ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------

BÙI THỊ NGHỆ

HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------

BÙI THỊ NGHỆ

HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ MINH THU

THÁI NGUYÊN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Hát Xoan ở xã Hy Cƣơng,

huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trƣờng phổ thông”

là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn

là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020

Tác giả luận văn

i

Bùi Thị Nghệ

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám

hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý thầy, cô giáo khoa Ngữ văn

trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp

đỡ trong suốt quá trình học tập.

Tác giả xin chân thành cảm ơn: Lãnh đạo, giáo viên trường, học sinh THPT

Lâm Thao và trường THPT Ba Vì và cá nhân gia đình bà Nguyễn Thị Sen ... đã tạo

mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn: PGS.TS.

Nguyễn Thị Minh Thu, người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời

gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K26 chuyên ngành Ngữ văn trường ĐHSP

Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng

nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này.

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii

MỤC LỤC............................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... v

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9

7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 9

NỘI DUNG ........................................................................................................ 11

Chƣơng 1: HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG TRONG KHÔNG GIAN VĂN

HÓA HUYỆN LÂM THAO, PHÚ THỌ ............................................................ 11

1.1 Khái quát về xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ...................... 11

1.2. Khái quát về Hát Xoan ............................................................................... 14

1.2.1. Khái niệm................................................................................................. 14

1.2.2. Nguồn gốc của hát Xoan ......................................................................... 16

1.2.3. Đặc trưng của hát Xoan ........................................................................... 20

1.3 Khái quát về hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. ...... 24

Tiểu kết .............................................................................................................. 27

Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA HÁT XOAN Ở XÃ HY

CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ ........................................... 28

2.1. Nội dung của hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ....... 28

2.1.1. Hát Xoan phản ánh đời sống tín ngưỡng, phong tục của người lao động ..... 28

iii

2.1.2. Hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của người lao động ............ 33

2.1.3 Hát Xoan phản ánh tình yêu lứa đôi ......................................................... 38

2.2. Nghệ thuật ................................................................................................... 45

2.2.1. Thể thơ ..................................................................................................... 45

2.2.2. Kết cấu ..................................................................................................... 46

2.2.3. Ngôn ngữ ................................................................................................. 49

2.2.4. Diễn xướng hát Xoan ............................................................................... 53

Tiểu kết .............................................................................................................. 60

Chƣơng 3: HÁT XOAN XÃ HY CƢƠNG VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC,

GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG ........................................................ 62

3.1. Thực trạng hoạt động giáo dục và giảng dạy hát Xoan ở huyện Lâm

Thao, tỉnh Phú Thọ .................................................................................. 62

3.1.1. Kết quả khảo sát công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh trung học

phổ thông ở trường THPT Lâm Thao và trường THCS xã Hy

Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ .................................................. 62

3.1.2. Một số kết quả đã đạt được trong công tác giáo dục hát Xoan cho

học sinh phổ thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ .......................... 67

3.1.3. Một số hạn chế trong công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ

thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ................................................ 69

3.2. Đề xuất bổ sung một số hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh

phổ thông ở huyện Lâm Thao, Phú Thọ .................................................. 70

3.2.1. Cơ sở, nguyên tắc, quy trình .................................................................... 70

3.2.2. Đề xuất một số hoạt động giáo dục cụ thể .............................................. 74

Tiểu kết .............................................................................................................. 78

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 82

PHỤ LỤC ...............................................................................................................

iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DSVH Di sản văn hóa

DSVHPVT Di sản văn hóa phi vật thể

GS.TS/ PGS.TS Giáo sư. Tiến sĩ/ Phó giáo sư. Tiến sĩ

HĐNK Hoạt động ngoại khóa

NXB Nhà xuất bản

THCS, THPT Trung học cơ sở, Trung học phổ thông

UBND Ủy ban nhân dân

v

UNESCO Tổ chức Văn hóa, khoa học, giáo dục của Liên hợp quốc

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình

lại có nét đặc sắc riêng. Trong số các loại hình nghệ thuật phi vật thể được thế

giới công nhận, hát Xoan là một trong những di sản văn hóa đáng tự hào nhất

của Việt Nam nhờ có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng.

Nhắc đến Phú Thọ là chúng ta nhắc đến một nền văn hóa sinh hoạt dân

gian hát Xoan và là nơi Đất Tổ Hùng Vương - Kinh đô của nước Văn Lang, nhà

nước đầu tiên của người Việt. Ở nơi hợp lưu 3 con sông Đà, sông Lô và sông

Thao, từ cách đây mấy nghìn năm trước, dưới sự trị vì của vua Hùng Vương, đất

nước Văn Lang vui hưởng thái bình, muôn dân ấm no, ngày đêm ca hát.

Trong tiến trình phát triển của lịch sử hàng nghìn năm ấy, vùng đất Phú

Thọ đã hình thành nên một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú và

quý giá, trong đó phải kể đến nghệ thuật hát Xoan, một loại hình dân ca nghi lễ

đặc sắc, thường được biểu diễn tại các đình làng vào dịp mùa Xuân nhằm tưởng

nhớ ơn đức Vua Hùng. Với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: Trống, Hát và Múa,

phường hát Xoan biểu diễn cũng là để cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng

tươi tốt, đồng thời ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, mô tả lao động, sinh hoạt ở

nông thôn...

Là loại hình dân ca nghi lễ, hát Xoan phải tuân theo những quy tắc khá

nghiêm ngặt của phong tục, tín ngưỡng như chỉ được biểu diễn vào những ngày

nhất định trong năm (thường là vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch); biểu diễn

hát Xoan phải ở phía trước nhang án trong gian Đình cũng như việc tập luyện

chỉ được tổ chức trong nhà. Mỗi làn điệu hát Xoan khi biểu diễn phải kết hợp

được nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa múa và hát cùng nhạc cụ cơ bản là Trống

cái, Trống quân.

Xét từ góc độ văn học, lời hát Xoan là di sản văn học dân gian rất tiêu

1

biểu của người dân Phú Thọ nói chung và xã Hy Cương nói riêng. Việc nghiên

cứu về hát Xoan ở xã Hy Cương và vấn đề giáo dục học sinh phổ thông ở huyện

Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ chính là tìm hiểu sâu sắc về di sản văn học dân gian đó

ở một địa bàn văn hóa tiêu biểu và mối liên hệ giữa di sản văn hóa đó với vấn đề

giáo dục học sinh ở các trường phổ thông trong địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh

Phú Thọ, để từ đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát triển hát Xoan ở xã Hy

Cương nói riêng ở học sinh phổ thông của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Thực trạng nhận thức và giữ gìn, phát huy giá trị hát Xoan trong đời

sống, cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Xoan đang chịu

những tác động tiêu cực của xã hội hiện đại và đang có nguy cơ mai một dần.

Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Sen chia sẻ: "Trước đây, hát Xoan rất được ưa

chuộng, nó có mặt trong tất cả các đêm hội của làng. Nhưng cùng với sự đổi

thay của lịch sử, nghệ thuật hát Xoan cũng trải qua nhiều biến cố thăng trầm,

các nghệ nhân hát Xoan ngày càng vắng bóng. Gần chục năm trở lại đây, tôi đã

mở lớp truyền dạy hát Xoan miễn phí nhưng cũng mới có gần ít dần người theo

học" (phỏng vấn ngày 18-9-2020). Và trong Nhà trường đặc biệt là môi trường

THPT các em học sinh không hào hứng và không thích đối với lĩnh vực văn

hóa văn học dân gian này.

Lí do cá nhân, do môi trường công tác của tác giả luận văn có khoảng

cách gần với địa danh xã Hy Cương, đây là động lực để tác giả thực hiện

nghiên cứu luận văn về hát Xoan nơi đây

Với những lí do trên, tác giả quyết định chọn nghiên cứu về “Hát xoan ở

xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường

phổ thông”.

Đề tài Hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với

vấn đề giáo dục ở trường phổ thông là cần thiết và là đề tài hoàn toàn mới,

nghiên cứu này xuất phát từ nhu cầu của lý luận và thực tiễn đang diễn ra trên

địa bàn tỉnh Phú Thọ và không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào

2

trước đó.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hát Xoan là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tiêu

biểu của người Việt khu vực đồng bằng và trung du Bắc bộ, vì thế hát Xoan trở

thành đối tượng nghiên cứu của khá nhiều công trình. Tuy nhiên các công trình

nghiên cứu chủ yếu từ góc độ văn hóa, bảo tồn, từ góc độ âm nhạc. Còn nghiên

cứu hát Xoan dưới góc độ văn học thì chưa có nhiều công trình đề cập đến. Tuy

vậy, để thực hiện vấn đề nghiên cứu trong luận văn này, chúng tôi đã khảo cứu,

kế thừa một số những kết quả nghiên cứu dưới đây trong các sách tham khảo và

bài báo khoa học đã công bố, đăng tải.

Đầu tiên, công trình nghiên cứu về hát Xoan đó là Hát Xoan- dân ca cội

nguồn- Công trình nghiên cứu văn hóa dân gian, xuất bản năm 1965 [tr 40-46]

của Dương Huy Thiện. Ở bài nghiên cứu này tác giả đã khái lược và đưa ra giả

thuyết về nguồn gốc của hát Xoan của từng khu vực dân cư như: người dân ở

Cao Mại (Lâm Thao) với giả thuyết hát Xoan có từ thời vua Hùng; người dân ở

phường Xoan Kim Đới (Việt Trì) với giả thuyết hát Xoan có từ nhà Lê; người

dân ở Nhang Nộn (Tam Nông) với giả thuyết hát Xoan có từ thời nhà Lý;

người dân phường Xoan Thét (Phù Ninh) với truyền thuyết hát Xoan phát tiết

từ mối quan hệ kết nghĩa giữa hai làng Tử Du và Phù Liễn. Tác giả cũng nêu

những vấn đề về tổ chức, sinh hoạt và trang phục về những đặc điểm và giá trị

nghệ thuật của hát Xoan; những đặc trưng của âm nhạc, lời ca và điệu múa

trong hát Xoan. Tuy nhiên ở luận văn này, tôi muốn đưa đến cho người đọc

những đóng góp, đổi mới của hát Xoan đến với người đọc dưới góc nhìn văn

học trên nền tảng những công trình đi trước đã đề cập đến hát Xoan.

Tiếp theo chúng ta phải kể đến là công trình nghiên cứu Hát Xoan - dân

ca nghi lễ, phong tục, Nxb Âm nhạc (1997) của tác giả Tú Ngọc [tr 165]. Đây

là công trình nghiên cứu đa chiều về hát Xoan Phú Thọ. Tác giả đưa ra những

nghiên cứu sâu về nguồn gốc và lịch sử phát triển của hát Xoan trên cơ sở nhận

3

định và đánh giá những truyền thuyết, huyền thoại, những thư tịch, tư liệu cổ

về hát Xoan; đề cập đến đặc trưng của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan và

một số hình thức dân ca nghi lễ của vùng trung du, châu thổ Bắc bộ; những đặc

điểm và tính phức hợp về mặt thể loại trong hát Xoan. Tuy nhiên ở công trình

này hát Xoan chỉ được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa tín ngưỡng. Đây là tiền

đề cơ sở để tác giả luận văn có những khẳng định những giá trị đặc sắc của hát

Xoan và đưa ra những bàn luận, những hướng đi để bảo tồn và phát huy được

những giá trị của hát Xoan trong điều kiện, tình hình mới.

Công trình Hát Xoan Phú Thọ (1998) [tr 112-114] của tác giả Nguyễn

Khắc Xương với cách tiếp cận của văn hóa dân gian đã phân tích, làm rõ một

số vấn để như: Nguồn gốc và sự phát triển của nghệ thuật hát Xoan; không gian,

thời gian, địa lý hành chính vùng Xoan, truyền thống văn hoá quê hương Xoan;

phương thức trình diễn hát Xoan; ngôn ngữ hát Xoan, các quả cách (làn điệu)

Xoan, trang phục hát Xoan. Ông phân tích rõ mọi đặc điểm của hát Xoan

không chỉ cái cốt lõi là âm nhạc đến hình thức diễn xướng của từng quả cách,

mà còn hiểu rõ mọi tín ngưỡng, phong tục tập quán, lề lối tổ chức làng xã cổ

truyền của người Việt vùng trung du đất Tổ và các tục lệ của nó như: tục lệ đưa

đón, tiếp đãi, tục giữ cửa đình, tục kết chạ, tục tế lễ, tục phường họ… Ở công

trình này hát Xoan được nghiên cứu trong mối quan hệ với âm nhạc chứ chưa

nghiên cứu sâu hát Xoan trong mối quan hệ với văn học.

Công trình Hát Xoan ở Phú Thọ (Xoan singing in Phú Thọ) (2010),

Vietnamese Institute for musicology, Department of Culture, Sports and

Tourism in Phú Thọ province [tr 120-134], là tập hợp các bài viết, bài phát biểu

trong Hội thảo khoa học quốc tế về Hát Xoan do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức. Các bài viết tập trung nghiên

cứu về nguồn gốc hình thành, lịch sử phát triển, các giá trị đặc trưng trong điệu

múa, lời ca của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan với các loại hình dân ca

các tỉnh trung du và đồng bằng sông Hồng như hát hát Xoan, hát trống quân,

4

hát chèo thuyền. Tác giả Sheen Dea Cheol (Hàn Quốc) và tác giả Xiao Mei

(Trung Quốc) đưa ra những so sánh những điểm tương đồng giữa hát Xoan của

Việt Nam với nghệ thuật biểu diễn mừng đầu năm - cuối năm của người Hàn

Quốc và phong cách ca hát của Trung Quốc. Vấn đề bảo tồn, phát huy và phổ

biến hát Xoan trong xã hội ngày nay cũng là một vấn đề được nhiều tác giả đề

cập đến để Hát Xoan giữ mãi được những giá trị đặc trưng đặc sắc và được phổ

biến rộng rãi, có được sức sống lâu bền.

Về các nghiên cứu là bài báo, bài viết có thể kể đến các kết quả dưới đây:

hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9

Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn

Tác giả Duy Linh với bài “Sức lan tỏa của làn điệu cổ - Hát Xoan”

(2010), Tạp chí Đất Tổ, số 5, tr. 3-7 đã giới thiệu sức sống và sự lan tỏa của hát

Xoan qua vị trí, địa bàn hoạt động là trung tâm của di sản hát Xoan và các vùng

lân cận: thôn An Thái (xã Phượng Lâu - TP Việt Trì), thôn Thét, thôn Phù Đức,

thôn Kim Đái (xã Kim Đức - TP Việt Trì) và 17 xã, địa bàn liên quan đến hát

Xoan. Quy mô phát triển của Hát Xoan qua thời gian.

Bài viết “Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường”, (2012) của

tác giả Cao Khắc Thùy đã tổng quan về hát Xoan và Hát Ghẹo - một trong

những nét văn hóa đặc trưng thời kì Hùng Vương. Tác giả cũng công bố những

kết quả sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo từ giữa những năm 1950 đến

nay, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm khôi phục, bảo tồn ở các làng

Xoan, Ghẹo gốc và tiếp tục phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Kiến nghị về việc

thành lập các trung tâm sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo.

Trong bài “Lịch sử hình thành và phong tục hát Xoan Phú Thọ”, (2013)

của Cao Văn Định với “Tập san di sản văn hóa Đất Tổ”, số 2, (tr 7-10) có nói

rằng trên mặt trống đồng Hùng Vương có những cảnh người múa hát. Một số

nhà nghiên cứu xem đó là sinh hoạt múa hát Việt Nam thời cổ đại và cho rằng

hát Xoan có nguồn gốc từ đây. Đã có một số bài dựa vào truyền thuyết Hùng

5

Vương để tìm ra nguồn gốc hát Xoan. Tất nhiên, truyền thuyết có cốt lõi từ lịch

sử, là sự thăng hoa của lịch sử. Nhưng truyền thuyết chỉ là truyện dân gian

truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang

yếu tố thần kì. Chẳng hạn từ một câu chuyện về một hoàng hậu của Vua Hùng

trong cơn khó đẻ nghe dân chúng múa hát mà dễ bề sinh nở. Vua khen các điệu

múa hát, sai các Mị Nương học lấy để lưu truyền. Lối hát múa này diễn ra vào

màu xuân nên gọi là hát Xoan, chính vì vậy có thể nói hát Xoan có từ thời

Hùng Vương dựng nước.

Cũng đã có một số tác giả đề cập đến vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị của

hát Xoan trong các bài báo của mình như Tác giả Lê Thị Hoài Phương trong

bài “Bảo tồn Hát Xoan (Phú Thọ) gắn liền với không gian thờ cúng Hùng

Vương” (Báo Phú Thọ, năm 2017) đã nghiên cứu vấn đề bảo tồn hát Xoan ở

Phú Thọ gắn liền với không gian thờ cúng Hùng Vương qua việc trả lời và giải

quyết từng câu hỏi: Bảo tồn bằng cách nào? Bảo tồn bằng cái gì? Bảo tồn như

thế nào? Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số ý kiến mang tính

phương pháp luận như: khôi phục lại càng sớm càng tốt môi trường văn hóa

cho hát Xoan, Việc truyền dạy nghệ thuật hát Xoan, chính sách của nhà nước

hỗ trợ vật chất cho hoạt động này.

Trong công trình “Những giá trị tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú

Thọ”, (Tạp chí Thế giới di sản, số 5, tr 6-7), GS.TS Nguyễn Chí Bền đã giới

thiệu Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua góc nhìn lịch sử. Phân tích những

giá trị Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua các phương diện: “Ở phương

diện xã hội, giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự thể hiện tính cố

kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc. Có thể coi tín ngưỡng thờ cúng

Hùng Vương như một sợi chỉ đỏ, nối kết quá khứ với hiện tại, là bệ đỡ tâm linh

cho các thế hệ con người Việt Nam”. Tác giả khẳng định tín ngưỡng thờ cúng

Hùng Vương là một sáng tạo văn hóa của người Việt qua trường kỳ lịch sử,

sáng tạo này mang tầm kiệt tác của nhân loại. Đó là một kho tàng văn hóa dân

gian từ truyền thuyết đến lễ hội, từ ẩm thực đến nghi lễ liên quan đến Hùng

6

Vương được dân gian sáng tạo và lưu truyền.

Như vậy có thể thấy, hát Xoan đã được quan tâm, nghiên cứu khá nhiều

tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về hát Xoan trong mối quan hệ

với văn học và hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ

gắn với vấn đề giáo dục người học. Tuy vậy, các vấn đề liên quan mà các công

trình nghiên cứu của các học giả đi trước đã đề cập dưới các góc độ và cách

tiếp cận khác nhau sẽ là những thông tin, tư liệu rất hữu ích để chúng tôi tiếp

tục nghiên cứu hoàn thiện với một cách nhìn mới, điều kiện hoàn cảnh mới.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy

Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường phổ thông

hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi vấn đề: Nghiên cứu dựa trên nội dung và nghệ thuật của các văn

bản hát Xoan mà tác giả sưu tầm được, thực trạng lưu truyền và giáo dục các

bài hát Xoan cho học sinh phổ thông. Một số biện pháp giáo dục hát Xoan cho

học sinh phổ thông trên địa bàn huyện Lâm Thao, Phú Thọ.

Phạm vi tư liệu: Trong luận văn tác giả sử dụng chủ yếu tư liệu điền dã

sưu tầm từ các nghệ nhân đặc biệt từ nghệ nhân Nguyễn Thị Sen hiện cư trú ở

làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Ngoài ra, tôi còn sử dụng liệu được sưu tầm, biên

soan trong công trình “Tổng tập hát Xoan Phú Thọ”, 2016, do Sở văn hóa, thể

thao và du lịch Phú Thọ xuất bản [tr 22- 170].

