cơ cấu xuất khẩu như trên, trước mắt có thể trong giai đoạn ngắn từ 3-
5 năm hoặc tối đa là 7 năm tới còn có thể chấp nhận được, song nếu kéo dài hơn
sẽ gây bất lợi cho phía Việt Nam. Những thặng dư thương mại nhờ xuất siêu
hoặc ít nhất là sự chênh lệch cán cân thương mại Việt Nam đã giữ được ở mức
tương đối thấp như hiện nay nếu xét thực chất không phải là phán ánh sự phồn
vinh của nền kinh tế, cũng như thế mạnh trong buôn bán với Nhật Bản nói riêng
và thế giới nói chung mà nó bộc lộ tính chất kém phát triển của một nền kinh tế
sống dựa vào bán rẻ tài nguyên và lao động. Như vậy, Việt Nam sẽ luôn luôn
thiệt thòi về giá trị xuất khẩu thu được trong khi lại phải trả giá cao cho việc
nhập khẩu các thiết bị cao cấp từ bên ngoài.
Vấn đề đặt ra là cùng với việc phải chấp nhận một cơ cấu xuất khẩu như
Trang 59
vậy, song để rút ngắn sự “trả giá” do phải thua thiệt vì một cơ cấu xuất khẩu
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
“bán rẻ các nguồn tài nguyên thiên nhiên” thì ngay từ bây giờ người ta phải tận
dụng các nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu, kêu gọi vốn đầu tư nước
ngoài... để nhập khẩu các máy móc, thiết bị, kỹ thuật mới, dây chuyền công nghệ
hiện đại. Động thái này nhằm phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế tạo,
chế biến, kịp thời cho việc sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm xuất khẩu. Chẳng
hạn như thay dần cho việc xuất nhiều dầu thô, trong khi đó ta lại phải nhập khẩu
một lượng lớn xăng, dầu đã qua chế biến sâu của Nhật bằng cách nhập khẩu các
máy móc thiết bị kỹ thuật mới, dây chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản
hoặc của các nước phát triển khác để từ đó phát triển các nhà máy lọc dầu. Từ
đó, không những ta có đủ lượng dầu tinh dùng cho nhu cầu nội địa mà còn dư
thừa cho xuất khẩu. Với các mặt hàng thô nông lâm sản như gạo, ngũ cốc khác,
thủy hải sản...cũng vậy, phải tiến tới sản xuất để xuất khẩu các sản phẩm đó sau
khi đã qua công nghệ chế biến thực phẩm, do đó sẽ thu được giá trị xuất khẩu
cao hơn...
Ngoài ra, ta có thể tận dụng lợi thế so sánh của đất nước về nguồn lực phát
triển các loại hình xuất khẩu vô hình trong quan hệ thương mại với Nhật Bản
như: dịch vụ sản xuất gia công tái chế, lắp ráp hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu
hàng hoá, chuyển khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ khác như: du lịch, vận tải, bảo
hiểm, ngận hàng, xuất khẩu lao động, thông tin, quảng cáo...
1.1.2 Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách, cơ chế quản lý
ngoại thương Việt Nam theo hướng năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, thị
trường Nhật Bản và lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam
*. Cải thiện môi trường kinh doanh
Phải thừa nhận rằng, kể từ đầu thập niên 90 đến nay về phía Việt Nam
chúng ta đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống các chính sách kinh tế, cơ
chế quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu nhằm nhanh chóng tháo gỡ những ảnh
hưởng ràng buộc, ách tắc phi lý của cơ chế độc quyền quản lý Nhà nước về
Trang 60
ngoại thương trước đây. Cơ chế này không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
trường Việt Nam hiện nay, cho dù vẫn biết nền kinh tế thị trường đó còn đang ở
những bước khởi đầu của sự phát triển. Sự đổi mới, hoàn thiện này là một đòi
hỏi tất yếu không chỉ từ ý thức chủ quan của chúng ta là muốn cho hoạt động
ngoại thương được năng động, thông thoáng hơn mà còn do tác động bắt buộc
của các điều kiện khách quan. Đó là: đổi mới phải phù hợp với thông lệ quốc tế
của hệ thống các nền kinh tế thị trường, bạn hàng có quan hệ buôn bán với ta.
Đương nhiên một nguyên tắc cơ bản đặt ra khi thực hiện các điều kiện khách
quan đó là phải phù hợp với việc phát triển một nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở nước ta. Có nghĩa là một nền kinh tế vừa mang lại hiệu quả cao,
vừa bảo đảm các lợi ích chính trị-xã hội của đất nước ta đang trong quá trình tiến
lên CNXH. Đã có đến hàng trăm các loại văn bản của các cấp quản lý liên quan
khác trong lĩnh vực hoạt động thương mại. Các quy định này sửa đổi và không
ngừng hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo xu
hướng ngày càng thông thoáng hơn, phù hợp hơn. Các thành phần kinh tế trong,
ngoài nước được khuyến khích, tự do, bình đẳng thực hiện các hoạt động đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng luật định của Nhà nước
Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương. Những nỗ
lực đó có thể nói đã là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra động lực trực
tiếp thúc đẩy hoạt động ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất
khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản nói riêng trong thời gian vừa qua.
Chúng duy trì sự tăng trưởng khả quan liên tục, cho dù hai năm 1997-1998 Việt
Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ khu vực và suy thoái kinh tế Nhật Bản.
Tuy nhiên, nghiêm túc nhìn nhận như đã đề cập đến, riêng trong quan hệ
thương mại giữa nước ta với Nhật Bản, vẫn còn sự tồn đọng khá nhiều hạn chế,
bất cập. Tác động xấu này cản trở tiềm năng và nhu cầu phát triển thực tiễn của
cả hai nước. Trong đó, chúng ta thấy có những hạn chế, bất cập thuộc về hệ
Trang 61
thống các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý ngoại thương của Việt Nam. Mặc
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
dù đã được sửa đổi nhiều lần song hệ thống này vẫn chứa đựng những nhược
điểm mà chúng ta cần phải kiên quyết hoàn thiện. Chính vì thế, xuất phát từ quá
trình nghiên cứu làm rõ thực trạng khó khăn, ách tắc còn tồn đọng trong quan hệ
xuất nhập khẩu của Việt Nam và Nhật Bản; qua nhiều buổi hội thảo, tọa đàm
khoa học, cũng như khi có điều kiện trực tiếp nghiên cứu khảo sát thực tiễn về
chủ đề này tại Nhật Bản, chúng ta thấy rằng: để quan hệ xuất nhập khẩu nói
chung, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng sang Nhật Bản tiếp tục phát
triển có hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản cần có
phối hợp chặt chẽ trong việc nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, ách tắc
trong các hoạt động buôn bán giữa hai nước. Riêng về phía Việt Nam, chúng ta
phải có những chính sách, biện pháp thích hợp cải thiện môi trường kinh doanh ở
Việt Nam cho năng động, thông thoáng hơn để hấp dẫn hơn nữa trong việc thu
hút các nhà đầu tư và các bạn hàng Nhật Bản vào làm ăn, buôn bán với ta. Đồng
thời, chúng ta phải tìm biện pháp chủ động biến tiềm năng còn rất lớn của thị
trường Nhật Bản trở thành hiện thực có ích đối với Việt Nam. Đương nhiên, để
đáp lại những cố gắng của phía Việt Nam đòi hỏi phía Nhật Bản cũng phải có sự
nỗ lực hợp tác với Việt Nam hơn nữa trong việc nhanh chóng tháo gỡ những khó
khăn, ách tắc còn tồn đọng về phía Nhật Bản.
Chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp hữu hiệu làm giảm tệ nạn
quan liêu giấy tờ, quan tâm và hỗ trợ nhiều hơn nữa cho các doanh nghiệp Nhật
Bản đang kinh doanh tại Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam nên ban hành những chính sách khuyến khích các
công ty Nhật chuyển cơ sở sản xuất và kinh doanh của mình sang Việt Nam.
Những chính sách này phải rõ ràng, quy định cụ thể ngành công nghiệp nào của
Việt Nam, mà các công ty Nhật nên và có thể đầu tư với những điều kiện cụ thể
như hiện nay.
Việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu Việt-Nhật là điều mà Chính phủ Việt
Trang 62
Nam đặc biệt quan tâm. Muốn vậy Việt Nam cần phải hạn chế xuất khẩu các
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
nguyên liệu thô và thực phẩm chưa qua chế biến mà Nhật Bản là thị trường nhập
khẩu chủ yếu. Để tăng nhanh khối lượng hàng hoá đã qua chế biến sang Nhật,
cách tốt nhất là Chính phủ Việt Nam nên đưa ra các chính sách tích cực, khuyến
khích sự tham gia của các hãng Nhật Bản trong quá trình sản xuất hàng xuất
khẩu tại Việt Nam.
Việt Nam cần phải ban hành những chính sách cụ thể và tích cực hơn, lôi
cuốn các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia tích cực vào công nghiệp khai thác, chế
biến và công nghiệp may. Đây là những ngành công nghiệp mà sản phẩm của
chúng chủ yếu được xuất sang thị trường Nhật Bản. Sự tham gia của họ không
những đảm bảo cho sự có mặt của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
mà còn giúp cho Việt Nam khai thác có hiệu quả những tiềm năng sẵn có của
mình.
Chính phủ Việt Nam nên có kế hoạch cụ thể cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ
tầng của ngành thương mại tương xứng với tầm cỡ quốc tế, bảo đảm cho hoạt
động buôn bán của Việt Nam với thế giới ngày càng phát triển. Chỉ có khi đó các
doanh nghiệp Nhật Bản mới hết phàn nàn về việc giao hàng không đúng tiến độ,
thiết bị vận chuyển, kho tàng... không đủ tiêu chuẩn quốc tế. Vấn đề này được
tháo gỡ, thị trường Việt Nam sẽ thu hút được sự quan tâm hơn nữa của các
doanh nghiệp Nhật Bản.
Một khi những tồn tại trên đây được giải quyết-môi trường kinh doanh của
Việt Nam mới trở nên hấp dẫn với các công ty Nhật Bản thì khi đó chẳng có lý
do gì khiến họ phải vội vã đi khỏi thị trường hay buộc họ phải ở lại vì mục đích
đòi nợ chứ không phải hoạt động kinh doanh mà ngược lại có thể họ còn muốn ở
lại lâu hơn thời gian dự định.
Chỉ khi nào tệ quan liêu giấy tờ hạn chế quan hệ song phương bị đẩy lùi,
Việt Nam mới thực sự trở thành môi trường kinh doanh lý tưởng cho các doanh
nghiệp Nhật Bản. Lúc đó triển vọng thị trường Việt Nam đối với Nhật Bản sẽ là
Trang 63
hiện thực.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
*. Khai thác tốt hơn thị trường Nhật Bản
Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt Nam cần căn cứ
vào sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản và vai trò của nó trong khu vực
Đông Nam Á, Châu Á -Thái Bình Dương. Nói cụ thể hơn, chúng ta cần có một
chính sách công nghiệp và thương mại coi thị trường Nhật Bản như một trong
những hướng xuất khẩu quan trọng nhất.
Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện nay thị trường Nhật Bản
vẫn được coi là thị trường có mức độ bảo hộ cao. Sự bảo hộ này có thể là dưới
hình thức phi thuế quan. Vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có một
ảnh hưởng rất lớn đến các nước khác trong khu vực.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, tạo cho họ
nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản. Kinh
nghiệm của chính Nhật Bản và các nền kinh tế xuất khẩu thành công như Hàn
Quốc về phương diện này là rất đáng chú ý.
Các doanh nghiệp có thể lựa chọn các chiến lược thâm nhập thị trường sau:
(cid:31) Xuất khẩu
(cid:31) Liên doanh
(cid:31) Đầu tư trực tiếp
Mỗi cách thâm nhập thị trường trên đây có ưu thế và những hạn chế riêng.
Xuất khẩu là con đường thâm nhập thị trường chính hiện nay của các doanh
nghiệp Việt Nam. Hình thức này thích hợp với thời kỳ đầu, khi quy mô buôn bán
còn nhỏ bé và các mặt hàng còn phân tán nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các
nhà xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường Nhật Bản.
Vì thế cần áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp
chưa phải là hướng chính trong thời gian trước mắt, nhưng chí ít nó cũng cần
Trang 64
thiết trong một số lĩnh vực như các cơ sở tiếp thị và dịch vụ.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Liên doanh có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như sử dụng giấy phép
sử dụng nhãn mác hàng hoá. Kinh nghiệm Đài Loan trong lĩnh vực này là rất
đáng chú ý. Các nhà xuất khẩu Đài Loan đã đưa hàng hoá của mình ra thị trường
thế giới dưới danh hiệu của nhiều công ty nổi tiếng nước ngoài.
Cần tính đến một xu hướng đang là vấn đề thời sự, đó là sự gia tăng buôn
bán nội bộ công ty và tái xuất của các doanh nghiệp Nhật Bản để triển khai các
hình thức liên doanh cũng như tham gia trực tiếp vào mạng lưới phân công lao
động quốc tế. Nếu không liên doanh rất khó thâm nhập vào thị trường. Hình thức
này không chỉ giúp cho sự gia tăng xuất khẩu sang Nhật mà còn sang các thị
trường khác mà các công ty Nhật Bản đang có mặt.
Tham gia các thể chế thương mại toàn cầu và khu vực (WTO, APEC...) để
được hưởng các quy chế tối huệ quốc và những ưu đãi dành cho các nước đang
phát triển trong buôn bán quốc tế.
Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách và biện pháp thích hợp để
kết hợp lợi thế so sánh của thương mại và đầu tư. Việc kết hợp giữa hai lĩnh vực
kinh tế là cực kỳ quan trọng, đỏi hỏi phải có sự thận trọng, nếu gắn đồng bộ sẽ
thu được kết quả như mong muốn, ngược lại là gắn không đồng bộ thì không
những không thu được kết quả mà còn phải giải quyết hậu qủa.
Hiện nay, Việt Nam vừa là thị trường tiêu thụ hàng hoá vừa là đối tượng
cần sự việc trợ kinh tế của Nhật Bản. Nhật Bản có thể đầu tư vốn vào Việt Nam
trong các lĩnh vực xây dựng kết cầu kỹ thuật hạ tầng và công nghệ. Đồng thời
bằng việc khai thác nguồn tài nguyên phong phú của mình, Việt Nam có thể
cung cấp cho Nhật Bản các nguyên liệu và sản phẩm cần thiết.
