VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ VĂN HẬU

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN

TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT

THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ VĂN HẬU

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN

TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT

THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

Ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn KH: 1. TS. Vũ Thị Sao Chi

2. GS.TS. Nguyễn Đức Tồn

HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất

cứ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2018.

Tác giả luận án

Hà Văn Hậu

LỜI CẢM ƠN

Tôi chân thành cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngôn ngữ học, Ban Lãnh đạo Học

viện, cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học xã

hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu, triển khai thực hiện luận án.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Thị Sao Chi và

GS.TS. Nguyễn Đức Tồn - tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình

hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, để tôi

có thể hoàn thành luận án của mình.

Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc

Giang đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu,

hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn

quan tâm, động viên và đồng hành cùng tôi, tạo điều kiện để tôi hoàn thành

luận án này.

Tác giả luận án

Hà Văn Hậu

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN ÁN

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ...................................................2

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................3

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .....................................................................4

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ....................................................................4

7. Cấu trúc luận án. ........................................................................................................5

NỘI DUNG ...............................................................................................................6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .........................................................................6

1.1.1. Nghiên cứu về dụng học ..................................................................................6

1.1.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí........................ 17

1.1.3. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí ...... 24

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài .................................................................................. 24

1.2.1. Lý thuyết về hành động ngôn ngữ ................................................................. 24

1.2.2. Khái quát về hành động ngôn ngữ phê phán ............................................... 39

1.2.3. Khái quát về văn bản báo chí và thể loại tiểu phẩm báo chí ......................... 43

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................. 50

Chƣơng 2

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN TRỰC TIẾP TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

2.1. Biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ phê phán

trong tiểu phẩm báo chí ..................................................................................... 51

2.1.1. Các kiểu loại biểu thức ngôn hành phê phán ................................................ 52

2.1.2. Các thành phần trong biểu thức ngôn hành phê phán trực tiếp .................... 53

2.2. Thành phần mở rộng biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ

phê phán trực tiếp trong tiểu phẩm báo chí .................................................... 82

2.2.1. Thành phần mở rộng nêu cơ sở của sự phê phán ......................................... 82

2.2.2. Thành phần mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán .......................... 84

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................. 85

Chƣơng 3

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN ĐƢỢC THỰC HIỆN GIÁN TIẾP

TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KÌ ĐỔI MỚI

(TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

3.1. Các nhóm hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián tiếp thực hiện

hành động ngôn ngữ phê phán. ....................................................................... 87

3.1.1. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các

nhóm hành động ngôn ngữ biểu cảm ............................................................ 88

3.1.2. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các

nhóm hành động ngôn ngữ tái hiện (Hành động tái hiện - phê phán): Nghiên cứu trường hợp hành động trần thuật - phê phán ............................. 107

3.1.3. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua hành động ngôn ngữ điều khiển (Hành động điều khiển - phê phán): Nghiên cứu trường hợp hành động hỏi - phê phán .................................................... 128

3.2. Đặc điểm chung của những hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián

tiếp thực hiện hành động ngôn ngữ phê phán ............................................... 141

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................ 144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 152

DANH MỤC NGUỒN NGỮ LIỆU TIỂU PHẨM BÁO CHÍ ĐƯỢC TRÍCH DẪN.....161

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 147

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ

1 BTNH Biểu thức ngôn hành

2 BTNHPP Biểu thức ngôn hành phê phán

3 ĐTNH Động từ ngôn hành

4 ĐTNHPP Động từ ngôn hành phê phán

5 F Lực ngôn trung

6 HĐNN Hành động ngôn ngữ

7 HĐNNPP Hành động ngôn ngữ phê phán

8 NDMĐ Nội dung mệnh đề

9 NDMĐPP Nội dung mệnh đề phê phán

10 NL Ngữ liệu

11 NNBC Ngôn ngữ báo chí

12 PNNH Phát ngôn ngôn hành

13 Sp1 Chủ thể phát ngôn

14 Sp2 Đối tượng tiếp nhận phát ngôn

15 TPBC Tiểu phẩm báo chí

16 Y Đối tượng bị phê phán

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN

STT Bảng số Tên bảng, biểu Trang

1 Bảng 2.1 Thống kê tần số xuất hiện HĐNNPP trực tiếp và 51 HĐNNPP gián tiếp.

2 Bảng 2.2 Thống kê tần số sử dụng các kiểu loại BTNHPP 53

3 Bảng 2.3 Thống kê tần số hiển thị Sp1 trong BTNHPP 54

4 Bảng 2.4 Thống kê động từ ngôn phê phán trong TPBC 55

5 Bảng 2.5 Thống kê tần số hiển thị Sp2 trong BTNHPP 60

6 Bảng 2.6 Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 72 63 HĐNNPP trực tiếp

7 Bảng 2.7 Thống kê từ ngữ đánh giá tiêu cực trong 72 BTNHPP 66

8 Bảng 2.8 Thống kê phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong 82 BTNHPP

9 Bảng 2.9 Thống kê thành phần mở rộng trong 72 phát ngôn 85 phê phán trực tiếp

10 Bảng 3.1 Thống kê các nhóm HĐNN được sử dụng để gián 87 tiếp thực hiện HĐNNPP

11 Bảng 3.2 Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng 93 trong 84 HĐNN than phiền- phê phán

12 Bảng 3.3 Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng 101 trong 48 HĐNN mỉa mai - phê phán

13 Bảng 3.4 Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng 106 trong 11 HĐNN phủ định - phê phán

14 Bảng 3.5 Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng 127

trong 661 HĐNN trần thuật - phê phán

137 15 Bảng 3.6 Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong 123 HĐNN hỏi - phê phán

16 Bảng 3.7 Thống kê các dạng phát ngôn ngôn hành của HĐNN 138 hỏi - phê phán

17 Bảng 3.8 Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 1.152 141 HĐNNPP gián tiếp

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngữ dụng học đã được rất nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh việc tìm hiểu sâu về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu còn chú ý đến việc ứng dụng lý thuyết ngữ dụng học vào nghiên cứu từng kiểu loại văn bản, chỉ ra các đặc điểm về lập luận, về hội thoại và nhất là về các hành động ngôn ngữ (HĐNN) nói chung, HĐNN trong một thể loại văn bản cụ thể nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả giao tiếp và tác động của văn bản.

Báo chí Việt Nam thời kỳ Đổi mới từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trên tất cả các phương diện: sáng tạo tác phẩm, công nghệ in ấn, phát hành, công tác đào tạo, hợp tác quốc tế… Báo chí đã phát huy hiệu quả tích cực của nó trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trong dòng chảy mạnh mẽ của đời sống báo chí hiện nay, tiểu phẩm báo chí (TPBC) được giới nghiên cứu đánh giá là thể loại nở rộ khá trọn vẹn cả về quy mô số lượng và chất lượng tác phẩm so với các giai đoạn lịch sử báo chí trước đây. Môi sinh dân chủ của thời kỳ Đổi mới đã tạo cơ hội cho TPBC phát huy tối đa tính năng đấu tranh tư tưởng sắc bén, đem lại cho người đọc những cảm nhận hết sức thú vị cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật thể hiện. TPBC thực sự có vị trí rất đáng trân trọng trong đời sống báo chí Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu TPBC thời kỳ Đổi mới, nhất là về phương diện ngôn ngữ còn nhiều hạn chế và thiếu tính hệ thống chuyên sâu.

Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí (NNBC) nói chung và ngôn ngữ TPBC nói riêng, song từ góc độ ngữ dụng học thì vẫn còn có nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện hơn, chẳng hạn như các HĐNN, các thao tác lập luận, nghĩa hàm ẩn, các nhân tố văn hóa - xã hội chi phối việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ,... trong TPBC được biểu hiện cụ thể ra sao, để việc vận dụng ngôn ngữ vào quá trình sáng tạo báo chí nói chung và viết TPBC nói riêng ngày một hiệu quả hơn. Hơn nữa, mặc dù đã có các công trình nghiên cứu về HĐNNPP nói chung, song chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về HĐNNPP trên thể loại TPBC.

1

Do đặc điểm nổi bật của thể loại TPBC là phản ánh các hiện tượng, sự kiện, sự việc tiêu cực có thật trong đời sống xã hội qua bút pháp châm biếm, đả kích để phê phán, nên hành động ngôn ngữ phê phán (HĐNNPP) là một trong số HĐNN chủ đạo trong thể loại này. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài "Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)" là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Đi sâu tìm hiểu về HĐNNPP, một HĐNN tiêu biểu trong thể loại TPBC, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ HĐNN này trên các phương diện: cách thức và các phương tiện ngôn ngữ thực hiện hành động phê phán; sự chi phối của các nhân tố văn hóa - xã hội tới việc sử dụng HĐNNPP. Từ đó luận án hi vọng góp thêm vào quá trình nghiên cứu về NNBC nói chung và ngôn ngữ TPBC nói riêng những khía cạnh tri thức mới mẻ, nhằm giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ khi viết báo đạt hiệu quả cao. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy các học phần liên quan đến tiếng Việt nói chung và các học phần liên quan đến NNBC, trong đó có ngôn ngữ TPBC nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng đào tạo ngành Ngữ văn và Báo chí, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí,... Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể là sự sẻ chia tri thức ngữ dụng học thiết thực về TPBC đối với các phóng viên và biên tập viên trong quá trình tác nghiệp và cả đối với những ai quan tâm tới các vấn đề được đặt ra.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hướng đến mục đích làm sáng tỏ những đặc điểm của HĐNNPP với tư

cách là một HĐNN tiêu biểu trong thể loại TPBC, từ đó góp phần chỉ ra đặc điểm của

NNBC nói chung, ngôn ngữ TPBC nói riêng từ góc độ ngữ dụng học.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

- Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết cơ bản về HĐNN và về thể loại TPBC để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Cụ thể là các vấn đề về HĐNN, HĐNN trực tiếp và HĐNN gián tiếp; HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp; lý thuyết về văn bản báo chí, ngôn ngữ báo chí, TPBC,...

- Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện

HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay). Cụ thể:

+ Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện

HĐNNPP trực tiếp trong TPBC;

+ Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện

HĐNNPP được thực hiện gián tiếp trong TPBC.

- Phân tích sự chi phối của một số nhân tố văn hóa - xã hội như quan điểm, lập

2

trường tư tưởng chính trị, phép lịch sự, truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt, đặc trưng, đặc thù giao tiếp báo chí cách mạng, nội dung chủ đề phê phán,…tới việc sử dụng HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay).

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là HĐNNPP trong thể loại TPBC tiếng Việt

thời kì Đổi mới từ năm 1986 đến nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

HĐNNPP trong thể loại TPBC sẽ được nghiên cứu trên các phương diện:

a) Cách thức thực hiện HĐNNPP;

b) Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNNPP;

c) Sự chi phối của một số nhân tố văn hóa - xã hội như truyền thống văn hóa,

giao tiếp, hệ tư tưởng, nội dung, chủ đề,... tới việc sử dụng HĐNNPP.

3.3. Nguồn ngữ liệu

Phạm vi ngữ liệu khảo sát của luận án là các TPBC tiếng Việt (1.015 tiểu phẩm tiêu biểu) của một số cây bút tiểu phẩm tiêu biểu ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới (từ năm 1986 đến nay) trên một số ấn phẩm báo chí chính thống tiêu biểu như: Nhân dân, Lao động, Giáo dục và Thời đại, Tiền phong, Thể thao & Văn hóa, An ninh thế giới (cuối tháng), Đời sống pháp luật, Nông thôn ngày nay, Tuổi trẻ Tp.Hồ Chí Minh,…và trên một số tạp chí điển hình như: Nhà báo và Công luận, Người làm báo, Làng Việt,…và một số trang web chính thức của một số cơ quan ngôn luận.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá, phân tích việc sử dụng HĐNNPP trong các TPBC được khảo sát. Một số phương pháp nghiên cứu chính sẽ được luận án sử dụng như sau:

- Phương pháp phân tích: phân tích nội ngôn (phân tích các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNN trong TPBC, các thành phần cấu thành biểu thức ngôn hành và phát ngôn ngôn hành của HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp. Phân tích ngoại ngôn (ngữ cảnh, các yếu tố văn hóa - xã hội,...) nhằm xác định đích ngôn trung của HĐNNPP trong tương quan với nội dung ý nghĩa của toàn bộ đoạn văn - văn bản, sự kiện và thực tế văn hóa - xã hội tạo sinh văn bản;

- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các cách

thức và phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNNPP trong TPBC;

3

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Ngoài ngôn ngữ học, những HĐNN còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác. Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để khảo sát tư liệu liên quan đến thể loại TPBC, trong đó có sử dụng các tri thức, kĩ năng của các chuyên ngành khoa học khác có liên quan như lí luận báo chí, văn học, văn hóa học, xã hội học, tâm lí học,…

Ngoài việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu nêu trên, luận án còn đồng

thời tiến hành một số thủ pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được dùng để thống kê, phân loại HĐNNPP trực tiếp và gián tiếp cùng các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng của mỗi nhóm. Ngoài ra, thủ pháp này còn được dùng để thống kê, phân loại các nhân tố xã hội chi phối đến việc sử dụng các HĐNNPP trong TPBC;

- Thủ pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa: Thủ pháp này dùng để phân tích ngữ liệu, số liệu, từ đó khái quát những đặc điểm của HĐNNPP, cũng như những chiến lược phê phán;

- Thủ pháp cải biên/ thay thế giả định: Thủ pháp này dùng để nhấn mạnh tác dụng của cách thức và các phương tiện ngôn ngữ thực hiện HĐNNPP, qua việc so sánh giữa hai trường hợp dùng và không dùng các phương tiện ngôn ngữ điển hình nào đó, từ đó giúp khẳng định giá trị hay tầm quan trọng của các phương tiện ngôn ngữ này;

- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Đây là thủ pháp quan trọng nhằm chỉ rõ những đặc trưng khác biệt giữa HĐNNPP của TPBC với các thể loại báo chí khác; các nhóm HĐNN về cách thức thực hiện, tần số xuất hiện,...

Các phương pháp và thủ pháp này có thể được tiến hành đồng thời, đan xen với

nhau, tùy theo đối tượng, nội dung và nhiệm vụ cụ thể.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Trên cơ sở áp dụng lý thuyết ngữ dụng học về HĐNN, lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán, lý thuyết về đặc trưng NNBC và thể loại TPBC để tìm hiểu HĐNNPP trong TPBC, đề tài thu được các kết quả nghiên cứu sau đây:

- Thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ trong TPBC tiếng Việt từ góc độ ngữ dụng học, luận án đã xác định HĐNNPP là HĐNN chủ đạo trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay);

- Chỉ ra các cách thức, chiến lược thực hiện HĐNNPP được sử dụng trong TPBC, đồng thời chỉ ra những đặc điểm về lượng và chất của HĐNNPP trực tiếp và gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới. HĐNNPP là một hành động nhạy cảm, có mức độ đe dọa thể diện cao. HĐNNPP là HĐNN được thực hiện bằng hai hình thức đó là hình thức trực tiếp và gián tiếp. Trong hai hình thức đó, HĐNNPP trực tiếp xuất hiện với tần số thấp hơn nhiều so với HĐNNPP gián tiếp;

- Khảo sát, mô tả và phân tích các HĐNNPP trong TPBC, luận án đã đưa ra khái niệm về HĐNNPP, chỉ ra được đặc điểm cấu trúc, phân loại biểu thức ngôn hành phê phán (BTNHPP), các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng, cơ chế xác lập (nhận diện) đích ngôn trung và cường độ lực ngôn trung của HĐNNPP được thực hiện trực tiếp và gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới;

4

- Làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ TPBC trên phương diện ngữ dụng học, từ đó giúp định hướng cho việc tạo lập cũng như tiếp nhận văn bản TPBC đạt được hiệu qủa tốt hơn.

- Bước đầu lý giải các mối liên quan, tác động của một số nhân tố văn hóa - xã hội: truyền thống văn hóa của dân tộc, hệ tư tưởng chính trị, nội dung chủ đề,… tới việc sử dụng HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới, từ đó có thể thấy được vai trò và tác động quan trọng của TPBC tới sự tiến bộ của xã hội ta hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần vào việc củng cố lý thuyết ngữ dụng học, lý thuyết về HĐNN; làm sáng tỏ thêm một số đặc điểm của NNBC trên phương diện ngữ dụng học, cụ thể là về HĐNNPP trong thể loại TPBC tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ: nghiên cứu hành động ngôn ngữ phê phán trong một thể loại báo chí cụ thể, gắn với các yếu tố văn hóa - xã hội.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về HĐNNPP gắn với thể loại TPBC dưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học. Trên cơ sở khảo sát, mô tả và phân tích các HĐNNPP trong TPBC, luận án đã chỉ ra được đặc điểm cấu trúc, phân loại biểu thức ngôn hành phê phán (BTNHPP), các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng, cơ chế xác lập (nhận diện) đích ngôn trung và cường độ lực ngôn trung của HĐNNPP được thực hiện trực tiếp và gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới. Luận án góp phần làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ TPBC trên phương diện ngữ dụng học; đồng thời bước đầu lý giải các mối liên quan, tác động của một số nhân tố văn hóa - xã hội: truyền thống văn hóa dân tộc, hệ tư tưởng chính trị, nội dung chủ đề,… tới việc sử dụng HĐNNPP trong TPBC từ đó giúp định hướng cho việc tạo lập cũng như tiếp nhận văn bản TPBC đạt được hiệu quả tốt hơn.

Kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy các học phần liên quan đến tiếng Việt nói chung và các học phần liên quan đến NNBC, trong đó có ngôn ngữ TPBC nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng... Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ còn là tài liệu tham khảo bổ ích đối với các nhà báo, biên tập viên và những ai quan tâm tới các vấn đề nêu trên. Trên cơ sở kết quả việc nghiên cứu HĐNNPP trong TPBC, luận án có thể gợi ý mở rộng nghiên cứu các HĐNN khác, gắn với các thể loại văn bản cụ thể.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

nghiên cứu của luận án gồm 3 chương. Cụ thể như sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận

Chương 2. Hành động ngôn ngữ phê phán trực tiếp trong tiểu phẩm báo chí

tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Chương 3. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp trong tiểu

5

phẩm báo chí tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu về dụng học

Ngữ dụng học, chuyên ngành mới của ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ trong

sử dụng, trong quan hệ với ngữ cảnh sử dụng, giao tiếp. Trong đó, có thể nói rằng, “xương sống” của ngữ dụng học chính là lý thuyết về HĐNN.

Trên thế giới, trong khoảng 30 năm qua, ngữ dụng học đã phát triển vô cùng

mạnh mẽ và ngày càng có một vị trí đặc biệt trong ngôn ngữ học. Số lượng chuyên

khảo về ngữ dụng học cũng như các công trình nghiên cứu đề cập tới những phương diện, góc độ khác nhau của bộ môn này ngày một gia tăng.

Ở Việt Nam, ngữ dụng học cũng đã được các nhà nghiên cứu thuộc các ngành

khoa học xã hội và nhân văn quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh việc tìm hiểu sâu về mặt

lý luận thì các nhà nghiên cứu đã quan tâm tới việc ứng dụng các lý thuyết này vào

nghiên cứu từng kiểu loại văn bản để nâng cao hiệu quả giao tiếp, hiệu quả tác động

của văn bản cũng như chỉ ra các đặc điểm về lập luận, về hội thoại, về các HĐNN,…

được sử dụng trong các thể loại văn bản.

Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu một lĩnh vực

của ngữ dụng học đó là lý thuyết HĐNNPP, trên cơ sở soi chiếu việc sử dụng ngôn

ngữ từ một thể loại văn bản cụ thể, đó là thể loại TPBC.

1.1.1.1. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ

Con người chúng ra nói không phải đơn thuần chỉ là nói, mà chính là chúng ta đang hành động. Hoạt động lời nói là một phần trong các hoạt động của con người. Vấn đề này đã được Hêghen đề cập:“Lời nói thực chất là những hành động diễn ra giữa những con người, cho nên nó không phải là trống rỗng”[130]. Lý thuyết HĐNN là một lĩnh vực của ngữ dụng học nghiên cứu các HĐNN.

6

Theo các nhà dụng học, hành động được thực hiện bằng ngôn ngữ được gọi là hành động ngôn ngữ hay còn được gọi bằng các thuật ngữ tương ứng: hành vi ngôn ngữ, hành động nói, hành động ngôn từ, hành động ngôn tại, hành động ngôn tác, hành động ngôn trung,...Trong luận án này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ hành động ngôn ngữ. Tuy nhiên khi trích dẫn ý kiến của các tác giả nghiên cứu về vấn đề này thì có thể giữ nguyên cách sử dụng thuật ngữ của tác giả được trích dẫn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về HĐNN. Bao quát tình hình chung, chúng tôi thấy, các nhà nghiên cứu đi theo hai hướng chính sau: i) Những nghiên cứu có tính lý thuyết về HĐNN; ii) Những nghiên

cứu có tính ứng dụng về HĐNN. Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày lần lượt các hướng nghiên cứu này.

a. Những nghiên cứu có tính lý thuyết về hành động ngôn ngữ

* Trên thế giới

Những nghiên cứu có tính lý thuyết về HĐNN, tiêu biểu có các nhà nghiên cứu

như: J.L.Austin, Searle, D.Wunderlich, F.Recanati, K. Bach, R. M Harnis, O. Ducrot, G.Yule,…

Về HĐNN, John. L Austin (1962) là nhà nghiên cứu đã phát hiện ra bản chất

hành động của sự nói năng, tức bản chất hành động của ngôn ngữ. Austin trong cuốn

How to do things with word (Hành động như thế nào bằng lời nói) đã khẳng định và xây dựng một hệ thống lý thuyết về HĐNN. Với lý thuyết này, Austin đã thấy được

bản chất xã hội và khía cạnh liên nhân của các phát ngôn. Theo ông, "nói cũng chính

là làm" [156], tức là khi chúng ta nói năng cũng có nghĩa là chúng ta hành động;

chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện đó chính là ngôn ngữ.

Khi ta nói là ta đã thực hiện một hành động bằng lời, trong đó phát ngôn sẽ có những

dấu hiệu tường minh và nguyên cấp để biểu thị lực ngôn trung của phát ngôn, hay ý

nghĩa đích thực của phát ngôn. Austin cho rằng, người ta thực hiện ba HĐNN khi nói

ra một phát ngôn, gồm: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Trong đó,

hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu

kết hợp từ thành câu,… để tạo ra phát ngôn về hình thức và nội dung. Hành vi mượn lời là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận

hoặc ở chính người nói. Hành vi ở lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi nói

năng. Hiệu quả thuộc về ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ

tương ứng ở người nhận. Hành vi ở lời cũng chính là đối tượng nghiên cứu chủ yếu

của ngữ dụng học [12].

Nói đến các hành vi ở lời, Austin phân ra thành 5 nhóm lớn, gồm: 1) Phán xét;

2) Hành xử; 3) Cam kết; 4) Trình bày và 5) Ứng xử. Trong đó hành động phê phán

được Austin xếp vào nhóm Ứng xử. Nhóm hành vi phản ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, đồng thời chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác, chẳng hạn: xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, nguyền rủa, chống lại,…

Tiếp đó, nhà nghiên cứu John Searle (1969) đã tiếp tục phát triển hệ thống lý thuyết HĐNN này. Searle là người đã chỉ ra hạn chế trong cách phân loại của Austin

7

đó là không nêu ra các tiêu chí phân loại, đồng thời không thấy rõ sự khác biệt giữa hành vi ngôn ngữ và động từ thể hiện hành vi ngôn ngữ. Searle cho rằng, trước hết là

phải phân loại các hành vi ở lời và cần xác lập được một hệ thống các tiêu chí thích

hợp với các hành vi ngôn ngữ, để tránh sự chồng chéo giữa các phạm trù [12].

Searle đã đưa ra 12 điểm khác biệt, đồng thời là 12 tiêu chí để phân loại hành vi

ngôn ngữ. Searle đã phân loại hành vi ở lời ra thành 5 lớp lớn, đó là các hành vi: 1)

Tái hiện; 2) Điều khiển; 3) Cam kết; 4) Biểu cảm; 5) Tuyên bố [12]. Nhìn chung, các

tiêu chí phân loại của Searle sẽ giúp phân loại được các động từ nói năng (hành động ở lời) thành các phạm trù lớn, rồi lại chia nhỏ thành những loại và tiểu loại.

Về việc sử dụng hành động ở lời: Hành động ở lời có thể được sử dụng trực tiếp

hoặc có thể được sử dụng theo lối gián tiếp.

- Tất cả những HĐNN mà các tác giả nghiên cứu đều là về các HĐNN (hành động ở lời) chân thực, nghĩa là những HĐNN được thực hiện đúng với đích ở lời,

đúng với điều kiện sử dụng chúng;

- Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành động ở lời này nhưng lại

nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác là hiện tượng sử dụng HĐNN theo lối

gián tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu: “Một hành vi sử dụng gián tiếp là một hành vi trong

đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa

vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực

ở lời của một hành vi khác” [12, tr.146].

Hành động ở lời gián tiếp được Austin nhắc đến một cách sơ lược và được Searle nghiên cứu kĩ và sâu hơn. Thuật ngữ hành động ngôn ngữ gián tiếp (indirect

speech acts) do Searle đặt ra. Các HĐNN gián tiếp là một trong những phương thức

tạo ra tính mơ hồ về nghĩa trong lời nói. Tuy nhiên, không phải người nói tùy tiện

muốn dùng hành động ở lời trực tiếp nào để tạo ra hành động ở lời gián tiếp nào cũng

được. Quy tắc sử dụng gián tiếp các hành động ở lời hoặc vấn đề một hành động ở lời

trực tiếp có thể được dùng để tạo ra những hành động gián tiếp nào là vấn đề chưa

được giải quyết đến nơi đến chốn, cần tiếp tục có những nghiên cứu tiếp theo.

Theo Đỗ Hữu Châu, cũng giống như mọi sự phân loại khác, sự phân loại

HĐNN ở lời bao giờ cũng nhằm hai mục tiêu: một là, phát hiện ra các đặc tính quan yếu của các hành vi ở lời (là mục tiêu chủ yếu); hai là, sắp xếp chúng thành từng loại.

Về cách phân loại hành động ở lời, chúng tôi còn nhận thấy có các nhà nghiên

cứu D.Wunderlich, F. Recanati, K. Bach và R. M Harnis cũng tiến hành phân loại HĐNN ở lời. Cách phân loại của các nhà nghiên cứu này chỉ khác với Searle chủ yếu

ở: 1) việc lựa chọn tiêu chí nào là tiêu chí bậc một để phân loại; 2) việc lựa chọn các tiêu chí bổ sung cho tiêu chí bậc một và trật tự vận dụng các tiêu chí đó để phân chia

loại lớn thành các tiểu loại. Như vậy, cách phân loại của các nhà nghiên cứu này đều

8

thống nhất với Searle ở mục tiêu thứ nhất, đó là phát hiện ra đặc tính quan yếu của

hành động ở lời, thống nhất về đặc tính quyết định hành động ở lời. Điểm khác giữa

họ là cách sắp xếp các hành động hay các nhóm hành động trong bảng phân loại của mình, tức chỉ khác ở mục tiêu thứ hai. (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [12, tr.133]).

Nhà nghiên cứu O. Ducrot nói rõ thêm về các hành động ở lời. "Hành động ở lời

khác với hành động mượn lời ở chỗ chúng thay đổi tư cách pháp nhân của người đối

thoại; chúng đặt người nói và người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng trước khi thực hiện hành động ở lời của họ" (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.90]).

Nhà nghiên cứu G. Yule (1996) trong cuốn Dụng học [45, tr.97] đã đưa ra giả

thuyết ngôn hành những vấn đề của ngữ dụng học: chỉ xuất khoảng cách, quy chiếu

và suy luận, tiền giả định và dẫn ý, cộng tác và hàm ý, lịch sự và tương tác, hội thoại, diễn ngôn và văn hóa… đồng thời tác giả này cũng đã đề cập đến hành động nói và

sự kiện nói, trong đó có bàn đến các vấn đề như: phương tiện chỉ ra lực ngôn trung,

điều kiện may mắn, giả thuyết ngôn hành, phân loại hành động nói,…Theo G.Yule,

trong một trường hợp bất kì, việc hành động được thực hiện bằng cách tạo ra một

phát ngôn cũng đều có ba hành động liên quan với nhau, gồm: hành động tạo ngôn,

hành động ngôn trung, hành động dụng ngôn.

Về điều kiện thực hiện hành động ở lời, Austin xem các điều kiện sử dụng hành

động ở lời là điều kiện may mắn. (Nguyễn Đức Dân gọi đó là điều kiện thuận lợi [23,

tr.20]). Điều kiện may mắn của Austin như sau: A) (i) Phải có thủ tục quy trình quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng có tính quy ước; (ii) Hoàn cảnh và con

người phải thích hợp với những điều quy định trong thủ tục; B). Thủ tục phải được

thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ; C). Thông thường thì (i) những người

thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra

trong thủ tục và (ii) khi hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có.

Searle lại gọi điều kiện thực hiện hành động ở lời là điều kiện sử dụng hay điều

kiện thỏa mãn. Ông cho rằng, có 4 điều kiện: 1) Điều kiện nội dung mệnh đề; 2) Điều

kiện chuẩn bị; 3) Điều kiện chân thành (điều kiện tâm lí); 4) Điều kiện căn bản. Mỗi điều kiện lại được biểu hiện khác nhau tuỳ theo từng phạm trù, từng loại và từng hành vi ở lời cụ thể.

Qua việc hệ thống một cách khái quát các nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, chúng tôi nhận thấy, nhìn chung các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề lý thuyết cơ bản của dụng học, trong đó có bàn đến những khía cạnh khác nhau của HĐNN.

9

Những kết quả nghiên cứu này sẽ là tiền đề quan trọng để các nhà nghiên cứu sau này tiếp tục bổ sung và phát triển.

* Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, từ những năm 80 - 90 của thế kỉ XX, ngữ dụng học trong đó có HĐNN đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Giai đoạn đầu có các nhà

nghiên cứu như: Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo,… Cụ

thể là trong một số chuyên đề ở các trường đại học, hay trong một số công trình của

một số tác giả như: Hoàng Phê (1989) Lô gíc và ngôn ngữ học [104]. Trong các tập bài giảng tại một số trường đại học trọng điểm, đầu ngành ở Việt Nam của các nhà

nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp,...Tiếng Việt -

Sơ thảo ngữ pháp chức năng [56] của Cao Xuân Hạo (1991); Quy luật ngôn ngữ [89]

của Hồ Lê (1995). Trên một số tạp chí nghiên cứu cũng đăng tải nhiều bài của các tác giả: Hoàng Phê, Nguyễn Đức Dân, Lê Đông,... và một số công trình luận án tiến sĩ về

ngữ dụng học. Đã có một hội nghị khoa học về ngữ dụng học tại Đại học Ngoại ngữ

Hà Nội (1996).

Vấn đề ngữ dụng học nói chung và HĐNN nói riêng tiếp tục được các nhà

nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và phát triển. Tiêu biểu là các nhà nghiên cứu Đỗ Hữu

Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Văn

Hiệp, Đỗ Việt Hùng,…

Nhìn nhận ngữ dụng học một cách tổng quát như một bộ môn khoa học, phải

nhắc đến nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu trong Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của dụng học hiện nay (1992) [09] và cuốn Đại cương ngôn ngữ học (Tập 2 - Ngữ

dụng học, 2009) [12] và trong các công trình nghiên cứu của các tác giả khác như

Nguyễn Đức Dân (1998) trong cuốn Ngữ dụng học (tập 1) [23], Nguyễn Thiện Giáp

(1998) Cơ sở ngôn ngữ học [46],…Những vấn đề trung tâm của ngữ dụng học đã

được trình bày một cách có hệ thống và phân tích trên cứ liệu tiếng Việt như: chiếu

vật và chỉ xuất, hành vi ngôn ngữ, lý thuyết lập luận, lý thuyết hội thoại, ý nghĩa hàm

ẩn và tường minh,…

Theo tổng kết của Đỗ Hữu Châu còn những vấn đề hiện nay cho việc nghiên cứu về

hành động ở lời (Đỗ Hữu Châu gọi là hành vi ở lời) như sau: "Một là số lượng hành động ở lời: Có bao nhiêu hành vi ở lời trong từng ngôn ngữ và trong các ngôn ngữ ? Vì hiện nay, con số do các nhà ngôn ngữ đưa ra rất khác nhau; Hai là vấn đề phân loại các hành vi ở lời; Ba là vấn đề quan hệ giữa các động từ ngữ vi và các hành động ở lời; Bốn là vấn đề về tính phổ quát của các hành động ở lời; Năm là vấn đề ranh giới giữa các hành động ở lời. Ranh giới này không phải là dứt khoát, rõ ràng,…; Sáu

10

là vấn đề phối hợp giữa các hành động trong một phát ngôn và rộng ra là trong một sự kiện lời nói…" [12, tr.139]

Nhìn chung, mặc dù mới vào Việt ngữ học trong khoảng thời gian từ những

năm 80 của thế kỉ XX, song ngữ dụng học cũng như những vấn đề về HĐNN đã sớm tỏ ra là một lĩnh vực nghiên cứu vô cùng hấp dẫn và thú vị, thu hút được rất nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm. Các tác giả đã đưa ra hệ thống lí thuyết căn bản về ngữ dụng

học nói chung, trong đó có HĐNN như: các khái niệm HĐNN, phân biệt biểu thức

ngữ vi, phát ngôn ngữ vi và động từ ngữ vi, các dấu hiện đánh dấu lực tại lời, điều kiện sử dụng hành động ở lời của HĐNN. Chúng tôi nhận thấy, điểm nổi bật của việc

nghiên cứu ngữ dụng học đó là khảo sát về ngữ cảnh và việc giao tiếp. Mặc dù các

nghiên cứu về ngữ dụng học, trong đó có HĐNN ở Việt Nam đã đạt được những

thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên còn một loạt các vấn đề của ngữ dụng học nói chung và các vấn đề về HĐNN nói riêng như Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra, đang chờ đợi

được nghiên cứu và phát triển tiếp.

Như vậy, theo quan sát của chúng tôi, cả trong và ngoài nước, những nghiên cứu

có tính lý thuyết về HĐNN được quan tâm khá toàn diện và sâu sắc. Những thành tựu

nghiên cứu về mặt lý thuyết này sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng để các nhà nghiên cứu

tiếp tục vận dụng vào việc nghiên cứu từng HĐNN cụ thể.

b. Những nghiên cứu có tính ứng dụng về hành động ngôn ngữ

* Trên thế giới

Nghiên cứu có tính ứng dụng về HĐNN là hướng nghiên cứu vận dụng lý thuyết ngữ dụng học nói chung và HĐNN nói riêng vào việc tìm hiểu, nghiên cứu một ngôn

ngữ cụ thể hay một tiểu loại HĐNN hoặc một nhóm HĐNN cụ thể.

Theo hướng nghiên cứu này, có thể kể đến các tác giả tiêu biểu sau: G.N Leech

(1983), với cuốn Principles of Pragmatics (Những nguyên lí ngữ dụng học) [163] đã

mô tả câu ngữ vi và ĐTNH trong tiếng Anh; Ana Weirzbicka (1987) với công trình

English speech act verb (Động từ nói năng tiếng Anh) đã miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa

và điều kiện sử dụng của các động từ nói năng tiếng Anh [157].

* Ở Việt Nam

Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và HĐNN nói riêng, các nhà nghiên cứu đã vận dụng và tập trung vào nghiên cứu các HĐNN giao tiếp cụ thể. Có thể nói rằng, những nghiên cứu có tính ứng dụng này ở Việt Nam vô cùng phong phú và khó có thể thống kê hết được. Theo quan sát của chúng tôi, những công trình nghiên cứu có tính ứng dụng về HĐNN được triển khai

theo các xu hướng nghiên cứu cụ thể sau:

i) Nghiên cứu một tiểu loại HĐNN cụ thể hoặc một nhóm HĐNN;

ii) Nghiên cứu một HĐNN cụ thể cũng như phương tiện, cách thức thực hiện

11

hành động đó trong sự so sánh, đối chiếu giữa tiếng Việt với một ngôn ngữ khác;

iii) Nghiên cứu về HĐNN trong một diễn ngôn cụ thể, một sáng tác của một tác

giả hoặc trong một thể loại văn bản.

Việc phân chia thành các hướng nghiên cứu này của chúng tôi chỉ có tính chất

tương đối, để tiện cho việc theo dõi. Vì trong các hướng nghiên cứu hoặc trong cùng

một công trình nghiên cứu cũng có thể có những sự giao thoa với nhau. Dưới đây

chúng tôi sẽ trình bày lần lượt các hướng nghiên cứu nói trên.

* Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu một tiểu loại hành động ngôn

ngữ hoặc một nhóm hành động ngôn ngữ cụ thể, trong đó đề cập đến các phương tiện ngôn ngữ thực hiện những hành động đó

Theo hướng này, có một số lượng lớn các công trình của đông đảo các nhà nghiên cứu. Chúng tôi nhận thấy, hướng nghiên cứu này lại được chia thành các

nhánh nghiên cứu nhỏ sau:

Nhánh 1. Nghiên cứu phân tích cấu trúc, ngữ nghĩa của các động từ, nhóm

động từ nói năng (động từ ngôn hành) thực hiện hành động ngôn ngữ

Có thể kể đến các tác giả và công trình tiêu biểu sau: Chử Thị Bích (2008), Cấu

trúc của lời nói cho, tặng trong tiếng Việt [07]; Trần Thị Hoàng Yến (2014), Đặc

điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện

ngắn Việt Nam [155];…Nhìn chung, các công trình theo hướng này, tập trung nghiên

cứu động từ nói năng về phương diện nghĩa, chỉ ra các điều kiện sử dụng của ĐTNH, trên cơ sở đó tiến hành việc xây dựng cấu trúc ngữ nghĩa của từng tiểu loại hoặc từng

nhóm động từ này.

Nhánh 2. Nghiên cứu các hành động ngôn ngữ như một sự kiện lời nói trong

tương tác hội thoại

Theo nhánh nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có các công trình và các tác giả

tiêu biểu sau: Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt

(cấu trúc và ngữ nghĩa) [153]; Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện

lời nói cảm thán trong tiếng Việt [152]; Đào Nguyên Phúc (2007), Lịch sự trong đoạn

thoại xin phép của tiếng Việt [108]; Dương Tuyết Hạnh (2007), Hành động nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong giao tiếp tiếng Việt [53]; Vũ Tố Nga (2010), Sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại [98]; …

Điểm nổi bật của các công trình nghiên cứu theo hướng này là nghiên cứu xây dựng khái niệm của một HĐNN cụ thể như: khái niệm thỉnh cầu, mách, khen, chê,

12

trách, nhờ, cam kết,… xây dựng mô hình cấu trúc của biểu thức ngữ vi tường minh của từng HĐNN đó. Trên cơ sở này, các tác giả bước đầu xác định cấu trúc đặc thù của từng sự kiện lời nói với các tham thoại cụ thể như tham thoại dẫn nhập, tham

thoại hồi đáp; đồng thời bước đầu tìm hiểu, kiến giải sự ảnh hưởng, chi phối của các

nhân tố văn hóa - xã hội đến việc thực hiện các HĐNN ấy.

Nhánh 3. Nhánh nghiên cứu tổng hợp

Ngoài hai nhánh nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy còn có các công trình

nghiên cứu từng tiểu loại HĐNN hoặc một nhóm HĐNN cụ thể, trên cơ sở phân tích

những phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi,… chúng tôi tạm gọi là nhánh tổng hợp. Nhánh nghiên cứu này có các công trình của các tác giả tiêu biểu sau: Hà Thị Hải

Yến (2000), Hành vi cảm thán, các biểu thức cảm thán và tiếp nhận cảm thán [151];

Nguyễn Thị Hải Yến (2000), Hành vi chê với biểu thức, phát ngôn và tham thoại tiếp

nhận chê [154]; Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lý giải hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại [126]; Đào Thanh Lan (2011) Nhận diện hành động mời và rủ trong

tiếng Việt [86]; Lương Đình Khánh (2012), Những hàm ý ngữ dụng liên quan đến từ

“thì” và cách dùng nó để biểu hiện các hành vi ngôn ngữ [82];…

Trong thực tế cuộc sống, HĐNN của con người vô cùng phong phú. Có những

HĐNN khi nghe thấy, tiếp nhận, người ta thường thích thú, có tâm trạng yên tâm,

phấn chấn như HĐNN cảm ơn, khen, chúc tụng…; thề, nịnh…Ngược lại có những

HĐNN khi đề cập đến, người ta lại thường không thích, có tâm lí không thoải mái

hoặc bực tức như HĐNN chê, trách, nói kháy, chửi,…Gần đây các HĐNN này cũng

được các tác giả quan tâm nghiên cứu.

Nhìn một cách tổng quát, hướng nghiên cứu một tiểu loại HĐNN hoặc một

nhóm HĐNN cụ thể (gồm 3 nhánh nghiên cứu như đã nêu ở trên) đã thu hút được sự

quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu. Những vấn đề cơ bản nhất và những vấn

đề liên quan của từng tiểu loại HĐNN hoặc nhóm HĐNN cụ thể đã được các tác giả

tập trung nghiên cứu, làm rõ. Ngoài ra, các HĐNN gián tiếp, biểu hiện tính lịch sự,

ứng xử văn hóa trong HĐNN cũng được các tác giả quan tâm nghiên cứu.

* Hướng nghiên cứu thứ hai: Nghiên cứu một tiểu loại HĐNN hoặc một

nhóm HĐNN cụ thể trong sự so sánh, đối chiếu về một số phương diện nhất định

giữa tiếng Việt với một ngôn ngữ khác

Theo hướng này, có thể điểm đến các tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen [112]; Nguyễn Văn Độ (1999), Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt [38]; Nguyễn

Phương Chi (2004), Một số đặc điểm văn hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Anh, liên hệ với tiếng Việt [17]; Trần Chi Mai (2005), Phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt) [95]; Siriwong

13

Hongsawan (2009), Hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt [118]; Trần Thị

Thu Phương (2015), Thành phần rào đón ở hành vi hỏi và hồi đáp trong giao tiếp

tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [109]; ...

Gần đây đáng chú ý là trong luận án của Lê Thị Thúy Hà (2015), Lịch sự trong

hành động ngôn từ phê phán của người Việt và người Anh [52], tác giả đã tập trung

khai thác sâu về tính lịch sự trong HĐNNPP trong sự đối chiếu giữa người Việt và

người Anh: các cách thức và các phương tiện biểu đạt lịch sự ngôn từ và HĐNNPP; chỉ ra các chiến lược thực hiện, các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến các chiến lược thực

hiện HĐNNPP. Theo quan sát của chúng tôi, công trình này đã góp phần chỉ ra những

tương đồng và khác biệt trong việc lựa chọn chiến lược và các cách thức, phương tiện

biểu đạt lịch sự trong HĐNNPP của người Việt và người Anh. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể là một gợi ý, định hướng cho việc biên soạn giáo

trình, giảng dạy, học tập và sử dụng HĐNNPP trong tiếng Việt và tiếng Anh.

Trong các nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ ra phương tiện ngôn ngữ biểu hiện

HĐNN nhất định, từ đó chỉ ra sự tương đồng cũng như những khác biệt của các

HĐNN ấy giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ so sánh được nghiên cứu. Bước đầu, các

tác giả lý giải sự khác biệt đó trên cơ sở từ sự khác biệt về văn hóa, tư duy giữa các

dân tộc ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Những nghiên cứu này đã góp phần tích cực vào

việc xây dựng các phương pháp học ngoại ngữ theo lý thuyết HĐNN, đồng thời góp

phần vào lĩnh vực dịch thuật, vào việc xây dựng sự hiểu biết, ứng xử văn hóa ngôn từ, cũng như quá trình, phương thức tư duy của người Việt và các dân tộc khác

trên thế giới.

* Hướng nghiên cứu thứ ba: Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ trong một

diễn ngôn cụ thể, một sáng tác của một tác giả hoặc trong một thể loại văn bản

Theo hướng nghiên cứu này, theo quan sát của chúng tôi có một số luận án, bài

viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, cụ thể: Khuất Thị Lan (2000), Hành vi ngôn ngữ

rào đón thuộc phương châm về chất trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao

[87]; Nguyễn Thị Bạch Dương (2011), Nhóm động từ ngôn hành thể hiện hành động

cam kết trong văn bản hành chính [34]; Vũ Ngọc Hoa (2011), Hành động ngôn từ cầu khiến trong văn bản hành chính [61];…Chúng tôi nhận thấy, các nghiên cứu về HĐNN ở các thể loại văn bản hay một diễn ngôn cụ thể không phong phú bằng hướng nghiên cứu một tiểu loại hoặc một nhóm HĐNN như đã nêu ở trên. Dưới ánh sáng của lý thuyết HĐNN, các tác giả đã giải quyết được một số vấn đề về HĐNN trong một thể loại diễn ngôn: phân tích, làm rõ việc sử dụng các BTNH, các dấu hiệu

chỉ dẫn lực ngôn trung của các HĐNN. Những nghiên cứu này đã và đang góp phần tích cực vào việc ứng dụng xây dựng các thể loại văn bản cũng như việc lĩnh hội các

14

văn bản được thuận lợi, chuẩn xác và hiệu quả hơn.

Theo quan sát của chúng tôi, trên cơ sở thành tựu về lý thuyết của ngữ dụng học

nói chung và HĐNN nói riêng, có thể nói việc nghiên cứu các HĐNN theo hướng nghiên cứu có tính ứng dụng ở Việt Nam đã thu hút được đông đảo các nhà nghiên

cứu. Nhìn chung, từ lý thuyết chung về HĐNN, các HĐNN trong tiếng Việt cụ thể

như: cam kết, cầu khiến, mời, rủ, từ chối, thỉnh cầu, cảm thán, chê, khen, chúc tụng,

hỏi, thề, nịnh,… đã được các tác giả xem xét một cách cụ thể và khá kĩ lưỡng trên các phương diện: xác lập khái niệm, nhận diện, điều kiện sử dụng, BTNH, cách thức và

phương tiện biểu hiện, các nhân tố xã hội chi phối đến việc sử dụng HĐNN,… Đáng

chú ý là có một số công trình nghiên cứu sự thể hiện HĐNN cụ thể trong sự so sánh,

đối chiếu giữa tiếng Việt với một số ngôn ngữ khác để chỉ ra những điểm tương đồng và những khác biệt giữa các ngôn ngữ được đối chiếu. Bên cạnh đó, các HĐNN gián

tiếp hay biểu hiện của tính lịch sự trong HĐNN cũng đã được bàn tới.

Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về việc nghiên cứu HĐNN cũng đã khá phong

phú và đa dạng. Những kết quả nghiên cứu nêu trên góp phần giải quyết phần nào

những vấn đề đang còn tồn tại của lý thuyết HĐNN mà nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu

đã nêu ra. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, số lượng HĐNN của con người lại vô

cùng phong phú và trong mỗi ngôn ngữ ứng với mỗi cộng đồng dân tộc sự biển hiện

của chúng dưới sự chi phối của các yếu tố văn hóa - xã hội, tư duy lại càng đa dạng,

tinh tế. Vì thế mà vẫn rất cần những nghiên cứu tiếp theo mang tính ứng dụng để giải quyết những vấn đề còn để ngỏ của HĐNN.

1.1.1.2. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ phê phán

a. Trên thế giới

Cho đến nay, theo quan sát của chúng tôi, HĐNNPP bước đầu đã được đề cập tới

trong một số công trình của các tác giả: Tracy, Dussen và Robinson (1987), House và

Kapspe (1981), Tracry và Eissenberg (1990), Wajnryb (1993,1995); Toplak và Katz (2000).

Tracy, Dussen và Robinson (1987) khi bàn về đặc điểm của HĐNNPP, giữa họ

cơ bản có nhiều điểm tương đồng. Trên cơ sở khảo sát các đặc tính của HĐNNPP tốt

và HĐNNPP tồi, các tác giả Tracy, Dussen và Robinson đã đưa ra 5 đặc tính về phong cách để phân biệt 2 loại HĐNNPP này. Đó là: 1) Một lời phê phán tốt phải thể hiện bằng thái độ và ngôn ngữ mang tính tích cực; 2) Gợi ý của S (chủ thể phê phán) phải đủ độ chi tiết và phải trong điều kiện có thể thực hiện được; 3) Lí do phê phán phải được đưa ra rõ ràng; 4) Lời phê phán phải được đưa ra cùng lời khen; 5) Một lời phê phán tốt không làm phá vỡ mối quan hệ giữa các bên tham thoại và phải chính

xác [52].

Về chủ đề HĐNNPP, các tác giả Tracy, Dusen và Robinson (1987) cho rằng: có

15

sự khác nhau về tần suất của HĐNNPP trong mỗi nhóm quan hệ và các nhóm chủ đề

được phê phán. Các tác giả cho rằng: trong các nhóm quan hệ thì nhóm người thân có

tần suất phê phán nhiều nhất, tiếp đó là nhóm ông chủ, nhóm giáo viên và cuối cùng là nhóm người lạ. Chủ đề được phê phán nhiều nhất là chủ đề về hình thức thực hiện

các kĩ năng, chủ đề về các mối quan hệ tính cách người nói nói chung và nhóm chủ

đề về sự quyết định, thái độ [52].

Wajnryb (1993) nghiên cứu HĐNNPP ở phương diện của người nhận lời phê phán. Đối tượng thể nghiệm là giáo viên hướng dẫn và các giáo sinh thực tập trong

một khóa hội thảo về việc giảng dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ. Kết quả khảo sát

cho thấy về đặc tính của một lời phê phán có hiệu quả có những nét tương đồng với

nhận định của Tracy, Dusen và Robinson. Mặc dù vậy, nghiên cứu này cũng mới chỉ là sự tìm hiểu HĐNNPP ở góc độ nhận thức, cảm nhận, suy nghĩ đối với HĐNN của

người phê phán và người bị phê phán ở vai trò và phạm vi hẹp mà chưa đi đến nghiên

cứu HĐNN cụ thể [52]. Tiếp đó Toplak và Katz (2000) lại chú trọng tới hiệu quả giao

tiếp của lời phê phán trực tiếp và gián tiếp. Qua việc khảo sát nhận xét về người tham

thoại, hai phương diện được đề cập đến, đó là: phương diện người thực hiện

HĐNNPP và người nhận HĐNNPP ấy. Kết quả cho thấy, người tiếp nhận HĐNNPP

cho những lời phê phán gián tiếp có tính chế giễu nghiêm trọng hơn ý định của người

phát ngôn và tất nhiên đối với họ những lời phê phán như vậy có tính chất tiêu cực và

có ảnh hưởng tới mối quan hệ của những người tham thoại hơn lời phê phán trực tiếp. Kết quả khảo sát này tương đồng với nghiên cứu của Wajnryb (1993). Ở đây,

HĐNNPP mới chỉ khảo sát ở góc độ nhận xét, cảm nhận, chưa đi vào thực tế của phát

ngôn. [52]

b. Ở Việt Nam

Theo quan sát của chúng tôi, nghiên cứu về HĐNNPP có các tác giả như

Nguyễn Thị Thủy Minh (2005), Hoàng Thị Xuân Hoa (2008), Đoàn Trần Thùy Vân

(2010), Lê Thị Thúy Hà (2015); …

Nguyễn Thị Thủy Minh (2005) Criticizing and Responding to Criticism In A

Foreign Language: A study of Vietnamese Learners of English, nghiên cứu sự Chỉ trích và phản ứng với những lời chỉ trích bằng tiếng nước ngoài: một nghiên cứu về người Việt học tiếng Anh, khảo sát chuyển di ngữ dụng của HĐNNPP của người Việt học tiếng Anh và người Úc bản ngữ qua câu hỏi khảo sát, đóng vai và phỏng vấn hồi tưởng. So sánh chuyển di ngữ dụng giữa 3 nhóm đối tượng, gồm: nhóm người Việt học tiếng Anh, nhóm người Việt bản ngữ và nhóm người Úc bản ngữ [164].

Hoàng Thị Xuân Hoa (2008) với The Speech Act of Criticizing by the Vietnamese and the Anglo-American: A Cross- cultural Study nghiên cứu về Hành động lời nói phê

16

bình của người Việt và người Mĩ gốc Anh: nghiên cứu giao văn hóa. Kết quả nghiên

cứu cho thấy những tương đồng và dị biệt trong việc thực hiện hành động lời nói phê

bình của người Việt và người Mĩ gốc Anh. Đáng lưu ý, nghiên cứu cung cấp các thông tin về HĐNNPP dưới góc độ giao thoa văn hóa, về sự khác biệt trong hành

động phê phán giữa hai nền văn hóa, hai dân tộc; ảnh hưởng của các yếu tố xã hội và

ngôn cảnh đối với hành động lời nói phê bình của người Việt và người Mĩ gốc

Anh [161]. Về tần suất đưa ra lời phê phán, Hoàng Thị Xuân Hoa cho rằng: So với người Việt, Người Mỹ ít phê phán hơn, đặc biệt là trong các chủ đề về cá nhân hay

liên quan đến ý kiến cá nhân. Người Việt tuy hay đưa ra lời phê phán hơn người Mỹ

nhưng thường lại bị chi phối bởi các yếu tố xã hội, tình huống hơn. Mặc dù vậy, luận

án của Hoàng Thị Xuân Hoa tăng cường sự hiểu biết về các hình thức biểu đạt của HĐNN phê bình. Kết quả luận án còn là nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà biên

soạn giáo trình và người dạy, người học tiếng Anh [161].

Đoàn Trần Thùy Vân (2010), trong A study of verbal criticism in English and

Vietnamese (nghiên cứu về Hành động phê phán bằng lời trong tiếng Anh và tiếng

Việt) [169], đã sử dụng phương pháp phân tích các câu phê phán trích dẫn từ các tác

phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết của các nước nói tiếng Anh như: Anh, Mỹ, Úc, Niu-

di-lân đầu thế kỉ XIX và giai đoạn trước, sau năm 1945 sử dụng cách phân loại của

các nghiên cứu đi trước và cùng chung một khái niệm về HĐNNPP nên có chung cách

phân loại; chia ra thành chiến lược phê phán trực tiếp và chiến lược phê phán gián tiếp.

Nhìn chung, các nghiên cứu về HĐNNPP nêu trên tập trung vào 5 chủ đề chính sau: 1) Đặc điểm của HĐNNPP; 2) Chủ đề của HĐNNPP; 3) Phân loại HĐNNPP; 4) Hiệu lực của HĐNNPP; 5) Tính lịch sự của HĐNNPP. Mặc dù đây là những nghiên cứu ban đầu về HĐNNPP, cũng có thể còn có những ý kiến chưa đồng thuận như: phân loại HĐNNPP còn chồng chéo, chưa rạch ròi; các khảo sát về chủ đề của HĐNNPP chưa thực sự sát với thực tế cuộc sống; phần hiệu lực của HĐNNPP mới chỉ tìm hiểu ở góc độ nhận thức, cảm nhận chưa nghiên cứu những hành động cụ thể, chưa đi vào thực tế của phát ngôn,...[52, tr.4-6]; ngữ liệu khảo sát chủ yếu là những HĐNNPP lấy từ các tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu, song những nghiên cứu này đã góp phần mang lại những gợi ý, đường hướng hết sức quý báu trong việc tìm hiểu HĐNNPP ở thể loại TPBC trong nghiên cứu của chúng tôi.

1.1.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí tiếng Việt

1.1.2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí

a. Trên thế giới

Việc nghiên cứu về NNBC nói chung từ nhiều góc nhìn khác nhau đã đạt được những thành tựu quan trọng. Dưới góc nhìn của báo chí - xã hội học, những vấn đề về

truyền thông đại chúng đã được đề cập đến từ những năm 50 của thế kỉ XX. Frank

17

Dance trong cuốn Khái niệm cơ bản về truyền thông, đã khái quát vai trò quan trọng

của ngôn ngữ trong quá trình truyền thông [119, tr.9-11]. John R Hohenberg (Mỹ) với

công trình Ký giả chuyên nghiệp: lý thuyết và thực hành trong các ngành truyền thông đại chúng [72], trình bày về những vấn đề thuộc nghiệp vụ báo chí như: thể

thức căn bản trong nghề báo, ký giả hành văn, những nguyên tắc của nghề phóng

viên,…Khoa Báo chí, thuộc Học viện Báo chí & Tuyên truyền (1998) đã phát hành

cuốn Nhà báo: bí quyết kĩ năng - nghề nghiệp, dựa trên tác phẩm Nhà báo và thông tin của hai tác giả Vốtxkobôinhicốp và Iyriev [148]. Tại công trình này, các tác giả đã

dành một chương để nói về đặc thù của NNBC. Hai tác giả người Mỹ là Leonard Ray

Teel và Ron Taylor với cuốn Bước vào nghề báo (2004) [88], đã giới thiệu những

kiến thức cơ bản và kinh nghiệm của nghề viết báo, làm báo. Cuốn Nghệ thuật thông tin (2004), Line Ross (người Canada) [92] đề cập về những quy tắc viết báo, cách viết

báo với từng thể loại cụ thể đến những tri thức, kinh nghiệm cơ bản trong thu thập

thông tin, lựa chọn, sắp xếp, bố cục, cách viết và biên tập tin,... Tiếp đó Philip

Gaillard (người Pháp), trong cuốn Nghề làm báo (2007) [107] đã trình bày một số nội

dung rất cơ bản của nghề làm báo. Khoa Báo chí, Trường Đại học Missouri (Mỹ) với

cuốn Nhà báo hiện đại [131] là cuốn cẩm nang dạy nghề cho những ai muốn trở

thành nhà báo thực thụ. NNBC được đề cập ở các góc độ khác nhau: phát âm, từ ngữ,

ngữ pháp, phong cách, diễn đạt, viết tắt…

Nhìn chung, NNBC được nghiên cứu từ các cách tiếp cận khác nhau với các mức độ khác nhau của nhiều tác giả. Mặc dù những tổng lược về tình hình nghiên

cứu NNBC trên đây của chúng tôi chưa thực sự được đầy đủ, song theo quan sát của

chúng tôi, những nội dung nghiên cứu về NNBC còn dàn trải ở một vài khía cạnh,

hầu hết tiếp cận dưới góc nhìn của báo chí - xã hội học.

b. Ở Việt Nam

Theo quan sát của chúng tôi, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến

NNBC, có thể tạm chia thành hai hướng chính: i) Nghiên cứu về NNBC nói chung;

ii) Nghiên cứu về NNBC theo hướng tìm hiểu sâu vào một lĩnh vực hoặc một khía

cạnh cụ thể.

* Hướng nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí nói chung

Theo hướng này, các nhà nghiên cứu khái quát trên diện rộng, đề cập đến những vấn đề cơ bản và khái quát nhất về NNBC, như phong cách, thể loại, đặc điểm NNBC,... Nghiên cứu về NNBC nói chung được quan tâm khoảng vào giai đoạn đầu của thế kỉ XX. Cụ thể các tác giả như: Đào Đinh Nhất, Dương Quảng Hàm, Nguyễn

Ngu Í, Phạm Long Điền, Nguyễn Hiến Lê,… Những nghiên cứu của các tác giả này chủ yếu là những bài viết được đăng trên các báo và tạp chí. Tiếp đó, Trường Tuyên

18

huấn Trung ương (1977) với Giáo trình nghiệp vụ báo chí [144], đề cập tới những

vấn đề lí luận chung về nghiệp vụ báo chí. Ngoài ra, giáo trình này còn trình bày kĩ

thuật viết bài ở một số thể loại báo chí cụ thể.