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện nhằm cung cấp thêm cho người đọc có thêm

hững hiểu biết về nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng và huyện Lâm

Thao, Phú Thọ nói chung, từ đó gây dựng niềm yêu thích và hứng thú của nhân

7

dân Việt Nam với loại hình nghệ thuật truyền thống quý giá và đặc sắc này.

Đặc biệt, đối với đề tài này, người làm nghiên cứu muốn chú trọng đến vấn đề

phát huy, vận dụng hát Xoan trong công tác giáo dục, giảng dạy ở trường phổ

thông trên địa bàn xã Hy Cương, Huyện Lâm Thao. Người thực hiện nghiên

cứu hiểu rằng, muốn phát huy được giá trị văn hóa thì cần việc thay đổi nhận

thức từ gốc rễ, tức là thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ ở tỉnh Phú

Thọ nói riêng cần được nâng cao nhận thức, phải tạo niềm đam mê từ phía các

bạn đối với “báu vật” của quê hương.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục tiêu mà nghiên cứu đặt ra, người thực hiện nghiên cứu tự nhận

thấy các nhiệm vụ mà mình sẽ và cần thực hiện để đạt được các mục tiêu trên

như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về hát

Xoan ở ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ.

Thứ hai, nghiên cứu, phân tích sâu về nội dung và nghệ thuật của các bài

hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ, chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung

và nghệ thuật các bài hát với đời sống sinh hoạt, văn hóa của nhân dân.

Thứ ba, khảo sát thực trạng giáo dục, giảng dạy hát Xoan trong các trường

Phổ thông trung học huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và cuối cùng là đề xuất các

giải pháp nhằm phát huy tối đa việc giáo dục hát Xoan cho thế hệ trẻ trên địa bàn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:

Phương pháp điền dã văn học: Điền dã văn hóa văn học dân gian để sưu

tầm các bài hát, khảo sát được thực trạng cụ thể về hoạt động giáo dục hát Xoan ở

xã Hy Cương, Lâm Thao, nhu cầu của học sinh phổ thông về hát Xoan, tạo cơ sở

cho để làm cơ sở nghiên cứu nội dung nghệ thuật để đề xuất một số biện pháp.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở tổng hợp, phân loại tư liệu

điền dã chúng tôi sử dụng phương pháp này để tiến hành phân tích những điểm

nổi bật về giá trị nội dung và nghệ thuật của hát Xoan ở xã Hy Cương. Sau khi

8

đã phân tích, chúng tôi đưa ra những nhận xét tổng hợp, đánh giá sâu sắc về cả

phương diện nội dung, nghệ thuật của hát Xoan ở Hy Cương, đánh giá thực

trạng, nhu cầu của học sinh ở một số trường phổ thông đối với hát Xoan.

Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng bước

đầu để chỉ ra một số nét tương đồng cũng như khác biệt, nét đặc sắc của hát

Xoan ở xã Hy Cương với hát Xoan Phú Thọ nói chung.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Hát Xoan vốn gắn liền với đời

sống của người dân, không tách rời hoạt động diễn xướng trong dân gian, bởi

vậy, khi tiếp cận hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, chúng tôi tiếp cận ở

nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học khác nhau như âm

nhạc, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, văn học, du lịch, trong mối quan hệ với đời

sống văn hóa tín ngưỡng gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng để có được

những hiểu biết đầy đủ, khoa học nhất về hát Xoan.

6. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình đầu tiên tổng hợp và nghiên cứu sâu về hệ thống các

bài hát Xoan ở xã Hy Cương, đặc biệt trong vấn đề vận dụng hát Xoan vào

công tác giáo dục học sinh phổ thông. Cụ thể tác giả đã sưu tầm thống kê được

23 bài hát Xoan từ các nghệ nhân, đây có thể coi là tư liệu rất đáng quý góp

phần tạo nên diện mạo phong phú cho hát Xoan ở Phú Thọ nói chung. Đề tài

hoàn thành có thể được sử dụng như một nguồn tham khảo cho các nghiên cứu

sau này về hát Xoan ở Phú Thọ nói chung và hát Xoan ở xã Hy Cương nói

riêng. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, hát Xoan dù mang giá trị nghệ thuật và

văn hóa lớn, cần được bảo tồn và phát huy song mức độ đầu tư nghiên cứu, tìm

hiểu và phổ biến kiến thức về loại hình này chưa cao. Số lượng nghiên cứu

chuyên sâu rất ít. Do đó, việc thực hiện đề tài như một loại tài liệu tham khảo

cho những nghiên cứu chuyên sâu sau này là hết sức thực tiễn.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của

9

luận văn được trình bày trong ba chương:

Chương 1: Hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ

Chương 2: Nội dung và nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm

Thao, Phú Thọ

10

Chương 3: Hát Xoan với vấn đề giáo dục, giảng dạy ở trường phổ thông

NỘI DUNG

Chƣơng 1

HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA

HUYỆN LÂM THAO, PHÚ THỌ

1.1 Khái quát về xã Hy Cƣơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

Xã Hy Cương nằm ở phía Tây của huyện Lâm Thao, phía đông giáp xã

Kim Đức và phường Vân Phú (TP. Việt Trì), phía Tây giáp xã Tiên Kiên

(huyện Lâm Thao), phía Nam giáp xã Chu Hóa (TP. Việt Trì) và phía Bắc giáp

xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh). Xã có diện tích 7,03 km² trong đó có hơn 5,00

km² thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng, dân số năm 2006 là 4.760 người, mật

độ dân số đạt 595 người/km².

Xã Hy Cương được xem là một trong những điểm hành hương quan

trọng của người Việt Nam vì nơi đây có đền thờ và mộ Tổ Vua Hùng. Nơi đây

cũng được xác định như khu vực của trung tâm nhà nước Văn Lang cổ xưa, có

nhiều di tích thờ Hùng Vương, gia quyến và các tướng lĩnh thời Hùng Vương,

là nơi bảo tồn được bản Ngọc phả quý với tên gọi đầy đủ là Hùng đồ thập bát

diệp thánh vương Ngọc phả cổ truyện do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố

biên soạn vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê

Thánh Tông, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính vào năm Canh Tý

niên hiệu Hoằng Định thứ nhất (1600) đời vua Lê Kính Tông và Lễ phiên Lê

Đình Hoan phụng sao. Ngọc phả ghi đầy đủ về 18 đời vua Hùng, còn ghi đầy

đủ danh tính của 100 người con từ bọc trứng do Quốc mẫu Âu Cơ sinh ra. Đây

còn là nơi sản sinh và lưu truyền nghệ thuật Hát Xoan đến tận ngày nay.

Trải qua hàng ngàn năm cư dân Văn Lang đã góp phần xây dựng cơ sở

vật chất, tạo nền tảng dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền

thống tinh thần Việt Nam.

Từ lâu đời nay, cư dân Phú Thọ là con cháu người Việt cổ, họ bảo lưu

nhiều phong tục tập quán cổ truyền và tiếp tục truyền thống đấu tranh bảo vệ

11

độc lập chủ quyền đất nước. Những cư dân nơi đây do giao lưu văn hóa,

thương mại và thích ứng với hoàn cảnh để cải tiến công cụ sản xuất, đưa trình

độ sản xuất ngày một phát triển cao hơn… một số vùng đã trở thành nơi đô hội,

có làng nghề đúc, làng nghề gốm, nung gạch, đan lát… Cũng có nơi trở thành

thị trường buôn bán sầm uất. Mặc dù bị bọn đô hộ áp bức nặng nề, nhưng do

cần cù lao động và thông minh sáng tạo, lại biết đùm bọc bảo vệ lẫn nhau, nên

cư dân nơi đây vẫn đẩy mạnh sản xuất, phát triển không ngừng mọi mặt và tiến

bộ nhanh hơn bộ phận dân cư sống biệt lập lâu đời, với nền kinh tế tự cấp, tự

túc ở vùng miền núi.

Từ thế kỷ X trở đi diễn ra sự phân lập người Mường và người Việt.

Người Lạc Việt ở đồng bằng trung du đông hơn, điều kiện phát triển kinh tế

thuận lợi nên đã hình thành dân tộc Việt hiện đại, phân hóa với người Mường

là bộ phận người Lạc Việt sống ở miền núi. Có thể nói con người Phú Thọ là

những cư dân sống lâu đời trên vùng Đất Tổ của đất nước Việt Nam được phát

triển ngày một đông trong quá trình lịch sử. Các thành phần cư dân sống trên

đất Phú Thọ, cơ bản vẫn là làm nông nghiệp, lấy cây lúa nước làm kinh tế chủ

đạo. Trước Cách mạng tháng Tám, nông dân chiếm 99%. Sau cách mạng đặc

biệt từ năm 1954 tới nay, do sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế- xã hội, từ nền nông

nghiệp, chúng ta xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa, do đó thành phần

công nhân và thị dân tăng lên, nhưng bản thân họ vẫn là người xuất thân từ

nông dân, phẩm chất, phong cách, lề lối làm ăn sinh sống vẫn còn mang nhiều

sắc thái nông dân. Phú Thọ ngoài hai thành phần chủ yếu là người Việt cổ và

người Mường, còn có các thành phần dân tộc Dao, Cao Lan… chiếm số lượng

ít nhưng đã hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Phú Thọ. Đó là sự giao lưu,

đan xen văn hóa tạo nên sắc thái riêng phong phú đa dạng trên cơ sở văn hóa

truyền thống từ thời Hùng Vương. Chính các sắc thái đó ảnh hưởng quyết định

tới sự hình thành truyền thống tinh thần của nhân dân các dân tộc Phú Thọ. Đó

là những phẩm chất tốt đẹp của cư dân vùng Đất Tổ, dòng dõi người Việt cổ

Phùng Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun- Đông Sơn, những con người tham gia

12

vào công cuộc chinh phục thiên nhiên vùng đất Ngã ba sông từ ngày đầu dựng

nước, đã góp phần xương máu vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Họ đã

cùng đồng bào cả nước viết lên truyền thống tốt đẹp: Lòng yêu nước thương

nòi, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất, niềm tin sâu sắc và mãnh

liệt vào tài năng của mình.

Trên một ngàn di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng kháng chiến lớn

nhỏ, trong đó có trên 300 di tích đã được Bộ Văn hóa và UBND tỉnh xếp hạng

bảo vệ, hiện còn là minh chứng lịch sử hùng hồn, là niềm tự hào của người dân

Phú Thọ. Đặc biệt Khu di tích lịch sử Đền Hùng- nơi có đền thờ Quốc Tổ Hùng

Vương và rất nhiều di tích vừa có giá trị lịch sử, giá trị kiến trúc vừa là nơi tổ

chức lễ hội truyền thống nhằm giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tôn

vinh người có công dựng nước, giữ nước như: Đình và chùa Hiền Quan, Đình

Hùng Lô, Đào Xá, Hữu Bổ, chùa Xuân Lũng… dưới lòng đất Phú Thọ, hiện tại

còn ẩn chứa bao bí mật, ẩn chứa những thông tin về nền văn minh Việt cổ và

Đại Việt đang từng bước được các nhà khảo cổ học làm sáng tỏ từ văn hóa Sơn

Vi, Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồng Đậu, Làng Cả… cách đây mấy ngàn năm.

Vì thế cho tới nay dòng văn hóa dân gian đặc sắc vùng Đất Tổ vẫn không

ngừng phát triển, phản ánh một cách phong phú cuộc sống lao động, sản xuất,

đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Các giá trị văn hóa truyền thống ấy luôn được

các thế hệ lưu giữ qua các truyền thuyết như: Truyền thuyết Hùng Vương,

truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, các hình thức diễn xướng văn nghệ dân

gian như: hát Xoan ở xã Hy Cương, hát Ghẹo ở Thanh Uyên, Nam Cường; các

trò diễn hội làng: Rước chúa Gái ở Chu Hóa - Hy Cương, trò Trám ở Tứ Xã,

cướp Kén ở Dị Nậu, cướp Phết ở Hiền Quan… và rất nhiều ca dao, tục ngữ,

truyện ngụ ngôn, cổ tích, truyện cười mang đặc trưng quê hương Phú Thọ. Là

trung tâm Nhà nước Văn Lang xưa, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam,

miền đất Phú Thọ là nơi hội tụ của 21 dân tộc anh em, mỗi dân tộc với một

phong tục tập quán đa dạng cùng các loại hình văn nghệ dân gian phong phú ở

13

Phú Thọ như: Hát Xoan, Ghẹo, Trống quân, chàm thau, đâm đuống, cồng

chiêng, múa mời, trống đu, múa chuông… đã làm nên sự phong phú trong đời

sống văn hóa tinh thần của người dân vùng Đất Tổ. Nó được gìn giữ nâng cao

các giá trị từ đời này qua đời khác trở thành di sản quý giá góp phần bồi đắp

cho nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thêm phong phú, đa sắc.

Phú Thọ còn có các loại hình di sản văn hóa phi vật thể nổi tiếng khác

như: Xoan, Ghẹo, Trống quân, Trình nghề, Chàm thau, Đâm đuống, múa Tùng

dí, múa Mời, múa Chuông... của đồng bào các dân tộc. Về ẩm thực có các món

ăn đặc sắc của các dân tộc như: Xôi ngũ sắc, lợn thui, cá đốt, bánh tai, bánh

chưng, bánh giầy... đã khẳng định thêm một lần nữa những dấu tích văn hóa,

tín ngưỡng, cuộc sống, phong tục tập quán vô cùng phong phú của các dân tộc

anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh.

1.2. Khái quát về Hát Xoan

1.2.1. Khái niệm

Các cách hiểu về hát Xoan từ trước đến nay đều thống nhất cho rằng: hát

Xoan là hình nghệ thuật độc đáo và đặc biệt bởi sự kết giữa giữa hát, múa và

biểu diễn, đồng thời là một di sản văn hóa bởi lời điệu của hát Xoan mang đậm

tính lịch sử, văn hóa và đời sống tâm linh lâu đời của người dân Việt Nam. Đó

là hình thức âm nhạc cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật,

độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được

cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

Nói cách khác, Hát xoan hội đủ các yêu cầu cần thiết để được UNESCO

công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đó là hình thức âm nhạc

cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai

điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ

qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9 cho biết: “Theo nhận định của những nhà

Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn

14

nghiên cứu thì Hát Xoan là hoạt hình văn hoá nghệ thuật cổ xưa của người Việt,

tàng chứa những tầng văn hoá khác nhau trong đó có âm nhạc, múa, lễ hội, văn

hoá.v.v. Ở lĩnh vực âm nhạc, trong Xoan là hát xướng, xô, đối đáp nam nữ,

không đồng giọng mà hát cách nhau quãng 4, quãng 5. Về thanh nhạc, tính theo

triết học âm nhạc, ngôn ngữ âm nhạc giữa phần thanh nhạc của giọng nam và

giọng nữ và sự đặc biệt đó trở thành đặc trưng mà chính các bạn quốc tế đã

phải ngỡ ngàng và đánh giá cao, mặc dù họ không thấy chúng ta hát bè như

trong Xoong hao, hay Earay của người Tây Nguyên. Chính sự cổ xưa, sự đặc

sắc làm nên nét độc đáo của loại hình này”

Ngày 24/11/2011, UNESCO đã công nhận Hát xoan - Phú Thọ là Di sản

văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại với những giá trị cộng đồng

trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua đời khác. Hát xoan là loại hình

dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần với hình thức nghệ thuật đa yếu tố, gồm

có ca - vũ - nhạc, thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất

tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh trung du Việt Nam. Hát xoan còn được gọi

là khúc môn đình (hát cửa đình), tương truyền có từ thời các vua Hùng. Hát

Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần và

thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới. Hát Xoan có 3 hình

thức: Hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt

tươi, cầu sức khỏe và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên. Hiện nay cả

bốn phường Xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và phường Thét đều nằm

ở 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu thuộc thành phố Việt Trì.

Sau khi Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa

phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, việc khôi phục và duy trì thường

xuyên hoạt động của bốn phường Xoan gốc được các cấp, các ngành trong tỉnh

đặc biệt quan tâm. Nhiều hoạt động thiết thực trợ giúp cộng đồng nhận diện,

bảo tồn phát huy giá trị di sản đã được triển khai như: Khôi phục miếu Lãi Lèn;

hỗ trợ, trang phục, đạo cụ biểu diễn, duy trì kinh phí hoạt động, tổ chức các lớp

15

truyền dạy Hát Xoan; giao lưu giữa các phường Xoan; quảng bá Hát Xoan

trong dịp lễ hội Đền Hùng, trên các phương tiện truyền thông Trung ương và

địa phương; đưa chương trình học Hát Xoan vào trường phổ thông các cấp...

Nhờ đó, đã làm cho nhận thức của cộng đồng về Hát Xoan dần được nâng cao,

không gian Hát Xoan được mở rộng... Với những nỗ lực trên, Phú Thọ đã thành

công trong việc đưa Hát Xoan ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở thành

di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hát Xoan Phú Thọ được công

nhận tháng 12/2017 là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

1.2.2. Nguồn gốc của hát Xoan

Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình

lại có nét đặc sắc riêng. Trong số các loại hình nghệ thuật phi vật thể được thế

giới công nhận, hát Xoan là một trong những di sản văn hóa đáng tự hào nhất

của Việt Nam nhờ có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng.

Người dân ở làng Phù Đức xã Kim Đức thành phố Việt Trì còn kể lại câu

chuyện liên quan đến nguồn gốc của hát Xoan rằng: Từ thuở Vua Hùng dựng

nước, một hôm vào buổi trưa ngày 13 tháng chạp, ba anh em vua Hùng đi tìm

đất mở mang kinh đô có đi qua thôn Phù Đức và An Thái dừng chân nghỉ trưa

tại một khu rừng gần thôn. Trong khi ngồi nghỉ, ba anh em Vua Hùng nhìn ra

bãi cỏ trước mặt, thấy có một đám trẻ chăn trâu vừa chơi các trò chơi như

đánh vật, kéo co lại vừa hát những khúc ca nghe rất hay. Thấy vậy, người anh

cả nhà họ Hùng liền bảo hai em dạy các trẻ mục đồng hát một số điệu mà họ

mang theo. Về sau, để tưởng nhớ công lao của ba anh em vua Hùng, hàng năm

cứ đến ngày 13 tháng chạp âm lịch, dân làng lại làm bánh để cúng vào buổi

trưa và cúng thịt bò vào buổi chiều để thờ anh Cả vua Hùng được nhân dân

suy tôn là đức Thánh Cả. Đến ngày mùng 2 và mùng 3 tháng giêng âm lịch,

dân làng Phù Đức mở hội cầu Đức Thánh Cả phù hộ cho “Dân khang, vật

thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt”. Trong hội cầu, họ diễn lại cảnh

hát xướng để nhớ lại sự tích các vua Hùng dạy dân múa hát và chơi các trò

16

chơi dân gian. Do vậy, hội cầu đã trở thành lệ làng hàng năm và bao giờ cũng

có trò hát xướng mở đầu trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn

hóa Phú Thọ [tr 22-25].