Quan hệ xuất nhập khẩu Việt-Nhật đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn
liền với những chuyển biến kinh tế của hai nước. Triển vọng của các quan hệ này
phụ thuộc vào đường lối, chính sách tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp Nhật Bản
Trang 65
vào thị trường Việt Nam và những định hướng dài hạn trong chính sách thị
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
trường, những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt
Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản.
*. Hợp tác Việt-Nhật
Việt Nam và Nhật Bản cần có trao đổi, bàn bạc cụ thể trong khuôn khổ
song phương để đi đến ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước, trong đó
Nhật Bản dành cho Việt Nam quy chế MFN đầy đủ. Vấn đề này đã được nêu tại
hội nghị lần thứ nhất Nhóm công tác Việt Nam-Nhật Bản vào giữa tháng 9 năm
1999, tuy nhiên phía Nhật Bản có ý chưa nhiệt tình đáp ứng. Hiệp định này được
ký kết sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho quan hệ thương mại hai nước phát triển
hơn nữa.
Tăng cường trao đổi, thu thập và phổ biến các thông tin về thị trường nước
ngoài. Đối với thị trường Nhật Bản, các thông tin có liên quan đến phương thức
phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng đối hàng công nghiệp (hệ
thống JIS, hàng nông nghiệp và thực phẩm (hệ thống JAS) và chứng nhận về bảo
vệ sinh thái (dấu Ecomark), có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định việc đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hóa , đặc biệt là hàng nông sản và thực phẩm mà Việt Nam
đang có thế mạnh, vào thị trường có đòi hỏi cao như Nhật Bản. Hàng hóa đáp
ứng được tiêu chuẩn JIS và JAS sẽ dễ tiêu thụ hơn trên thị trường Nhật Bản bởi
người tiêu dùng rất tin tưởng những sản phẩm được đóng JIS hoặc JAS.
Các doanh nghiệp phải được tạo điều kiện nắm bắt thông tin, tìm hiểu,
khảo sát thị trường Nhật Bản. Việc tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các doanh
nghiệp Việt Nam và Nhật Bản thông qua các cuộc triển lãm, gặp gỡ trực tiếp là
hết sức quan trọng. Cũng cần có các cơ quan đảm trách hoặc phối hợp với các cơ
quan chức năng của Nhật Bản trong việc hướng dẫn các tiêu chuẩn kỹ thuật,
phẩm chất hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản. Chẳng hạn, hiện có Công ty
OMIC, một trong những công ty lớn về kiểm tra chất lượng hàng nông sản của
Nhật đang có mặt tại Việt Nam kiểm tra tiêu chuẩn, phẩm chất gạo xuất khẩu
Trang 66
sang Nhật.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Việt Nam nên đề nghị phía Nhật Bản hợp tác và sớm cử chuyên gia kiểm
dịch động thực vật sang Việt Nam để cùng phía Việt Nam kiểm tra các sản phẩm
nông sản Việt Nam đang bị phía Nhật Bản cấm đưa vào Nhật; xác định và công
bố những mặt hàng đã đủ tiêu chuẩn đưa vào Nhật để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp hai nước mua bán các mặt hàng này. Ngoài ra, phía Nhật cần xem
xét, cho áp dụng chế độ xác nhận về chất lượng của thực phẩm nhập khẩu vào
Nhật Bản đối với một số nhà sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam đáp ứng được
tiêu chuẩn của Nhật, tao điều kiện cho việc thông quan, giảm chi phí lưu kho tại
Nhật Bản và tiêu thụ các mặt hàng này dễ dàng hơn.
Trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, phía Nhà nước Việt Nam cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn
đầu tư của Nhật Bản vì các nhà đầu tư Nhật Bản khi chuyển sang sản xuất tại
Việt Nam sẽ xuất khẩu trở lại Nhật Bản một phần, hoặc có thể toàn bộ sản phẩm
của nhà máy của họ tại Việt Nam. Hoạt động này góp phần nâng cao kim ngạch
hàng hóa sản xuất tại Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Đặc biệt, các nhà
đầu tư Nhật Bản cũng rất quan tâm đến sự kiện vừa qua, ngày 13/7/2000, Việt
Nam đã lý Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ. Vì, đây sẽ là cơ hội cho
các cơ sở đầu tư của họ tại Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hóa không chỉ sang
Nhật Bản mà còn sang Mỹ và một số nước khác, giúp cho việc tăng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam nói chung.
Về gạo, mấy năm qua Nhật Bản đã bắt đầu mở cửa thị trường gạo và đã
chấp nhận mua gạo của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan. Chúng ta nên đề nghị Chính
phủ Nhật có chính sách công bằng hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho gạo Việt
Nam (gạo gia công, gạo nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm) bán vào thị
trường Nhật; yêu cầu Chính phủ Nhật khuyến khích tư nhân chuyển giao công
nghệ gì cho một số nước khác trong khu vực thì cũng chuyển giao công nghệ đó
cho Việt Nam.
Trang 67
1.2 Các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
1.2.1 Nhóm các biện pháp hành chính
Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố hoạt động các
văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng
xuất khẩu của Việt Nam. Tới nay, Việt Nam vẫn hay phó thác việc này cho các
tham tán thương mại tại Sứ quán của mình ở nước ngoài. Tuy nhiên, những tham
tán thương mại lại thường chú trọng tới các vấn đề thương mại song phương ở
cấp Chính phủ hoặc chỉ đơn thuần đưa ra các giải pháp chung chung.
Bản thân các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam ít chịu bỏ
tiền hoặc không có khả năng bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm
dò thị trường hay tổ chức các cuộc hội thảo ngoài nước để khuyếch trương sản
phẩm của mình. Đây là những hoạt động mà các hãng nước ngoài đang thực hiện
rầm rộ tại Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam phải đẩy mạnh hoạt động của văn
phòng xúc tiến thương mại. Đây là việc làm cấp bách đối với Việt Nam trong
tình hình hiện nay. Những văn phòng này sẽ đứng ra tổ chức và đài thọ phần
kinh phí những chuyến đi nghiên cứu thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt
Nam và các tổ chức trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại Nhật.
Chính phủ Việt Nam nên tổ chức những chương trình đào tạo chuyên sâu
về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thương mại của các công
ty Việt Nam có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là nâng
cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ thương mại Việt Nam để họ có thể đưa
ra những quyết định sáng suốt, kịp thời và rút ngắn được thời gian quá dài không
cần thiết của các cuộc thương lượng. Chính sự chậm trễ này làm cho nhiều cơ
hội “làm ăn” bị bỏ lỡ.
Nhà nước cần thành lập Đại diện các công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu
Việt Nam tại Tokyo do Bộ Thương mại trực tiếp chỉ đạo thông qua nghiệp vụ
kinh doanh ngay trên thị trường Nhật; cơ quan đại diện sẽ là đơn vị cùng với
Trang 68
Thương vụ cung cấp các thông tin kinh tế thương mại, đặc biệt là những thông
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
tin về nghiệp vụ kinh doanh cho Bộ cũng như các công ty và các tổ chức xuất
nhập khẩu trong nước.