Giai đoạn sau, NNBC được đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm như: Đinh

Trọng Lạc, Nguyễn Trọng Báu, Hoàng Ngọc Hiến, Đức Dũng, Hà Minh Đức, Đinh

Văn Đức, Vũ Quang Hào, Hoàng Anh, Nguyễn Tri Niên, Hữu Đạt,… Cụ thể, xuất

phát từ góc độ chức năng của NNBC, Đinh Trọng Lạc (1993), trong Phong cách học tiếng Việt [84], xác lập các khái niệm về phong cách học, đưa ra cách phân loại gồm

5 phong cách chức năng, trong đó có phong cách NNBC, chỉ ra những đặc điểm cơ

bản của NNBC về các phương diện từ vựng, cú pháp, kết cấu,… Công trình nghiên

cứu này mới chỉ đề cập đến những đặc điểm khái quát của một số thể loại báo chí cụ thể. Nguyễn Trọng Báu (1995) với công trình Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí

[06], ngoài việc cung cấp những cơ sở chung có tính lý luận và thực tiễn về những

chuẩn mực ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp;... Đức Dũng (1998) với Các

thể kí báo chí [27] là công trình nghiên cứu hệ thống lí thuyết về các thể kí báo chí.

Bên cạnh việc phân tích nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của các thể kí báo

chí, tác giả còn đề cập đến kĩ năng sáng tạo tác phẩm báo chí. Hà Minh Đức (2000),

trong công trình Cơ sở lí luận báo chí - đặc tính chung và phong cách [43], chỉ ra đặc

tính chung và một số yêu cầu chung đối với NNBC. Đinh Văn Đức và Nguyễn Hòa

(1999) với các bài viết nghiên cứu về một số vấn đề của NNBC như: Quan yếu trong cấu trúc diễn ngôn bản tin chính trị - xã hội trên tư liệu báo in tiếng Anh và tiếng Việt

[41]; Đinh Văn Đức (2003) với NNBC tiếng Việt đầu thế kỷ XX: một quan sát về

ngôn ngữ của báo chí cách mạng Việt Nam, giai đoạn 1925 - 1945 [41].

Xuất phát từ góc độ chức năng của báo chí, NNBC được Hữu Đạt (2000), trình

bày trong cuốn Phong cách học và phong cách chức năng tiếng Việt đã chỉ ra đặc

điểm ngôn ngữ của phong cách báo chí bao gồm: 1) Chức năng thông báo; 2) Chức

năng hướng dẫn dư luận; 3) Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng; 4) Tính chiến

đấu mạnh mẽ; 5) Tính thẩm mĩ và giáo dục; 6) Tính hấp dẫn và thuyết phục; 7) Tính

ngắn gọn và biểu cảm; 8) Đặc điểm về cách dùng từ. [35]. Vũ Quang Hào (2001), trong công trình Ngôn ngữ báo chí [55], đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của NNBC. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về NNBC, đề cập một cách khá đầy đủ, khoa học đến hầu hết các lĩnh vực cơ bản của NNBC. Tuy nhiên, báo chí được hiểu theo nghĩa rộng, gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và sau này là báo mạng điện tử nên còn hai lĩnh vực nữa đó là báo truyền hình và báo điện tử chưa

được tác giả đề cập. Mặt khác, khi nói tới NNBC không thể không nói đến đặc điểm ngôn ngữ của từng thể loại báo chí vốn có những đặc trưng riêng, vì thế vấn đề này

cũng chưa được tác giả đề cập đến trong công trình này. Hoàng Anh (2003), trong

19

Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trong báo chí [01], là tập hợp các bài viết của tác

giả đề cập đến một số vấn đề thuộc địa hạt NNBC, gồm các vấn đề như: đặc điểm của

NNBC, sự kết hợp khuôn mẫu và biểu cảm trong NNBC, cách thức tạo giá trị biểu cảm trong NNBC, sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn học và NNBC,…Theo tác giả, nét

đặc trưng bao trùm của NNBC đó chính là có tính sự kiện. Nguyễn Tri Niên (2004),

trong chuyên luận Ngôn ngữ báo chí [96] đã đề cập đến đặc điểm của NNBC: cách

tiếp cận hiện thực đặc thù; đặc điểm loại hình ngôn ngữ sự kiện; ngôn ngữ phỏng vấn, ngôn ngữ tin; những mối quan hệ của NNBC.

Tiếp đó, những vấn đề cơ bản của NNBC được các tác giả như Nguyễn Đức

Dân, Hoàng Anh, Hồ Xuân Mai,…nghiên cứu và hệ thống một cách tương đối đầy

đủ. Trước hết, Nguyễn Đức Dân (2007), trong cuốn NNBC - những vấn đề cơ bản [26] đã hệ thống lại những kiến thức và các loại hình ngôn ngữ đặc thù của báo chí

Việt Nam hiện nay. Hoàng Anh (2008), trong Những kĩ năng về sử dụng ngôn ngữ

trong truyền thông đại chúng [03] đề cập đến một số vấn đề cụ thể như: ngôn ngữ

phóng sự, ngôn ngữ báo điện tử, ngôn ngữ của người dẫn chương trình (MC) trên đài

truyền hình,... Trần Thanh Nguyện, trong Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ

Chí Minh (2011) [102] đã xác lập một cái nhìn khá bao quát về đặc điểm của NNBC

trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách thức tổ chức văn bản. Hồ Xuân

Mai (2014), trong cuốn NNBC và biên tập báo [94], nghiên cứu NNBC từ việc đối

chiếu nhằm nêu bật những đặc trưng khác biệt giữa NNBC với ngôn ngữ thông thường.

NNBC được các nhà nghiên cứu Dương Xuân Sơn, Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn

Thị Hằng Thu, Trần Thế Phiệt,… xem xét dưới các góc độ như thể loại báo chí, tác

phẩm báo chí,…Dương Xuân Sơn (2012), trong Giáo trình các thể loại báo chí chính

luận - nghệ thuật [120], trên cơ sở kế thừa, tổng kết các nghiên cứu của các tác giả

trước đó, đã đưa ra khái niệm về thể loại báo chí, trong đó đáng lưu ý là thể loại

TPBC. Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị Hằng Thu (2012), trong Giáo trình tác

phẩm báo chí đại cương [138], đề cập đến những vấn đề lí luận cơ bản nhất về tác

phẩm báo chí, trong đó có chỉ ra các đặc tính cơ bản và các thành phần ngôn ngữ của NNBC. Trần Thế Phiệt (2014), đề cập đến NNBC trong Tác phẩm chính luận báo chí [106], trình bày những vấn đề cơ bản của tác phẩm chính luận báo chí. Đặc biệt, trong phần nội dung và hình thức phản ánh, tác giả đề cập đến các phương tiện diễn đạt như: từ ngữ, cú pháp; âm hưởng, giọng điệu và phong cách, kết cấu,…

Nhìn chung, hướng nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề lí luận cơ bản

nhất của NNBC, góp phần phát triển hệ thống lí luận về NNBC Việt Nam. Những nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng cho những nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh

20

vực cụ thể của NNBC.

* Hướng nghiên cứu tìm hiểu NNBC theo từng lĩnh vực cụ thể, chuyên sâu

Nghiên cứu NNBC trên phương diện thể loại báo chí như: phóng sự, thông cáo báo chí,…có thể kể đến các tác giả như: Trịnh Thị Bích Liên (2009), Phóng sự Việt

Nam thời kì Đổi mới [91]; Cao Thị Xuân Phượng (2011), Phóng sự Việt Nam thời kì

Đổi mới [111];…

NNBC được tìm hiểu, nghiên cứu trên các bình diện của ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng…; hoặc phong cách ngôn ngữ, cấp độ ngôn

ngữ,…Có thể kể đến các nghiên cứu đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ của các tác giả tiêu

biểu như: Nguyễn Văn Khang (1997), Xung quanh vấn đề cách viết các từ nước

ngoài trên sách báo tiếng Việt hiện nay; Vấn đề chính tả tiếng Việt cho các đơn vị từ vựng nước người và gốc nước ngoài trên sách báo tiếng Việt và ngôn ngữ các dân

tộc thiểu số ở Việt Nam (1998) [77]; Nguyễn Bảo (1999), Viết tắt trên báo chí hiện

nay [05]; Hoàng Anh (2003), Chơi chữ trên báo chí [02]; Nguyễn Đức Dân (2004),

Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo chí [25]; Huỳnh Văn Tài (2005),

Bước đầu xem xét đặc điểm ngữ nghĩa của lớp từ mới tiếng Việt trên báo chí giai

đoạn 2005 - 2007 [124]; Ngô Gia Thi (2002), Đôi nét về chữ và nghĩa trên báo Giáo

dục và Thời đại Chủ nhật [135]; Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh,

Trần Thị Nguyệt (2014), Khảo sát hiện tượng chệch chuẩn trên báo chí [18] (Báo

Pháp luật Tp. HCM) như: chệch chuẩn về ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa,…

Ngoài ra, NNBC còn được đề cập ở những khía cạnh cụ thể hơn, chẳng hạn như ngôn ngữ quảng cáo, ngôn ngữ bình luận, ngôn ngữ tít báo - tiêu đề, ngôn ngữ của người phỏng vấn,…Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu: Mai Xuân Huy (2005), Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lí thuyết giao tiếp, cho rằng quảng cáo là một hoạt động giao tiếp và HĐNN của người bán hàng để bán trong cuộc trao đổi, trò chuyện với người có khả năng mua hàng. Các bình diện của ngôn ngữ quảng cáo nhìn từ lí thuyết giao tiếp - Ngữ dụng học được tác giả đề cập khá tỉ mỉ và toàn diện [66]. Trần Thu Nga (2007) trong Đầu đề tác phẩm báo chí trên báo in Việt Nam hiện nay [97] chú tâm lý giải các kiểu loại ngôn ngữ tít báo và nghệ thuật rút tít, biên tập tít…Công trình khảo sát tít của hầu hết các thể loại báo chí nhưng phạm vi TPBC mới chỉ có một vài cảm nhận khái quát chung chung, chưa đi vào đánh giá chuyên sâu. Huỳnh Thị Chuyên (2014), trong Ngôn ngữ bình luận trong báo in tiếng Việt hiện nay [19], khảo sát, phân tích các đặc điểm ngôn ngữ thể hiện nghĩa tư tưởng, nghĩa liên nhân và nghĩa văn bản của diễn ngôn bình luận; từ đó rút ra những đặc điểm tiêu biểu của ngôn ngữ văn bản bình luận trong báo in tiếng Việt.

Để góp phần làm rõ hơn những đặc điểm của NNBC Việt Nam, theo quan sát của chúng tôi, còn có một hướng nghiên cứu NNBC Việt Nam trong sự so sánh, đối

chiếu với NNBC nước ngoài. Có thể kể đến các công trình của các tác giả: Nguyễn

21

Hòa (1999), Phân tích diễn ngôn về chính trị xã hội trên tư liệu báo chí tiếng Anh và

tiếng Việt hiện đại [62]; Nguyễn Thị Thanh Hương (2003), Đối chiếu ngôn ngữ

phóng sự trong báo in tiếng Anh và tiếng Việt [68]; Phạm Hữu Đức (2008), Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản tin tiếng Việt so sánh với văn bản tin tiếng Anh [44]; Nguyễn

Hồng Sao (2010), So sánh NNBC tiếng Việt và tiếng Anh qua một số thể loại [116];…

Hướng nghiên cứu này đã đề cập đến phân tích diễn ngôn theo lối chuyển dịch hoặc

phân tích trên bình diện đối chiếu cấu trúc, chức năng, thể loại, ngôn ngữ,… tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các trường phái báo chí.

Ngoài ra, theo quan sát của chúng tôi, NNBC còn được nghiên cứu dưới góc độ

khoa học liên ngành như: tâm lí học, xã hội học, chính trị học, truyền thông,…Chẳng

hạn như các nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Đức Tồn (1999), Hoạt động ngôn ngữ phát thanh và truyền hình từ cách nhìn của tâm lí ngôn ngữ học [142]; Hoàng

Anh (2008), Những kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trên truyền thông đại chúng [03];

Trịnh Sâm (2008), Đặc điểm NNBC nhìn từ góc độ hoạt động báo chí ở Tp.Hồ Chí

Minh [117]; Dương Xuân Sơn (2013), Báo chí Việt Nam trong thời kì Đổi mới [122];

Đinh Kiều Châu, Ngôn ngữ truyền thông qua ba sản phẩm truyền thông (2014) và

Ngôn ngữ truyền thông và tiếp thị - góc nhìn từ lí luận đến thực tiễn (2016) [13 &14].

Các khía cạnh của ngôn ngữ truyền thông và tiếp thị được đề cập một cách có

hệ thống.

Nhìn chung, NNBC vẫn còn là lĩnh vực hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Theo đánh giá của chúng tôi, mặc dù mới bắt đầu được các nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm

từ khoảng những năm 90 của thế kỉ XX, song những nghiên cứu về NNBC cũng đã

đạt được những thành tựu đáng kể. Những vấn đề cơ bản nhất của NNBC đã được các

nhà nghiên cứu đề cập, trong đó có sự đối chiếu với các ngôn ngữ nước ngoài. Hơn

nữa, NNBC còn được các tác giả nghiên cứu dưới góc độ khoa học liên ngành,

nghiên cứu ngôn ngữ dưới góc nhìn thể loại riêng biệt... Những vấn đề về NNBC

đang tiếp tục được các tác giả tìm hiểu sâu rộng hơn, phát triển ở tầm cao hơn.

1.1.2.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí tiếng Việt

Theo quan sát của chúng tôi, nghiên cứu về ngôn ngữ TPBC đã thu hút được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, được chia thành hai khuynh hướng: i) những nghiên cứu có tính lý thuyết; ii) những nghiên cứu cụ thể về ngôn ngữ từng tác giả, tác phẩm.

a. Hướng nghiên cứu có tính lý thuyết về ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí nói chung

Theo hướng nghiên cứu này, có thể kể đến các tác giả và các công trình nghiên

cứu tiêu biểu sau: tác giả Đinh Trọng Lạc (1993), trong Phong cách học tiếng Việt [84] đã trình bày những nét khái quát và cơ bản nhất về thể loại TPBC: định hình quan niệm, cấu trúc, mục đích thể loại. Đây có thể coi là những nghiên cứu ban đầu

22

của tác giả về thể loại TPBC. Trong cuốn sách Năm bài giảng về thể loại, Hoàng

Ngọc Hiến đã đề cập đến thể loại tiểu phẩm. Theo tác giả, tiểu phẩm còn có tên gọi là

ét-xe (esse) xếp nó vào các thể ký và cho rằng: “Chỗ mạnh của tư duy ét-xe là ở chỗ mặc dù không chuyên một lĩnh vực nhận thức nào, nó vẫn có thể "đọc" được những

điểm bất ngờ, thú vị tức là những phát hiện sâu sắc và xuất sắc... [57]. Tạ Ngọc Tấn

(2000) trong công trình Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh [127], những kiến thức lí

luận chung nhất về thể loại TPBC đã được tác giả hệ thống hóa và đưa ra những nhận định khái quát tương đối toàn diện. Lý Sinh Sự (2007) trong cuốn Hãy viết tiểu phẩm

đi đề cập đến cách viết TPBC trong đó bàn đến vấn đề ngôn ngữ trong tiểu phẩm; có

hai yếu tố quan trọng nhất của tiểu phẩm đó là yếu tố nội dung - sự kiện và ngôn ngữ

[123]. Dương Xuân Sơn (2012), trong cuốn Giáo trình các thể loại báo chí chính luận- nghệ thuật [121], những vấn đề lí luận cơ bản của thể loại TPBC được tác giả

hệ thống và trình bày khá chi tiết. Đức Dũng trong Tiểu phẩm, một thể loại văn học

năng động trong môi trường báo chí [28]; Thể loại tiểu phẩm và tiếng cười trong tiểu

phẩm [29]: các vấn đề liên quan đến tiểu phẩm đã được tác giả bàn tới như: quan

niệm và nhận diện tiểu phẩm, sự ra đời và phát triển của tiểu phẩm, con đường sáng tạo tiểu phẩm, …

Nhìn chung, nghiên cứu về TPBC bước đầu đã được các nhà nghiên cứu quan

tâm. Hệ thống kiến thức lí luận chung nhất về thể loại TPBC đã được các tác giả hệ

thống hóa và đưa ra những nhận định khái quát tương đối toàn diện về: khái niệm, lịch sử ra đời, đặc trưng, đặc điểm kết cấu thể loại, đối tượng, mục tiêu phương pháp

phán ánh, nghệ thuật viết, các tiểu thể loại,... Đồng thời, các tác giả đã tìm hiểu, đánh

giá bước đầu về quá trình hình thành, sự vận động, phát triển của thể loại TPBC.

b. Hướng nghiên cứu về ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí qua việc nghiên cứu

phong cách ngôn ngữ của từng tác giả, tác phẩm tiêu biểu

Trước hết, các nghiên cứu về TPBC và ngôn ngữ TPBC chủ yếu chú tâm đến các cây bút viết tiểu phẩm tiêu biểu của Việt Nam như Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố, Hữu Thọ, Thảo Hảo, Lê Hoàng,… Theo hướng nghiên cứu này, chúng tôi có thể kể đến các công trình và các tác giả tiểu biểu như: Tạ Ngọc Tấn (2000), với công trình Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh [127], đã bàn đến các vấn đề về nội dung, hình thức, ngôn ngữ, phương pháp sáng tạo trong TPBC Hồ Chí Minh,… Phan Cự Đệ (chủ biên) (2005), trong công trình Di sản báo chí Ngô Tất Tố - ý nghĩa lý luận và thực tiễn [37] chỉ ra những đặc sắc của ngôn ngữ TPBC Ngô Tất Tố. Đặng Mỹ Hạnh (2014), Đặc điểm vốn từ trong các tác phẩm của nhà báo Hữu Thọ [54] đã khái quát những đặc điểm vốn từ cơ bản thuộc NNBC trong các tác phẩm của ông.

23

Như vậy, nghiên cứu về từng phong cách tác giả - cây bút tiểu phẩm tiêu biểu cũng khá phong phú. Đặc trưng phong cách ngôn ngữ của từng tác giả tiểu phẩm cũng đã được các nhà nghiên cứu bước đầu khai thác làm rõ.

Theo quan sát của chúng tôi, cả hai hướng nghiên cứu nói trên đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Nhìn chung hệ thống lí luận về TPBC đã được xác lập; những nhận định đánh giá về sự vận động, phát triển của thể loại TPBC cũng đã được các nhà nghiên cứu bàn tới và theo đó là những nghiên cứu cụ thể về từng tác giả viết tiểu phẩm cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Những nghiên cứu này sẽ góp phần tích cực vào công tác nghiên cứu TPBC nói chung và việc sáng tạo TPBC nói riêng. Như vậy, bức tranh tổng thể về nghiên cứu HĐNN và NNBC nói chung, ngôn ngữ TPBC cũng đã khá phong phú, song những nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ TPBC vẫn còn rất ít, đặc điệt là hướng nghiên cứu về HĐNNPP trong từng thể loại báo chí cụ thể còn chưa được các nhà nghiên cứu đề cập tới.

1.1.3. Nghiên cứu về HĐNN phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt

Dưới góc độ ngôn ngữ học, HĐNNPP có tính chất phức tạp và mang bản chất là

đe dọa thể diện cao đối với người nhận HĐNNPP. Tuy vậy, trong thực tế cuộc sống,

với những tình huống giao tiếp cụ thể, chúng ta không thể tránh khỏi việc buộc phải

đưa ra những HĐNNPP. Như phần trên chúng tôi đã có dịp trình bày, trong những

năm gần đây, mặc dù nghiên cứu về các HĐNN nói chung và các HĐNN cụ thể như:

khen, chê, mời, rủ, thỉnh cầu, từ chối, thề,… rất phong phú, song điều đáng nói là

những nghiên cứu về HĐNNPP lại rất khiêm tốn.

Như vậy, có thể nói còn rất nhiều vấn đề để ngỏ cần được tiếp tục đi sâu tìm

hiểu về HĐNNPP. Điều đặc biệt đáng nói là các công trình đã đề cập về TPBC tuyệt

đại đa số đều xuất phát từ góc độ báo chí học để nghiên cứu. Hầu như còn vắng bóng

những công trình nghiên cứu ngôn ngữ trong TPBC từ góc độ ngôn ngữ học nói

chung, ngữ dụng học nói riêng theo hướng chuyên sâu riêng biệt. Vì thế, việc triển

khai đề tài “Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời

kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)” là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quan trọng về

mặt lý luận và thực tiễn.

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài

1.2.1. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ

1.2.1.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ

Hoạt động lời nói là một phần, một dạng trong toàn bộ hoạt động sống của con người. Tư tưởng này đã được Heghen đề cập tới từ rất sớm, ông viết: “Lời nói thực chất là những hành động diễn ra giữa những con người, cho nên nó không phải là trống rỗng” (Dẫn theo Phạm Văn Thấu [130, tr.22]). Song phải đến những năm 60

của thế kỷ XX, các tác giả J.Austin (1962) và J. Searle (1969) mới đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này và đề xuất lý thuyết HĐNN.

Theo các nhà ngữ dụng học, hành động được thực hiện bằng ngôn ngữ được gọi

24

là hành động ngôn ngữ (hay còn gọi là hành động ngôn từ, hành vi ngôn ngữ, hành

động nói, hành động ngôn tại, hành động ngôn tác, hành động ngôn trung,...). Austin

cho rằng, người ta thực hiện bằng 3 loại HĐNN lớn khi nói ra một phát ngôn: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.88]).

Hành vi tạo lời (acte locutoire): là hành động người nói sử dụng các yếu tố của

ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu… để tạo ra một phát ngôn có

hình thức và nội dung ít nhiều được xác định;

Hành vi mượn lời (acte perlocutoire): là những hành động “mượn” phương tiện

ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả nào đó

ngoài ngôn ngữ, tức sự tác động (tâm lý, vật lý) nào đó mà phát ngôn đem lại ở người

nghe, người nhận hoặc ở chính người nói;

Hành vi ở lời (acte illcutoire): là những hành động người nói thực hiện ngay khi

nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng

gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận, trong sự chi phối

bởi những quy tắc, thiết chế xã hội nhất định, một môi trường văn hóa - ngôn ngữ nào

đó. Những hành động đó là: cảm ơn, xin lỗi, đề nghị, ra lệnh, hứa, thề, khuyên, bảo,...

O. Ducrot nói rõ thêm về hành vi ở lời. Theo ông, hành vi ở lời khác với hành vi

tạo lời và hành vi mượn lời ở chỗ chúng thay đổi tư cách pháp nhân của người đối

thoại. Chúng đặt người nói và người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so

với tình trạng của họ trước khi thực hiện hành động ở lời đó (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.90]).

Trong ba loại HĐNN nêu trên thì hành động ở lời là đối tượng nghiên cứu chính

của ngữ dụng học. Ngữ dụng học chỉ quan tâm tới các hiệu lực ở lời. Các phát ngôn

ngữ vi là sản phẩm, cũng là phương tiện của các hành động ở lời [12, tr.91]. Như vậy

hiểu theo nghĩa hẹp, HĐNN chính là hành động ở lời. Trong luận án này, chúng tôi

cũng chỉ bàn tới hành động ở lời với thuật ngữ biểu đạt là hành động ngôn ngữ.

Có thể nhận định rằng, hai tác giả Austin và Searle là những người đặt nền

móng đầu tiên cho lý thuyết HĐNN. Lý thuyết này về sau tiếp tục được các nhà

nghiên cứu mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết này liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án, sẽ được chúng tôi trình bày ở phần tiếp theo.

* Về thuật ngữ "hành động ngôn ngữ" (speech acts)

Qua tìm hiểu những nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến thuật ngữ speech

act, chúng tôi thấy, có những cách dịch khác nhau của các tác giả sau đây:

- Hành vi ngôn ngữ: Hành vi tạo lời, hành vi mượn lời, hành vi tại lời (Nguyễn

25

Đức Dân, Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb Giáo dục, H.1998);

- Hành vi ngôn ngữ: Hành vi tạo lời, hành vi mượn lời, hành vi ở lời (Đỗ Hữu

Châu, Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2 - Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, H.2001);

- Hành động ngôn từ: Hành động tạo lời, hành động mượn lời, hành động tại lời

(Nguyễn Văn Hiệp, Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, H.2010);

- Hành động ngôn tại (hoặc hành động ngôn tác, hành động ngôn trung

(Nguyễn Thiện Giáp, 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội)

- Hành động ngôn ngữ: Hành động tạo lời, hành động mượn lời (hành động

xuyên ngôn), hành động ở lời (trong lời, ngôn trung) (Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng,

Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, H.2012).

Như vậy, có thể thấy hành động được thực hiện bằng ngôn ngữ được gọi bằng các thuật ngữ khác nhau như: hành vi ngôn ngữ, hành động ngôn từ, hành động ngôn

ngữ, hành động ngôn tại, hành động ngôn tác, hành động ngôn trung,... Trong luận

án này, ngoại trừ những phần trích dẫn nguyên văn ý kiến của tác giả khác, chúng tôi

nhất quán sử dụng thuật ngữ hành động ngôn ngữ. HĐNN chính là hạt nhân của

giao tiếp ngôn từ.

1.2.1.2. Phân loại hành động ngôn ngữ

Trong thực tế, số lượng các HĐNN rất lớn, vì thế việc tìm hiểu và phân loại

chúng quả là vấn đề rất phức tạp. Cho đến nay, các nhà ngữ dụng học vẫn chưa thể

thống nhất được về cách phân loại cũng như về số lượng của chúng. Theo quan sát của chúng tôi, có một số hướng phân loại cơ bản sau:

a. Trước J.L. Austin và J.R. Searle

Wittgenstein đã nói tới các HĐNN, mặc dầu nhà triết học này không dùng thuật

ngữ hành vi mà dùng thuật ngữ "trò chơi ngôn ngữ". Ông đã liệt kê hàng loạt những

HĐNN như: đưa ra một mệnh lệnh và tuân lệnh, miêu tả bề ngoài một vật và đo đạc

nó, tường thuật lại một sự kiện, nghiên cứu một vấn đề, hình thành và kiểm nghiệm

một giả thuyết, trình bày kết quả nghiên cứu bằng bảng biểu, viết và đọc truyện, diễn

kịch, giải câu đố, nói đùa, hỏi, cảm ơn, chửi, chào, cầu nguyện,...Thế nhưng, ông lại cho rằng không thể phân loại được chúng.

b. Phân loại của hai tác giả J.L.Austin và J.R.Searle

Trong thực tế, các HĐNN rất đa dạng và không giống nhau ở mỗi ngôn ngữ. Vì thế, việc phân loại HĐNN sẽ không phải là đơn giản. Đến giai đoạn sau, các nhà ngữ dụng học đã cố gắng tìm hiểu và phân loại về các HĐNN đó. Theo chúng tôi thấy, có

nhiều tác giả đã cố gắng phân loại HĐNN, nhưng được đề cập đến nhiều và đáng chú ý hơn cả là hai hướng phân loại của hai tác giả J.L.Austin và J.R.Searle.

26

* Phân loại của J.L. Austin: chia ra 5 phạm trù HĐNN:

i) Phán xử (Verditives, verditifs): là những hành động đưa ra những lời phán xét

(verdicts) về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cứ hiển nhiên hoặc dựa vào lý lẽ vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán, miêu tả, phân tích, đánh

giá, phân loại, cho là, hủy bỏ, nêu đặc điểm,…

ii) Hành xử (Exercitives, exercitifs): là những hành động đưa ra những quyết

định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó, như: ra lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo và các HĐNN như: bổ

nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc, cảnh cáo, tuyên ngôn,...

iii) Cam kết (Commissives, commissifs): những hành động này ràng buộc

người nói vào một chuỗi những hành động nhất định, như: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao ước bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham gia một phe

nhóm,...

iv) Trình bày (Expositives, expositifs): những hành động này được dùng để trình

bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như: khẳng định, phủ

định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, dẫn ví dụ, chuyển dạng lời, báo cáo các ý kiến,...

v) Ứng xử (Behabitives, comportementaux): là những hành động phản ứng với

cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan; chúng cũng là cách biểu

hiện thái độ đối với hành động hay số phận của người khác, như: xin lỗi, cảm ơn,

khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước, nguyền rủa, nâng cốc, chống lại, thách thức, nghi ngờ,… (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.121])

Về cách phân loại của Austin, chính tác giả cũng nhận ra rằng, cách phân loại

của mình còn những vấn đề chưa thực sự thỏa đáng như: có chỗ còn chồng chéo, có

chỗ còn mơ hồ không xác định được rõ ràng. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy, sự phân

loại này còn có các ý kiến phê bình khác, đặc biệt là ý kiến của Searle (1997) và

Leech (1983). Searle cho rằng sự phân loại của Austin bởi những tiêu chí còn chồng

chéo và không rõ ràng, nên đã có những yếu tố không tương hợp được xếp trong một

lớp. Hơn nữa lại có những hành động về bản chất chúng cùng loại nhưng lại được

Austin xếp vào các lớp khác nhau. Như vậy, rõ ràng là cách phân loại của Austin còn những hạn chế nhất định.

* Phân loại của J.R. Searle

J.R. Searle chỉ ra những hạn chế trong bảng phân loại của J. L. Austin vì ông cho rằng J. L. Austin không định ra các tiêu chí phân loại, do đó kết quả phân loại có

khi giẫm đạp lên nhau. Trong Speech Acts, J. R. Searle tiến hành phân loại các ĐTNH J. R. Searle cho rằng trước hết là phải phân loại các HĐNN chứ không phải phân loại các động từ gọi tên chúng và nếu xác lập được một hệ thống tiêu chí thích hợp

27

với các HĐNN thì có thể giải tỏa được tình trạng giẫm đạp lên nhau của các phạm

trù, các nhóm trong từng phạm trù HĐNN. Searle đã liệt kê ra 12 điểm khác biệt giữa

các HĐNN có thể dùng làm tiêu chí phân loại các HĐNN và ông đã phân lập được 5 loại HĐNN, (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.124]) cụ thể:

i) HĐNN biểu hiện (còn gọi là trình bày, khảo nghiệm, thông tin miêu tả, xác

tín): Có đích ngôn trung miêu tả sự tình đang được nói tới; hướng khớp ghép là làm

cho từ ngữ khớp với thực tại; trạng thái tâm lý là niềm tin vào điều được miêu tả; NDMĐ biểu đạt một sự tình. HĐNN này bao gồm các hành động như: trình bày, giải

thích, miêu tả, tán thành, thông tin,...

ii) HĐNN điều khiển (còn gọi là chi phối): Có đích ngôn trung là đặt người tiếp

nhận vào trách nhiệm thực hiện hành động nào đó trong tương lai; hướng khớp ghép là làm cho thực tại khớp với từ ngữ; trạng thái tâm lí là sự mong muốn của người phát

ngôn; NDMĐ biểu đạt hành động trong tương lai của người tiếp nhận. HĐNN điều

khiển bao gồm các hành động như: ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, cho phép, cấm buộc, chỉ

thị, khuyên,…

iii) HĐNN cam kết (còn gọi là kết ước): Có đích ngôn trung là đặt người phát

ngôn vào trách nhiệm thực hiện một hành vi nào đó; hướng khớp ghép là làm từ ngữ

khớp với thực tại; trạng thái tâm lí là ý định của người phát ngôn; NDMĐ biểu đạt

hành động trong tương lai của người phát ngôn. Hành động cam kết gồm các hành

động như: cam đoan, cam kết, hứa, hứa hẹn, thề, biếu, tặng, cho,…

iv) HĐNN biểu cảm (bộc lộ): Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với

hành động ở lời; trạng thái tâm lí thay đổi tùy theo hành động ở lời; NDMĐ là một

hành động hay trạng thái, tính chất nào đó của Sp1 hay của Sp2. Hành động biểu cảm

gồm các hành động như: vui thích/ khó chịu, mong muốn, rẫy bỏ, xin lỗi, chúc mừng,

hoan nghênh, cảm ơn, tán thưởng,…

v) HĐNN tuyên bố: Đích ở lời là làm thay đổi sự việc qua phát ngôn; hướng

khớp ghép là từ ngữ làm thay đổi thực tại; NDMĐ biểu đạt một sự tình. Hành động

này gồm các hành động như: tuyên bố, kết tội, từ chức, khai trừ,...

Nhìn chung, các tiêu chí phân loại của Searle sẽ giúp phân loại được các động từ ngôn hành thành các phạm trù lớn, rồi lại tiếp tục được chia nhỏ thành những loại và tiểu loại. Mặc dù, những tiêu chí và kết quả phân loại HĐNN của Searle là một đóng góp quan trọng đối với lịch sử phân loại HĐNN, song cách phân loại ấy cũng chưa hoàn toàn được mọi nhà ngữ dụng học thống nhất. Các tác giả như Vendler,

Bach, Harnish và Allan tiếp tục đưa ra những cách phân loại khác nhau với số lượng nhóm HĐNN khác nhau [100, tr.216]

Từ sự tìm hiểu trên, chúng tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn

28

thống nhất về cách phân loại HĐNN. Do đó, sự phân loại các HĐNN cũng chỉ là vấn

đề tương đối. Điều này cũng dễ hiểu, bởi HĐNN bao giờ cũng mang tính đặc thù văn

hóa và gắn với mỗi dân tộc, cộng đồng người cụ thể. Hơn nữa, số lượng các HĐNN trong thực tế là vô cùng lớn và giữa các ngôn ngữ khác nhau sẽ có số lượng HĐNN

không giống nhau, nghĩa là không có số lượng hành động chung cho mọi ngôn ngữ.

Trong luận án, chúng tôi sử dụng tiêu chí và kết quả phân loại HĐNN của

Searle, tức là có 5 nhóm HĐNN: tái hiện, điều khiển, cam kết, bộc lộ và tuyên bố để nhận diện và phân loại HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt. Theo đó, HĐNNPP là một

tiểu nhóm của HĐNN bộc lộ.

Việc thực hiện HĐNN không phải lúc nào cũng theo đúng với mục đích của nó. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp, người nói sử dụng HĐNN này nhưng lại hướng đến đích ngôn trung của một HĐNN khác. Vì thế, rất cần thiết phải có các tiền đề để chúng ta xác định cũng như thực hiện một HĐNN cụ thể nào đó. Từ tiền đề lý thuyết về HĐNN của Austin, Searle đã có những có những phát hiện và đóng góp rất quan trọng. Ông cho rằng, các tiền đề này không những giúp chúng ta thực hiện đúng các HĐNN, mà còn giúp chúng ta phân biệt các HĐNN khác nhau. Bởi trong thực tế, mỗi phát ngôn tùy theo tình huống giao tiếp cụ thể, mà có thể thực hiện những HĐNN khác nhau. Như vậy, để phân biệt lực ngôn trung hay những HĐNN khác nhau, phải dựa vào những căn cứ, phương tiện sau: i) Những điều kiện thực hiện HĐNN; ii) Các dấu hiệu ngữ vi hay phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời.

1.2.1.3. Điều kiện thực hiện hành động ngôn ngữ và phương tiện chỉ dẫn hiệu

lực ở lời

a. Điều kiện thực hiện hành động ngôn ngữ

Cũng giống như các hành động khác của con người, HĐNN chỉ được thực hiện thành công khi có những điều kiện nhất định. Hơn nữa, HĐNN là một hành động xã hội, do đó những điều kiện để thực hiện sẽ còn chặt chẽ và da dạng hơn nhiều so với các hành động khác của con người. Mỗi loại HĐNN, như: chào, kể, từ chối, sai khiến, hứa,... đều có những điều kiện thực hiện riêng của mình.

Điều kiện thực hiện HĐNN là những điều kiện mà nếu có chúng thì HĐNN mới có thể thực hiện và thực hiện một cách có hiệu quả được. Mỗi HĐNN đòi hỏi có những điều kiện nhất định để nó được thực hiện. Muốn nói điều gì đó thì cần có người nghe và hiểu điều mình nói. Ví dụ, người ra lệnh phải ở thế trên, bậc trên của người nhận lệnh. Đó là điều kiện để thực hiện có hiệu quả một HĐNN, được gọi là

điều kiện dùng của nó. Tuy mỗi HĐNN có thể được thực hiện trong những điều kiện riêng nhất định, nhưng vẫn có thể tìm thấy những điểm chung trong những điều kiện

29

riêng ấy.

* Quan điểm của J. L.Austin

Austin gọi các điều kiện sử dụng các HĐNN là những điều kiện thỏa mãn, nếu chúng được đảm bảo thì hành động đó mới đạt hiệu quả. Điều kiện thỏa mãn (Nguyễn Đức Dân gọi là điều kiện thuận lợi [23]) của Austin như sau: A). (i) Phải có thủ tục quy trình quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng có tính quy ước; (ii) Hoàn cảnh, con người phải thích hợp với những điều quy định trong thủ tục; B).Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ. C).Thông thường thì (i) những người thực hiện hành động ở lời phải có ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (ii) khi hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có. (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12]).

* Quan điểm của J.R. Searle

Về điều kiện sử dụng các HĐNN, Searle gọi là điều kiện may mắn. Searle cho

rằng có bốn loại điều kiện sử dụng HĐNN sau đây:

(1) Điều kiện nội dung mệnh đề: Điều kiện này chỉ ra bản chất nội dung của

HĐNN. Nội dung của mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản hay là một hàm mệnh đề.

(2) Điều kiện chuẩn bị: Là sự hiểu biết của người thực hiện hành động về năng lực, khả năng, nguyện vọng, ý định, lợi ích của người tiếp nhận hành động và quan hệ giữa người nói với người nghe. Cũng thuộc về điều kiện chuẩn bị, đó là lợi ích, trách nhiệm, năng lực vật chất, tinh thần, quyền lực,... của người nói với HĐNN nêu ra.

(3) Điều kiện chân thành (tâm lý): Chỉ ra các biểu hiện trạng thái tâm lý tương ứng của người thực hiện HĐNN, tương ứng với HĐNN mà mình đưa ra. Điều kiện tâm lý còn có nghĩa là người nói thực sự chân thành mong đợi hiệu quả ở lời của HĐNN mà mình thực hiện (bởi vậy gọi là điều kiện chân thành). Ví dụ: Hành động "hứa": Đòi hỏi người hứa phải có ý muốn, nguyện vọng thực hiện lời hứa và người tiếp nhận HĐNN đó cũng thực sự mong muốn lời hứa đó của người nói được thực hiện.

(4) Điều kiện căn bản: Khi HĐNN được phát ra có một kiểu trách nhiệm ràng buộc ngay người nói vào trách nhiệm về tính chân thực của nội dung điều vừa nói ra. Người nói chịu trách nhiệm về tính chân thực của điều đã nói (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.117]).

b. Phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (IFIDs)

Trong một phát ngôn, sẽ có những dấu hiệu đặc trưng cho chúng ta biết phát ngôn đó do HĐNN nào tạo ra, tức có hiệu lực (F) gì? Những dấu hiệu đặc trưng ấy được Searle gọi là dấu hiệu ngữ vi hay đó chính là phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (viết tắt là IFIDs). Đóng vai trò IFIDs là:

i) Các kiểu kết cấu/ cấu trúc

Các cấu trúc khác nhau ứng với những HĐNN khác nhau. Chẳng hạn, các kết cấu: có X không , X phải không là kết cấu thực hiện HĐNN hỏi; các kết cấu: không

30

được X, cấm X! là kết cấu thực hiện HĐNN cấm đoán; ...

ii) Những từ ngữ chuyên dụng cho biểu thức ngữ vi

Những từ ngữ dùng để tổ chức các kết cấu và là dấu hiệu mà nhờ chúng, chúng ta biết được HĐNN nào đang được thực hiện. Đó là những từ ngữ chuyên dụng trong

các biểu thức ngữ vi. Chẳng hạn, các từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức hỏi như: thế

nào, tại sao, ra sao,... Mỗi loại HĐNN có những phương tiện chỉ dẫn hiệu lực đặc

thù. Ví dụ: (* Bắt đầu từ đây, các ví dụ sẽ được luận án đánh số theo thứ tự)

(1) * Tại sao chúng ta có quy hoạch đất đai mà thiếu quy hoạch nhân tài [NL1,

tr.78]

Trong ví dụ (1), HĐNN được thực hiện là hành động hỏi, có các phương tiện

chỉ dẫn hiệu lực ở lời là: Tại sao...?

Nếu F là hiệu lực ở lời khuyên can, ta sẽ có phát ngôn:

(2) Thôi, không nên thực hiện tác phẩm đó nữa!

Trong ví dụ (2), HĐNN được thực hiện là hành động khuyên, có các phương

tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời là: không nên.

Ngoài phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời là các từ ngữ như đã nêu trên, trong

tiếng Việt còn có dấu hiệu là trật tự từ và ngữ điệu.

iii) Ngữ điệu

Lyons cho rằng "người nói còn có thể làm rõ lực ngôn trung của phát ngôn, tức

ý nghĩa đích thực của phát ngôn bằng nhiều dấu hiệu ngôn ngữ khác: bằng một tiểu từ tình thái đặc biệt, bằng một thức ngữ pháp đặc biệt, hoặc thậm chí bằng một kiểu ngữ

điệu đặc biệt" [100, tr.214]. Có nhiều trường hợp cùng sử dụng một cấu trúc cú pháp

hoặc cùng các từ ngữ được sắp xếp giống nhau nhưng nếu phát âm với những ngữ

điệu khác nhau/ hoặc viết với dấu câu khác nhau thì biểu thức ngữ vi sẽ ứng với

HĐNN khác nhau. Ví dụ:

(3) Anh Nam là người tốt. --> Hành động trình bày, miêu tả.

(3a) Anh Nam là người tốt? --> Hành động hỏi.

(3b) Anh Nam là người tốt! --> Hành động biểu cảm.

Trong ví dụ (3) ta thấy, cùng một nội dung sự vật, cùng sử dụng một cấu trúc cú pháp song với sự thể hiện ngữ điệu khác nhau sẽ cho ta ba HĐNN khác nhau: hành động miêu tả ở ví dụ (3), hành động hỏi ở ví dụ (3a) hoặc hành động biểu cảm ở ví dụ (3b).

iv) Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể tạo nên nội dung

mệnh đề được nêu trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ cảnh

31

Trong tiếng Việt, một số tiểu từ tình thái được xem là dấu hiệu ngôn hành của phát ngôn. Nhưng đối với PNNH nguyên cấp lại là những phát ngôn thiếu vắng

những dấu hiệu hình thức như trên. Do đó, để nắm được mục đích thực sự của những

PNNH nguyên cấp, người nghe buộc phải căn cứ vào tình huống giao tiếp cụ thể, có chứa phát ngôn ấy. Ví dụ:

(4) Ngày mai tôi sẽ đến. (Dẫn lại ví dụ [12, 103])

Phát ngôn trong ví dụ (4) nêu trên có thể tùy theo quan hệ giữa người nói và

người nghe, tùy theo tình huống giao tiếp, trong hoàn cảnh xã hội nhất định, tùy theo tính chất của việc "đến" ấy, và hơn nữa còn tùy thuộc vào ngữ điệu của người nói

phát ngôn ấy mà ta có thể hiểu theo các đích - hiệu lực ở lời khác nhau. Chúng ta

cũng có thể hiểu là một hành động thông báo thông thường, hoặc đó là hành động hứa

hẹn, hay cũng có thể hiểu đó là hành động đe dọa, cảnh báo.

Trong các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời, có hai phương tiện chỉ dẫn đặc

biệt đó là: i) quan hệ cấu trúc ngữ nghĩa của các thành tố tạo nên NDMĐ, và ii) các

động từ ngữ vi, đánh dấu cho một số biểu thức ngữ vi tường minh.

Sở dĩ gọi đó là các phương tiện chỉ dẫn đặc biệt là vì ĐTNH được dùng với

chức năng ngữ vi, đó chính là chỉ dẫn hiệu lực ở lời hết sức quan trọng để nhận diện

chính xác bản chất của HĐNN. Mặt khác, nhiều khi trong biểu thức ngữ vi không

xuất hiện ĐTNH, lúc đó căn cứ vào cấu trúc quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố tạo

nên NDMĐ mà ta biết được hiệu lực ở lời của nó.

1.2.1.4. Những nội dung nghiên cứu cơ bản về hành động ngôn ngữ

Nội dung nghiên cứu cơ bản về HĐNN gồm: hai thành phần ngữ nghĩa của phát

ngôn, phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi, đích ngôn trung, hiệu lực ở lời.

a. Hai thành phần ngữ nghĩa của phát ngôn

Theo Searle, HĐNN chính là đơn vị tối thiểu của giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mỗi

HĐNN có hiệu lực nhất định nào đó. Diễn ngôn có hai thành phần nội dung: nội dung

thông tin và nội dung liên cá nhân. Hiệu lực ở lời luôn gắn với một nội dung liên cá

nhân của diễn ngôn. Tất cả các phát ngôn do một HĐNN tạo ra đều có hai thành phần

ngữ nghĩa, đó là: 1) Nội dung thông tin (Kí hiệu p)- nội dung này thường được thể hiện thông qua một NDMĐ, phản ánh một sự tình vào phát ngôn và 2) Hiệu lực ở lời (kí hiệu F) do HĐNN tạo ra. Ví dụ:

(5) Tất cả người mù chống gậy không ai vi phạm trật tự vệ sinh. [NL11, tr.20]

Nếu F là hiệu lực ở lời trần thuật của HĐNN trần thuật thì ta có phát ngôn:

(5a) Tất cả người mù chống gậy không ai vi phạm trật tự vệ sinh.

Nếu F là hiệu lực ở lời hỏi, ta có các phát ngôn như:

(5b) Có phải tất cả người mù chống gậy không ai vi phạm trật tự vệ sinh cả không

32

(5c) Tất cả người mù chống gậy không ai vi phạm trật tự vệ sinh à?

Như vậy, mỗi phát ngôn đều có hai thành phần nghĩa nội dung thông tin và nội

dung liên cá nhân. Hai thành phần nghĩa này sẽ là cơ sở cho việc tìm hiểu các HĐNN trực tiếp cũng như những HĐNN gián tiếp (sẽ được chúng tôi giới thiệu ở phần sau)

b. Phát ngôn ngôn hành (PNNH)

Một HĐNN được tạo ra khi người nói Sp1 trao một phát ngôn cho người nghe

Sp2 trong một ngữ cảnh C nhất định. Mỗi HĐNN đều mang ít nhất một lực tại lời hay gọi là lực ngôn trung F. Lực này do người nói Sp1 tạo ra và tác động tới người nghe

Sp2. Austin đã chia động từ thực hiện hành động ra làm hai loại: động từ xác thực và

ĐTNH. Ứng với hai loại động từ này, ta có hai loại phát ngôn: phát ngôn tường thuật

và phát ngôn ngôn hành (PNNH)

Phát ngôn ngôn hành (còn gọi là phát ngôn ngữ vi): là phát ngôn - sản phẩm

của một HĐNN nào đó khi hành động này được thực hiện một cách trực tiếp, chân

thực. Nghĩa là những phát ngôn mang những hiệu lực tại lời nhất định. Những PNNH

mang hiệu lực tại lời nào đấy thường có cấu trúc hình thức (kể cả ngữ điệu) đặc trưng

cho nó như: hứa hẹn, khen, phê bình, trách cứ, chê bai,… PNNH có một kết cấu lõi

đặc trưng cho HĐNN tạo ra nó (kết cấu lõi gọi là biểu thức ngôn hành (BTNH) hay

biểu thức ngữ vi). PNNH tối thiểu là phát ngôn chỉ có BTNH. Trong giao tiếp hằng

ngày, PNNH thường mở rộng, có BTNH và thành phần mở rộng.

Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của ĐTNH, Austin đã phân chia PNNH thành

hai loại, đó là PNNH tường minh và PNNH nguyên cấp.

- PNNH tường minh: là những phát ngôn có chứa các dấu hiệu để biểu thị, chỉ ra

chính cái hành động được thực hiện khi nói ra phát ngôn đó. Dấu hiệu để biểu thị, để

chỉ ra ấy có thể là các từ thuộc từ loại khác nhau, trong đó động từ là một trong

những phương tiện. Ví dụ:

(6) Mình hứa mai mình sẽ mang cho cậu cuốn sách ấy.

(7) Tôi mời chị uống nước.

(8) Tôi phê bình cậu làm việc không khoa học.

Phát ngôn trong các ví dụ (6,7,8), hứa, mời, phê bình là động từ ngữ vi được sử dụng đúng theo hiệu lực ngữ vi của hành động hứa, mời, phê bình. Trong các phát ngôn này có chứa các động từ chỉ rõ loại hành động phát ngôn được thực hiện: hứa hẹn, mời, phê bình. Vì vậy, các phát ngôn trên sẽ được gọi là PNNH tường minh. Các động từ chỉ rõ loại hành động của phát ngôn được thực hiện như: hứa, mời, phê

bình,... được gọi là động từ ngôn hành (hay động từ ngữ vi)

- PNNH nguyên cấp (còn gọi là PPNH hàm ẩn): là những PNNH không sử dụng

ĐTNH.

33

.

Ví dụ:

(9) Mai mình sẽ mang cho cậu cuốn sách ấy. --> Hành động hứa hẹn.

(10) Cậu làm việc thật là không khoa học. --> Hành động phê phán.

Ở ví dụ (9) cũng là một phát ngôn hứa nhưng không sử dụng ĐTNH hứa; tương

tự ở ví dụ (10) cũng là một phát ngôn phê bình nhưng không sử dụng ĐTNH phê bình

và đó là những PNNH nguyên cấp.

PNNH tường minh và PNNH nguyên cấp có thể chuyển đổi được cho nhau,

nhưng chúng không đối lập nhau ở hành động và hiệu lực tại lời. Một phát ngôn

muốn trở thành PNNH thì phải thỏa mãn các điều kiện: 1) chủ ngữ của phát ngôn ấy

phải ở ngôi thứ nhất và 2) động từ ngữ vi phải được sử dụng ở thời hiện tại.

Như vậy, PNNH là phát ngôn mà khi nói ra người ta đồng thời thực hiện luôn

cái hành động được biểu thị trong phát ngôn đó. Những phát ngôn này rất đặc biệt,

bởi nó không biểu hiện một hành động mà chính nó đã là hành động rồi. Nghĩa là, khi

ta nói cũng chính là ta đã hành động.

c. Biểu thức ngôn hành (biểu thức ngữ vi, biểu thức ngôn trung)

Mỗi PNNH có thể được biểu hiện ở những dạng thức khác nhau nhưng chúng

đều có chung một biểu thức cốt lõi có chứa các dấu hiệu đặc trưng cho một HĐNN

nào đó để phân biệt nó với các HĐNN khác. Biểu thức cốt lõi đó chính là biểu thức

ngôn hành đặc trưng cho HĐNN đó. Dấu hiệu đặc trưng ấy do chính các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời đảm nhiệm; hoặc cũng có thể các phương tiện chỉ dẫn ở lời kết

hợp với NDMĐ đặc trưng (nếu có) cho một HĐNN nào đó. BTNH là dấu hiệu ngữ

pháp - ngữ nghĩa của các HĐNN; vừa là phương tiện vừa là sản phẩm của một

HĐNN.

Đỗ Hữu Châu [12, tr.92] cho rằng, mỗi biểu thức ngữ vi/ BTNH được đánh dấu

bằng các dấu hiệu chỉ dẫn. Nhờ những dấu hiệu này mà các biểu thức ngữ vi được

phân biệt với nhau. Searle gọi các dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở

lời (IFIDs) (đã được chúng tôi trình bày ở mục 1.2.1.3 nêu trên)

Tương tự như phân loại PNNH, Austin cũng đã phân chia BTNH thành hai loại, đó là: BTNH tường minh và BTNH nguyên cấp. BTNH tường minh là BTNH có động từ được dùng trong chức năng ngôn hành. Ví dụ:

(11) (Tôi) mời bác đến thăm gia đình vào ngày gần đây nhất.

(12) Tôi khuyên anh nên đi kiểm tra sức khỏe định kì.

(13) Tôi hứa sẽ đến thăm gia đình anh vào dịp gần nhất.

34

Khi nói ra các phát ngôn (11, 12, 13) trên, Sp1 đã thực hiện luôn cái hành động như mời, khuyên, hứa. Và như thế các hành động mời, khuyên, hứa đã có hiệu lực tức

thì. Những động từ nói năng được dùng như vậy gọi là động từ được dùng trong chức

năng ngôn hành.

Austin gọi các BTNH có ĐTNH là BTNH tường minh và gọi những biểu thức

tuy vẫn có hiệu lực ở lời nhưng không sử dụng ĐTNH là BTNH nguyên cấp hay

BTNH hàm ẩn (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.101])

Theo Đỗ Hữu Châu để xác định một phát ngôn nào đó thực hiện hành động nào, tức xác định phát ngôn đó là BTNH nguyên cấp nào, chúng ta phải dựa vào: 1) Ngữ

cảnh; 2) Khả năng tái lập hoặc bổ sung các dấu hiệu chỉ dẫn ở lời IFIDs cho phát

ngôn đó; 3) Phát ngôn hồi đáp của người nghe (Sp2). Chẳng hạn, quay trở lại ví dụ

(4) Ngày mai tôi sẽ đến. Đây sẽ là biểu thức hứa hẹn nếu Sp1 tường minh hóa nó thành: (4a) Tôi hứa ngày mai tôi sẽ đến; và nếu Sp2 hồi đáp: Tốt quá, tôi sẽ đón anh

ở bến xe nhé. Nhưng sẽ trở thành biểu thức đe dọa nếu Sp1 bổ sung: (4b) Liệu

chừng! Ngày mai tôi sẽ đến. [12]

Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, các BTNH nguyên cấp thường được sử dụng

phổ biến và thường xuyên. Như thế, các BTNH nguyên cấp và năng lực làm chủ được

các BTNH nguyên cấp - với các IFIDs đặc trưng tương ứng với HĐNN là cơ sở để lí

giải các phát ngôn nghe được, đọc được (tiếp nhận). Trong luận án này, chúng tôi

thống nhất với các tác giả về quan điểm BTNH tường minh là biểu thức chứa ĐTNH;

BTNH nguyên cấp là biểu thức không chứa ĐTNH.

Trong giao tiếp tiếng Việt, tùy theo từng HĐNN mà người ta sử dụng BTNH

tường minh hay BTNH nguyên cấp cho phù hợp. Vì có những HĐNN không thể

dùng BTNH tường minh, mà chỉ có thể dùng BTNH nguyên cấp mà thôi, chẳng hạn

như các hành động: dọa, dụ dỗ, mắng hay nịnh,... Người ta không thể nói: Tôi dọa

anh này; hoặc: Tôi dụ dỗ anh,... tức là người ta không thể sử dụng BTNH tường minh

để thực hiện những HĐNN như trên. Vì thế, theo quan sát của chúng tôi, thực tế việc

phân biệt BTNH tường minh và BTNH nguyên cấp vẫn chưa được thống nhất và còn

nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.

Về hiệu lực ở lời của BTNH tường minh và BTNH nguyên cấp cũng có sự khác nhau. Trong tương quan giữa hai loại này, BTNH nguyên cấp có hiệu lực ở lời thường nhẹ nhàng, ít có tính áp đặt và cũng chính vì thế mà ít đe dọa thể diện của người nghe hơn; trong khi đó các BTNH tường minh thường có hiệu lực ở lời thường rõ ràng hơn và thường mang tính áp đặt mạnh hơn vì thế mà cũng dễ đe dọa tới thể

35

diện của người nghe hơn. Do đó, tùy thuộc vào đối tượng, hoàn cảnh và mục đích giao tiếp mà người nói sử dụng loại BTNH nào cho phù hợp để đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất.

d. Động từ ngôn hành (còn gọi là động từ ngữ vi)

Động từ ngôn hành là một trong những phương tiện chỉ dẫn lực tại lời. Đó là những động từ mà khi phát ngôn người nói thực hiện luôn hành động tại lời do chúng

biểu thị như các hành động: xin lỗi, mời, phê bình, hứa, thề, van xin, ước… Một

HĐNN có thể được thể hiện bằng cách sử dụng ĐTNH tương ứng hoặc không dùng

ĐTNH mà chỉ thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng của HĐNN đó. Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Động từ ngữ vi là những động từ mà khi phát âm ra cùng với biểu thức ngữ vi

(có khi không cần biểu thức ngữ vi đi kèm) là người thực hiện luôn cái hành vi ở lời

do chúng biểu thị” [12, tr.97].

Austin cho rằng ĐTNH chỉ được dùng trong chức năng ngôn hành (hiệu lực ngôn hành) khi trong phát ngôn động từ đó được dùng ở ngôi thứ nhất (người nói

Sp1) thời hiện tại, chủ động và thực thi. Ví dụ:

(14) Tôi phê bình cách làm việc không khoa học của cậu.

(15) Cách làm việc của cậu không khoa học.

Cả hai phát ngôn trong ví dụ (14,15) trên, đều có chứa BTNHPP. Trong đó, ở

phát ngôn thứ nhất người phát ngôn sử dụng ĐTNH phê bình, ở phát ngôn thứ hai

được đánh dấu bởi các dấu hiệu như: tính từ đánh giá tiêu cực (không khoa học), tỏ

thái độ không bằng lòng của người nói.

e. Lực ngôn trung (hiệu lực ở lời hay lực ở lời)

HĐNN là hành động mà đích của nó nằm ngay trong việc tạo nên phát ngôn

được nói, viết ra. Đích của HĐNN giúp chúng ta phân biệt được các HĐNN. Đích

của HĐNN được gọi là đích ở lời. Nếu đích đó được thỏa mãn thì ta có hiệu lực ở lời

(lực ngôn trung). Dấu hiệu cho thấy hiệu lực ở lời chính là lời hồi đáp của người tiếp

nhận (người nghe, người đọc) HĐNN. Ví dụ:

(16) - Bao giờ anh đi Hà Nội?

- Ngày mai. Đích của hành động trong phát ngôn ở ví dụ (16) là hỏi (muốn biết thông tin khi nào anh đi Hà Nội); hiệu lực của HĐNN thể hiện ở phát ngôn trả lời (Ngày mai.) của người tiếp nhận.

Hội thoại là một ma trận các phát ngôn và các hành động gắn bó với nhau trong một mạng những hiểu biết và phản ứng... của các nhân vật giao tiếp [12, tr.149]. Vì

36

thế một phát ngôn không phải chỉ có một đích ở lời mà thông thường là có một số đích. Các HĐNN được thực hiện đúng với đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng, nghĩa là phát ngôn đó hướng tới đích ở lời trực tiếp. Trong thực tế giao tiếp,

người sử dụng trên bề mặt HĐNN này nhưng lại nhằm tới đích - hiệu quả của một

HĐNN khác. Đó chính là việc sử dụng HĐNN theo lối gián tiếp, hay đích gián tiếp.

1.2.1.5. Hành động ngôn ngữ trực tiếp và hành động ngôn ngữ gián tiếp

Một HĐNN có cùng một hiệu lực tại lời có thể được phát ngôn dưới các hình

thức khác nhau. Căn cứ vào mức độ chân thực thể hiện hành động tại lời và mức suy

ý của người nhận phát ngôn trong những ngữ cảnh cụ thể, người ta chia các HĐNN thành hai loại: HĐNN trực tiếp và HĐNN gián tiếp.

a. Hành động ngôn ngữ trực tiếp

HĐNN trực tiếp là những HĐNN được sử dụng đúng với điều kiện sử dụng,

đúng với đích tại lời của chúng (được sử dụng một cách chân thực) như: hành động hỏi dùng với đúng chức năng hỏi, hành động khen dùng đúng với chức năng khen,

hành động phê phán dùng đúng với chức năng phê phán…(Austin, 1962). Ví dụ:

(17) Tôi phê bình cách làm việc không khoa học của cậu.--> Hành động phê phán.

(18) Hãy giữ trật tự. --> Hành động yêu cầu.

Hai HĐNN ở ví dụ (14) và (17) là những HĐNN trực tiếp. Ở HĐNN trực tiếp,

HĐNN được sử dụng đúng với mục đích của nó và trực tiếp đạt được hiệu lực ở lời.