Còn người dân làng Cao Mại (nay là làng Cổ Tích) xã Hy Cương huyện

Lâm Thao thì lưu truyền một truyền thuyết như sau: Vợ vua Hùng mang thai đã

lâu tới ngày sinh nở, cứ đau bụng mãi mà không đẻ được. Người hầu nữ thấy

vậy tâu rằng: Có nàng Quế Hoa xinh đẹp, hát hay, múa giỏi. Nên đón về múa

hát để có thể làm đỡ đau và có thể sinh đẻ được. Vợ Vua Hùng nghe lời và cho

mời nàng Quế Hoa đến để hát múa chầu trực bên cạnh vợ Vua Hùng. Nàng

Quế Hoa vâng lời và vào chầu. Khi ấy, vợ Vua Hùng đang lên cơn đau đẻ dữ

dội, bà gọi Quế Hoa vào cạnh giường và múa hát. Quế Hoa trổ tài hát hay,

múa dẻo, tay uốn, chân đưa, người mềm như tơ, tay dẻo như bún, vợ Vua Hùng

và mọi người hầu cận đều rất say mê. Vợ vua Hùng trong khi mải xem nàng

Quế Hoa múa hát nên quên cả đau đẻ và đã sinh hạ được ba người con trai

khôi ngô tuấn tú. Khi ấy đang là mùa Xuân. Vua Hùng thấy thế hết lời khen

ngợi Quế Hoa và truyền cho các mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy để hát

mừng trong dịp lễ hội mùa xuân vì thế được gọi là Hát Xuân, sau này vì kiêng

tên húy của mỵ nương con gái vua Hùng có tên là Xuân Nương (có thể là tên

một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong khởi nghĩa năm 40-43) nên phải gọi

chệch là Hát Xoan trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn hóa

Phú Thọ,[tr 22-25].

Trong cuốn Văn hóa Việt Nam, 2011, Nxb Đại học Văn hóa Hà nội [tr

87-94] tác giả cũng đã nhắc đến một văn bản kể về nguồn gốc của hát Xoan

theo Truyền thuyết Hùng Vương rằng: hát Xoan có từ thời dựng nước với sự

tích, ngày xưa, có ba anh em vua Hùng đi tìm đất qua thôn Phù Đức vào buổi

trưa và có nghỉ lại một khu rừng gần thôn. Từ khu rừng, các vị nhìn ra bãi cỏ

trước mặt thấy có đám trẻ chăn trâu vừa chơi, vừa hát, vừa đánh vật, kéo co.

Thấy vậy, Đức Thánh Cả liền bảo những người đi theo đem những bài hát mà

17

họ biết dạy thêm cho lũ trẻ.

Về sau, cứ hàng năm, đến ngày 30 tháng Chạp âm lịch, dân làng phải làm

bánh nẳng để cúng vào buổi trưa và thịt bò cúng vào buổi chiều ở miếu "Lãi Lèn"

để thờ Đức Thánh Cả (vì dân trong thôn đã đãi Đức Thánh Cả hai món đó).

Tới ngày mồng hai, mồng ba tháng giêng âm lịch thì dân Phù Đức mở

hội cầu, trong hội cầu họ diễn lại cảnh hát xướng, kéo co, đánh vật ở bãi. Lệ

hàng năm phải hát xướng, cầu chúc bắt nguồn từ sự việc ấy, nên hát Xoan còn

được gọi là ca Xoan, hát "Lãi Lèn."

Qua truyền thuyết, chúng ta thấy rằng, hát Xoan có thể được ra đời từ rất

sớm, có thể từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang với hình thức ban đầu

còn rất sơ khai và nó được dùng làm nghi thức tín ngưỡng trong lễ hội của làng

để cầu đảo Trời đất ban cho mưa thuận gió hoà để mùa màng được tươi tốt,

đem lại cuộc sống ấm no cho muôn dân trăm họ và được tồn tại đến khởi nghĩa

Hai bà Trưng năm 40 đến 43 sau công nguyên. Bằng chứng là tại các địa điểm

có hát Xoan hoặc có liên quan đến Hát Xoan đều có tín ngưỡng thờ tự các Vua

Hùng và các con gái Vua Hùng như Tiên Dung, Ngọc Hoa, Nguyệt Cư và các

con rể, các tướng lĩnh của thời Vua Hùng.

Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa

bàn bán sơn địa thuộc trung tâm bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước.

Nó được ra đời cùng với tín ngưỡng mang tính nguyên thuỷ của cư dân nông

nghiệp trồng lúa nước, đó là tín ngưỡng thờ Trời, thờ Thần, thờ Thánh để cầu

cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Các làng Xoan đều là

những ngôi làng cổ nằm ở vị trí có địa hình bán sơn địa với địa hình đồi, gò

trung du xen kẽ với các tràn ruộng trồng lúa nước rất điển hình thuộc địa bàn

trung tâm của bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước. Đây là một trong

những yếu tố Vị- Thế - Địa rất quan trọng ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến

sự ra đời và tồn tại của các làn điệu và cách thể hiện của hát Xoan. Chính vì

vậy, yếu tố tâm linh là yếu tố quan trọng chi phối đến tính chất của hát Xoan

18

mang tính nghi lễ phồn thực của cư dân nông nghiệp. Vì vậy, Hát Xoan được

hát ở cửa đình thể hiện những lễ tục diễn xướng tế thần linh tại các cửa đình và

được tổ chức hát vào mùa Xuân- Mùa nghỉ ngơi của một chu trình canh tác

nông nghiệp trồng lúa nước hai vụ Chiêm- Xuân qua 12 tháng và 4 mùa Xuân-

Hạ- Thu- Đông, đó chính là nguyên nhân để hình thành các quả cách liên quan

đến bốn mùa Xuân- Hạ- Thu- Đông.

Hát Xoan là tài sản tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó được

bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với phong tục,

tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đây là yếu tố để hình thành

các quả cách trong lối hát để nói về các nghề trong công nghiệp: Ngư- Tiều-

Canh- Mục. Hát Xoan thể hiện ước nguyện thỉnh cầu của người nông dân đối

với các bậc Thánh, Thần cao siêu mà họ quan niệm rằng đó chính là các bậc cai

quản, ban phát sự may mắn, phong lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền với vận

mệnh sống còn của họ. Hát Xoan thể hiện đạo lý Vua- Tôi, nghĩa vợ chồng,

đạo làm cha, đạo làm con. Hát Xoan còn là tiếng nói tình cảm thể hiện tâm tư

tình cảm, nguyện vọng và ước vọng, là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng

đồng và quan hệ trên- dưới là mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt

địa vị sang- hèn và giàu- nghèo.

Hát Xoan là một nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp

trồng lúa nước nó được ra đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc nơi có nhiều

lễ hội dân gian được tổ chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy

đủ tính chất của nền văn hoá cội nguồn và cổ xưa nhất. Mặt khác, Hát Xoan

mang đậm yếu tố tín ngưỡng, tâm linh được hát tại đình làng là nơi thờ Thành

Hoàng để thể hiện ước nguyện cầu đảo linh thiêng. Chính vì vậy, Hát Xoan

mang đậm tín ngưỡng thể hiện qua hình thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể

hiện như trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là diễn xướng thiêng liêng được hát

để kết thúc một cuộc trình diễn Hát Xoan. Họ quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá

có ảnh hưởng sâu sắc đến mùa màng, đến sự sinh sôi phát triển giống nòi. Do

vậy, không bao giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối

19

hát đó thì dân làng sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém và gặp thiên tai hạn hán

hoặc lũ lụt v...v. Vì trong cả hai lối hát này đều có các Đào Xoan và các trai

làng cùng trình diễn để các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào bắt lấy trai làng

để tượng trưng cho âm- dương; Nam- Nữ giao phối để sinh sôi nảy nở, vì vậy

các cụ gọi đây là “Âm dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối hát Xoan cổ,

Cài Huê, Mó Cá được trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó là vào lúc

trời gần sáng. Khi mà khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất hiện.

Trời đất bảng lảng giao hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn Mó cá

và vào lúc các Kép bắt các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều phải

tắt hết, chỉ có hương thắp trên Thượng cung.

Có thể nói, một số truyền thuyết về Hát Xoan hiện còn được bảo lưu ở

Phú Thọ là ánh sáng phản xạ về sự hình thành và tồn tại của Hát Xoan trong

tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ cư dân Đất Tổ Vua

Hùng. Mặc dù là truyền thuyết dân gian, nhưng vén đi bức màn huyền thoại,

các truyền thuyết ấy cũng đã ít nhiều cung cấp tư liệu mang tính khoa học để

chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu về Hát Xoan Phú Thọ làm căn cứ cho tổ chức

UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, thiết

thực góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan ở Phú Thọ thể hiện

truyền thống và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn quả nhớ người trồng cây”

của dân tộc ta.

1.2.3. Đặc trưng của hát Xoan

Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình diễn xướng dân gian

gắn liền với Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một tín ngưỡng bắt nguồn từ

tập quán thờ cúng tổ tiên của người Việt. Hát Xoan còn gọi là Khúc môn đình,

là lối hát thờ thần, thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới.

Hát Xoan khi trình diễn đầy đủ thường có có 3 chặng hát: Hát thờ - tưởng nhớ

các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước; hát nghi lễ

- Ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt của

cộng đồng qua 14 làn điệu khác nhau (còn gọi là quả cách); hát Hội - lối hát

20

giao duyên, bày tỏ khát vọng cuộc sống, tình yêu nam nữ với những làn điệu

đậm chất trữ tình vui nhộn qua hình thức hát đối đáp giữa các Đào, Kép và trai

gái làng sở tại... Bài bản Xoan được kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc và giọng

điệu. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện còn lưu giữ được hơn 200 bài bản Hát

Xoan tại 4 phường Xoan gốc (An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái). Các làn

điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn trung tâm bộ

Văn Lang, thời các Vua Hùng dựng nước. Hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng

với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, hát đối và lĩnh xướng.

Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa

để minh họa cho lời ca. “Là nghệ thuật trình diễn cộng đồng, Hát Xoan đáp ứng

nhu 56 cầu giao lưu văn hóa, gắn kết cộng đồng. Khi cùng nhau trình diễn Hát

Xoan, những người thực hành hát Xoan tìm thấy niềm vui trong sự hòa đồng,

tôn trọng lẫn nhau và những nỗi vất vả, phiền muộn được giải tỏa”.

Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là

nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong

hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một

phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có

thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có

những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những

bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát

thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,

trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình

diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua

đêm tới 3, 4 giờ sáng là tàn cuộc.

Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ

nói riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Hát

Xoan là loại hình dân ca nghi lễ, phong tục, là hình thức nghệ thuật đa yếu tố:

Ca nhạc, hát, múa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Hát Xoan có bề

21

dày lịch sử, có tổ chức nghệ thuật chặt chẽ, không gian văn hóa rộng lớn và sức

lan tỏa mạnh mẽ khắp cộng đồng. Với những giá trị nổi bật toàn cầu, ngày

24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản

văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan

- Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của

nhân loại.

Hát Xoan cũng như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn

hoá dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng

bằng Bắc Bộ. Nó đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự

nhiên và môi trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng

đồng người Việt đặt chân cư trứ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời

đại các vua Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của

nhà nước Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu

Lê cho đến khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX,

Hát Xoan vẫn hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vẫn tồn tại trong đời

sống tinh thần của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi

theo hướng thích nghi để tồn tại của văn hoá dân gian Việt Nam nói chung và

thể loại Hát Xoan nói riêng.

Nghệ thuật hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng tổng hợp, hát đi đôi với

múa và nhạc đỡ giọng giữ nhịp. Xoan là hát mà Xoan cũng là múa, là thơ.

Chính Xoan cũng có những câu hát nói lên tính đa yếu tố của mình:

“Lấy nhạc làm thơ

Trước tôi tấu thơ

Sau tôi múa nhạc

Vậy có thơ hát múa rằng”…

[Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]

Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là

nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong

22

hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một

phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có

thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có

những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những

bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát

thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,

trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình

diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua

đêm tới 3, 4 giờ sáng là tan cuộc.

Phong cách hát nói sự trình bày thường là: Một kép ngồi giữa cầm dùi

trống vừa đánh trống vừa “Dẫn cách” còn các cô đào thì hát phụ hoạ bằng cách

nhắc lại nguyên nhạc điệu của một đoạn mà người “dẫn cách” hoặc xen vào

phần đệm.

Xoan là tiếng hát làng chạ, là lễ ca dâng lên thần linh những lời thành

kính, đón rước thần linh về hưởng tế và phù hộ cho làng. Xoan là tiếng hát cầu

chúc, khấn nguyện:

“Hộp chầu, vò nước, nén nhang

Của tôi thành kính dâng vua ngự trên linh sàng

Đọc bài ca chúc tôi kêu thử

Bách bái bạn thần tất hưởng”

(Nhập tịch)

Xoan là tiếng hát từ đình đám và vì làng chạ mà ra, mang khá đầy đủ

những yếu tố cơ bản về ý thức hệ, đời sống tình cảm và phản ánh hiện thực lịch

sử của xã hội: Xã hội của Xoan là xã hội phong kiến nông nghiệp. Đó là xã hội

được tổ chức trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, kinh tế

tiểu nông và là xã hội tổ chức theo trật tự phong kiến, chi phối bởi lễ giáo

phong kiến, thống trị bởi nhân sinh quan phong kiến. Cho nên hát Xoan mang

đậm dấu ấn của nhân sinh quan, lễ giáo phong kiến, biểu lộ rõ nét trật tự, kỷ

23

cương phong kiến.

1.3 Khái quát về hát Xoan ở xã Hy Cƣơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Đến với Hy Cương chúng ta được đến với không gian văn hóa hát Xoan

mang dấu ấn của thời dựng nước giữ nước Văn Lang Âu Lạc. Tuy đây không

phải là làng Xoan cổ nhưng đây là nơi hiện lưu giữ những trầm tích văn hóa

của một thời dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cũng như hát Xoan nơi đây

có nội dung phản ánh khá nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, ngay cả những điều

giản dị đời thường nhất cũng được hát Xoan nơi đây nhắc đến.

Đây là địa phương hiện có số lượng nghệ nhân nhiều nhất trong huyện

Lâm Thao, Phú Thọ với 4 nghệ nhân gồm:

Năm Giới Stt Họ và tên Địa chỉ sinh tính

Làng Cổ Tích, xã Hy Cương, 1957 Nữ 1 Nguyễn Thị Sen huyện Lâm thao, Phú Thọ

Làng Cổ Tích, xã HY

1972 Nữ Cương, huyện Lâm Thao, 2 Nguyễn Thị Thu Hằng

Phú Thọ

Làng Máy, xã Hy Cương, 1964 Nam 3 Nguyễn Văn Quyết Lâm Thao, Phú thọ

Làng Cổ Tích, Hy Cương, 1960 Nữ 4 Hoàng Thị Thu Uyên Lâm Thao, Phú Thọ

Như vậy, các nghệ nhân hát Xoan ở xã Hy Cương đa số là nữ ở độ tuổi

trung niên, chưa quá già nhưng cũng không còn trẻ. Ở độ tuổi này, có lẽ niềm

say mê hát Xoan đã trở nên sâu sắc, thời gian thực hành hát Xoan cũng đủ dài,

dày để tiếp tục truyền dạy cho các thế hệ sau. Khi được tác giả phỏng vấn, bà

Sen chia sẻ: “Bà và các nghệ nhân ở đây bắt đầu hát Xoan từ khi lên 10 tuổi

đến nay bà đã có trên 50 năm hát Xoan, bà được truyền dạy hát Xoan từ thế hệ

trước và đến bà hiện tại là đời thứ năm được kế thừa hát Xoan mà cha công để

24

lại. Các nghệ nhân ở đây sẽ hát Xoan vào dịp lễ hội và lễ hội ở đây từ tháng

Giêng cho đến hết tháng 3 âm lịch (mùa xuân) và ngày rằm, mùng một âm lịch

hàng tháng, trong các dịp trọng đại như cưới hỏi. Hát Xoan được các nghệ nhân

thực hiện là để gìn giữ tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, mong một cuộc sống

yên bình ấm no, xua tan đi mệt nhọc của lao động thường ngày, hạnh phúc lứa

đôi được trọn vẹn” (Phỏng vấn ngày 18-9-2020).

Xã Hy Cương cũng là một trong những xã điển hình của trong huyện

Lâm Thao là nơi tập trung đào tạo, bồi dưỡng các lớp nghệ nhân kế cận, mở

các lớp Xoan trong cộng đồng, thành lập các câu lạc bộ Hát Xoan và đưa Xoan

vào trường học… Đến nay, xã có 7 câu lạc bộ với trên 100 thành viên yêu thích

và trình diễn Hát Xoan, các trường Tiểu học và THCS của xã đã thực hiện đưa

Hát Xoan vào giảng dạy thông qua bộ môn Âm nhạc ở cấp tiểu học và Trung

học cơ sở, môn Ngữ Văn ở cấp THPT. Chủ trương này đã góp phần nâng cao

nhận thức, lòng tự hào, trách nhiệm của các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ trong việc

bảo tồn, phát huy giá trị di sản Hát Xoan; đưa số lượng người thực hành Xoan,

hiểu biết về Hát Xoan tăng lên một cách đáng kể.

Trong thời gian thực hiện luận văn, tôi đã điền dã, thu thập được từ chủ

yếu từ nghệ nhân Nguyễn Thị Sen 23 bài Xoan hiện được các nghệ nhân ghi

chép bằng sổ tay và thực hành hát trong các dịp lễ hội, ngày rằm, mùng một âm

lịch hàng tháng, trong các dịp trọng đại như cưới hỏi trên địa bàn xã Hy Cương.

Tư liệu này có thể được phân thành 3 nhóm theo nội dung phản ánh với tỉ lệ

như sau:

Thứ nhất là nhóm bài hát Xoan phản ánh phong tục tín ngưỡng của người

dân nơi đây gồm 17 bài chiếm 74% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.

Thứ hai là nhóm bài hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của nhân

dân lao động gồm 2 bài chiếm 8,6% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.

Thứ ba là nhóm bài hát Xoan phản ánh tính yêu lứa đôi gồm 4 bài chiếm

17,4% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.

Hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng và hát Xoan Phú Thọ nói chung cũng

25

như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn hoá dân gian nói

chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Nó

đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên và môi

trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng đồng người

Việt đặt chân cư trú ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời đại các vua

Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của nhà nước

Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu Lê cho

đến khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX, Hát

Xoan vẫn hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vẫn tồn tại trong đời

sống tinh thần của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi

theo hướng thích nghi để tồn tại của văn hoá dân gian Việt Nam nói chung và

thể loại Hát Xoan nói riêng.

Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan là

chiến lược phát triển bền vững quốc gia, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội

trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất, bằng con đường giáo dục và

thông qua giáo dục, các giá trị về vật chất và tinh thần, các kinh nghiệm hoạt

động thực tiễn, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, ngôn ngữ, phong tục, tập quán…

của cha ông được lưu truyền, tồn tích, vận hành nối liền các thế hệ. Giáo dục

giúp cho học sinh hiểu biết về giá trị di sản văn hóa , tôn trọng, giữ gìn và phát

huy văn hóa truyền thống văn hóa của dân tộc.

Giáo dục văn hóa di sản trong trường phổ thông nhằm mục đích cung

cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, những hiểu biết về vốn văn hoá

truyền thống của thế hệ cha ông trên quê hương mình. Hình thành và phát triển

ở học sinh các kỹ năng tiếp cận, khai thác tri thức và vốn văn hoá truyền thống

của địa phương để tiếp thu, học hỏi, vận dụng trong hoạt động hiện tại cũng

như sau này. Giáo dục truyền thống văn hoá, bồi dưỡng ý thức dân tộc, nâng

cao thái độ trân trọng di sản văn hoá dân tộc và trách nhiệm đối với sự phát

triển của cộng đồng và quê hương, hình thành ở học sinh tình cảm trong sáng,

cao đẹp, yêu thương, gắn bó với cộng đồng. Làm phong phú nội dung giáo dục

26

và giáo dục văn hóa thông qua văn học, góp phần giáo dục cho học sinh nhân

cách con người mới có tri thức và văn hoá, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -

xã hội trong thời đại mới.