1.2.2 Nhóm các biện pháp kinh tế
- Thanh toán nợ thương mại
Chính phủ Việt Nam phải có những chính sách và biện pháp tích cực để
giải quyết các khoản nợ mà các công ty Việt Nam mua chưa trả. Nhiều công ty
Nhật Bản bán hàng cho Việt Nam nhưng không thu được tiền. Chính phủ Việt
Nam phải có trách nhiệm đứng ra đảm bảo lợi ích cho họ thì họ mới có thể tiếp
tục kinh doanh ở Việt Nam, không nên để tình trạng như hiện nay: “Một công ty
duy trì văn phòng tại Việt Nam chủ yếu là để thu tiền nợ hơn là để tìm kiếm các
hợp đồng mới”. Có một số công ty Nhật đã đề nghị được gia hạn giấy phép hoạt
động của văn phòng một phần với lý do là để theo đuổi các món nợ mà khách
mua Việt Nam chưa trả. Thu hút các công ty Nhật vào thị trường Việt Nam đã
khó nhưng giữ chân được họ ở lại còn khó hơn rất nhiều và đây là điều mà Chính
phủ Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn nữa.
- Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp trực tiếp có thể là những khoản chi của chính phủ, hay những
khoản đóng góp của chính phủ cho các nhà sản xuất hay xuất khẩu trong nước để
họ xuất khẩu hàng hóa hay dịch vụ. Chính phủ có thể áp dụng thuế suất ưu đãi
đối với hàng hóa xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với nhà xuất khẩu để sản
xuất hàng xuất khẩu, cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi cho các
đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất
khẩu. Hoặc chính phủ có thể dùng ngân sách nhà nước để giới thiệu, triển lãm,
quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu, hoặc nhà nước giúp
đỡ kỹ thuật, đào tạo chuyên gia.
- Đảm bảo và cấp tín dụng
Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc
Trang 69
bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hóa với lãi suất ưu đãi
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi
ro (do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị) dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp
đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng bằng cách bán
chịu, quĩ bảo hiểm của nhà nước đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Tỷ lệ
đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường tỷ lệ đền bù chỉ 60-70%
khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh
toán của nhà nhập khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời
hạn tín dụng.
Nhà nước đứng ra bảo đảm tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất
khẩu, còn nâng được giá bán hàng vì giá bán chịu còn bao gồm cả giá bán trả
tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức.
Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu thông qua hình thức trực tiếp
cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua
hàng của nước cho vay. Hình thức này có tác dụng giúp doanh nghiệp đẩy mạnh
được xuất khẩu vì có sẵn thị trường và giải quyết được tình trạng dư thừa hàng
hoá ở trong nước. Nhà nước cũng có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất
khẩu trong nước. Theo đó nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể
thiếu được việc cấp tín dụng của chính phủ theo những điều kiền ưu đãi. Điều đó
giảm được các chi phí xuất khẩu. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương
trình xuất khẩu bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi
giao hàng.
2. Về phía doanh nghiệp Việt Nam
Nhiều công ty nước ngoài đã nắm bắt được nét đặc trưng của xã hội Nhật
Bản và những đặc điểm nổi bật của thị trường này. Các công ty này cũng rất am
hiểu các xu hướng tiêu dùng của người Nhật cũng như các quy định và bộ luật
liên quan của Nhật Bản. Cùng với kiến thức của mình, họ đã thành công ở thị
Trang 70
trường Nhật Bản. Sau đây là một số ý kiến quan trọng giúp tìm ra con đường đi
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
tới thành công, được đúc kết bởi rất nhiều các Công ty nước ngoài đã thành công
trên đất Nhật Bản.
2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm
Đối với các loại sản phẩm, người tiêu dùng và người sử dụng Nhật Bản
đòi hỏi cao về nhiều tiêu chuẩn. Có một số công ty nước ngoài phàn nàn là
những tiêu chuẩn người Nhật đề ra là quá cao và việc đáp ứng được những tiêu
chuẩn và những yêu cầu đó là không thể được vì quá tốn kém. Tuy nhiên những
công ty nước ngoài đã thành công ở Nhật đều nhận ra rằng người Nhật không
bao giờ bỏ qua mặt chất lượng. Các công ty này nhận về mình trách nhiệm phải
đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và độ an toàn của hàng
hóa đối với người tiêu dùng Nhật Bản.
Sự thật là một sản phẩm độc đáo tất nhiên sẽ hấp dẫn khách hàng. Nhưng
khách hàng sẽ còn bị cuốn hút hơn khi công ty đó và sản phẩm của nó độc đáo,
khác biệt với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Để có được tính độc đáo của
sản phẩm cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị, trình độ công nghệ,
nghiên cứu và phát triển. Điều chủ yếu là phải tạo được sự khác biệt giữa Công
ty mình và các đối thủ cạnh tranh, bí quyết ở đây chính là tính sáng tạo. Do vậy
nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là yếu tố quan trọng hàng đầu và bắt buộc,
để các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, muốn vậy
doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp sau đây:
- Đầu tư đổi mới thiết bị xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm và lắp đặt dây chuyền
công nghệ mới.
- Đổi mới công tác quản lý sản xuất, kinh doanh theo hướng có hiệu quả, đặc
biệt chú trọng chất lượng từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và dịch vụ sau bán
hàng.
- Nỗ lực để được nhận chứng chỉ của Hệ thống quản lý Chất lượng theo tiêu
Trang 71
chuẩn Quốc tế ISO 9000
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
- Đầu tư chiều sâu về vốn, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới,
thị trường mới
- Tích cực tham gia vào phong trào chất lượng Việt Nam, các hội chợ chất lượng
Quốc tế.
2.2 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường
2.2.1 Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường
Để đẩy mạnh việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường,
đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ. Hệ thống tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường
của nước ta cần phải được hoàn thiện theo các hướng sau đây:
Đối với nhóm các tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh, cụ thể là
các tiêu chuẩn về chất lượng đất, nước cần phải bổ sung các tiêu chuẩn phân loại
đất và nước theo mục đích, yêu cầu sử dụng, trên cơ sở đó xây dựng mới hoặc
soát xét lại các tiêu chuẩn chất lượng đất, nước theo phân loại đã được tiêu
chuẩn hoá.
Đổi mới các tiêu chuẩn về thải, chúng ta cần soát xét các tiêu chuẩn khí
thải hoặc nước thải chung cho tất cả các ngành công nghiệp như: nhiệt, điện, dệt,
nhuộm, xi măng, phân bón, hoá chất, luyện kim, chế biến thực phẩm. Chính phủ
cần quy định các tiêu chuẩn khác nhau đối với mỗi loại chất ô nhiễm nào đó để
có thể áp dụng cho từng loại vùng thích hợp, đặc biệt là những khu vực có nguy
cơ ô nhiễm cao. Mặt khác, các tiêu chuẩn về tổng thải cho một số khu vực quá
tải ô nhiễm cần phải được thiết lập, trên cơ sở đó quy định các tổng lượng thải
cho các nguồn thải trong khu vực đó. Đối với chất thải rắn của các ngành công
nghiệp và dịch vụ, Chính phủ cần phải xây dựng các tiêu chuẩn quy định phương
pháp, phương tiện, thiết bị nhằm thiêu, đốt, chôn, lấp, hoặc tái sử dụng.