Nghĩa là, hình thức phát ngôn thống nhất với chức năng của nó.

b. Hành động ngôn ngữ gián tiếp

HĐNN được sử dụng gián tiếp (gọi tắt là HĐNN gián tiếp) được Austin nhắc đến và được Searle nghiên cứu sâu. Thuật ngữ HĐNN gián tiếp (indirect speech acts)

do Searle đặt ra. Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, có những HĐNN được sử dụng

đúng với mục đích thực, đúng với điều kiện chân thành, nhưng cũng có những

HĐNN không được sử dụng đúng với mục đích và điều kiện chân thực, nghĩa là sử

dụng nhằm đạt đích của một HĐNN khác. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề

mặt HĐNN này nhưng nhưng lại nhằm hiệu quả của một HĐNN khác là hiện tượng

sử dụng HĐNN theo lối gián tiếp: “Một hành động sử dụng gián tiếp là một hành động trong đó người nói thực hiện một hành động ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành động khác” [12, tr.146].

Như vậy, HĐNN gián tiếp là những HĐNN không được sử dụng đúng với đích tại lời của chúng. Nghĩa là hình thức của phát ngôn không thống nhất với chức năng

của nó. Chẳng hạn, hình thức bề mặt là hành động hỏi, nhưng lại được dùng để thực hiện hành động khác một cách gián tiếp, ví dụ:

37

+ Dùng hành động hỏi để chào:

(19) Bác ăn cơm chưa ạ ( --> Đây là lời chào khi gặp, đến thăm gia đình nhau

trong văn hóa của người Việt).

+ Dùng hành động hỏi để phê phán:

(20) Thử hỏi một tác phẩm như thế có nên thực hiện hay không? (LH, PVCH,

tr.169) (--> Đây là lời phê phán về tác phẩm được thực hiện mà có chất lượng kém).

Có thể thấy rằng HĐNN gián tiếp là một phương thức tạo hàm ý cho phát ngôn. Việc nhận diện HĐNN gián tiếp sẽ phức tạp hơn so với HĐNN trực tiếp. Người nghe

thường phải dựa vào các thao tác suy ý, các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời, ngữ

cảnh với quan hệ liên nhân giữa người nói và người nghe,... mới có thể giải mã được.

Căn cứ vào mức độ suy ý mà người nghe phải thực hiện để giải mã phát ngôn trong một ngữ cảnh cụ thể mà có HĐNN gián tiếp ở các mức độ khác nhau.

Theo các tài liệu [65, tr.80], [140, tr.90], để nhận diện những HĐNN gián tiếp,

cần lưu ý xem xét các vấn đề sau:

- Một là: Cần xác định HĐNN trực tiếp là hành động nào. Để nhận biết những

HĐNN trực tiếp, cần dựa vào sự nhận biết BTNH trong phát ngôn đó là BTNH của

hành động nào. Lúc này, ta cần phải căn cứ vào các phương tiện chỉ dẫn đặc thù,

chuyên biệt cho từng HĐNN;

- Hai là: Căn cứ vào NDMĐ, tức cấu trúc quan hệ ngữ nghĩa của các thành tố

tạo nên NDMĐ. Căn cứ vào nội dung sự việc được đề cập đến trong phát ngôn. HĐNN gián tiếp thường hướng vào người nghe, người tiếp nhận và nhằm gây ra sự

tác động đối với những người này cho nên thành tố nghĩa tạo nên NDMĐ cũng

thường có quan hệ nào đấy với người nghe, người tiếp nhận. Từ đó mà người tiếp

nhận phát ngôn sẽ nhận diện được HĐNN gián tiếp.

- Ba là: Cần phải căn cứ vào ngữ cảnh và quan hệ liên cá nhân giữa người thực

hiện hành động gián tiếp với người nhận thì mới có thể xác định được đúng thực chất HĐNN được dùng gián tiếp. Ngữ cảnh là nhân tố sẽ giúp cho ta nhận biết hiệu lực ở

lời đích thực của HĐNN trực tiếp nghe được, đọc được, từ đó mà phản hồi bằng lời tương ứng thích hợp với HĐNN gián tiếp được suy ra từ HĐNN trực tiếp. Khi tìm hiểu về những HĐNN được dùng một cách gián tiếp này, cần phải căn cứ vào lời đáp của người nghe (người tiếp nhận) để nhận diện bản chất của hành động gián tiếp đó là hành động gì. Từ đó mới có thể tìm hiểu, nghiên cứu về những vấn đề liên quan

tới chúng.

Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, tùy theo đối tượng, mục đích và hoàn cảnh

giao tiếp nhất định mà người ta có thể sử dụng HĐNN trực tiếp hay HĐNN gián tiếp

38

để đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.

1.2.2. Khái quát về hành động ngôn ngữ phê phán

1.2.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ phê phán

Trong Từ điển tiếng Việt, phê phán được giải thích là: "Vạch ra cái sai trái để tỏ

thái độ không đồng tình hoặc lên án. Biểu dương cái đúng, phê phán cái sai. Phê

phán thái độ cửa quyền". [145, tr.997].

Khi nghiên cứu về HĐNNPP, các tác giả như Nguyễn Thị Thủy Minh (2005) [164], Hoàng Thị Xuân Hoa (2008) [161], Đoàn Trần Thúy Vân (2010) [169] cho

rằng: phê phán thể hiện đánh giá tiêu cực của S (người nói) về hành động của H (đối

tượng bị phê phán). Theo đó, khi đưa ra lời phê phán, S ngụ ý rằng đó là kết quả mà

anh ta không mong muốn và gợi ý mà anh ta đưa ra là vì lợi ích của H. Hành động phê phán bao gồm hai mục đích chính: a) thể hiện sự không thoả mãn của S đối với

hành động mà H đã làm, b) vạch ra với hy vọng sẽ làm thay đổi được điều gì đó.

Định nghĩa cũng đưa ra 4 điều kiện sử dụng của HĐNNPP.

Tuy nhiên, về chủ đề của HĐNNPP, theo như trong nghiên cứu của Tracy,

Dusen và Robinson (1987) thì không chỉ về hành động, lựa chọn, ngôn từ và sản

phẩm của người nhận sự phê phán mà còn bao gồm cả về hình thức, thái độ, phẩm

chất chung. Và mục đích làm thay đổi đối với H không chỉ ở hành động trong tương

lai mà còn thể hiện ở việc ảnh hưởng tới tình trạng hiện tại cũng như việc sửa đổi

hành động hiện tại đó [52, tr.20].

Lê Thị Thúy Hà (2014) cho rằng: Hành động phê phán là hành động có lực

ngôn trung thể hiện sự đánh giá tiêu cực hoặc thái độ không ủng hộ của người nói đối

với hành động, ứng xử, phẩm chất, cách ăn mặc, trang điểm… của người nghe. Hành

động này, theo quan điểm của người nói, là để mong có sự thay đổi đối với hành

động, ứng xử, phẩm chất, cách ăn mặc, trang điểm,... của người nghe, vì lợi ích của

chính bản thân người nghe hoặc người khác hơn là vì lợi ích của người nói [52, tr.30].

Wierzbicka trong English Speech act verbs [157] đã dùng ngôn ngữ ngữ nghĩa

để giải thích 270 động từ nói năng tiếng Anh, 270 động từ này được quy về 37 nhóm.

Dựa theo khung định nghĩa của Wierzbicka về các động từ nói năng trong tiếng Anh, chúng tôi vận dụng để xác lập khung phân tích hành động ngôn ngữ phê phán với một số luận đề mang tính kiểm chứng sau đây:

i) Tôi nhận thấy Y có hành vi sai trái, đi ngược lại quy luật chung của tự nhiên

hoặc chuẩn mực chung của xã hội, hay nguyên tắc, quy định chung của cộng đồng;

ii) Tôi đưa ra lời đánh giá thấp, bộc lộ quan điểm, thái độ phản đối, không đồng

tình đối với hành vi đó của Y;

iii) Tôi nghĩ rằng người nghe sẽ nhận thức ra hành vi sai trái, tiêu cực này của Y

39

để từ đó đấu tranh, bài trừ, xóa bỏ hành vi sai trái, tiêu cực đó.

Từ khung phân tích trên, chúng tôi đi đến định nghĩa HĐNNPP như sau:

Hành động ngôn ngữ phê phán là hành động đánh giá thấp, bộc lộ quan

điểm không đồng tình, phản đối của người phát ngôn (Sp1) đối với hành vi nào đó bị coi là xấu, sai trái, tiêu cực của Y (người bị phê phán), nhằm mục đích tác động

tới nhận thức, thái độ, hành vi của người tiếp nhận phát ngôn (Sp2) để hướng họ

tới sự đấu tranh, bài trừ, xóa bỏ hành vi sai trái, tiêu cực đó.

Như vậy, nội dung cốt lõi của HĐNNPP, gồm:

- Là hành động nhận xét hay đánh giá thấp, không đồng tình, phản đối của Sp1

đối với một quan điểm, thái độ, hay hành động, quan hệ, cách xử sự, thói quen sinh

hoạt như ăn mặc, nói năng, đi đứng,... (gọi chung là hành vi) bị coi là xấu, là sai trái, tiêu cực của nhân vật Y cụ thể (Y có thể là một cá nhân hoặc một nhóm người, một tổ

chức, một cộng đồng xã hội);

- Nhằm tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi, ứng xử,... của Sp2 (người tiếp

nhận phát ngôn Sp2 có thể là Y hoặc có thể không phải là Y): Sp2 từ chỗ nhận ra

hành vi sai trái, tiêu cực mà có ý thức đấu tranh, bài trừ, xóa bỏ hành vi sai trái, tiêu

cực đó, hướng tới sự thay đổi tích cực, đem lại lợi ích cho mình, hoặc cho cộng đồng

xã hội.

HĐNNPP thuộc loại HĐNN biểu cảm/ bộc lộ (một trong 5 HĐNN theo sự phân

loại của J. Searle). HĐNNPP bao gồm các tiểu nhóm nhỏ như: chê trách, phê bình,

phê phán, chỉ trích, phản đối, lên án,...Chúng tôi lấy động từ phê phán làm đại diện

và để gọi tên chung cho cả nhóm HĐNN này. Ví dụ:

(21) Chúng tôi cực lực phản đối việc đưa lính An Nam sang Xyri. Phải chăng

các nhà cầm quyền cấp cao cho rằng bao nhiêu anh em da vàng xấu số của chúng tôi

bị giết hại trên các chiến trường từ năm 1914 đến năm 1918, trong cuộc chiến tranh

"vì văn minh và công lý" vẫn chưa đủ sao? [Ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc, Báo L'Humanité, ngày 4-11-1920, trích Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, tr. 20, Nxb Chính

trị quốc gia, H., 2000]

Trong ví dụ (21), người phát ngôn (Nguyễn Ái Quốc - đại diện cho những người dân An Nam đang chịu sự đô hộ của thực dân Pháp) đã cực lực phản đối (phê phán, tỏ thái độ không đồng tình một cách mạnh mẽ, quyết liệt) đối với hành động của nhà cầm quyền (thực dân Pháp) đã đưa lính An Nam sang Xyri làm "bia đỡ đạn" để thực hiện cuộc chiến tranh "vì văn minh và công lý" (thực chất là cuộc chiến tranh thôn

40

tính thuộc địa của thực dân Pháp), khiến cho hàng nghìn anh em da vàng xấu số đã phải bỏ mạng. Hành động phê phán này của Nguyễn Ái Quốc đã lật tẩy tội ác của thực dân Pháp, từ đó vận động những người có tư tưởng tiến bộ chống lại thực dân Pháp, ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc của người dân An Nam.

1.2.2.2. Các điều kiện thực hiện hành động ngôn ngữ phê phán

Để thực hiện HĐNNPP thành công cần có các điều kiện tiền đề sau:

i) Điều kiện nội dung mệnh đề: Sp1 thấy rằng Y có hành vi sai trái, tiêu cực, có

thể đã, đang hoặc sẽ gây ra hậu quả không tốt cho Y hoặc cho một đối tượng nào đó,

hoặc cho cả cộng đồng xã hội.

ii) Điều kiện chuẩn bị: Sp1 cảm thấy không hài lòng, không thoả mãn, ngay cả khi điều đó không trực tiếp ảnh hưởng đến mình, và cho rằng Sp2 không nhận thức

được, hoặc nhận thức chưa đầy đủ về hành vi sai trái của Y và do đó Sp1 có trách

nhiệm đưa ra lời phê phán.

iii) Điều kiện chân thành: Sp1 cho rằng nếu Sp1 đưa ra lời phê phán thì sẽ thay đổi được hành vi của Y theo hướng tích cực và quyết định thể hiện ý kiến của mình

bằng HĐNNPP;

iv) Điều kiện căn bản: Sp1 tự ràng buộc mình vào trách nhiệm về tính đúng đắn

của điều phê phán.

1.2.2.3. Căn cứ, cơ sở của hành động ngôn ngữ phê phán

Khi đưa ra HĐNNPP, tất nhiên phải có những cơ sở, những căn cứ nhất định,

như cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý,... để người nói dựa vào đó mà đưa ra hành động phê

phán. Những cơ sở ấy chính là những quy định của xã hội, luật pháp, đạo đức, tôn

giáo, thuần phong mỹ tục,... được người nói coi đó là những chuẩn mực xã hội, là "thước đo" để soi vào hành vi tiêu cực, bị coi là vi phạm chuẩn mực của người bị phê

phán, từ đó mà người nói đưa ra hành động phê phán. Ai đó vi phạm những chuẩn

mực ấy thì có thể trở thành đối tượng bị phê phán. Ngoài ra, đối tượng bị phê phán có

thể không vi phạm những chuẩn mực nói trên nhưng khi họ có những hành vi phản

lại sự tiến bộ của loài người, đi ngược lại quy luật chung thì cũng sẽ bị phê phán. Như

vậy, những căn cứ của sự phê phán là rất rộng. Những hành động phê phán tích cực

bao giờ cũng có đích nhằm hướng tới sự định hướng, điều chỉnh nhận thức, thái độ,

hành động của con người phù hợp với sự phát triển của xã hội, hướng tới sự thay đổi

tích cực và tiến bộ xã hội.

1.2.2.4. Những tiểu nhóm của hành động ngôn ngữ phê phán

Theo sự phân loại của Austin (1962) thì HĐNNPP thuộc lớp ứng xử (behavitives), còn theo phân loại của Searle (1975) HĐNNPP thuộc lớp bộc lộ (expressives). Như trên đã nêu, HĐNNPP bao gồm các tiểu nhóm: chê trách, phê bình, phê phán, chỉ trích, phản đối, lên án,... Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên) giải thích về các hành động này như sau:

- Chê trách: "Chê và tỏ ý trách vì không được hài lòng. Chê trách thái độ vô

41

trách nhiệm". [145, tr.202].

- Phê bình: có các nghĩa sau: "1) Xem xét, phân tích, đánh giá ưu điểm và

khuyết điểm; 2) Nêu lên khuyết điểm để góp ý kiến, để chê trách. Phê bình sự thiếu trách nhiệm, đấu tranh phê bình" [145, tr.996]. Như vậy, khi phê bình hành chức ở

nghĩa thứ hai thì nó sẽ được coi là một tiểu nhóm của hành động phê phán.

- Phê phán: "Vạch ra cái sai trái để tỏ thái độ không đồng tình hoặc lên án. Biểu

dương cái đúng, phê phán cái sai; phê phán thái độ cửa quyền" [145, tr.997].

- Chỉ trích: "Vạch ra cái sai, cái xấu, nhằm chê trách, phản đối. Chỉ trích một

chủ trương sai lầm". [145, tr.209]

- Phản đối: "Chống lại bằng hành động hoặc lời nói. Phản đối vi phạm nhân

quyền, ý kiến phản đối" [145, tr.982]

- Lên án: "Nêu rõ tội lỗi và phê phán, buộc tội. Lên án hành động vi phạm nhân

quyền; bị dư luận lên án" [145, tr.725]

Như vậy, những hành động trên đều thuộc HĐNNPP (hành động đánh giá thấp

đối với những hành vi sai trái, tiêu cực của Y) song chúng ở những thang độ cao thấp

và có cường độ lực ngôn trung ở những mức độ mạnh nhẹ khác nhau.

Có thể hình dung qua sơ đồ sau:

Trung bình Cao/ mạnh Rất cao/rất mạnh

Thấp/ nhẹ chê/chê trách phê bình phê phán chỉ trích phản đối lên án

1.2.2.5. Phân loại hành động ngôn ngữ phê phán

HĐNN nói chung được chia ra hai loại: HĐNN trực tiếp và HĐNN gián tiếp.

Mỗi hình thức ấy lại có những cách thể hiện cũng như đặc điểm riêng của chúng.

HĐNNPP cũng được chia ra thành 2 loại: HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp.

Để nhận diện HĐNNPP trong giao tiếp cần dựa vào các yếu tố về mặt hình thức như:

từ vựng, ngữ pháp, các yếu tố về mặt nội dung, hoặc các dấu hiệu cận ngôn, ngoại

ngôn như thái độ, ngôn điệu,…Hai loại HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp chính là một trong những sự cụ thể hóa hai loại HĐNN trực tiếp và HĐNN gián tiếp.

a. Hành động ngôn ngữ phê phán trực tiếp

Đối với HĐNNPP trực tiếp, có thể thấy, việc nhận diện không mấy khó khăn vì các dấu hiệu chỉ dẫn đã thể hiện ngay ở hình thức của phát ngôn: i) Sử dụng hay không sử dụng động từ ngôn hành; ii) Phương tiện từ vựng; iii) Phương tiện ngữ

pháp; iv) Phương tiện cận ngôn và ngoại ngôn như thái độ, giọng điệu... (Những vấn

đề nêu trên của HĐNNPP trực tiếp sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể ở chương 2 của

42

luận án)

b. Hành động ngôn ngữ phê phán gián tiếp

Người Việt chúng ta thường trọng tình, trọng nghĩa, vì thế rất đề cao thể diện của mỗi người. HĐNNPP là một HĐNN có tính chất đe dọa thể diện cao, do đó, để

tránh gây xung đột giữa người phát ngôn (người phê phán) với người tiếp nhận phát

ngôn (người bị phê phán), người ta thường thực hiện HĐNNPP theo cách gián tiếp,

hoặc lối nói vòng. Với cách thức phê phán gián tiếp, có thể đích phê phán sẽ là ngầm ẩn trong phát ngôn, cho nên việc thực hiện các HĐNNPP gián tiếp cũng rất tinh tế và

đa dạng. Bởi vậy, việc nhận diện HĐNNPP gián tiếp cũng sẽ khó khăn, phức tạp hơn

nhiều so với HĐNNPP trực tiếp. Đây chính là lý do dẫn đến việc nhận diện HĐNNPP

gián tiếp cần phải dựa vào ngữ cảnh, bởi có những phát ngôn khi đứng một mình (không đặt trong ngữ cảnh giao tiếp cụ thể) nó mang hiệu lực ở lời và sẽ được hiểu

theo một cách thông thường, nhưng nếu phát ngôn ấy được gắn với một ngữ cảnh

giao tiếp cụ thể, thì nó lại mang hiệu lực ở lời tương ứng như một HĐNNPP. Việc sử

dụng cũng như lĩnh hội (nhận diện) đối với các HĐNNPP gián tiếp trong giao tiếp

cần phải dựa tình huống của phát ngôn và ngữ điệu của lời nói. "Bởi hội thoại là một

ma trận các phát ngôn và các hành động gắn bó với nhau trong một mạng những biểu

biết và phản ứng... của các nhân vật giao tiếp" [12, tr.149]. Do đó, nếu chỉ dựa vào

các điều kiện thỏa mãn mà J. Searle đưa ra cho mỗi loại HĐNN đó là: NDMĐ, điều

kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều kiện căn bản thì việc nhận diện sẽ gặp nhiều khó khăn, và vì thế cũng có thể bỏ sót nhiều phát ngôn phê phán. Bởi đó mới chỉ đề

cập đến việc nhận diện hành động tại lời ở một phát ngôn cụ thể và chú ý đến một cá

nhân duy nhất là Sp1 mà bỏ qua một chuỗi phát ngôn và sự tham gia của Sp2. Chính

vì vậy, để khắc phục hạn chế này, HĐNNPP cần phải được nhận diện trong ngữ cảnh

và trong phát ngôn cụ thể.

1.2.3. Khái quát về văn bản báo chí và thể loại tiểu phẩm báo chí tiếng Việt

1.2.3.1. Khái quát về tác phẩm báo chí

a. Khái niệm tác phẩm báo chí (văn bản)

Tác phẩm báo chí (cũng chính là văn bản báo chí) là thuật ngữ được sử dụng trong Luật Báo chí (năm 1999) và các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, đồng thời được sử dụng trong lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp báo chí.

Dưới góc độ văn bản học, Tạ Ngọc Tấn và Nguyễn Tiến Hài đưa ra quan niệm: "Tác phẩm báo chí là một chỉnh thể, trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và

hình thức là quan hệ bên trong cơ bản của nó" [127, tr.7] . Nếu xét về quan hệ giữa nội dung và hình thức thì bất kỳ loại tác phẩm nào cũng có quan hệ ấy. Theo chúng tôi, quan niệm trên chưa phân biệt được sự khác biệt giữa tác phẩm báo chí với

43

những tác phẩm khác như văn học, điện ảnh, hội họa, điêu khắc,...

Ở đây, một vấn đề đặt ra là cần phân biệt được sự khác nhau về nội hàm, bản

chất của tác phẩm báo chí với những tác phẩm thuộc các loại hình sáng tạo khác. Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị Hằng Thu đưa ra quan niệm: "Tác

phẩm báo chí là: Sản phẩm tư duy của nhà báo, lấy hiện thực khách quan (mang tính

thời điểm) làm đối tượng nghiên cứu và phản ánh; Có hình thức tương ứng với nội

dung thông tin; Được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và là một bộ phận cấu thành một sản phẩm báo chí; Có giá trị sử dụng tạo dư luận xã hội (tức thì)

và làm thay đổi hành vi của người tiếp nhận thông tin; Được luật pháp bảo hộ quyền

tác giả và được trả tiền" [138, tr.11].

Theo quan sát của chúng tôi, khái niệm về tác phẩm báo chí của hai tác giả nêu trên cũng mới chỉ ra được bản chất, nội hàm của tác phẩm báo chí, đồng thời đã khu

biệt được căn bản sự khác biệt giữa tác phẩm báo chí với những loại tác phẩm khác

không phải tác phẩm báo chí, như những tác phẩm có thiên hướng nhấn mạnh về trí

tưởng tượng và hư cấu chẳng hạn như truyện ngắn, tản văn, tạp văn, thơ,... hoặc

những tác phẩm chỉ làm dịch vụ như quảng cáo, giới thiệu việc làm,... mặc dù chúng

được đăng tải trên mặt báo.

Nhìn chung, các quan niệm nêu trên, đều có điểm chung là: tác phẩm báo chí

phải chứa đựng thông tin thời sự, thể hiện được quan điểm của người cầm bút, khi

đến với công chúng tạo ra được dư luận xã hội. Chúng tôi cho rằng, cắt nghĩa bản chất khái niệm tác phẩm báo chí cần gắn thêm yếu tố chất liệu đặc trưng ngôn ngữ

của nó. Vì vậy, theo chúng tôi:

Tác phẩm báo chí là sản phẩm sáng tạo bằng các hình thức ngôn ngữ đặc

trưng của mỗi loại hình báo chí cụ thể (ngôn ngữ viết của báo in, ngôn ngữ nói của

phát thanh, ngôn ngữ hình ảnh của truyền hình, ngôn ngữ thiên về hình thức tích hợp

đa phương tiện của báo mạng điện tử…) phản ánh các biến cố sự kiện khách quan

trung thực, đơn nghĩa, có tính thời sự cập nhật, giàu tính định hướng vì các mục tiêu

của thể chế chính trị thống trị xã hội nhất định…

b. Các thể loại tác phẩm báo chí

* Về khái niệm thể loại báo chí

Về khái niệm thể loại báo chí, có nhiều ý kiến về việc phân loại tác phẩm/ văn bản báo chí như của Hoàng Phê (1992), Tạ Ngọc Tấn (1995) [129], Đinh Văn Hường (1997 [71], Dương Xuân Sơn (2012) [121], Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị Hằng

Thu [138],...Theo quan sát của chúng tôi, mặc dù có các quan niệm khác nhau về thể loại, song hầu hết các quan niệm tương đối thống nhất ở nội hàm khái niệm. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi vận dụng quan điểm của Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn

44

Thị Hằng Thu để tìm hiểu về HĐNNPP trong thể loại TPBC. Cụ thể, nhóm tác giả

Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị Hằng Thu đưa ra khái niệm: Thể loại báo chí là

hình thức sáng tạo tác phẩm báo chí, phân chia theo mục đích và phương pháp phản ánh hiện thực khách quan, cách vận dụng ngôn ngữ và phong cách cá nhân. [138].

Tuy nhiên, theo chúng tôi: khía cạnh phong cách cá nhân trong sáng tạo tác phẩm báo

chí chỉ có thể được định hình qua các thể loại tác phẩm báo chí "thông tấn nghệ

thuật" và chính luận. Một số thể loại thông tấn báo chí, nhất là các tiểu loại tin có dung lượng ngắn và chịu sự quy phạm khá chặt chẽ của tính khuôn mẫu trong tổ chức

văn bản khó có thể để lại dấu ấn phong cách cá nhân của các kí giả.

* Các thể loại báo chí

Về các thể loại báo chí, căn cứ vào đặc điểm nội dung ý nghĩa, các nhà nghiên cứu chia ra thành các kiểu như: văn bản báo chí cung cấp thông tin; văn bản phản ánh

công luận và văn bản thông tin - quảng cáo. Dựa vào kết cấu và đặc điểm tu từ, người

ta chia thành các thể loại rất đa dạng như: mẩu tin, tin tổng hợp, tin ngắn, tin sâu, điều

tra, phỏng vấn, phóng sự; tiểu phẩm; nhắn tin, thông báo, quảng cáo, rao vặt,…

Xét về tính chất thể loại, có những ý kiến khác nhau của các tác giả, cụ thể: Tạ

Ngọc Tấn và Nguyễn Tiến Hài (1995) [129], Đức Dũng (1998) [27], Đinh Văn

Hường (2011) [71], Dương Xuân Sơn (2012) [121], Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị

Hằng Thu (2012) [138],... Theo quan sát của chúng tôi, khi đưa ra các nhóm thể loại,

các tác giả đều có sự luận giải riêng của mình. Trong các cách phân loại đó, chúng tôi thấy hai tác giả Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn xếp TPBC thuộc thể loại chính

luận - nghệ thuật là có phần xác đáng. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi đi theo

quan điểm của hai tác giả Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn để tìm hiểu thể loại

TPBC.

45

c. Các tính chất cơ bản của ngôn ngữ báo chí Về các tính chất của NNBC, đã có rất nhiều ý kiến của các nhà nghiên nghiên cứu như: Đinh Trọng Lạc (1993) [84], Dương Văn Quảng (1998) [115], Hà Minh Đức (2000) [43], Hoàng Anh (2008) [03], Tạ Ngọc Tấn (2008) [129], nhóm tác giả Nguyễn Thị Thoa và Nguyễn Thị Hằng Thu (2011) [138], Nguyễn Thế Kỷ (2017) [74],... Kế thừa và vận dụng các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, đồng thời xuất phát từ việc nhận diện các đặc trưng cơ bản của phong cách báo chí, nhận diện những đặc điểm cơ bản, bản chất xã hội và vai trò, chức năng của báo chí, trên cơ sở nghiên cứu các quy tắc và chuẩn mực chung của hoạt động báo chí, theo chúng tôi NNBC có những đặc điểm cơ bản, cốt lõi sau: tính thời sự, chính xác, khách quan; tính bình giá, tính chiến đấu; tính hàm súc, cô đọng và biểu cảm; tính khuôn mẫu, chuẩn mực, văn hóa; tính đại chúng và hội nhập. Trong mỗi loại hình và thể loại văn bản báo chí, các đặc trưng cơ bản nêu trên có những mức độ biểu hiện khác nhau, tùy theo tính chất của từng loại hình và thể loại văn bản và mục đích giao tiếp của tác phẩm báo chí.

1.2.3.2. Khái quát về thể loại tiểu phẩm báo chí và tiểu phẩm báo chí tiếng Việt

thời kỳ Đổi mới

a. Khái quát về thể loại tiểu phẩm báo chí

* Khái niệm tiểu phẩm báo chí

Tiểu phẩm ra đời do yêu cầu khách quan của xã hội. Mặc dù tiểu phẩm đã có lịch sử phát triển từ khá sớm và đang là thể loại phát huy ưu thế mạnh mẽ trong đời sống văn học và báo chí hiện đại, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất trong cách quan niệm về thể loại này. Các nhà nghiên cứu xuất phát từ các lĩnh vực khác nhau như văn học, ngôn ngữ học, báo chí học,… đã có những quan điểm khác nhau về bản chất và đặc trưng thể loại tiểu phẩm: Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2010) cho rằng: "Tiểu phẩm là bài báo ngắn, nói về vấn đề thời sự có tính châm biếm" [105, tr.1269]. Xích Điểu (Nguyễn Văn Tước) quan niệm: "Tiểu phẩm là một thể loại vừa cho phép phát triển tính chất điển hình của văn học, vừa mang tính chân thật, khoa học và kịp thời của báo chí, mang tính chiến đấu cao, có khả năng vạch bản chất tàn bạo của kẻ thù một cách trực tiếp, sâu cay và châm biếm làm cho người đọc vừa căm thù, vừa khinh ghét và vừa cười vào mũi chúng" (Dẫn theo [127, tr.33]). Bùi Đình Khôi (1992) xác định: "Tiểu phẩm là một thể loại tác phẩm báo chí ngắn gọn, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm hoặc hài hước về một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát, mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm của mình trước những sự việc, hiện tượng đó" [83]. Đinh Trọng Lạc (1993) cho rằng: "TPBC nhằm mục đích châm biếm kẻ thù hoặc giáo dục một cách nhẹ nhàng nhưng sâu sắc những đối tượng mắc những thói hư, tật xấu trong xã hội. Với hình thức viết ngắn gọn, những biện pháp châm biếm, trào phúng rất đa dạng"[84, tr.108]. Đức Dũng (2006) khẳng định: "Tiểu phẩm là thể loại văn học tồn tại trong môi trường báo chí, thể hiện những tính chất báo chí rất mạnh mẽ và năng động." (Tiểu phẩm - một thể loại văn học trong môi trường báo chí, Tạp chí Sóng trẻ.). Tạ Ngọc Tấn (2008) nhận xét: "TPBC là một thể loại châm biếm, có tính chiến đấu cao, kết hợp sinh động giữa nội dung và phương pháp thể hiện của báo chí với các thủ pháp nghệ thuật của văn học, sử dụng vũ khí là tiếng cười, nhằm biểu thị thái độ đối với cái xấu của nội bộ xã hội và kẻ thù đã được phản ánh chân thực và vạch trần bản chất." [129, tr.42]. Dương Xuân Sơn (2012) cho rằng: "Tiểu phẩm là thể loại báo chí ở nhóm chính luận - nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích hoặc hài hước về một sự kiện, sự việc hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó" [121, tr.153].

Theo quan sát của chúng tôi, thể loại tiểu phẩm ra đời do yêu cầu xã hội và do những nhiệm vụ của báo chí đặt ra. "Quy luật sáng tạo của tiểu phẩm nằm trong quy

luật chung của báo chí: phản ánh trực tiếp, khách quan các sự kiện, các vấn đề của đời sống xã hội đương thời, trong đó tập trung ưu tiên mảng nội dung chính trị, tư

tưởng và thời sự. Hầu như, các tiểu phẩm đều bắt đầu số phận của mình bằng sự hiện

46

diện trên các mặt báo, tạp chí" [127, tr.35]. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tiểu

phẩm, song trong phạm vi luận án này, chúng tôi đi theo hướng coi tiểu phẩm là thể

loại báo chí đặc thù, vừa có chức năng thông tin sự thật, vừa hàm chứa yếu tố chính luận và màu sắc thẩm mỹ, lấy ngôn từ châm biếm đả kích làm phương tiện thể hiện

chủ công. Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ làm rõ hơn về những cơ

sở lý luận của thể loại báo chí đặc thù này.

Mặc dù những quan niệm nêu trên đã đề cập được những nét cơ bản, cốt lõi nhất của tiểu phẩm. Song những vấn đề lý luận thường luôn vận động và phát triển bắt

nguồn từ thực tiễn của hoạt động báo chí, ứng với hoàn cảnh xã hội đương đại. Trước

hoàn cảnh xã hội thay đổi, nhu cầu của bạn đọc cũng thay đổi, các thể loại báo chí nói

chung và thể loại TPBC nói riêng cũng biến đổi và phát triển cho phù hợp với xu thế của thời đại. Vì vậy, chúng tôi thấy cần thiết phải xác lập một quan niệm phù hợp về

TPBC trong bối cảnh hiện nay. Kế thừa và vận dụng kết quả nghiên cứu của các nhà

nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra quan niệm về TPBC như sau:

Tiểu phẩm báo chí là những tác phẩm thông tấn - nghệ thuật ngắn gọn, có kết cấu linh hoạt, phản ánh những vấn đề, sự kiện thời sự có tính tiêu cực trong xã hội đương thời đi ngược lại với sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội, được nghệ thuật hóa bởi bút pháp hài hước, châm biếm, mang tính chiến đấu cao, nhằm hướng tới xây dựng xã hội nhân văn hơn, tốt đẹp hơn.

* Đặc điểm cơ bản của thể loại tiểu phẩm báo chí

47

Mặc dù từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu đều thống nhất, TPBC có những đặc trưng cơ bản sau: 1) Kết cấu ngắn gọn, linh hoạt. Phản ánh những nội dung xã hội nóng bỏng nhưng lại được thể hiện bằng lối viết cuốn hút người đọc. Trong thời đại công nghệ thông tin, TPBC cần phải ngắn gọn, súc tích để tạo ra ưu thế riêng của mình trong hệ thống các thể loại báo chí. 2) Mang tính chính luận, với hệ thống tư tưởng, lý luận sắc sảo, với nội dung chính trị - xã hội phong phú. 3) Tính thời sự, cấp thiết: Đề cập đến những sự kiện chính trị - xã hội “nóng hổi”, cấp thiết một cách chân thực, khách quan. Với vai trò thông tin thời sự, TPBC rất khắt khe về tính thời gian của sự kiện. Yêu cầu đặt ra là thông tin phải mới mẻ, cập nhật một cách nhanh chóng, chính xác. 4) Tính chiến đấu cao: TPBC được coi là thứ vũ khí đấu tranh tư tưởng sắc bén của người cầm bút. Sử dụng TPBC để đả kích, phê phán và lên án những hành vi xấu, tiêu cực, các tệ nạn xã hội, những bất cập, mặt trái, bất công trong đời sống xã hội,… có ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội. 5) Tính chất trào phúng, châm biếm và hài kịch. Dùng lời nói bóng bẩy, kín đáo, thâm thúy để mỉa mai, vạch trần hành vi, bản chất xấu xa của những đối tượng phê phán,…đối lập với lý tưởng, chuẩn mực đạo đức xã hội đương thời. 6) Sự kết hợp giữa phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học.

* Vai trò, chức năng của tiểu phẩm báo chí

Nhắc đến vai trò của báo chí - truyền thông, không thể không nhắc đến vai trò tích cực TPBC. Bằng việc phản ánh, phân tích, đánh giá, bình luận, phê phán, lên án,

phản đối,...TPBC nói riêng và báo chí - truyền thông nói chung đã góp phần ngăn

chặn, loại trừ cái xấu, cái tiêu cực, những việc làm sai trái; dự báo, cảnh báo những

nguy cơ phương hại đến con người, xã hội. TPBC là thể loại thể hiện rõ tính định hướng của báo chí, góp phần giám sát, phản biện và quản lý xã hội, xây dựng xã hội tiến bộ,

văn minh hơn.

Tồn tại và phát triển trong môi trường giao tiếp đại chúng, với đặc thù phản ánh

những vấn đề, sự kiện có tính tiêu cực trong xã hội đương thời, đi ngược lại với sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội, TPBC thường sử dụng HĐNNPP là chủ yếu.

HĐNNPP trong môi trường giao tiếp đại chúng thể hiện rõ lập trường chính trị và

tính định hướng giao tiếp cao. Vì thế đặt ra yêu cầu về việc lựa chọn và sử dụng các

HĐNNPP sao cho phù hợp với môi trường giao tiếp đại chúng, nhằm đạt được hiệu

quả giao tiếp cao nhất, để những HĐNNPP thực sự có hiệu quả, làm thay đổi suy

nghĩ, hành vi của con người theo hướng tích cực, vì lợi ích chung; cổ vũ các nhân tố

mới, phanh phui các tiêu cực, phê phán cái lạc hậu trì trệ... nhằm mục đích xây dựng

xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc, đất nước, vì sự phát triển xã hội.

Có thể nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của TPBC là tính thông tin thời sự và tính chiến đấu. Vì thế, ở mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước,

TPBC luôn theo sát phản ánh các nhiệm vụ chính trị của đất nước, của dân tộc. Với

vai trò là vũ khí sắc bén đấu tranh với kẻ thù chính trị, với cái xấu, cái ác, cái phản

tiến bộ,… tiểu phẩm đã thật sự khẳng định được vị trí của mình là một thể loại xung

kích trong các thể loại báo chí. Xã hội càng phát triển, công chúng ngày càng quan

tâm nhiều hơn đến thể loại đặc thù này.

b. Khái quát về tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời kỳ Đổi mới

Thời kỳ Đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986, đánh dấu bởi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc. Thời kì Đổi mới từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ đó là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế (chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), đồng thời tiến hành từng bước quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Hai nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược

48

này đã tác động sâu rộng, mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời cũng tạo ra những mốc lịch sử quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của dân tộc, đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, những mặt tích cực, nền kinh tế thị

trường và sự hội nhập cũng đã làm nảy sinh những mặt trái, hiện tượng tiêu cực, hạn

chế, yếu kém, bất cập: hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, cơ chế chính sách còn

nhiều bất cập, công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế, yếu kém; tệ nạn xã hội,

tiêu cực, tham nhũng, lãng phí gia tăng chưa được ngăn chặn kịp thời; sự suy thoái về

tư tưởng, đạo đức, lối sống, niềm tin... trong xã hội. Những hạn chế này ảnh hưởng

tiêu cực đến xã hội, kĩm hàm sự phát triển của đất nước.

Thể loại tiểu phẩm ra đời do yêu cầu khách quan của xã hội và do những nhiệm

vụ của báo chí đặt ra. Vì thế, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của đất nước, TPBC có

những đặc điểm, nhiệm vụ riêng của mình. Thời kỳ Đổi mới với sự đổi mới về nhiều

phương diện của đời sống xã hội, cùng với sự chuyển mình của đất nước, nền báo chí

cách mạng của nước nhà nói chung trong đó có các thể loại báo chí đã phát triển

mạnh mẽ. Theo đó, đời sống báo chí đặc biệt là thể loại TPBC cũng đã có những

bước tiến mới, mang những diện mạo mới. Với tư tưởng cởi mở do Đảng ta khởi

xướng, báo chí đã phát huy tinh thần nói thẳng, nói thật về những vấn đề tiêu cực nảy

sinh từ thực tiễn đời sống xã hội. Báo chí nói chung và TPBC đã thẳng thắn lên tiếng

phê phán, lên án, đấu tranh mạnh mẽ với những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống xã

hội đó là sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, tham ô, tham

nhũng... Ngay cả những vấn đề được coi là nhạy cảm, những bất cập trong cơ chế

quản lý, điều hành của Nhà nước cũng được TPBC đề cập và thẳng thắn phê phán.

Thời kỳ này, với chủ trương nêu cao tinh thần "tự phê bình và phê bình", TPBC đã

mạnh mẽ phê phán cái xấu, tiêu cực trong xã hội góp phần làm lành mạnh hóa xã hội,

hướng tới xây dựng cái mới, cái tích cực và sự tiến bộ xã hội. Đây cũng là những đặc

điểm nổi bật về mặt nội dung của TPBC tiếng Việt thời kỳ Đổi mới.

Thời kì này, TPBC nở rộ trên các báo, tạp chí, các chuyên san đặc san, các

chương trình phát thanh, truyền hình,… Chuyên mục tiểu phẩm được hình thành trên

nhiều báo, tạo ra sức sống, bản sắc riêng của một tờ báo: Chuyện lớn,…chuyện nhỏ

(Báo Nhân Dân), Nói hay đừng (Báo Lao động), Chuyện cũ, chuyện mới (Báo Giáo

dục và Thời đại), Câu lạc bộ (Báo Tiền phong),… Mục tiểu phẩm trên các báo và tạp

chí như: Nhà báo và công luận, Người làm báo, Tin tức cuối tuần, Thể thao và Văn

hóa, Tuổi trẻ cười, Sức khỏe và Đời sống,… luôn có sức hấp dẫn đối với đối với đông

đảo người đọc. Trên truyền hình Việt Nam có mục thư giãn, phim hài thu hút sự tham

49

gia của nhiều tác phẩm tiểu phẩm truyền hình đặc sắc.

Tiểu kết chƣơng 1

Ở chương này, chúng tôi đã đề cập đến ba vấn đề lý thuyết nền tảng liên quan đến nghiên cứu HĐNNPP đó là: Lý thuyết về HĐNN trong đó có HĐNNPP và lý thuyết về báo chí và thể loại TPBC.

HĐNNPP là hành động đánh giá thấp, bộc lộ quan điểm không đồng tình, phản đối của người phát ngôn (Sp1) đối với hành vi nào đó bị coi là xấu, sai trái, tiêu cực của Y (người bị phê phán), nhằm mục đích tác động tới nhận thức, thái độ, hành vi của người tiếp nhận phát ngôn (Sp2) để hướng họ tới sự đấu tranh, bài trừ, xóa bỏ hành vi sai trái, tiêu cực đó. HĐNNPP bao gồm các tiểu nhóm: chê trách, phê bình, phê phán, chỉ trích, phản đối, lên án,...

Trong giao tiếp, một HĐNN bao giờ cũng xuất hiện trong sự tương tác với các HĐNN khác. Vì thế, việc tìm hiểu, nghiên cứu HĐNNPP cần phải gắn liền với việc nghiên cứu lý thuyết về HĐNN nói chung. Hơn nữa để đảm bảo nguyên tắc lịch sự, tế nhị trong giao tiếp, đối với tiếng Việt, người ta còn mượn các HĐNN khác để thực hiện HĐNNPP, tức thực hiện HĐNNPP theo lối gián tiếp.

Lý thuyết về HĐNN mà tiêu biểu là hai tác giả John. L Austin (1962) và John R Searle (1969) đã mở ra hướng nghiên cứu mới cho ngôn ngữ học: nghiên cứu ngôn ngữ trong hành chức như một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Luận án đã sử dụng các khái niệm cốt lõi, xương sống của lý thuyết này bao gồm: khái niệm HĐNN, phân loại HĐNN, điều kiện sử dụng của các HĐNN, HĐNN trực tiếp và HĐNN lời gián tiếp, BTNH và PNNH, BTNH tường minh và nguyên cấp, ĐTNH và các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời,... làm cơ sở cho việc đề xuất khái niệm, từ đó tiến hành nhận diện, miêu tả, phân loại HĐNNPP.

Luận án tiếp thu và kế thừa quan điểm của một số tác giả về quan hệ liên cá nhân trong giao tiếp, tới việc thực hiện HĐNNPP. Đồng thời khi nghiên cứu về HĐNN nói chung và HĐNNPP nói riêng không thể không đặt chúng trong mối quan hệ với ngữ cảnh, ngôn ngữ và văn hóa, sự chi phối của những yếu tố văn hóa - xã hội tới cách thức, mục đích và hiệu quả của việc sử dụng một HĐNN nói chung, trong đó có HĐNNPP.

50

TPBC thời kỳ Đổi mới đã đem lại cho người đọc những cảm nhận hết sức thú vị cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật thể hiện, đồng thời nó đã phát huy tối đa tính năng đấu tranh tư tưởng sắc bén; góp phần ngăn chặn, loại trừ cái xấu, cái tiêu cực, những việc làm sai trái; dự báo, cảnh báo những nguy cơ phương hại đến con người, xã hội. TPBC là thể loại thể hiện rõ tính định hướng của báo chí, góp phần giám sát, phản biện và quản lý xã hội, xây dựng xã hội tiến bộ, văn minh hơn. TPBC thời kỳ Đổi mới thực sự có vị trí rất đáng trân trọng trong đời sống báo chí Việt Nam đương đại.

Chƣơng 2

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN TRỰC TIẾP

TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KÌ ĐỔI MỚI

(TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

HĐNNPP trong TPBC được thực hiện bằng hai hình thức trực tiếp và gián tiếp.

Trong chương này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu HĐNNPP trực tiếp. Phê phán

trực tiếp là việc người nói Sp1 dùng lời nói trực tiếp bộc lộ quan điểm, thái độ phản

đối, không đồng tình, sự đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực đối với đối tượng Y. Đối tượng Y có thể là người, là sự vật, sự việc, hiện tượng trong cuộc sống xã hội được

phát ngôn đề cập đến.

Về tần số xuất hiện của HĐNNPP trực tiếp, trên cơ sở nguồn ngữ liệu với 1.224

HĐNN được chọn khảo sát, chúng tôi thống kê được 72 HĐNNPP trực tiếp, tương

ứng với 5,9 %; HĐNNPP gián tiếp là 1.152, tương ứng 94,1%. (xem bảng 2.1)

Bảng 2.1. Thống kê tần số xuất hiện HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp.

Tần số xuất hiện TT HĐNN phê phán

1. 2. HĐNNPP trực tiếp HĐNNPP gián tiếp

Tổng Số lƣợng 72 1.152 1.224 Tỉ lệ (%) 5,9 94,1 100,0

Qua số liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy so với HĐNNPP gián tiếp, HĐNNPP

trực tiếp ít được dùng hơn. Điều này cũng có thể lý giải được bởi HĐNNPP là hành

động nhạy cảm, đe dọa thể diện cao. Vì thế, tác giả TPBC thường chọn cách phê phán

gián tiếp để hạn chế, giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. Cũng có thể nói, đây chính

là chiến lược giao tiếp của các tác giả TPBC. Sau đây, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích BTNH và thành phần mở rộng BTNH của HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt.

2.1. Biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu

phẩm báo chí

Theo Đỗ Hữu Châu, phát ngôn ngữ vi (hay phát ngôn ngôn hành) có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành động ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi (hay biểu thức ngôn hành) [12, tr.91]. Tương tự như vậy, phát ngôn thực hiện

51

HĐNNPP cũng có một kết cấu lõi đặc trưng, đó chính là BTNHPP. Nói cách khác, BTNH của HĐNNPP là công thức nói năng đặc thù, cốt lõi của phát ngôn thực hiện HĐNNPP.

2.1.1. Các kiểu loại biểu thức ngôn hành phê phán

Cũng như BTNH của các HĐNN khác, BTNH của HĐNNPP có thể được phân

thành hai kiểu loại: BTNHPP tường minh và BTNHPP nguyên cấp. BTNHPP tường

minh là BTNHPP có sử dụng động từ ngôn hành phê phán (ĐTNHPP) . Ví dụ:

(22) Tôi có thể nói thẳng ruột bò là hai vị cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo kém,

tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm mới có hậu quả như thế. [NL05, tr.42]

Sp1 Động từ ngôn hành Sp2 Nội dung phê phán

Tôi (có thể) nói thẳng ruột bò hai vị cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo kém,

tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm

mới có hậu quả như thế.

BTNHPP nguyên cấp có hiệu lực ở lời là bộc lộ quan điểm, thái độ phản đối,

không đồng tình, sự đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực đối với đối tượng (người, vật, việc, hiện tượng) đang được nói đến nhưng trong đó không sử dụng ĐTNHPP. Ví dụ:

(23) Tệ thật! Trên "phát-phút" kiểu trên, dưới "phát-phút" kiểu dưới, thảo nào

các dự án lúc hoàn thành không còn hình dáng ban đầu. [NL11, tr.65]

Nội dung phê phán

Tệ thật! Trên "phát-phút" kiểu trên, dưới "phát-phút" kiểu dưới, thảo nào các dự án lúc hoàn thành không còn hình dáng ban đầu.

Có thể xác lập cấu trúc điển hình của BTNHPP tường minh và BTNHPP

nguyên cấp như sau:

Biểu thức ngôn hành phê phán

± Sp2 + Nội dung phê phán

BTNHPP tƣờng minh ± Sp1 + Động từ ngôn hành phê phán - BTNHPP nguyên cấp - ± Sp2 + Nội dung phê phán

(Chú thích: + thành phần luôn hiển ngôn; ± thành phần có thể hiển ngôn, có thể không hiển ngôn; - thành phần không hiển ngôn).

Như vậy, BTNHPP gồm 4 thành phần chính, được sắp xếp theo trình tự: 1) Sp1; 2) ĐTNH; 3) Sp2; 4) Nội dung phê phán. BTNHPP tường minh luôn hiển ngôn hai thành phần đó là ĐTNH và nội dung phê phán, vì thế có thể xem chúng là những thành phần hạt nhân. Hai thành phần còn lại là Sp1 và Sp2 thì có thể hiển ngôn hoặc

không hiển ngôn. BTNHPP nguyên cấp chỉ hiển ngôn thành phần nội dung phê phán,

52

thành phần Sp2 có thể hiển ngôn hoặc không hiển ngôn, còn hai thành phần: Sp1 và ĐTNH không hiển ngôn.

Bảng 2.2: Thống kê tần số sử dụng các kiểu loại BTNHPP trực tiếp

STT Kiểu loại BTNHPP trực tiếp Tần số Tỉ lệ %

1 BTNHPP tường minh 12 16,7

2 BTNHPP nguyên cấp 60 83,3

Tổng 72 100,0

Theo kết quả thống kê, trong 72 trường hợp HĐNNPP trực tiếp có 12 HĐNN sử

dụng BTNH phê phán tường minh, chiếm 16,7% và có 60 HĐNNPP sử dụng

BTNHPP nguyên cấp, chiếm 83,3%. Điều đó cho thấy, trong TPBC tiếng Việt có xu

hướng thiên về sử dụng BTNHPP nguyên cấp. Điều này cũng có thể lý giải được dựa

vào tính chất của từng kiểu loại BTNHPP. Do BTNHPP tường minh trực tiếp nói tên

hành động: chê, chê trách, phê bình, phê phán, chỉ trích, phản đối, lên án,... cho nên

ít có tính lịch sự và có mức độ đe dọa thể hiện cao, vì thế người nói thường chọn thực

hiện HĐNNPP bằng BTNHPP nguyên cấp (không sử dụng ĐTNHPP) nhằm hạn chế,

giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. Đây có thể được coi là một trong những chiến

lược phê phán của tác giả TPBC.

2.1.2. Các thành phần trong biểu thức ngôn hành phê phán trực tiếp

2.1.2.1. Người phát ngôn (Sp1)

Về mặt cương vị vai giao tiếp, trong BTNHPP, Sp1 là người phát ngôn, đồng

thời cũng chính là chủ thể của hành động phê phán. Ở TPBC, người phát ngôn đưa ra

lời phê phán (Sp1) có thể là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong TPBC hoặc có

thể là tác giả của TPBC.

a. Sp1 là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong tiểu phẩm báo chí

Sp1 là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong TPBC. Ví dụ:

(24) Hàn Tử cười ha hả:

- Các ông thực là bọn ngu lâu. Quan Lệnh doãn sinh thời làm to, nhưng không

có con trai kế nghiệp, chết là hết. Vậy ai còn nhờ cậy gì nữa mà đem vàng thoi bạc

nén đến cho phí đi...

Cả bọn tỉnh ngộ, rót rượu mời Hàn Tử luôn ba chén. [NL10, tr.37]

Trong ví dụ (24), người đưa ra HĐNNPP: Các ông thực là bọn ngu lâu là Hàn

Tử, nhân vật trong lịch sử của Trung Quốc được hư cấu lại trong TPBC tiếng Việt với

53

hàm ý mượn người xưa, chuyện xưa để nói người nay, chuyện nay.

b. Sp1 là tác giả của tiểu phẩm báo chí

Sp1 là tác giả của TPBC. Ví dụ:

(25) Tôi kiên quyết cho rằng trong việc này một số tờ báo đã không điều chỉnh,

họ vội vàng khai thác số phận của một cá nhân một cách tham lam. [NL05, tr.64]

Trong ví dụ (25), người đưa ra HĐNNPP (xưng tôi) là tác giả của TPBC, người

đã viết TPBC.

Đặc biệt, có trường hợp Sp1 là tác giả của TPBC song với tư cách đại diện cho tờ báo hay cả ngành báo chí cách mạng, thay mặt công chúng nói lên tiếng nói phê phán những đối tượng tiêu cực trong xã hội. Trong trường hợp này, Sp1 là số đông. Ví dụ:

(26) Chúng ta lên án những loại người này đang phá phách nền kinh tế, phá

hoại niềm tin. [NL17, tr.31]

Trong ví dụ (26), tác giả của TPBC đã đại diện đại diện cho cả tờ báo và cả ngành Báo chí cách mạng, thay mặt công chúng, thể hiện qua đại từ nhân xưng ngôi gộp: chúng ta (bao gồm cả người phát ngôn là cơ quan báo chí và người tiếp nhận phát ngôn là công chúng, bạn đọc), đưa ra lời phê phán lên án những loại người lợi dụng chức vụ quyền hạn, thao túng thị trường kinh tế để trục lợi cá nhân, dẫn đến phá phách nền kinh tế, phá hoại niềm tin.

Về mặt ý nghĩa ngữ pháp, Sp1 luôn phải ở ngôi thứ nhất - người phát ngôn (số ít hoặc số nhiều), và cũng có thể là ngôi gộp thứ nhất và thứ hai - người phát ngôn và người tiếp ngôn (số nhiều), tuy nhiên cả trong trường hợp này chính danh Sp1 vẫn thuộc ngôi thứ nhất (số đông, tập thể). Khi hiển thị trên phát ngôn, Sp1 thường được biểu đạt bằng các đại từ nhân xưng: tôi, chúng tôi, chúng ta.

Về tính bắt buộc hiển thị trên bề mặt phát ngôn, thành phần Sp1 có thể được nêu ra trong BTNHPP nhưng cũng có thể được tỉnh lược. Tuy nhiên, dựa vào ngữ cảnh, hoàn toàn có thể xác định được chủ thể của HĐNNPP.

Bảng 2.3. Thống kê tần số hiển thị Sp1 trong BTNHPP trực tiếp

Sp1

Hiển thị Không hiển thị

Tổng Tần số 7 65 72 Tỉ lệ % 9,7 90,3 100,0

Từ kết quả thống kê trên, có thể thấy rằng, trong BTNHPP có xu hướng tỉnh lược Sp1. Điều này có thể được lí giải bởi TPBC là tiếng nói của chính tác giả viết

nên tác phẩm ấy, song đồng thời cũng đại diện cho tiếng nói của cả tờ báo, thậm chí

của cả ngành Báo chí cách mạng Việt Nam, nói lên tiếng nói của đông đảo quần

54

chúng nhân dân, cho nên khi đưa ra lời phê phán, chủ thể phát ngôn thường không tự

xưng và trong những trường hợp đó thường ngầm mặc định tư cách đại diện công

luận của chủ thể hành động phê phán - Sp1. Ví dụ:

(27) Thứ trưởng Bộ Y tế trả lời về việc giá thuốc cao: "Chuyện không có gì mà ẫm ĩ" thì Ø xin nói rằng đó là câu trả lời vô trách nhiệm đối với xã hội. [NL02, tr.104]

Trong BTNHPP ở ví dụ (27), mặc dù hoàn toàn có thể bổ sung vào vị trí Ø đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều tôi/ chúng tôi để hiển thị Sp1, song sự khuyết vắng Sp1 có lẽ là một chủ ý để phát ngôn của Sp1 không chỉ là tiếng nói, quan điểm, chính kiến của cá nhân tác giả TPBC mà còn là tiếng nói, quan điểm, chính kiến của cả công luận phê phán câu trả lời vô trách nhiệm đối với xã hội của Thứ trưởng Bộ Y tế về việc giá thuốc cao.

2.1.2.2. Động từ ngôn hành phê phán (ĐTNHPP)

Như đã nêu, ĐTNH đóng vai trò là một trong những phương tiện chính yếu đánh dấu hiệu lực ngôn hành của phát ngôn, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để phân biệt BTNH tường minh và BTNH nguyên cấp. Đảm nhiệm vai trò động từ ngôn hành trong BTNHPP tường minh là các động từ nói năng thực hiện hành động phê phán, ví dụ: chê/ chê trách, phê phán, phê bình, chỉ trích, phản đối, lên án,... Chúng đều thuộc nhóm HĐNNPP, chúng tôi lấy động từ "phê phán" làm đại diện và để gọi tên chung cho cả nhóm này.

Trong 72 HĐNNPP trực tiếp, có 12 trường hợp sử dụng BTNHPP tường minh,

tức có sử dụng ĐTNHPP. Kết quả thống kê được tổng hợp trong bảng 2.4 dưới đây.

Bảng 2.4. Thống kê ĐTNHPP trong TPBC

TT Động từ/ cụm động từ ngôn hành phê phán Tần số Tỉ lệ %

nói, nói thẳng, nói thẳng ruột bò 1 7 58,4

cho (rằng) 2 2 16,7

3 nghĩ 1 8,3

4 lên án 1 8,3

5 trách 1 8,3

Tổng 12 100

Theo kết quả khảo sát trên, có thể nhận thấy, số lượng các động từ/ cụm ĐTNH

được sử dụng để thực hiện HĐNNPP trong TPBC không nhiều, chỉ có 5 đơn vị và tần

số sử dụng cũng rất thấp, mỗi đơn vị chỉ được sử dụng một vài lượt. Đặc biệt, chúng

tôi nhận thấy, trong danh sách các động từ/ cụm động từ được thống kê ở Bảng 2.4,

chỉ có 02 ĐTNHPP chính danh, tức mang đầy đủ tư cách của một ĐTNHPP, đó là

55

động từ lên án, trách. Còn 3 động từ/ cụm động từ còn lại có những động từ/ cụm

động từ vốn không thực sự là những đơn vị từ vựng điển hình của ĐTNHPP, như:

nói/ nói thẳng, cho rằng/ cho là, nghĩ, tuy nhiên, trong một số ngữ cảnh những động

từ/ cụm động từ này đã được sử dụng với vai trò là ĐTNH thực hiện HĐNNPP. Sau

đây, chúng tôi xem xét từng đơn vị cụ thể.

a. Động từ ngôn hành "lên án"

Đây là một trong hai ĐTNHPP chính danh mà chúng tôi thống kê được trong

1.015 TPBC được khảo sát. Như đã phân tích ở chương 1, lên án có nghĩa: "Nêu rõ

tội lỗi và phê phán, buộc tội" [145, tr.725]. Lên án là một trong số những động từ

ngôn hành phê phán điển hình của tiếng Việt (bao gồm: chê/ chê trách, phê phán,

phê bình, chỉ trích, phản đối, lên án,...) và là ĐTNH có cường độ lực ngôn trung phê

phán mạnh nhất so với các ĐTNHPP khác. Khi bộc lộ mạnh mẽ quan điểm, thái độ

phản đối, không đồng tình với những đối tượng (người, sự vật, sự việc, hiện tượng)

xấu, sai trái, tiêu cực gây nguy hại lớn tới cộng đồng, xã hội, thì người ta thường sử

dụng ĐTNH lên án và có thể kết hợp với phụ từ biểu thị mức độ cực lực (cực lực lên

án). Ví dụ:

(28) Chúng ta lên án những loại người này đang phá phách nền kinh tế, phá

hoại niềm tin. [NL17, tr.31]

Trong ví dụ (28), người phát ngôn (tác giả của TPBC thay mặt công chúng) đã

mạnh mẽ lên án những loại người lợi dụng chức vụ quyền hạn, thao túng thị trường

kinh tế để trục lợi cá nhân, dẫn đến phá phách nền kinh tế, phá hoại niềm tin.

b. Động từ ngôn hành "trách"

Là một trong hai ĐTNHPP chính danh thống kê được trong 1.015 TPBC được

khảo sát, như đã phân tích ở chương 1, trách có nghĩa: "Tỏ lời không bằng lòng về

người có quan hệ gần gũi nào đó, cho là đã có hành vi, thái độ không đúng, không

hay, không tốt đối với mình hoặc có liên quan đến mình" [145, tr.1304]. Trách là một

trong số những ĐTNHPP của tiếng Việt và là ĐTNH có cường độ lực ngôn trung phê

phán yếu so với các ĐTNHPP khác. Khi bộc lộ thái độ không bằng lòng với người

vốn có quan hệ gần gũi mà có hành vi xấu, sai trái, tiêu cực làm ảnh hưởng tới những

người xung quanh, trong đó có người nói, thì người ta thường sử dụng ĐTNH trách

và có thể kết hợp với tình thái từ đáng (đáng trách). Ví dụ:

(29) Đáng trách ở đây chính là Ban Biên tập báo Lao động Xã hội nhận bài của

56

cộng tác viên mà không kiểm tra đúng sai, cứ đem đăng bừa. [NL3, tr.174]

Trong ví dụ (29), người phát ngôn (tác giả của TPBC thay mặt các cộng tác viên

của báo Lao động Xã hội) đã trách Ban Biên tập của tờ báo đã chưa sát sao, còn cẩu

thả, dễ dãi trong khâu biên tập, thẩm định chất lượng thông tin đúng sai của bài viết.

c. Động từ ngôn hành "nói"

Trong các HĐNNPP được khảo sát, ĐTNH nói được sử dụng với những biến

thể: nói, nói thẳng, nói thẳng ruột bò, nói cho đúng nghĩa.