Tiểu kết

Có thể thấy, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ là một vùng đất

giàu bản sắc văn hóa. Trong đó, hát Xoan chính là một nét đẹp văn hóa tiêu

biểu cùng tồn tại trong đời sống xã hội của người dân nơi đây. Hát Xoan ở xã

Hy Cương mang một màu sắc khá đa dạng trong đời sống, mang những phong

tục tín ngưỡng riêng biệt của người dân nơi đây. Đặc điểm tự nhiên, đời sống

văn hóa - xã hội ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao chính là cái nôi nuôi dưỡng

các làn điệu hát Xoan ngọt ngào, sâu lắng mang nét đặc trưng tiêu biểu cho dân

ca đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam của tỉnh Phú Thọ nói chung. Trong đời sống

của con người xã Hy Cương nói riêng, Phú Thọ nói chung, hát Xoan cũng là

một yếu tố không thể thiếu.

Những nét khái lược về lịch sử, điều kiện tự nhiên, xã hội, đời sống văn

hóa, văn học dân gian trong đó có hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú

Thọ chính là những yếu tố cơ sở có vai trò quan trọng để chúng tôi tìm hiểu giá

trị nội dung và nghệ thuật của hát Xoan nơi đây từ góc độ văn bản nghệ thuật

27

ngôn từ gắn với môi trường sinh hoạt dân gian ở chương tiếp theo.

Chƣơng 2

NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG,

HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ

2.1. Nội dung của hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

2.1.1. Hát Xoan phản ánh đời sống tín ngưỡng, phong tục của người lao động

Hát Xoan ra đời từ tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ lúa, thờ Thành

hoàng, thờ Vua, thờ Tổ tiên…) của người Việt cổ vùng Kinh đô Văn Lang.

Những nội dung tín ngưỡng này được phản ánh sâu đậm trong nội dung và hình

thức Hát Xoan, trở thành nội dung quan trọng nhất của loại hình dân ca này. Có

thể nói, yếu tố tín ngưỡng như một sợi chỉ xuyên suốt toàn bộ quá trình diễn

xướng Xoan, không chỉ ở phần hát thờ, các quả cách mà cả ở trong các tiết mục

giao duyên nam nữ. Với tính chất tín ngưỡng, Hát Xoan trở thành một loại dân

ca nghi lễ phong tục không thể thiếu trong lễ hội vùng Xoan. Hội làng mở ra,

sau nghi thức cáo tế là phường Xoan hát trong lòng đình, ngay trước bàn thờ

thánh để mời Vua, Thành hoàng, tổ tiên các họ Xoan về dự hội, xem hát và phù

hộ cho làng năm đó được mùa, dân khang vật thịnh. Như vậy, đối với dân làng,

nghi lễ Hát Xoan là nghi lễ bắt buộc có tính bài bản, trước tiên là để khẩn cầu

Thành hoàng phù hộ. Nghi lễ đó càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với một

xã hội nông nghiệp “dĩ nông vi bản”. Người ta coi Hát Xoan và phường Xoan

như một cây cầu nối giữa dân làng với thần linh, khiến cho thần Thành hoàng

hiểu được ước nguyện của họ mà ban cho họ những điều tốt đẹp như lời cầu

khấn, tránh được mọi tai ương bệnh tật. Thực tế, người nông dân có một lòng

tin tưởng vững chắc vào các lễ nghi tế lễ, những lời chúc nguyện của Hát Xoan

sẽ đem lại hiệu quả thực tế trong cuộc sống hiện tại.

Theo Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch tỉnh Phú Thọ, Hát Xoan là một

nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp trồng lúa nước nó được ra

đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc nơi có nhiều lễ hội dân gian được tổ

28

chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy đủ tính chất của nền văn

hoá cội nguồn và cổ xưa nhất. Mặt khác, Hát Xoan mang đậm yếu tố tín

ngưỡng, tâm linh được hát tại đình làng là nơi thờ Thành Hoàng để thể hiện

ước nguyện cầu đảo linh thiêng. Chính vì vậy, Hát Xoan mang đậm tính chất

phồn thực thể hiện qua hình thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể hiện như

trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là diễn xướng thiêng liêng được hát để kết thúc

một cuộc trình diễn hát Xoan. Họ quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá có ảnh hưởng

sâu sắc đến mùa màng, đến sự sinh sôi phát triển giống nòi. Do vậy, không bao

giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối hát đó thì dân làng

sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém và gặp thiên tai hạn hán hoặc lũ lụt.v...v. Vì

trong cả hai lối hát này đều có các Đào Xoan và các trai làng cùng trình diễn để

các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào bắt lấy trai làng để tượng trưng cho âm-

dương; Nam- Nữ giao phối để sinh sôi nảy nở, vì vậy các cụ gọi đây là “Âm

dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối hát Xoan cổ, Cài Huê, Mó Cá được

trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó là vào lúc trời gần sáng. Khi mà

khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất hiện. Trời đất bảng lảng giao

hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn Mó cá và vào lúc các Kép bắt

các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều phải tắt hết, chỉ có hương

thắp trên Thượng cung.

Chính vì vậy, hát Xoan trở thành một dạng nghi thức không thể thiếu

được trong ngày mở tiệc làng đầu năm. Nó trở thành một tập quán sâu sắc, lâu

đời của người dân các xã vùng Xoan ở Phú Thọ. Chúng ta đều biết hát Xoan

Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại là đặc

trưng của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

Ta có thể thấy trong bài Xoan sau:

“Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ Văn

minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông”.

29

[Hạ thời- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]

Hay trong bài Xoan mời Vua:

Mười hai phu kiện bước ơ bước vào

Tay lót lấy khăn đào ơ rước lấy cơ hồ mà vừa lên

Vua lên thánh đức mà trị ơ trị vì

Vua về mà nghe hát ơ mừng ơ làng mừng làng là sống lâu

Chân con đạp đất, đầu con đội trời, cất tiếng con mời ơ

Con rước cờ hồ mà vừa lên

[“Nguyễn Thị Sen- Trong bài Nhập tịch mời vua”]

Ta thấy rằng: Hát Xoan và phường Xoan như một cây cầu nối giữa dân

làng với thần linh, khiến cho thần Thành Hoàng(Vua) hiểu được ước nguyện

của họ mà ban cho họ những điều tốt đẹp như lời cầu khấn, tránh được mọi tai

ương bệnh tật. Thực tế, người nông dân có một lòng tin tưởng vững chắc vào

các lễ nghi tế lễ, những lời chúc nguyện của hát Xoan sẽ đem lại hiệu quả thực

tế trong cuộc sống hiện tại.

Nội dung của hát Xoan phản ánh tín ngưỡng thờ vua Hùng, tổ tiên của

người Việt, một hình thức tín ngưỡng rất đặc biệt ở Việt Nam. Theo kết quả

điều tra năm 2010 cho thấy, hát Xoan gắn với 30 cửa đình, đền thuộc vùng

trung tâm bộ Văn Lang, nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di

tích thờ Hùng Vương và các nhân vật thời Hùng Vương. Nội dung của hát

Xoan phản ánh tín ngưỡng thờ vua Hùng và thờ lúa nước của cư dân Văn Lang.

Nghi lễ hát thờ, hát quả cách trước bàn thờ thành hoàng nhằm mời vua về dự

hội và phù hộ cho dân làng được phong đăng hòa cốc, mùa màng bội thu, dân

chúng khang ninh thịnh vượng. Nội dung ngôn ngữ của hát Xoan vừa mang

tính dân dã, vừa mang tính bác học của các nhà Nho với các bài thơ phản ánh

thiên nhiên, phản ánh cuộc sống lao động và đặc biệt là sự thể hiện lòng thành

kính với các vua Hùng và thần linh có công bảo trợ cho cuộc sống của dân làng.

Như vậy hát Xoan là dân ca bản địa, hình thành từ cuộc sống sản xuất của cư

30

dân trồng lúa nước thời đại Văn Lang, phản ánh tín ngưỡng và ước vọng của

người Việt cổ. Trải qua chặng đường dài của lịch sử, khi Nho giáo du nhập

cùng tín ngưỡng thờ thành hoàng xuất hiện, hát Xoan mang thêm nội dung Nho

giáo, vua Hùng được tôn làm thành hoàng, vừa là Thánh vương, Thánh tổ bảo

trợ cuộc sống nhân dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý, phong tục của

cư dân bản địa. Như vậy tín ngưỡng thờ vua Hùng được khẳng định và nâng

cao trong hát Xoan, ngày càng phát triển, trường tồn trong lòng xã hội nông

nghiệp Việt Nam.

Yếu tố tín ngưỡng trong diễn hát Xoan được thể hiện rõ nhất là trong

chặng hát nghi lễ. Đây là phần lễ hát múa phục vụ các nghi lễ. Những người hát

nghi lễ phải được tuyển chọn kỹ càng thể hiện nghiêm túc từ trang phục, giọng

hát, điệu múa. Khởi đầu hát nghi lễ là phải có mâm lễ dâng lên. Sau đó hát chào

Vua và mời đức Vua về đình làng dự lễ hội. Khi các thủ tục dâng lễ đã hoàn tất.

Đoàn kiệu bát cống do 8 trai làng trẻ trung khôi ngô tuấn tú chưa vợ, nhà không

có tang chế, với đầy đủ trướng, phướn, tiếng chiêng vang lên khởi kiệu rước

Vua từ điện về đình. Khi rước có 4 đào Xoan trẻ tuổi chưa chồng, đi dưới gầm

kiệu hát điệu phụ giá:

“Tám người trai kiệu bước vào

Tay lót khăn đào rước lấy vua lên

Vui lên thánh đức trị vì

Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”

[Nguyễn Thị Sen- Nhập tịch mời Vua]

Sau nghi lễ khởi đầu rước kiệu Vua vào nội điện là đến giáo trống và giáo

pháo thể hiện hai làn điệu múa và hát trình diễn thành liên khúc. Trong giáo

trống được thể hiện hai âm, âm trầm và âm cao (âm trầm lá tầm); (âm cao gọi là

vông) muốn thể hiện âm tầm và vông của trống phải có mâm cơm bưng lên mặt

trống. Gọi là trống cơm do phường Xoan vỗ vang lên trong tiệc đình làng, cầu

31

mong cho trăm họ no đủ, an hòa phúc lộc được thể hiện bằng lời ca như:

“Trống này bé bé mà vẽ rồng vàng

Đôi tay tôi nâng cả đám làng

Trống tôi vỗ bến “tầm” thờ Vua, thờ chúa

Trống tôi vỗ nên “Vông”

Thờ Đức Đại vương”

[Đóng đám- Tổng Tập hát Xoan Phú Thọ]

Sau giáo trống, giáo pháo là điệu thơ nhang. Thơ nhang là làn điệu hát

dâng hương lên bàn thờ Đại Vương, cầu xin vua giáng phúc cho dân làng. Khi

múa hát các đoàn, Xoan tây cầm nhang vừa múa vừa hát có câu:

“Cầu Vua lên ngự ngai vàng

Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”.

[Nguyễn Thị Sen- Mời vua”]

Trong bài Xoan nhập tịch có câu:

Vua vâng làng này đi đánh cá sông

Đánh hòa cho được cá kình cá thú

Vua vâng làng này đi trồng bầu trồng đỗ

Quả bầu bằng cả nồi hổ

Quả đỗ dài bằng thước năm…

[Nhập tịch- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]

Rõ ràng nội dung mà hát Xoan phản ánh ở đây là khấn nguyện các thần

linh cũng như vua (thành hoàng làng) cả về vâng làng vâng chạ. Tín ngưỡng

thành hoàng làng là một tín ngưỡng truyền thống của người Việt. Đó là sự thờ

tế một vị thần của một cộng đồng người định cư trên một địa vực nhất định.

Với các cộng đồng du canh du cư hẳn chưa thể có tín ngưỡng thành hoàng làng,

tín ngưỡng có thể ra đời cùng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước.

Ngoài ra đến với hát Xoan ở xã Hy Cương chúng ta sẽ được thưởng thức

những bài Xoan mang dấu ấn của một tập tục văn hóa riêng biệt. Chẳng hạn

như phong tục mời rượu trong đám cưới nơi đây được thể hiện qua hát Xoan

32

mà nghệ nhân ghi chép lại được rất độc đáo:

Ngày vui mời chén rượu này

Nâng ly ta cạn không say không về.

Chúc nhau sức khỏe tràn trề

Giàu sang phú quý đi về có nhau.

….………..

[Mời rượu đám cưới- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen]

Đây là nội dung chủ yếu, là đặc trưng của hát Xoan nơi đây phản ánh

những phong tục, tín ngưỡng bình dị hiện diện trong giao tiếp cũng như cách

mà người dân tưởng nhớ vua Hùng vào mỗi dịp lễ hội, hay trong những phong

tục hết sức đời thường như mời trầu, mời nước chè, hay phong tục cưới hỏi.

2.1.2. Hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của người lao động

Cứ mỗi độ Tết đến xuân về, người dân quê hát Xoan lại nô nức đón chờ

làng vào hội với tiếng hát Xoan bay bổng ngọt ngào. Sau một năm lao động nhọc

nhằn vất vả, người ta được đến với hội Xoan, được xem và nghe hát Xoan để

quên đi mọi nỗi lo toan đời thường. Mỗi làn điệu Xoan thấm sâu vào tâm hồn,

đưa người ta đến với những ước mơ bay bổng, ước mơ về một cuộc sống đủ đầy

hạnh phúc. Cùng với những mơ ước lạc quan của các tầng lớp trong xã hội, hát

Xoan còn đem lại một đời sống tình cảm phong phú, chân thực cho người lao

động. Một bộ phận lớn của Xoan là những câu hát giao duyên nam nữ. Tình yêu

trai gái của người lao động hết sức mộc mạc nhưng không kém phần tha thiết và

chứa đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với các tiết mục chứa đầy mơ ước lạc quan

và nội dung trữ tình giao duyên với niềm vui trong sáng, tính chất lãng mạn, hát

Xoan thực sự đem lại cho người xem một cuộc sống tinh thần phong phú, lạc

quan yêu đời. Đó cũng chính là một trong những điểm khiến Xoan đi vào lòng

người và sống mãi trong cộng đồng dân tộc.

Hát Xoan là tài sản tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó được

bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với phong tục,

33

tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Hát Xoan thể hiện ước

nguyện thỉnh cầu của người nông dân đối với các bậc Thánh, Thần cao siêu mà

họ quan niệm rằng đó chính là các bậc cai quản, ban phát sự may mắn, phong

lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền với vận mệnh sống còn của họ. Hát Xoan

còn là tiếng nói tình cảm thể hiện tâm tư tình cảm, nguyện vọng và ước vọng,

là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng đồng và quan hệ trên - dưới là mối quan

hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt địa vị sang - hèn và giàu - nghèo. Hát

Xoan Hy Cương nói riêng, hát Xoan Phú Thọ còn mang nhiều giá trị văn hoá

truyền thống cổ xưa bởi yếu tố âm nhạc, điệu múa, hình thức trình diễn bao

hàm ý nghĩa nhân văn, nhân bản của người nông dân vùng trung du Phú Thọ,

đó là ca ngợi cuộc sống lao động đầy khó khăn vất vả thông qua các hoạt động

nghề nghiệp tiêu biểu, khá điển hình của nhà nông trong lịch sử dựng nước và

giữ nước như: Ngư (đánh cá); Tiều (kiếm củi ); Canh (nghề cửi canh dệt vải);

Mục (chăn trâu, cắt cỏ); xe chỉ, vá may... của các thế hệ người dân Đất Tổ đã

trải qua và được dân gian hoá bằng hình thức nghệ thuật truyền thống chứa đầy

bản sắc văn hoá của người dân vùng trung du mà không nơi nào có được. Hát

Xoan Phú Thọ còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn khác về tình cảm và mối

quan hệ gắn bó giữa những người nông dân quanh năm “một nắng, hai sương”

với thiên nhiên thông qua hình thức trình diễn hát quả cách để biểu cảm ước

muốn, nguyện cầu thiên nhiên như: Tứ mùa cách; Xuân thời cách; Hạ thời cách;

Thu thời cách; Đông thời cách.

Chẳng hạn trong bài Xoan sau:

Làng này đóng đám ơ cho được quan sang

Văn a thời áo đỏ ơ võ ngai vàng có sống hỡi là lâu

….………..

[“Nguyễn Thị Sen- Trong bài Đóng Đám”]

Đó là tinh thần lạc quan, có niềm tin vào cuộc sống và theo người dân nơi

đây hát Xoan là một phần phản ánh tâm tư cũng như mong ước của họ về một

cuộc sống yên bình, mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hòa. Hơn nữa họ luôn tin

34

rằng ở hiền sẽ gặp điều lành, điều tốt và học hành thành đạt sẽ có ngày làm quan.

A á Kiều Giang Cách

Kính lại trình làng, điểm trống ra tang

Lẳng lặng mà nghe, tôi giáo Kiều Giang một cách

….

Giầu têm mà đệm vàng, cung têm mà đệm ngọc

Chén nước í a vò xanh

Kén được ngày tốt í a ngày lành

[“Nguyễn Thị Sen- Trong Kiều Giang Cách”]

Hát Xoan là lễ tục của một xã hội nông nghiệp. Nội dung tín ngưỡng, ca

ngợi thần linh, ước mong cuộc sống no đủ, ca ngợi thời tiết bốn mùa… Trong ca

từ đều xoay quanh cây lúa - thành quả lao động sản xuất nông nghiệp của người

nông dân. Các quả cách có nội dung về lao động sản xuất là sự phản ánh hiện thực

xã hội đương thời; cuộc sống làm ăn, các nghề: Săn bắn, đánh cá, hái củi, làm

ruộng, dệt vải, trồng bông, trồng đậu, may vá, canh cửi... Thông qua câu hát ta có

thể hiểu được thực trạng nền kinh tế xã hội của một thời kỳ lịch sử nhất định.

Các quả cách có nội dung về sinh hoạt xã hội đã diễn tả thực tiễn xã hội;

bởi vậy có những khuynh hướng khác nhau: Tôn thờ và tín ngưỡng (tôn thờ tự

nhiên xã hội và lễ giáo phong kiến).

Các quả cách có nội dung diễn tích nghĩa có nội dung đề cập trực tiếp

đến lịch sử, các câu chuyện đã qua, các sự tích về sự vật hoặc nhân vật lịch

sử… Trong nội dung này Xoan ca phô diễn trực tiếp, nói thẳng về sự tích ấy

mà không lồng ý kiến bình luận của người đương thời hoặc diễn không trực

tiếp là nhân kể về sự tích ấy nhưng có lồng ý chủ định, chủ quan của người

đương thời để giáo dục đạo lý, nhân cách cho mọi tầng lớp trong xã hội.

Các quả cách kể về lịch tiết: Tứ thời tiết lập, Xuân, Hạ, Thu, Đông về cơ

bản là sản phẩm của văn chương bác học. Cảnh vật thiên nhiên 4 mùa trong con

mắt kẻ sĩ (các nhà Nho) đã luôn tươi đẹp lại được thi vị hóa, được lồng với cảm

xúc hoài niệm để câu hát Xoan toát lên phong độ nhàn tản. Mỗi quả cách khi

35

diễn xướng đều

Kiều Giang cách: Là một áng thơ Nôm kể về sự tích công chúa Kiều Giang

thời Hán Vũ Đế; xinh đẹp nết na, có tài ca hát. Nàng bẻ giát giường làm phách để

gõ và hát theo. Tiếng hát của nàng đã làm cho vua cha khỏi bệnh, sống trường thọ,

bách niên giai lão. Kiều Giang cách còn là lời cầu chúc cho Vua, cho Thần Thành

hoàng làng và cho toàn dân làng xã luôn được an khang, thịnh vượng.