Đối với các tiêu chuẩn về phương pháp thử, mặc dù hiện nay các TCVN
về phương pháp thử chiếm 75% số TCVN về môi trường song thời gian tới
Chính phủ cần phải bổ sung nhiều phương pháp thử các chất ô nhiễm của khí
Trang 72
thải công nghiệp, phương pháp đo ồn, rung, phương pháp thử một chất ô nhiễm
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
trong nước thải công nghiệp, một số loại dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật trong
đất.
Đối với một số lĩnh vực bảo vệ môi trường như hệ sinh thái, bảo vệ biển,
khai thác khoáng sản, Chính phủ cần phải xây dựng các tiêu chuẩn về phương
pháp đánh bắt, khai thác nguồn lợi sinh vật, thủy hải sản, sử dụng đất, nhằm đảm
bảo cân bằng sinh thái, chống suy thoái môi trường. Các tiêu chuẩn cho sản
phẩm, quá trình phải được bổ xung nhằm khuyến khích việc sử dụng các sản
phẩm này như các tiêu chuẩn xăng không pha chì, các thiết bị làm lạnh hay điều
hoà không khí không sử dụng các chất có thể gây tác hại cho tầng ô zôn...
Nhà nước cần tăng cường việc phổ biến, hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho các cơ sở sản xuất,
kinh doanh cho mọi người dân, đồng thời cần dựa vào các tiêu chuẩn để đánh giá
tác động môi trường, đẩy mạnh việc kiểm tra, xử lý các vi phạm đối với tiêu
chuẩn môi trường.
2.2.2 Đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn Quốc tế về vệ sinh và môi trường
Nhà nước cần tuyên truyền, quảng bá để các doanh nghiệp Việt Nam thấy
được sức ép của vấn đề môi trường đến kinh doanh và lợi ích của doanh nghiệp,
thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ làm công tác xuất nhập khẩu ở các
doanh nghiệp về Ecomark để họ hiểu đúng, hiểu rõ hơn tầm quan trọng của yếu
tố môi trường trong chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Các cơ quan hữu quan cần
đẩy mạnh công tác chứng nhận đạt tiêu chuẩn về môi trường theo Hệ thống quản
lý môi trường ISO 14000; đạt tiêu chuẩn chất lượng thực phẩm HACCP, dược
phẩm GMP và SQF 2000.
2.3 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Mặc dù bản thân các doanh nghiệp cũng dần thấy được tầm quan trọng
của quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại và đang nỗ lực để bảo vệ
nó. Song hiện nay, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng giả, xâm phạm quyền
Trang 73
sở hữu trí tuệ (trong đó có các đối tượng SHCN) có xu hướng gia tăng; nhất là
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, nguồn gốc xuất xứ hàng
hóa, chỉ dẫn địa lý và bản quyền tác giả...
Đặc biệt tình trạng hàng giả xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ nhập khẩu từ
nước ngoài vào nước ta diễn ra bằng nhiều phương thức và thủ đoạn tinh vi, dưới
mọi hình thức: nhập tiêu ngạch, nhập lậu và cả hàng hóa nhập chính ngạch.
Hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đưa qua biên giới sau đó được nhập khẩu
quay trở lại Việt Nam như hàng nhập khẩu. Hàng hóa được làm giả theo nhãn
hiệu tương tự hoặc trùng nhãn hiệu nổi tiếng nước ngoài nhằm đánh lừa người
tiêu dùng trong nước. Hành vi xâm phạm quyền SHCN thường xảy ra đối với
các mặt hàng mới xuất hiện, được sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng, trong
khi đó các doanh nghiệp có liên quan thường chưa kịp “trở tay”.
Điều quan ngại hơn cả là hàng giả xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xuất
hiện cả trong những trung tâm thương mại và siêu thị tại các thành phố lớn, gồm
nhiều ngành hàng, mặt hàng khác nhau: từ những mặt hàng công nghệ sản xuất
đơn giản, giá trị thấp (như chai tương ớt...), đến những mặt hàng có giá trị cao
(như đầu video, tủ lạnh, ti vi, xe máy...).
Những hành vi vi phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm quyền
SHCN đã được các cơ quan thực thi pháp luật tăng cường kiểm tra, xử lý, nhưng
chưa có biện pháp ngăn chặn một cách hiệu quả. Tình trạng này tác động xấu
đến môi trường cạnh tranh, đầu tư trong nước cũng như quyền lợi hợp pháp của
các nhà sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh, thiệt hại tới lợi ích của người tiêu
dùng. Chỉ tính riêng trong 3 năm từ 1999 đến 2001, lực lượng quản lý thị trường
cả nước đã kiểm tra phát hiện và xử lý 9307 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả,
trong đó hơn 50% số vụ liên quan đến SHCN, chủ yếu là các vi phạm về nhãn
hiệu, kiểu dáng công nghiệp.
So với thực tế, kết quả này còn rất hạn chế, có thể vì đây chỉ là phần nổi
của “tảng băng chìm”. Hàng giả lưu thông trên thị trường rất khó kiểm soát nhất
Trang 74
là các loại hàng giả nhập khẩu từ nước ngoài. Bản thân hoạt động kiểm tra mới
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
chỉ dừng ở việc xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển hàng nhập lậu, hành vi kinh
doanh trái pháp luật; chưa xử lý hành vi vi phạm về SHCN. Như khi kiểm tra
băng đĩa hình, chỉ xử lý vi phạm về tem, nhãn băng, đĩa ngoài luồng, sang băng
đĩa trái phép... không xử lý những vi phạm về các lĩnh vực SHCN và bản quyền.
Một thực tế là rất nhiều hàng giả xâm phạm quyền SHCN có địa chỉ,
nguồn gốc xuất sứ không rõ ràng lưu thông trên thị trường, hoặc các loại hàng
làm giả nhãn hiệu của các nhà sản xuất nước ngoài được sản xuất trong nước
hoặc nhập từ nước ngoài. Vì nhiều nguyên nhân mà hầu hết các hành vi sản xuất,
kinh doanh các loại hàng giả này lại không bị khiếu nại bởi chủ sở hữu, nhưng
nếu không có biện pháp xử lý và ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng xấu đến thị
trường trong nước, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và uy tín của doanh nghiệp
có hàng bị làm giả. Các cơ quan thực thi chưa chủ động trong việc kiểm tra, xử
lý đối với hàng giả về SHCN hoặc thông báo cho các doanh nghiệp có hàng bị
làm giả biết. Nguyên nhân của tình trạng này là do chưa có quy định hay hướng
dẫn cụ thể trong trường hợp nào thì cơ quan thực thi có quyền chủ động kiểm tra,
xử lý và trong trường hợp nào thì có trách nhiệm thông báo yêu cầu đối với các
doanh nghiệp có hàng bị làm giả.