Theo Từ điển tiếng Việt (2010), "nói" có nghĩa: "Phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung nhất định trong giao tiếp" [145, tr.942]. Với ý nghĩa đó, nói

là động từ bao của tất cả các hành động nói năng trong tất cả các loại HĐNN, do vậy nó có thể được dùng thay thế cho bất kì ĐTNH nào. Chẳng hạn, HĐNN tái hiện với

các ĐTNH như: kể, báo cáo, tường trình, trình bày, thông tin, thông báo, khai, kê

khai, khai báo, tố cáo, giải thích, hướng dẫn, giới thiệu, dự đoán, dự báo, cảnh

báo,...có thể được thay thế bằng ĐTNH nói. Ví dụ:

(30) Tôi xin tường trình lại toàn bộ sự việc mâu thuẫn dẫn đến xô xát giữa tôi

và ông Lê Văn V vào ngày 22/11/2013 tại Phòng Hành chính tổng hợp như sau: (...)

(Dẫn lại ví dụ của [16])

Hoàn toàn có thể thay nói vào vị trí của ĐTNH tường trình trong ví dụ (30): Tôi

xin nói lại toàn bộ sự việc mâu thuẫn dẫn đến xô xát giữa tôi và ông Lê Văn V vào

ngày 22/11/2013 tại Phòng Hành chính tổng hợp như sau: (...)

Hay HĐNN điều khiển với các ĐTNH như: yêu cầu, đề nghị, lệnh, cấm, mời,

khuyên,... cũng có thể được thay thế bằng ĐTNH nói. Ví dụ:

(31) Tôi yêu cầu anh khẩn trương hoàn thành việc tôi đã giao.

Hoàn toàn có thể thay nói vào vị trí của ĐTNH yêu cầu trong ví dụ (31): Tôi nói

anh khẩn trương hoàn thành việc tôi đã giao.

Bởi có giá trị là động từ bao của tất cả các động từ nói năng, cho nên có một số trường hợp trong TPBC, nói cũng được sử dụng làm ĐTNH để thực hiện HĐNNPP. Tuy nhiên, nói có cường độ lực ngôn trung phê phán nhẹ hơn so với các ĐTNHPP điển hình như: chê/ chê trách, phê phán, phê bình, chỉ trích, phản đối, lên án. Ví dụ:

(32) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa... kém lại vừa kiêu. Các ông nghĩ thứ sản phẩm của mình rất cao sang, rất phức tạp và đặc thù khiến các "nhà buôn" không

57

sao hiểu nổi. Nếu áp dụng những quy luật kinh tế vào văn hóa thì nhiều vấn đề đã được giải quyết từ lâu rồi. [NL5, tr.82]

Chúng tôi thấy rằng, vì NDMĐ sau ĐTNH nói là sự đánh giá thấp đối tượng

(các ông vừa ... kém lại vừa kiêu) và do đó có hiệu lực phê phán, cho nên hoàn toàn có thể thay phê bình hoặc phê phán vào vị trí của ĐTNH nói trong ví dụ (32):

Phê bình/ phê phán thẳng nhé! Vì các ông vừa ... kém lại vừa kiêu...

Tương tự như trường hợp trên, trong ví dụ (12) sau đây, vì NDMĐ sau ĐTNH

nói là sự đánh giá thấp đối tượng (vì NDMĐ sau ĐTNH nói là sự đánh giá thấp đối tượng (có mà văn hóa lùn hoặc vô..., vô...) và do đó có hiệu lực phê phán, cho nên

hoàn toàn có thể thay phê phán vào vị trí của ĐTNH nói:

(12) Xin bập môi ba lần mới dám nói tiếp rằng: có mà văn hóa lùn hoặc vô...,

vô... [NL3, tr.253]

≈ Xin bập môi ba lần mới dám phê phán tiếp rằng: có mà văn hóa lùn hoặc

vô..., vô...

d. Các động từ/ cụm động từ ngôn hành: cho/ cho rằng/ cho là, nghĩ/ nghĩ

rằng/ nghĩ là

Cho dùng trước rằng/ là (cho rằng/ cho là) có nghĩa: "Coi là, nghĩ rằng một

cách chủ quan" [145, tr.223], nghĩ (thường dùng trước rằng/ là: nghĩ rằng/ nghĩ là) có

nghĩa: "Cho là, cho rằng (sau khi đã nghĩ)" [145, tr.873]. Như vậy, đây là các cụm

động từ đồng nghĩa, bộc lộ quan điểm, sự nhìn nhận, đánh giá ít nhiều mang tính chủ

quan. Trong một số ngữ cảnh, khi những cụm động từ này được sử dụng trước mệnh

đề mang tính đánh giá thấp về đối tượng (người, sự vật, sự việc, hiện tượng) bị coi là

xấu, sai trái, tiêu cực thì chúng có tư cách là ĐTNHPP. Ví dụ:

(34) Tôi kiên quyết cho rằng trong việc này một số tờ báo đã không điều chỉnh,

họ vội vàng khai thác số phận của một cá nhân một cách tham lam. [NL5, tr.64]

(35) Tôi nghĩ đằng sau những lời hoa mỹ là một thói quen làm việc cẩu thả,

một sự coi thường công chúng và một kiểu hiểu biết kém cỏi về nghệ thuật và về văn

hóa Việt Nam. [NL5, tr.94]

Ở những ví dụ (34, 35) trên, các động từ cho, nghĩ được sử dụng với nghĩa "bộc lộ quan điểm, ý kiến đánh giá của cá nhân người nói" về hiện tượng chứa đựng bản chất tiêu cực: "trong việc này một số tờ báo đã không điều chỉnh, họ vội vàng khai thác số phận của một cá nhân một cách tham lam"; hay "đằng sau những lời hoa mỹ là một thói quen làm việc cẩu thả, một sự coi thường công chúng và một kiểu hiểu

biết kém cỏi về nghệ thuật và về văn hóa Việt Nam". Có thể thay thế cho, nghĩ bằng một ĐTNHPP chính danh. Chẳng hạn:

(36) Tôi kiên quyết phê bình rằng trong việc này một số tờ báo đã không điều

58

chỉnh, họ vội vàng khai thác số phận của một cá nhân một cách tham lam.

Hay:

(37) Tôi phê phán đằng sau những lời hoa mỹ là một thói quen làm việc cẩu

thả, một sự coi thường công chúng và một kiểu hiểu biết kém cỏi về nghệ thuật và về văn hóa Việt Nam.

Tuy nhiên, khi sử dụng các cụm ĐTNH cho rằng/ cho là, nghĩ/ nghĩ rằng/ nghĩ

là với tính chất ĐTNHPP thì cường độ lực ngôn trung phê phán của chúng thấp hơn

so với những ĐTNHPP khác, bởi ở đây, sự phê phán ít nhiều còn mang tính chủ quan, thiên về bộc lộ ý kiến đánh giá của cá nhân người nói.

Như vậy, dù là sử dụng động từ/ cụm ĐTNHPP chính danh hay không chính

danh thì ý nghĩa chung ở chúng, cũng là cơ sở để nhận diện một động/ cụm động từ

nào đó có phải là ĐTNHPP hay không, đó là ý nghĩa: động từ nói năng của người nói ở ngôi thứ nhất, thì hiện tại bộc lộ quan điểm, ý kiến đánh giá thấp về đối tượng (người, sự vật, sự việc, hiện tượng) bị coi là xấu, sai trái, tiêu cực. Từ đây, có thể

rút ra khái niệm ĐTNHPP nói chung, ĐTNHPP nói riêng trong TPBC tiếng Việt

như sau:

Động từ ngôn hành thực hiện HĐNNPP (động từ ngôn hành phê phán) là động

từ nói năng bộc lộ quan điểm, ý kiến đánh giá thấp, thái độ phản đối, không đồng

tình của người nói (Sp1, ở thì hiện tại) đối với đối tượng (người, sự vật, sự việc, hiện

tượng) tiêu cực được nói đến.

2.1.2.3. Đối tượng tiếp nhận phát ngôn (Sp2)

Về mặt cương vị vai giao tiếp, trong HĐNNPP, Sp2 là đối tượng tiếp nhận phát

ngôn. Ở TPBC, đối tượng tiếp nhận lời phê phán (Sp2) có thể là nhân vật giao tiếp

được xây dựng trong TPBC hoặc có thể là độc giả của TPBC nói riêng, là đông đảo

công chúng mà báo chí hướng tới nói chung.

a. Sp2 là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong tiểu phẩm báo chí

Ví dụ:

(38) Tôi có thể nói thẳng ruột bò là hai vị cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo kém,

tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm mới có hậu quả như thế. [NL5, tr.42]

Trong ví dụ (38), đối tượng tiếp nhận lời phê phán của con bò (nhân vật hư cấu trong TPBC) là hai vị - nhân vật đang phỏng vấn con bò, cũng là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong TPBC, đồng thời là nhân vật đang bị con bò phê phán.

59

(39) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa... kém lại vừa kiêu. Các ông nghĩ thứ sản phẩm của mình rất cao sang, rất phức tạp và đặc thù khiến các "nhà buôn" không sao hiểu nổi. Nếu áp dụng những quy luật kinh tế vào văn hóa thì nhiều vấn đề đã được giải quyết từ lâu rồi. [NL5, tr.82]

Trong ví dụ (39), đối tượng tiếp nhận lời phê phán của doanh nhân (nhân vật trong TPBC) là ông đạo diễn - nhân vật đang đối thoại với doanh nhân, cũng là nhân vật giao tiếp được xây dựng trong TPBC, đồng thời là nhân vật đang bị vị doanh nhân kia phê phán.

b. Sp2 là độc giả - công chúng mà báo chí hướng tới

Ví dụ:

(40) Tệ thật, trên "phát-phút" kiểu trên, dưới "phát - phút" kiểu dưới, thảo nào

các dự án lúc hoàn thành không còn hình dáng ban đầu. [NL11, tr.65]

Trong ví dụ trên, đối tượng tiếp nhận phát ngôn phê phán Sp2 là công chúng mà báo chí hướng tới. Sp1 - tác giả của TPBC bộc lộ trước Sp2 - độc giả của báo chí lời phê phán (Tệ thật) đối với những đối tượng đã tham nhũng, ăn bớt vốn đầu tư và công đoạn thi công các dự án, khiến cho các dự án lúc hoàn thành không còn hình dáng ban đầu mà trở nên biến dạng thảm hại. Khi Sp1 nói với Sp2 về hành vi tham nhũng của Sp3, Sp1 mong muốn Sp2 nhận ra hành vi tiêu cực của Sp3 và từ đó có ý thức đấu tranh, bài trừ hành vi tiêu cực đó.

Về mặt ý nghĩa ngữ pháp, Sp2 luôn phải ở ngôi thứ hai. Về tính bắt buộc hiển

thị trên bề mặt phát ngôn, thành phần Sp2 trong BTNHPP có thể được nêu rõ nhưng

thường được tỉnh lược, nhất là trong trường hợp Sp2 là đông đảo công chúng mà

TPBC hướng tới.

Bảng 2.5. Thống kê tần số hiển thị Sp2 trong BTNHPP trực tiếp

Sp2 Tần số Tỉ lệ %

Hiển thị 14 19,4

Không hiển thị 58 80,6

Tổng 72 100,0

Bảng thống kê cho thấy Sp2 - đối tượng tiếp nhận phát ngôn thường không hiển

thị trong BTNHPP trực tiếp trên phát ngôn 58/ 72 trường hợp (chiếm 80,6 %); sự

hiển thị chỉ có 14 trường hợp (chiếm 19,4%).

2.1.2.4. Nội dung mệnh đề phê phán (NDMĐPP)

Như chúng tôi đã nêu ở chương 1, khi đưa ra lời phê phán, đích ngôn trung của HĐNNPP là bộc lộ quan điểm, thái độ phản đối, không đồng tình, ý kiến đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực đối với đối tượng người, sự vật, sự việc, hiện tượng) được nói

đến. Trong BTNHPP, thành phần hạt nhân chuyên chở thông điệp để hướng tới đích

này chính là phần NDMĐPP. Do vậy, đây là thành phần quan trọng, không bao giờ

60

và không thể khuyết vắng trong BTNHPP.

Như đã nêu trên, NDMĐPP trong BTNHPP ở TPBC là thành phần cốt lõi bộc lộ

trực tiếp quan điểm, thái độ, ý kiến đánh giá thấp đối với đối tượng (người, sự vật, sự việc, hiện tượng) được đề cập trong phát ngôn.

Ví dụ:

(41) Tôi có thể nói thẳng ruột bò là hai vị cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo

kém, tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm mới có hậu quả như thế. [NL, tr.42]

Ở phát ngôn trong ví dụ (41), nội dung phê phán của Sp1 (tôi - con bò) là: hai vị

cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo kém, tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm mới có hậu

quả như thế. Lời phê phán này trực tiếp bộc lộ ý kiến đánh giá thấp đối với cách làm

việc của hai vị, cụ thể là: cố vấn chưa tinh, tính sáng tạo kém, tính lệ thuộc cao đã dẫn đến hiệu quả công việc (tác phẩm của họ) không cao, dẫn đến những hậu quả xấu

(tác phẩm mới có hậu quả như thế).

a. Về nội dung ý nghĩa của phần nội dung mệnh đề phê phán

Xem xét về mặt nội dung ý nghĩa, phần nội dung phê phán trong BTNHPP

thường chứa đựng những thông tin cơ bản sau:

i) Thông tin về đối tượng được nói đến: Đối tượng được nói đến NDMĐPP cũng

chính là đối tượng bị phê phán. Đối tượng bị phê phán có thể là người, hoặc vật, việc,

hiện tượng. Tuy nhiên, kể cả trong trường hợp phê phán vật, việc, hiện tượng thì đối

tượng bị phê phán cuối cùng cũng là người tạo ra vật hoặc gây ra việc, hiện tượng tiêu cực được nói đến trong phát ngôn. Ví dụ:

 Đối tượng bị phê phán là người

(42) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa ... kém lại vừa kiêu. Các ông nghĩ thứ sản

phẩm của mình rất cao sang, rất phức tạp và đặc thù khiến các "nhà buôn" không

sao hiểu nổi. Nếu áp dụng những quy luật kinh tế vào văn hóa thì nhiều vấn đề đã

được giải quyết từ lâu rồi. [NL5, tr.82]

Trong ví dụ (42), đối tượng bị phê phán là các ông (đạo diễn) vừa kém lại vừa kiêu.

 Đối tượng bị phê phán là vật, việc, hiện tượng

(43) Thế là xử lý chưa nghiêm, chưa đúng luật chứ không phải là cái tội "xử lý

nội bộ". [NL20, tr.41]

Trong ví dụ (43), đối tượng bị phê phán là việc thực thi pháp luật, xử lý hành vi

vi phạm pháp luật chưa nghiêm, chưa đúng luật của người, tổ chức, cơ quan chức

61

năng có thẩm quyền.

(44) Cái chủ trương lỏng lẻo, khó mà điều hòa cán bộ được đào tạo cho cả

nước. [NL17, tr.220]

Trong ví dụ (44), đối tượng bị phê phán là cái chủ trương sử dụng nhân lực sau

đào tạo của nhà nước ta còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc tiếp nhận, bố trí,

sắp xếp, sử dụng cán bộ trong các cơ quan, dẫn đến tệ nạn tiêu cực trong việc tuyển

dụng nhân sự.

Xét từ góc độ nhân vật giao tiếp, đối tượng bị phê phán có thể là người nghe

(người tiếp nhận pháp ngôn phê phán - Sp2), hoặc một đối tượng khác ở ngôi 3 (Sp3)

được nói đến trong phát ngôn, thậm chí là chính người phát ngôn tự phê phán mình.

Ví dụ:

 Đối tượng bị phê phán là Sp2

(45) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa... kém lại vừa kiêu. Các ông nghĩ thứ sản

phẩm của mình rất cao sang, rất phức tạp và đặc thù khiến các "nhà buôn" không

sao hiểu nổi. Nếu áp dụng những quy luật kinh tế vào văn hóa thì nhiều vấn đề đã được giải quyết từ lâu rồi. [NL5, tr.82]

 Đối tượng bị phê phán là Sp3

(46) Chúng ta lên án những loại người này đang phá phách nền kinh tế, phá

hoại niềm tin. [NL17, tr.31]

 Người phát ngôn tự phê phán - một trường hợp đặc biệt.

Trên thực tế cuộc sống cũng như trong TPBC, chúng ta gặp không ít trường người hợp người nói tự phê phán chính mình hoặc phê phán đối tượng chung trong đó có mình.

Ví dụ:

(47) Căn bệnh trầm kha trong chúng ta là kỷ luật không nghiêm. Có những người không có năng lực để đảm đương nhiệm vụ, thậm chí vi phạm kỷ luật đáng lẽ phải xử lý, cách chức những lại điều chuyển đi làm việc khác, thậm chí ở cương vị cao hơn. Bởi vậy đã trở thành bệnh "nhờn thuốc" tạo môi trường cho tiêu cực phát triển...[NL2, tr.348]

62

Phát ngôn trong ví dụ (47), người nói tự phê phán biểu hiện ở việc sử dụng đại từ nhân xưng ngôi gộp: chúng ta để chỉ đối tượng bị phê phán vì mang "căn bệnh trầm kha là kỉ luật không nghiêm". Đại từ nhân xưng chúng ta chỉ chung mọi người trong đó gồm có cả người nói. Hình thức tự phê phán không những là hình thức tự răn mình, giúp bản thân "tự soi, tự sửa" mà còn giúp cảnh tỉnh mọi người tránh xa những thói hư, tật xấu, trong xã hội.

ii) Thông tin về hành vi, đặc điểm tiêu cực, sai trái, không đúng đắn của đối tượng được nói đến. Chẳng hạn, trong phát ngôn trong ví dụ (42), hành vi, đặc điểm tiêu cực, sai trái, không đúng đắn của đối tượng được nói đến (các ông) là: vừa ... kém lại vừa kiêu. Phát ngôn ở ví dụ (43), đặc điểm tiêu cực, sai trái, không đúng đắn của đối tượng được nói đến (việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong các cơ quan, tổ chức) là: chưa nghiêm, chưa đúng luật. Còn phát ngôn trong ví dụ (44), đặc điểm tiêu cực, sai trái, không đúng đắn của đối tượng được nói đến (cái chủ trương sử dụng nhân lực sau đào tạo của nhà nước ta) là: còn lỏng lẻo, khó mà điều hòa cán bộ được đào tạo cho cả nước.

Theo quan sát của chúng tôi, chính thông tin về hành vi, đặc điểm tiêu cực, sai

trái, không đúng đắn của đối tượng được nói đến đã khiến cho phần NDMĐ trong BTNHPP luôn mang tính đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực, và đây cũng là điểm

cốt lõi nhất của tinh thần phê phán, là yếu tố quan trọng nhất giúp nhận diện đích

ngôn trung của HĐNNPP.

Về tính bắt buộc hiển thị trên bề mặt phát ngôn, nhìn chung, ở tất cả các

HĐNNPP trong TPBC, thành phần nội dung phê phán luôn xuất hiện đầy đủ, không

có trường hợp nào bị lược bỏ. Điều đó đã cho thấy vai trò hạt nhân, trọng yếu của

thành phần này trong BTNHPP.

Về các chủ đề phê phán cơ bản của hành động ngôn ngữ phê phán trực tiếp

trong tiểu phẩm báo chí

Chủ đề phê phán của HĐNNPP trực tiếp trong TPBC là các vấn đề, hành vi mà

người phê phán cho rằng không đúng, tiêu cực từ đó người nói bộc lộ quan điểm, thái

độ không đồng tình, không ủng hộ và mong muốn các đối tượng bị phê phán có sự

điều chỉnh hoặc thay đổi theo hướng tích cực. Các nhóm chủ đề cơ bản của HĐNNPP

trực tiếp trong TPBC được chúng tôi thống kê trong bảng dưới đây (xem bảng 2.6)

Bảng 2.6. Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 72 HĐNNPP trực tiếp

Tần số xuất hiện STT Các nhóm chủ đề phê phán

Số lƣợng Tỉ lệ %

14

19,4

11

15,3

1 Cơ chế, chính sách, quản lý NN

10

13,9

Tư tưởng, đạo đức, lối sống, ứng xử 2

8

11,1

3

7

9,7

4

63

5 Kinh tế, thị trường, dịch vụ (mặt trái, ép giá, hàng ngoại, khủng hoảng, hàng giả, giá cả, chứng khoán...) Tiêu cực, tham nhũng, lãng phí , lợi ích nhóm (thất thoát tài sản NN, móc ngoặc, bệnh thành tích; bất công XH) Tệ nạn và tội ác XH (ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn lậu, cá độ, rượu chè, trò chơi điện tử....)

4

5,6

4

5,6

6 Cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, quy hoạch; giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước.

3

4,2

7 Giáo dục, lao động hướng nghiệp; khoa học công nghệ

2

2,8

8

2

2,8

9 Văn hóa – XH, thể thao, du lịch (văn học nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh, cảnh quan, văn hóa đô thị, hủ tục ... An ninh trật tự xã hội; chủ quyền và bảo vệ tổ quốc, chiến tranh, khủng bổ

2

2,8

10 Y tế, an sinh XH; Vệ sinh, an toàn thực phẩm

2

2,8

11 Quản lý, giáo dục con cái và thế hệ trẻ

1

1,4

12 Báo chí, truyền thông, mạng XH; ấn phẩm xuất bản

1

1,4

13 Nông nghiệp - nông thôn: xây dựng nông thôn mới

1,4

14 Truyền thống văn hóa dân tộc

100,0

15 Đời sống người dân lao động

1 72

Tổng

Bảng thống kê cho thấy chủ đề phê phán của HĐNNPP trực tiếp trong TPBC thời kỳ Đổi mới vô cùng phong phú, đề cập tới các vấn đề, hiện tượng tiêu cực, sai trái ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời (gồm 15 nhóm chủ đề), được thể hiện trên các phát ngôn phê phán. Song, theo quan sát của chúng tôi, trong các nhóm chủ đề đó, 5 nhóm chủ đề có tần số xuất hiện cao hơn cả được TPBC tập trung phản ánh. Cụ thể đó là: chủ đề về đạo đức, lối sống, ứng xử xã hội (chiếm 15,3 %); nhóm chủ đề cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước (chiếm 19,4 %); nhóm chủ đề kinh tế, thị trường, dịch vụ (mặt trái, ép giá, hàng ngoại, khủng hoảng, hàng giả, giá cả, chứng khoán...) (chiếm 13,9); nhóm chủ đề tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm (chiếm 11,1%); nhóm chủ đề tệ nạn và tội ác xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn lậu, cá độ, rượu chè, trò chơi điện tử....;) (chiếm 9,7%). Đây chính là những vấn đề xã hội nhức nhối, bức xúc và cũng là những vấn đề xã hội mang tính thời sự được toàn xã hội quan tâm. Nội dung chủ đề phê phán của HĐNNPP trực tiếp trong TBBC thời kì Đổi mới này có tính khác biệt với các thời kỳ trước đó. Những vấn đề được coi là nhạy cảm như cơ chế quản lý, điều hành của nhà nước cũng được TPBC đề cập và lên tiếng phê phán thẳng thắn. Bởi thời kỳ này, với tinh thần đổi mới, cho phép báo chí nhìn thẳng vào sự thật để phê phán những vấn đề, hành vi tiêu cực, sai trái trong xã hội, nhằm hướng tới xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Điều này thể hiện vai trò giám sát, phản biện và định hướng xã hội của báo chí trong đó có thể loại TPBC.

b. Phương tiện hình thức biểu hiện nội dung mệnh đề phê phán

Thành phần NDMĐ trong BTNHPP ở TPBC thường sử dụng các phương tiện

ngôn ngữ chuyên dụng ở các cấp độ: từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm, phương tiện cận

64

ngôn và ngoại ngôn: thái độ, giọng điệu... Các phương tiện ngôn ngữ nêu trên có thể

được người nói dùng một cách độc lập, song cũng có thể được dùng kết hợp, lồng ghép

với nhau để tạo hiệu quả phê phán cao nhất.

i) Phương tiện từ vựng chuyên dụng

Phương tiện từ vựng chuyên dụng trong thành phần NDMĐ của BTNHPP gồm: i) Từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực; ii) Từ ngữ xưng hô và từ ngữ chỉ người mang sắc thái âm tính; iii) Từ ngữ phủ định; iv) Thành ngữ, tục ngữ mang sắc thái âm tính; v) Từ ngữ thể hiện tình thái của phát ngôn: quán ngữ tình thái, tiểu từ tình thái hoặc tổ hợp tương đương. Các phương tiện từ vựng này đều có tác dụng điều biến lực ngôn trung của HĐNNPP ở những mức độ nhất định.

* Từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực

Để thực hiện HĐNNPP, người nói dùng các từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực để bộc lộ ý kiến nhận định, đánh giá thấp về đối tượng hoặc về đặc điểm, hành động nào đó của đối tượng. Theo quan sát của chúng tôi, lớp từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực có thể được xem là loại phương tiện từ vựng điển hình, đặc dụng trong phần NDMĐ của BTNHPP với nhiều cách thức sử dụng linh hoạt, có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp. Cụ thể:

 Từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực được dùng độc lập

Khi từ/ cụm từ đánh giá thấp, tiêu cực được dùng độc lập trong phát ngôn phê phán thì nó sẽ bộc lộ thái độ phê phán hết sức dứt khoát, mạnh mẽ của chủ thể phê phán đối với đối tượng bị phê phán. Ví dụ:

(48) Khoác lác. [NL3, tr.141]

(49) Ngoa ngôn. [NL3, tr.289]

 Từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực được dùng kết hợp

Khác với dạng dùng độc lập nêu trên, từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực có thể được sử dụng kết hợp với từ ngữ chỉ đối tượng bị phê phán (Y) và các từ ngữ khác như phụ từ biểu hiện mức độ (rất, quá, lắm,...), từ/ cụm từ tình thái (thật, thế, thay, thôi,...), quán ngữ tình thái (thật là, hóa ra, thế là,...)

+ Từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực kết hợp với từ ngữ chỉ đối tượng bị

phê phán. Ví dụ:

(50) Các ông thực là bọn ngu lâu. [NL10, tr.38]

(51) Anh rất thông minh nhưng khi có quyền, anh lại biết ít hoặc không biết đầy

đủ. [NL17, tr.107]

(52) Trong môi trường xấu đó,...cũng không ít kẻ xấu lợi dụng tình cảnh đó để

65

lấn chiếm đất công,...[NL2, tr.328]

Ở các ví dụ (50, 51, 52) nêu trên các từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực được dùng kết hợp với các từ ngữ chỉ đối tượng bị phê phán - chủ thể của hành động, trạng thái, tính chất tiêu cực được nêu trong phát ngôn. Cụ thể, trong ví dụ (50), đối tượng bị phê phán là "các ông" với các từ đánh giá thấp, tiêu cực: ngu lâu. Ở ví dụ (51), đối tượng bị phê phán là "anh" với từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực là: biết ít hoặc không biết đầy đủ. Ở ví dụ (52), đối tượng bị phê phán là "kẻ xấu" với từ ngữ biểu thị hành vi tiêu cực: lợi dụng, lấn chiếm.

+ Từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực kết hợp với phụ từ biểu hiện mức độ (rất, quá, lắm,...); từ/ cụm từ tình thái (thật, thế, thay, thôi,...); quán ngữ tình thái (thật là, hóa ra, thế là,...) để tăng sắc thái đánh giá tiêu cực. Ví dụ:

(53) Thế là trì trệ và lãng phí. [NL20, tr.30]

(54) Hóa ra anh mượn mẹ để làm lợi cho mình. [NL10, tr.85]

(55) Ngươi trẻ người non dạ quá! [NL10, tr.97]

(56) Thật vớ vẩn. [NL20, tr.72]

Hệ thống từ ngữ biểu thị sự đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực nhằm mục đích phê phán vô cùng phong phú. Tùy theo lĩnh vực, chủ đề phê phán mà có hệ thống từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực tương ứng. Chẳng hạn phê phán về quan điểm, thường sử dụng các từ ngữ như: sai lầm, sai trái, lệch lạc, phiến diện,...; phê phán về hành động, thường sử dụng các từ ngữ như: xấu, tiêu cực, phản cảm, tồi, thiếu thiện chí, vô tâm,...; phê phán về đạo đức, nhân cách thường có các từ ngữ như: tồi, kém, yếu, tha hóa, biến chất, bất hiếu, vô nhân đạo,... Như vậy về từ loại, từ ngữ biểu thị sự đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực rất đa dạng, có thể là danh, động, tính hay đại từ/ từ thay thế. Về cấu tạo, chúng có thể là từ hoặc cụm từ, ngữ cố định, thành ngữ,... (xem bảng 2.7 dưới đây)

Bảng 2.7. Thống kê về cấu tạo, từ loại của từ ngữ đánh giá tiêu cực trong 72 BTNHPP trực tiếp

Từ loại Tần số Tần suất Ví dụ minh họa

24/72 0,3/1 Danh từ/ cụm danh (57) Không giữ được chữ hiếu thì con người không bằng con vật! [NL21, tr.157]

74/72 1,03/1 Động từ/ cụm động (58) Chúng ta lên án những loại người này đang phá phách nền kinh tế, phá hoại niềm tin. [NL17, tr.31]

156/72 2,2/1 Tính từ/ cụm tính (59) Tôi có thể nói thẳng ruột bò: là hai vị cố vấn chưa tinh. Tính sáng tạo kém, tính lệ thuộc cao cho nên tác phẩm mới có hậu quả như thế. [NL5, tr.42]

66

Tổng 254/72 3,5/1

Có thể thấy rằng, các từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực, như danh từ/ cụm

danh từ/ từ thay thế danh (loại người, hạng người, con vật, hậu quả, bệnh xu nịnh, bệnh làm láo báo cáo hay, đồ bỏ đi,...), động từ/ cụm động từ (phá phách, phá hoại,

biết ít, biết không đầy đủ, chụp mũ, cãi chày cãi cối, lừa nhau,...) và đặc biệt là tính

từ/ cụm tính từ âm tính (kém, kiêu, chưa nghiêm, chưa đúng luật, lỏng lẻo, vô trách

nhiệm, tùy tiện, cẩu thả, quan liêu...) là phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNNPP, xuất hiện dày đặc, 242 lần trong 72 BTNHPP (trung bình cứ mỗi

HĐNNPP sử dụng khoảng 3,5 từ ngữ mang tính đánh giá thấp). Bất kì HĐNNPP nào

cũng sử dụng loại phương tiện ngôn ngữ này và trên thực tế, đây cũng là dấu hiệu chỉ

dẫn hiệu lực ở lời điển hình nhất của HĐNNPP. Thật khó có cơ sở để xác định được đích ngôn trung của HĐNNPP nếu trong BTNH không xuất hiện từ ngữ mang tính

đánh giá tiêu cực.

* Từ ngữ xưng hô, từ ngữ chỉ người có sắc thái âm tính

Nhiệm vụ quan trọng của TPBC là phê phán, lên án, đấu tranh ngăn chặn, đẩy

lùi các hiện tượng tiêu cực, cái xấu, phản lại sự tiến bộ,... trong xã hội. Để đạt được

mục đích tối thượng đó, các tác giả đã phối hợp sử dụng nhiều phương tiện ngôn ngữ

trong đó có cách xưng hô, dùng từ ngữ xưng hô, từ ngữ chỉ người có sắc thái âm tính

chỉ các đối tượng xấu - chủ thể gây ra các hành động tiêu cực, hành động xấu.

Trong giao tiếp tiếng Việt, việc xưng hô có vai trò rất quan trọng bởi chúng thể hiện nguyên tắc xã hội, truyền thống văn hóa - tư duy của dân tộc, các quan hệ gia

đình, xã hội. Vai xã hội và vai giao tiếp cũng như ý đồ, mục đích giao tiếp được bộc

lộ rất rõ qua cách xưng hô và các từ ngữ xưng hô. Nguyễn Văn Khang cho rằng:

"Nhiều khi có thể chưa nghe được nội dung giao tiếp nhưng chỉ cần nghe cách xưng

hô cũng đã biết được ý đồ, thái độ, tình cảm của người giao tiếp" [80, tr.38].

67

Khác với nhiều ngôn ngữ trên thế giới, bên cạnh các từ ngữ xưng hô chính danh, các từ ngữ chỉ người của tiếng Việt cũng vô cùng phong phú, biểu hiện mọi cung bậc, sắc thái tình cảm, mọi quan hệ giữa người với người. Các tác giả TPBC đã khai thác tối đa các từ ngữ xưng hô và từ ngữ chỉ người để thể hiện quan điểm, tư tưởng, thái độ phê phán, không đồng tình, không ủng hộ đối với các vấn đề tiêu cực, đối tượng xấu trong xã hội. Với các sắc thái cụ thể của sự đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực, đó là thái độ coi thường, khinh miệt, căm ghét, phẫn nộ, giễu cợt, mỉa mai,... Các từ ngữ này góp phần tích cực vào việc thể hiện ý đồ, mục đích phê phán của tác giả. Chẳng hạn: gã, kẻ, hắn, y, tên, đồ, loại, chúng, bọn, lũ, quân, tụi,... Những từ ngữ này được người nói vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo nhằm tạo ra những giá trị, hiệu quả giao tiếp khác nhau. Các từ ngữ xưng hô này có thể được dùng độc lập hoặc cũng có thể được dùng kết hợp với các từ ngữ đáng giá thấp, tiêu cực. Hiệu quả giao tiếp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có cách xưng hô và việc dùng từ ngữ xưng hô. Vì

vậy, để đạt được hiệu quả giao tiếp cao, người giao tiếp cần chú ý đến chiến lược lựa chọn và sử dụng cách thức xưng hô với từ ngữ xưng hô sao cho phù hợp nhất.

Ví dụ:

(60) E rằng tiền của nhân dân chỉ chạy vào túi những kẻ bất lương, làm giàu cho một số người "ngồi mát ăn bát vàng". [NL2, tr.358]

(61) Các ông thực là bọn ngu lâu. [NL17, tr.37]

Trong ví dụ (60) và (61), các từ ngữ chỉ người như: kẻ bất lương, bọn mang sắc

thái âm tính đã bộc lộ thái độ coi thường của người phát ngôn đối với đối tượng được nói đến đồng thời cũng là đối tượng bị phê phán.

(62) Vừa mênh mông vừa mung lung! Kiến thức thì chẳng có gì mới hơn thiên

hạ, chỉ có cơ chế rối lung tung xòa. Chịu các bố Giáo dục - Đào tạo! [NL10, tr.35]

Ở ví dụ (62), khi trỏ đối tượng đang nói đến, người phát ngôn đã sử dụng danh

từ thân tộc bố với sắc thái âm tính, biểu lộ thái độ mỉa mai, giễu cợt đối tượng được nói đến đồng thời cũng là đối tượng bị phê phán (những người quản lí ngành Giáo dục).

* Từ ngữ phủ định

Các từ/ tổ hợp từ phủ định như: không, không phải, chưa, chẳng, vô, bất,...

thường được sử dụng trước những hành vi, đặc điểm, tính chất nào đó để biểu thị sự

phủ nhận, bác bỏ, nhằm bộc lộ ý kiến đánh giá tiêu cực đối với đối tượng được nói.

Ví dụ:

(63) Anh rất thông minh nhưng khi có quyền, anh lại biết ít hoặc không biết đầy

đủ. [NL17, tr.107]

(64) Thứ trưởng Bộ Y tế trả lời về việc giá thuốc cao: "Chuyện không có gì mà

ẫm ĩ" thì xin nói rằng đó là câu trả lời vô trách nhiệm đối với xã hội. [NL17, tr.107]

(65) Thế là xử lý chưa nghiêm, chưa đúng luật chứ không phải là cái tội "xử lý

nội bộ". [NL20, tr.41]

* Thành ngữ, tục ngữ mang sắc thái âm tính

Thành ngữ, tục ngữ là những câu nói quen thuộc trong đời sống hằng ngày của quần chúng nhân dân. Đó là những câu nói giàu hình ảnh, phản ánh tri thức của cộng đồng về các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Vì vậy, các câu thành ngữ, tục ngữ được các tác giả TPBC sử dụng khá phổ biến, chúng không những giúp diễn

68

đạt chính xác nội dung thông tin cần phản ánh mà còn tăng giá trị biểu cảm, tạo sự hấp dẫn lôi cuốn người đọc, mang lại hiệu quả giao tiếp cao.

Xét riêng ở HĐNNPP trong TPBC, việc vận dụng những câu thành ngữ, tục ngữ

có sắc thái đánh giá thấp, tiêu cực nhằm mục đích phê phán được người phát ngôn sử dụng khá phổ biến và linh hoạt. Thành ngữ, tục ngữ do nhân dân lao động sáng tạo ra,

vì thế việc dùng chúng sẽ phù hợp với tính đại chúng của giao tiếp báo chí. Vận dụng

sáng tạo, linh hoạt thành ngữ để việc diễn đạt nội dung được ngắn gọn, súc tích và có

giá trị gợi cảm cao, đồng thời vấn đề được phản ánh, phê phán cũng dễ tạo được tiếng nói đồng thuận. Ví dụ:

(66) Vì lợi ích trước mắt mà họ quên đi cái lợi ích lâu dài, "Cha ăn mặn, con

khát nước". [NL2, tr.214]

Ở phát ngôn trong ví dụ (66), người nói đã vận dụng linh hoạt thành ngữ "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" để phê phán những con người chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài về sau, cũng giống như chuyện "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" vậy. Đây là một hệ quả tất yếu, quy luật nhân quả trong cuộc sống.

Hay ở ví dụ (67) dưới đây, thành ngữ làm láo báo cáo hay cũng đã được vận dụng để phê phán căn bệnh thành tích, khen thưởng mang tính hình thức không đúng người, đúng việc ở một số cơ quan, đơn vị.

(67) Thưởng người, thưởng việc không đáng thưởng thì chỉ là sự khuyến khích bệnh làm láo báo cáo hay, bệnh xu nịnh, động viên được một người mà làm nản chí hàng nghìn người, hàng trăm tập thể khác. [NL17, tr.53]

Nhìn chung, những thành ngữ được dùng để thực hiện HĐNNPP trực tiếp phải mang sắc thái âm tính, có nội dung mang tính đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực. Các câu thành ngữ đó được vận dụng rất sáng tạo. Chúng có thể được giữ nguyên dạng hoặc biến đổi linh hoạt để tạo sự hấp dẫn và phù hợp với từng ngữ cảnh và đối tượng bị phê phán.

* Phương tiện từ vựng biểu hiện tình thái mang tính tiêu cực

Trên cơ sở các nhóm phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong tiếng Việt [60,

tr.140,141], chúng tôi tập hợp các tiểu nhóm phương tiện từ vựng biểu hiện tình thái mang tính tiêu cực trong BTNHPP, cụ thể như: quán ngữ tình thái, trợ từ tình thái, tiểu từ tình thái và các tổ hợp ngôn ngữ tương đương,... Các phương tiện tình thái này đã góp phần quan trọng vào việc thể hiện, đánh dấu, chỉ báo các khía cạnh, phương diện, góc độ đa diện, tinh tế của tình thái phê phán trong HĐNNPP. Nhờ đó mà người

tiếp nhận sẽ nhận diện được HĐNNPP cũng như mục đích phê phán của phát ngôn.

69

 Quán ngữ tình thái: Quán ngữ tình thái là các đơn vị ngôn ngữ được dùng để bày tỏ hoặc bổ sung, nhấn mạnh một nội dung thông tin sắc thái tình cảm, thái độ nào đó. Dựa vào các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước [93, tr.32-35], xét tính

chất tiêu cực của HĐNNPP, chúng tôi chú ý đến các quán ngữ tình thái mang tính

đánh dấu sắc thái tiêu cực của NDMĐPP.

+ Quán ngữ biểu thị sự ngạc nhiên, bất ngờ, phát giác ra hành vi, đặc điểm, tính

chất tiêu cực của đối tượng bị phê phán: thì ra, xem ra, hóa ra, té ra, thảo nào,...

Ví dụ:

(68) (Chú yên tâm, chú nuôi mẹ, khi nào mẹ bệnh lại đưa lên cho anh, hoặc không may mẹ nằm xuống thì anh sẽ lo đầy đủ.) Khâu hiểu ra tức giận nói: Hóa ra

anh mượn mẹ để làm lợi cho mình. [NL10, tr.85]

(69) Thảo nào mà lộn xộn thế, vì một khi người được giao giữ trật tự mà làm

ngơ, thậm chí thông đồng với hành vi mất trật tự, thiếu văn hóa thì còn bàn vào chỗ nào nữa ! [NL12, tr.154]

(70) Tệ thật, trên "phát-phút" kiểu trên, dưới "phát-phút" kiểu dưới, thảo nào

các dự án lúc hoàn thành không còn hình dáng ban đầu. [NL11, tr.65]

+ Quán ngữ bộc lộ tâm lý bức xúc, bực tức, phẫn nộ: hết chỗ nói, cực chẳng đã,

đâu phải bỡn (giỡn)... Ví dụ:

(71) Họ vi phạm đạo đức thể thao, làm "ô nhiễm" đầu óc bạn trẻ, tội tày trời

đâu phải giỡn. [NL10, tr.25]

+ Quán ngữ báo hiệu sự đánh giá thấp, tiêu cực: khổ một nỗi, khốn nỗi, hiềm

một nỗi, chỉ phải mỗi tội, hèn gì, ngộ nhỡ, không khéo,...Ví dụ:

(72) Nói về cái lỗi dự báo thị trường sai mà cứ nhẹ tênh tênh thì hèn gì mà kinh

doanh chẳng kém hiệu quả. [NL17, tr.88]

(73) Thế là các ông ấy tổng hợp từ những báo cáo của các cơ quan làm việc

kém hiệu quả, hèn gì mà có khoảng cách khá xa với thực tế, với dư luận xã hội!

[NL20, tr.137]

+ Quán ngữ bộc lộ sự nhấn mạnh, khẳng định chắc chắn hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng bị phê phán: đúng là, thật là, đúng thật là, quả là, quả thực là, quả thực, rõ là, rõ thật là, rõ ràng là,...

Ví dụ:

(74) Thật sự là một thứ "làm tiền" mà nhân dân ta chê ghét. [NL17, tr.275]

70

(75) Cứ gì mấy thứ hàng hóa ăn uống đó, còn nhiều thứ to tát hơn cũng thật giả lẫn lộn. Như chuyện hô hào học thật, thi thật, bằng cấp thật, danh hiệu thật, làm việc thật !... Đúng là thật giả lẫn lộn! [NL21, tr.30]

+ Quán ngữ đánh dấu sự phủ nhận, phản đối đối với hành vi, tính chất tiêu cực

của đối tượng bị phê phán: đời thủa nhà ai, chuyện ngược đời, thật ngược đời, thật nực cười, thật quá buồn cười,...

Ví dụ:

(76) Cái lối phê bình cứ lẫn lộn giữa tác giả và tác phẩm thật quá buồn cười.

Nó chỉ chứng tỏ nền nghệ thuật của ta không chuyên nghiệp. [NL5, tr.56]

(77) Chuyện ngược đời, in sách để kiếm tiền chứ ai kiếm tiền để in sách. Còn

các sao ca nhạc, muốn bán vé cao bao nhiêu cũng được, các ông bầu muốn trả kiểu

gì cũng được, thế là thành loạn. [NL11, tr.53]

 Tiểu từ tình thái: Tiểu từ tình thái là một hiện tượng ngôn ngữ khá phổ biến trong tiếng Việt. Đó chính là những đơn vị từ vựng biểu thị thái độ, tình cảm của chủ

thể giao tiếp với đối tượng được đề cập trong phát ngôn và với người tham gia giao

tiếp. Trong HĐNNPP, tiểu từ tình thái được sử dụng khá phổ biến và sinh động. Xét

tính chất tiêu cực của HĐNNPP, chúng tôi chú ý đến các tiểu từ tình thái đánh dấu sắc thái tiêu cực của NDMĐPP, chẳng hạn như những trường hợp sau đây.

+ Tiểu từ tình thái dám, mất,...biểu thị sự bất chấp thực hiện hành vi sai trái gây

hậu quả xấu, từ đó bộc lộ thái độ phê phán. Ví dụ:

(78) Ông là người phụ trách tổ chức cơ sở được trao nhiệm vụ phân phối tiền

và hàng cứu trợ của đồng bào cả nước cho vùng bị thiên tai. Một việc làm tình nghĩa

trao vào tay một cơ quan thấm đẫm tình người. Thế mà các ông đã phụ lòng nhân

dân dám cắt xén tiền cứu trợ. [NL21, tr.115]

Dám là từ tình thái thể hiện sự phê phán của người nói về việc các ông (những

người phụ trách tổ chức cơ sở được trao nhiệm vụ phân phối tiền và hàng cứu trợ

của đồng bào cả nước cho vùng bị thiên tai) đã coi thường kỷ cương, pháp luật và

đặc biệt là sự bất chấp cả vấn đề đạo đức con người mà cắt xén tiền cứu trợ, phụ lòng

ủy thác của nhân dân.

+ Tiểu từ tình thái thật biểu thị sự thừa nhận, khẳng định chắc chắn hành vi, đặc

điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng bị phê phán. Ví dụ:

(79) Thế thì hỏng thật rồi. Tôi đi nhiều nơi thấy nơi nào cũng quan tham lại

nhũng. [NL10, tr.20]

(80) Con người của anh thật mâu thuẫn, nhưng có thể hiểu được, vì xét cho

cùng anh cũng chỉ yêu có một mình anh. [NL17, tr.144]

+ Tiểu từ tình thái rất, quá, lắm, vô cùng,...biểu thị mức độ cao của hành vi, đặc

71

điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng bị phê phán.

Ví dụ:

(81) (Và điều kỳ quái nhất, đã là khoa học thì phải chính xác, thậm chí chính xác đến từng xu, nhưng đầu tiên các ông hô lên hai trăm tỷ, bây giờ rút xuống còn một trăm tỷ), vô cùng tùy tiện, vô cùng cẩu thả, chả coi tiền bạc Nhà nước ra cái đinh gì! [NL5, tr.169]

ii) Phương tiện ngữ pháp chuyên dụng

Khảo sát các HĐNNPP trực tiếp, chúng tôi nhận thấy một số cấu trúc ngữ pháp sau đây thường được sử dụng trong BTNHPP để điều biến lực ngôn trung, gia tăng hay giảm bớt hiệu lực phê phán của phát ngôn.

* Cấu trúc nhận định sự tiêu cực

Mô hình cấu trúc:

Thì ra/ xem ra/ hóa ra/ té ra/ thảo nào, ... + Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y

Theo quan sát của chúng tôi, cấu trúc cú pháp sử dụng các tổ hợp từ biểu thị sự

nhận định như: thì ra, xem ra, hóa ra, té ra, thảo nào,... kết hợp với mệnh đề nêu

hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y) ở phía sau được

sử dụng khá nhiều trong BTNHPP. Những tổ hợp từ này được coi là các quán ngữ

tình thái có tác dụng biểu thị sự ngạc nhiên bất ngờ, đồng thời biểu thị nhận định rõ

ràng, tường minh hóa hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y, từ đó gia tăng hiệu lực phê phán của phát ngôn. Ví dụ:

(82) Hóa ra anh mượn mẹ để làm lợi cho mình. [NL10, tr.85]

(83) Thì ra bà bán hoa quả và bà nông dân trồng rau đều biết sự độc hại cả

những sản phẩm họ bán, nhưng vì lợi nhuận họ cứ "tiền thày bỏ túi", còn người tiêu

dùng thì "sống chết mặc bay" [NL20, tr.45]

(84) (Có người hỏi, thì ông trả lời "Đã là tuyển thủ thì phải biết tận dụng mọi cơ hội để ăn vạ"... Nghe đâu, một ngôi sao tí hơn của bóng đá nước ta khi ăn vạ cũng

đã nói một câu tương tự như thế.) Xem ra họ không biết xấu hổ khi dạy nhau, ủng hộ nhau về những hành vi lừa dối. [NL21, tr.148]

Trong tiếng Việt, "thì ra" là tổ hợp thường dùng ở đầu phát ngôn, biểu thị ý điều sắp nêu là sự thật vừa mới nhận ra, nhờ ở một điều vừa mới biết [145, tr.904]. Xem ra là tổ hợp biểu thị ý nhận định một cách không hoàn toàn khẳng định, dựa vào dấu

hiệu quan sát được [145, tr.1107]. "Hóa ra" tổ hợp biểu thị điều sắp nêu ra là điều

bỗng nhiên nhận thức ra, có phần bất ngờ, trái với điều trước kia tưởng [145, tr.432].

72

"Thảo nào" tổ hợp biểu thị điều vừa nói đến là cái lẽ giải thích, làm cho điều sắp nêu

ra không còn có gì phải ngạc nhiên nữa cả [145, tr.432]. Điểm chung các tổ hợp từ

này là thường đứng đầu phát ngôn hoặc đứng trước các BTNH cốt lõi đưa ra NDMĐ. Song, chúng khác nhau về nét nghĩa mức độ khẳng định, sắc thái biểu cảm, sắc thái

đánh giá.

* Cấu trúc khẳng định sự tiêu cực

Cấu trúc này gồm hai dạng biểu hiện cụ thể sau:

 Dạng 1, có mô hình cấu trúc:

Đúng là/ thật là/ quả là/ quả thực/ rõ là/ rõ thật là/ rõ ràng là/ ... + hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y

Các tổ hợp từ đúng là, thật là, quả là, quả thực, rõ là, rõ thật là, rõ ràng là,... được dùng để biểu thị những điều mà người nói sẽ nêu ra tiếp sau là đã xác định rõ

ràng, đích thị và không thể nào khác. Người nói sử dụng các tổ hợp từ này kết hợp

với mệnh đề nêu hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y)

nhằm mục đích nhấn mạnh nội dung phê phán, gia tăng hiệu lực phê phán của phát

ngôn. Ví dụ:

(85) Đúng là BBC lâu nay vẫn chứng nào tật ấy, quen thói bịa đặt, bôi nhọ

người khác, vẫn xứng đáng với thương hiệu truyền thống là "Bê ba xu" mà nhân dân

ta đã phong tặng từ lâu. [NL3, tr.245]

(86) Rõ ràng là việc quản lý các mặt hàng nhạy cảm theo cách nói của người

bán hàng trong lĩnh vực văn hóa truyền thông của chúng ta còn nhiều yếu kém, bất

lực. [NL2, tr.192]

 Dạng 2, có mô hình cấu trúc:

Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y + còn gì!

Tổ hợp từ "còn gì" được đặt cuối phát ngôn là sự khẳng định về hành động, tính chất nào đó ở phía trước. Trong phần NDMĐPP, tổ hợp từ này đặt sau hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y) biểu thị sự khẳng định tính tiêu cực của hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tượng được nói đến (Y) là chính xác, có cơ sở. Từ đó tăng cường hiệu lực phê phán của phát ngôn. Ví dụ:

(87) Cái khôn vặt bị vạch mặt thì trơ ra cái giả dối còn gì! [NL20, tr.137]

Ở ví dụ trên, người nói khẳng định về sự giả dối của đối tượng, bởi "cái khôn

vặt bị vạch mặt" với việc dùng tổ hợp từ còn gì ở cuối phát ngôn. Qua đó bộc lộ thái

độ phê phán về sự giả dối của đối tượng trong phát ngôn.

73

.

* Cấu trúc nhấn mạnh sự tiêu cực

Mô hình cấu trúc:

Thế/ thế là/ thế thì/... + hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y

Trong tiếng Việt, các từ/ tổ hợp từ thế, thế là, thế thì,... thường được dùng ở đầu

phát ngôn, biểu hiện ý nghĩa "nhấn mạnh tính chất cụ thể, gắn liền với hiện thực đã

biết hoặc hiện thực trước mắt, của điều muốn nói" [145, tr.901]. Trong HĐNNPP,

người nói sử dụng các từ/ tổ hợp từ này kết hợp với mệnh đề nêu hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y) để nhấn mạnh nội dung tiêu cực sắp

nói ra là có lý, là sự thật, từ đó gia tăng hiệu lực phê phán cho phát ngôn. Ví dụ:

(88) Thế cho nên mới thấy lá phiếu bây giờ cũng không còn trung thực nữa!

[NL21, tr.67]

(89) Thế thì hỏng thật rồi. (Tôi đi nhiều nơi thấy nơi nào cũng quan tham lại

nhũng). [NL10, tr.20]

(90) Thì cũng là thói quen của không ít cơ quan quản lý nước ta, cứ ai nói khuyết điểm là giãy nảy lên như đỉa phải vôi! Thế thì còn lâu mới tiến bộ! [NL21, tr.178]

Ở ví dụ (88), người nói dùng từ "thế" đặt đầu phát ngôn, sau đó nêu ra sự phê phán "lá phiếu bây giờ cũng không còn trung thực nữa". Ý muốn nói, việc này không có gì lạ, không có gì là bất ngờ, ngạc nhiên nữa, vì đó là hệ quả tất yếu của sự việc đã diễn ra ở phía trước. Các tổ hợp từ thế thì, thế là, ở trong các ví dụ sau cũng tương tự như vậy.

* Cấu trúc tương phản

Mô hình cấu trúc:

A thế mà/ vậy mà/ tuy nhiên/ nhưng mà/ nhưng/ song/... B (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y)

Các từ/ tổ hợp từ thế mà, vậy mà, tuy nhiên, nhưng, song,... là những từ/ tổ hợp

từ được dùng để biểu thị điều người nói sắp nêu ra tiếp theo (B) là bất thường, tương

phản trái ngược lại với điều (A) đã nêu ra trước đó hoặc trái ngược với quy luật thông

thường. Người nói vận dụng các từ/ tổ hợp từ này kết hợp với mệnh đề nêu hành vi,

đặc điểm, tính chất tiêu cực của của đối tượng được nói đến (Y) nhằm mục đích nhấn

mạnh nội dung phê phán, tăng mức độ, hiệu lực phê phán của phát ngôn. Ví dụ:

74

(91) Ông là người phụ trách tổ chức cơ sở được trao nhiệm vụ phân phối tiền và hàng cứu trợ của đồng bào cả nước cho vùng bị thiên tai. Một việc làm tình nghĩa

trao vào tay một cơ quan thấm đẫm tình người. Thế mà các ông đã phụ lòng nhân dân dám cắt xén tiền cứu trợ. [NL21, tr.115]

Ở ví dụ trên, đối tượng bị phê phán - ông là những người mang danh đại diện, phụ trách tổ chức cơ sở được giao nhiệm vụ nghĩa cả cao đẹp, thấm đẫm tình người là phân phối tiền và hàng cứu trợ của đồng bào cả nước cho vùng bị thiên tai. Song ngược lại với niềm tin tưởng được nhân dân gửi gắm, các ông đã dám cắt xén tiền cứu trợ. Thật là một hành vi tội lỗi, xấu xa đáng bị phê phán.

* Cấu trúc tăng tiến - nhấn mạnh sự tiêu cực

Theo quan sát của chúng tôi, cấu trúc tăng tiến - nhấn mạnh xuất hiện trong

BTNHPP gồm có bốn dạng biểu hiện sau:

 Dạng 1, có mô hình cấu trúc:

Đã A (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của Y) + lại/ còn/ lại còn/ mà còn B (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai của Y)

Trong tiếng Việt, các cặp phụ từ: đã ... lại ...; đã ... còn ...; đã... lại còn ...; đã ...

mà còn ... trong các cấu trúc: "đã A lại B", "đã A còn B", "đã A lại còn B", "đã A mà

còn B". Đó là những cấu trúc đồng vị, thể hiện đồng thời hai sự đánh giá, nhận định

đồng hướng, trong đó đánh giá thứ hai có tính chất gia tăng, nhấn mạnh hơn so với

đánh giá thứ nhất.

Theo quan sát của chúng tôi, trong BTNHPP, người nói sử dụng các cặp phụ từ

trên, nhằm liên kết hai vị ngữ trong phát ngôn là hai mệnh đề nêu ra những hành vi,

đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y), nhằm biểu thị mức độ

tăng tiến của hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực, từ đó tăng cường hiệu lực phê

phán cho phát ngôn. Ví dụ:

(92) Dám dùng xe của cơ quan đưa má đi mà không báo cáo, thế là chiếm công

vì tư, lại còn cái lỗi tày trời là đưa gái đẹp đến cho thủ trưởng, như thế là rắp tâm

làm hại thủ trưởng. [NL10, tr.116]

(93) (Đã) Không thấy cắm đất cho khu vui chơi giải trí, lại còn cắt lẹm vào quỹ

đất quy hoạch cho khu văn hóa. [NL17, tr.336]

Ở ví dụ (92), vị từ thứ nhất biểu thị sự đánh giá chiếm công vì tư, vị ngữ thứ hai

biểu thị sự đánh giá như thế là rắp tâm làm hại thủ trưởng. Tổ hợp từ lại còn đứng

trước vị từ thứ hai có ý nghĩa bồi hấn, nhấn mạnh sự đánh giá thấp của người phát

ngôn. Tương tự như vậy, ở ví dụ (93), sau khi nêu hạn chế, bất cập trong quản lí đất

75

của chính quyền cơ sở đã không cắm đất cho khu vui chơi giải trí, người phát ngôn

tiếp tục bồi hấn, gia tăng thêm sự phê phán bằng việc nêu tiếp hành vi tiêu cực tiếp

theo sau tổ hợp từ lại còn: lại còn cắt lẹm vào quỹ đất quy hoạch cho khu văn hóa.