Vua là đại vương

Chào nhà thục y

Hỡi á thần nông

Có thần hà bá

[Kiều dương cách- tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]

Tứ dân cách: Là bài hát ca ngợi 4 ngành nghề đã phát triển rất sớm ở Việt

Nam; đó là Sĩ (giới chữ nghĩa học hành khoa cử); Nông (nghề làm ruộng, chăn

tằm, dệt vải, đánh cá); Công (nghề đóng thuyền, làm mộc, rèn đúc công cụ sản

xuất); Thương (nghề buôn bán, chợ búa, trao đổi sản vật). Thông qua đề tài này ta

có thể hình dung được cuộc sống lao động với những sắc thái và dáng vẻ riêng của

từng giới trong xã hội nông nghiệp. Nổi bật trong các tầng lớp ấy là kẻ sĩ. Trong

gia đình và trong xã hội, kẻ sĩ luôn ở vị trí cao hơn các tầng lớp nhân dân khác.

Thuyền chèo cách: Là bài hát thể hiện ước vọng của những người làm

nghề chài lưới trên các dòng sông: Sông Lô, sông Thao, sông Chảy. Họ ước ao

bắt được những con cá quý như cá măng, cá vược để dâng lên thờ Vua và thờ

Thành hoàng làng nhằm cầu mong Vua cùng Thần ban phúc lộc cho.

Ngư tiều canh mục cách: Là bài hát ca ngợi 4 nghề nông: Ngư (đánh cá),

Tiều (kiếm củi); Canh (cày bừa, cấy hái); Mục (chăn thả gia súc). Nội dung quả

cách này ca ngợi cuộc sống tự do, phóng khoáng, không gợn chút bụi trần ai

của những người nông dân sống chết với ruộng đồng, núi rừng, sông suối, đầm

ao. Thực tế đây là những công việc của nhà nông được cụ thể hóa bằng lời ca,

khúc hát của nhân dân lao động.

Đối dẫy cách: Là điệu hát khấn nguyện, đi tìm người thương nhưng mãi

36

không thấy người, chỉ thấy vầng trăng giống như cái lược của người con gái

thường hay cài ở đầu và chỉ thấy “Rầu rầu dõi tiếng chuông thôi; Đôi hàng

nước mắt cảm ai đượm lòng”.

Chơi Dâu cách: Là điệu hát vui chơi của trai gái trong ngày hội chùa Dâu

(mùng 8-4 âm lịch) rồi nhân chuyện ấy, sự tích ấy mà dạy bảo về đạo lý làm ăn

cho con trai, con gái.

Tôi chào vua bà

Trẩy đi ngàn ngạt

Đã chật hết đường

Nó hết hai hàng kiệu tán

Nó hết hàng đạn hàng cung

[Chơi dâu cách- tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]

Hát quả cách xuất hiện sớm nhất bắt nguồn từ lao động nông nghiệp hình

thành, có trước cả thời Hùng Vương dựng nước. Hát quả cách đa dạng và

phong phú phản ảnh trong lao động thuộc các ngành nghề khác nhau. Theo

thống kê chưa đầy đủ đã có 15 quả cách, đó là: Nhàn ngân cách, tràng mai cách,

xoan thời cách, mục đồng cách, đồng dẫy cách, hồi liên cách, tứ mùa cách,

thuyền chèo cách, từ dân cách, chơi dân cách, kiều giang cách…

Hát Xoan Phú Thọ là một hiện tượng của văn nghệ dân gian nói chung

và của người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc bộ nói riêng, là sản phẩm văn hóa

đặc sắc của người nông dân vùng đất Tổ, nó ra đời và được nuôi dưỡng trong

môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường kinh tế - xã hội có lịch sử từ thời

đại các Vua Hùng dựng nước Văn Lang, khi cộng đồng người Việt biết khẩn

hoang trồng lúa nước và định cư trên đất Tổ Phong Châu thuộc vùng trung lưu

châu thổ sông Hồng. Môi trường kinh tế sản sinh và nuôi dưỡng hát Xoan là

nghề trồng lúa nước kết hợp với khai thác lâm sản (hái củi), săn bắn, đánh bắt

cá trên hồ đầm, sông suối, khe ngòi... và canh tác trồng cây tạp giao trên đất

37

vườn chủ yếu là cây lương thực và cây ăn quả.

2.1.3 Hát Xoan phản ánh tình yêu lứa đôi

Hát Xoan Phú Thọ (hay hát Xoan Hy Cương) cũng phản ánh đời sống

tinh thần phong phú thông qua các hoạt động lễ hội dân gian với hình thức hát

đối đáp nam nữ giao duyên như Xin huê, đố chữ, hát đúm, hát bỏ bộ... Hát

Xoan còn đề cập đến mối quan hệ xã hội giữa các làng, chạ với nhau thông qua

tục lệ hát nước nghĩa giao lưu giữa các làng có Đình thờ Thành hoàng làng với

nhau trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc. Mối quan hệ rất nhân văn ấy

đã được thể hiện qua làn điệu trong Hát Xoan như: Hát đón Đào; Hát mời rượu;

Hát nước nghĩa; Hát giã bạn... được thể hiện rất rõ trong Hát Xoan Phú Thọ.

Chúng tôi xin trình bày một số nghiên cứu, nhận xét về tính nhân văn thể hiện

trong lối hát Mời rượu của Hát Xoan Phú Thọ.

Trong lời hát của làn điệu Mời rượu có 3 khổ lời ca để hát. Nhiều người

cứ nghĩ đây chỉ là lối hát mời rượu của các Đào, Kép Xoan được dùng trong

các cuộc hát nước nghĩa với các cửa Đình thuộc các làng, chạ khác. Nhưng đi

sâu tìm hiểu thì nhận định ấy có phần chưa được đầy đủ bởi mỗi khổ hát có lời

ca khác nhau, thể hiện ý nghĩa, nội dung khác nhau chứ không chỉ có mời rượu!

Điều này chỉ đúng với khổ hát đầu:

“Tay tiên nâng chén (ối, a) (ố mấy) đào, rượu đào;

(Ố mấy rằng) đổ ra (đi) đổ ra (thời, thì) tiếc, uống vào (thời, thì) uống vào

Uống vào (thời, thì) say, ố mới say, tình say”.

[Mời rượu- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]

Nhưng đến khổ hát thứ hai thì lời ca đã thay đổi và đương nhiên, ý nghĩa

của lời ca cũng khác với lời chào, mời rượu ban đầu khi mới gặp mặt nhau.

“Đố ai quét sạch (ối, a, ố mấy) rừng lá rừng.

Ố mấy rằng để ta (để ta) khuyên gió, (ố mấy đừng), đừng gió đừng.

Gió đừng rung cây, (ố mấy ru) tình ru”.

[Mời rượu- Tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]

Ý nghĩa của những lời ca ấy nói lên sự cần thiết phải duy trì mối đoàn

38

kết cộng đồng trong làng, trong chạ. Khuyên bảo nhau đoàn kết chặt chẽ để

chống lại " phong ba, bão táp" với mong muốn nếu có giận dỗi nhau thì cũng

chỉ như cơn gió nhẹ thoảng qua thôi chứ đừng có làm cho rụng lá, đổ cây, tan

rừng, đánh mất đi tình đoàn kết, gắn bó keo sơn đã có được từ xưa đến nay. Cố

gắng gìn giữ đừng để nó mất đi và tan hoang như những chiếc lá trong cơn gió

bão mà rừng cây phải gánh chịu.

Ở khổ hát thứ 3 thì lời ca như một lời nhắn nhủ trước khi tạm biệt, chia

tay, phản ánh tình cảm thiết tha, gắn bó đã nảy sinh từ tục hát nước nghĩa của

các đào, kép Xoan giữa các phường của các làng chạ kết nghĩa. Cuộc chia tay

ấy rất bị rịn với bao nỗi nhớ nhung sâu sắc và nhắc nhở nhau đừng bao giờ

quên nhau mà phải luôn nhớ đến nhau như “gừng cay” như “muối mặn”: “Tay

nâng chén muối (ối a) ố mấy gừng (gừng đĩa gừng) ố mấy rằng gừng cay, gừng

cay muối mặn (ối a) ố mấy đừng (đừng xin đừng) xin đừng quên nhau (ố mấy

ru tình ru, ố mấy ta ru hời)”. Có thể ví đây chính là lời hát chia tay “Giã bạn”

của các Đào, Kép trong các phường Hát Xoan Phú Thọ mà các thế hệ nghệ

nhân Hát Xoan đã cố ý gửi lại cho thế hệ tiếp theo bảo tồn và gìn giữ những giá

trị nhân văn quý báu đó. Mặc dù trong lời hát không có ca từ nào nói đến “Giã

bạn, chia tay, tạm biệt...” nhưng ý nghĩa của “gừng cay; muối mặn” đã nói lên

lời nhắn nhủ khi chia tay tạm xa nhau hãy luôn nhớ đến nhau, gắn bó sâu nặng

nghĩa tình như “gừng cay” như “muối mặn”. Có thể sau này các lối hát dân ca

của vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong đó có hát Quan họ Bắc Ninh đã kế thừa và

phát triển thành lối hát Giã bạn. Trong hát Quan họ trước khi chia tay giữa các

liền anh, liền chị bằng những ca từ thấm đậm âm hưởng đằm thắm, trữ tình.

Như đã đề cập ở trên, một diễn hát Xoan thường có 3 chặng. Ba chặng

hát có nội dung khác nhau, nhưng gắn kết vào một vấn đề: Đấy là ước nguyện

được sinh sôi, được giàu có và con đàn cháu đống.

Chặng đầu tiên là những bài hát mang tính nghi thức, khởi đầu một đêm

hát thờ, từ tiếng trống đến việc mời thần về tại vị và cuối cùng được khẳng định

39

rằng làng này chính thức vào đám. Chặng 2 là những bài hát quả cách, trong đó

chứa đựng những lời chúc phúc, tự sự tình yêu, tứ quý bốn mùa xuân, hạ, thu,

đông, tự do hóa cuộc sống nông nhàn. Chặng 3 là những bài hát giao duyên,

với nỗi niềm khát khao hạnh phúc ví như xin huê, đố chữ, mó cá…

Có thể nói, trong 3 chặng, thì chặng hát giao duyên trong hát Xoan có

nhiều điệu hát như đón đào, bợm gái, hát đúm, mó cá, xin huê, đố huê, bỏ bộ…

Trong đó, điệu đi chơi bợm gái (đi chơi bạn gái) và điệu mó cá là những điệu

hát phồn thực nhất.

Nếu như điệu “đi chơi bợm gái” thể hiện tinh thần, sự khao khát giữa

những đôi trai gái:

“Đôi anh lại đây đôi em thết ơ thết trầu

Thưa làm sao em ngỏ túi trầu ra thết mấy hờ là đôi anh

[“Nguyễn Thị Sen- Kết bạn”]

Thì điệu mó cá thể hiện sâu sắc cho ước vọng sinh sôi, nảy nở ấy. Trong

điệu mó cá, các cô đào xoan vòng tay làm thành lưới, vây lấy các chàng trai

đứng giữa làm cá. Khi đã quay thành vòng tròn, các cô gái giả làm lưới vỗ tay

thách thức các chàng trai giả làm cá.

Các chàng trai muốn thể hiện mình là người bắt cá, chứ không phải thụ

động là con cá, vì vậy nên các anh chàng cá, thì lại biến thành các trai làng, và

nhảy ra vồ vào các cô đào, với các điệu hát hết sức phồn thực: Các cô đào cất

tiếng hát:

“Là vông, vông tập, vông tập, tầm vông

Là vông, vông tập, vông tập, tầm vông’’,

Các chàng trai hát đáp lại:

“Đánh cá bóng giăng, đôi ta đánh cá bóng giăng

Cá thời chẳng được dung dăng bắt đào

Đôi ta mò cá đầm đăng, cá thời không được tung tăng mò đào”…

40

[“Nguyễn Thị Sen- Mời trầu”]

Hát đón đào, xin huê, hát đúm… cũng là những làn điệu hát rất thú vị

trong chặng hát giao duyên. Vào ngày lễ hội, khi các phường xoan đi hát ở làng

kết nghĩa, các trai làng hào hứng, phấn khởi ra đón đào và hát rằng:

“Còn chưa có quai,

Trống quân còn chưa có quai,

Mời đào bưng trống rồi mai đến gần’’.

[“Nguyễn Thị Sen_ Trống quân”]

Còn hát đúm, là hình thức các chàng trai, cô gái cùng tham gia lễ hội, cô

gái cầm quả đúm (là một chiếc khăn, bọc trầu cau, và có những đồng tiền) hát:

“Đúm ơi, ta dặn đúm nghe,

Tìm nơi quần trắng, áo the, đúm vào

Đúm vào, người hỏi làm sao,

Em là quả đúm, em vào kết duyên”…

Hát rồi, cô gái nhằm vào một quan viên hoặc một chàng trai ném đúm,

người nhận quả đúm hát rằng:

“Đúm này anh đã thưa rồi,

Đào mà ném đúm đứng gần lại đây.

Đúm này là quả đúm tiên,

Đào muốn lấy tiền đào dịch lại đây.

Đào dịch lại đây, đào dịch lại đây,

Anh cầm quả đúm trao tay cho đào…”.

[“Nguyễn Thị Sen- Hát Đúm trao duyên”]

Cuối câu hát, chàng trai tiến lại phía cô đào, cầm tay và trao quả đúm

cho cô đào. Cứ như thế lần lượt các cô đào tiến ra hát đối đáp với các chàng trai

hoặc các quan viên.

Hát giao duyên là phần hát Xoan thể hiện tình cảm của con người với

con người bằng tình yêu, bằng trí tuệ đó là hát Bỏ Bộ, hát Huề, đố Huề, đố chữ,

41

hát Đúm và hát Bợm.

Hát múa Bỏ Bộ là múa hát minh họa muôn mặt của đời sống sinh hoạt

của người nông dân thể hiện những động tác, những công việc, thậm chí từng

công đoạn của công việc, nên lời hát đến đâu thì động tác múa trình diễn minh

hoạ đến đấy.

Hát Huề là hát đố chữ được hát liền mạch, liền khúc như Huê đố chữ là

những câu hát lắt léo để thử trí, thử tài, nhằm thôi thúc, khích lệ tinh thần hiếu

học. Thí dụ trong lời ca đó có câu:

“Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?

Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta?

Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa, việc nhà?

Anh đố em biết chữ gì thấy người qua mà chẳng chào?

[“Nguyễn Thị Sen- Đố chữ”]

Hát đúm là một nhóm người tập trung làm việc với một nhóm người kia,

có thể hát về công việc họ làm và kết quả đạt được khi mưa thuận, gió hòa là

gieo trồng đúng ngày, đúng vụ nên có được những vụ mùa bội thu.

Hát Bợm là hát tỏ tình giao duyên một nhóm nam, nhóm nữ, đi lễ, đi trẩy

hội, họ gặp nhau hai bên nam nữ thay nhau lúc đầu là hát thăm dò sau là hát tỏ

tình rồi hẹn hò. Từ đây sẽ có những cuộc hẹn hò đôi lứa riêng để nên vợ, nên

chồng. Bài khái lược diễn giải trên đây để chứng minh giá trị lịch sử văn hóa

của người Việt cổ nói lên tầm quan trọng giá trị nghệ thuật phong phú, sâu sắc

của hát Xoan trong đời sống cư dân nông nghiệp vùng đất Tổ cội nguồn. Hát

Xoan xuất hiện rất sớm, như các nhà khoa học ở các nước tiên tiến trên thế giới

đến nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã xác nhận.

Nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan khẳng định, chặng hát giao

duyên như đón đào bợm gái là chặng sôi động và rất quan trọng trong phần hội

của hát Xoan. Chặng này có vai trò hấp dẫn cộng đồng cùng hòa vào hát múa

với các đào Xoan, đồng thời, đây cũng là chặng làm cho người ta luôn nhớ tới

phường xoan, đặc biệt là các nam thanh nữ tú, bởi đây là làn điệu mang tính

42

phồn thực, và cũng vì “có nam, có nữ nên mới nên xuân”. Đây cũng là chặng

hát mà các cô đào, các chàng trai trong làng mong muốn nhất mỗi khi vào hội,

thể hiện nỗi nhớ mong của các chàng trai với các cô gái.

Cũng theo nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, chặng hát đón đào, đi chơi

bợm gái này làm không khí âm nhạc hát xoan thay đổi. Nếu trước kia các tiết

tấu, tiết điệu lối hát giống nhau đều đặn, thì đến chặng này nhịp điệu thay đổi,

rộn ràng, dồn dập hơn, làm cho không khí hát Xoan trở nên sôi động, vui vẻ vô

cùng. Đây cũng là chặng hát chứa nhiều tâm khảm, ước vọng, khát khao về tình

yêu, cuộc sống… vô cùng thú vị của các nam thanh nữ tú khi đi lễ hội. [Hát

Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của Phú Thọ - Đất Tổ Vua

Hùng, là dân ca nghi lễ, phong tục, là tiếng hát cửa đình, thể hiện lễ tục diễn

xướng, tế thần linh và đậm chất trữ tình”]

Một trong những yếu tố khiến cho hát Xoan lan tỏa mạnh mẽ là tục kết

nghĩa giữa các phường hát Xoan. Theo đó, khi các nghệ nhân đến các làng kết

nghĩa hát, sẽ dung nạp nhiều loại hình nghệ thuật của các quan viên và trai làng

sở tại vào trong nghệ thuật hát Xoan và làm cho các điệu hát Xoan ngày càng

phong phú, hấp dẫn, nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan đánh giá.

Còn nữa, tác giả luận văn thấy rằng ngay như trong khúc hát trao duyên

nhưng lời của khúc hát trao duyên ở xã Hy Cương có đôi điều khác biệt so với

hát Xoan chung của Phú Thọ.

Nếu như ở cuốn Tổng tập hát Xoan Phú Thọ - xuất bản năm 2016, ta bắt

gặp hình ảnh lời mời gọi làm bạn thân thương của chàng trai đối với cô gái:

Nàng bay sẽ bước

Xuống thuyền í a cùng anh

Nàng bay sẽ bước

Xuống thuyền í a cùng anh

Là hỡi í a thanh thay nhớ nguyệt í a đêm canh

Trăng tròn mà nghiêng miệng

Cái lược í a ở đầu í a tóc mai

43

[Trao duyên- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]

Thì đến với xã Hy Cương ta sẽ thấy lời Xoan cũng như nội dung mà

Xoan ở đây phản ảnh có đôi điều khác biệt mà chỉ ở đây mới có còn Xoan Phú

Thọ nói chung không có.

Gặp nàng anh hỏi đôi lời

Trước là làm bạn sau là người thương

Hỏi rằng nàng đã yêu ai

Để ta thưa mẹ ngày mai sang nhà.

[Trao duyên- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp]

Hát Xoan ở xã Hy Cương được coi là nơi gìn giữ và phát triển nét văn

hóa lâu đời của vùng đất Tổ và là nơi để truyền lại cho thế hệ mai sau vốn văn

hóa mà ông cha đã để lại, cùng với đó là nơi để quảng bá hình ảnh của vùng

đến du khách thập phương.