Như đã đề cập ở trên, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành
quốc nạn. Vấn đề bức xúc hiện nay là chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ thẩm
quyền kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN của các cơ quan thực thi
các cấp nên có tình trạng kiểm tra, xử lý tràn lan, tuỳ tiện, gây tác động xấu tới
thị trường hoặc kiểm tra, xử lý không nghiêm minh, không triệt để, gặp đâu làm
đấy... Nên chăng, Nhà nước cần thực hiện chính sách “một cửa” trong việc giải
quyết khiếu nại xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, thành lập một bộ phận thường
trực chuyên tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tùy theo tính chất từng vụ việc, bộ
phận này có thể giao cho các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ khác nhau
Trang 75
giải quyết.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Ngay cả các doanh nghiệp là chủ sở hữu các đối tượng SHCN cũng nhận
thức không đầy đủ vai trò quan trọng của mình trong công tác đấu tranh chống
hàng giả xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vì quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín và
thị phần của doanh nghiệp. Mới có một số ít doanh nghiệp chủ động hành động,
phối hợp với cơ quan chức năng trong việc chống hàng giả, xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Còn hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm, hoặc có tình
trạng dù biết sản phẩm của mình bị làm giả nhưng “ngại” thông tin, tuyên truyền
vì sợ ảnh hưởng tới doanh thu; xem công tác chống hàng giả là chức năng và
trách nhiệm của các cơ quan thực thi pháp luật nhà nước. Hơn nữa, các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những hoạt động tích cực trong việc hợp
tác để đấu tranh chống hàng giả, bảo vệ quyền lợi của mình và người tiêu dùng.
Hiện nay việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ là một tiêu chuẩn cơ bản để
tham gia các hoạt động thương mại quốc tế theo các Hiệp định thương mại giữa
các quốc gia cũng như việc tham gia Tổ chức thương mại quốc tế. Các đối tượng
của SHCN ngày càng mở rộng, Nhà nước không chỉ bảo hộ quyền SHCN đối
với các sản phẩm sản xuất trong nước mà còn phải có chính sách rõ ràng đối phó
với hàng hóa, dịch vụ được nhập khẩu từ nước ngoài; bảo hộ SHCN cho các
doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
Từ khi Chính phủ ban hành pháp lệnh về Bảo hộ quyền SHCN năm 1989,
hệ thống pháp luật bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đã có những bước phát triển quan
trọng. Quốc hội đã thông qua Bộ luật Dân sự và Hình sự trong đó có các điều
khoản về bảo hộ Sở hữu trí tuệ và chống hàng giả. Chính phủ cũng đã ban hành
hàng loạt các văn bản về quyền SHCN và quyền tác giả. Tuy nhiên so với yêu
cầu thực tiễn, hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ và chống hàng
giả còn phải tiếp tục được hoàn thiện, nhất là việc thiết lập một cơ chế hoạt động
có hiệu quả, bảo đảm thực thi quyền SHCN và chống hàng giả.
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chúng ta phải từng bước hoàn
Trang 76
chỉnh hệ thống thực thi pháp luật về chống hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
tuệ; cần sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ từ phía các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, người tiêu dùng, các tổ chức đối tác nước
ngoài...Hy vọng trong thời gian tới khi Quốc hội phê chuẩn Luật về Sở hữu trí
tuệ thì những vướng mắc và chồng chéo văn bản như hiện nay sẽ được cởi bỏ.
Đăng ký quyền sở hữu công nghiệp để bảo vệ thương hiệu cho hàng hoá
xuất khẩu cũng quan trọng không kém việc tạo ra một sản phẩm chất lượng tốt,
được người tiêu dùng ưa chuộng. Vì thế, việc thực hiện đồng bộ những biện
pháp trên đây góp phần quan trọng để hàng xuất khẩu Việt Nam có thể đứng
vững trên thị trường Nhật Bản.
2.4 Nắm vững thông tin thị trường và người tiêu dùng Nhật Bản
Tăng cường hiểu biết thị trường, tập quán tiêu dùng, hệ thống phân phối,
quy chế nhập khẩu nhất là đối với hàng thực phẩm tươi sống là vô cùng cần thiết
đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Hàng hóa vào thị trường Nhật qua
nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng thường có giá cả rất
cao so với giá nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chấp nhận thực tế này để chào
hàng cạnh tranh. Tăng cường, chủ động đi khảo sát thị trường, thăm các siêu thị
của Nhật Bản để hiểu thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người Nhật là điều cần
thiết.
Nắm chắc thông tin thị trường một cách thường xuyên, tranh thủ nguồn
thông tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản JETRO. Hiện
nay JETRO có mẫu hướng dẫn tìm bạn hàng bên Nhật, các doanh nghiệp Việt
Nam có thể liên hệ nhờ giúp đỡ. Thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược với
tầm nhìn sâu rộng. Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như:
dung lượng thị trường, các đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, mức giá, giới hạn
thời gian, những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng, những xu
hướng nghiên cứu và phát triển. Trước khi có thể thâm nhập thị trường Nhật
Trang 77
Bản, các công ty phải điều tra nghiên cứu thị trường này.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Doanh nghiệp Việt Nam phải đa dạng hoá sản phẩm, khai thác điểm
mạnh, tính độc đáo của sản phẩm, sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật trong việc cải
tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, quản
lý chất lượng, giảm giá thành v.v.. Hiện nay Nhật Bản đang có chương trình cử
chuyên gia của tổ chức JODC (Japan Overseas Development Corporation) sang
giúp các nước đang phát triển trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng cường
chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ và thiết bị, kinh nghiệm quản lý, nghiên
cứu phát triển sản phẩm và thị trường, phát triển nguồn nhân lực (chương trình
JESA-I) hoặc trong các lĩnh vực cải tiến kỹ thuật, công nghệ, quản lý chất lượng,
hiện đại hoá hệ thống kế toán, tư vấn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industries) bảo vệ môi
trường...(JESA-II). Chương trình JESA-II giành cho các hiệp hội, tổ chức Nhà
nước và tư nhân với toàn bộ chi phí do phía Nhật chịu. Thông tin về chương
trình này có thể tìm hiểu qua Văn phòng Đại diện JETRO hoặc qua Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Bộ phận thị trường Nhật).
Doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tham gia các hội chợ triển lãm quốc
tế giới thiệu hàng hóa sản phẩm của mình với các khách hàng Nhật. Để có thể
thiết lập mối quan hệ kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động
tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại Nhật Bản hoặc mở văn phòng đại diện
tại Nhật để giới thiệu sản phẩm. Trong thời buổi cạnh tranh cao, việc chủ động
tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội
kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Hiện nay, lượng khách du lịch Nhật
Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống
và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng
bán đồ lưu niệm tại những điểm du lịch hoặc cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt
tạo tiếng vang cho sản phẩm.
Do đặc điểm của công việc, chính sách kinh doanh và cách thức thành lập
Trang 78
công ty ở Nhật, việc đưa ra quyết định ở Nhật thường tốn nhiều thời gian hơn so
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
với các nước khác. Việc tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản
là điều không thích hợp. Điều cốt yếu là không được bỏ cuộc giữa chừng, muốn
thành công phải có sự quyết đoán và lòng kiên trì. Trong khi mỗi thị trường trên
thế giới đều có những điểm khác nhau thì đối với thị trường Nhật Bản một điểm
dễ nhận thấy nhất là ta không thể hiểu rõ thị trường này nếu không sống ở đó.