 Dạng 2, có mô hình cấu trúc:

Không những/ không chỉ A (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của Y) mà còn B (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai của Y)

Trong tiếng Việt có cặp quan hệ từ: không những ... mà còn hoặc không chỉ ...

mà còn với cấu trúc "không những/ không chỉ A mà còn B". Đây là cấu trúc biểu thị

quan hệ tăng tiến, được sử dụng trong BTNHPP để nhấn mạnh, gia tăng hiệu lực phê

phán. Ví dụ:

(94) Không những khổ cho mấy ông cấp phó mà còn khổ cho cái tổ chức nó

kềnh càng, suốt ngày chỉ thấy họp là họp. [NL17, tr.206]

(95)...Không chỉ tranh thủ chia chác, vơ vét mà còn tranh thủ kiếm cớ đi nước

ngoài, dùng phương tiện và công quỹ đi du lịch trong Nam ngoài Bắc. [NL20, tr.30]

Trong các ví dụ trên, người phát ngôn đã sử dụng cấu trúc không những... mà còn... hay không chỉ... mà còn... để chỉ ra hai lần về những hạn chế, bất cập, tiêu cực

của đối tượng được nói đến đồng thời nhấn mạnh mức độ tăng tiến nhằm tăng cường

hiệu lực phê phán.

 Dạng 3, có mô hình cấu trúc:

Vừa A (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của Y) vừa B (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai của Y)

Trong tiếng Việt, có cặp từ vừa ... vừa biểu thị sự diễn ra đồng thời của hai hành

vi, đặc điểm, tính chất. Khi thực hiện HĐNNPP, người nói đã vận dụng cặp quan hệ

từ này với cấu trúc "vừa A vừa B", trong đó, A và B những mệnh đề nêu ra hành vi,

đặc điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y) để nhấn mạnh mức độ tiêu cực và gia tăng hiệu lực phê phán. Ví dụ:

(96) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa... kém lại vừa kiêu. [NL5, tr.182]

Trong ví dụ (96) nêu trên, người phát ngôn sử dụng cặp quan hệ từ vừa... vừa...

kết hợp với các từ ngữ chỉ hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y.

 Dạng 4, có mô hình cấu trúc:

76

Càng A càng B (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y)

Trong tiếng Việt, cặp quan hệ từ càng ... càng biểu thị quan hệ kéo theo với

chiều hướng tăng tiến với cấu trúc "càng A càng B". Khi thực hiện HĐNNPP, người

nói vận dụng cấu trúc này, trong đó NDMĐ B sau từ càng thứ hai nêu hành vi, đặc

điểm, tính chất tiêu cực của đối tượng được nói đến (Y) được nhấn mạnh để tăng hiệu

lực phê phán. Ví dụ:

(97) Ai ngờ, VTV càng phát triển, tiền thu từ quảng cáo càng nhiều thì VTV càng

''tra tấn" người xem bằng quảng cáo nhiều hơn. [NL3, tr.223]

Ở ví dụ (97), người nói dùng cấu trúc "càng A càng B" kết hợp với từ ngữ đánh

giá tiêu cực "tra tấn" để phê phán đài truyền hình VTV về việc quá lạm dụng quảng

cáo. Người nói ví quảng cáo như một hình thức tra tấn người xem.

* Cấu trúc tổng gộp sự tiêu cực

Theo quan sát của chúng tôi, cấu trúc tổng gộp xuất hiện trong BTNHPP gồm

có hai dạng biểu hiện sau:

 Dạng 1, có mô hình cấu trúc:

Toàn/ toàn là/ toàn là những A (hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y)

Trong tiếng Việt từ toàn "biểu thị mức độ nhiều và chỉ thuần một loại, không có loại khác lẫn vào" [145, tr.1283]. Việc dùng toàn ở phía trước và phía sau là những từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực có tác dụng tổng gộp, nhấn mạnh sự tiêu cực để tăng hiệu lực phê phán cho phát ngôn. Ví dụ:

(98) Ông là người không có chính kiến, toàn vuốt đuôi, a dua. [NL21, tr.189]

Ở ví dụ (98), người phát ngôn đã sử dụng từ toàn kết hợp các từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực vuốt đuôi, a dua để phê phán đối tượng được nói đến (ông) không có chính kiến.

 Dạng 2, có mô hình cấu trúc:

Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y, X, Z... + cả

77

Trong tiếng Việt, cả biểu thị ý nghĩa "không có sự loại trừ với đối tượng nào hết", "các đối tượng đều tương đồng như nhau". Ở một góc độ nào đó, cả gần nghĩa với tất cả, chẳng hạn: như nhau cả - tất cả như nhau; là anh em cả - tất cả là anh em; cùng trang lứa cả - tất cả cùng trang lứa;... Tuy nhiên, cả mang tình thái tính còn tất cả thì không có tình thái tính (hoặc không biểu hiện rõ tình thái tính). Khi thực hiện HĐNNPP, người phát ngôn sử dụng cả trong cấu trúc tổng gộp: "Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y, X, Z... + cả" để tăng cường hiệu lực phê phán. Ví dụ:

(99) Thế là cấp dưới nói dối cấp trên, còn cấp trên thì tập hợp những báo cáo

dối trá đó để báo cáo cấp trên nữa. Lừa nhau cả. [NL21, tr.82]

Ở ví dụ (99), tất cả các hành vi nói dối của cấp dưới đối với cấp trên và hành vi

của cấp trên tập hợp những báo cáo dối trá của cấp dưới để báo cáo lên cấp trên nữa

đều là lừa nhau cả.

* Cấu trúc đay lại mang sắc thái đánh giá âm tính

Mô hình cấu trúc:

A với chả/ với chẳng/ mấy chả/ mấy chẳng A'

Theo quan sát của chúng tôi, khi thực hiện HĐNN phê phán, người nói sử dụng

cấu trúc A với chả/ với chẳng/ mấy chả/ mấy chẳng A', trong đó A' là A được đay lại

và bị biến đổi về mặt ngữ âm, tạo nên giọng điệu giễu cợt để thể hiện sự phủ nhận A,

đánh giá thấp về A, từ đó gia tăng hiệu lực phê phán.

Ví dụ:

(100) (Cán bộ hoạt động trong cơ quan kiểm lâm có trách nhiệm bảo vệ rừng lại có

người tiếp tay cho lâm tặc phá rừng). Thật là, cán bộ với chả cán bèo! [NL15, tr.55]

Ở ví dụ (100), NDMĐPP có cấu trúc A với chả A', trong đó, A - cán bộ bị biến

âm thành A' - cán bèo thể hiện thái độ mỉa mai, phủ nhận A: "cán bộ mà chẳng ra cán

bộ, chẳng đúng là cán bộ". Từ đó đánh giá thấp về đối tượng cán bộ đáng nói tới

đồng thời cũng gia tăng hiệu lực phê phản của phát ngôn.

* Thơ ca - một hình thức kết cấu đặc biệt được vận dụng trong biểu thức

ngôn hành phê phán

Thơ ca là những câu nói được tổ chức đặc biệt: phân dòng, sắp khổ, ngắt nhịp, hiệp vần,... Trăn trở, bức xúc trước những hiện tượng, vấn đề tiêu cực, cái xấu, phản sự tiến bộ, các tác giả TPBC đã viết những câu thơ có sức mạnh phê phán cao về các hiện tượng sai trái, tiêu cực. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Nam Sơn Ký Giả, Lê Hoàng, Trần Nhã Thụy,...

78

Theo quan sát của chúng tôi, thơ ca được dùng rất linh hoạt và sinh động trong các tác phẩm TPBC. Việc dùng thơ ca vào trong TPBC giúp cho sự diễn đạt được cô đọng, hàm súc hơn, góp phần tạo nên tiếng cười phê phán, châm biếm sâu cay, đồng thời giúp người đọc tiếp nhận dễ dàng hơn, tăng sự thuyết phục. Chẳng hạn, đánh giá không hay việc sử dụng tràn lan, tùy tiện, lạm dụng tiếng nước ngoài trên báo chí, khiến công chúng độc giả khó hiểu, khó tiếp nhận, tác giả Nam Sơn Ký Giả đã đưa ra lời phê phán dưới hình thức thơ ca.

Ví dụ:

(101) Hay gì kiểu cách ấy mà hay,

Bỏ tiếng nước mình lấy tiếng Tây,

Lổn nhổn phiên âm, cơm trộn sỏi,

Anh, Pháp nháo nhào, tục lẫn chay. [NL3, tr.277]

Hay ông cũng phê phán việc phóng đại, nói quá sự thật trong các chương trình

truyền hình bằng những câu thơ sau. Ví dụ:

(102) Truyền hình đâu phải chỗ để đùa,

Bịa đặt dông dài chuyện tà lưa;

Khéo khéo bảo nhau chừa "khoác lác",

Kẻo mà thiên hạ mắng te tua! [NL3, tr.291]

Hoặc: (103) Này này nhà báo tỉnh hay say,

Trông gà hóa cuốc giữa ban ngày,

Sân khấu đặt điều thành chuyện thật,

Kịch trường vu vạ đến là hay ! [NL3, tr.280]

iii) Phương tiện ngữ âm

Trong giao tiếp tiếng Việt, các phương tiện ngữ âm như: hòa phối hay biến đổi

âm thanh của từ, ngữ điệu lên giọng hay xuống giọng, âm lượng của lời nói to hay

nhỏ, âm thanh cao hay thấp, dòng ngữ lưu biểu hiện lời nói trôi chảy hay ngắt quãng,

những khoảng lặng hay những âm được kéo dài trong lời nói với tính chất nhấn mạnh

hay không nhấn mạnh,... cho phép ta nhận biết được tình thái của phát ngôn chứa

HĐNNPP. Đối với HĐNNPP trực tiếp, phát ngôn thường có âm lượng lớn hơn mức

bình thường: lên giọng, lớn tiếng, quát tháo, thét, gào thét,... Mức độ của âm lượng

phát ngôn tùy thuộc vào hoàn cảnh, đối tượng, nội dung và tùy thuộc vào tâm lý của

chủ thể phê phán. Tuy nhiên, đối với thể loại TPBC, đặc thù giao tiếp là gián tiếp

thông qua các trang viết, văn bản tác phẩm. Vì thế ngữ điệu thường được biểu hiện

qua các dấu câu như: dấu chấm lửng, dấu chấm than, dấu chấm hỏi, dấu ngoặc kép,

quãng ngắt biểu hiện tâm lý bị dồn nén,... đã thể hiện rất tinh tế các sắc điệu thái độ

của chủ thể phát ngôn phê phán. Sau đây là một số phương tiện ngữ âm được sử dụng

79

trong BTNHPP có tác dụng điều biến lực ngôn trung của HĐNNPP.

* Lối nói biến âm mang sắc thái giễu cợt, phủ nhận

Sự biến đổi âm thanh của từ ngữ để tạo ra giọng điệu giễu cợt, mỉa mai là một cách thức, dấu hiệu giúp người đọc, người nghe nhận biết được sự phủ nhận, đánh giá

thấp, tiêu cực, không hài lòng và đích phê phán của phát ngôn.

Ví dụ:

(104) (Cán bộ hoạt động trong cơ quan kiểm lâm có trách nhiệm bảo vệ rừng lại có người tiếp tay cho lâm tặc phá rừng). Thật là, cán bộ với chả cán bèo! [NL15,

tr.55]

Ở phát ngôn trên, đối tượng được nói tới đồng thời cũng là đối tượng bị phê

phán là cán bộ kiểm lâm song lại tiếp tay cho lâm tặc phá rừng, vì vậy không xứng đáng là cán bộ kiểm lâm. Cách nói nhại từ cán bộ và biến âm thành cán bèo đã thể

hiện thái độ giễu cợt, mỉa mai, phủ nhận những cán bộ không đúng nghĩa: "cán bộ mà

chẳng ra cán bộ, chẳng đúng là cán bộ, mà thật là cán bèo". Từ đó hiệu lực phê phản của phát ngôn cũng được gia tăng.

(105) Đúng là BBC lâu nay vẫn chứng nào tật ấy, quen thói bịa đặt, bôi nhọ

người khác, vẫn xứng đáng với thương hiệu truyền thống là "Bê ba xu", mà nhân dân

ta đã phong tặng từ lâu. [NL3, tr.245]

Ở ví dụ (105) nêu trên, người phát ngôn đã sử dụng lối chơi chữ biến âm để tạo

ra nghĩa mới, bất ngờ cho từ ngữ. Cụ thể là: BBC (viết tắt của cụm British Broadcasting Corporation là thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh

và Bắc Ireland) thường được người Việt phát âm là "Bê bê xê" song đã được người

phát ngôn trong TPBC cố ý phát âm chệch thành "Bê ba xu" với hàm ý giễu nhại, phê

phán, coi thường, chỉ đáng giá "ba xu".

* Dùng dấu chấm than

Dấu chấm than là một dấu hiệu hình thức đánh dấu ngữ điệu lên giọng, cao

giọng, lớn giọng, mang sắc thái biểu cảm của phát ngôn. Ở những phát ngôn phê phán được đặt dấu chấm than, người đọc cảm nhận được chủ ý của người phát ngôn về giọng điệu: lên giọng và nhấn mạnh nội dung đánh giá tiêu cực để gia tăng hiệu lực phê phán.

Ví dụ:

80

(106) Vừa mênh mông vừa mung lung! Kiến thức thì chẳng có gì mới hơn thiên hạ, chỉ có cơ chế rối lung tung xòa. Chịu các bố Giáo dục Đào tạo! [NL10, tr.35]

(107) Vô cùng tùy tiện, vô cùng cẩu thả! Chả coi tiền bạc Nhà nước ra cái

đinh gì! [NL5, tr.169]

(108) Người ta chỉ không nhận những người kém chứ ai lại từ chối nhận người

học hành khá. Thật vớ vẩn! [NL20, tr.72]

Ở các ví dụ (106, 107, 108) nêu trên, dấu chấm than biểu thị sự lên giọng và

nhấn mạnh những từ ngữ đánh giá tiêu cực: Vừa mênh mông vừa mung lung!; Vô

cùng tùy tiện, vô cùng cẩu thả!; Thật vớ vẩn! thể hiện sự phê phán gay gắt đối với đối

tượng được nói đến.

* Dùng dấu chấm lửng

Dấu chấm lửng hay dấu ba chấm nếu đặt ở giữa phát ngôn không có tính chất

liệt kê thì sẽ là một dấu hiệu hình thức đánh dấu sự ngập ngừng, đứt đoạn hay khoảng

lặng trong phát ngôn. Ở những phát ngôn phê phán sử dụng dấu chấm lửng, người

đọc cảm nhận được rất rõ ràng dấu ấn về ngữ âm: sự ngập ngừng hay bỏ trống để

người đọc, người nghe tự nhận biết. Có thể coi đây là một phương tiện có giá trị giảm

bớt lực phê phán của phát ngôn.

Ví dụ:

(109) Xin bập môi ba lần mới dám nói tiếp rằng: có mà văn hóa lùn hoặc vô...,

vô... [NL3, tr.253]

Người đọc, người nghe ai cũng luận ra chỗ trống âm thanh biểu hiện bằng dấu

chấm lửng trong phát ngôn trên chính là từ văn hóa và nói đầy đủ sẽ là: vô văn hóa.

Song người phát ngôn đã bỏ lửng, không nói hết cụm từ đánh giá tiêu cực: vô..., vô...

để tránh sự đánh giá, phê phán nặng lời, phũ phàng nếu nói tuột hết ra cả cụm từ đánh

giá tiêu cực là: vô văn hóa.

Ở phát ngôn sau đây, dấu chấm lửng lại không biểu thị sự bỏ trống từ mà thể

hiện sự ngập ngừng của người phát ngôn trước khi đưa ra lời đánh giá thẳng thắn có

phần nghiệt ngã, phũ phàng đối với người nghe - cũng là đối tượng bị phê phán: ...

vừa kém lại vừa kiêu. Từ đó người nói muốn người nghe thông cảm khi bất đắc dĩ

phải nói thẳng những khuyết điểm của người nghe để mong họ nhận thức rõ về bản

thân và rút kinh nghiệm:

(110) Nói thẳng nhé! Vì các ông vừa ... kém lại vừa kiêu. [NL5, tr.182]

Các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong BTNHPP sẽ được chúng tôi

81

thống kê trong bảng 2.8 dưới đây.

Bảng 2.8. Thống kê phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong BTNHPP

Loại phƣơng tiện ngôn ngữ Tần số Tần suất

Từ ngữ đánh giá thấp, đánh giá tiêu cực 254/72 3,5/1

Từ ngữ xưng hô, chỉ người có sắc thái âm tính 0,1/1 7/72

Từ Từ ngữ phủ định 0,4/1 26/72

vựng Thành ngữ, tục ngữ mang sắc thái âm tính 0,2/1 16/72

Quán ngữ tình thái 0,3/1 19/72

Tiểu từ tình thái 0,4/1 26/72

Cấu trúc nhận định sự tiêu cực 0,1/1 10/72

Cấu trúc khẳng định sự tiêu cực 0,2/1 15/72

Cấu trúc nhấn mạnh sự tiêu cực 0,2/1 11/72

Ngữ Cấu trúc tương phản 0,04/1 3/72

pháp Cấu trúc tăng tiến - nhấn mạnh sự tiêu cực 0,3/1 21/72

Cấu trúc tổng gộp sự tiêu cực 0,07/1 5/72

Cấu trúc đay lại 0,03/1 2/72

Cấu trúc đặc biệt - thơ ca 0,04/1 3/72

Lối nói biến âm 0,03/1 2/72

Ngữ Dấu chấm than 0,5/1 34/72

âm Dấu chấm lửng 0,07/1 5/72

2.2. Thành phần mở rộng biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ

phê phán trực tiếp trong tiểu phẩm báo chí

Như chúng tôi đã trình bày ở phần mở đầu mục 2.1, phát ngôn thực hiện HĐNNPP có một kết cấu lõi đặc trưng, đó chính là BTNHPP. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, ngoài BTNH là phần cốt lõi thì phát ngôn phê phán còn có thể có thành phần mở rộng. Nội dung của thành phần mở rộng ở phát ngôn phê phán rất đa dạng, song phổ biến nhất là những nội dung: 1) nêu rõ lí do, nguồn cơn dẫn đến sự đánh giá thấp và đó cũng chính là cơ sở của sự phê phán; 2) rào đón, chuẩn bị tâm lí trước khi đưa ra lời phê phán.

2.2.1. Thành phần mở rộng nêu cơ sở của sự phê phán

82

Có hai cơ sở để sự phê phán của người phát ngôn được thuyết phục đối với người tiếp nhận, đó là cơ sở thực tế và cơ sở quy phạm: đạo đức, pháp luật, văn hóa xã hội, thuần phong mĩ tục,... Cả hai cơ sở này đều có thể được người nói đưa vào trong phát ngôn phê phán của mình.

2.2.1.1. Thành phần mở rộng nêu cơ sở hiện thực của sự phê phán

Ví dụ:

(111) Thứ trưởng Bộ Y tế trả lời về việc giá thuốc cao: "Chuyện không có gì mà ẫm ĩ" thì xin nói rằng đó là câu trả lời vô trách nhiệm đối với xã hội. [NL2, tr.104]

Thành phần mở rộng được tô đậm trong phát ngôn phê phán trên đã nêu rõ cơ sở hiện thực dẫn đến sự phê phán, đó là hành vi trả lời trước công luận của Thứ trưởng Bộ Y tế về việc giá thuốc cao (phần in đậm trong ví dụ). Từ đó cho thấy, sự đánh giá, nhận xét của người nói rút ra từ câu trả lời của Thứ trưởng Bộ Y tế trước đó (đó là câu trả lời vô trách nhiệm đối với xã hội) là hoàn toàn xác đáng.

(112) Cứ gì mấy thứ hàng hóa ăn uống đó, còn nhiều thứ to tát hơn cũng thật giả lẫn lộn. Như chuyện hô hào học thật, thi thật, bằng cấp thật, danh hiệu thật, làm việc thật !... Đúng là thật giả lẫn lộn! [NL21, tr.30]

Thành phần mở rộng được tô đậm trong phát ngôn phê phán trên cũng đã nêu ra cơ sở hiện thực dẫn đến sự phê phán thật giả lẫn lộn, đó là tình trạng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đang có một thực tế là cái giả, cái thật được trà trộn vào nhau rất khó phân biệt, gây hoang mang, mất niềm tin đối với nhân dân.

Về bản chất, thành phần mở rộng nêu cơ sở hiện thực của sự phê phán thường có nội dung thuật lại hành vi, tính chất sai trái, tiêu cực của đối tượng được nói đến trong phát ngôn, đồng thời cũng chính là đối tượng bị phê phán, từ đó dẫn đến sự đánh giá thấp - nội dung mấu chốt của lời phê phán. Nhìn từ góc độ lập luận, đây chính là một loại luận cứ để rút ra kết luận là sự đánh giá thấp đối với đối tượng được nói đến - chủ thể của hành vi, tính chất sai trái, tiêu cực. Vì thế, thành phần mở rộng này sẽ tạo sự thuyết phục cho lời phê phán mà người nói đưa ra. Do vậy, nó cũng được coi là một nhân tố giúp tăng cường hiệu lực cho hành động phê phán.

2.2.1.2. Thành phần mở rộng nêu cơ sở quy phạm của sự phê phán

Như đã trình bày ở chương 1, khi đưa ra lời phê phán, người nói có thể dựa vào cơ sở quy phạm. Đó chính là những quy định của xã hội, luật pháp, đạo đức, tôn giáo, thuần phong mỹ tục,... được người nói coi đó là những chuẩn mực xã hội, là "thước đo" để soi vào hành vi tiêu cực, bị coi là vi phạm chuẩn mực của Y - người bị phê phán, từ đó mà người nói đưa ra hành động phê phán. Ví dụ:

(113) Không giữ được chữ Hiếu thì con người không bằng con vật! [NL21,

tr.157]

83

Ở phát ngôn trên, cơ sở để đánh giá, phê phán là quy phạm đạo đức của người phương Đông, đó là quan niệm làm con phải gìn giữ và đề cao chữ Hiếu: làm con phải yêu thương, vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ khi sống và thờ cúng cha mẹ

khi chết,... Nhưng ở đây, người nói cho rằng đối tượng đang được nói đến đã không giữ được chữ Hiếu do vậy mà phê phán con người không bằng con vật, con người mà không có tính người.

(114) Người ta chỉ không nhận những người kém chứ ai lại từ chối nhận

người học hành khá. Thật vớ vẩn! [NL20, tr.72]

Theo quy định thông thường trong công tác quản lí xã hội, khi phải lựa chọn tiếp nhận nhân sự vào làm việc ở mỗi cơ quan, phải theo tiêu chí lựa chọn từ cao đến thấp, do đó phải lựa chọn người có trình độ năng lực từ cao, từ khá giỏi trở xuống chứ không thể nhận những người kém mà từ chối nhận người học hành khá. Vì thế, cái thực trạng tiêu cực đang được nói đến: người học hành khá thì bị từ chối, người yếu kém thì được tiếp nhận vì những sự ưu ái cá nhân là hết sức ngược đời. Từ đó người nói thốt lên lời đánh giá, phê phán: Thật vớ vẩn.

Nhìn chung, thành phần mở rộng nêu cơ sở quy phạm của sự phê phán giúp cho đối tượng tiếp ngôn nhận thức được tính chân lý hay cơ sở pháp lí của sự phê phán mà chủ ngôn đưa ra. Vì vậy, có thể xem thành phần mở rộng này cũng là một nhân tố có tác dụng gia tăng hiệu lực của hành động phê phán.

2.2.2. Thành phần mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán

Trong tiếng Việt, những quán ngữ như nói khí không phải, nói bỏ quá cho, nói bỏ ngoài tai, khí vô phép, mong thông cảm cho, xin mạn phép, xin mạo muội, xin bập môi... thường được sử dụng ở đầu phát ngôn có vai trò, ý nghĩa là thành phần rào đón, chỉ báo cho người nghe biết trước điều người nói sắp sửa nói ra là những đánh giá tiêu cực, không tốt, không hay, không mong muốn, đồng thời cũng thể hiện sự nhún mình của người nói trước khi đưa ra sự đánh giá tiêu cực và mong được người nghe thể tất nếu không cảm thấy vừa lòng, điều đó có tác dụng giảm thiểu trách nhiệm của người nói nếu có phê phán quá lời và "xoa dịu", giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện người bị phê phán. Nhìn chung, phần rào đón khi được sử dụng trong phát ngôn phê phán sẽ giảm nhẹ hiệu lực phê phán của HĐNN.

Mô hình thông dụng của phát ngôn phê phán có chứa thành phần mở rộng mang

tính rào đón là:

Nói khí không phải/ nói bỏ quá cho/ nói bỏ ngoài tai/ nói khí vô phép/ xin mạn phép được nói/ xin mạo muội được nói rằng/ xin bập môi mới dám nói rằng/...+ Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y

Ví dụ:

(115) Xin bập môi ba lần mới dám nói tiếp rằng: có mà văn hóa lùn hoặc vô...,

vô... [NL3, tr.253]

84

Ở ví dụ (115), xin bập môi ba lần... là cách nói rào đón có ý nghĩa tương tự như câu tục ngữ: "Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói", thể hiện sự thận trọng, cân nhắc kĩ

lưỡng trước khi nói. Như vậy, trước khi đưa ra lời phê phán, người nói đã cân nhắc, cố gắng nhún mình, kìm giọng, dọn lời và mong được người nghe thấu hiểu rằng bất đắc dĩ người nói mới phải đưa ra lời đánh giá, phê phán thẳng thắn có phần nặng nề (văn hóa lùn hoặc vô..., vô...) để cảnh tỉnh người nghe và mong họ điều chỉnh hành vi sai trái, vô văn hóa.

Bảng 2.9: Thống kê thành phần mở rộng trong 72 phát ngôn phê phán.

TT Nội dung mở rộng Tần số Tần suất

Nêu cơ sở thực tế của sự phê phán 1 36/72 0,5/1

Nêu cơ sở quy phạm của sự phê phán 2 5/72 0,07/1

Rào đón cho lời phê phán 3 2/72 0,03/1

Tổng 43/72 0,6/1

Như vậy, các phát ngôn phê phán trong TPBC tiếng Việt, ngoài BTNHPP còn có thể có thành phần mở rộng. Các thành phần mở rộng có vai trò bổ sung thông tin

đồng thời cũng có giá trị điều biến lực ngôn trung của HĐNNPP. Cụ thể là có thành

phần mở rộng tăng cường hiệu lực phê phán (chẳng hạn, thành phần mở rộng nêu cơ

sở thực tế hay cơ sở quy phạm của sự phê phán), có thành phần mở rộng giảm nhẹ

mức độ đe dọa thể diện và hiệu lực phê phán của phát ngôn (chẳng hạn, thành phần

mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán). Tùy từng tình huống cụ thể mà người

phát ngôn lựa chọn BTNHPP cũng như thành phần mở rộng sao cho phù hợp để đạt

được mục đích giao tiếp cao nhất.

Tiểu kết chƣơng 2

HĐNNPP là một hành động nhạy cảm, có mức độ đe dọa thể diện cao. Vì thế trong TPBC, HĐNNPP trực tiếp xuất hiện với tần số rất thấp hơn nhiều so với HĐNNPP gián tiếp. HĐNNPP trực tiếp được thể hiện qua hai dạng BTNHPP tường minh và BTNHPP nguyên cấp. Song, HĐNNPP trực tiếp chủ yếu vẫn được thực hiện thông qua BTNHPP nguyên cấp để giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện đối với đối tượng bị phê phán.

Cấu trúc BTNHPP ở dạng đầy đủ gồm có 4 thành phần chính, được sắp xếp theo trình tự: 1) Người phát ngôn - Sp1 (đối tượng phê phán); 2) ĐTNHPP; 3) Người tiếp nhận phát ngôn - Sp2; 4) NDMĐPP.

85

Trong TPBC, Sp1 (chủ ngôn đưa ra lời phê phán) có thể là nhân vật được xây dựng trong TPBC hoặc có thể là tác giả của TPBC với tư cách đại diện cho tờ báo hay cả ngành báo chí cách mạng, thay mặt công chúng nói lên tiếng nói phê phán những đối tượng tiêu cực trong xã hội.

Đứng sau thành phần Sp1, ĐTNHPP đóng vai trò là một trong những phương tiện chính yếu đánh dấu hiệu lực ngôn hành của phát ngôn phê phán. So với các HĐNN khác, số lượng động từ/ cụm ĐTNH thực hiện HĐNNPP trong TPBC hết sức ít ỏi, chỉ có 5 đơn vị và mỗi đơn vị chỉ được sử dụng vài ba lượt.

Đứng sau ĐTNHPP có thể có thành phần Sp2 - chủ thể tiếp nhận phát ngôn. Trong TPBC, có thể phân ra hai nhóm đối tượng tiếp nhận lời phê phán, đó là: 1) Đối tượng tiếp nhận lời phê phán là công chúng mà báo chí hướng đến, giúp họ nhận thức về hành vi tiêu cực của đối tượng được phản ánh trong phát ngôn, từ đó có ý thức đấu tranh bài trừ cái xấu, cái ác, đem lại sự tiến bộ, công bằng cho xã hội; 2) Đối tượng tiếp nhận lời phê phán là đối tượng bị phê phán.

Thành phần hạt nhân giúp nhận diện đích ngôn trung của HĐNNPP là NDMĐPP. Thành phần này thường chứa đựng những thông tin cơ bản đó là: 1) Thông tin về đối tượng bị phê phán; 2) Thông tin về hành vi, đặc điểm tiêu cực, sai trái, không đúng đắn của đối tượng bị phê phán.

Về chủ đề phê phán được phản ánh trong phần NDMĐPP của HĐNNPP trực tiếp trong TPBC thời kỳ Đổi mới vô cùng phong phú, đề cập tới các vấn đề, hiện tượng, hành vi tiêu cực, sai trái gây hậu quả xấu cho xã hội ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời. Trong các chủ đề được đề cập, có 5 nhóm chủ đề có tần số xuất hiện cao hơn cả được TPBC tập trung phản ánh đó là các nhóm chủ đề về i) đạo đức, lối sống, ứng xử xã hội; ii) nhóm chủ đề cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước; iii) nhóm chủ đề kinh tế, thị trường, dịch vụ (mặt trái, ép giá, hàng ngoại, khủng hoảng, hàng giả, giá cả, chứng khoán...); iv) nhóm chủ đề tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm; v) nhóm chủ đề về tệ nạn và tội ác xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn lậu, cá độ, rượu chè, trò chơi điện tử....;). Đây chính là những vấn đề xã hội nhức nhối, bức xúc và cũng là những vấn đề xã hội luôn mang tính thời sự được toàn xã hội quan tâm, cần sớm được giải quyết theo hướng tích cực, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh, tốt đẹp hơn.

Trong phần NDMĐ của BTNHPP, các tác giả TPBC đã khai thác hiệu quả những phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng như các phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Đặc biệt là việc sử dụng triệt để và hiệu quả hệ thống từ ngữ đáng giá thấp, tiêu cực, kết hợp với các phương tiện ngôn ngữ khác như: quán ngữ tình thái, từ ngữ xưng hô và chỉ người, các cấu trúc cú pháp chuyên dụng, các phương tiện ngữ âm,... để thực hiện đích ngôn trung phê phán và tăng cường hiệu lực phê phán.

86

Ngoài BTNH, phát ngôn phê phán có thể sử dụng thêm thành phần mở rộng. Phổ biến trong TPBC là thành phần mở rộng nêu cơ sở của sự phê phán và thành phần mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán. Những thành phần mở rộng trong phát ngôn phê phán đều có vai trò nhất định trong việc điều biến lực ngôn trung của HĐNNPP.

Chƣơng 3

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN ĐƢỢC THỰC HIỆN GIÁN TIẾP TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

HĐNN nói chung và HĐNNPP nói riêng cần phải có những chiến lược thực hiện nhằm đạt được mục đích, hiệu quả giao tiếp cao. Sử dụng HĐNN theo lối gián tiếp được coi là một trong những chiến lược giao tiếp có hiệu quả cao trong việc truyền báo các thông điệp, ý nghĩa hàm ẩn.

Trong chương 3, chúng tôi sẽ khảo sát HĐNNPP được thực hiện gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới. Đây chính là chiến lược phê phán gián tiếp của các tác giả TPBC. Trong 1.015 TPBC, chúng tôi thống kê được khoảng trên 5.470 HĐNNPP và trong 1.224 HĐNNPP được chọn khảo sát, có 1.152 HĐNNPP được thực hiện gián tiếp (xem bảng 2.1) và được chia thành các nhóm. Đối với mỗi nhóm, chúng tôi sẽ tìm hiểu khái niệm, tần số xuất hiện, BTNH và phương tiện ngôn ngữ điển hình, cơ chế xác lập đích ngôn trung, quan hệ vai giao tiếp giữa đối tượng phê phán và đối tượng bị phê phán, cường độ lực ngôn trung hay hiệu lực phê phán... Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ xác định các đặc điểm chung nhất của HĐNNPP được thực hiện gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới.

Sở dĩ chúng tôi gọi là HĐNNPP được thực hiện gián tiếp mà không gọi là HĐNNPP gián tiếp là để tránh việc nhầm lẫn giữa HĐNNPP được thực hiện gián tiếp với việc sử HĐNNPP để gián tiếp thực hiện những HĐNN khác.

3.1. Các nhóm hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián tiếp thực hiện

hành động ngôn ngữ phê phán

Theo quan sát của chúng tôi, các nhóm HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực

hiện HĐNNPP khá phong phú, cụ thể trong bảng thống kê dưới đây (xem bảng 3.1)

Bảng 3.1. Thống kê các nhóm HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP

Tần số xuất hiện HĐNN Số lƣợng

Tỉ lệ (%) 12,3 Biểu cảm Than phiền Mỉa mai 7,3 4,1 84 48

143

Phủ định Trần thuật 11 661 0,9 57,5

831 72,2 Tái hiện Phỏng đoán 113 9,8

Thuyết giảng 57 4,9

Hỏi 123 10,7 15,5 178 Điều khiển 55 4,8 Đề nghị, khuyên, mong,...

87

Tổng 1.152 100,0

3.1.1. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các

nhóm hành động ngôn ngữ biểu cảm

Như đã trình bày ở chương 1, theo quan điểm của J. Searle, HĐNN biểu cảm có đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành động ở lời; NDMĐ là một hành động hay trạng thái, tính chất nào đó của Sp1 hay của Sp2. (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.126]). Và xét về tính tác động trực tiếp,... HĐNN biểu cảm tác động tới tình cảm của Sp2 hoặc Sp1 [16]. HĐNNPP chính là một trong số các nhóm cùng được xếp vào loại HĐNN biểu cảm như: vui thích/ khó chịu, mong muốn, rẫy bỏ, xin lỗi, chúc mừng, hoan nghênh, cảm ơn, tán thưởng,…

Trong TPBC tiếng Việt, ngoài HĐNNPP trực tiếp, theo kết quả khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy nhiều trường hợp HĐNNPP được thực hiện gián tiếp bằng các HĐNN biểu cảm khác như: than phiền, mỉa mai, phủ định. Nói cách khác, trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới, có nhiều trường hợp HĐNN than phiền, mỉa mai, phủ định có đích ngôn trung là HĐNNPP (xem bảng 3.1). Sau đây là những phân tích cụ thể.

3.1.1.1. Hành động ngôn ngữ than phiền có đích ngôn trung là phê phán (Hành

động ngôn ngữ than phiền - phê phán)

a. Khái niệm

Than phiền là hành động thường diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Khi không hài lòng, bức xúc về một điều gì đó con người ta thường có phản ứng tâm lí bằng lời phàn nàn, than vãn. Thuộc nhóm HĐNN than phiền có các hành động nói năng như: phàn nàn, than, than phiền, than thở, than vãn,... Chúng tôi lấy than phiền làm đại diện để gọi tên chung cho cả tiểu nhóm HĐNN này. Theo Từ điển tiếng Việt (2010), các hành động nói năng trên được giải thích như sau:

- Phàn nàn: "Nói ra nỗi buồn bực, không vừa ý, để mong có sự đồng cảm, đồng

tình. Hay kêu ca, phàn nàn. Điều đáng phàn nàn." [145, tr. 981].

- Than: "Thốt ra lời cảm thương cho nỗi đau khổ, bất hạnh của mình. Than thân

trách phận." [145, tr.1167].

- Than phiền: "Phàn nàn, kêu ca về điều phiền muộn nào đó. Than phiền về con

cái."[145, tr.1167].

- Than thở: "Kêu than, thổ lộ nỗi buồn rầu đau khổ của mình."[145, tr.1167].

- Than vãn: "Than thở và kể lể mong có sự đồng cảm, xót thương"[145, tr.1167].

88

Như vậy, tất cả những hành động nói năng trên đều có đặc điểm chung là bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc âm tính (buồn phiền, bức xúc, không hài lòng, không vừa ý,...) về một điều gì đó mang tính tiêu cực, gây ra những hậu quả xấu, ảnh hưởng không tốt tới những người có liên quan. Do đó, bản chất của hành động than phiền là

hành động biểu cảm tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên người ta than phiền mà phải ở vào tình trạng khốn khổ, bức xúc nào đó, người ta mới thốt ra lời than phiền. Khi thốt ra lời than phiền, người nói muốn giải tỏa bức xúc tâm lí của bản thân, đồng thời mong được chia sẻ với người nghe để có sự đồng tình, cảm thông và có thể có những hành động tích cực nhằm điều chỉnh, khắc phục, thay đổi cái xấu, cái tiêu cực.

Có thể thấy rằng, mặc dù cùng thuộc loại HĐNN biểu cảm - âm tính và cùng có nguồn nảy sinh là những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống, song điểm khác biệt giữa HĐNN than phiền với HĐNNPP là ở chỗ: HĐNN than phiền là hành động bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc còn HĐNNPP là HĐNN bộc lộ quan điểm, đánh giá. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều trường hợp dùng HĐNN than phiền (bộc lộ trạng thái tâm lí, cảm xúc) nhưng hướng đến mục đích phê phán (bộc lộ quan điểm, đánh giá).

Phê phán bằng HĐNN than phiền hay HĐNN than phiền - phê phán là hành động người nói bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực (buồn phiền, bức xúc, không hài lòng, không vừa ý) về sự việc, hiện tượng sai trái đang tồn tại trong cuộc sống, gây ra những hậu quả xấu, làm ảnh hưởng không tốt đến cộng đồng xã hội, trong đó có người than phiền, thông qua đó thực hiện mục đích phê phán sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực và đối tượng gây ra sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực đó cùng với mong muốn có sự chia sẻ, đồng cảm, đồng tình của mọi người, đồng thời mong muốn đối tượng bị than phiền - phê phán có sự điều chỉnh, thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Ví dụ:

(116) Mình không tủi cho cái thân mình mà tủi cho ngôn ngữ của nước nhà bị

coi thường vì cái thói vọng ngoại. [NL10, tr.270]

Trong ví dụ (116), người phát ngôn (xưng "mình") bộc lộ sự tủi buồn vì "ngôn ngữ của nước nhà bị coi thường" bởi chính "cái thói vọng ngoại", từ đó phê phán hiện tượng sính dùng "tiếng Tây" tràn lan, tùy tiện của giới trẻ trên các diễn đàn văn hóa xã hội hiện nay đã làm vẩn đục "tiếng Ta", đồng thời mong muốn người dân, nhất là lớp trẻ có ý thức giữ gìn, phát huy sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt.

Trong các TPBC tiếng Việt được khảo sát, chúng tôi thống kê được 84 HĐNN than phiền có đích ngôn trung là phê phán, chiếm 7,4% HĐNNPP được thực hiện gián tiếp.

b. Biểu thức ngôn hành và phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

89

Theo quan sát của chúng tôi, HĐNN than phiền - phê phán nói chung cũng như trong các TPBC được khảo sát nói riêng không sử dụng ĐTNH để thực hiện. Điều đó

cũng có nghĩa là HĐNN này chỉ được thực hiện thông qua phát ngôn ngữ vi nguyên cấp mà cốt lõi là BTNH than phiền - phê phán.

Về dấu hiệu hình thức, trong BTNH than phiền - phê phán thường xuất hiện thành phần biểu cảm bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực. Ở thành phần này, thường có các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng sau đây:

 Sử dụng từ ngữ cảm thán bộc lộ phản ứng tâm lí tiêu cực: ôi, trời đất, trời ơi,

ôi dào/ ối dào, ối chao, úi giời, chết nỗi,...

Ví dụ:

(117) Ôi, sự đời ngoắt ngoéo thật và cái ngòi bút cũng ngoắt ngoéo thật. (NL17, tr.185]

 Sử dụng quán ngữ: thế là..., vậy là..., đời thuở nhà ai..., biết bao nhiêu là...,

chết nỗi...,đến nỗi/ đến nông nỗi... Ví dụ:

(118) Thế là thân bại danh liệt, bao nhiêu năm phấn đấu mà chỉ vì tham mấy đồng tiền mà mọi công lao đều đổ xuống sông, xuống biển. [NL20, tr.25]

(119) Còn các sao ca nhạc, muốn bán vé cao bao nhiêu cũng được, các ông bầu muốn trả kiểu gì cũng được, thế là thành loạn. [NL11, tr.52]

(120) (Bác Giá ơi, tôi với bác gắn bó thắm thiết chí tình từ lâu, người ta ví như: "Thuyền và Biển". Bác dừng, tôi dừng, bác đi bước nào tôi đi bước ấy). Vậy mà gần đây bác tăng tốc phi mã bỏ tôi tụt xa lại phía sau đến nỗi bọn trẻ phổ thành bài ca. [NL10, tr.362]

 Sử dụng từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (buồn, chán, ớn,

tiếc, thương, sầu, hận, xót, đau, khổ, khốn khổ, đau đầu, đau lòng,...). Ví dụ:

(121) (Mừng cho cháu đã được nhận vào làm việc). Khốn khổ, chỉ vì cái tội đỗ

bằng cao hơn cái quy định máy móc. [NL20, tr.72]

(122) Cứ như cái chuyện chúng ta đã tốn bao nhiêu công sức mới làm được cái

sổ hồng cho nhà và đất. Bỗng dưng bây giờ các ông ấy lại thay đổi phải làm lại, cứ nghĩ mà ớn xương sườn. [NL10, tr.324]

 Sử dụng biểu thức ngôn ngữ: gồm có các mô hình sau:

+ Mô hình (1):

+ Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực

Từ/ cụm từ tình thái (thật, đáng, thật là, thế mà,...) (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...)

Hoặc:

90

Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...) + Từ / cụm từ tình thái (thật, thay, thế, quá đi thôi, mất thôi, mất rồi,...)

Ví dụ:

(123) Ôi thật khổ! Sinh viên tốt nghiệp đại học là được cấp cái giấy tự đi xin

việc làm, phó mặc trời đất. [NL17, tr.220]

(124) Nhưng tiếc thay có một số người làm ngược lại tinh thần đó. Họ bắt

người lớn khai gian tuổi cho nhỏ lại để thi thố nhằm đạt thành tích cao. [NL10, tr.25]

(125) Một năm có sáu bảy bộ phim, phần lớn đều không ra rạp mà cứ thổi phồng lên giải này giải nọ, không nghiêm khắc ngồi xuống tự phê bình thì đáng thương quá đi thôi. [NL5, tr.94]

(126) ...không phải chỉ tức mà còn lo sợ nữa, vì tiêu cực, nhũng nhiễu đã đến cái

cửa cơ quan Nhà nước Trung ương mất rồi. [NL13, tr.350]

+ Mô hình (2):

+ Phụ từ biểu thị mức độ

Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...) (quá, lắm,...)

Hoặc

+ Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực

Phụ từ biểu thị mức độ (rất) (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...)

Ví dụ:

(127) (Hai ba phe cùng đi vận động nhỏ to, rì rầm, làm cho chó cắn suốt đêm, sủa ông ổng dọc theo bước chân đi rón rén). Mất ngủ là chuyện bình thường, nhưng mất đoàn kết, kèn cựa, địa vị, chia phe cánh đấu đá, tranh giành nhau cái ghế, cái quyền đề tìm ra cái lợi riêng tư trong Đảng bộ thì bà con buồn lắm. [NL17, tr.202]

+ Mô hình (3)

Thế mới +

Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (buồn, chán, ớn, tiếc, thương, sầu, hận, xót, đau, khổ, ...)

Ví dụ:

(128) (Trong cơ quan mình có khối anh như thế cho nên phải trái mới mù mờ. Nhưng khối anh "thành đạt" vì cái mù mờ đó). Thế mới chán. [NL21, tr.162]

 Sử dụng biểu thức ngôn ngữ so sánh:

+ Từ + Đối tượng

Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...) so sánh được so sánh

Hoặc:

+ Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (tiếc, chán, buồn, đau, hận, khổ/ khốn khổ,...) Từ so sánh (nhất)

91

.

Ví dụ:

(129) Tôi đọc báo, nghe đài ghét nhất là từ "sẽ"... (Ở chỗ tôi sẽ nhiều quá: sẽ

xây dựng cái cầu, sẽ khắc phục khuyết điểm khi tiếp dân, sẽ quan tâm hơn tới các gia

đình khó khăn, sẽ tích cực chống tham nhũng, lãng phí,...). [NL20, tr.80]

(130) Ngán nhất là loại đổi giọng trơn leo lẻo, hôm trước nói xuôi, hôm nay nói

ngược, khiến mình không biết họ là ai. [NL11, tr.22]

Trên thực tế, HĐNN than phiền - phê phán có thể chỉ có thành phần biểu cảm

bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực như đã chỉ ra ở trên. Tuy nhiên, theo quan

sát của chúng tôi, trong BTNH than phiền - phê phán, ngoài thành phần biểu cảm bộc

lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực còn có thành phần NDMĐ nói rõ nguồn cơn gây ra trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực.

Ví dụ:

(131) Trên mải tranh nhau, dưới mải vơ vét, xót thật! [NL15, tr.63]

Ở phát ngôn trong ví dụ (131), bên cạnh thành phần biểu cảm bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm xúc tiêu cực (xót thật) còn có thành phần NDMĐ nói rõ nguồn cơn khiến người phát ngôn cảm thấy xót xa, đó là hiện thực tham nhũng đã đến mức trầm kha trong xã hội hiện nay: trên mải tranh nhau, dưới mải vơ vét, kẻ nào cũng giành giật, giữ miếng lợi cho riêng mình mà bất chấp, xâm phạm lợi ích tập thể, quốc gia.

Khi phân tích 84 HĐNN than phiền - phê phán thống kê được trong nguồn ngữ

liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tất cả các thành phần NDMĐ trong BTNH than

phiền - phê phán đều phản ánh những sự việc, hiện tƣợng sai trái, tiêu cực trong

xã hội gây hậu quả xấu, cho nên, về bản chất thành phần NDMĐ này mang tính

định hướng đánh giá tiêu cực. Đây cũng chính là điểm mấu chốt để BTNH than phiền

có đích ngôn trung phê phán. Nói cách khác, để BTNH than phiền có hiệu lực phê

phán thì điểm cốt lõi nhất là NĐMĐ than phiền phải mang tính định hƣớng đánh giá tiêu cực - tức mang bản chất của hành động phê phán. Cụ thể là, nội dung gây ra than phiền là hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội đáng bị phê phán. Bởi vậy, ngoài các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trên đây, trong BTNH than phiền - phê phán, ở thành phần NDMĐ thường xuất hiện các từ ngữ có tính đánh giá tiêu cực.

Ví dụ:

92

(132) Giận cho mấy người chỉ nghĩ đến cái lợi cho bản thân mà không nghĩ đến lợi ích quốc gia, chỉ ham hố mấy đồng tiền trước mắt mà dám xâm phạm cả những di tích văn hóa của dân tộc. [NL15, tr.96]

Trong ví dụ (132), người phát ngôn bộc lộ sự giận dữ, phiền lòng trước hành

động xâm phạm di tích văn hóa dân tộc, từ đó phê phán những người nông cạn, tham lam "chỉ nghĩ đến cái lợi cho bản thân mà không nghĩ đến lợi ích quốc gia", "chỉ ham

hố mấy đồng tiền trước mắt dám xâm phạm cả những di tích văn hóa của dân tộc".

Thái độ phê phán, không đồng tình của người phát ngôn thể hiện rất rõ qua việc sử

dụng hàng loạt từ ngữ có tính đánh giá tiêu cực: chỉ nghĩ... mà không nghĩ, ham hố, xâm phạm,...

Trong BTNH than phiền - phê phán, vị trí của thành phần biểu cảm và thành

phần NDMĐ hết sức linh hoạt. Thành phần biểu cảm có thể đứng trước, đứng sau,

hoặc cả trước và sau, thậm chí chen vào giữa thành phần NDMĐ. Ví dụ:

+ Thành phần biểu cảm đứng trước thành phần NDMĐ than phiền - phê phán:

(133) Ôi thật khổ! Sinh viên tốt nghiệp đại học là được cấp cái giấy tự đi xin việc làm, phó mặc trời đất. [NL17, tr.220]

+ Thành phần biểu cảm đứng sau thành phần NDMĐ than phiền - phê phán:

(134) Trên mải tranh nhau, dưới mải vơ vét. Xót thật! [NL15, tr.63]

+ Thành phần biểu cảm đứng trước và sau thành phần NĐMĐ than phiền - phê phán:

(135) Ôi, cái lợi cũng dễ dẫn người con người đi tới mù quáng, hại đồng loại, đồng bào như bỡn. [NL17, tr.384]

+ Thành phần biểu cảm chen vào giữa thành phần NDMĐ than phiền - phê phán:

(136) Mở cửa để nhận kỹ thuật mới, văn minh thế giới, nhưng nhận tiền để cho

họ đổ rác độc vào nhà mình, như thế thì ôi thôi, con cháu muôn đời sau chịu hại.

(NL17, tr.260]

Từ những phân tích trên, có thể tổng hợp khái quát cấu trúc BTNH và những

phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN than phiền - phê phán như sau:

Cấu trúc BTNH than phiền - phê phán:

Thành phần biểu cảm + NDMĐ (mang tính đánh giá tiêu cực)

Bảng 3.2. Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong 84 HĐNN than phiền - phê phán

Tần số

Phƣơng tiện ngôn ngữ

Tần suất 0,6/1

52/84

1 Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực (buồn, chán, ớn, tiếc, thương, sầu, hận, xót, đau, khổ, khốn khổ, đau đầu, đau lòng,...)

0,3/1

93

Thành phần 2 Từ/ cụm từ tình thái (thật, đáng, thật là, quả là,...) đứng trước từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình 29/84

cảm tiêu cực // Từ/ cụm từ tình thái (thật, thay, thế, quá đi thôi, mất rồi,...) đứng sau từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực

0,2/1 18/84 3 Từ ngữ cảm thán bộc lộ phản ứng tâm lí tiêu cực (ôi, trời đất, trời ơi, ôi dào/ ối dào, ối chao, úi giời,...) Phần biểu cảm 0,1/1 10/84

4 Phó từ biểu thị mức độ (rất) đứng từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực // Phó từ biểu thị mức độ (quá, lắm...) đứng sau từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực

0,1/1 5 Quán ngữ (thế là..., vậy là..., đời thuở nhà ai, chết nỗi..., ...đến nỗi/ đến nông nỗi...,...)

9/84 8/84 0,09/1 6 Biểu thức so sánh trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực

0,01/1 7 Biểu thức: Thế mới + từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực 1/84

8 Từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực 226/84 2,7/1 Phần NDMĐ

Bảng thống kê trên cho thấy, trong các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng để

thực hiện HĐNN than phiền - phê phán, phương tiện ngôn ngữ điển hình nhất, cũng

là dấu hiệu đặc trưng nổi bật nhất để nhận diện HĐNN than phiền - phê phán đó là

những từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực với tần số xuất hiện đậm đặc: 226 lượt/

84 HĐNN than phiền - phê phán, như vậy trung bình trong mỗi HĐNN than phiền -

phê phán có gần 3 từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực. Bên cạnh đó là những từ ngữ

bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực với tần số xuất hiện 52 lượt/ 84 HĐNN

than phiền - phê phán, như vậy trung bình trong gần 2 HĐNN than phiền - phê phán

thì có 1 từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí - tình cảm tiêu cực). Tiếp đến là các từ/ cụm từ

tình thái, các từ ngữ cảm thán bộc lộ phản ứng tâm lí tiêu cực,... được được sử dụng ở

những tỉ lệ nhất định.

c. Cơ chế xác lập đích ngôn trung của HĐNN than phiền - phê phán

Để xác định đích ngôn trung của một HĐNN cần dựa vào các "phương tiện chỉ

dẫn hiệu lực ở lời", hay "dấu hiệu ngữ vi", "dấu hiệu ngôn hành" của các phát ngôn.

Dù gọi bằng các tên khác nhau, nhưng thực chất đó là các dấu hiệu chỉ dẫn để giúp

người nghe nhận biết được hiệu lực, đích của phát ngôn. Theo Đỗ Hữu Châu "trong

thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một đích ở lời mà đại bộ

phận các phát ngôn được xem như là thực hiện đồng thời một số hành động nào đó"

[12, tr.145]. Một HĐNN có thể có hai hiệu lực: hiệu lực trực tiếp và hiệu lực gián

94

tiếp. Để nhận diện, xác lập đích ngôn trung của HĐNN, người nghe cần căn cứ vào

các dấu hiệu chỉ dẫn, NDMĐ, ngữ cảnh phát ngôn, kết hợp dùng thao tác suy ý, liên

tưởng để nhận diện hiệu lực của các HĐNN. Ngoài việc dựa vào các dấu hiệu nói

trên, muốn suy luận chính xác, người nghe cần có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực

của cuộc sống và sự "nhạy cảm cần thiết" để nhận diện lối nói vòng nhằm tạo hàm ẩn

trong giao tiếp của người Việt. Từ đó nhận diện, xác lập được chính xác đích ngôn

trung của HĐNN. Chúng tôi đồng tình với các nhân tố mà tác giả Đặng Thị Hảo Tâm

nhấn mạnh, đó là: "tri năng ngôn ngữ, tri năng bách khoa, tri năng dụng học" [125,

tr.117] để nhận diện và lý giải các HĐNN. Và đó cũng chính là các kiến thức tổng

hợp mà người nghe cần huy động để nhận diện các HĐNN có đích phê phán ngầm ẩn.

Để xác định đích phê phán của HĐNN than phiền, cần căn cứ vào: i) Các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN than phiền - phê phán (như điểm b đã chỉ ra trên đây); ii) NDMĐ than phiền thể hiện sự đánh giá tiêu cực; iii) Dùng thao tác suy ý để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn của các HĐNN than phiền. Ví dụ:

(137) Ối dào, đường của làng nhưng phải tránh ruộng của ông chánh tổng, ông lý cho nên mới ngoằn ngoèo thế đấy chú ạ! [NL15, tr.263]

Ở ví dụ (137), để nhận diện đích ngôn trung của HĐNN than phiền - phê phán, trước hết người đọc cần dựa vào phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng, đó là: từ ngữ cảm thán: ối dào, từ ngữ miêu tả mang tính đánh giá tiêu cực: con đường ngoằn ngoèo. Ngoài việc căn cứ vào các dấu hiệu trên, người đọc còn phải dùng thao tác suy ý để nhận ra sự phê phán ngầm ẩn của người phát ngôn về sự tình được phản ánh, đó là việc làm đường ở nông thôn: con đường của làng lẽ ra là thẳng nhưng lại trở nên ngoằn ngoèo, cong queo, xiên xẹo vì phải tránh ruộng của các ông cán bộ thôn, cán bộ xã. Người phát ngôn đã gián tiếp phê phán sự lộng quyền, áp đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể của các ông cán bộ thôn, xã trong việc làm đường ở nông thôn.

d. Cường độ lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ than phiền - phê phán

So với HĐNNPP trực tiếp, HĐNN than phiền - phê phán có mức độ đe dọa thể diện thấp hơn vì phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua hành động than phiền ít có tính chất gay gắt, quyết liệt. Do vậy mà HĐNN than phiền có đích ngôn trung là phê phán cũng có hiệu lực phê phán yếu.

3.1.1.2. Hành động ngôn ngữ mỉa mai có đích ngôn trung là phê phán (Hành

động mỉa mai - phê phán)

a. Khái niệm

95

Thuộc nhóm HĐNN mỉa mai có các hành động nói năng như: mỉa, mỉa mai, châm biếm, châm chọc,...Chúng tôi lấy mỉa mai làm đại diện để gọi tên chung cho cả

tiểu nhóm HĐNN này. Theo Từ điển tiếng Việt (2010), các hành động nói năng nêu trên được giải thích như sau:

- Châm biếm: "Chế giễu nhằm phê phán" [145, tr.190].

- Châm chọc: "Nói xói móc nhằm chêu chọc, làm cho người ta bực tức, khó

chịu. Phê bình theo lối châm chọc. Giọng châm chọc" [145, tr.190].

- Mỉa: "Giễu cợt bằng cách nói cạnh khóe hoặc nói ngược lại điều ai cũng thấy

rõ"[145, tr.812].

- Mỉa mai: "Mỉa bằng cách nói ngược lại với ý mà mình muốn nói cho người ta

hiểu. Khen mỉa mai" [145, tr.812].

Tất cả những hành động nói năng nêu trên đều có đặc điểm chung là bộc lộ trạng thái tâm lí hay quan điểm, đánh giá tiêu cực theo cách nói ngược lại, tức là cách nói tích cực đối với sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó sai trái, tồi tệ, xấu xa mà mọi người đều dễ dàng nhận thấy rõ. Do đó, bản chất của hành động mỉa mai vẫn là hành động biểu cảm tiêu cực. Có thể thấy rằng, mặc dù cùng thuộc loại HĐNN biểu cảm - âm tính và cùng có nguồn nảy sinh là những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống, song điểm khác biệt giữa HĐNN mỉa mai với các nhóm HĐNN biểu cảm khác như than phiền, phê phán ở chỗ: HĐNN mỉa mai dùng cách thức nói ngược, chẳng hạn: nói khen nhưng kì thực là chê, nói tốt hay đẹp nhưng kì thực là xấu, nói đúng nhưng kì thực là sai, nói vui nhưng kì thực là buồn,... Trong thực tế, có nhiều trường hợp dùng cách nói mỉa mai để phê phán (bộc lộ quan điểm, đánh giá tiêu cực). Theo ngữ liệu khảo sát, chúng tôi thống kê được 48 HĐNN mỉa mai - phê phán, chiếm 4,1%.

Phê phán bằng hành động mỉa mai là việc người phát ngôn dùng lời nói ngược để giễu cợt, đánh giá thấp về người hay sự vật, sự việc, hiện tượng bị coi là xấu xa, sai trái, tiêu cực trong xã hội, thông qua đó nhằm mục đích phê phán và mong muốn đối tượng bị phê phán nhận biết ra cái xấu, sai trái, tiêu cực đó để có sự điều chỉnh, hoặc thay đổi theo hướng tích cực.

Ví dụ:

(138) Cao cấp có khác, có vết nứt cũng nứt ngay chính giữa, chứ không nứt

lén lút trong xó nhà. [NL6, tr.96]

96

Trong ví dụ (138), người phát ngôn thốt ra lời đánh giá tích cực: Cao cấp có khác...song với cách chơi chữ mang hàm ý ngược lại đầy mỉa mai này cùng với những từ ngữ châm biếm mang giọng điệu giễu cợt mà đầy chua chát: có vết nứt cũng nứt ngay chính giữa, chứ không nứt lén lút trong xó nhà, người nghe dễ dàng nhận thấy rõ hàm ý đánh giá tiêu cực: "cao cấp" song thực chất là "thấp cấp". Từ đó, người phát ngôn phê phán tình trạng kém chất lượng của những căn hộ mang mác là "căn hộ cao cấp" song thực chất không đúng như vậy, do nhà thầu xây dựng đã rút lõi công trình.

b. Biểu thức ngôn hành và phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

Theo quan sát của chúng tôi, HĐNN mỉa mai - phê phán nói chung cũng như trong các TPBC được khảo sát nói riêng không sử dụng ĐTNH để thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là HĐNN này chỉ được thực hiện thông qua phát ngôn ngữ vi nguyên cấp mà cốt lõi là BTNH mỉa mai châm biếm, đó là nội dung mệnh đề bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngƣợc.