Điều đặc biệt hơn, Hát Xoan ở Hy Cương ngoài được hát vào mỗi dịp lễ

hội, mỗi dịp Tết đến xuân về còn được các nghệ nhân tổ chức hát vào mỗi

ngày rằm và mùng một âm lịch hàng tháng, và ngoài các nghệ nhân hát còn có

cả các em học sinh từ lớp một đến lớp năm của địa bàn tham dự và đây là hình

thức giữ gì và phát huy giá trị của hát Xoan. Địa điểm diễn xướng ở cửa đình,

nhưng còn hát ở trong đình. Ngày xưa trước cuộc hát Xoan, đào phường Xoan

thường hát Trống Quân với trai làng Đức Bác ở bến sông, trên đường làng đầu

đường làng, đầu đường làng rồi mới vào hát ở cửa đình. Một số làng lại có

những tư gia, sau khi nghe hát Xoan ở cửa đình thì lại mời phường Xoan về

hát ở nhà, nhưng không hát thờ mà chủ yếu nghe hát Phú ngâm ngợi những

bài thơ áng văn.

Những bài hát Xoan mà tác giả điền dã sưu tầm được chủ yếu phản ánh

về phong tục, lễ hội, về tình yêu lứa đôi, về cuộc sống sinh hoạt văn hóa của

người dân nơi đây. Phong tục ấy chỉ riêng xã Hy Cương mới có ví dụ như trong

44

đám cưới: phong tục mời rượu, mời nước, mời trầu, đón dâu, giao dâu,cũng

khác so với những địa phương khác. Ngay như hát Xoan phản ánh những sinh

hoạt hết sức đời thường giản dị mà chỉ có ở xã Hy Cương nói riêng mới có như:

chào ra về, mời rượu, mời nước trà xanh.

2.2. Nghệ thuật

2.2.1. Thể thơ

Hát Xoan cũng như một số các hình thái sinh hoạt văn hóa âm nhạc dân

gian khác của người Việt: Hát Dô, Hát Dậm, Hát Chèo Tàu, Hát Quan Họ, Ca

Trù… khởi đầu đều là lối hát tế thần(từ nhiên thần đến nhân thần) rồi từ dần

đến những yếu tố tín ngưỡng, tâm linh bớt đi (Quan Họ).

Lời ca trong hát Xoan được cấu trúc theo nhiều thể thơ. Lời Xoan thường

được thể hiện dưới dạng thể thơ song thất lục bát (2 câu 7, một câu 6, một câu

8), thất ngôn (7 tiếng), lục bát, lục bát biến thể, bốn tiếng, sáu tiếng đơn giản dễ

nhớ, dễ thuộc, dễ hát. Đặc biệt thể thơ lục bát được nghệ nhân nhân cung cấp

mà tác giả luận văn sưu tầm được chiếm ưu thế cao nhất, có lẽ vì thể thơ lục bát

là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu truyền

mà mang những ngọt ngào sâu lắng trữ tình cho người đọc người nghe. Ví như

trong bài Xoan “Chào ra về” dưới đây:

Thuyền son lại đậu bến son

Con chào các mẹ để con ra về

Con về đến tận Giang Khê

Con chào các mẹ ở lại con về còn xa

Con về đến chốn quê nhà

Con chào các mẹ con ra hẹn đò

[Chào ra về- Nguyễn Thị Sen]

Ở bài Xoan trên ta thấy thể thơ lục bát rất gần gũi với ca dao hơn thế

những hình ảnh trong bài Xoan cũng có nét tương đồng với ca dao, hình ảnh

con đò, bến nước gọi chúng ta nhớ đến câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng bờ sông

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

45

[Ca dao Việt Nam- Đỗ Bình Trị]

Thơ trong Hát Xoan bao gồm cả thơ dân gian và thơ bác học. Thể thơ 4

chữ là thể thơ cổ mà một số bài ở chặng hát nghi thức và trong 14 quả cách ta

đều thấy như:

“Vạn thần tất hưởng

Tôi mời vua cả

Người sang đất này.”

[“Nguyễn Thị Sen- Mó cá”]

Thơ lục bát, lục bát biến thể và song thất lục bát được sử dụng nhiều

trong cấu trúc lời ca Hát Xoan:

“Đường đi trên suối dưới khe

Đưa cố nhân long càng kiểu cách

Tưởng long sầu mọi mạch nhỏ to

Thương Xoan đêm những mà lo

Ngày nào được hợp nhỏ to kẻo phiền.”

[“Nguyễn Thị Sen- Trong Bỏ Bộ”]

Ngoài những thể thơ nói trên thì lời ca Hát Xoan còn có thể thơ tự do.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, những yếu tố ngoại lai đôi khi lấn lướt cái

gốc rễ, cội nguồn nguyên sơ, nhưng về cơ bản nội dung lời ca hát Xoan, đó là

hàng loạt những tiếng đưa hơi và những tiếng đệm vào câu hát. Những tiếng

đưa hơi và những tiếng đệm vào câu hát cũng tạo nên một số đặc trưng cho một

số thể loại thơ ca. Những tiếng đưa hơi thường dùng trong hát Xoan là ơ, a,i, ê

hê…Những tiếng đệm thường dùng trong hát Xoan là: tềnh là tềnh tang tềnh,

vông vông tầm, tênh tang tít tang tông… Những tiếng đưa hơi, tiếng đệm trong

hát Xoan hầu như không có nghĩa về nội dung lời ca, nhưng lại có tác dụng nối

nét nhạc cho liền ý, liền mạch hoặc để phát giai điệu, để tiếp nét nhạc này sang

nét nhạc khác.

2.2.2. Kết cấu

Thuộc loại dân ca cổ nhất và cùng quá trình tồn tại và phát triển, âm nhạc

trong hát Xoan chứa đựng những yếu tố từ giản dị nhất cho đến những bài bản,

46

làn điệu hoàn thiện và tinh tế.

Hát Xoan chủ yếu phản ánh phong tục thờ Thần linh, Thành Hoàng làng

và các Vua Hùng trước cửa đình nên nghệ thuật trình diễn của hát Xoan rất đơn

giản, mộc mạc với sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, thơ, vè và giọng điệu

mang đậm dấu ấn thổ ngữ của địa phương vùng trung du Phú Thọ (dân ca). Lời

ca trong hát Xoan còn có sự kết hợp với các điệu múa đơn giản chủ yếu bằng

đôi tay của các đào, kép đưa ra, thu vào, ngửa bàn tay, úp bàn tay, kết hợp với

việc sử dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu... Di chuyển trong hát

Xoan bằng đôi chân chủ yếu theo hàng dọc hoặc hàng ngang và vòng tròn (mó,

giã cá) cũng đơn giản không phức tạp.

Hát Xoan hội đủ các yếu tố của văn nghệ dân gian bao gồm về tổ chức

Phường (họ); trình diễn theo hình thức đơn giản hát kết hợp với múa gắn với

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Đó là hình thức âm nhạc cổ truyền, kết hợp

được yếu tố văn hóa, văn học, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu

và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ qua

nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

Lời hát Xoan được tạo nên bởi lối hát thơ, các ý thơ câu thơ khổ thơ tạo

nên các kiểu cấu trúc. Cấu trúc các bài, làn điệu Hát Xoan khá đa dạng bao gồm

các dạng cơ bản sau: Khởi thuỷ là lối hát truyền cầu cúng, nên Hát Xoan có một

dạng cấu trúc âm nhạc phụ thuộc thuộc vào lời của bài văn, hay bài thơ được

trình bày bằng kiểu vừa nói vừa hát. Những cấu trúc này là cấu trúc khổ nhạc hát

nói. Các bài ở chặng nghi thức trong Hát Xoan như Giáo trống, Giáo, Giáo pháo,

Thơ nhang có cấu trúc khổ nhạc hát nói. Các câu trong khổ nhạc hát nói thường

giống nhau lặp đi lặp lại. Độ dài, ngắn của lời hát nói phụ thuộc vào nội dung thể

thơ 4 hoặc 5 chữ (từ) hoặc thể thơ tự do có thêm các tiếng đưa hơi, tiếng đệm.

Dạng cấu trúc thứ hai trong Hát Xoan là cấu trúc khổ nhạc đơn. Khổ nhạc đơn

gồm nhiều câu nhạc, mỗi câu ứng với một câu 6 chữ, câu thơ 8 chữ của thể thơ

lục bát hoặc lục bát biến thể. Dạng cấu trúc thứ ba trong Hát Xoan là cấu trúc 2

47

khổ đơn thường là do sự phát triển của cấu trúc khổ nhạc đơn mà ra.

Có thể thấy rằng, hát Xoan Phú Thọ là loại hình dân ca nghi lễ nên Xoan

không có hình thức hát thi với đối giọng(làn điệu) như Quan họ, đối ý, đối lời như

hát Ví, Trống quân mà chỉ là thi thuộc bài bản và thanh xướng. Hát nghi lễ phải có

quy tắc, khuôn khổ cho nên nó hạn chế ứng tác, sáng tác ngẫu hứng, sáng tác ứng

chiến của nghệ nhân theo yêu cầu đột biến so với Quan họ và hạn hẹp lời so với

Ví. Hát Xoan nghi lễ là khuôn khổ cố định không thể vượt ra ngoài.

Ngoài ra, trong hát Xoan cũng có kết cấu đối - đáp với hình thức hỏi-

đáp mang với những bài hát Xoan giao duyên. Ra đời trong hoàn cảnh đối đáp

giao duyên nam nữ trong môi trường lao động hay khi vui chơi hội hè nên

trong hát Xoan thể hiện tình yêu nam nữ có phần lớn những lời Xoan là lời

đối thoại của người nam và người nữ, gồm có hai vế đi song hành với nhau.

Hình thức thông thường nhất là câu 6-8 đối của giới này và câu 6-8 đáp của

giới kia. Có khi đó là lời trao đổi chuyện trò của hai bên nam nữ. Có khi đó là

câu hỏi của bên này và câu đáp của bên kia. Cũng có khi bên này ra câu đố

cho bên kia trả lời... Đa phần những câu Xoan này thường có nội dung dí dỏm,

hài hước. Nhìn chung dù ở hình thức đối thoại như thế nào đi nữa thì nội dung

của những câu Xoan này cũng ý nhị, dễ thương, khiến người nghe có thể mỉm

cười nhẹ nhàng hay cười to sảng khoái xua tan những mệt nhọc ngày thường.

Chẳng hạn như:

Đôi ta đánh cá bóng giăng,

Cá thời chẳng được dung dăng bắt đào/

Đôi ta mò cá đầm đăng,

Cá thời không được tung tăng mò đào”

Hay:

“Đúm này anh đã thưa rồi

Đào mà ném đúm đứng gần lại đây

Đúm này là quả đúm tiên

48

Đào muốn lấy tiền đào dịch lại đây

Xin mời đào dịch lại đây

Anh cầm quả đúm trao tay cho đào”

[ Hát Đúm trao duyên- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp]

Và hát Xoan là hình thái sinh hoạt văn hoá âm nhạc dân gian, được hình

thành bởi xúc cảm thiêng liêng trong đời sống tâm linh của người Việt vùng Phú

Thọ. Nằm trong tổng thể nguyên hợp của một hiện tượng folklore, nhịp điệu hát

Xoan cũng như các thành tố khác của hát Xoan đều có mối tương quan logic.

Với những bài ở chặng nghi thức: Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang và các bài

có gắn với múa minh hoạ như: Bỏ bộ, Đánh cá, Bợm gái nhịp điệu mạch lạc,

khúc triết. Nhịp tương ứng với loại nhịp 2/4 được sử dụng rất nhiều trong âm

nhạc hát Xoan. Loại nhịp tương ứng hỗn hợp cũng có xuất hiện (Thơ nhang,

Đóng đám) nhưng số lượng ít. Những bài hát ngâm ngợi (Gài hoa, Hát phú) nhịp

tự do. Một đặc điểm khá tiêu biểu trong nhịp điệu hát Xoan là kiểu nhấn lệch, sử

dụng ở nhiều bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Xin hoa- đố chữ.

2.2.3. Ngôn ngữ

Về ngôn ngữ, nội dung ngôn ngữ của hát Xoan vừa mang tính dân dã,

vừa mang tính bác học của các nhà Nho với các bài thơ phản ánh thiên nhiên,

phản ánh cuộc sống lao động và đặc biệt là sự thể hiện lòng thành kính với các

vua Hùng và thần linh có công bảo trợ cho cuộc sống của dân làng.

Ngày xưa, người các vùng không có hát Xoan đến với vùng hát Xoan

thường có nhận xét: "Người hát Xoan nói như có văn có sách". Ngôn ngữ của

người Hát Xoan là một ngôn ngữ giàu chất thi ca của ca dao, tục ngữ, truyện nôm.

Ví dụ nói:

“Bây giờ gặp mặt nhau đây mà cứ ngỡ như là chuyện chiêm bao... ”

Câu nói này khiến ta liên tưởng đến những chữ đã dùng trong 2 câu thơ

truyện Kiều:

“Bây giờ gặp mặt đôi ta

49

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ”

Ví dụ nói để khen bạn: “Thưa anh Hai, anh Ba... thật là thơm cây, thơm

rễ, người giồng (trồng) cũng thơm, đấy ạ! ”.

Câu nói này khiến ta nghĩ ngay đến câu ca dao:

“Người như hoa quế thơm lừng

Thơm cây, thơm rễ, người giồng (Trồng) cũng thơm. ”

Ngôn ngữ giao tiếp của người hát Xoan tuy mềm mại, khéo léo, tinh thế,

nhiều khi bóng bẩy, lững lờ... nhưng không gợn lên những ẩn ý dối trá, lừa lọc

mà đậm đà tình người, sự tôn trọng giữa người và người luôn hướng tới sự giàu

đẹp, của ngôn ngữ. Vì vậy, người hát Xoan không thích, không chấp nhận sự

thô kệch, vụng về trong ngôn ngữ.

Cho nên, khi các em bé được các anh nhớn, chị nhớn hát Xoan rủ bọn để

luyện ca hát thì cũng hướng dẫn các em "học ăn, học nói, học gói, học mở" để

sau này giao tiếp trong hát Xoan. Người hát Xoan cũng rất coi trọng sự lịch

thiệp, thanh nhã trong mọi việc cử chỉ giao tiếp.

Từ việc đỡ ô, đỡ nón khi đón bạn, nâng cơi giầu (trầu) mời bạn, nâng

chén nước, chén rượu, đến dáng đi, dáng đứng, thế ngồi, cái miệng, đôi mắt, tư

thế khi chuyện trò cùng bạn.v.v.... gần như đều có chuẩn mực thế này là phải, là

duyên, thế kia là không phải, vô duyên.

Có những người, những nhóm hát hay, thuộc nhiều bài, nhưng cử chỉ

giao tiếp kém cũng không có nhiều bạn muốn hát cùng, muốn kết bạn, thậm chí

kết bạn rồi cũng lại nhạt dần rồi thôi.

Một chùm hoa bưởi đặt trong cơi trầu, một nhành hoa sói cài trên mái tóc nép

kín vào vành khăn hoặc dấu trong khăn tay... vốn là sự tinh tế của người hát Xoan.

Phong tục, lề lối trong hát hát Xoan là một hệ thống quy ước không

thành văn, không do một ai ban bố, nhưng, từ đời này qua đời khác, những quy

ước ấy lần lượt ra đời và được mọi người tuân thủ, tuy có những chi tiết khác

nhau nhưng mang tính thống nhất cao trong toàn vùng hát Xoan.

Hệ thống quy ước ấy được hình thành do những yêu cầu tồn tại, duy trì,

50

phát triển hoạt động ca hát hát Xoan, nhưng cũng chịu sự chi phối trực tiếp của

toàn bộ phong tục tập quán của cộng đồng dân cư vùng hát Xoan, trở nên một bộ

phận gắn bó khăng khít với toàn bộ phong tục tập quán của một vùng văn hoá.

Ngôn ngữ thi ca trong lời ca hát Xoan đạt tới những thành tựu nghệ thuật

đặc sắc, độc đáo. Một ngôn ngữ khi thì mộc mạc đồng quê, khi thì trau chuốt

tài hoa nhưng bao giờ cũng giàu tính hình tượng, sâu đậm nghĩa tình. Ngôn ngữ

ấy đã thu hút nhiều tinh hoa của nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca dân gian, thơ ca

bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng với những giá trị nổi bật, góp phần tạo

nên những giá trị riêng của bài ca hát Xoan.

Ta có thể tìm hiểu một số thành tựu tiêu biểu của ngôn ngữ thơ ca trong

lời ca hát Xoan. Sự mộc mạc và sự trau chuốt. Có một số lời ca hát Xoan, nếu

tách riêng lời ca thành văn bản, thì bước đầu tiếp xúc, có khi ta chưa thấy hết

cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là cảm thụ theo góc độ thi ca thuần tuý.

Một ngôn ngữ đầy hình tượng, âm thanh: có cảnh, có tình, cảnh tình hòa

quyện và "bổng trầm, non nỉ..." âm thanh. Từ cảnh ấy, tình ấy, nổi bật lên con

người "tài trai" và "thục nữ", con người khao khát, đắm say vẻ đẹp của thiên

nhiên, của tình người. Cho nên, dù ngôn từ lời ca Quan họ được thể hiện trong

dạng mộc mạc, hoặc trau chuốt, bóng bảy, đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật cao.

Ðược như vậy chính vì người sáng tạo lời ca biết gạn lọc, lựa chọn ngôn từ ở

trình độ cao, có một trình độ tích luỹ, am hiểu sâu rộng về thơ ca dân gian và

cao hơn hết là sự rung cảm nghệ thuật tinh tế, chân thành.

Nếu nhìn về theo chiều dài lịch sử hát Xoan có kèm theo những khẩu

ngữ dân gian chẳng hạn như:

Buông câu bỏ lưới

Lướt thướt áo tơi

Kiếm củi lân la

Non xanh nước biếc

51

[Nghề kiếm củi- các bài xoan của nghệ nhân Nguyễn Thị Sen]

Cùng thời kì này có một bài ca Nôm là “Đắc thú lâm tuyền hành đạo

ca” viết theo lối thơ bốn chữ thường gặp ở thơ ca dân gian. Hầu hết các từ của

bài ca trên là từ cổ thuần Việt. Cách kể, lời thơ đã thoát khỏi thể cách quảng

vận phức tạp của Hán văn cùng thời

Sinh có thân nhân

Ấy là họa cả

Ai hay cộc dược

Mới rằng là đã

Tuần này mà ngẫm

Ta lại xá ta

[Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca- Thơ Nôm Việt Nam]

Từ ngữ và nhịp điệu của thể thơ ca dân gian này giống như cách kể trong

một vài quả cách: Ngư tiều canh mục, Nhàn ngâm, Kiều dương cách, … của

hát Xoan.

Chẳng hạn:

Kính lạy chiềng làng

Điểm trống gia tang

Vua cha mừng được

Nàng ấy tốt thay

Gọi là tiên nữ

Nàng ấy dóng dảy

Hơn cả Hằng Nga

[Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen sưu tầm]

Về mặt ngôn ngữ và thi pháp đã có nét gần gũi giữa thơ Nôm Lý - Trần

với một số bài quả cách của hát Xoan Phú Thọ. Tuy nhiên, đó chỉ là những ảnh

hưởng về hình thức biểu hiện qua việc kế thừa cách diễn đạt của dân gian, còn

những nội dung của hát Xoan thì không có dấu tích nào về tinh thần văn hóa

52

của thời Lý - Trần là ca ngợi Phật giáo và Thiền tông.