Rất nhiều công ty ở Nhật rất khó khăn trong việc thuyết phục công ty mẹ về
những ý kiến họ đưa ra. Một số cho rằng tình trạng trên là do phải làm việc với
các sếp ở xa, không ở trên đất Nhật. Công ty mẹ cần sớm xem xét thấu đáo việc
giao quyền quyết định cho công ty con hay phía đối tác Nhật Bản trong liên
doanh. Song việc chuyển giao quyền này đến mức nào là một vấn đề quan trọng
để công việc kinh doanh được trôi chảy ở Nhật.
Khi thành lập một công ty con hay một liên doanh để thâm nhập vào thị
trường Nhật, chiến lược quản lý của phía đối tác Nhật Bản sẽ ảnh hưởng sâu sắc
đến hoạt động của công ty. Những hoạt động kinh doanh sau này của phía Nhật
Bản cũng gây ra những ảnh hưởng tương tự. Câu hỏi chính luôn được đặt ra là
liệu có hay không sự tương đồng về triết lý và chủ thuyết kinh doanh giữa hai
bên. Nếu hai bên có sự tương đồng thì việc hợp tác kinh doanh sẽ diễn ra trôi
chảy, nhưng nếu hai bên có sự bất đồng, khác biệt thì cần sớm có sự bàn bạc
(tham khảo ý kiến). Trường hợp này, hai bên cần có những cuộc tranh luận, bàn
bạc tham khảo để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.
Trong ngành công nghiệp sản xuất chế tạo công ty cần phải quan tâm đến
các hoạt động nghiên cứu - phát triển và công nghệ. Rất nhiều công ty khi tham
nhập vào thị trường Nhật đã đầu tư khá nhiều (dành nhiều ngân sách) tiền của và
nguồn nhân lực cho bộ phận nghiên cứu - phát triển (R & D).
Nhiều Công ty nước ngoài thường cho rằng sản phẩm của mình tiêu thụ
được ở thị trường nội địa chẳng có lý gì không bán được ở Nhật. Tuy nhiên,
những sản phẩm và dịch vụ đó không đáp ứng được nhu cầu tại thị trường Nhật
Trang 79
Bản nên kết cục thường thất vọng. Một nhà sản xuất thiết bị gia dụng Mỹ đã thử
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
bán sản phẩm tủ lạnh của mình ở Nhật nhưng không thành công vì tủ lạnh của
công ty này quá to, không phù hợp với nhà ở của người Nhật. Trường hợp khác,
một công ty liên doanh vốn nước ngoài chuyên sản xuất đồ nội thất đã thành
công khi sản xuất ghế sô-pha có gầm thấp sát dưới sàn, phù hợp với thói quen
ngồi dưới sàn nhà của người Nhật. Một quản lý của công ty lý giải: “Sản xuất đồ
nội thất là ngành liên quan mật thiết đến đặc điểm từng khu vực và khách hàng
sống ở khu vực đó” chúng tôi thiết kế và làm ra những sản phẩm mà người tiêu
dùng địa phương mong muốn.
Những Công ty có cơ sở sản xuất và nhà máy ở những vùng xa trung tâm
có thể nhận được những ưu đãi về thuế, trợ giá và những khoản vay lãi nhẹ. Đây
là những biện pháp ưu đãi mà Chính phủ Nhật cũng như các nước khác áp dụng
để khuyến khích phát triển. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có
thể tận dụng những hệ thống cho vay nhẹ lãi điều hành bởi các cơ quan tài chính
của Chính phủ.
Tóm lại, Nhật Bản là thị trường có mức bảo hộ cao, người tiêu dùng Nhật
Bản cũng là những khách hàng thuộc vào loại khó tính nhất thế giới. Do đó, nếu
chúng ta không nắm vững những đặc điểm riêng của thị trường này về tập quán,
văn hoá sinh hoạt, tiêu dùng của người dân; lưu thông, phân phối hàng hóa;
chính sách kinh doanh của các công ty Nhật v.v.. mà vội vã xuất khẩu hàng hóa
thì sẽ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam không có
sự lựa chọn khác là phải nghiên cứu, trau dồi kinh nghiệm, học hỏi qua các kênh
Trang 80
thông tin, đầu tư các chuyến đi khảo sát thực tế... để kinh doanh thành công.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
KẾT LUẬN
Quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản trong những năm trở lại đây đã
có bước phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò đầu tàu trong các hoạt động kinh tế đối
ngoại giữa hai nước. Về tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của thương mại
Việt-Nhật cao hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung của ngoại thương
Việt Nam. Điều này góp phần bảo đảm vị trí hàng đầu của Nhật trong quan hệ
thương mại với Việt Nam. Trên thực tế cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp
nhận hàng hóa của Việt Nam và triển vọng tương lai sẽ còn gia tăng hơn nữa.
Đồng thời, Nhật cũng ngày càng là thị trường nhập khẩu quan trọng của Việt
Nam, nhất là với những thiết bị hàng hóa phục vụ cho nhu cầu của quá trình
công nghiệp hoá.
Tuy nhiên, trong xuất khẩu, chúng ta chưa tạo được nguồn hàng chủ lực
có tính dài hạn. Phần lớn là chỉ tìm kiếm những cái có sẵn (không phải nhiều) để
xuất khẩu. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong giai đoạn trước mắt là phải xây dựng được
một chiến lược về sản phẩm xuất khẩu nói chung, đối với từng thị trường, trong
đó có Nhật Bản nói riêng. Đây là một vấn đề lớn đối với Việt Nam. Để giải
quyết, Nhà nước cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang
hướng mạnh vào xuất khẩu. Nhà nước cần có chính sách nuôi dưỡng các ngành
kinh tế tạo nguồn hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng hiện đại
hoá công nghệ v.v..
Tuy kim ngạch buôn bán hai chiều của ta với Nhật Bản có sự gia tăng
mạnh trong thập niên vừa qua, song cần thấy với mức khoảng 4,7-4,8 tỷ USD là
còn nhỏ so với quan hệ thương mại của Nhật với các quốc gia khác. Tỷ trọng
thương mại Việt-Nhật chỉ chiếm khoảng trên 0,2% tổng kim ngạch ngoại thương
của Nhật nhưng lại chiếm tới 18%-19% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt
Nam. Như vậy thị trường Nhật Bản rõ ràng có vai trò, ý nghĩa đối với xuất-nhập
khẩu của Việt Nam, song ngược lại, thị trường Việt Nam, xét trên phương diện
Trang 81
kinh tế, chưa phải có sức nặng đối với hoạt động ngoại thương của Nhật Bản.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Mặt khác, hàng xuất khẩu của ta đã vấp phải sức cản mãnh liệt của hàng
rào kỹ thuật. Đó là những lực cản vô hình song lại vô cùng hiệu quả của Chính
phủ Nhật Bản để hạn chế nhập khẩu. Các doanh nghiệp của Việt Nam muốn
vượt qua được các rào cản này để đưa hàng hóa đến được với người tiêu dùng
Nhật Bản sẽ không chỉ phải tìm hiểu cặn kẽ luật pháp Nhật Bản mà còn phải
nghiên cứu kỹ những tập quán thương mại mà đặc biệt là văn hoá, thị hiếu, nhu
cầu tiêu dùng của người Nhật. Họ cũng cần phải có định hướng thâm nhập thị
trường Nhật Bản rõ ràng và thích hợp, lựa chọn đúng đối tác, tạo uy tín bằng
việc nâng cao chất lượng hàng hóa và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Hàng
hóa của ta phải có mẫu mã đa dạng, chủng loại phong phú, tạo được sự độc đáo
và khác biệt so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ. Ngoài ra, để có một
chiến lược lâu dài doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư cho công nghệ,
nghiên cứu và phát triển; năng động trong chính sách kinh doanh và coi trọng
yếu tố con người. Đồng thời họ cũng cần phải tranh thủ các ưu đãi, sự giúp đỡ
cũng như các yếu tố thuận lợi từ phía Chính phủ Nhật Bản, tranh thủ cơ hội thâm
nhập thị trường từ các tổ chức xúc tiến thương mại của hai bên.