Về dấu hiệu hình thức, BTNH mỉa mai châm biếm tức phần NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngược thường sử dụng phương tiện ngôn ngữ sau đây:

 Sử dụng từ ngữ cảm thán bộc lộ phản ứng tâm lí tích cực nhưng mang giọng

điệu chua chát, tiêu cực: ôi chao, ôi, úi chà...Ví dụ:

(139) Ôi chao! Tiền của như nước tuôn ra. Quê hương ta đúng là con gà béo.

[NL11, tr.89]

Ở ví dụ (139), người phát ngôn sử dụng từ ngữ cảm thán ôi chao với giọng điệu

chua chát, giễu cợt khi chứng kiến cảnh tượng tiền của như nước tuôn vào túi tham

của những kẻ cơ hội, "quê hương... là con gà béo" mà đám người háu ăn đang quây

vào xé phay, húp thịt.

 Sử dụng từ/ cụm từ tình thái (thật, thật là, đúng là, đến thế,...) đi kèm với từ

ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí tích cực hoặc bộc lộ sự đánh giá tích cực với tính chất nói

ngược. Ví dụ:

(140) Thật là một vòi nước hiện đại, hỏng là thấy ngay, chả như mấy cái vòi

kém đạo đức khác, cứ hỏng từ từ. [NL6, tr.96]

Ở ví dụ (140), người phát ngôn khen:"Thật là một vòi nước hiện đại" nhưng

hàm ý ngược lại là chê: "Thật là một vòi nước tệ hại", chưa dùng đã hỏng.

(141) (Nhưng danh sách bầu chọn lại không có phòng kín riêng đề từng người

gạch xóa, cho nên thấy mọi người không cầm bút, mà chỉ có anh cầm bút thì có nghĩa

là anh định gạch, xóa, mọi người đều nhìn thấy, có kẻ nịnh bợ ton hót có khi mang vạ

có ngày). Cái lý cầm bút nó sâu xa đến thế. [NL15, tr.57]

Ở ví dụ (141), người phát ngôn đánh giá cao: "Cái lý cầm bút nó sâu xa đến thế"

nhưng hàm ý giễu cợt, đánh giá thấp: "Cái lý cầm bút nó cạn hẹp đến thế", thấy anh

này cầm bút là suy ra ngay anh ta là người định gạch xóa, không bầu chọn cho lãnh

97

đạo và thế là anh ta sẽ bị mang vạ có ngày vì không tránh khỏi sự trả thù của lãnh đạo.

(142) Sao cậu lại so sánh thời dân chủ với triều đại phong kiến Nhưng cuối

cùng sếp vẫn mua xe, còn cậu kĩ sư lưng thẳng kia "bay" đi chơi chỗ khác). Em thấy

đúng là sếp giỏi hơn vua. [NL10, tr.28]

Ở ví dụ (142), người phát ngôn trầm trồ, thán phục: "đúng là sếp giỏi hơn vua"

nhưng với hàm ý mỉa mai, giễu cợt, chê trách: "đúng là sếp thủ đoạn hơn vua", vì sau

phong trào dân chủ đấu tranh chống tham nhũng, "sếp vẫn mua xe, còn cậu kĩ sư lưng

thẳng kia "bay" đi chơi chỗ khác".

 Sử dụng phụ từ biểu thị mức độ (rất, đầy, quá, lắm,...) đi kèm với từ ngữ bộc

lộ trạng thái tâm lí tích cực hoặc bộc lộ sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngược.

Ví dụ:

(143) Hay, quá hay, tôi nghe nói bên Indo dân chúng có sáng kiến, đề nghị giam

các quan tham cùng với lũ gà vịt bị dịch cúm gia cầm H5N1 để họ sợ mà khai báo hết

tội lỗi của mình. Sáng kiến được áp dụng, sau ba ngày thì chuyện lạ xảy ra. Trại gà

vịt biến hết, té ra các quan đã mổ thịt làm các món chén sạch mà chẳng hề hấn gì.

Sau mới biết các quan xơi được xi măng sắt thép, mồm miệng bao tử cứng như bê

tông, cúm H5 chứ H10 cũng bị tiêu hết. [NL10, tr.217]

Ở ví dụ (143), người phát ngôn thốt lên đầy thích chí: "Hay, quá hay" nhưng với

hàm ý mỉa mai, giễu cợt, chê trách: "Dở, quá dở", vì "sáng kiến, đề nghị giam các

quan tham cùng với lũ gà vịt bị dịch cúm gia cầm H5N1 để họ sợ mà khai báo hết tội

lỗi của mình" bị thất bại, kết cục gà vịt bị các quan chén sạch mà họ chẳng hề hấn gì bởi "các quan xơi được xi măng sắt thép, mồm miệng bao tử cứng như bê tông, cúm

H5 chứ H10 cũng bị tiêu hết". Từ đó phê phán các quan xây dựng đã ăn bớt xi măng,

sắt thép của công trình.

(144) Ổ điện rời như vậy là do các nhà thiết kế cao cấp muốn dân cư phải luôn

cảnh giác với điện giật. Rõ ràng là đầy trách nhiệm. [NL6, tr.97]

Ở ví dụ (144), người phát ngôn rút ra kết luận đánh giá: "Rõ ràng là đầy trách nhiệm" nhưng với hàm ý ngược lại: "Rõ ràng là vô trách nhiệm". Người phát ngôn mỉa mai, giễu cợt, chê trách các nhà thiết kế cao cấp nhưng đã cho lắp đặt những ổ điện "thấp cấp", chưa đưa vào sử dụng đã bị long rời.

98

 Sử dụng từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí tích cực (sướng, vui, hạnh phúc,...) hoặc sự đánh giá tích cực (hay, tốt, đẹp, trách nhiệm, cao quý,...) với tính chất nói ngược (dở, xấu, vô trách nhiệm, thấp hèn,...). Ví dụ:

(145) Vâng, tôi biết ngài cao quý! Nhưng cao quý bằng tiền của kẻ khác là thứ cao quý giả mạo đấy, thưa ngài ! Chả có quốc gia nào, chả có nền kinh tế nào chịu nổi được lâu niềm cao quý đó đâu. [NL5, tr.175]

Ở ví dụ (145), người phát ngôn khẳng định "ngài cao quý" nhưng hàm ý ngược lại: "ngài thấp hèn" vì sự cao quý của ngài được xây đắp bằng tiền tham ô của dân, tiền hối lộ của kẻ dưới.

(146) Tôi có xem, các cụ bảo phú quý sinh lễ.... hội, chắc các nơi đó hết đói

nghèo dân mới được nhảy múa mút mùa như thế, sướng thật. [NL10, tr.206]

Ở ví dụ (146), hình thức là lời phát ngôn bộc lộ niềm hạnh phúc: "sướng thật" nhưng hàm ý thì ngược lại, đó là lời than phiền, phê phán: "khổ thật" vì cái nạn "lễ hội" quanh năm, dân chưa hết đói nghèo mà không chăm lo mùa màng làm ăn, chỉ mải bày vẽ vui chơi "nhảy múa mút mùa".

 Sử dụng từ ngữ theo lối chơi chữ, ngoa dụ, tương phản,... để châm biếm, chế

giễu. Ví dụ:

(147) Lỗ Khuất đứng dạy tạ từ. Lâm đại phu tiễn khách ra cổng nói nhỏ: Tôi thấy ngài từ nước Lỗ lặn lội sang đây cũng ái ngại nên tôi nói cho ông hay. Khoản kinh phí ông hỏi là do vua bí mật cấp cho tôi để tôi làm tấm gương thanh liêm, chứ lương lậu thì nuôi mình tôi còn chẳng đủ.)

Lỗ Khuất quỳ xuống: Xin đa tạ đại quan, bây giờ thì tôi có thể đem tấm gương

này về phổ biến cho nước Lỗ. [NL10, tr.14]

Trong ví dụ (147), người phát ngôn (Lỗ Khuất) đã sử dụng cách nói chơi chữ "tấm gương" vốn có ý nghĩa là sự "thanh liêm, sáng trong" song ở đây lại mang ý nghĩa là sự "ô trọc, vẩn đục", từ đó phê phán những kẻ đã nhận "phí dưỡng liêm" mà vẫn chẳng thanh liêm, vẫn tham ô, nhận hối lộ như thường.

(148) Tôi có xem, các cụ bảo phú quý sinh lễ... hội, chắc các nơi đó hết đói

nghèo dân mới được nhảy múa mút mùa như thế, sướng thật. [NL10, tr.206]

Trong ví dụ (148), người phát ngôn chơi chữ bằng cách biến tấu thành ngữ "phú quý sinh lễ nghĩa" thành "phú quý sinh lễ.... hội" để phê phán nạn tổ chức lễ hội tràn lan quanh năm gây tốn kém thời gian, công sức, tiền của của dân.

(149) Hóa ra bao nhiêu năm nay chúng ta không thấy đau vì "cơ chế thuốc tê"

của ngành Giáo dục. [NL11, tr.208]

99

Ở ví dụ (149), người phát ngôn sử dụng lối chơi chữ thâm thúy: cơ chế giáo dục của ta trong bao nhiêu năm nay với những khẩu hiệu to tát nhưng kết cục chỉ là những con số "không" (Hai không), chẳng khác nào liều thuốc tê khiến người ta mất hết cảm giác, không còn nhận ra thực chất, nỗi đau, hệ quả của những vết hổng lớn trong giáo dục, đào tạo con người.

(150) Ôi chao! Tiền của như nước tuôn ra. Quê hương ta đúng là con gà béo.

[NL11, tr.89]

Trong ví dụ (150), người phát ngôn sử dụng cách nói ngoa dụ: "quê hương... là con gà béo", để phê phán những kẻ cơ hội, tham ăn đang quây vào xé phay, húp thịt.

(151) Sáng sớm ngủ dậy đã có thêm 15 ông giám đốc ra đời từ lúc gà gáy. "Đẻ

nhanh" như thế thì tỷ lệ "khó nuôi" phải cao chứ! [NL11, tr.71]

Trong ví dụ (151), người phát ngôn đã sử dụng cách nói ngoa dụ, trào lộng, gây cười: Mới sáng sớm ngủ dậy đã có thêm 15 ông giám đốc ra đời từ lúc gà gáy, rồi "đẻ nhanh" như thế thì chắc tỉ lệ "khó nuôi" phải cao. Từ tiếng cười trào lộng: quan được đẻ nhanh và nhiều như gà đẻ, người phát ngôn phê phán tệ mua quan bán chức, khiến cho lượng quan chức quá đông, thậm chí ở một số nơi số quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiều hơn số nhân viên.

Trên thực tế, HĐNN mỉa mai - phê phán có thể chỉ có thành phần nòng cốt là BTNH mỉa mai, châm biếm - NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngược. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, ngoài BTNH mỉa mai, châm biếm - NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với hàm ý ngược lại, còn có thành phần mở rộng là mệnh đề miêu tả nói rõ nguồn cơn của sự mỉa mai, châm biếm. Ví dụ:

(152) Thật là một vòi nước hiện đại, hỏng là thấy ngay, chả như mấy cái vòi kém đạo đức khác, cứ hỏng từ từ. [NL6, tr.96]

Ở phát ngôn trong ví dụ (152), ngoài BTNH mỉa mai châm biếm - NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với hàm ý ngược lại: Thật là một vòi nước hiện đại, còn có thành phần mở rộng là mệnh đề miêu tả nói rõ cơ sở của sự đánh giá cái vòi nước kia là "hiện đại", đó là thực trạng kém chất lượng của thứ hàng rởm, gia công, chưa dùng đã hỏng (hỏng là thấy ngay...) mà nhà thầu xây dựng đã đưa vào lắp đặt trong những căn hộ có mác và mức giá "cao cấp".

Khi phân tích các HĐNN mỉa mai - phê phán thống kê được trong nguồn ngữ liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tất cả các thành phần mở rộng đều là những mệnh đề phản ánh ngƣời, vật, việc, hiện tƣợng xấu, tiêu cực trong xã hội, cho nên, về bản chất thành phần này mang tính định hướng đánh giá tiêu cực. Và có lẽ đây cũng chính là căn cứ quan trọng để nhận diện đích phê phán của HĐNN mỉa mai. Bởi vậy, ngoài các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trên đây, ở thành phần mệnh đề mở rộng thường xuất hiện các từ ngữ có tính đánh giá tiêu cực, hoặc những từ đánh giá tích cực với tính chất nói ngược để phê phán.

100

Quay trở lại ví dụ (152), người phát ngôn chế giễu, mỉa mai "Thật là một vòi nước hiện đại", từ đó phê phán những nhà thầu xây dựng thiếu lương tâm, lừa đảo

khách hàng, đem thứ thiết bị nội thất (vòi nước) giả, kém chất lượng vào lắp đặt trong những căn hộ cao cấp. Thái độ phê phán của người phát ngôn thể hiện rất rõ qua thành phần mở rộng là mệnh đề miêu tả:...hỏng là thấy ngay, chả như mấy cái vòi kém đạo đức khác, cứ hỏng từ từ. Ở đây, người phát ngôn đã sử dụng những từ ngữ có tính đánh giá tiêu cực: hỏng, kém đạo đức,...

Từ những phân tích trên, có thể tổng hợp khái quát cấu trúc BTNH và những

phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN mỉa mai - phê phán như sau:

Cấu trúc BTNH mỉa mai - phê phán:

NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngƣợc + Thành phần mở rộng (mệnh đề mang tính đánh giá tiêu cực)

Bảng 3.3. Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong 48 HĐNN mỉa mai - phê phán

Tần số Tần suất

TT Phƣơng tiện ngôn ngữ

6/48 0,13/1

1 Từ ngữ cảm thán bộc lộ phản ứng tâm lí tích cực nhưng mang giọng điệu chua chát, tiêu cực (ôi chao, ôi, úi chà,...)

12/48 0,25/1

2 Sử dụng từ/ cụm từ tình thái (thật, thật là, đúng là, đến thế,...) đi kèm từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí tích cực hoặc bộc lộ sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngược

10/48 0,21/1

3 Phụ từ biểu thị mức độ (rất, đầy, quá, lắm,...) đi kèm từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí tích cực hoặc bộc lộ sự đánh giá tích cực với tính chất nói ngược.

9/48 0,19/1

4 Từ ngữ bộc lộ trạng thái tâm lí tích cực (sướng, vui, hạnh phúc,...) hoặc sự đánh giá tích cực (hay, tốt, đẹp, trách nhiệm, cao quý,...) với tính chất nói ngược.

5 Từ ngữ sử dụng theo lối chơi chữ, ngoa dụ, tương 28/48 0,58/1

phản,... để châm biếm, chế giễu.

6 Từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực. 76/48 1,58/1

Bảng thống kê trên cho thấy, trong các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng để

thực hiện HĐNN mỉa mai - phê phán, phương tiện ngôn ngữ điển hình nhất, cũng là

dấu hiệu đặc trưng nổi bật nhất để nhận diện HĐNN mỉa mai - phê phán đó là những

từ ngữ được sử dụng theo lối chơi chữ, ngoa dụ, tương phản với tần số xuất hiện khá

nhiều: 28 lượt/ 48 HĐNN mỉa mai - phê phán và những từ ngữ đánh giá tiêu cực 76

lượt/48 HĐNN mỉa mai. Như vậy trung bình trong mỗi HĐNN than phiền - phê phán

101

có khoảng hơn 1 từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực.

c. Cơ chế xác lập đích ngôn trung của HĐNN mỉa mai - phê phán

Để xác định đích ngôn trung của HĐNN mỉa mai - phê phán, người tiếp nhận cần căn cứ vào các dấu hiệu chỉ dẫn kết hợp với thao tác suy ý để nhận diện HĐNN

mỉa mai, châm biếm có đích phê phán. Cụ thể:

i) Căn cứ vào NDMĐ bộc lộ trạng thái tâm lí hoặc sự đánh giá tích cực với tính

chất nói ngược, những từ ngữ mang tính biếm họa, lời lẽ sắc sảo, thâm thuý, thậm chí cay độc. Đây là căn cứ giúp người nghe nhận diện hành động mỉa mai, châm biếm;

ii) Căn cứ vào NDMĐ có tính chất nói ngược: miêu tả, đánh giá hiện tượng tiêu

cực được thể hiện bằng các từ ngữ đánh giá tích cực. Đây là căn cứ giúp nhận diện

hành động mỉa mai có đích ngôn trung là phê phán;

iii) Căn cứ vào ngữ điệu: Ngữ điệu là một trong dấu hiệu đặc trưng của BTNH

mỉa mai, châm biếm. Đó là yếu tố cao độ, trường độ, cường độ,... của phát ngôn. Với

giọng điệu giễu cợt, mỉa mai, người nói thường hay lên cao giọng hoặc kéo dài giọng ở cuối phát ngôn để nhấn mạnh vào sự đánh giá tiêu cực. Do vậy khi tiếp nhận phát

ngôn, người nghe cần dựa vào ngữ điệu của người nói để nhận diện thái độ của người

nói. Ví dụ:

(153) Do được "cày" đều và liên tục nên gờ vỉa hè của những tuyến phố này

nom khá "tơi xốp". [NL24, tr.30]

Ở phát ngôn trong ví dụ (153), người viết đã sử dụng các từ ngữ châm biếm, giễu cợt được đặt trong dấu ngoặc kép như "cày", "tơi xốp", để tạo hiệu quả nói ngược. "Cày" ám chỉ hiện tượng đào bới đường xá để lắp đặt hệ thống điện, nước, cáp,... hoặc hiện các phương tiện giao thông trong phố phóng bừa lên vỉa hè khiến đất đá bị đào xới lên, dẫn tới "tơi xốp". Người phát ngôn dùng cách nói mỉa mai để phê phán về tình trạng xây dựng đường - điện - nước thiếu quy hoạch đồng bộ khiến nhiều đường phố trong đô thị, thậm chí vừa mới làm xong đã bị "cày" nát, phê phán công tác quản lý đô thị của chính quyền địa phương còn nhiều bất cập, hạn chế.

Chúng tôi thấy, hình thức thực hiện HĐNN mỉa mai, châm biếm hết sức linh hoạt. Tùy theo từng đối tượng, sự việc cụ thể mà người nói lựa chọn các cách thức thích hợp. Người nghe cần dựa vào cách nói ngược với các từ ngữ đánh giá tích cực, nội dung đánh giá tiêu cực, các từ ngữ mang tính châm biếm, đồng thời cần phải có kết hợp với thao tác suy ý để nhận diện đích phê phán của hành động mỉa mai, châm biếm.

d. Cường độ lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ mỉa mai - phê phán

102

HĐNN mỉa mai, châm biếm là hành động có mức độ đe dọa thể diện cao. Đây là hành động ít có tính lịch sự. Với hành động này người nói đánh giá thấp kèm theo thái độ coi nhẹ, coi thường người nghe. Do đó cường độ lực ngôn trung của HĐNN

mỉa mai - phê phán cũng mạnh hơn so với cường độ lực ngôn trung của HĐNN than phiền - phê phán.

3.1.1.3. Hành động ngôn ngữ phủ định có đích ngôn trung là phê phán (Hành

động phủ định - phê phán)

a. Khái niệm

Phủ định là một trong những hành động thường diễn ra trong giao tiếp hằng ngày. Cùng nhóm với HĐNN phủ định, có các hành động nói năng như: phủ nhận, phủ định, bác, bác bỏ, phủ quyết, phản bác,...Trong các HĐNN này, chúng tôi lấy HĐNN phủ định làm đại diện để gọi chung cho cả tiểu nhóm này. Các hành động nói năng nêu trên được Từ điển tiếng Việt (2010) giải thích như sau:

- Phủ nhận: "Không thừa nhận là đúng, là có thật. Phủ nhận lời khai, phủ nhận

thành tích".[145, tr.1012].

- Phủ định: "Bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của cái gì đó; trái với khẳng định. Tự

phủ định ý kiến trước đây của mình. Câu phủ định". [145, tr.1011].

- Bác: "Không chấp nhận. Bác đơn. Đề nghị đưa ra bị bác". [145, tr.44].

- Bác bỏ: "Bác đi, gạt đi, không chấp nhận. Bác bỏ ý kiến, bác bỏ luận điệu vu

khống". [145, tr.44].

- Phản bác: "Gạt bỏ bằng lí lẽ ý kiến, quan điểm của người khác". [145, tr.982].

Như vậy, điểm chung của các hành động nói năng nêu trên là bộc lộ sự phủ định, bác bỏ, không đồng tình, không ủng hộ, không chấp nhận,... đối với đối tượng người, vật, việc, hiện tượng xấu, tiêu cực trong xã hội; chúng chỉ khác nhau về mức độ, sắc thái phủ nhận. Do vậy, bản chất của hành động phủ định là hành động biểu cảm tiêu cực. Hành động phủ định xuất phát từ việc người nói cho là hành vi, đặc điểm, tính chất... của đối tượng không đúng, sai trái hoặc tiêu cực. Vì thế, đây là hành động rất gần gũi với HĐNNPP.

Theo quan sát của chúng tôi, HĐNN phủ định và HĐNNPP đều thuộc HĐNN biểu cảm - âm tính. Song hành động phủ định và hành động phê phán khác nhau ở chỗ: HĐNN phủ định là hành động bộc lộ quan điểm không đồng tình, không ủng hộ, còn HĐNNPP là hành động bộc lộ quan điểm, đánh giá. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, chúng ta gặp không ít trường hợp phủ định, bác bỏ là để hướng tới mục đích phê phán. Trên ngữ liệu TPBC được khảo sát, chúng tôi thống kê được 11 HĐNN phủ định - phê phán, chiếm 0,9 %.

103

Có thể thấy rằng, HĐNN phủ định có đích phê phán hay HĐNN phủ định - phê phán là hành động người nói bộc lộ cảm xúc tiêu cực: phủ nhận, bác bỏ đối với đối tượng hoặc sự việc, hiện tượng tiêu cực nào đó mà người nói không thừa nhận, không đồng tình, không ủng hộ đối với hành vi, đặc điểm, tính chất nào đó của đối tượng bị

phê phán. Qua đó, bộc lộ mục đích phê phán về vấn đề, hành vi mà người nói cho là không phù hợp, sai trái đó.

b. Biểu thức ngôn hành và phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

Theo quan sát của chúng tôi, HĐNN phủ định khác với một số HĐNN khác ở chỗ, đó là HĐNN này được thực hiện bằng cả hai loại biểu thức: BTNH tường minh và BTNH nguyên cấp. Trong BTNH trần thuật - phê phán thường sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sau:

 Sử dụng cụm ĐTNH phủ định như: không chấp nhận, không đồng tình, không ủng hộ,...(Đây là sự kết hợp giữa phụ từ phủ định "không" và các từ ngữ biểu kiến như: đồng tình, chấp nhận, ủng hộ,...). Ví dụ:

(155) Thật sự không thể chấp nhận thái độ của các ông, bà "đầy tớ" cửa quyền

đó. [NL20, tr.12]

(156) Phát biểu của ông Lê Ngọc Cường: khi đi thi, không cần phải có đông

khán giả. Tôi cực kỳ không đồng tình với cách nói đó. [NL5, tr.138]

 Sử dụng các các từ ngữ chuyên dụng cho phủ định: đâu có, có đâu, nào có, làm gì có, có ai...bao giờ (và các từ phủ định không có hoặc ít có tính lịch sự như đếch, cóc,...); kèm theo các từ ngữ đánh giá tiêu cực. Ví dụ:

(157) Nhưng kê khai tài sản hàng chục vạn vị mà chỉ có một vị bị kỷ luật và năm

vị phải giải trình thì người ngu dốt như tôi cũng đâu có tin! [NL21, tr.180]

(158) Công nhân người ta làm việc vất vả cả ngày, mồ hôi thấm đẫm giọt dài,

giọt ngắn. Thế mà mấy ông dự lễ khởi công lại đeo găng tay trắng bêu bêu mấy xẻng

cát, xem trên tivi tớ không chịu được. [NL15, tr.113]

Ở ví dụ (157), người nói dùng cụm từ "đâu có" có nội dung thể hiện sự không

tin tưởng vào việc kê khai tài sản, từ đó phê phán về việc kê khai tài sản của cán bộ,

viên chức chỉ mang tính hình thức, thiếu thực chất.

 Sử dụng các từ phủ định - bác bỏ, kết hợp với các từ phiếm chỉ "ai" và các từ

ngữ bộc lộ thái độ, đánh giá thấp nhằm biểu thị sự phê phán. Ví dụ:

(159) Cái lối áp đặt vi phạm thô bạo chủ quyền thiêng liêng dân tộc Việt Nam

của các ông nghị Hoa Kỳ không ai chấp nhận được. [NL2, tr.411]

Ở ví dụ (159), người nói kết hợp sử dụng các từ ngữ đánh giá tiêu cực như: áp đặt, vi phạm, thô bạo với từ ngữ phủ định - bác bỏ không ai chấp nhận được để phủ định và phê phán việc các ông nghị sỹ Hoa Kỳ đã cố tình áp đặt và vi phạm thô bạo

104

chủ quyền thiêng liêng dân tộc Việt Nam.

 Sử dụng các phụ từ, hoặc các từ như: rất, thật, cực kỳ, hoàn toàn... để chỉ mức

độ của sự phủ định. Ví dụ:

(160) Thật sự không thể chấp nhận thái độ của các ông, bà "đầy tớ" cửa quyền

đó. [NL20, tr.12]

(161) Việc sao chép hình thức của giải Oscar, dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều hoàn toàn không thể chấp nhận, đó là không phải cách mà một nền văn hóa tự trọng nên làm. [NL5, tr.96]

(162) Phát biểu của ông Lê Ngọc Cường: khi đi thi, không cần phải có đông

khán giả. Tôi cực kỳ không đồng tình với cách nói đó. [NL5, tr.138]

 Sử dụng biểu thức ngôn ngữ có nội dung biểu hiện sự phủ nhận - bác bỏ, người nói trực tiếp thể hiện sự phủ định như: không vừa ý, không hài lòng, không đồng

tình, không ủng hộ, không thừa nhận,... trên phát ngôn nhằm hướng tới đích phê phán.

+ NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Từ ngữ thể hiện sự phủ định

Hoặc:

+ NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Từ ngữ thể hiện sự phủ định

Ví dụ:

(163) Thật sự không thể chấp nhận thái độ của các ông, bà "đầy tớ" cửa quyền

đó. [NL20, tr.12]

(164) Việc sao chép hình thức của giải Oscar, dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều hoàn toàn không thể chấp nhận, đó là không phải cách mà một nền văn hóa tự trọng nên làm. [NL5, tr.96]

Ở ví dụ (163), ngoài việc sử dụng các từ ngữ phủ định như "không thể chấp nhận", trong NDMĐ của BTNH thể hiện sự đánh giá tiêu cực thông qua việc sử dụng từ ngữ đánh giá tiêu cực như "cửa quyền", hoặc từ "sao chép" ở ví dụ (164),

Vị trí của từ ngữ phủ định - bác bỏ cũng khá linh hoạt, chúng có thể đứng trước, đứng sau các từ ngữ đánh giá tiêu cực hoặc cũng có khi chen vào giữa phát ngôn. Chúng có thể hoán đổi vị trí cho nhau tùy thuộc vào nội dung cụ thể của phát ngôn và chiến lược giao tiếp của người nói.

 Sử dụng biểu thức ngôn ngữ có chứa các từ ngữ chỉ mức độ: rất, thật, cực kỳ,

vô cùng...

+ + Từ ngữ chỉ hành vi,

Từ ngữ chỉ mức độ (rất, thật, cực kỳ, vô cùng...)

105

Từ ngữ phủ định (không, chẳng, chả ...) + Từ ngữ bộc lộ thái độ, sự đánh giá (vừa ý, hài lòng, đồng tình, ủng hộ, chấp nhận...) đặc điểm, tính chất... của đối tượng (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(165) Thật sự không thể chấp nhận thái độ của các ông, bà "đầy tớ" cửa quyền

đó. [NL20, tr.12]

(166) Việc sao chép hình thức của giải Oscar, dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều hoàn toàn không thể chấp nhận, đó là không phải cách mà một nền văn hóa tự trọng nên làm. [NL5, tr.96]

(167) Phát biểu của ông Lê Ngọc Cường: khi đi thi, không cần phải có đông

khán giả. Tôi cực kỳ không đồng tình với cách nói đó. [NL5, tr.138]

Ở các ví dụ (165, 166, 167), BTNH có sử dụng các từ chỉ rõ mức độ của sự phủ

nhận, cũng đồng thời ngầm ẩn mức độ phê phán của phát ngôn.

Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi có thể tổng hợp khái quát cấu trúc BTNH và những phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN phủ định - phê phán như sau:

Cấu trúc BTNH phủ định - phê phán:

Từ ngữ thể hiện sự phủ định + NDMĐ (mang tính đánh giá tiêu cực)

Bảng 3.4. Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

trong 11 HĐNN phủ định - phê phán.

STT Phƣơng tiện ngôn ngữ

Tần số

Tần suất

1 5/11 0,55/1

2 1/11 0,09/1

3 12/11 1,09/1

4 2/11 0,18/1

5 4/11 0,36/1

6

27/11 9/11 2,45/1 0,82/1 7

8 4/11 0,36/1 Sử dụng cụm ĐTNH phủ định: không chấp nhận, không đồng tình,... Sử dụng các các từ ngữ chuyên dụng cho phủ định: đâu có, nào có, làm gì có,... Sử dụng từ ngữ bộc lộ thái độ, sự đánh giá (đồng tình, ủng hộ, tin, chấp nhận, chịu,...) Sử dụng các từ phủ định - bác bỏ, kết hợp với các từ phiếm chỉ "ai" và các từ ngữ bộc lộ thái độ, đánh giá thấp nhằm biểu thị sự phê phán. Sử dụng các phụ từ hoặc các từ như: rất, thật, cực kỳ, hoàn toàn...để chỉ mức độ của sự phủ định. Sử dụng từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực Sử dụng biểu thức ngôn ngữ phủ nhận thông dụng: từ ngữ thể hiện sự phủ định + từ ngữ đánh giá tiêu cực Sử dụng biểu thức ngôn ngữ có chứa các từ ngữ chỉ mức độ: thật, cực kỳ, vô cùng,...

106

Bảng thống kê trên cho thấy, trong các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng để thực hiện HĐNN phủ định - phê phán, phương tiện ngôn ngữ điển hình nhất, cũng là dấu hiệu đặc trưng nổi bật nhất để nhận diện HĐNN phủ định - phê phán đó là từ ngữ phủ định (gồm động từ/ cụm ĐTNH) 11 lượt/11 HĐNN và những từ ngữ mang tính

đánh giá tiêu cực với tần số xuất hiện khá cao: 27 lượt/ 11 HĐNN phủ định - phê phán. Như vậy trung bình trong mỗi HĐNN phủ định - phê phán có khoảng hơn 2 từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực.

c. Cơ chế xác lập đích ngôn trung

Hành động phủ định - phê phán là hành động kép, có tính đan xen về hình thức cũng như mục đích giao tiếp giữa hai HĐNN phủ định và HĐNNPP với nhau. Do vậy, để xác định đích ngôn trung của HĐNN phủ định - phê phán cần dựa vào các dấu hiệu ngôn hành của phát ngôn. Cụ thể: i) Các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN phủ định; ii) Các từ ngữ đánh giá tiêu cực; iii) Căn cứ vào NDMĐ: thể hiện sự phủ nhận về người, vật, việc, hiện tượng tiêu cực trong xã hội; iv) Dùng thao tác suy ý để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn của các HĐNN phủ định - phê phán. Ví dụ:

(168) Câu trả lời khó nhất của nhiều quan chức là: vì sao ông giàu thế Nhưng kê khai tài sản hàng chục vạn vị mà chỉ có một vị bị kỷ luật và năm vị phải giải trình thì người ngu dốt như tôi cũng đâu có tin! [NL21, tr.180]

Ở ví dụ (168), người tiếp nhận cần dùng thao tác suy ý để nhận diện đích phê phán của chủ thể phát ngôn. Chủ thể phát ngôn dùng HĐNN phủ định "đâu có tin" ngầm ẩn sự phê phán về việc kê khai tài sản còn mang nặng tính hình thức và thiếu thực chất. Hơn nữa phát ngôn còn hàm chứa một thông điệp phê phán sự không trong sạch của rất nhiều quan chức đương thời.

Như vậy, để xác định được hành động phủ định có đích ngôn trung là phê phán, người nghe cần dựa vào các từ ngữ phủ định, các từ ngữ chuyên dụng cho phủ định và NDMĐ phủ định. NDMĐ phủ định, phản ánh sự đánh giá tiêu cực thông qua các từ ngữ đánh giá tiêu cực.

d. Cường độ lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ phủ định - phê phán

Trong giao tiếp, HĐNN phủ định - phê phán là hành động tiêu cực, luôn tiềm ẩn nguy cơ đe dọa thể diện cao đối với người đối thoại. Bởi đó chính là sự bác bỏ, phủ nhận, không thừa nhận của người nói đối với người nghe. Do vậy, so với HĐNN như phàn nàn, mỉa mai việc thực hiện phê phán qua hành động phủ định có hiệu lực khá mạnh. Tùy vào đối tượng, nội dung và hoàn cảnh giao tiếp, người nói cũng cần có chiến lược giao tiếp phù hợp để đạt được hiệu quả giao tiếp cao.

3.1.2. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các nhóm hành động tái hiện (Hành động tái hiện - phê phán): Nghiên cứu trường

hợp hành động trần thuật - phê phán

107

Trong TPBC tiếng Việt, ngoài nhóm các HĐNN biểu cảm, theo kết quả khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy HĐNNPP được thực hiện gián tiếp bằng các HĐNN tái hiện khác như: trần thuật, phỏng đoán, thuyết giảng,...Nói cách khác, trong TPBC

tiếng Việt thời kì Đổi mới, có nhiều trường hợp HĐNN như trần thuật, phỏng đoán,

thuyết giảng có đích ngôn trung là HĐNNPP (xem bảng 3.1).

Trong các TPBC tiếng Việt được khảo sát, chúng tôi thống kê được 831 HĐNN thuộc nhóm HĐNN tái hiện, chiếm 72,2%. Đây là nhóm HĐNN có tần số lớn nhất trong các nhóm HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP trong TPBC. Điều này cũng có thể lý được dựa trên tính chất, đặc trưng cơ bản của báo chí. Một trong những tính chất, đặc trưng và cũng là chức năng cơ bản nhất của báo chí nói chung là chức năng thông tin, phản ánh kịp thời những sự kiện, vấn đề chính trị, xã hội mang tính thời sự đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội, có tác động lớn đến đời sống của người dân và đất nước. Về nhóm HĐNN tái hiện, có thể thấy rằng "chức năng cung cấp thông tin là chức năng điển hình của HĐNN tái hiện, tác động tới nhận thức của Sp2. Đây là điểm mấu chốt giúp nhận diện HĐNN tái hiện và khu biệt nó với các HĐNN khác" [16, tr.5]. Chúng tôi nhận thấy, có sự tương hợp giữa đặc trưng thể loại TPBC và phương tiện ngôn ngữ thể hiện nó. Vì thế có thể nói, đây chính là một trong những lý do mà HĐNN tái hiện là nhóm HĐNN có tần số xuất hiện cao nhất trong các nhóm HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu trường hợp điển hình nhất của nhóm HĐNN tái hiện đó là HĐNN trần thuật có đích ngôn trung là phê phán (HĐNN trần thuật - phê phán). Sỡ dĩ chúng tôi chọn nghiên cứu trường hợp HĐNN trần thuật - phê phán là vì HĐNN trần thuật - phê phán là hành động chiếm số lượng nhiều nhất (57,5%) trong nhóm HĐNN tái hiện và cũng là HĐNN gần gũi hơn cả với đặc trưng thể loại, chức năng của báo chí. Sau đây là những phân tích cụ thể.

a. Khái niệm

Hành động trần thuật là hành động thường sử dụng trong giao tiếp hằng ngày, nhằm thực hiện nhiều mục đích giao tiếp khác nhau. Nó có thể được sử dụng đúng với mục đích trần thuật, song cũng có thể nó được dùng để thực hiện nhiều mục đích khác thông qua việc gián tiếp thực hiện một HĐNN nào đó.

Theo quan sát của chúng tôi, trên thực tế giao tiếp hằng này thuộc nhóm HĐNN trần thuật có các hành động nói năng như: trình bày, tường trình, thông tin, kể, thuật, trần thuật, tường thuật,... Chúng tôi lấy HĐNN trần thuật làm đại diện để gọi tên chung cho cả tiểu nhóm HĐNN này. Theo Từ điển tiếng Việt (năm 2010) giải thích về các hành động nêu trên như sau:

- Trình bày: "Nói ra một cách rõ ràng và đầy đủ cho người khác hiểu rõ . Trình

bày nguyện vọng. Trình bày bản báo cáo." [145, tr.1325].

- Tường trình: "Trình bày, báo cáo lại đầy đủ, rõ ràng một vấn đề nào đó trước

cấp trên hoặc trước tổ chức. Bản tường trình trước quốc hội." [145, tr.1382].

- Kể: "Nói có đầu, có đuôi cho người khác biết. Kể những điều mắt thấy tai

108

nghe. Kể chuyện đời xưa." [145, tr.627].

- Tả: "Diễn đạt bằng ngôn ngữ cho người khác có thể hình dung ra được một

cách rõ nét. Tả lại cuộc đi chơi. Tả người. Tả cảnh." [145, tr.1129].

- Miêu tả: "Dùng ngôn ngữ hoặc phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người. Tác phẩm miêu tả con người mới. Cuốn phim miêu tả cánh đồng quê." [145, tr.814].

- Mô tả: "Như miêu tả". [145, tr.822].

- Tái hiện: "Thể hiện lại hiện thực một cách chân thực, bằng sáng tạo nghệ

thuật" [145, tr.1133].

- Báo: "Cho biết việc gì đó đã xảy ra. Báo tin. Giấy báo có bưu phẩm". [145, tr.64].

- Báo cáo: "Trình bày cho biết tình hình sự việc. Báo cáo công tác lên cấp trên.

Báo cáo tình hình sản xuất." [145, tr.65].

- Thông báo: "Báo cho mọi người biết tình hình, tin tức bằng lời nói hoặc văn bản. Thông báo tình hình thực hiện kế hoạch. Thông báo kết quả nghiên cứu. Thông báo giờ tàu." [145, tr.1218].

- Thông tin: "Truyền tin cho nhau để biết. Thông tin bằng điện thoại. Buổi

thông tin khoa học".[145, tr.1220].

- Thuật: "Nói, viết lại câu chuyện, sự việc nào đó một cách tỉ mỉ, tường tận theo đúng như trình tự xảy ra. Thuật lại trận đấu bóng; Thuật lại những ý kiến tại hội nghị." [145, tr.1231].

- Tường thuật: "Kể lại rõ ràng, tường tận. Bài tường thuật buổi lễ. Phát thanh

tường thuật trận đá bóng." [145, tr.1325].

- Trần thuật: "Kể lại, thuật lại một câu chuyện hoặc sự việc với các chi tiết và

diễn biến của nó. Văn trần thuật." [145, tr.1316].

Như vậy, theo quan sát của chúng tôi, đặc điểm chung của tất cả những hành

động nói năng nêu trên là trình bày lại sự tình nào đó về người, sự vật, sự việc, hiện

tượng cho người khác biết. HĐNN trần thuật và HĐNNPP khác nhau là ở chỗ:

HĐNN trần thuật là hành động tái hiện để cung cấp thông tin về người, hoặc sự vật, sự việc, hiện tượng, còn HĐNNPP là HĐNN bộc lộ quan điểm, thái độ, đánh giá về người, hoặc sự vật, sự việc, hiện tượng. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều trường hợp dùng HĐNN trần thuật (thuộc nhóm HĐNN tái hiện) để bày tỏ thái độ, quan điểm, sự đánh giá; nghĩa là trần thuật nhằm hướng đến mục đích phê phán.

109

Phê phán bằng HĐNN trần thuật hay HĐNN trần thuật - phê phán là hành động người nói trần thuật lại về người, sự vật, sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực nào đó đang tồn tại trong cuộc sống, gây ra những hậu quả xấu, làm ảnh hưởng không tốt đến cộng đồng xã hội, trong đó có người trần thuật. Nghĩa là HĐNN trần thuật thông

qua việc cung cấp thông tin về người, sự vật, sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực nhằm bộc lộ quan điểm, thái độ, đánh giá. Từ đó, người nói thực hiện mục đích phê phán về người, sự vật, sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực với mong muốn có sự

đồng tình của mọi người, đồng thời mong muốn đối tượng bị trần thuật - phê phán có

sự điều chỉnh, thay đổi theo hướng tích cực.

Trong các TPBC tiếng Việt được khảo sát, chúng tôi thống kê được 661 HĐNN trần thuật - phê phán, chiếm 57,5%. Đây là HĐNN có tần số lớn nhất không chỉ với

nhóm HĐNN tái hiện mà còn là lớn nhất trong số các nhóm HĐNN được sử dụng để

gián tiếp thực hiện HĐNNPP. (Xem bảng 3.1). Ví dụ:

(169) Khi tiếp xúc với dân thì mặt lạnh tanh "không có nụ cười". Khi người dân chưa thông suốt muốn trình bày thì không lắng nghe, cũng "không giải thích". Khi trao

đổi với dân kể cả người lớn tuổi thì ăn nói chỏng lỏn, nói "không chủ ngữ". [NL20, tr.12]

Trong ví dụ (169), phát ngôn đề cập tới việc ứng xử của cán bộ, viên chức nhà

nước với người dân, với các biểu hiện tiêu cực, thiếu lành mạnh như: "mặt lạnh tanh

không có nụ cười, không lắng nghe, không giải thích, ăn nói chỏng lỏn, nói không

chủ ngữ". Từ đó phát ngôn phê phán tình trạng hách dịch, cửa quyền của cán bộ, viên

chức nhà nước.

b. Biểu thức ngôn hành và phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

Theo kết quả khảo sát, HĐNN trần thuật - phê phán trong các TPBC được khảo sát không sử dụng ĐTNH để thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là HĐNN trần thuật -

phê phán được thực hiện thông qua BTNH nguyên cấp. Trong BTNH trần thuật - phê

phán thường sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sau đây:

 Sử dụng các từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực.

Theo quan sát của chúng tôi, trên TPBC việc lựa chọn các đặc điểm, sự kiện, vấn đề để trần thuật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện mục đích phê phán. Bản thân những từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực đã hàm chứa ý nghĩa phê phán. Theo Đỗ Hữu Châu: "có những nội dung miêu tả tự nó đã có giá trị lập luận hướng về một kết luận tốt hoặc xấu, không cần chỉ dẫn lập luận bổ sung để làm rõ giá trị lập luận của chúng ta..."[12,tr.172]. Về những phát ngôn như vậy, O. Ducrot cho rằng: "ý nghĩa, giá trị đích thực của nội dung miêu tả là giá trị lập luận của nó. Nghĩa là giá trị đích thực của nó là nó được nói, viết ra là nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến một kết luận nào đó". (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [12, tr.172]). Ví dụ:

110

(170) Khi tiếp xúc với dân thì mặt lạnh tanh "không có nụ cười". Khi người dân chưa thông suốt muốn trình bày thì không lắng nghe, cũng "không giải thích". Khi trao đổi với dân kể cả người lớn tuổi thì ăn nói chỏng lỏn, nói "không chủ ngữ". [NL20, tr.12]

(171) Cơ sở thì nghèo nhưng ở đây chi tiêu vô tội vạ... Rồi tiệc tùng tấp nập.

[NL12, tr.197]

Theo quan sát của chúng tôi, ngoài việc sử dụng các phát ngôn chứa từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực trên TPBC còn sử dụng các câu thành ngữ có sắc thái âm tính, nhằm diễn đạt ngắn gọn, chính xác điều muốn nói, làm cho lời tường thuật trở nên rõ ràng hơn đồng thời hướng tới mục đích phê phán. Ví dụ:

(172) Bên cạnh đông đảo cá nhân và tập thể đã tận dụng và phát huy cơ hội mới, lao động sáng tạo để làm giàu cho chính mình và xã hội thì vẫn còn một số người coi đây là thời cơ "đục nước béo cò" làm ăn bất chính. [NL2, tr.294]

(173) Chưa hẳn đã thua, nhưng ta có "truyền thống":"cha chung không ai khóc", "mạnh ai nấy được", "nhanh chân thì thắng, hoặc "trâu chậm uống nước đục" mà. [NL11, tr.162]

 Sử dụng các phụ từ như: đã, đang, còn, vẫn, mới, cứ, vẫn cứ, vẫn còn,...có tác dụng chỉ báo, đánh dấu về sự tiếp diễn của hành vi, đặc điểm, tính chất... của đối tượng trần thuật - phê phán. Ví dụ:

(174) Nạn cá độ, dàn xếp tỷ số đã làm mất đi vẻ đẹp, sự công minh và tài năng

thể thao. [NL2, tr.144]

(175) Bệnh lạm quyền, cửa quyền đang nhũng nhiễu dân lành, đục khoét của

(176) Thế mới biết chính sách nhà đất của ta còn lùng tùng xòe, cái nọ giẫm

công. [NL17, tr.35]

(177) Hà Nội vẫn là Hà Nội thôi! Nghĩa là vẫn thâm trầm, vẫn sâu sắc, và

chân lên cái kia, chỉ béo cò, thiệt dân. [NL11, tr.81]

vẫn... kẹt xe. [NL5, tr.19]

 Sử dụng các phụ từ phủ định để khẳng định về hành vi, đặc điểm, tính chất...

tiêu cực của đối tượng trần thuật. Ví dụ:

(178) Khi tiếp xúc với dân thì mặt lạnh tanh "không có nụ cười". Khi người dân chưa thông suốt muốn trình bày thì không lắng nghe, cũng "không giải thích". Khi trao đổi với dân kể cả người lớn tuổi thì ăn nói chỏng lỏn, nói "không chủ ngữ". [NL20, tr.12]

 Sử dụng các từ ngữ có tác dụng bổ sung thông tin về hành vi, đặc điểm, tính chất...tiêu cực của đối tượng được trần thuật: vả lại, hơn nữa, bên cạnh đó, còn, lại,...Ví dụ:

111

(179) Bên cạnh đó, sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa công an khu vực, chính quyền cơ sở cũng gây khó khăn cho các chiến sĩ cảnh sát khi làm nhiệm vụ. [NL2, tr.212]

(180) Có điều là người nghiên cứu hoặc người đội danh "nghiên cứu" về lại không trực tiếp làm, trong khi đó người làm lại không được đi "nghiên cứu" [NL17, tr.84]

 Sử dụng các phụ từ tình thái: rồi, ấy, đấy, lắm,...có khả năng làm tăng sắc thái khẳng định hoặc phủ định về hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tượng trần thuật - phê phán. Ví dụ:

(181) Cơ sở thì nghèo nhưng ở đây chi tiêu vô tội vạ... Rồi tiệc tùng tấp nập.

[NL12, tr.197]

(182) Chúng ta đã đào tạo được một lớp con nghiện karaôkê đông đúc. Nghiện

rồi khó cai lắm, cứ trông thuốc phiện thì rõ. [NL11,tr.43]

 Sử dụng các phụ từ chỉ mức độ và cụm từ tình thái như: rất, thật, vô cùng... chỉ rõ mức độ của hành vi, đặc điểm, tính chất,... của đối tượng được trần thuật. Ví dụ:

(183) Con người của anh thật mâu thuẫn, nhưng có thể hiểu được, vì xét cho

cùng anh cũng chỉ yêu có một mình anh. [NL12, tr.144]

(184) Và điều kỳ quái nhất, đã là khoa học thì phải chính xác, thậm chí chính xác đến từng xu, nhưng đầu tiên các ông hô lên hai trăm tỷ, bây giờ rút xuống còn một trăm tỷ, vô cùng tùy tiện, vô cùng cẩu thả, chả coi tiền bạc Nhà nước ra cái đinh gì! [NL12, tr.169]

- Sử dụng các từ ngữ như: nhất là, đặc biệt là,...có tác dụng nhấn mạnh vào hành

vi, đặc điểm, tính chất nào đó của đối tượng được trần thuật. Ví dụ:

(185) Nghĩa là với một số người danh dự quốc gia không là sự quan tâm đầu tiên và thiêng liêng đối với các đôi chân kiếm tiền vì đối với họ làm giàu mới là mục tiêu đầu tiên. Thế cũng chẳng đáng suy nghĩ lắm sao, nhất là ở thời buổi thực dụng lên ngôi này, không chỉ trong bóng đá. [NL2, tr.61]

(186) Có một thực tế là những tệ nạn trên đã làm "ốm o, gày mòn" cả về thể

chất lẫn tinh thần một bộ phận thanh niên, đặc biệt là con em nhà giàu. [NL2, tr.332]

 Sử dụng các từ có tác dụng giải thích như: là, nghĩa là, tức là, có nghĩa là,

như thế là, thế là... nhằm thể hiện rõ ràng hơn những vấn đề được trần thuật. Ví dụ:

(187) Thì chính những tội phạm chẳng khai là hắn đọc báo, xem phim mà cầm dao chém bố khi bố ngăn cản thú ăn chơi bừa bãi của hắn. Rồi có tên dám cầm dao chém chết người chỉ vì cho anh ta nhìn mình "có vẻ thách thức". Nghĩa là từ giết chết tâm hồn tới cổ vũ hành vi giết người từ những mâu thuẫn nhỏ. [NL21, tr.157]

(188) Cho nên cãi trở thành cãi chày cãi cối tức là cãi bừa bãi, không cần lý lẽ.

112

[NL16, tr.174]

 Sử dụng các từ quan hệ, liên từ: thứ nhất là...,thứ hai là..., một là..., hai là...,

trước hết, cuối cùng, rút cuộc,... nhằm thể hiện rõ ràng vấn đề trần thuật. Ví dụ:

(189) Nhưng nói cho cùng thì không phải đa số "các cụ ở dưới" đều hư hỏng. Tuy nhiên, để cho một số cán bộ cơ sở hư hỏng bớt xén, ăn cắp của dân, ức hiếp dân thì còn có trách nhiệm của "các cụ ở trên" trước hết là trách nhiệm cất nhắc, kiểm tra "các cụ dưới", rồi cũng có thể nói chắc chắn rằng, sự hư hỏng đâu chỉ có "các cụ ở dưới". [NL20, tr.214]

(190) Nhưng cuối cùng sếp vẫn mua xe, còn cậu kĩ sư lưng thẳng kia "bay" đi

chơi chỗ khác. [NL10, tr.28]

(191) Chính phủ nói còn nợ một số nghị định, thông tư thi hành luật;...nhiều Bộ cũng nợ Chính phủ các dự thảo. Chưa có nghị định thì nhiều điều khoản trong luật, thậm chí cả bộ luật không thể thực hiện. Rút cuộc là Quốc hội nợ nhân dân vì nhiều luật chưa vào cuộc sống. Thế là trì trệ. [NL20, tr.228]

Khảo sát các HĐNNPP gián tiếp, chúng tôi nhận thấy có một số cấu trúc sau thường được sử dụng trong BTNHPP để gia tăng hoặc giảm bớt hiệu lực phê phán của phát ngôn nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích phê phán.

* Cấu trúc tương phản (trái ngược, đối lập)

Cấu trúc tương phản có nội dung thể hiện sự đối lập, trái ngược nhằm bộc lộ sự

bất hợp lý, không phù hợp của hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tượng được trần

thuật - phê phán. Dạng biểu thức ngôn ngữ này có thể dùng hoặc không dùng các cặp

quan hệ từ biểu hệ quan hệ trái ngược.

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng cặp quan hệ từ biểu thị quan hệ tương phản giữa hai

vế của phát ngôn, như: tuy... nhưng; mặc dù ...nhưng,...

+ NDMĐ (A) + Nhưng/ + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) Tuy/ mặc dù song

Ví dụ:

(192) Ở một chợ lớn mới khai trương: một luật rừng được thực hiện: người có cửa hàng đều được phục vụ mang vác hàng tới sạp hoặc thu dọn hàng về, mặc dù chủ sạp có thừa lao động, nhưng vẫn phải nghiến răng nhận sự "phục vụ" với giá cắt cổ; nếu không thì rất lắm chuyện sẽ xảy ra. [NL17, tr.71]

(193) Đây đó, tuy không phổ biến nhưng cũng có hiện tượng người đủ đức đủ

tài, có bằng cấp thật, phù hợp với chức danh nhưng anh ta thiếu cái bằng...lòng nên được xếp vào một chỗ ảo, làm việc vặt và thậm chí không có cái ghế chính thức mà

113

ngồi như thế gọi là "đặt đấy ngồi đâu". [NL10, tr.281]

 Dạng 2: Cấu trúc không dùng cặp quan hệ từ trái ngược. Đối với các BTNH không dùng cặp quan hệ từ thì trong NDMĐ chứa các từ ngữ có ý nghĩa trái ngược,

đối lập nhau. Ví dụ:

(194) Ở nước mình cán bộ tốt cũng nhiều, cán bộ lơtơmơ cũng không ít. [NL11,

tr.30]

(195) Thì ra từ nãy đến giờ ông đang ám chỉ một số chân dài mà tầm trí tuệ rất

ngắn của các cuộc thi người đẹp. Đẹp cái vỏ bề ngoài như thế thì không đáng tôn

trọng, tung hô. [NL21, tr.159]

 Dạng 3: Cấu trúc sử dụng cặp từ: bên cạnh...có..., bên cạnh...còn..., bên cạnh...vẫn còn... Sự trái ngược, đối lập được biểu hiện ở sự trái ngược, đối lập của hai NDMĐ: mệnh đề thứ nhất đánh giá tích cực, mệnh đề thứ hai đánh giá tiêu cực. Sự đối lập, trái ngược ấy trong phát ngôn bộc lộ rõ sự bất hợp lý, không phù hợp nào đó

của đối tượng được đề cập. Từ đó người nói hướng tới đích phê phán của phát ngôn.

+ + Bên cạnh + Có/ còn/ vẫn còn/ ... A (Hành vi, đặc điểm, tính chất,... của đối tượng Y) B (Hành vi, đặc điểm, tính chất,... tiêu cực của đối tượng Y)

Ví dụ:

(197) Bên cạnh đông đảo cá nhân và tập thể đã tận dụng và phát huy cơ hội mới, lao động sáng tạo để làm giàu cho chính mình và xã hội thì vẫn còn một số người coi đây là thời cơ "đục nước béo cò" làm ăn bất chính. [NL2, tr.294)

(196) Bên cạnh những mặt tốt, lĩnh vực giáo dục đang có nhiều bất cập; việc thực hiện giáo dục còn khoảng cách so với yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước. [NL2, tr.120]

Ở phát ngôn trong ví dụ (196) trên, bằng việc nêu ra nội dung có sự đối lập, trái ngược giữa các từ ngữ như: tốt và bất cập, còn khoảng cách, người nói dẫn dắt người đọc đến đích phê phán về những bất cập, hạn chế của ngành Giáo dục. Ở ví dụ (197) nội dung phát ngôn có sự đối lập, trái ngược giữa các từ ngữ: phát huy, lao động sáng tạo và "đục nước béo cò", bất chính người nói muốn dẫn dắt người đọc đến đích phê phán về hiện tượng một bộ phận người trong xã hội có lối sống cơ hội, ích kỷ.

 Dạng 4: Cấu trúc sử dụng từ: mà, thế mà...

A mà/ thế mà... B (Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực của Y)

Hoặc:

114

+ Mà/ thế mà + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) NDMĐ (A)

Ví dụ:

(198) Bây giờ, nghe có lệnh không được lấy tiền công để mở tiệc chiêu đãi lu bù

thế mà họ vẫn mở đại tiệc lu bù có rượu ngoại và thức ăn sang trọng đầy bàn rồi nói "Xin

mời các vị dự bữa cơm đoàn kết" thế là tránh được từ "tiệc" bị cấm. [NL21, tr.135]

(199) Công nhân người ta làm việc vất vả cả ngày, mồ hôi thẫm đẫm giọt dài,

giọt ngắn. Thế mà mấy ông dự lễ khởi công lại đeo găng tay trắng bêu bêu mấy xẻng

cát, xem trên tivi tớ không chịu được. [NL15, tr.113]

 Dạng 5: Cấu trúc sử dụng từ: trong khi đó

+ + NDMĐ (A) (Mang tính đánh giá tiêu cực) NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) Trong khi đó

Ví dụ:

(200) Có điều là người nghiên cứu hoặc người đội danh "nghiên cứu" về lại

không trực tiếp làm, trong khi đó người làm lại không được đi "nghiên cứu".[NL17,

tr.84]

 Dạng 6: Cấu trúc sử dụng từ ngữ biểu thị trái ngược giữa phủ định và khẳng định

+ NDMĐ + Có/ + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) Không có / chẳng có/ chả có/... (A) chỉ có

Hoặc:

+ NDMĐ + Không có / + Có/ chỉ có/ chỉ là... (A) NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) chẳng có/ chả có...

Ví dụ:

(201) Vừa mênh mông vừa mung lung! Kiến thức thì chẳng có gì mới hơn thiên

hạ, chỉ có cơ chế rối lung tung xòa. [NL11, tr.35]

(202) Các dự án thì to tát thế, nhưng không có sự nghiên cứu chi li, không có sự kiên kết đồng bộ, mà chỉ có tính chất "giật gấu vá vai" thì nước đầy đủ làm sao

được! [NL4, tr.191]

(203) Từ khi nhà nó có nhiều tiền, gia đình lại không quan tâm giáo dục con cái

thành ra để nó hư hỏng" [NL20, tr.176]

* Cấu trúc tăng tiến – nhấn mạnh sự tiêu cực

Biểu thức ngôn ngữ thể hiện sự tương đương, diễn ra đồng thời hoặc biểu thị

115

quan hệ tăng tiến, nhấn mạnh về đối tượng được trần thuật, gồm các dạng sau:

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng cặp quan hệ từ, như: không những...mà còn...; chẳng những...mà còn...,không chỉ... mà còn nhằm nhấn mạnh hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực nào đó của đối tượng được trần thuật.

+ NDMĐ (A) + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá (Mang tính đánh giá tiêu cực) tiêu cực) Không những/ chẳng những + Mà còn/ còn

Hoặc:

+ + Không chỉ...

A (Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của đối tương Y) B (Hành vi, đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai, (thứ ba) của đối tương Y) + Mà còn/ còn/ lại còn...

Ví dụ:

(204) Cho nên "con voi" đó không chỉ ăn khỏe, mà còn "ăn tàn, phá hại" như bà con nông dân ta thường nói về những người ăn chơi, phung phí của cha, của mẹ. [NL12, tr.169]

(205) Cũng không chỉ chuyện vứt rác ngoài đường, lại còn nhổ bậy, đứng trên

gác cao nhỏ xuống tầng dưới. [NL15, tr.228]

 Dạng 2: Cấu trúc sử dụng các cụm từ: không ... lại/ lại còn

+ NDMĐ (A) + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá (Mang tính đánh giá Đã/ Không tiêu cực) tiêu cực) + Còn/ Lại/ còn

Ví dụ:

(206) Không thấy cắm đất cho khu vui chơi giải trí, lại còn cắt lẹm vào quỹ đất

quy hoạch cho khu văn hóa. [NL13, tr.335]

(207) Nhưng xem trong việc làm thì họ lại chẳng ngó ngàng gì tới đất nước mà

lại còn cấu véo của đất nước cho riêng mình, lao vào buôn lậu, trốn thuế, bán đất...

[NL12, tr.195]

* Cấu trúc nhân quả, điều kiện – hệ quả

Sử dụng các BTNH thể hiện rõ quan hệ điều kiện/ nguyên nhân kết quả của đối tượng được trần thuật, như: vì...nên, bởi...nên, vì...cho nên..., do...nên..., tại...nên ..., vì...mà..., ...

+ +

Vì /do/ tại/ bởi/...

A (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của đối tương Y) B (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai (thứ ba) của đối tương Y) + Nên/ cho nên/ mà

116

.