2.2.4. Diễn xướng hát Xoan

Môi trường, không gian diễn xướng

Có thể nói sự gắn kết giữa hát Xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng

Vương là hết sức độc đáo. Lịch sử ra đời và phát triển của hát Xoan, từ tên gọi,

nguồn gốc ra đời đều gắn chặt và hòa quyện với các truyền thuyết liên quan tới

thời Hùng Vương; lối trình diễn, sắp đặt các bài bản, các chặng hát cũng tuân

thủ theo các nghi thức hát thờ các Vua Hùng một cách thành kính; các lời ca

Xoan mang ý nghĩa chúc tụng, ca ngợi công đức các Vua Hùng xuất hiện trong

nhiều bài bản Xoan, xuyên suốt từ chặng hát thờ cho đến phần hát hội. Đặc biệt,

hát Xoan được thực hành trình diễn ở các di tích đình, đền, miếu thờ tự Hùng

Vương. Đó chính là không gian diễn xướng - không gian văn hóa đảm bảo sức

sống bền vững của di sản hát Xoan. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hát Xoan và Tín

ngưỡng Hùng Vương đã tạo nên sức sống mãnh liệt để hai di sản cùng song

song tồn tại, phát triển vượt thời gian cho đến tận ngày nay. Việc ghi danh hát

Xoan Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là sự khẳng

định lại của quốc tế về giá trị hát Xoan và đóng góp cho sự củng cố các di sản

khác, trong đó có Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

Hát Xoan gắn bó mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc, nhịp điêu thơ và nhịp

điệu nhạc, ý thơ và ý nhạc đều có sự thống nhất. Vì trước là hát tế thần, sau là

hát kỹ năng hát Xoan cũng đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật khá cao, với 4 tiêu

chí: vang, rền, nền, nảy. Như chúng ta đã biết địa điểm diễn xướng hát Xoan

khởi đầu là vùng đất thiêng (bãi cỏ ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, Việt Trì), nơi

vua Hùng dạy trẻ mục đồng ca hát. Hiện nay mỗi khi mở hội hát Xoan, dân

làng Phù Đức vẫn đến tế lễ ở bãi cỏ này. Về sau người ta xây miếu ở bãi cỏ

(vùng đất thiêng) gọi là “Miếu Lãi Lèn” các cuộc hát Xoan vẫn được hát ở

trước miếu Lãi Lèn. Khi có thiết chế đình làng địa điểm diễn xướng hát Xoan ở

cửa đình. Do đó hát Xoan còn gọi là Hát Lãi Lèn, Hát Cửa Đình. Hát Xoan là

53

sinh hoạt ca hát tập thể, người tha gia đông, hát ở không gian rộng nên tiêu chí

đầu tiên là hát phải vang. Tiêu chí hát vang trong hát Xoan không có nghĩa là

gào hay thét to. Khi tuyển đào, kép phường Xoan phải chọn người có giọng

khỏe và trong (không được khan), lúc hát vận dụng đẩy hơi thở làm âm thanh

vang lên trong vòm họng, ở hốc mũi. Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ

nhang là những bài ca khấn nguyện, hát theo kiểu hát nói. Bởi vậy độ âm vang

không những để nghe rõ mà còn thể hiện sự trang trọng, thần bí của giọng hát

trước khung cảnh trang nghiêm của cuộc tế lễ. Hầu hết các bài ở chặng thứ nhất

(nghi thức) và chặng thứ hai (14 quả cách) đều được trình diễn theo kiểu hát

nói. Những bài Hát phú, Gài hoa giai điệu mềm mại uyển chuyển, hát theo kiểu

ngâm ngợi nên tiêu chí quan trọng nhất là phải rền. Theo các nghệ nhân Hát

Xoan thì dền có nghĩa là âm phải liền nhau, hơi phải trường để ngâm nga

những bài thơ áng văn. Trên cơ sở của hát nói, hát ngâm ngợi lấy hơi sâu hơn

và không chỉ lấy hơi ngực mà còn lấy hơi ở bụng. để lượng hơi dồi dào hơn,

ngâm ngơi được trường hơi. Kỹ năng hát ngâm ngợi đòi hỏi phải mềm mai thể

hiện được tình cảm sâu lắng, trữ tình.

Cách thức diễn xướng

Theo nghệ nhân Sen cung cấp: “Hát Xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ.

Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành

phường. Đây là một tổ chức văn nghệ nghiệp dư của những người cùng làng,

phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau. Người đứng đầu một phường Xoan (hay

họ Xoan) gọi là ông Trùm. Ông Trùm là một người có kinh nghiệm về nghề

nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự.

Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng 15

đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân,

khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm đào, thắt lưng bao, dải yếm các màu, quần lụa,

đeo xà tích. Những làng có người đi hát Xoan này nước nghĩa với phường

Xoan và các phường Xoan cũng nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau thân thiết

như anh em, nhưng tuyệt đối đào kép Xoan không được lấy nam nữ thanh niên

54

của làng nước nghĩa”.

Trong ứng xử, phường Xoan hết sức trân trọng làng kết nghĩa. Cách ứng

xử này cũng được thể trong khi hát Hát đối đáp giao duyên tiêu chí hang đầu là

phải nền. Theo các nghệ nhân phường Xoan thì nền có nghĩa là nền nã lịch

thiệp. Nam nữ trong hát đối phải trân trọng nhau, thân ái, không đùa nghịch

chòng ghẹo. Nhả chữ phải rõ ràng rành mạch nhưng phải da diết đằm thắm.

Còn tiêu chí nảy trong Hát Xoan là những bài hát kèm theo múa như Giáo

trống, Giáo pháo hay Đánh cá phải vừa có âm vang, vừa nảy. Vang là phải

dõng dạc, nảy là mỗi câu phải dứt (ngắt).

Trong những bài trình diễn ở chặng hát hội của cuộc hát Xoan hát theo

kiểu hát xướng. Hát xướng là sự tổng hợp của hái kiểu hát nói và giọng hát ngâm

ngợi giống như hát khúc), lấy hơi phải nhanh hơn hát nói hát ngâm ngợi, lượng

hơi phải đủ để phù hợp với nhịp độ tương đối nhanh, linh hoạt của một số bài:

Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa, Đố chữ…Cách mở khẩu hình trong hát Xoan là phải

vừa phải, không quá to cũng không quá nhỏ, sử dụng môi và lưỡi linh hoạt để

làm rõ chữ. Sự đa dạng của các bài, làn điệu thuộc giọng lề lối và giọng ngoài lề

lối của Hát Xoan, bắt buộc đào kép phải có kỹ năng hát điêu luyện mới thực hiện

được các bài bản làn điệu với nội dung và tính chất khác nhau.

Qua việc trình bày ở trên cho ta nhận định một điều là hát Xoan là hình

thức sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc của người Việt ở Phú Thọ.

Hình thức diễn xướng

Hát Xoan được diễn xướng theo hình thức hát quả cách- đây là điểm đặc

biệt của hát Xoan Phú Thọ nói chung và hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng mà

không một loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian nào có hình thức này.

Có 3 hình thức diễn xướng hát Xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và

Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là

hình thức để nam nữ giao duyên.

Phường Xoan hoạt động như một đơn vị hoạt động nghệ thuật bán

chuyên nghiệp, do đó khâu tuyển chọn đào kép rất được chú trọng. Kép trong

55

phường Xoan không những là diễn viên hát mà còn là nhạc công có tay trống

tay phách điêu luyện. Đào phường Xoan phải đảm bảo có hai tiêu chuẩn nhanh

và sắc. Thiếu một trong hai tiêu chuẩn không được nhập phường. Khi đã có

chồng thường các cô đào không theo chồng đi hát nữa. Ngoài khả năng bẩm

sinh về thanh sắc, các cô đào được truyền kỹ năng về hát múa, được giảng dạy

cặn kẽ về các điển tích, được trau dồi bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức văn

học dân gian, âm nhạc dân gian và cả âm nhạc bác học.

Như một đơn vị nghệ thuật bán chuyên nghiệp, phường Xoan lưu diễn từ

làng này qua làng khác, mỗi làng sở tại đều có những yêu cầu riêng. Có làng

yêu cầu ngoài phần hát lề lối các cô đào cùng các chàng trai sở tại Hát Đúm

giao duyên. Có làng có những tư gia mời phường Xoan đến hát tại nhà, chủ yếu

là hát bài bản, làn điệu thuộc giọng ngoài như: Giọng Lý, Giọng Ru, Giọng

Phú…đây là bài bản làn điệu có âm điệu, lời ca và lối hát khác với Hát Xoan.

Nhất là giọng Phú, chỉ hát những điển tích của văn chương bác học: Phú Kiều,

phú Lưu Bình Dương Lễ, phú Thị Kính.

Với những yêu cầu của các làng sở tại thì từ trùm Xoan đến các đào kép

phải có một trình độ nhất định và khả năng văn hoá âm nhạc tương đối phong

phú mới đáp ứng được yêu cầu.

Hát quả cách là chặng tiếp theo trong quá trình diễn xướng của hát Xoan,

là lối hát cách hay trình diễn các quả cách. Hát quả cách là hát những bài hát

chúc Vua và những bài hát kể về lịch tiết, lịch sử, nghề nghiệp của cư dân nông

nghiệp trồng lúa nước.

Chặng nghi thức: Phường Xoan thường đi hát ở các làng kết nghĩa, nên

phần nghi thức ông trùm phường cùng ông chủ tế làng s tại phải đứng trước

hương án của làng, chắp tay kính cẩn vái lạy các thần linh. Sau đó ông trùm

phường hát những lời thỉnh mời, được xướng theo kiểu vãi tế gọi là Hát Chúc,

nối tiếp bài Hát Chúc là bài Giáo Trống. Bài Giáo Trống do chú kép trẻ nhất

phường với chiếc trống nhỏ đeo trước bụng vừa múa vừa nhảy dẫn, phường

Xoan phụ họa phần diễn của chú kép trẻ, bốn cô đào ra trước hương án, tay

56

nâng quạt làm điệu bộ dâng hương, chân bước lên bước xuống, hát bài Thơ

nhang, Đóng đám… Nội dung chủ yếu của những bài hát ở phần nghi thức là

thỉnh mời, cầu xin các vi thần linh về dự lễ tế, che chở cho dân làng được an

khang, mùa màng tươi tố thiên hạ thái bình.

+ Chặng hát các Quả cách Hát cách hay trình bày các Quả cách là lối hát

các bài bản khá dài như bài văn hay bài diễn ca. Nội dung Quả cách miêu tả

cảnh đẹp thiên nhiên với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông hay mô tả cuộc sống của

bốn lớp người trong xã hội lúc bấy giờ: sĩ, nông, công, thương, hoặc kể lại

những chuyện xưa.

Hát cách gồm 14 bài bản được gọi là Quả cách và có tên gọi và được sắp

xếp trình diễn như sau:

Kiều Giang Cách.

Nhàn Ngâm Cách.

Tràng Mai Cách.

Ngư Tiều Canh Mục Cách.

Đối Dẫy Cách Xuân Thời Cách.

Hồi Liên Cách.

Hạ Thời Cách.

Thu Đông Cách.

Đông Thời Cách.

Tứ Mùa Cách.

Thuyền Chèo Cách.

Tứ Dân Cách.

Chơi Dâu Cách.

Cấu Trúc mỗi Quả cách gồm có ba phần: mở đầu là giáo cách, phần

trung tâm là đưa cách, phần kết thúc là kết cách. Về diễn xướng thì mỗi Quả

cách có nhiều vẻ nhưng cơ bản là hát ngâm và hát nói. Ông trùm phường

Xoan hay một kép ngồi ở giữa khoang đình vừa đánh trống phách vừa hát dẫn,

57

các cô đào đứng sau hát phụ hoạ bằng cách hát lai nguyên một câu hay một

đoạn vừa hát, có khi chỉ là những câu đưa hơi. Để nối các Quả cách theo trình

tự diễn xướng người ta thường dùng các câu láy: các bạn họ ta lấy quả làm

dậm, là hỡi dậm nào dậm ấy cho qua, hoặc cách ấy cho qua, hỡi ban chèo ta

giờ sang cách khác.

Gọi là “Quả cách” vì quả là một bài bản dài, một thiên, một áng văn, một

chương, một diễn ca… Còn cách là một lối hát, một bài bản cụ thể. Ở chặng hát

này khi hát một bài, với tên gọi - tiêu đề có thêm từ “cách” như: Kiều Giang

cách; Tràng mai cách; Nhàn ngâm cách; Ngư tiều canh mục cách; Đối dẫy cách;

Thuyền chèo cách; Hồi liên cách; Xoan thời cách; Hạ thời cách; Thu thời cách;

Đông thời cách; Tứ thời cách; Tứ dân cách và Chơi dâu cách.

Trong hát quả cách ở cuối mỗi bài thường có lời kết như:

“Cách ấy đã qua

Giở qua cách khác”

[“Quả cách- bài 1”- Văn hóa Việt Nam- Trần Văn Khê]

Trong cuộc hát tại đình làng, các quả cách có vị trí quan trọng; có lúc có

nơi đã chiếm vị trí trung tâm của cuộc hát. Theo PGS, nhạc sĩ Tú Ngọc, một

quả cách khi hát thường có bố cục làm 3 phần:

Giáo cách: Phần này chỉ do người dẫn cách (gọi là kép) - hát. Độ dài

ngắn không nhất định (có khi chiếm 1/3, có khi chiếm 1/2 bài hát).

Đưa cách: Trong diễn xướng nhiều khi được coi là phần trọng tâm, cốt

lõi của một quả cách. Ở phần này người dẫn cách hát một đoạn dài rồi các đào

đứng ở phía bên hát đệm theo (phần hát của các đào được coi là hát phụ họa, có

khi là lặp lại lời hát của kép dẫn cách; có khi phụ họa hát bằng lời mới).

Kết cách: Là phần kết thúc một quả cách. Phần này có khi chỉ là một câu

ngắn do các đào diễn xướng. Kết cách thực chất là một bố cục rất ngắn gồm các

tiếng đệm; đó là tín hiệu để báo hết một quả cách bằng một lời ca và là giai

điệu dùng chung cho tất cả các quả cách, dù cho đã có câu, chữ báo hết ở cuối

phần trên.

58

Trong 15 quả cách được thể hiện hát Xoan thành 4 nhóm bổ sung:

Nhóm thứ nhất là: Những quả cách kể về các nhân vật lịch sử đó là: Kiều

giang cách, hội liên cách và tứ dân cách.

Nhóm thứ 2 là: Những quả cách hát chúc các bậc thánh nhân tiên đế đã

được dân chúng tôn vinh là những người đem lại hạnh phúc thịnh vượng cho

muôn dân, đó là: Nhàn ngân cách, trùng mai cách, thuyền chèo cách.

Nhóm thứ 3 là: Các quả cách thể hiện những cảm xúc của con người

trước thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đó là: Quả cách xoan thời, quả

cách hạ thời, thu thời cách, đồng thời cách.

Nhóm thứ 4 là: Những quả cách miêu tả về 4 lớp người trong xã hội

nông thôn thời phong kiến thể hiện trên các nghề (dạy học, nghề nông, làm

ruộng, chăn tằm, đánh cá...): Đúc đồng, đóng thuyền, làm mộc, làm rèn và nghề

thương (người làm nghề buôn bán) được thể hiện các quả cách: Ngư tiểu cách,

canh mục cách, tứ dân cách, để thấy sự đa dạng và phong phú của quả cách.

Hát Xoan có 3 kiểu hát: hát nói, hát ngâm ngợi, hát xướng (giống như

hát ca khúc). Vì vậy giai điệu hát Xoan cũng có một số nét đặc trưng như sau:

Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang hát theo kiểu hát nói. Đặc

điểm của giai điệu hát nói là sự đồng nhất giữa dấu giọng của lời ca với giai

điệu. Lời ca của kiểu giai đoạn hát nói thường là thơ 4 hoặc 5 chữ hoặc biến thể

của của chúng. Các quãng trong kiểu giai đoạn hát nói không vượt quá quãng 8,

thường là từ quãng 2 đến quãng 5. Từng từ, từng chữ trong lời ca thường chỉ

ứng với một đến hai, ba nốt nhạc.Giai điệu không sử dụng nhiều nốt luyến láy.

Kiểu giai điệu hát nói mộc mạc giản đơn nhưng dõng dạc, khoẻ khoắn.

Những bài Hát phú, Gài hoa theo kiểu ngâm ngợi. Đặc điểm của kiểu

giai điệu hát ngâm ngợi thường mềm mại, uyển chuyển, nhịp tự do thể hiện

tình cảm trữ tình sâu lắng. Dấu giọng lời ca hầu hết đồng nhất với độ cao giai

điệu. Giai điệu của hát kiểu hát ngâm ngợi có nhiều nốt luyến láy hơn giai điệu

59

của điệu hát nói.

Trang phục, đạo cụ diễn xướng

Phường Xoan có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, có phương thức hoạt động

như một đơn vị hoạt động bán chuyên nghiệp. Bởi vậy hàng năm phường Xoan

thường trích một khoản thù lao thu nhập tù đi hát để mua sắm trang bi đạo cụ

và nhạc cụ. Khi đi hát các cô đào thường mặc váy sồi hay quần láng đen, áo tứ

thân, năm thân, (hoặc là bao xanh bao hồng), đầu vấn khăn nhung đen, hay

khăn mỏ quạ. Kép và những chàng trai làng tham gia trong cuộc hát Xoan, mặc

quần ống sớ màu trắng, áo the thâm dài tới đầu gối. Cổ quàng dải nhiễu điều,

đầu đội khăn hay khăn xếp đen. Trong quan niệm của phường Xoan, trang phục

khi đi hát phải đẹp, trang trọng không những biểu lòng tôn kính với thần linh

mà còn biểu lộ sự tôn trong của mình đối với dân các làng kết nghĩa. Đây cũng

là biểu hiện văn hoá ứng xử của phường Xoan.

Đạo cụ hành nghề của phường Xoan rất đơn giản, chỉ có quạt giấy với

một quyển sách chép đầy đủ 14 Quả cách chép bằng chữ Nôm.

Nhạc cụ của phường Xoan cũng rất đơn giản, chỉ gốm một trống nhỏ

bằng gỗ (thường gỗ mít già) hoặc cặp trống bịt bằng da trâu hoặc da bò, và một

cặp phách.

Tiểu kết

Qua phân tích ở trên có thể thấy hát Xoan vừa là sản phẩm, vừa là hiện

tượng văn hóa dân gian đặc trưng của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát Xoan là

một bản tình ca mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đậm đà bản sắc văn hóa văn

học dân tộc.

Cũng như các loại hình dân gian khác hát Xoan Phú Thọ là loại hình

nghệ thuật độc đáo và có ý nghĩa lớn trong nền văn học dân gian của Việt Nam.

Hát Xoan là một hình thức ca hát phát sinh từ lễ hội với dấu ấn tín ngưỡng thờ

vật tổ, thờ thần lúa, thờ thần lửa… ngôn ngữ, kết cấu và cách thức khởi nguồn

60

từ màu sắc văn hóa dân gian như những nghi lễ gắn với tín ngưỡng tôn giáo, lễ

hội, phong tục. Những lời hát trữ tình mộc mạc, vừa hát vừa phô ra vẻ đẹp của

lao động, của tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, đất nước đi sâu vào lòng

người. Chính sự giản dị gần gũi ấy đóng góp một phần giúp văn học dân gian

tồn tại bền lâu, tạo ra màu sắc riêng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam

61

so với văn học hiện đại.