Trong xu thế ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương cùng dấu hiệu tích cực trong cải cách phát triển kinh tế ở cả hai quốc gia,
với việc phối hợp chặt chẽ triển khai những giải pháp cơ bản nêu trên, chúng ta
có cơ sở hy vọng nâng cao khả năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam vào thị
Trang 82
trường Nhật Bản, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước.
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] - Bộ Thương Mại-Báo cáo về quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam-Nhật
Bản, ngày 05/03/2003.
[2] - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự báo phát triển thương mại Việt Nam đến 2010
[3] - Bộ Thương mại. Báo cáo phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 1996-2000
[4] - Bộ Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995
[5] - Bộ Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000
[6] - Báo Doanh Nghiệp, các số năm 2002 và 2003
[7] - Báo Đầu tư, các số năm 2002 và 2003
[8] - Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam, các số năm 2002 và 2003
[9] - Bùi Xuân Lưu, Trần Quang Minh-Chính sách ngoại thương Nhật Bản, Nhà
xuất bản Giáo dục, 2001
[10] - Các quy định của pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, 2001.
[11] - Đại sứ quán Nhật bản - Gương mặt Nhật Bản, 2003
[12]- Đại sứ quán Nhật Bản-Các bản tin năm 2002
[13] - JETRO (Japan Eternal Trade Organization) - Nhật Bản, 2003
[14] - Vũ Thị Kim Nhung – Kinh doanh với thị trường Nhật Bản, Nhà xuất bản
lao động, 2001.
[15] - Luật Thương mại Việt nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1997
[16] - VJCC-FTU – Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
sang một số thị trường khu vực và Nhật Bản, Khoá học 11/2001
[17] - Dương Hữu Hạnh-Nghiên cứu thị trường xuất khẩu, Nhà xuất bản Thống
kê, 2000
[18] - Ngô Xuân Bình-Hồ Việt Hạnh – Nhật Bản năm đầu thế kỷ 21, Nhà xuất
Trang 83
bản Khoa học Xã hội, 2002
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
[19] - United Publishers Inc., - Nhật Bản, tăng cường hợp tác và hiểu biết, 97-98,
Xuất bản lần thứ ba
[20] - Nguyễn Anh Tuấn-Nguyễn Thị Như Hoa – Quan hệ kinh tế của Mỹ và
Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2001.
[21] - Vũ Văn Hà - Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong những năm 90 và
triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2000.
[22] - Cục Sở hữu Công Nghiệp – Tạp chí chuyền đề 20 năm xây dựng và phát
triển, 2002
[23] - Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng-Tạp chí chuyên đề, các số năm 2001
và 2002
[24] - Thông tấn xã Việt Nam-Tạp chí Kinh tế Việt Nam và Thế giới, số 1246,
Chủ Nhật, ngày 30/03/2003
[25] - Tạp chí Thị trường Chủ Nhật-Ban Vật giá Chính phủ, số 3882, ngày
09/032003.
[26] - Trần Anh Phương: Tác động của thương mại Việt Nam-Nhật Bản đối với
ngoại thương nước ta những năm 90, Nghiên cứu kinh tế, số7, tháng7/2000
[27] - Tạp chí “Nghiên cứu Nhật Bản”, các số năm 2001, 2002 và 2003
Trang 84
[28] - Thị trường Nhật Bản, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 1997
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
PHỤ LỤC
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ PHỤ TRÁCH VÀ LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở NHẬT BẢN
Loại
Ví dụ
Phát minh Một ý tưởng về một sản phẩm
Luật áp dụng Luật Bằng sáng chế
Cơ quan đăng ký Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản
Thời gian bảo hộ 20 năm kể từ ngày ứng dụng (từ 7- 1945)
Thiết bị
hoặc một phương pháp kỹ thuật tân tiến (kể cả một chương trình máy vi tính liên quan đến một thiết bị phần cứng, một giống cây trồng mới, một vi sinh vật) Thiết bị kỹ thuật của một sản phẩm (hình dáng kết cấu hoặc toàn bộ).
6 năm kể từ ngày ứng dụng
Luật mô hình hữu dụng
Thiết kế
Thiết kế hình dáng một sản phẩm có sức truyền cảm đẹp
Luật Thiết kế
15 năm kể từ ngày đăng ký
Nhãn hiệu hàng hoá
Nhãn hiệu hàng hoá bằng chữ hoặc hình ảnh đối với sản phẩm hoặc dịch vụ.
Luật Nhãn hiệ hàng hoá
Luật Bản quyền
10 năm kể từ ngày đăng ký (có thể gia hạn) 50 năm sau ngày mất của tác giả
Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan phát minh sáng chế Nhật Bản Cơ quan văn hoá (Trung tâm thông tin phần mềm).
Mạch IC bán dẫn
Tác phẩm Một ý tưởng hoặc cảm nghĩ được thể hiện một cách sáng tạo (văn học, khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, chương trình vi tính, cơ sở dữ liệu). Cách bố trí mạch IC bán dẫn (việc bố trí các bộ phận của mạch và kết nối dây đồng)
10 năm kể từ ngày đăng ký
Trung tâm hợp tác sở hữu công nghiệp
Giống cây trồng mới
Luật Về việc bố trí mạch của mạch IC bán dẫn. Luật Hạt giống và cây trồng.
Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp.
Các giống mới do Sắc lệnh của Nội các xác định nằm trong số cây trồng đực gieo trồng để sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp và hải sản.
15 năm kể từ ngày đăng ký (18 năm sau với loại cây lâu năm).
Hiện không có hệ thống đăng ký nào
Bí mật thương mại
Những bí mật thương mại như bí quyết kỹ thuật, danh sách khách hàng...
Luật dân sự, Luật Hình sự, Luật ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.
Trang 85
Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại của Nhật Bản và giải pháp vượt qua của hàng xuất khẩu Việt Nam
Không cần thiết đăng ký.
Luật Ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.
Những hành động cạnh tranh không lành mạnh
Những hành động gây lầm lẫn đối với một sản phẩm đã có tiếng hoặc biểu hiện kinh doanh của một bên khác, một nhãn hiệu hàng hoá chưa đăng ký, một nhãn hiệu thương mại, một nhãn hiệu dịch vụ chưa đăng ký...
Trang 86