Ví dụ:

(207) Vì không có câu trả lời chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, về cơ quan nào. Rồi rất hiếm vị tự nhận lỗi, cho nên nhiều câu trả lời đưa ra nhiều tư liệu, số liệu chỉ nhằm mục đích tự bào chữa, cho nên chưa thỏa mãn. [NL20, tr.59]

(208) Vì lợi ích trước mắt mà họ quên đi cái lợi ích lâu dài "Cha ăn mặn, con

khát nước". [NL2, tr.212]

* Cấu trúc so sánh, ví von

Theo quan sát của chúng tôi, BTNH so sánh, ví von trên HĐNN trần thuật – phê phán nhằm biểu thị một cách rõ ràng, rành mạch và làm nổi bật một đặc điểm nào đó về hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tượng được trần thuật:

+ +

Đối tƣợng so sánh (Đối tượng được trần thuật - Mang tính đánh giá tiêu cực) Từ ngữ so sánh (như, ví như, tựa như, bằng, giống, chẳng khác gì...) Đối tƣợng đƣợc so sánh (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(209) Có người nói: ổ mối như bệnh tham nhũng, lãng phí trong cơ thể xã hội đang đục khoét về vật chất, làm mục ruỗng nhân cách và nguy hiểm hơn là làm suy giảm niềm tin và diệt trừ nó cũng phải như cách diệt trừ ổ mối, nghĩa là phải tìm cách bắt diệt được mối Chúa. [NL20, tr.216]

(210) Thật ra không có chuyện cướp không, cướp trắng, chỉ đền bù với giá rẻ mạt, sau khi làm một số công trình kết cấu hạ tầng rồi rao bán giá trên trời gấp mấy chục lần giá đền bù cho nông dân, do đó "như ăn cướp". [NL21, tr.46]

Ở ví dụ (209) nêu trên, phát ngôn so sánh "bệnh tham nhũng" như "ổ mối trong cơ thể xã hội". Cơ sở của sự so sánh này đó là điểm tương đồng giữa hai đối tượng "bệnh tham nhũng" và "ổ mối" đó là sự nguy hiểm của việc đục khoét, làm mục ruỗng, hư hỏng mọi thứ. Từ sự nhận thức về sự nguy hiểm của ổ mối trong cuộc sống hằng ngày, người nghe sẽ nhận thức được rõ hơn tác hại, sự nguy hiểm của bệnh tham nhũng đối với xã hội, quốc gia. Tương tự như vậy, ở ví dụ (210) phát ngôn so sánh việc đền bù tiền đất với giá rẻ mạt thì "như ăn cướp".

* Cấu trúc liệt kê

Sử dụng biểu thức ngôn ngữ có tính liệt kê cụ thể hóa theo thứ tự sự kiện, vấn đề của đối tượng được trần thuật.

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng các từ: một là...hai là...ba là; thứ nhất là..., thứ hai là..., thứ ba là,..., ...

+

+

+

+ Thứ ba là/ ba là

+ Thứ hai là/ hai là

+ Thứ nhất là/ một là

NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

117

A (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của đối tương Y) B (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai của đối tương Y) C (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ ba của đối tương Y)

Ví dụ:

(211) "Nhảy" khi "nước đến chân hoặc đến ngang lưng" với họ có nhiều điều có thể lợi dụng: Thứ nhất là để giải ngân và bổ sung kinh phí "cho kịp thời gian", còn các công trình khác thì phải xếp hàng hết ngày dài lại đêm thâu; Thứ hai là dễ được nghiệm thu vì "bới móc" ta thì không kịp thời gian, có khi bị vạ lây "làm cản trở tiến độ chào mừng"; Thứ ba là dễ tăng chi phí cho "làm ngày làm đêm", trong đó có phần của người quản lý. Họ thích "nước đến chân mới nhảy" là vì lẽ đó. [NL20, tr.37]

 Dạng 2. Cấu trúc sử dụng các cụm từ: nào là..., nào là....

+

+

+

+ Nào là

+ Nào là

+ Nào là

NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

A (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ nhất của đối tương Y)

B (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ hai của đối tương Y) C (Hành vi đặc điểm, tính chất tiêu cực thứ ba của đối tương Y)

Ví dụ:

(212) Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Các nhà báo nhà mình nhiều khi cũng

"quá lắm": nào là chen đẩy, xô lấn nhau; nào là tự ý đi vào những khu vực nguy

hiểm...; nào là phỏng vấn người có trách nhiệm, kể cả cán bộ cao cấp như kiểu hỏi

cung, không thể hiện sự tôn trọng, lịch sự cần có; nào là đưa thông tin nhiều khi

không chính xác, suy diễn đến mức so với thực chất của sự việc, gây bức xúc trong dư

luận xã hội,... [NL3, tr.133]

 Dạng 3. Cấu trúc sử dụng các từ: trước hết là, trước tiên là,... hoặc cuối cùng,

sau cùng là, tóm lại là, như vậy, rút cuộc, vậy là, ...

Trước hết là/ Cuối cùng là + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(213) Nhưng nói cho cùng thì không phải đa số "các cụ ở dưới" đều hư hỏng. Tuy nhiên, để cho một số cán bộ cơ sở hư hỏng bớt xén, ăn cắp của dân, ức hiếp dân thì còn có trách nhiệm của "các cụ ở trên" trước hết là trách nhiệm cất nhắc, kiểm tra "các cụ dưới", rồi cũng có thể nói chắc chắn rằng, sự hư hỏng đâu chỉ có "các cụ ở dưới". [NL20, tr.214]

(214) Nhưng cuối cùng sếp vẫn mua xe, còn cậu kĩ sư lưng thẳng kia "bay" đi

chơi chỗ khác. [NL10, tr.28]

118

(215) Chính phủ nói còn nợ một số nghị định, thông tư thi hành luật;...nhiều Bộ cũng nợ Chính phủ các dự thảo. Chưa có nghị định thì nhiều điều khoản trong luật, thậm chí cả bộ luật không thể thực hiện. Rút cuộc là Quốc hội nợ nhân dân vì nhiều luật chưa vào cuộc sống. Thế là trì trệ. [NL20, tr.228]

 Dạng 4. Cấu trúc bổ sung thông tin tiêu cực, sử dụng từ: chưa kể

Chưa kể + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(216) Có khi bắt đầu chỉ là điều rất nhỏ nhặt như ăn bát phở, hút điếu thuốc, uống tách cà phê không mất tiền, làm sinh ra nể nang, làm nhờn phép nước, đó là chưa kể những chuyện to hơn như bán hè, bán cả đường để...gây quỹ! [NL12, tr.226)

* Cấu trúc phủ định

 Dạng 1. Cấu trúc phủ định, kết hợp với giải thích lý do

+ + NDMĐ +

(A)

NDMĐ (AB) (Mang tính đánh giá tiêu cực) NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) Cụm từ phủ định: Không phải là/ không phải vì/ đâu có phải,... + Cụm từ giải thích: mà là/ mà do/ mà vì,..

Ví dụ:

(217) Cái bệnh tham tiền thì một nghìn cũng tham, một trăm nghìn cũng thèm,

một đồng cũng không từ cho nên mới sinh lú lẫn. Không phải là lú lẫn tính toán thiệt

hơn mà là lú lẫn trong việc tìm đường ngay lối thẳng mà đi, cho nên bán lương tâm

cho dù với giá cao vời vợi thì cũng là quá rẻ. [NL16,tr.166]

(218) Cho nên hay "cãi chày, cãi cối" không phải vì họ không biết tranh luận,

mà do cái bệnh hiếu thắng, kiêu ngạo, cho rằng chỉ có mình đúng. [NL16, tr.174]

 Dạng 2: Cấu trúc dùng các từ ngữ bộc lộ trực tiếp thái độ phủ nhận

Cụm từ biểu thị sự phủ định: + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

(không đồng tình, không nhất trí, không ủng hộ, không bằng lòng,...)

Hoặc:

+ Cụm từ biểu thị sự phủ định: NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) (không đồng tình, không nhất trí, không ủng hộ, không bằng lòng,...)

Ví dụ:

(219) Họ không bằng lòng với một số người ở nước ta sống ích kỷ, phè phỡn

mà đến Tây cũng phải "ngả nón chào thua" [NL12, tr.153]

119

(220) Có bài văn đọc trước mộ Tổ ở Đền Hùng nói thân phận "nghèo hèn" của dân tộc. Nghe có người không đồng tình...dân tộc ta trong lịch sử thì nghèo ai cũng

thấy rõ nhưng không bao giờ hèn, nghèo thì khổ, thì khó nhưng nghèo không nhất

thiết hèn. [NL21, tr.107]

* Cấu trúc khẳng định sự tiêu cực

Biểu thức ngôn ngữ khẳng định sự tồn tại của đối tượng trần thuật.

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng các từ: có, còn có.

+ NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Có/ còn có

Ví dụ:

(221) Có một thực tế là những tệ nạn trên đã làm "ốm o, gày mòn" cả về thể chất lẫn tinh thần một bộ phận thanh niên, đặc biệt là con em nhà giàu. [NL2, tr.332]

(222) Còn có tình trạng ở một số nơi chính quyền khoán trắng cho công an, văn hóa và coi các hoạt động này là một phần nguồn thu bất chấp dư luận xã hội, quy định của pháp luật nhà nước. [NL2, tr.332]

 Dạng 2. Cấu trúc sử dụng các từ ngữ thể hiện tăng cường mức độ tin cậy của việc khẳng định của thông tin được trần thuật: chắc chắn, chắc chắn rằng, rõ ràng...

+ Các từ ngữ tăng cƣờng sự khẳng định: (chắc chắn, chắc chắn là, tin chắc rằng, rõ ràng,...) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(223) Chắc chắn. Nếu như ở nhiều quốc gia cứ hễ vi phạm Luật Giao thông thì

phải nộp phạt, thậm chí phải ở tù thì ở ta cứ hễ vi phạm là...năn nỉ. [NL5, tr.8]

(224) Rõ ràng phim "Lý Công Uẩn – đường tới thành Thăng Long" chưa làm được điều đó. Nó cho người xem cảm giác là chúng ta quá phụ thuộc vào nước ngoài, quá giống họ. Cảm giác ấy không thể chấp nhận được. Chính cha ông chúng ta còn viết trong sử sách: "Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác" [NL5, tr.46]

* Cấu trúc thể hiện thời gian, địa điểm

Trong TPBC, nội dung phát ngôn chứa HĐNN trần thuật – phê phán cũng chỉ rõ thời gian, địa điểm xảy ra hành vi, sự kiện nhằm tường minh hóa vấn đề được trần thuật, tăng độ tin cậy của thông tin, từ đó tăng sức thuyết phục đối với người tiếp nhận.

 Cấu trúc biểu thị thời gian

+ Dạng 1. Cấu trúc sử dụng các liên từ: khi... thì..., lúc... thì...

+ + Thì + NDMĐ (B) (Mang tính đánh giá tiêu cực) NDMĐ (A) Khi/ Lúc/

120

.

Ví dụ:

(225) Khi tiếp xúc với dân thì mặt lạnh tanh "không có nụ cười". Khi người dân chưa thông suốt muốn trình bày thì không lắng nghe, cũng "không giải thích". Khi trao đổi với dân kể cả người lớn tuổi thì ăn nói chỏng lỏn, nói "không chủ ngữ". [NL20, tr.12]

(226) Trong khi mọi thứ lên cao thì...lương lại rất thấp...rất thấp...[NL22,

tr.89]

+ Dạng 2. Cấu trúc sử dụng các từ ngữ chỉ thời gian: bây giờ, hiện nay, thời buổi này, hiện tại,...nêu rõ thời gian của hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tượng

được trần thuật.

Từ ngữ chỉ thời gian + (bây giờ, hiện nay, thời buổi này, hiện tại...) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(227) Trước đây ta nói "bàn tay vàng" để chỉ những người bác sỹ, y sỹ tận tụy

với nghề, hết lòng vì người bệnh, giữ cho mẹ lành, con khỏe. Bây giờ thì chuyện đó

hiếm lắm, cái gì cũng tiền...[NL13, tr.282]

(228) Tham nhũng hiện nay tinh vi hơn, nhiều thủ đoạn vẫn bị phanh phui ở

nhiều lĩnh vực, nhiều ngành. Ngay cả những sân chơi lành mạnh như thể thao cũng

xảy ra tiêu cực, tham nhũng,...[NL2, tr.324]

Theo quan sát của chúng tôi, nội dung của các phát ngôn chứa HĐNN trần thuật

- phê phán, khi đề cập đến thời gian, chủ yếu là thời gian đương đại: bây giờ, thời

buổi này, hiện nay, giờ đây...Đây là một trong những dấu hiệu quan trọng thể hiện

TPBC luôn thông tin kịp thời về những vấn đề của đời sống xã hội hiện tại, đang diễn

ra từng ngày, từng giờ.

 Cấu trúc biểu thị địa điểm

Từ ngữ + chỉ địa điểm/ địa danh NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(229) Ở ta vẫn nhan nhản những cây tre hạ ngang đường để "thu" phí như một

thứ "mãi lộ". [NL13, tr.308]

(230) Ở Washington, ngày khai trường có cuộc biểu tình hoành tráng của hàng

vạn các ông bố từ khắp nơi kéo đến mang cờ biển, hò hét trên đường phố để cổ vũ và

chào mừng bọn nhóc đến trường. Đấy anh xem, ở xứ mình mỗi mùa khai trường, cha

121

mẹ chạy toát mồ hôi để xin học cho con bằng mọi giá. [NL21, tr.361]

* Cấu trúc thuật lại lời của Sp3

Biểu thức ngôn ngữ trần thuật lại lời của người ngôi thứ ba (Sp3) thể hiện khách

quan hóa lời trần thuật của người nói (Sp1)

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng đại từ chỉ ngôi thứ ba/ từ chỉ người

+ Đại từ ngôi thứ ba/ +

từ chỉ ngƣời (số ít/ số nhiều): ông ấy, anh ấy, họ, người ta, ... Động từ: nói, bảo, cho rằng, nhận xét, ... NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(231) Ông ấy nói: không nên tin quảng cáo vì quảng cáo thường nói quá lên cho

nên người ta nói "văn chương quảng cáo" là thứ văn chương nói quá, thổi phồng, đánh bóng, không thật và văn hóa quảng cáo là văn hóa màu mè, phô trương. [NL21,

tr.42]

(232) Họ nói vẫn có hành vi sách nhiễu trong việc cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sử dụng nhà ở của dân, cấp phép kinh

doanh, làm thủ tục đầu tư,... [NL21, tr.23]

(233) Có ai đó đã nói: sẽ là một thứ nghệ thuật tầm thường nếu như âm nhạc chỉ

đem lại những âm thanh mà không hề có biểu hiện tâm hồn. [NL2, tr.139]

Ở các ví dụ (231, 232, 233) nêu trên, phát ngôn trần thuật - phê phán sử dụng

các từ ngữ xưng hô phi cá thể khác như: ông ấy, người ta, họ, học giả và đại từ phiếm

chỉ "ai"... kết hợp với cụm từ: nói, cho rằng, nói rằng, bảo rằng,...nhằm tạo tính

khách quan và tăng sức thuyết phục cho các lời trần thuật - phê phán, đồng thời tăng

hiệu quả giao tiếp của các PNNH.

 Dạng 2. Cấu trúc sử dụng từ ngữ chỉ cơ quan, tổ chức và cộng đồng xã hội

+

Từ ngữ chỉ cơ quan, tổ chức (Báo/ đài/ cơ quan, tổ chức, đơn vị...) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) + Động từ: nói, đưa tin/ cho rằng, nhận xét, tổng kết/ báo cáo/ cho biết/ ...

Ví dụ:

(234) Trên báo mấy hôm vừa rồi đưa tin, một ông giám đốc sở đã bị kỷ luật cảnh cáo về đảng và chính quyền mà vẫn là chiến sĩ thi đua. Mà ở cơ quan ông ấy, ông phó giám đốc sở bị kỷ luật cũng được bầu là chiến sĩ thi đua. [NL21,tr.67]

(235) Chính phủ nói còn nợ một số nghị định, thông tư thi hành luật;...nhiều Bộ

122

cũng nợ Chính phủ các dự thảo. Chưa có nghị định thì nhiều điều khoản trong luật, thậm chí cả bộ luật không thể thực hiện. Rút cuộc là Quốc hội nợ nhân dân vì nhiều luật chưa vào cuộc sống. Thế là trì trệ. [NL20, tr.228]

(236) Xã hội đang xôn xao về các thứ "giả". Hàng giả, tiền giả... cái giả nào

cũng đáng lo; tuy đã hướng dẫn mà người tiêu dùng, buôn bán vẫn rất khó xác định hàng giả, hàng thật, tiền giả thật. Nhưng xem ra điều đáng lo lắng nhất lại là nạn

"người giả". [NL15, tr.10]

Ở các ví dụ (234, 235, 236) nêu trên, phát ngôn trần thuật - phê phán sử dụng

các từ ngữ nói rõ nguồn của thông tin như: báo, báo chí, chính phủ, xã hội... nhằm tạo tính khách quan và tăng độ tin cậy cũng như sức thuyết phục cho các lời trần thuật -

phê phán.

 Dạng 3. Cấu trúc sử dụng từ: nghe đâu, nghe nói

Nghe đâu/ nghe nói, ... + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(237) Có người hỏi, thì ông trả lời "Đã là tuyển thủ thì phải biết tận dụng mọi

cơ hội để ăn vạ"... Nghe đâu, một ngôi sao tí hon của bóng đá nước ta khi ăn vạ cũng

đã nói một câu tương tự như thế. Xem ra họ không biết xấu hổ khi dạy nhau, ủng hộ

nhau về những hành vi lừa dối. [NL21, tr.148]

(238) Nghe nói công trình Nhà hát chèo rất đẹp, rất hiện đại, mới nghiệm thu

đã rạn nứt, phải sửa chữa mà giật mình. [NL13, tr.320]

Ở các ví dụ (237, 238) nêu trên, phát ngôn trần thuật - phê phán sử dụng các từ ngữ như: nghe đâu, nghe nói...biểu thị "ngầm ẩn sự cam kết" [60, tr.104] nhằm tăng độ tin cậy cho các lời trần thuật - phê phán, đồng thời tăng hiệu quả giao tiếp của phát ngôn.

 Dạng 4. Cấu trúc sử dụng từ: theo... thì; căn cứ... thì.

+ + thì + NDMĐ (Mang tính đánh giá Theo/ Căn cứ Đối tƣợng Sp3 (Người/ vật đại diện cho người) tiêu cực)

Ví dụ:

(239) Theo báo cáo chính thức thì tham nhũng vẫn phát triển đều đều, có những vụ

mình chống sắp đổ lại có một thế lực ngầm "chống" cho nó vững lại. [NL10, tr.225]

(240) Căn cứ vào sự điều tra của Ủy ban đáng tin cậy này thì phần lớn khách mua

dâm là người Việt Nam và 70 - 80% số đó là công chức Nhà nước. [NL12, tr.182]

* Cấu trúc thể hiện sự tương đương; sự tiếp diễn đồng thời, tổng gộp sự

tiêu cực

123

Biểu thức ngôn ngữ thể hiện sự tương đương hoặc sự tiếp diễn đồng thời của đối tượng trần thuật - phê phán sử dụng các từ ngữ như: vừa...vừa, đồng thời, cùng

với... còn có, cả...cả, cả... lẫn, cả ...và,...,từ... đến... đều...thể hiện sự tương đương hoặc diễn ra đồng thời của đặc điểm, tính chất, hành vi nào đó của đối tượng bị trần thuật - phê phán.

 Dạng 1. Cấu trúc sử dụng cặp từ liên từ: vừa... vừa

Vừa + + Vừa + +

NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) A (Từ ngữ mang đánh giá tiêu cực) B (Từ ngữ mang đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(241) Vừa mênh mông vừa mung lung! Kiến thức thì chẳng có gì mới hơn thiên

hạ, chỉ có cơ chế rối lung tung xòa. Chịu các bố GDĐT ! [NL11, tr.35]

(242) Không như các ông bây giờ vừa râu tóc, vừa nói to, vừa uống nước chè

lại hỏi thêm cả rượu. [NL4, tr.127]

 Dạng 2. Cấu trúc sử dụng cặp từ liên từ: cả...cả, cả...lẫn, cả ...và,...

Cả + + Cả/ lẫn/ + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Từ ngữ chỉ đối tƣợng trần thuật và

Hoặc:

Sử dụng cặp từ liên từ: cả...cả...đều, cả...lẫn...đều, cả...và...đều...; phần lớn...đều, tất cả...đều.

Cả + + +

+ Cả/ lẫn/ và + Đều/ cũng đều NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) A (Hành vi, đặc điểm, tính chất của đối tương Y) B (Hành vi đặc điểm, tính chất của đối tượng Y)

Hoặc:

+ Sp3.a + Đều +

Cả/ tất cả/ Các Sp3.b (Hành vi đặc điểm, tính chất của đối tượng Y)

Ví dụ:

(243) Hầu như tất cả các báo, đài phát thanh, đài truyền hình, trang tin internet từ Phương Tây đều lên tiếng mạnh mẽ lên án hành động quân sự của Nga. [NL3, tr.164]

(244) Có trường hợp người hỏi và người trả lời chiến đấu giáp lá cà nhưng họ đều "bắn chỉ thiên" cho nên người kết luận phải kết luận kiểu giảng hòa. Thế là hòa cả làng. [NL20, tr.59]

124

(245) Các đại biểu đi tiếp xúc cử tri thì phần nhiều đều gặp "cử tri chuyên nghiệp". Phần lớn các ông, các bà đều được lựa chọn, chỉ định, chuyên được mời đi "tiếp xúc", cho nên có vị có sát gì nguyện vọng của dân đâu. [NL15, tr.61]

 Dạng 3. Cấu trúc sử dụng cặp từ liên từ: từ ... đến... đều...

Từ + + Đến +

+ Đều/ cũng đều

A (Hành vi đặc điểm, tính chất của đối tương Y) B (Hành vi đặc điểm, tính chất của đối tương Y) + Từ ngữ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(246) Từ công tác đào tạo, thi cử, quản lý đến phương pháp giảng dạy đều có

vấn đề. [NL2, tr.123]

 Dạng 4. Cấu trúc sử dụng cặp từ liên từ: chẳng phải chỉ... mà cả

+ + Từ ngữ chỉ đối tượng trần thuật NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Chẳng phải + Mà cả

Ví dụ:

(247) Chẳng phải chỉ trên báo mạng mà cả một số báo giấy, nhất là những số phụ; lợi dụng các nội dung "đời sống", "pháp luật" họ nhét vào đó những thông tin rùng rợn miêu tả tỉ mỉ hành vi giết người và tung những màn dâm ô bỉ ổi. [NL21 tr.38]

 Dạng 5. Cấu trúc sử dụng phụ từ: lại nữa, còn nữa, hơn nữa, vả lại, bên cạnh

đó,...

+ NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Lại nữa/ Còn nữa/ hơn nữa, bên cạnh,...

Ví dụ:

(248) Lại nữa, một ông kém tài, kém đức, nhưng cái này nói nhỏ nghe, là con ông cháu cụ nên anh ta chỉ thích ngồi ở chỗ "màu mỡ" và phải chiều thôi. Vậy là thích ngồi đâu thì được đặt chỗ đấy. Tóm gọn là: ngồi đâu đặt đấy.[NL10, tr.281]

(249) Tệ hại hơn nữa là không ít công trình vừa khánh thành xong đã xuống

cấp, chất lượng không đảm bảo như thiết kế. Vậy mà việc xử lý như "sự đã rồi" nhất là đối với những công trình ngầm dưới đất. [NL2, tr.332]

* Cấu trúc chỉ ra hậu quả tiêu cực Hậu quả là/ Kết cục là... + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(250) Điều đáng nói là trong cơ chế thị trường, nhiều gia đình khá giả lại ít quan tâm đến mặt đời sống tinh thần của trẻ em. Hậu quả tại hại là các em đối phó trong học tập, nghiện hút, rơi vào cạm bẫy tiêu cực xã hội. [NL2, tr.101]

125

(251) Kết cục là báo chí đã tạo ra "gió" góp vào "bão giá" làm cho cơn bão ngày càng trầm trọng hơn, góp vào cơn bĩ cực của thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán càng mất điểm, tụt dốc nhanh hơn. [NL3, tr.153]

* Sử dụng các dấu câu: dấu hai chấm, dấu ba chấm.

Ngoài các mô hình BTNH nêu trên, theo quan sát của chúng tôi, trên TPBC còn sử dụng một số dấu câu như: dấu hai chấm, dấu ba chấm có tác dụng hỗ trợ, tường minh hóa HĐNN trần thuật - phê phán. Cụ thể:

 Sử dụng dấu hai chấm: thể hiện sự giải thích hoặc cụ thể hóa, có tính liệt kê đối tượng trần thuật (người, vật, việc, hiện tượng) hoặc đặc điểm, tính chất, trạng thái nào đó của đối tượng bị trần thuật - phê phán. Ví dụ:

(252) (Nói đến công tác ở một số địa phương) Ba nhiều là: giấy tờ nhiều, họp nhiều, chi xài nhiều. Ba ít là: ít đi cơ sở, ít nói tới nơi khó khăn, ít học tập. [NL15, tr.31]

 Sử dụng dấu ba chấm (dấu chấm lửng) nhằm thể hiện vấn đề trần thuật được

liệt kê vẫn còn nữa nhưng không cần thiết nói hết ra. Ví dụ:

(253) Nhưng xem trong việc làm thì họ lại chẳng ngó ngàng gì tới đất nước mà lại còn cấu véo của đất nước cho riêng mình, lao vào buôn lậu, trốn thuế, bán đất... [NL12, tr.195]

Trong HĐNN trần thuật - phê phán dùng dấu chấm lửng thể hiện sự ngập ngừng, đứt đoạn, khoảng lặng trước khi trần thuật rõ sự thật không hay, không mong muốn. Người nói mong có sự thông cảm từ phía người nghe. Đây có thể được coi là phương tiện giảm bớt lực phê phán của phát ngôn chứa HĐNN trần thuật - phê phán. Ví dụ:

(254) Tiền toàn dân đền ơn đáp nghĩa, gửi các gia đình đồng bào thiểu số đang gặp khó khăn... bị ăn chặn, hoặc dùng vào việc sắm ô tô, xây trụ sở cho chính cái cơ quan được Đảng và Nhà nước giao cho làm việc đó... [NL12, tr.183]

Khi phân tích 661 HĐNN trần thuật - phê phán thống kê được trong nguồn ngữ

liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tất cả các thành phần NDMĐ (nòng cốt) trong

BTNH trần thuật - phê phán đều phản ánh những sự việc, hiện tƣợng sai trái, tiêu

cực trong xã hội gây hậu quả xấu. Nếu trong trường hợp phát ngôn có nhiều nội

dung mệnh đề thì thường là ít nhất phải có một NDMĐ phản ánh những sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực trong xã hội gây hậu quả xấu. Do đó, về bản chất thành phần NDMĐ này mang tính định hướng đánh giá tiêu cực. Và có lẽ, theo chúng tôi đây cũng chính là điểm mấu chốt khiến cho BTNH trần thuật có đích ngôn trung phê phán. Nói cách khác, để BTNH trần thuật có hiệu lực phê phán thì điểm cốt lõi nhất là NĐMĐ trần thuật - phê phán phải mang tính định hướng đánh giá tiêu cực, tức là

biểu hiện của tinh thần phê phán, mang bản chất của hành động phê phán. Hơn nữa,

đối với HĐNN trần thuật - phê phán, những sự kiện, đặc điểm, tính chất, hành vi...

của đối tượng trần thuật - phê phán mang tính chất tiêu cực thì vốn bản thân nó đã tự

126

bộc lộ tinh thần phê phán, định hướng phê phán.

Từ những phân tích trên, có thể tổng hợp khái quát cấu trúc BTNH và những

phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN trần thuật - phê phán như sau:

Cấu trúc BTNH trần thuật - phê phán:

Thành phần trần thuật + NDMĐ (mang tính đánh giá tiêu cực)

Bảng 3.5. Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

trong 661 HĐNN trần thuật - phê phán.

Phƣơng tiện ngôn ngữ T T Tần số Tần suất

1 Từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực 1516 2,30/1

2 Sử dụng các phụ từ có tác dụng chỉ báo, đánh dấu về sự tiếp 76 0,11/1 diễn: đã, đang, còn, vẫn, mới, cứ, vẫn cứ, vẫn còn,...

3 Sử dụng các phụ từ mang ý nghĩa phủ định, khẳng định về 62 0,09/1 đối tượng trần thuật.

18 0,03/1

4 Sử dụng các từ ngữ có tác dụng bổ sung thông tin về đối tượng được tường thuật: vả lại, hơn nữa, bên cạnh đó, còn, lại,...

5 Sử dụng các phụ từ tình thái: rồi, ấy, đấy, lắm, thật, vậy,... 6 20 12 0,03/1 0,02/1

Sử dụng các phụ từ chỉ mức độ như: rất, thật, vô cùng... chỉ rõ mức độ của hành vi, đặc điểm, tính chất,... của đối tượng được trần thuật.

21 0,03/1

8 401 0,60/1 7 Sử dụng các từ ngữ có tác dụng nhấn mạnh vào đặc điểm, tính chất, sự kiện nào đó của đối tượng được trần thuật, như: nhất là, đặc biệt là,... Sử dụng các từ có tác dụng giải thích như: là, nghĩa là, tức là, có nghĩa là, như thế là, thế là...

9 0,01/1 9 Sử dụng các từ quan hệ, liên từ: thứ nhất là..., thứ hai là..., một là..., hai là..., trước hết, cuối cùng, rút cuộc, như vậy...

10 Cấu trúc tương phản (trái ngược, đối lập) 11 Cấu trúc tăng tiến - nhấn mạnh sự tiêu cực 12 Cấu trúc nhân quả, điều kiện - hệ quả 93 44 61 0,14/1 0,07/1 0,09/1

13 Cấu trúc so sánh, ví von 18 0,03/1

14 Cấu trúc liệt kê 56 0,08/1

15 Cấu trúc phủ định 43 0,06/1

16 Cấu trúc khẳng định 51 0,08/1

17 Cấu trúc thể hiện thời gian, địa điểm 136 0,20/1

18 Cấu trúc thuật lại lời của Sp3 32 0,05/1

19 Cấu trúc thể hiện sự tương đương hoặc sự tiếp diễn đồng thời 45 0,07/1

20 Cấu trúc chỉ ra hậu quả 5 0,01/1

21 Cấu trúc sử dụng các dấu câu: dấu hai chấm, ba chấm 123 0,19/1

127

22 Dấu chấm lửng...thể hiện sự ngắt quãng, ngập ngừng, khoảng lặng 75 0,11/1

Bảng thống kê trên cho thấy, trong các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng để

thực hiện HĐNN trần thuật - phê phán, phương tiện ngôn ngữ điển hình nhất, cũng là dấu hiệu đặc trưng nổi bật nhất để nhận diện HĐNN trần thuật - phê phán đó là

những từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực với tần số xuất hiện cao: 1.516

lượt/664 HĐNN trần thuật - phê phán; trung bình trong mỗi HĐNN trần thuật - phê

phán có khoảng hơn 2 từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực.

c. Cơ chế xác lập đích ngôn trung của HĐNN trần thuật - phê phán

Cũng giống như các HĐNN khác được sử dụng gián tiếp để thực hiện

HĐNNPP, để xác định đích ngôn trung của HĐNN trần thuật - phê phán, người nghe

cần căn cứ vào các dấu hiệu chỉ dẫn, đồng thời kết hợp với thao tác suy ý để nhận diện hành động trần thuật có đích phê phán ngầm ẩn. Cụ thể: i) Các phương tiện ngôn

ngữ chuyên dụng cho trần thuật (như đã trình bày tại điểm b trên đây); ii) NDMĐ

mang tính đánh giá tiêu cực thông qua hệ thống từ ngữ đánh giá tiêu cực; iii) Dùng

thao tác suy ý để nhận diện HĐNN trần thuật có đích phê phán. Dựa vào thao tác suy

luận trên cơ sở hiểu biết tri năng bách khoa, tri năng dụng học [125] những trải

nghiệm cá nhân của người tiếp nhận để tìm mối liên hệ, sự quy chiếu tới người, sự vật,

sự việc, hiện tượng được đề cập.

d. Cường độ lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ trần thuật - phê phán

So với HĐNNPP trực tiếp và các HĐNN được sử dụng gián tiếp để thực hiện HĐNNPP như hành động mỉa mai, phủ định, HĐNN trần thuật - phê phán có mức độ đe dọa thể diện thấp hơn vì việc phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua hành động trần thuật thường ít có tính chất gay gắt, quyết liệt. Do vậy mà HĐNN trần thuật có đích ngôn trung là phê phán cũng có hiệu lực phê phán yếu. Mức độ hiệu lực ở mỗi phát ngôn chứa HĐNN trần thuật - phê phán có những sắc thái khác nhau tùy thuộc vào nội dung, đối tượng cụ thể được đề cập.

3.1.3. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua

hành động ngôn ngữ điều khiển (Hành động điều khiển - phê phán): Nghiên cứu

trường hợp hành động hỏi - phê phán

Trong TPBC tiếng Việt, ngoài các nhóm HĐNN như biểu cảm, tái hiệu được dùng để thực hiện gián tiếp HĐNNPP, theo kết quả khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy HĐNNPP còn được thực hiện gián tiếp bằng nhóm HĐNN điều khiển gồm các HĐNN như: đề nghị, khuyên, mong và hỏi. Nói cách khác, trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới, còn có các HĐNN như đề nghị, khuyên, mong; hỏi có đích ngôn trung là HĐNNPP (xem bảng 3.1).

128

Trong các TPBC tiếng Việt được khảo sát, chúng tôi thống kê được 178 HĐNN thuộc nhóm HĐNN điều khiển, chiếm 15,5%. Đây là nhóm HĐNN có tần số lớn thứ

hai (sau nhóm HĐNN tái hiện) trong các nhóm HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP trong TPBC. Theo quan sát của chúng tôi, trong nhóm HĐNN điều khiển, hỏi là HĐNN gần nhất với HĐNNPP, vì thế mà hiệu lực phê phán thường mạnh hơn so với các hành động đề nghị, khuyên, mong. Vì vậy chúng tôi tập trung vào nghiên cứu trường hợp HĐNN hỏi có đích ngôn trung là phê phán (HĐNN hỏi - phê phán). Vì HĐNN hỏi - phê phán là HĐNN có tần số xuất hiện cao nhất (10,7 %) trong nhóm HĐNN điều khiển. Dưới đây là những phân tích cụ thể.

a. Khái niệm

Hỏi cũng là hành động thường diễn ra trong giao tiếp hằng ngày. Khi cần biết thông tin gì đó người ta thực hiện hành động hỏi. Thuộc nhóm hành động hỏi có các động từ nói năng như: hỏi, vấn, chất vấn, phỏng vấn, truy vấn,... Chúng tôi lấy hành động hỏi làm đại diện để gọi tên chung cho cả tiểu nhóm HĐNN này. Từ điển tiếng Việt (2010) giải thích các động từ nói năng này như sau:

- Hỏi: "Nói ra điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu được trả lời.

Xin hỏi một câu. Hỏi đường. Hỏi ý kiến." [145, tr.588]

- Truy hỏi: "Hỏi vặn, hỏi ráo riết, buộc phải nói ra sự thật". [145, tr.1345].

- Vấn: "Hỏi. Vấn tội. Tự vấn lương tâm." [145, tr.1412]

- Chất vấn: "Hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ. Đại biểu quốc hội chất vấn chính

phủ." [145, tr.197].

- Phỏng vấn: "Hỏi ý kiến để công bố trước dư luận. Phỏng vấn bộ trưởng bộ

ngoại giao. Cuộc phỏng vấn." [145, tr.1006].

- Truy vấn: "Truy hỏi". [145, tr.1346].

Như vậy, tất cả những hành động nói năng trên đều có đặc điểm chung là người

nói mong muốn người khác cung cấp thông tin cho mình. Song trong thực tế giao tiếp

hằng ngày cũng như trên ngữ liệu TPBC được khảo sát, chúng tôi gặp không ít

trường hợp người nói thực hiện hành động hỏi song không phải để lấy thông tin mà

để nhằm thực hiện một mục đích giao tiếp khác.

129

Hỏi là một HĐNN có thể được dùng theo lối trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với hành động hỏi được dùng trực tiếp, đó là hành động được dùng đúng với đích ở lời, người nói dùng lời hỏi với mong muốn được cung cấp thông tin mà mình chưa biết hoặc chưa rõ, còn băn khoăn, hoài nghi. Ngoài ra, hành động hỏi còn được dùng theo cách gián tiếp đó là việc người nói dùng hành động hỏi nhưng không phải mong muốn được cung cấp thông tin mà là nhằm hướng tới hiệu lực ở lời của những hành động khác. Các tác giả Đỗ Hữu Châu [12], Nguyễn Đức Dân [23], Bùi Minh Toán [140], Đặng Thị Hảo Tâm [125], Nguyễn Thị Lương [93],... đều cho rằng: Hành động hỏi có thể được dùng theo lối gián tiếp để thực hiện các hành động khác. Các hành động khác đó có thể là: hỏi - thăm dò, hỏi - làm quen, hỏi - bày tỏ ý kiến không đồng

tình, hỏi - đề nghị/ nhờ ả, hỏi - khuyên, mời, hỏi- nhắc nhở, hỏi - khẳng định/ phủ

định, hỏi - trách móc, hỏi - phê phán, hỏi- yêu cầu/ điều khiển/ ra lệnh...Như vậy, hành động hỏi ở đây không phải để hỏi theo nghĩa thông thường, đích thực mà thực

chất là để thực hiện những hành động, mục đích giao tiếp khác.

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu "một hành động thường có hiệu lực trực tiếp và hiệu

lực gián tiếp; các câu hỏi tu từ đều có đặc điểm trực tiếp là hỏi, gián tiếp là những hiệu lực ở lời khác" [12, tr.149]. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi quan tâm đến

hành động hỏi - phê phán. Trên ngữ liệu TPBC tiếng Việt được khảo sát, chúng tôi

thống kê được 123 HĐNN hỏi - phê phán, chiếm 10,7%. Đây là HĐNN có tần số xuất

hiện cao so với các HĐNN khác được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

Phê phán bằng HĐNN hỏi hay HĐNN hỏi - phê phán là hành động người nói

hỏi song không mong muốn người nghe trả lời mà nhằm bộc lộ trạng thái tâm lí - cảm

xúc thái độ tiêu cực (không hài lòng, không vừa ý, không ủng hộ, không đồng tình)

về sự việc, hiện tượng sai trái đang tồn tại trong cuộc sống, gây ra những hậu quả

xấu, làm ảnh hưởng không tốt đến cộng đồng xã hội, trong đó có người hỏi, thông

qua đó thực hiện mục đích phê phán sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực và đối tượng

gây ra sự việc, hiện tượng sai trái, tiêu cực đó cùng với mong muốn có sự chia sẻ,

đồng cảm, đồng tình của mọi người, đồng thời mong muốn đối tượng bị hỏi - phê

phán có sự điều chỉnh, thay đổi theo chiều hướng tích cực. Ví dụ:

(255) Không hiểu sao mươi mười năm trở lại đây, người ta chất lên vai bọn trẻ

những gánh nặng đến như vậy [NL11, tr.55]

Ở ví dụ (255) trên, về hình thức là một phát ngôn hỏi, song không phải nhằm mong muốn được cung cấp thông tin mà là người nói bộc lộ sự băn khoăn, thể hiện thái độ không đồng tình, không ủng hộ về việc cải cách giáo dục với sự quá tải của chương trình giáo dục. Qua phát ngôn hỏi, người nói phê phán việc cải cách giáo dục với sự quá tải của chương trình giáo dục.

b. Biểu thức ngôn hành và phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

Theo quan sát của chúng tôi về các phương tiện biểu hiện HĐNN hỏi - phê phán

thường sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sau:

130

* Sử dụng ĐTNH "hỏi": Theo quan sát của chúng tôi, HĐNN hỏi - phê phán trong các TPBC được khảo sát đều chủ yếu sử dụng động từ ngôn hành để thực hiện. Đây là một trong những điểm khác biệt của HĐNN hỏi – phê phán so với một số HĐNN khác được sử dụng gián tiếp để thực hiện HĐNNPP. HĐNN hỏi - phê phán được thể hiện dưới hai dạng trực tiếp qua BTNH tường minh và gián tiếp với BTNH nguyên cấp. Trong BTNH hỏi - phê phán tường minh nói chung, ĐTNH "hỏi" là yếu

tố tiên quyết để tạo lập một BTNH tường minh, đồng thời vừa là dấu hiệu để nhận diện các BTNH hỏi - phê phán tường minh. Ví dụ:

(256) Thử hỏi một tác phẩm như thế có nên thực hiện hay không [NL5, tr.169]

(257) Xin hỏi ngài một câu. Dinh thự của ngài to lớn, trong nhà có một vị phu nhân và mười tì thiếp, có ngựa xe kẻ hầu người hạ đông đúc, khoản chi phí ấy ngài... [NL10, tr.14]

Ở các ví dụ (256, 257), phát ngôn hỏi - phê phán dùng ĐTNH "hỏi" để thực hiện: ở ví dụ (256) phát ngôn ngầm ẩm sự phê phán về tác phẩm có chất lượng không tốt, ở ví dụ (257) phát ngôn ngầm ẩn phê phán việc tham ô, tham nhũng của viên quan "thanh liêm".

* Sử dụng các từ ngữ chuyên dụng cho HĐNN hỏi, gồm:

+ Sử dụng các đại từ nghi vấn: ai, gì, nào, sao, bao nhiêu, bao giờ, đâu,...Ví dụ:

(258) Nhưng có ai "quy hoạch bỏ hoang" bao giờ ? [NL17, tr.332]

(259) Vì sao chưa làm được cũng phải cho chúng tôi hay chứ cứ biệt vô âm tín

thế này thì kiến nghị làm gì? [NL17, tr.210]

(260) Xin hỏi ngài một câu. Dinh thự của ngài to lớn, trong nhà có một vị phu nhân và mười tì thiếp, có ngựa xe kẻ hầu người hạ đông đúc, khoản chi phí ấy ngài...? - Tôi hiểu, thì họ vẫn sống đầy đủ như ông biết.

- Vậy lương của ngài là bao nhiêu? [NL10, tr.14]

(261) Khối tài sản đất đai, nhà ở đồ sộ của ông ấy ở đâu ra? [NL21, tr.109]

+ Sử dụng các phụ từ nghi vấn: cặp từ nghi vấn: có... không; có phải... không; đã (hay) chưa. Dạng tỉnh lược:... không phải không Ví dụ:

(262) Vợ ông trung tá công an kinh doanh internet hàng chục máy mở trò sex, vậy ông chồng có biết hay không? [NL10, tr.213]

(263) Khán giả khát khao chiến thắng nhưng nếu chiến thắng của Việt Nam do một cầu thủ gốc Phi hay gốc Nam Mỹ làm nên thì niềm vui có trọn vẹn không? [NL5, tr.69]

+ Sử dụng các từ để hỏi: vì sao, tại sao,...Ví dụ:

(264) Tại sao chúng ta có quy hoạch đất đai mà thiếu quy hoạch nhân tài ?

[NL5, tr.78]

(265) Vì sao đã đóng cửa rừng, mà lại vẫn thấy từ rừng chở ra Vì sao, ô tô chở gỗ cũng đeo biển xanh Vì sao, nhiều ô tô đề rõ liên hiệp này, xí nghiệp nọ, nhưng cơ quan đó làm gì mà cứ cho xe chở gỗ vào tối thứ bảy, chủ nhật [NL17, tr.321]

131

+ Sử dụng các từ để hỏi: phải chăng, nên chăng. Ví dụ:

(266) Tiền toàn dân đền ơn đáp nghĩa, gửi các gia đình đồng bào thiểu số đang gặp khó khăn... bị ăn chặn, hoặc dùng vào việc sắm ô tô, xây trụ sở cho chính cái cơ quan được Đảng và Nhà nước giao cho làm việc đó... Phải chăng các kiểu ăn trên đều là ăn bẩn [NL17, tr.183]

(267) Nền Điện ảnh của chúng ta yếu kém, cần học tập người khác là điều tất

nhiên, nhưng đến mức để thiên hạ thao túng hết thì liệu có nên chăng? [NL5, tr.50]

+ Sử dụng các quan hệ từ lựa chọn: hay, hoặc, hay là, hoặc là,...Ví dụ:

(268) Các ông biết thế sao vẫn để họ làm bậy thế Hay là các ông ăn phải bả

của bọn họ [NL11, tr.85]

(269) Nhiều ban ngành đã thanh tra, kiểm tra thường xuyên mà vẫn để cho tội

ác tiếp diễn, thử hỏi họ vô tình hay cố ý [NL4, tr.29]

+ Sử dụng các tiểu từ tình thái: à, ư, nhỉ, hả, hở, chứ,...Ví dụ:

bảng về "tự do cư trú" à? [NL11, tr.28]

(270) Mở thoáng cả với Tây nữa ông ạ. Như thế hóa ra nước mình đứng đầu

(271) Không hiểu đi xe biển số đẹp có tránh được tai nạn không nhỉ? [NL11,

tr.178]

(272) Cho nên việc chụp ảnh một bà cụ, sau đó đặt những cái tên đầy sáo rỗng

như: Màu thời gian, Cuối đời, Vết năm tháng thì có gì là sáng tạo hả? [NL5, tr.150]

(273) (Xin lỗi anh, cho tôi phát huy dân chủ nói ngược lại ý anh. Nếu ở Hà Nội tôi sẽ mua được căn hộ ở cái chung cư thiếu một nửa thép ấy với giá rẻ, để lần đầu trong đời được ở nhà lầu). Chú không điên đấy chứ? [NL10, tr.208]

* Sử dụng các từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực. Ví dụ:

(274) Sao ông lại bào chữa cho những tiêu cực, gây phiền hà của bộ máy công

quyền [NL21, tr.89]

(275) Nhưng mà còn những chuyện đau lòng như làm mộ liệt sĩ giả, thậm chí một liệt sĩ được dựng nhiều bia, xây nhiều mộ để người xây dựng được nhiều kinh phí thì sao không thấy ma về bóp cổ bọn tham nhũng [NL11, tr.160]

Ở ví dụ (274), phát ngôn sử dụng các từ ngữ đánh giá tiêu cực như "những tiêu cực, gây phiền hà". Phát ngôn phê phán đối tượng "ông" bào chữa, che đậy cho "những tiêu cực, gây phiền hà của bộ máy công quyền". Ở ví dụ (275), phát ngôn sử dụng các từ ngữ đánh giá tiêu cực như "làm mộ liệt sĩ giả" nhằm phê phán sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội, vì lợi ích cá nhân mà con người bất chấp đạo đức, pháp luật.

Trong việc sử dụng từ ngữ đánh giá tiêu cực, các phát ngôn hỏi - phê phán còn

132

kết hợp sử dụng những câu thành ngữ có nội dung đánh giá tiêu cực. Ví dụ:

(276) Có công trình đã có chủ trương, quy hoạch cả năm, hoặc nhiều năm sao

lại để "nước đến chân mới nhảy"? [NL20, tr.37]

(277) Cũng biết rõ tâm trạng của anh muốn nhanh nhanh xử lý các việc và hiện tượng tiêu cực, nhưng sao cứ phải bô bô cái mồm tuyên bố theo kiểu "chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".? [NL21, tr.17]

Ở ví dụ (276) trên, ngoài việc sử dụng từ ngữ chuyên dụng "sao", người nói đã kết hợp sử dụng thành ngữ "Nước đến chân mới nhảy" để hỏi. Thành ngữ "Nước đến chân mới nhảy" chỉ những người thờ ơ, không biết lo xa cho công việc. Người nói dùng thành ngữ này với hàm ý phê phán các chủ công trình xây dựng và các đơn vị nhà nước liên quan cố tình "Nước đến chân mới nhảy" để trục lợi bất chính.

Theo quan sát của chúng tôi, về các phương tiện ngữ pháp, PNNH hỏi - phê

phán sử dụng các dạng BTNH và dấu chấm hỏi.

* Sử dụng biểu thức ngôn ngữ. Hành động hỏi được thực hiện thông qua các mệnh đề hỏi có nội dung đánh giá tiêu cực, biểu hiện qua việc sử dụng các từ ngữ chuyên dụng cho hỏi và các từ ngữ đánh giá tiêu cực, gồm có các mô hình BTNH sau:

 Cấu trúc 1.

+ Dạng 1. Sử dụng các đại từ và phụ từ nghi vấn: sao... thế/ vậy/ như thế/ như

vậy/ hả/ hử,...

+ +

Từ nghi vấn (sao/ tại sao/ vì sao NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Phụ từ nghi vấn (thế/vậy/ như thế/ như vậy/ hả/ hử,... )

Ví dụ:

(278) Không hiểu sao mươi mười năm trở lại đây, người ta chất lên vai bọn trẻ

những gánh nặng đến như vậy? [NL11, tr.55]

(279) Có một thực tế mà mọi người đều thấy là vì sao các băng nhóm "xã hội đen" lại có thể ngang nhiên hoạt động và kéo dài nhiều năm như thế? [NL2, tr.365]

+ Dạng 2.

+ + NDMĐ ? Đại từ nghi vấn ( vì sao/ tại sao) (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(280) Tại sao chúng ta có quy hoạch đất đai mà thiếu quy hoạch nhân tài ?

[NL5, tr.78]

133

(281) Tại sao những người phụ ngữ cứ phải hy sinh mới là tốt Tại sao họ cứ nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn vui chơi, nhịn đủ thứ cho chồng, cho con thì mới được đề cao? [NL5, tr.83]

 Cấu trúc 2

+ NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) Đại từ/ phụ từ nghi vấn (sao/ hay sao/ thì sao?)

Ví dụ:

(282) Thời thị trường, văn hóa cũng thị trường cả rồi sao? [NL11, tr.50]

(283) Chuyện không quan trọng mà lại trở thành thắc mắc của dân hay sao?

[NL15, tr.70]

 Cấu trúc 3

+ Phụ từ nghi vấn (thế/vậy/như thế/ như vậy) + Tiểu từ nghi vấn (à/ ư/ nhỉ/... ) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(284) Thế theo các anh cứ mỗi lần cải cách cải tiến thì kết quả lại rắc rối thêm à? [NL10, 325]

(285) Mở thoáng cả với Tây nữa ông ạ. Như thế hóa ra nước mình đứng đầu bảng về "tự do cư trú" à? [NL11, tr.28]

 Cấu trúc 4

+ Dạng 1

+ + là gì ? Phụ từ nghi vấn (thế/ thế chẳng phải,...) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(286) Thế chẳng phải là báo lá ngón, báo giết người là gì? [NL21, tr.157]

+ Dạng 2

+ là gì? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(287) Nhưng lại có trường hợp họp cả ban giám đốc, ban quản trị, ban điều hành, cả trưởng phó phòng và kế toán trưởng... bàn cách luồn lách chính sách để lấy cắp của công rồi đem chia nhau thì gọi là gì hả bác? [NL14, tr.467]

+ Dạng 3

Chẳng phải + + là gì? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

134

(288)....thế chẳng phải cậu ta đang từ quan thanh liêm "diễn biến" thành quan tham là gì ? [NL20, tr.34]

 Cấu trúc 5.

+ Dạng 1. Sử dụng câu hỏi khung: Có + X + không?

NDMĐ + Có + + không (Mang tính đánh giá ? X Từ ngữ (Mang tính đánh giá tiêu cực) tiêu cực)

Ví dụ:

(289) Không hiểu đi xe biển số đẹp có tránh được tai nạn không nhỉ [NL11,

tr.178]

+ Dạng 2.

NDMĐ + Sp2 + Có + + không (Mang tính đánh giá ? tiêu cực) Từ ngữ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(290) Nhiều sếp có học hành bằng cấp hẳn hoi nhưng lại coi thường kỷ cương phép nước, mặc dù có đầy đủ văn bản luật pháp, chỉ thị, nghị quyết mà vẫn coi như xã hội thời hồng hoang, tự tung tự tác, cố tình vi phạm, tham ô tham nhũng,... ông có xếp vào diện mù không? [NL11, tr.21]

+ Dạng 3.

Có + + không? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ:

(291) Có phải vì ở mỗi địa phương đội bóng như mâm xôi giữa đình làng, các vị

chức sắc ai cũng muốn nhúng tay vào để xí phần không? [NL10, tr. 215]

 Cấu trúc 6: Sử dụng các kết cấu hỏi: làm sao... được, thế nào.... được với sử

dụng NDMĐ đánh giá tiêu cực.

NDMĐ + + Được? (Mang tính đánh giá + Làm sao/ thế nào tiêu cực) Từ ngữ (Hành vi, đặc điểm, tính chất)

Ví dụ.

(292) Tiếng nói của con người thiếu nhân cách thì làm sao mà coi trọng được?.

[NL16, tr.220]

 Cấu trúc 7. Sử dụng từ hay là/ mà sao + NDMĐ hỏi.

+ + ?

+ Hay là/ mà sao NDMĐ ( Mang tính đánh giá tiêu cực) NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

135

Ví dụ.

(293) Vì tôi giật mình thấy thỉnh thoảng hàng quà rao bánh Thanh Trì, gọi mua, nhưng đúng là ăn không được như xưa. Vậy thì cái miệng tôi đã thay đổi hay là cái nghề làm bánh đã sa sút? [NL16, tr.58]

(294) Biết là anh ta hát sai, hát dở mà sao anh, chị vẫn cho họ đứng vào dàn, đánh lừa khán giả. [NL15, tr.125]

 Cấu trúc 8. Sử dụng từ chẳng lẽ + NDMĐ hỏi.

Chẳng lẽ + + ? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ.

(295) Chẳng lẽ nêu trách nhiệm người đứng đầu lại làm cho người đứng đầu cố tình che giấu [NL21, tr.94]

 Cấu trúc 9. Sử dụng từ phải chăng + NDMĐ hỏi..

Phải chăng + + ? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực)

Ví dụ.

(296) Tiền toàn dân đền ơn đáp nghĩa, gửi các gia đình đồng bào thiểu số đang

gặp khó khăn... bị ăn chặn, hoặc dùng vào việc sắm ô tô, xây trụ sở cho chính cái cơ

quan được Đảng và Nhà nước giao cho làm việc đó...Phải chăng các kiểu ăn trên

đều là ăn bẩn [NL17, tr.183]

 Cấu trúc 10. Sử dụng từ nên chăng + NDMĐ hỏi.

+ Nên chăng? NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực

Ví dụ:

(297) Nền Điện ảnh của chúng ta yếu kém, cần học tập người khác là điều tất

nhiên, nhưng đến mức để thiên hạ thao túng hết thì liệu có nên chăng? [NL5, tr.50]

 Cấu trúc 11. Cấu trúc hỏi không sử dụng các từ hỏi mà sử dụng các từ ngữ

đánh giá tiêu cực kết hợp với sử dụng dấu hỏi ở cuối phát ngôn.

Ví dụ:

(298) Xã hội một phách, ngành GD một phách Và như thế là đa phách? [NL11,

tr.43]

* Sử dụng dấu hỏi chấm đặt cuối phát ngôn.

(299) Nhưng có ai "quy hoạch bỏ hoang" bao giờ ? [NL17, tr.332]

136

Theo quan sát của chúng tôi, các phát ngôn hỏi, thường có sự lên giọng ở cuối phát ngôn. Đây là một trong những dấu diệu ngữ âm giúp người tiếp nhận nhận diện các phát ngôn hỏi.

Ví dụ:

(300) Bệ hạ có biết quân giặc đang nhòm ngó nơi biên cương? [NL10, tr.111]

Khi phân tích 123 HĐNN hỏi - phê phán thống kê được trong nguồn ngữ liệu TPBC được khảo sát, chúng tôi nhận thấy, các HĐNN hỏi – phê phán có thành phần mở rộng và thành phần NĐMĐ đều phản ánh người, vật, việc, hiện tượng xấu, tiêu cực trong xã hội. Đây cũng chính là lý do phải hỏi và là nguyên nhân dẫn đến hành động phê phán. Về bản chất, các thành phần này mang tính định hướng đánh giá tiêu cực - tức mang bản chất của HĐNNPP. Và có lẽ, theo chúng tôi đây là một trong những căn cứ đặc biệt quan trọng để nhận diện đích phê phán của HĐNN hỏi - phê phán. Bởi vậy, ngoài các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trên đây, NĐMĐ trong BTNH thường xuất hiện các từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực.

Từ những phân tích trên, có thể tổng hợp khái quát cấu trúc BTNH và những

phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng của HĐNN hỏi - phê phán như sau:

Cấu trúc BTNH hỏi - phê phán:

Các từ để hỏi + NDMĐ (Mang tính đánh giá tiêu cực) + Dấu hỏi (?)

Bảng 3.6. Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong 123 HĐNN hỏi - phê phán

STT Phƣơng tiện ngôn ngữ Tần số Tần suất

1 Động từ ngôn hành (hỏi) 0,04/1 5

0,53/1 65

0,12/1 15 3

25 0,20/1 4

0,06/1 7 5

2 Các từ ngữ chuyên dụng cho hỏi: Sử dụng các đại từ nghi vấn: ai, gì, nào, sao, bao nhiêu, bao giờ, đâu, ... Sử dụng các phụ từ nghi vấn: cặp từ nghi vấn: có... không ; có phải... không ; đã (hay) chưa ; Dạng tỉnh lược: ... không phải không Sử dụng các từ để hỏi: vì sao, tại sao, phải chăng, nên chăng, ... Sử dụng các quan hệ từ lựa chọn: hay, hoặc, hay là, hoặc là,... Sử dụng các tiểu từ tình thái: à, ư, nhỉ, hả, hở, chứ,... 0,07/1 9 6

Sử dụng từ ngữ mang tính đánh giá thấp, tiêu cực 2,15/1 264 7

0,40/1 49

8

32 0,26/1 9

Sử dụng các dạng cấu trúc biểu thức ngôn ngữ + Dạng 1. Sử dụng các đại từ và phụ từ nghi vấn: NDMĐ và sao...thế/ vậy/ như thế/ như vậy/ hả/ hử,... + Dạng 2. Sử dụng các từ vì sao, tạo sao + NDMĐ Sử dụng từ đại từ và phụ từ nghi vấn: sao/ hay sao/ thì sao? + NDMĐ Sử dụng phụ từ nghi vấn + Tiểu từ tình thái + NDMĐ 5 0,04/1 10

137

Sử dụng phụ từ nghi vấn + NDMĐ + Phụ từ nghi vấn. 9 0,07/1 11

12 Sử dụng mô hình câu hỏi khung: Có + X + (phải) 8 0,07/1 không? + Kết hợp với NDMĐ

13 4 0,03/1 Sử dụng các cặp từ hỏi: làm sao...đươc, thế nào được...+ NDMĐ

14 Sử dụng các cặp từ hỏi: hay là/ mà sao + NDMĐ 5 0,04/1

15 Sử dụng từ: Chẳng lẽ + NDMĐ 5 0,05/1

16 Sử dụng từ: Phải chăng + NDMĐ 4 0,03/1

17 Sử dụng từ NDMĐ + Nên chăng 2 0,02/1

18 Sử dụng cấu trúc không dùng các từ để hỏi 8 0,07/1

19 Dấu hỏi chấm. 133 1,08/1

20 Phát ngôn (dấu hỏi) hỏi thường có sự lên giọng ở cuối 133 1,08/1 câu.

Bảng thống kê trên cho thấy, trong các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng để

thực hiện HĐNN hỏi - phê phán, phương tiện ngôn ngữ điển hình nhất, cũng là dấu

hiệu đặc trưng nổi bật nhất để nhận diện HĐNN hỏi - phê phán đó là những từ ngữ để

hỏi và những từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực với tần số xuất hiện cao: 264

lượt/ HĐNN hỏi - phê phán; trung bình trong mỗi HĐNN hỏi - phê phán có khoảng

hơn 2 từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực.

Bảng 3.7. Thống kê các dạng PNNH của HĐNN hỏi - phê phán.

Dạng phát ngôn ngôn hành hỏi - phê phán Tần số Tỉ lệ (%)

Tối thiểu 35 28,5

Mở rộng 88 71,5

Tổng 123 100

Kết quả khảo sát cho thấy, trên TPBC số lượng PNNH hỏi - phê phán mở rộng

chiếm tỉ lệ cao hơn so với PNNH hỏi - phê phán tối thiểu.

* Về thành phần mở rộng của phát ngôn ngôn hành hỏi - phê phán

 Thành phần mở rộng (được in đậm) nêu lý do, nguyên nhân của hành vi, đặc

điểm, tính chất của đối tượng hỏi - phê phán.

Ví dụ:

(301) Vì cũng nghe nói mấy nơi quảng cáo mở lớp đào tạo thư ký giám đốc,

chẳng biết có phải loại thư ký người ta cần hay là đào tạo ra một thứ "em út" để sai

138

vặt [NL17, tr.246]

(302) Cũng chỉ vì miếng đất mà con trai "chống gậy" dám đuổi bố ra đường.

Không nói chữ "hiếu" cho cao siêu; chỉ nói tình bố con, máu mủ ruột rà để ở đâu [NL20, tr.179]

 Thành phần mở rộng giải thích hoặc nêu điều kiện của hành vi, đặc điểm, tính

chất của đối tượng hỏi - phê phán.

Ví dụ:

(303) Để cho cán bộ khai thoải mái các khoản chi, thì các ông ấy khai chi hết

ba triệu đồng để "rải đường", vậy bên cạnh việc "rải" thì số còn lại đút vào túi

những ai [NL17, tr.417]

(304) Chợ nào mà chẳng có rác, có kẻ cắp, có người trốn thuế, buôn lậu,... Nhưng người ta thường dọn rác, tìm bắt kẻ cắp, người buôn lậu... chứ có ai bỏ chợ

bao giờ? [NL17, tr.300]

Nhìn chung thành phần mở rộng này của phát ngôn chứa hành động hỏi - phê

phán chính là phần cụ thể hóa một số thông tin như lý do, nguyên nhân, điều kiện... liên quan dẫn đến các hành vi, đặc điểm, tính chất mang tính tiêu cực của đối tượng

hỏi của phát ngôn. Như vậy có thể nói, thành phần mở rộng này có tác dụng gia tăng

hiệu lực cho HĐNN hỏi - phê phán

c. Cơ chế xác lập đích ngôn trung của hành động ngôn ngữ hỏi - phê phán

Theo Đỗ Hữu Châu, "Hành động hỏi gián tiếp có một số đặc điểm sau: 1) lệ

thuộc mạnh vào ngữ cảnh; 2) có một hoặc một số biểu thức hỏi đặc trưng; 3) dấu hiệu

hình thức là PNNH của HĐNN trực tiếp; 4) bị quy định bởi thuyết lập luận, phương

châm hội thoại, phép lịch sự,..." [12, tr.495-497]. Qua việc tìm hiểu các BTNH hỏi,

chúng tôi cho rằng để nhận diện đích ngôn trung của HĐNN hỏi - phê phán cần căn

cứ vào các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực sau:

i) ĐTNH của HĐNN hỏi;

ii) Các từ ngữ chuyên dụng cho hành động hỏi (như đã phân tích ở trên, mục.b

nêu trên);

iii) Dấu hiệu hình thức dấu hỏi đặt ở cuối phát ngôn;

iv) Căn cứ vào ngữ điệu: Ngữ điệu là một trong dấu hiệu đặc trưng của BTNV hỏi. Đó là yếu tố cao độ, trường độ, cường độ,... của phát ngôn. Với phát ngôn hỏi,

người nói thường hay lên cao giọng ở cuối phát ngôn. Vì vậy khi tiếp nhận phát ngôn,

139

người nghe cần dựa vào ngữ điệu của người nói để nhận diện phát ngôn hỏi;

v) Căn cứ vào NDMĐ và thành phần mở rộng có sự đánh giá tiêu cực. Đây là

một trong những nhân tố quyết định hiệu lực phê phán của hành động hỏi - phê phán.

Trường hợp hành động hỏi được thực hiện theo mô hình cấu trúc (5), thì sự kiện (X)

và hoặc hành động cần phải có nội dung đánh giá tiêu cực. Về nội dung này, chúng

tôi thống nhất với quan điểm của tác giả Đặng Thị Hảo Tâm: "Mảnh đoạn thực tại

được phản ánh vào nội dung (P) là những sự kiện (X) và hành động (C) của Sp2/ Sp3

giống như một bằng chứng, đồng thời mang đậm chất đánh giá chủ quan theo thang

độ âm của người nói. Khi được đối chiếu với lẽ thường nào đó, X/C sẽ mang hiệu lực

phê phán vì đi ngược lại theo quy chế của xã hội, cộng đồng, gây ra hậu quả xấu cho

mọi người xung quanh" [125, tr.115] Để xác định đích ngôn trung của HĐNN hỏi ở

BTNH hỏi nguyên cấp, người nghe cần căn cứ vào các dấu hiệu chỉ dẫn như NDMĐ

hỏi chứa nội dung đánh giá tiêu cực, các từ ngữ chuyên dụng cho hỏi, các từ ngữ đánh

giá tiêu cực;

vi) Dùng thao tác súy ý để nhận diện đích ngôn trung phê phán của hành động

hỏi - phê phán. Ngoài việc dựa vào dấu hiệu chỉ dẫn hiệu lực nêu trên, người nghe

cần có kiến thức tổng hợp sâu rộng về các lĩnh vực của cuộc sống từ đó nhận diện

chính xác đích ngôn trung phê phán ngầm ẩn của hành động hỏi. Chúng tôi cho rằng,

ba nhân tố mà tác giả Đặng Thị Hảo Tâm đưa ra: tri năng ngôn ngữ, tri năng bách

khoa, tri năng dụng học [125, tr.117] chính là các kiến thức tổng hợp về cuộc sống

nêu trên mà người tiếp nhận phát ngôn cần huy động để nhận diện hành HĐNN

hỏi - phê phán.

d. Cường độ lực ngôn trung của hành động ngôn ngữ hỏi - phê phán

So với HĐNN phê phán trực tiếp, HĐNN hỏi - phê phán là HĐNN có mức độ

đe dọa thể diện thấp hơn vì được thực hiện gián tiếp thông qua hành động hỏi. Song

so với các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện thực hiện HĐNNPP như

HĐNN than phiền - phê phán, trần thuật - phê phán, phỏng đoán - phê phán,... thì

HĐNN hỏi - phê phán có mức độ đe dọa thể diện cao hơn và thường ít có tính lịch sự.

Vì hành động hỏi - phê phán cũng thường động chạm đến một số vấn đề mang tính tế

nhị, nhạy cảm, cũng có thể bị coi là soi mói, là "xía mũi" vào chuyện riêng tư của

người khác. Cho nên khi sử dụng HĐNN hỏi - phê phán, người nói cũng cần dựa vào

những nhân tố như đối tượng, nội dung, hoàn cảnh và các nhân tố khác liên quan để

140

đưa ra chiến lược giao tiếp sao cho đạt hiệu quả cao.

3.2. Đặc điểm chung của những hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián

tiếp thực hiện hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí

Qua các phân tích (đã được trình bày ở mục 3.1) nêu trên, chúng tôi nhận thấy

các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP có một số điểm chung sau đây:

Về đích phê phán, HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP đều

hướng tới đích ngôn trung đó là phê phán, được thể hiện ngầm ẩn. Vì vậy, khi tiếp

nhận phát ngôn, người tiếp nhận cần có sự nhạy cảm, tinh tế cần thiết để nhận diện

đích phê phán ngầm ẩn của phát ngôn.

Chủ đề phê phán của HĐNNPP gián tiếp trong TPBC là các vấn đề, hành vi mà

người phê phán cho rằng không đúng, tiêu cực từ đó người nói bộc lộ quan điểm, thái

độ không đồng tình, không ủng hộ và mong muốn các đối tượng bị phê phán có sự

điều chỉnh hoặc thay đổi theo hướng tích cực. Các nhóm chủ đề của HĐNNPP gián

tiếp trong TPBC được chúng tôi thống kê trong bảng dưới đây (xem bảng 3.8)

Bảng 3.8. Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 1.152 HĐNNPP gián tiếp

Tần số xuất hiện STT Các nhóm chủ đề phê phán

Số lƣợng Tỉ lệ %

164

14,24

141

12,24

1 Tư tưởng, đạo đức, lối sống, ứng xử

123

10,7

2 Cơ chế, chính sách, quản lý NN

98

8,51

3

96

8,33

4

69

5,99

5

68

5,90

6

47

4,08

7 Kinh tế, thị trường, dịch vụ (mặt trái, ép giá, hàng ngoại, khủng hoảng, hàng giả, giá cả, chứng khoán...) Tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm (thất thoát tài sản NN, móc ngoặc, bệnh thành tích; bất công XH) Tệ nạn và tội ác XH (ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn lậu, cá độ, rượu chè, trò chơi điện tử....) Cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, quy hoạch; giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước. Văn hóa – XH, thể thao, du lịch (văn học nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh, cảnh quan, văn hóa đô thị, hủ tục ...

47

4,08

8 An ninh, trật tự XH; chủ quyền và bảo vệ tổ quốc, chiến tranh, khủng bố

46

3,99

9 Giáo dục, lao động hướng nghiệp; khoa học công nghệ

42

3,65

10 Đời sống người dân lao động

39

3,39

11 Quản lý, giáo dục con cái và thế hệ trẻ

141

12 Nông nghiệp - nông thôn; xây dựng nông thôn mới

35

3,04

32

2,78

13 Môi trường sinh thái, biến đổi khí hậu;

32

2,78

14 Tài nguyên (đất đai, rừng, khoáng sản)

22

1,91

15 Truyền thống văn hóa dân tộc

20

1,74

16 Y tế, an sinh XH; Vệ sinh, an toàn thực phẩm

18

1,56

17 Hội nhập quốc tế

13

1,13

18 Dân số, cư trú, hôn nhân - gia đình, bình đẳng giới, trẻ em

100,0

19 Báo chí, truyền thông, mạng XH; ấn phẩm xuất bản

Tổng 1.152

Bảng thống kê cho thấy chủ đề phê phán của HĐNNPP gián tiếp trong TPBC

thời kỳ Đổi mới vô cùng phong phú, đề cập tới các vấn đề, hiện tượng tiêu cực, sai

trái ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời (gồm 19 nhóm chủ đề).

Theo quan sát của chúng tôi, trong các nhóm chủ đề nêu trên có 5 nhóm chủ đề với

tần số xuất hiện cao hơn cả, được TPBC tập trung phản ánh, cụ thể thứ tự từ cao trở

xuống đó là: nhóm thứ nhất: chủ đề về đạo đức, lối sống, ứng xử xã hội (chiếm 14,2

%); nhóm thứ hai: Cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước (chiếm 12,2%); nhóm thứ

ba: Kinh tế, thị trường, dịch vụ (mặt trái, ép giá, hàng ngoại, khủng hoảng, hàng giả,

giá cả, chứng khoán...) (chiếm 10,7%); nhóm thứ tư: Tiêu cực, tham nhũng, lợi ích

nhóm (chiếm 8,5%); nhóm thứ năm là tệ nạn và tội ác xã hội (ma túy, mại dâm, cờ

bạc, buôn lậu, cá độ, rượu chè, trò chơi điện tử...).(chiếm 8,3%). Cụ thể đó là những

vấn đề tiêu cực, sai trái nảy sinh trong xã hội, thời kì Đổi mới đó là: sự tha hóa,

xuống cấp về đạo đức, lối sống xã hội; những bất cập về cơ chế quản lý, điều hành

của nhà nước; tệ nạn xã hội nói chung. Đó là hệ quả của sự tác động tiêu cực từ mặt

trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế trong thời kì Đổi mới tới các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Đây cũng chính là những vấn đề xã hội nhức nhối, gây ra những

bức xúc và hậu quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vấn đề này luôn mang tính thời sự, được

cả xã hội quan tâm. Đặc biệt, một số vấn đề xã hội mang tính nhạy cảm, nếu như ở

giai được trước thời kì Đổi mới, báo chí thường né tránh thì ở thời kỳ Đổi mới với

tinh thần đổi mới, những vấn đề đó được báo chí, TPBC "nói thẳng, nói thật", phơi

bày trước công luận. Đây là điểm khác biệt về nội dung, cách thức phản ánh hiện thực

của TPBC thời kỳ Đổi mới so với các thời kỳ trước đó.

Trong giao tiếp nói chung và trong HĐNNPP nói riêng, yếu tố nội dung chủ đề

142

có sự tác động, chi phối nhất định đến việc lựa chọn cách thức, chiến lược giao tiếp,

phê phán. Phê phán vốn là hành động de dọa thể hiện cao, vì thế tùy thuộc vào vấn

đề, nội dung, chủ đề phê phán mà người nói lựa chọn cách thức, chiến lược phê phán

sao cho phù hợp, nhằm hiệu quả và đích giao tiếp đặt ra.

Từ những chủ đề thống kê nêu trên, có thể thấy rằng, TPBC là thể loại luôn

bám sát thực tiễn, phản ánh một cách kịp thời, trung thực các sự kiện chính trị, kinh tế

- xã hội của đất nước, tư tưởng nguyện vọng chính đáng của nhân dân; thực hiện tốt

công tác tuyên truyền, giáo dục; trân trọng ủng hộ cái mới, tích cực, tiên tiến; đặc biệt

TPBC tập trung vào phản ánh, phê phán, lên án, đấu tranh các hiện tượng tiêu cực,

sai trái, cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội, hướng tới xây dựng xã hội lành mạnh

và tiến bộ hơn.

Trừ HĐNN mỉa mai (đánh giá cao với tính chất nói ngược để phê phán), còn lại

các HĐNN khác (đã được trình bày tại mục 3.1 nêu trên) được sử dụng để gián tiếp

thực hiện HĐNNPP đều có thành phần NDMĐ mở rộng phản ánh những sự việc,

hiện tượng, hành vi sai trái, tiêu cực trong xã hội gây hậu quả xấu, cho nên về bản

chất thành phần này mang tính định hướng đánh giá tiêu cực. Đây chính là điểm mấu

chốt nhất để nhận diện đích phê phán của những HĐNN được sử dụng để gián tiếp

thực hiện HĐNNPP.

Về các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng. Nhìn chung các HĐNN được sử

dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP dùng rất nhiều phương tiện ngôn ngữ chuyên

dụng ở các cấp độ khác nhau, như cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phương tiện

cận ngôn và ngoại ngôn, song nổi bật nhất là phương tiện ngôn ngữ ở cấp độ từ vựng

và ngữ pháp, trong đó ở cấp độ từ vựng, điển hình nhất là việc sử dụng hệ thống từ

ngữ mang tính đánh giá tiêu cực, với tần số xuất hiện cao. Vì vậy, theo chúng tôi, có

lẽ đây là dấu hiệu quan trọng để nhận diện các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực

hiện HĐNNPP.

Về cơ chế xác lập đích ngôn trung, khi nhận diện đích ngôn trung của các

HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP đó là ngoài việc căn cứ vào

các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng, người nghe cần có các tri thức nền sâu rộng

về các lĩnh vực liên quan (tác giả Đặng Thị Hảo Tâm gọi là "tri năng ngôn ngữ, tri

năng bách khoa, tri năng dụng học" [125, tr.117]) và cần kết hợp dùng thao tác suy ý,

143

gắn với ngữ cảnh để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn của phát ngôn.

Về cường độ lực ngôn trung, theo quan sát của chúng tôi, các HĐNN được sử

dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP có mức độ đe dọa thể diện thấp hơn so với

HĐNNPP trực tiếp. Tuy nhiên ở mỗi loại HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện

HĐNNPP có mức độ lực ngôn trung mạnh nhẹ khác nhau: nhóm HĐNN cường độ

nhẹ HĐNN trần thuật - phê phán, phỏng đoán - phê phán, thuyết giảng- phê phán,

than phiền - phê phán; nhóm HĐNN có cường độ hiệu lực mạnh hơn gồm HĐNN

mỉa mai - phê phán, hỏi - phê phán, phủ định - phê phán. Điều này cũng có thể lý giải

được, bởi truyền thống văn hóa giao tiếp của người Việt thiên về sự tế nhị, hài hòa.

Vì thế trong giao tiếp, người Việt hay sử dụng lối "nói gần, nói xa", để đảm bảo tính

lịch sự, giảm thiểu sự đe dọa thể diện. Hơn nữa báo chí của ta là báo chí cách mạng,

phê phán để hướng tới những điều tích cực, tốt đẹp, vì thế TPBC thường dùng cách

nói nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thâm thúy, ẩn chứa những thông điệp mà người tiếp

nhận cần có sự tinh tế, nhạy cảm để nhận ra. Đây chính là sự đan xen giữa đặc trưng

của phong cách báo chí với đặc trưng của phong cách văn chương nghệ thuật. TPBC

vạch ra những tiêu cực, sai trái trong xã hội với "tinh thần phê phán" nhằm hướng tới

những điều tích cực, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Đây cũng là lý do mà HĐNNPP

gián tiếp chiếm tỉ lệ cao (94,1%) hơn gấp nhiều lần so với HĐNNPP trực tiếp.

Khi giao tiếp, người nói cần căn cứ vào tính chất nội dung, vấn đề phê phán để

lựa chọn, sử dụng các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP sao cho

phù hợp và đạt hiệu quả giao tiếp cao.

Tiểu kết chƣơng 3

Có rất nhiều nhóm HĐNN được huy động sử dụng để gián tiếp thực hiện

HĐNNPP, gồm các nhóm HĐNN như nhóm HĐNN biểu cảm (HĐNN phàn nàn, than

phiền, phủ định); nhóm tái hiện (HĐNN trần thuật, phỏng đoán, thuyết giảng); nhóm

điều khiển (HĐNN đề nghị, khuyên, mong và hỏi). Trong các HĐNN đó, HĐNN trần

thuật là HĐNN có tần số xuất hiện cao hơn cả (57,5%). Điều này thể hiện sự tương

hợp giữa phương tiện ngôn ngữ với chức năng, đặc trưng của thể loại TPBC. Thực

chất, đó là việc người nói sử dụng trên bề mặt các HĐNN khác nhưng lại nhằm tới

hiệu quả một của HĐNNPP. Đây chính là lối nói vòng nhằm thực hiện đích phê phán

144

ngầm ẩn.

Các chủ đề phê phán của HĐNNPP gián tiếp trong TPBC đó là các vấn đề tiêu

cực được nảy sinh từ mặt trái cơ chế kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế,

như: sự tha hóa xuống cấp về đạo đức, lối sống ứng xử; sự bất cập của cơ chế, chính

sách, quản lý, điều hành nhà nước thời kỳ Đổi mới; kinh tế, thị trường, dịch vụ; các tệ

nạn và tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, buôn lậu, ma túy, cờ bạc... nảy sinh và

phát triển trong xã hội. Đây cũng chính là những vấn đề xã hội nhức nhối, gây ra tâm

lý bức xúc trong xã hội, cần sớm được giải quyết, hướng tới những điều tích cực, tốt

đẹp trong cuộc sống.

NDMĐ của HĐNNPP dù thể hiện sự than phiền, mỉa mai, phủ định hay cung

cấp thông tin hoặc thể hiện điều chưa biết,...song tất cả đều liên quan đến những sự

việc, hiện tượng, hành vi sai trái, tiêu cực,... mang tính định hướng đánh giá tiêu cực

từ đó hướng tới tinh thần phê phán, nhằm cải tạo, thay đổi theo hướng tích cực. Vì

vậy, theo chúng tôi, đây là dấu hiệu quan trọng nhất để nhận diện các HĐNN được sử

dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

Trong trường hợp phát ngôn có NDMĐ đánh giá tích cực thông qua sử dụng các

từ ngữ mang tính đánh giá tích cực (đối với HĐNN mỉa mai - phê phán) thì người

tiếp nhận phát ngôn, cần linh hoạt dựa vào thao tác suy ý qua cách nói ngược, hàm ý

để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn của phát ngôn.

Nhìn chung các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP sử dụng

rất nhiều phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng ở các cấp độ khác nhau, như cấp độ ngữ

âm, từ vựng, ngữ pháp, phương tiện cận ngôn và ngoại ngôn, song nổi bật nhất là

phương tiện ngôn ngữ ở cấp độ từ vựng và ngữ pháp, trong đó ở cấp độ từ vựng, điển

hình nhất là việc sử dụng hệ thống từ ngữ mang tính đánh giá tiêu cực, với tần số xuất

hiện cao.

Để xác định đích ngôn trung của HĐNNPP được thực hiện gián tiếp thông qua

các HĐNN khác cần thực hiện theo hai bước sau:

Bước 1: Nhận diện HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP

(chúng tôi tạm gọi các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP là

HĐNN phương tiện). Người nghe cần nhận diện HĐNN phương tiện tức HĐNN được

145

sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP thông qua các dấu hiệu chỉ dẫn hiệu lực

ngôn hành gồm: các động từ ngôn hành; các từ ngữ chuyên dụng; các từ ngữ đi kèm

như: phụ từ tình thái, phụ từ chỉ mức độ,...; Và các biểu thức ngôn ngữ chuyên dụng.

Bước 2: Nhận diện, xác lập đích ngôn trung phê phán của HĐNN được sử dụng

để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

Khi nhận diện đích ngôn trung của các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực

hiện HĐNNPP, ngoài việc căn cứ vào các dấu hiệu chỉ dẫn, NDMĐ mở rộng, ngữ cảnh phát ngôn, người tiếp nhận cần kết hợp dùng thao tác suy ý, liên tưởng, kết nối,

xâu chuỗi các sự kiện, các vấn đề với nhau trên cơ sở kinh nghiệm và vốn kiến thức

sâu rộng về các lĩnh vực của cuộc sống để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn của các

phát ngôn chứa HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

Về cường độ lực ngôn trung, theo quan sát của chúng tôi, HĐNN nào có sự đe

dọa thể diện cao, tính lịch sự thấp thì thường là hiệu lực phê phán sẽ mạnh. Ngược lại HĐNN nào có mức độ đe dọa thể hiện thấp thì hiệu lực phê phán yếu. Tuy nhiên mỗi

loại HĐNN được sử dụng để gián tiếp để thực hiện HĐNNPP lại có mức độ đe dọa thể

diện và cường độ lực ngôn trung khác nhau.

HĐNNPP là một trong những HĐNN nhạy cảm, có khả năng đe đọa thể diện

cao đối với người bị phê phán; nếu thực hiện trực tiếp thường khó thực hiện, nên

HĐNNPP chủ yếu được thực hiện gián tiếp thông qua các HĐNN khác, để giảm thiểu

sự đe dọa thể diện đối với người nghe, đồng thời cũng hạn chế bớt sự ảnh hưởng đến

chính người thực hiện HĐNNPP. Với HĐNNPP được thực hiện theo lối gián tiếp,

nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thâm thúy, TPBC đã tạo được hiệu quả giao tiếp cao, tác

động mạnh mẽ tới người tiếp nhận. Đây chính là biểu hiện của sự đan xen giữa đặc

trưng của phong cách báo chí với đặc trưng của phong cách văn chương nghệ thuật.

Báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giám sát, phản biện và định

hướng dư luận xã hội. Thông qua các phát ngôn chứa HĐNNPP, tác giả TPBC phê

phán các hiện tượng, hành vi tiêu cực trong xã hội đang tồn tại, gây ra những tác động và hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời tác giả TPBC mong muốn đối tượng bị phê phán nói riêng và công chúng nói chung hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đây chính là vai trò định hướng tư tưởng, hành động của TPBC. "Định hướng không chỉ là yêu cầu của quyền lực chính trị, mà còn là yêu cầu khách quan của công chúng cần thống nhất nhận thức, thái độ và hành vi, cần tạo đồng thuận để khai thác,

146

phát huy mọi nguồn lực vật chất và tinh thần xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống và chất lượng cuộc sống [33, tr.138].

KẾT LUẬN

Thể loại TPBC ra đời do yêu cầu khách quan của xã hội và do những nhiệm vụ

của báo chí đặt ra. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của đất nước, TPBC có những đặc

điểm, nhiệm vụ riêng của mình. Thời kỳ Đổi mới (từ năm 1986 đến nay), với sự đổi

mới về nhiều phương diện của đời sống xã hội, cùng với sự chuyển mình của đất

nước, trong xu thế dân chủ cởi mở, nền báo chí cách mạng của nước nhà nói chung

trong đó có thể loại TPBC đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô số lượng và chất lượng tác phẩm.

Nghiên cứu HĐNNPP trong TPBC từ góc độ ngữ dụng học, luận án đã tập trung

vào một số vấn đề cơ bản đó là: khảo sát các HĐNN trong TPBC, nghiên cứu

HĐNNPP được thực hiện trực tiếp và gián tiếp. Từ những khảo sát, phân tích cụ thể,

luận án đi đến những kết luận chung sau đây:

1. Hành động ngôn ngữ phê phán là hành động đánh giá thấp, bộc lộ quan điểm

không đồng tình, phản đối của người phát ngôn (Sp1) đối với hành vi nào đó bị coi là

xấu, sai trái, tiêu cực của Y (người bị phê phán), nhằm mục đích tác động tới nhận

thức, thái độ, hành vi của người tiếp nhận phát ngôn (Sp2) để hướng họ tới sự đấu

tranh, bài trừ, xóa bỏ hành vi sai trái, tiêu cực đó.

2. HĐNNPP là một hành động nhạy cảm, có mức độ đe dọa thể diện cao.

HĐNNPP là HĐNN chủ đạo trong thể loại TPBC, được thực hiện bằng hai hình thức

đó là trực tiếp và gián tiếp. Hình thức phê phán gián tiếp là thông qua việc sử dụng

các HĐNN khác để gián tiếp thực hiện HĐNNPP. Trong hai hình thức đó, HĐNNPP

trực tiếp xuất hiện với tần số thấp hơn nhiều so với HĐNNPP gián tiếp.

3. HĐNNPP trực tiếp được thể hiện bằng hai dạng đó là BTNHPP tường minh

và BTNHPP nguyên cấp. BTNHPP tường minh là BTNH có chứa ĐTNHPP như: phê

bình, phê phán, phản đối, lên án,... Đây là những động từ thể hiện tường minh sự phê

phán của người nói, cho nên việc thực hiện HĐNNPP bằng BTNH tường minh ít có

tính lịch sự và có mức độ đe dọa thể hiện cao. Vì vậy người nói thường thực hiện

HĐNNPP bằng BTNHPP nguyên cấp (không sử dụng ĐTNHPP) nhằm hạn chế, giảm

thiểu mức độ đe dọa thể diện đối với đối tượng bị phê phán và có thể cả đối với người

phê phán (Sp1). Đây có thể được coi là một trong những chiến lược phê phán của tác

giả TPBC tiếng Việt.

4. Cấu trúc BTNHPP ở dạng đầy đủ gồm có 4 thành phần chính, được sắp xếp

theo trình tự sau: 1) Người phát ngôn - Sp1 (đối tượng phê phán); 2) ĐTNHPP; 3)

147

Người tiếp nhận phát ngôn - Sp2; 4) NDMĐPP. Ở vị trí thứ nhất, trong TPBC, Sp1

(chủ ngôn đưa ra lời phê phán) có thể là nhân vật được xây dựng trong TPBC hoặc có

thể là tác giả của TPBC với tư cách đại diện cho tờ báo hay cả ngành báo chí cách

mạng, thay mặt công chúng nói lên tiếng nói phê phán những đối tượng tiêu cực trong

xã hội. Vị trí thứ hai là ĐTNHPP, đóng vai trò là một trong những phương tiện chính

yếu đánh dấu hiệu lực ngôn hành của phát ngôn phê phán. So với các HĐNN khác, số

lượng động từ/ cụm ĐTNH thực hiện HĐNNPP trong TPBC hết sức ít ỏi và với tần

số xuất hiện vô cùng thấp. Vị trí thứ ba là thành phần Sp2 - chủ thể tiếp nhận phát

ngôn. Trong TPBC, có thể phân ra hai nhóm đối tượng tiếp nhận lời phê phán, đó là: 1)

Đối tượng tiếp nhận lời phê phán là công chúng mà báo chí hướng đến, giúp họ nhận

thức về hành vi tiêu cực của đối tượng được phản ánh trong phát ngôn, từ đó có ý thức

đấu tranh bài trừ cái xấu, cái ác, đem lại sự tiến bộ, công bằng cho xã hội; 2) Đối tượng

tiếp nhận lời phê phán là đối tượng bị phê phán. Vị trí thứ tư là NDMĐPP - thành

phần hạt nhân giúp nhận diện đích ngôn trung của HĐNNPP.

5. Thành phần NDMĐPP thường mang tải những thông tin cơ bản đó là: 1)

Thông tin về đối tượng bị phê phán; 2) Thông tin về hành vi, đặc điểm tiêu cực, sai

trái, không đúng đắn của đối tượng bị phê phán. Phần NDMĐ của BTNHPP trong

TPBC, các tác giả đã khai thác hiệu quả những phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng

như các phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Đặc biệt là việc sử dụng triệt để và

hiệu quả hệ thống từ ngữ đánh giá thấp, tiêu cực, kết hợp với các phương tiện ngôn

ngữ khác như: quán ngữ tình thái, từ ngữ xưng hô và từ ngữ chỉ người, các cấu trúc

cú pháp chuyên dụng, các phương tiện ngữ âm,... để thực hiện đích ngôn trung phê

phán và tăng cường hiệu lực phê phán cho phát ngôn phê phán. NDMĐ đánh giá tiêu

cực được xem là điều kiện tiên quyết để nhận diện đích phê phán của phát ngôn.

6. Về nội dung chủ đề phê phán của HĐNNPP trong TPBC thời kỳ Đổi mới vô

cùng phong phú, đề cập tới các vấn đề, hiện tượng tiêu cực, sai trái ở hầu hết các lĩnh

vực của đời sống xã hội đương thời. Trong các nhóm chủ đề đó, TPBC quan tâm

phản ánh, phê phán nhiều hơn cả đó là nội dung chủ đề sự tha hóa xuống cấp về đạo

đức; sự bất cập của cơ chế, chính sách, quản lý điều hành của nhà nước thời kỳ Đổi

mới; các tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, ma túy...nảy sinh và phát triển từ tư tưởng lợi

ích, tư hữu cá nhân,... Đó là những vấn đề xã hội nhức nhối, gây ra tâm lý bức xúc và

hậu quả xấu cho xã hội, vì thế nó luôn mang tính thời sự, được cả xã hội quan tâm và

đặt ra yêu cầu cần được giải quyết, điều chỉnh theo hướng tích cực. Từ nội dung chủ

đề phê phán, có thể thấy rằng TPBC thời kì Đổi mới luôn là thể loại báo chí theo sát,

phản ánh kịp thời diễn biến mọi mặt đời sống chính trị, xã hội của đất nước, đặc biệt

148

là việc phản ánh và phê phán, lên án, đấu tranh với những hành vi tiêu cực, sai trái

trong xã hội, được phản chiếu rõ nét trong HĐNNPP của TPBC. Đặc biệt, nếu như

trước thời kì Đổi mới, một số vấn đề xã hội mang tính nhạy cảm, báo chí thường né

tránh, thì ở thời kỳ Đổi mới với tinh thần đổi mới, những vấn đề nhạy cảm đó được

báo chí, TPBC "nói thẳng, nói thật", phơi bày trước công luận, với tinh thần phê phán

để xây dựng, hướng tới những điều tích cực, tốt đẹp. Đây là điểm nổi bật, khác biệt

về mặt nội dung của TPBC thời kỳ Đổi mới so với các thời kỳ trước đó.

7. Ngoài BTNH, phát ngôn phê phán có thể sử dụng thêm thành phần mở rộng,

bổ trợ, tăng cường. Phổ biến trong TPBC là thành phần mở rộng nêu cơ sở của sự phê

phán và thành phần mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán. Những thành phần

mở rộng, bổ trợ trong phát ngôn phê phán đều có vai trò nhất định trong việc điều

biến lực ngôn trung của HĐNNPP.

8. HĐNNPP được thực hiện gián tiếp sử dụng khá đa dạng các nhóm HĐNN

khác nhau, mỗi nhóm gồm một số HĐNN điển hình. Các nhóm HĐNN này gồm

nhóm biểu cảm (HĐNN phàn nàn, than phiền, phủ định); nhóm tái hiện (HĐNN trần

thuật, phỏng đoán, thuyết giảng); nhóm điều khiển (HĐNN đề nghị, khuyên, mong và

hỏi). Trong các nhóm nêu trên, nhóm HĐNN tái hiện có tần số xuất hiện cao nhất

(72,2%), và trong đó HĐNN trần thuật cũng là HĐNN có tần số xuất hiện cao nhất

(57,5%). Điều này chứng tỏ rằng, trong TPBC, HĐNNPP gián tiếp chủ yếu được thực

hiện thông qua HĐNN trần thuật - phê phán, bởi đặc trưng, chức năng của báo chí nói

chung trong đó có TPBC, đó là chức năng thông tin về các vấn đề có tính thời sự diễn

ra trong đời sống xã hội. Qua đây, chúng tôi thấy có sự tương hợp giữa phương tiện

ngôn ngữ với chức năng, đặc trưng của thể loại TPBC.

9. Để nhận diện, xác lập đích ngôn trung của các HĐNNPP, ngoài việc căn cứ

vào các ĐTNH, các từ ngữ chuyên dụng, các dấu hiệu chỉ dẫn, NDMĐ, ngữ cảnh

phát ngôn, người tiếp nhận cần kết hợp dùng thao tác suy ý, liên tưởng, kết nối, xâu

chuỗi các sự kiện, các vấn đề với nhau trên cơ sở kinh nghiệm và vốn kiến thức sâu

rộng về các lĩnh vực liên quan của cuộc sống để nhận diện đích phê phán ngầm ẩn

của các phát ngôn chứa HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

10. Các HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện HĐNNPP sử dụng rất nhiều

phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng ở các cấp độ khác nhau, như cấp độ ngữ âm, từ

vựng, ngữ pháp, phương tiện cận ngôn và ngoại ngôn. Để xác định đích ngôn trung

của HĐNNPP được thực hiện gián tiếp thông qua các HĐNN khác cần thực hiện theo

hai bước: bước một là nhận diện HĐNN được sử dụng để gián tiếp thực hiện

HĐNNPP; bước hai là nhận diện đích ngôn trung phê phán của HĐNN được sử dụng

149

để gián tiếp thực hiện HĐNNPP.

11. Về cường độ lực ngôn trung của HĐNNPP, HĐNN được sử dụng trực tiếp

có cường độ lực ngôn trung mạnh hơn nhiều so với HĐNNPP được thực hiện gián

tiếp. Vì thế mà HĐNNPP trực tiếp có mức độ đe dọa thể hiện cao hơn so với các

HĐNN được thực hiện gián tiếp. Tuy nhiên ở mỗi loại HĐNN được sử dụng để gián

tiếp thực hiện HĐNNPP có mức độ lực ngôn trung mạnh nhẹ khác nhau; các HĐNN

như mỉa mai, hỏi, phủ định có cường độ hiệu lực phê phán mạnh hơn các HĐNN trần

thuật, đề nghị, khuyên, mong, than phiền.

12. HĐNNPP trong TPBC được thực hiện theo hai cách thức, chiến lược đó là

trực tiếp và gián tiếp. HĐNNPP gián tiếp sử dụng rất nhiều HĐNN khác nhau nhằm

thực hiện đích phê phán ngầm ẩn. Điều đó thể hiện sự đa dạng về nghệ thuật phê

phán. Cách thức, chiến lược thực hiện HĐNNPP bị chi phối bởi nhiều nhân tố văn

hóa - xã hội, trong đó có nhân tố chính trị, truyền thống văn hóa của người Việt, chi

phối bởi phép lịch sự trong giao tiếp và sự chi phối của nền báo chí cách mạng, nội

dung chủ đề phê phán,... nên các tác giả TPBC - chủ thể của các HĐNNPP trong

TPBC thường chọn thực hiện HĐNNPP gián tiếp để đảm bảo tính lịch sự trong giao

tiếp, đồng thời để giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện. Phê phán một cách nhẹ nhàng

nhưng sâu cay, thấm thía. TPBC đã tạo được hiệu quả giao tiếp cao, tác động mạnh

mẽ tới người tiếp nhận. Đây cũng chính là biểu hiện của sự đan xen giữa đặc trưng

của phong cách báo chí với đặc trưng của phong cách văn chương nghệ thuật.

13. Có thể nói, HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt là hành động có tính chủ đích

và mang tính định hướng xã hội. Với HĐNNPP, TPBC thời kỳ Đổi mới (từ năm 1986

đến nay) đã đồng hành với Đảng, nhà nước và nhân dân ta trong việc phê phán, đấu

tranh ngăn chặn các hành vi tiêu cực, sai trái trong xã hội. Trên cơ sở phê phán, đấu

tranh với cái xấu, cái ác, HĐNNPP trong TPBC đã định hướng tư tưởng, hành động

của xã hội theo hướng tích cực, hướng tới xây dựng xã hội lành mạnh, tốt đẹp hơn.

14. Hướng nghiên cứu tiếp theo của luận án về HĐNNPP từ góc độ dụng học đó

là một số vấn đề như: các nhân tố chi phối việc sử dụng HĐNNPP, yếu tố quyền lực,

yếu tố giới, yếu tố chủ đề, đối tượng,... cũng như sự mở rộng tới các lĩnh vực liên

quan trong cuộc sống. Những vấn đề đó, chúng tôi mong muốn sẽ được tiếp tục

nghiên cứu ở các công trình tiếp theo trong tương lai khi có điều kiện.

15. Các kết quả nghiên cứu về HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt một cách toàn

diện và hệ thống sẽ là những chỉ dẫn, gợi mở quan trọng và hữu ích cho việc sử dụng

HĐNNPP trong giao tiếp nói chung, trong tác nghiệp TPBC nói riêng một cách có

hiệu quả, nhằm hướng tới những chuẩn mực, những điều tích cực, tốt đẹp trong cuộc

150

sống.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Các bài viết đăng trên các Tạp chí khoa học

1) Hà Văn Hậu (2018), "Hành động ngôn ngữ than phiền - phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ (Viện Ngôn ngữ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), số 7/2018.

2) Hà Văn Hậu (2018), "Hành động ngôn từ phê phán ở đầu đề tiểu phẩm báo chí tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam), số 7/2018.

3) Hà Văn Hậu (2018), "Lớp từ ngữ xưng hô, định danh thể hiện trên hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt", Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội), số 6/2018.

-----

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, Nxb. Lao

động, Hà Nội.

2. Hoàng Anh (2003), "Chơi chữ trên báo", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

3. Hoàng Anh (2008), Những kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại

chúng, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

4. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp, văn bản, mạch lạc, liên kết, đoạn văn, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Nguyễn Bảo (1999),"Viết tắt trên báo hiện nay", Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống,

số 4.

6. Nguyễn Trọng Báu (1995), Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí, Nxb. Quân đội

Nhân dân, Hà Nội.

7. Chử Thị Bích (2008), Cấu trúc của lời nói cho, tặng trong giao tiếp tiếng Việt,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

8. Claudia Mart (2004), Truyền thông đại chúng: những kiến thức cơ bản, Nxb.

Thông tấn, Hà Nội.

9. Đỗ Hữu Châu (1992), "Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của dụng học hiện

nay", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1 & 2.

10. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, Nxb. ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

11. Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng (2007), Ngữ dụng học, giáo trình CĐSP, Nxb.

ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

12. Đỗ Hữu Châu (2009), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 - Ngữ dụng học, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

13. Đinh Kiều Châu (2014), Ngôn ngữ truyền thông qua ba sản phẩm truyền thông

(trên tư liệu tiếng Việt), Luận án tiến sĩ NNH, ĐHKHXH&NV- ĐHQGHN, HN.

14. Đinh Kiều Châu (2016), Ngôn ngữ truyền thông và tiếp thị, góc nhìn từ lý luận

đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

15. Vũ Thị Sao Chi (2016), Tiếng Việt hành chính, Nxb. KHXH, Hà Nội.

16. Vũ Thị Sao Chi, Đỗ Thị Thanh Nga (2016), "Đặc điểm hành vi ngôn ngữ tái hiện

trong văn bản hành chính tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 02 và số 4, Hà Nội.

17. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số đặc điểm văn hóa ứng xử của hành vi từ chối

trong tiếng Anh, liên hệ với tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học.

18. Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh, Trần Thị Nguyệt (2014), "Khảo sát

152

hiện tượng chệch chuẩn trên báo chí", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 2, tr15-19.

19. Huỳnh Thị Chuyên (2014), Ngôn ngữ bình luận trong báo in tiếng Việt hiện

nay, Luận án tiến sĩ KH, Học viện KHXH, Hà Nội.

20. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgic - Ngữ nghĩa - Cú pháp, Nxb. Đại học và

THCN, Hà Nội.

21. Nguyễn Đức Dân (1996), Lôgic và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Đức Dân (1998), "Lý thuyết lập luận", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5.

23. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Dân (2003), "Phương pháp hỏi: một nghệ thuật lập luận", Tạp chí

Kiến thức ngày nay, số 450, tr.42- 47.

25. Nguyễn Đức Dân (2004), "Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo

chí", Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tr 1-7.

26. Nguyễn Đức Dân (2007), Ngôn ngữ báo chí - những vấn đề cơ bản, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

27. Đức Dũng (1998), Các thể ký báo chí, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

28. Đức Dũng (2008),"Tiểu phẩm - một thể loại văn học năng động trong môi

trường báo chí", Tạp chí Sóng trẻ, Hà Nội.

29. Đức Dũng (2013), “Thể loại tiểu phẩm và tiếng cười trong tiểu phẩm", Tạp chí

Nghề báo, tháng 4.

30. Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền thông - Lý thuyết và kĩ

năng cơ bản, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb. Lao động, Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, Nxb. ĐHQG, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb. Lao động, Hà Nội.

34. Nguyễn Thị Bạch Dương (2011), “Nhóm động từ ngôn hành thể hiện hành động

cam kết trong văn bản hành chính", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư.

35. Hữu Đạt (2000), Phong cách học và phong cách chức năng tiếng Việt, Nxb.

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

36. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nxb. Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

37. Phan Cự Đệ (2005), Di sản báo chí Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn,

Nxb. Văn học, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Độ (1999), Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện hành động thỉnh

cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, ĐHKHXH&NV HN, Hà Nội.

39. Lê Đông - Nguyễn Văn Hiệp (2001), Ngữ nghĩa – ngữ dụng các tiểu từ tình thái

153

tiếng Việt, Công trình khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Đinh Văn Đức (1999), “Quan yếu trong cấu trúc diễn ngôn bản tin chính trị- xã

hội trong báo tiếng Anh và tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr.25-34.

41. Đinh Văn Đức (2003), “Ngôn ngữ báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX: một quan sát về

ngôn ngữ của báo chí cách mạng VN, giai đoạn 1925 - 1945", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

42. Hà Minh Đức (1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. ĐHQG

Hà Nội, Hà Nội.

43. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí - đặc tính chung và phong cách,

Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

44. Phạm Hữu Đức (2008), Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản tin tiếng Việt so sánh với

văn bản tin tiếng Anh, Luận án TSNNH, ĐHKHXH&NV, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh.

45. Geosge Yule (2003), Dụng học, Nxb. ĐHQG Hà Nội (Nhóm tác giả Trúc

Thanh, Hồng Nhâm dịch từ bản in lần thứ ba 1997).

46. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học XH, Hà Nội.

47. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Ngôn ngữ học, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

48. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Dụng học Việt ngữ, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

49. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb. ĐHQG HN.

50. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

51. Nguyễn Thiện Giáp (2013), "Mối quan hệ giao tiếp & cách xưng hô của người

Việt", Trang Web Trung tâm Văn hóa học và Ứng dụng, ĐHKHXH&NV,

ĐHQG Tp. HCM.

52. Lê Thị Thúy Hà (2015), Lịch sự trong hành động ngôn từ phê phán của người

Việt và người Anh, Luận án tiến sĩ NNH, Học viện KHXH, Hà Nội.

53. Dương Tuyết Hạnh (2007), Hành động nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong giao

tiếp bằng tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

54. Đặng Mỹ Hạnh (2014), Đặc điểm vốn từ trong các tác phẩm của nhà báo Hữu

Thọ, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện KHXHVN, Hà Nội.

55. Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, Nxb. ĐHQG, Hà Nội.

56. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

57. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, Trường Viết văn Nguyễn

Du, Hà Nội.

58. Nguyễn Văn Hiệp (2007), “Một số phạm trù tình thái trong ngôn ngữ", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 8.

59. Nguyễn Văn Hiệp (2007), Cú pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

154

60. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb. Giáo dục, HN.

61. Vũ Ngọc Hoa (2011), Hành động ngôn từ cầu khiến trong văn bản hành chính,

Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

62. Nguyễn Hòa (1999), Phân tích diễn ngôn về chính trị- xã hội trên tư liệu tiếng

Anh và tiếng Việt hiện đại, LA tiến sĩ Ngữ văn, ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN.

63. Nguyễn Hòa (2003), Phân tích diễn ngôn - Một số vấn đề về lý luận và phương

pháp, Nxb. ĐHQG HN, Hà Nội.

64. Nguyễn Hòa (2006), Phân tích diễn ngôn phê phán: lý luận và phương pháp,

Nxb. ĐHQG HN, Hà Nội.

65. Đỗ Việt Hùng (2011), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb. Giáo dục VN, Hà Nội.

66. Mai Xuân Huy (2005), Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao

tiếp, Nxb. KHXH, Hà Nội.

67. Đỗ Quang Hưng (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam (1865-1945), Nxb. ĐHQG

Hà Nội, Hà Nội.

68. Nguyễn Thị Thanh Hương (2003), Đối chiếu ngôn ngữ phóng sự trong báo in

tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐH KHXH&NV HN,

Hà Nội.

69. Vũ Thị Thanh Hương (2000), Lịch sự và phương thức thể hiện tính lịch sự trong

lời cầu khiến tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Vũ Thị Thanh Hương (2006) (đồng dịch giả), Ngôn ngữ, văn hoá và xã hội: Một

cách tiếp cận liên ngành, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

71. Đinh Văn Hường (2011), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb. ĐHQG HN, HN.

72. John R Hohenberg (1974), Ký giả chuyên nghiệp: lý thuyết và thực hành trong các

ngành truyền thông đại chúng, Hiện đại Thư xã, Sài Gòn.

73. John Lyons (1995), Ngữ nghĩa học dẫn luận, (Nguyễn Văn Hiệp dịch từ nguyên

bản tiếng Anh: Linguistic Semantics- An Introduction, 1995, Cambridge University

Press), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

74. Nguyễn Thế Kỷ (2016), “Ngôn ngữ trên các phương tiện thông tin đại chúng:

những vấn đề đặt ra cho hôm nay", Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Báo chí 30 năm

đổi mới, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, tr.23 - 26.

75. Nguyễn Văn Khang (1996), Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người

Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

76. Nguyễn Văn Khang (1996), Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ gia

đình người Việt, Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb.

155

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

77. Nguyễn Văn Khang (1998), Vấn đề chính tả tiếng Việt cho các đơn vị từ vựng

nước ngoài và gốc nước ngoài trên sách báo tiếng Việt; Tiếng Việt và các ngôn

ngữ dân tộc thiểu số của Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, tr.204- 215.

78. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

79. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb. Giáo dục VN, Hà Nội.

80. Nguyễn Văn Khang (2014), “Giao tiếp xưng hô tiếng Việt bằng từ thân tộc và việc sử

dụng chúng trong giao tiếp công quyền", Tạp chí Ngôn ngữ & ĐS, số 10, HN, tr.38-47.

81. Nguyễn Đăng Khánh (2008), Lối nói vòng trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án

tiến sĩ, ĐHKHXH&NV Tp. HCM, Tp. Hồ Chí Minh.

82. Lương Đình Khánh (2012),“Những hàm ý ngữ dụng liên quan đến từ thì và

cách dùng nó để biểu hiện các hành vi ngôn ngữ", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời

sống, số 9, tr.11-15.

83. Bùi Đình Khôi (1992), Nghề nghiệp và công việc của Nhà báo, Hội Nhà báo

VN, Hà Nội.

84. Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

85. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

86. Đào Thanh Lan (2011), “Nhận diện hành động mời và rủ trong tiếng Việt", Tạp

chí Ngôn ngữ, số 3, tr.15-19.

87. Khuất Thị Lan (2000), Hành động ngôn ngữ rào đón thuộc phương châm về

chất trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao, Luận án TS, ĐHSP Hà Nội. 88. Leonard Ray Teel và Ron Taylor (2004), Bước vào nghề báo, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ

Chí Minh.

89. Hồ Lê (1995), Quy luật ngôn ngữ, Nxb. Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.

90. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb. ĐHQG, Hà Nội.

91. Trịnh Thị Bích Liên (2009), Phóng sự Việt Nam thời kì Đổi mới, Nxb. Chính trị

- Hành chính, Hà Nội.

92. Line Ross (2004), Nghệ thuật thông tin, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.

93. Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu

thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án TS KH Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

94. Hồ Xuân Mai (2014), Ngôn ngữ báo chí và biên tập báo, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

95. Trần Chi Mai (2005), Phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong

tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt), Luận án tiến sĩ, ĐHKHXH&NV Hà Nội.

156

96. Nguyễn Tri Niên (2004), Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

97. Trần Thu Nga (2007), Đầu đề tác phẩm báo chí trên báo in Việt Nam hiện nay,

Luận án tiến sĩ, Học viện Báo chí & TT, Hà Nội.

98. Vũ Tố Nga (2010), Sự kiện lời nói cam kết trong hội thoại, Luận án tiến sĩ KH

Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

99. Nguyễn Thị Thanh Ngân (2016), Các hành động cầu khiến tiếng Việt, Nxb.

ĐHQGHN, Hà Nội.

100. Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Văn Hiệp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Đại

học QG HN, Hà Nội.

101. Nguyễn Hoài Nguyên (2008), “Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố",

Tạp chí Khoa học, tập XXXVI số 4 B, Trường ĐH Vinh, Nghệ An.

102. Trần Thanh Nguyện (2011), Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh.

103. Phân viện BC&TC (2001), Báo chí - Những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb. Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

104. Hoàng Phê (1989), Lôgic và ngôn ngữ học, Nxb. KHXH, Hà Nội.

105. Hoàng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

106. Trần Thế Phiệt (2014), Tác phẩm chính luận báo chí, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN.

107. Philip Gaillard (2003), Nghề làm báo, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.

108. Đào Nguyên Phúc (2007), Lịch sự trong đoạn thoại xin phép của tiếng Việt,

Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

109. Trần Thị Thu Phương (2015), Thành phần rào đón ở hành vi hỏi và hồi đáp

trong giao tiếp tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt), Luận án tiến sĩ, Học viện

KHXH, Hà Nội.

110. Trần Kim Phượng (2001), “Về các điều kiện của động từ ngôn hành tiếng Việt",

Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr.39-44.

111. Cao Thị Xuân Phượng (2011), Phóng sự Việt Nam thời kì Đổi mới, Luận án tiến

sĩ Ngữ văn, Học viện KHXH, Hà Nội.

112. Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mỹ trong

cách thức khen và tiếp nhận lời khen, Luận án tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội.

113. Võ Đại Quang (2004), “Lịch sự: Chiến lược giao tiếp hướng cá nhân hay chuẩn

mực xã hội?", Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN, số 1, tr.33-44.

114. Phan Quang (2005), Nghề báo, nghiệp văn, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.

115. Dương Văn Quảng (1998), “Phương pháp nghiên cứu báo chí", Tạp chí Thông

157

tin KHXH, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

116. Nguyễn Hồng Sao (2010), So sánh ngôn ngữ báo chí tiếng Việt và tiếng Anh

qua một số thể loại, Luận án tiến sĩ NV, Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh.

117. Trịnh Sâm (2008), “Đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ góc độ hoạt động báo

chí ở Tp. Hồ Chí Minh", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, tr.38- 44.

118. Sirivvong Hongsawan (2009), Nghiên cứu đối chiếu hành động bác bỏ trong tiếng

Thái và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Đại học KHXH&NV, ĐHQG HN.

119. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận báo chí

truyền thông, Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

120. Dương Xuân Sơn (2009), Giáo trình báo chí truyền thông, Nxb. ĐH Quốc gia,

Hà Nội.

121. Dương Xuân Sơn (2012), Giáo trình các thể loại báo chí chính luận - nghệ

thuật, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

122. Dương Xuân Sơn (2013), Báo chí Việt Nam thời kỳ Đổi mới, Nxb. ĐHQG Hà

Nội, Hà Nội.

123. Lý Sinh Sự (2007), Hãy viết tiểu phẩm đi, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.

124. Huỳnh Văn Tài (2005), “Bước đầu xem xét đặc điểm ngữ nghĩa của lớp từ mới

tiếng Việt trên báo chí giai đoạn 2005- 2007", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, tr.38- 44.

125. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lí giải hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội

thoại, Luận án tiến sĩ KH Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

126. Đặng Thị Hảo Tâm (2010), Hành động ngôn từ gián tiếp và sự tri nhận, Nxb.

Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

127. Tạ Ngọc Tấn (2000), Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, Nxb.Văn hóa - TT, Hà Nội.

128. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

129. Tạ Ngọc Tấn (2008), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb.Văn hóa -Thông tin, HN.

130. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại (trên ngữ liệu tiếng

Việt), Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

131. The Missouri Group (2014), Nhà báo hiện đại, Nxb. Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

132. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, HN.

133. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

134. Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hóa - ngôn ngữ học", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 4, tr.32-37.

135. Ngô Gia Thi (2002), “Đôi nét về chữ và nghĩa trên báo Giáo dục và Thời đại

chủ nhật", Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 8, tr 47- 48.

136. Lê Quang Thiêm (2005), “Những bước tiến trong kiến giải nghĩa tín hiệu ngôn

ngữNhững bước tiến trong kiến giải nghĩa tín hiệu ngôn ngữ," " Tạp chí Ngôn

158

ngữ, số 11.

137. Lê Quang Thiêm (2006), “Về các tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng”,

Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.

138. Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Thị Hằng Thu (2011), Giáo trình tác phẩm báo chí

đại cương, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

139. Phạm Văn Tình (2000), “Ngữ nghĩa ngữ dụng của cặp liên từ logic “nếu…thì”",

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Ngữ dụng học lần thứ nhất, Hà Nội.

140. Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, HN.

141. Nguyễn Đức Tồn (1999), “Hoạt động ngôn ngữ phát thanh và truyền hình từ

cách nhìn của tâm lí ngôn ngữ học", Tạp chí Ngôn ngữ, số 9, tr 8-17.

142. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và

tư duy ở người Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

143. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,

Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

144. Trường Tuyên huấn Trung ương (1977, 1978), Giáo trình nghiệp vụ báo chí, tập

1 & 2, Hà Nội.

145. Viện Ngôn ngữ học (2010), (Hoàng Phê chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

146. Viện Ngôn ngữ học (2014), Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và

hội nhập (Kỷ yếu hội thảo KH Quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

147. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, HN.

148. Vốtxkobôinhicốp và Iyriev (1998), Nhà báo: bí quyết kĩ năng - nghề nghiệp

(Người dịch Nguyễn Văn Dững và Hoàng Anh), Nxb. Lao động, Hà Nội.

149. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

150. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ

(1999), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

151. Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng

Việt, Luận án tiến sĩ KH Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

152. Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện lời nói cảm thán trong tiếng

Việt, Luận án tiến sĩ KH Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

153. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt (cấu trúc

và ngữ nghĩa), Luận án tiến sĩ KH Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

154. Nguyễn Thị Hải Yến (2000), Hành vi chê với biểu thức, phát ngôn và tham

thoại tiếp nhận chê, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội.

155. Trần Thị Hoàng Yến (2014), Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi

qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, Luận án tiến sĩ, ĐH Vinh,

159

Nghệ An.

Tiếng Anh

156. Austin J.L (1962), How to do things with words, CAMBRIDGE (MASS). 157. Anna Wierzbicka (1987), English Speech act verbs, Academic Press Australia. NSW. 158. Anna Wierzbicka (1991), Cross-Cultural Pragmatics The Semantics of Human

Interation, Mouton de Gruyter, Berlin New York.

159. Brown G. &Yule G. (1983), Discourse Analysis, Cambrige University Press. 160. Brown P. and Levinson S.C (1987), Politeness: Some Universals in Language

Usage, Cambrige University Press.

161. Hoang Thi Xuan Hoa (2008), The speech act of criticizing by the Vienamese and Anglo-

American: a cross- culture stud, Ph.D Dessertation. VNU-CFL

162. Grice H.P (1975), Logic and Conversation. In: P. Cole and J.L Morgan (eds.), Syntax anh

Pragmatics, vol.3: Speech Acts, New York and London, Academic Press.

163. Leech G.N, (1983), Principles of Pragmatics, Longman, London &New York. 164. Nguyen Thi Thuy Minh (2005), Criticizing and Responding to Criticism In A Foreign Language: A study of Vietnamese Learners of English, PhD.Thesis. The University of Auckland.

165. Searle J.R (1975), A taxonomy of illocutionary Acts, in K.Gunderson (ed) Language,

Mind and knowledge, Minneapolis: Univercity of Minnesota Press.

166. Searle J.R (1976), A Clasification of Illocutionary Acts “Language in Society”,

No 5, P1 -23, Cambrige University Press.

167. Searle J.R (1979), Expression and Meaning: Studies in the Theory of Speech

Acts, Cambrige University Press.

168. Searle J.R (1980), The Background of Meaning: Speech Act Theory and

Pragmatics, Dordrecht: Reidel.

169. Doan Tran Thuy, Van (2010), A study of verbal criticism in English and Vietnamese,

M.A.Thesis, Hanoi national University, College of foreign Language.

170. Yule (1996), Pragmatics, Oxford University Press.

---

160

DANH MỤC NGUỒN NGỮ LIỆU TIỂU PHẨM BÁO CHÍ ĐƢỢC TRÍCH DẪN (Tuyển tập tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời kỳ Đổi mới)

1. Đồ Bì (2011), Chuyện dây cà kéo ra dây bí, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ngọc Đản (2006), Không thể làm ngơ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nam Sơn Ký Giả (2014), Chuông làng báo, NxB Văn học, Hà Nội.

4. Lê Thị Liên Hoan (2005), Phỏng vấn một anh hề, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

5. Lê Hoàng (2011), Phỏng vấn con bò, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

6. Lê Hoàng (2012), Thư trứng gà gửi chứng khoán, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.

7. Lê Văn Nghĩa (2010), Tào lao xịt bộp, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

8. Minh Phong (2012), Cuộc đời tươi đẹp, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Hà Nội.

9. Xuân Sách (2010 ), Từ từ rồi tính, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

10. Xuân Sách (2011), Cơm và phở, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

11. Lý Sinh Sự (2008), Nói hay đừng, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

12. Hữu Thọ (1995), 99 chuyện đời (1993 - 1995), Nxb Văn học, Hà Nội

13. Hữu Thọ (1995), Sông đỏ, sông đen (1992 - 1995), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

14. Hữu Thọ (1999), Của chùa (1996 - 1999), Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Hữu Thọ (2004), Chạy,… (2001- 2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Hữu Thọ (2006), Ô, dù, lọng (2004 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Hữu Thọ (2007), Người hay cãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Hữu Thọ (2009), Ghế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Hữu Thọ (2011), Nể và né, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Hữu Thọ (2011), Xiếc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Hữu Thọ (2015), Quét cầu thang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

---

161

22. Trần Nhã Thụy (2013), Váy ơi là váy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 23. Nhiều tác giả (2013), Thầy dạy làm hề, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 24. Nhiều tác giả (2006), Chồng của hoa hậu, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 25. Nhiều tác giả (2012), Thư gửi vợ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.