Chƣơng 3

HÁT XOAN XÃ HY CƢƠNG VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC, GIẢNG DẠY

Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG

3.1. Thực trạng hoạt động giáo dục và giảng dạy hát Xoan ở huyện Lâm

Thao, tỉnh Phú Thọ

3.1.1. Kết quả khảo sát công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh trung học

phổ thông ở trường THPT Lâm Thao và trường THCS xã Hy Cương, huyện

Tiếp tục giữ gìn, lưu truyền, phổ biến, phát huy cho thế hệ mai sau những

Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

giá trị độc đáo mang tính xã hội, nhân văn, những phong tục, tập quán tốt đẹp

về Hát Xoan gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Nâng cao nhận thức và

lòng tự hào trong cộng đồng, trách nhiệm của các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ

trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa hát Xoan.

Việc đưa hát Xoan vào giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục, trải

nghiệm trong và ngoài nhà trường phổ thông đã trở thành một hoạt động

thường xuyên, hiệu quả, lan tỏa tới tất cả các em học sinh. Đây là một hoạt

động có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di

sản văn hóa hát Xoan của tỉnh Phú Thọ bước bảo tồn phát huy giá trị hát Xoan

trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Hiện nay, trên địa bàn huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ có một trường cấp 3

đó là trường THPT Lâm Thao. Đây là một ngôi trường có chất lượng giảng dạy

và học tập rất cao. Học sinh của trường đạt nhiều thành tích ở cấp thành phố và

quốc gia. Tuy nhiên, trường chưa chú trọng đến các hoạt động ngoại khóa cho

học sinh để nâng cao kỹ năng mềm và tạo ra một môi trường học tập năng động,

62

tích cực và vui tươi cho các em học sinh. Trong luận văn này, chúng tôi kết hợp

tổ chức khảo sát cùng tổ Ngữ Văn của trường thực hiện vào ngày 18 tháng 6

năm 2020 trong buổi hoạt động ngoại khóa cho học sinh về hát Xoan do kết

quả khảo sát nằm trong thời gian thực hiện luận văn. Số lượng học sinh mà

khảo sát tiếp cận được là 60 học sinh chia đều các khối lớp 10, 11 và 12 của

trường THPT Lâm Thao. Do ảnh hưởng của dịch Covid nên việc khảo sát số

lượng lớn hơn là rất khó. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một khảo sát định tính

dành cho học sinh bằng cách đặt các câu hỏi phỏng vấn và ghi chép lại các

phản hồi từ phía các em. Kết quả phỏng vấn thu được từ 10 học sinh là một

bằng chứng và cơ sở đáng tin cậy cho các đề xuất của đề tài.

Thứ nhất, đối với câu hỏi: “Bạn đã bao giờ biểu diễn hát Xoan trong các

hoạt động ngoại khóa ở trường chưa?”, câu trả lời được thể hiện qua bảng sau:

Biểu đồ 3.1: Tần suất biểu diễn hát Xoan của học sinh trường THPT Lâm Thao

Những con số trên thực sự biết nói. Kết quả trả lời câu hỏi này cho thấy

sự báo động đối với vấn đề bảo tồn và lưu giữ hát Xoan trong tương lai ở huyện

Lâm Thao nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung. Theo bảng, 92% tức là 55/60

học sinh được phỏng vấn cho biết, các em chưa bao giờ biểu diễn hát Xoan

63

trong các hoạt động ngoại khóa của trường.

Trả lời cho con số này, một học sinh lớp 11 được phỏng vấn cho biết:

“Em không biết hát Xoan và cũng không thích nhà trường biểu diễn hát Xoan

trong các hoạt động ngoại khóa. Lý do là vì hát Xoan là hình thức nghệ thuật

dân gian, rất khó học. Ngoài ra, hát Xoan cũng khó cảm thụ và không phù hợp

với không khí vui tươi, năng động của các hoạt động ngoại khóa cho học sinh.

Hát Xoan phù hợp với các lễ hội và hoạt động thờ cúng hơn”. Cùng quan điểm

với bạn học sinh này, đa số các em cho rằng, hát Xoan không mang tính giải trí

nên không thể sử dụng để biểu diễn trong các hoạt động ngoại khóa của trường

mà chỉ phù hợp biểu diễn tại các dịp lễ lớn của địa phương tại các đền chùa.

Một số rất ít còn lại cho rằng, hát Xoan là một nét văn hóa đặc trưng của

địa phương tỉnh Phú Thọ nên không thể phân biệt hoạt động lễ hội ở đền chùa

hay hoạt động ngoại khóa ở trường là phù hợp hơn để biểu diễn. Đây đều là

những học sinh được tiếp xúc với hát Xoan từ nhỏ do có người thân, ông bà, bố

mẹ hoặc cô dì chú bác tham gia các phường hát Xoan. Do đó, các em hiểu được

giá trị của loại hình nghệ thuật này và sớm yêu thích, tìm hiểu.

Thứ hai, khi được hỏi: “Theo bạn, hát Xoan có mấy chặng?”, câu trả lời

được thể hiện trong bảng sau:

64

Biểu đồ 3.2: Các chặng trong hát Xoan

Như vậy có thể thấy, đa phần học sinh biết về hát Xoan và lý thuyết cơ

bản của hát Xoan. Khi được phỏng vấn với câu hỏi “Đã bao giờ bạn thưởng

thức trọn vẹn một buổi biểu diễn hát Xoan chưa? Và cảm nhận của bạn như thế

nào?”, các bạn học sinh khi đã xem trọn vẹn một buổi biểu diễn đều cho rằng

nếu theo dõi cẩn thận từ đầu đến cuối sẽ thấy hát Xoan rất hay và thú vị. Mỗi

bài hát đều về một nội dung riêng, thấm nhuần tinh hoa văn hóa dân tộc. Nó

không chỉ thể hiện niềm lạc quan, ước thế, sinh hoạt đời sống mà còn là niềm

tự hào của người dân Việt Nam nói chung và Phú Thọ nói riêng.

Tiếp theo, một câu hỏi vô cùng quan trọng được đề cập trong Bảng câu

hỏi đó là “Trong các đề tài sau, đề tài nào mà bạn thích thú nhất trong hát

Xoan?” đã nhận được câu trả lời như sau:

Biểu đồ 3.3: Mức độ yêu thích các đề tài trong hát Xoan

Có thể thấy, đa số học sinh yêu thích các bài hát Xoan nói về sinh hoạt đời

sống của người dân Việt Nam như cày nông, sản xuất, sinh hoạt đôi lứa, yêu

đương, v.v. Khi được hỏi lý do thì các bạn trả lời rằng, các bài hát Xoan về đề tài

này thường có ngôn ngữ dễ hiểu hơn và giai điệu thú vị hơn các cách về sự tích

65

hay truyền thuyết xưa. Thiên nhiên cũng là một đề tài thú vị theo quan điểm của

các bạn và nhận được nhiều sự hứng thú. Riêng với đề tài sự tích, một phần do

sự không thích thú của nhiều học sinh đối với môn lịch sử nên các em thường e

dè trước các thể loại giải trí, văn hóa có nội dung về đề tài này do định kiến về

tính khô khan và khó nắm bắt của chúng. Đây cũng là một thực tế dễ hiểu và cần

có cách thức, lộ trình đối với vấn đề này để cải thiện quan điểm của học sinh đối

với hát Xoan thông qua cách tiếp cận đề tài phù hợp trước và sau.

Phỏng vấn lãnh đạo và giáo viên trường THPT Lâm Thao chúng tôi cũng

thu được một số kết quả đáng kể. Bà Nguyễn Thị Thu Lan Hiệu trưởng nhà

trường chia sẻ: “Hát Xoan có được nhà trường đưa vào trong công tác giảng

dạy giáo dục học sinh như thành lập các câu lạc bộ, đưa vào chủ đề của hoạt

động ngoại khóa trong nhà trường. Tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan mà

hát Xoan chưa thật sự hiệu quả trong môi trường THPT Lâm Thao” (Phỏng vấn

ngày 19.12.2019). Còn bà Vũ Thị Lan Anh tổ trưởng tổ Văn- Địa/ giáo viên bộ

môn Ngữ Văn trong trường chia sẻ: “Hát Xoan cũng đã được đưa vào giảng

dạy trong những tiết học Văn học địa phương nhưng có đến 90% các em học

sinh không hào hứng cũng như không thích bộ môn nghệ thuật này, đây là khó

khăn mà cả giáo viên cũng như lãnh đạo nhà trường đang gặp phải trong công

tác truyền dạy hát Xoan trong nhà trường” (Phỏng vấn ngày 19. 12. 2019).

Ở trường THCS xã Hy Cương, việc dạy hát Xoan trong các tiết học Âm

Nhạc Và Mỹ Thuật ở trường học đã được triển khai. Những ngày đầu đưa hát

Xoan vào giảng dạy, giáo viên âm nhạc của các trường cũng gặp không ít khó

khăn vì cả cô và trò đều bỡ ngỡ. Tuy nhiên, nhờ tích cực tuyên truyền và lựa

chọn phương pháp dạy phù hợp bằng cách cho các em xem, nghe các băng đĩa

hát Xoan, dạy những bài đơn giản, dễ nhớ trước rồi đến các bài khó nên sau

một thời gian, các học sinh đã hát được nhiều bài và tỏ ra rất hứng thú với loại

hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, để hát Xoan không bị mai một và giữ được đặc

trưng của nó, cần có sự đầu tư hơn nữa để các em học sinh dễ tiếp thu, học hỏi.

Ngoài ra, nhà trường cần tạo điều kiện để các em được tới xem các nghệ nhân

66

trình diễn Xoan trong không gian nghệ thuật của mình. Điều này giúp hát Xoan

giữ được bản sắc, tránh tình trạng truyền dạy một cách khô cứng. Cô giáo Tống

Thị Thu Hà- giáo viên âm nhạc ở Trường THCS Hy Cương cho biết, ở trường

hiện nay đã thành lập CLB hát Xoan với hơn 20 học sinh và duy trì dạy hát

Xoan trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa để truyền đạt cho các em niềm yêu

thích với những làn điệu Xoan, tự hào về di sản văn hóa của vùng đất Tổ.

3.1.2. Một số kết quả đã đạt được trong công tác giáo dục hát Xoan cho học

sinh phổ thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

Từ năm 2016 đến nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã

phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức các lớp tập huấn hát Xoan cho

giáo viên dạy âm nhạc tại các trường tiểu học và THPT trên địa bàn nhằm nâng

cao ý thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ.

Theo đó, các học viên được chia thành 3 lớp, mỗi lớp 90 người sẽ được

học 08 làn điệu hát Xoan. Đối với các giáo viên dạy nhạc khối tiểu học sẽ học

các làn điệu: Tràng mai cách; Đối dẫy cách; Trồng bông luống đậu - Xe chỉ vá

may; Hát ru; Xẻ ván bắc cầu - dắt mẹ qua đèo - lên núi hái chè; Trèo lên cây

bưởi hái hoa - đường đi trên suối dưới khe; Đố huê; Mó cá. Các giáo viên dạy

nhạc khối THPT sẽ học 08 làn điệu: Hò chèo cách; ngư tiều canh mục cách;

Trống quân đón đào; Xin huê; Đố huê; Hát Đúm; Ngựa hồng - ai nhuộm cho

mình - mua lấy miệng cười; Mó cá.

Lớp tập huấn sẽ giúp cho các học viên biết sâu hơn về lịch sử, ý nghĩa

của hát Xoan, nắm được những kỹ năng cơ bản về nghệ thuật trình diễn hát

Xoan Phú Thọ để phục vụ cho việc tuyên truyền dạy cho học sinh trong các

trường tiểu học và trung học cơ sở.

Cũng trong khuôn khổ lớp học, Ban Tổ chức sẽ phát phiếu xin ý kiến đến

từng học viên để tiến tới biên soạn sách, đĩa CD làm giáo trình giảng dạy trong

các trường tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Mới nhất gần đây, trong quý IV/2019, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

dự kiến đã tổ chức 4 lớp truyền dạy hát Xoan, lớp đầu tiên diễn ra từ ngày

67

17/10 - 26/10 với các hoạt động hát, diễn, gõ trống, múa dưới sự hướng dẫn của

các nghệ nhân thuộc các phường Xoan gốc, các cán bộ, giảng viên, trợ giảng

thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Lớp học giúp đội ngũ giáo viên âm

nhạc trong các trường học trên địa bàn nắm được những kỹ năng cơ bản về

nghệ thuật trình diễn Hát Xoan để phục vụ việc truyền dạy cho học sinh bậc

Tiểu học và Trung học cơ sở.

Ở trường THPT Lâm Thao, nhà trường đã thành lập các câu lạc bộ hát

Xoan như: Khối lớp 10 có các câu lạc bộ như: Xoan kết bạn, Xoan đoàn kết. Khối

lớp 11 có các câu lạc bộ như: Xoan phong tục, Xoan lễ hội. Và khối 12 có các câu

lạc bộ như: Xoan tài ba, … với mục tiêu đề ra mỗi tháng câu lạc bộ này sẽ thực

hiện học hát Xoan 1 buổi. Ngoài ra, giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn trong

trường đã kết hợp đưa hát Xoan vào các tiết dạy văn học địa phương.

Ở trường THCS Hy Cương qua tìm hiểu tác giả luận văn được biết, nhà

trường đã rất chú trọng đưa hát Xoan vào giảng dạy trong chương trình bộ môn

Âm Nhạc và Mỹ Thuật mỗi tuần 1 tiết âm nhạc và 1 tiết Mỹ Thuật từ lớp 6 đến

lớp 9. Ở bộ môn Âm nhạc các em được học đó là học ca từ, lời bài hát, học

nhịp điệu và học cách gõ trống, phách của hát Xoan. Còn trong bộ môn Mỹ

Thuật các em được học cách vẽ trang phục, đạo cụ, vẽ những cảnh hội có liên

quan đến hát Xoan. Ngoài ra nhà trường đã tổ chức các câu lạc bộ về hát Xoan

cho học sinh từng khối hoạt động diễn ra thường xuyên hàng tuần vào thứ 7, cứ

chiều thứ 7 từ 4-6 giờ chiều các câu lạc bộ tập trung tại trường lần lượt biểu

diễn hát Xoan. Tuy nhiên ở tiết học Văn học địa phương thì hát Xoan lại chưa

được đưa vào giảng dạy mà tiết học Văn học địa phương của nhà trường lại dạy

về những sự tích hiện đang lưu truyền ở địa phương như: tên gọi làng Cổ

Tích, …. Các biện pháp mà nhà trường thực hiện có hiệu quả trong việc truyền

dạy hát Xoan cho các em học sinh dưới góc nhìn với Âm Nhạc Và Hội Họa,

giúp các em hiểu biết thêm về hát Xoan, còn hát Xoan trong mối quan hệ với

68

Văn học thì lại chưa được chú trọng nhiều.

3.1.3. Một số hạn chế trong công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ

thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

Tuy địa phương và nhà trường đã khá chú trọng đến việc giáo dục hát

Xoan cho học sinh nhưng thực tế cho thấy các biện pháp được đưa ra chưa thật

sự hiệu quả. Hiện nay, tại xã Hy Cương có một câu CLB hát Xoan do nghệ

nhân Nguyễn Thị Sen làm chủ nhiệm, có 50 thành viên, các thành viên tham

gia sinh hoạt thường xuyên có 32 em, CLB hát Xoan của xã sinh hoạt vào các

buổi tối thứ bảy trong tuần và nghệ nhân Nguyễn Thị Sen là người sưu tầm,

truyền dạy. Theo chia sẻ của bà Lan- Hiệu trưởng trường THPT Lâm Thao thì

đối tượng tham gia chủ yếu là các em ở cả ba cấp học phổ thông, điều đặc biệt

là trong hoạt động này có hai em lớp 2 đang theo học, đối với các em HS trung

học phổ thông, vì đây là bậc học cuối cấp nên việc tham gia sinh hoạt gặp khó

khăn do phải chuẩn bị cho thi tốt nghiệp và thi Đại học. HS bậc THPT tham gia

chỉ tập trung ở hai khối lớp 10 và lớp 11.

Trong CLB có những em tham gia được 3 năm nhưng khi xây dựng gia

đình thì bỏ không tham gia. Vì vậy, vấn đề đặt ra là hiện tại xã đã có CLB

hát Xoan, thì việc thành lập CLB hát Xoan ở trường THPT Lâm Thao có cần

thiết không?

Để trả lời được câu hỏi này tôi đã tìm hiểu về các thành viên tham gia

CLB hát Xoan xã, theo chia sẻ của chủ nhiệm CLB, thì từ khi thành lập đến

nay thành phần tham gia chủ yếu là các em bậc học trung học phổ thông như đã

nói ở trên thì các em này tham gia được hai năm, năm cuối cấp do phải chuẩn

bị cho thi tốt nghiệp và thi Đại học nên không tham gia, với những em này khi

tốt nghiệp cấp ba có em đi học, đi làm và cũng không tham gia nữa. Các em

học trường THPT Lâm Thao tham gia có bốn em và đều là cháu của nghệ nhân.

Như vậy trong CLB hát Xoan của xã thì HS trường THPT Lâm Thao tham gia

rất ít, nên số lượng các em hiểu biết và hát được các làn điệu hát Xoan còn

69

khiêm tốn. Các câu lạc bộ Xoan của trường hoạt động theo hình thức tập trung,

mỗi câu lạc bộ gồm 7-10 học sinh,và mỗi tuần sinh hoạt 1 buổi vào chủ nhật

khoảng từ 4 giờ chiều trở đi. Tuy nhiên các câu lạc bộ này khi đi sinh hoạt

thường không đầy đủ và hoạt động mới chỉ dừng ở mức độ hình thức chưa thật

sự hiệu quả, chưa hiểu thật chi tiết về hát Xoan- loại hình sinh hoạt văn hóa dân

gian này.

Trong giờ dạy học Ngữ Văn có nói đến chủ đề hát Xoan thì học sinh

không hào hứng và không thích hát Xoan. Bởi lẽ, ở lứa tuổi các em trong mỗi

giờ Văn học địa phương các em sẽ thích nghe, thích học về các sự tích, các

truyền thuyết về Vua Hùng, về cái tên làng Cổ Tích hơn theo đúng với lứa tuổi

của các em. Đây là khó khăn cũng như trở ngại khi đưa hát Xoan vào giảng dạy

trong bộ môn Ngữ Văn ở trường THCS Hy Cương nói riêng và các trường phổ

thông trên địa bàn nói chung.

3.2. Đề xuất bổ sung một số hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ

thông ở huyện Lâm Thao, Phú Thọ

3.2.1. Cơ sở, nguyên tắc, quy trình

Từ thực trạng khảo sát ở trên có thể thấy rằng nguồn lực về hát Xoan ở

các trường phổ thông đều khá thuận lợi, có những học sinh am hiểu về hát

Xoan, đã được học từ gia đình hoặc được gia đình tạo điều kiện cho học tập với

các nghệ nhân trước đó. Các em có thể chính là cầu nối đưa hát Xoan vào trong

nhà trường. Bên cạnh đó, trong quá trình phỏng vấn trực tiếp Hiệu trưởng, phó

hiệu trưởng phụ trách cơ sở vật chất, Bí thư Đoàn trường của trường THPT

Lâm Thao, chúng tôi cũng nhận được sự đồng tình, ủng hộ đối với việc “điền

dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện chương trình phát thanh

tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường” tại trường THPT Lâm Thao, đã được

Tổ trưởng chuyên môn tổ Văn - Địa và Ban giám hiệu nhà trường đánh giá là

kế hoạch có tính khả thi và có thể thực hiện trong thời gian tới, bởi đó là một

trong những hình thức hữu ích để tạo được cho học sinh sân chơi bổ ích sau

70

những giờ học căng thẳng ở trường, lớp, giúp học sinh có được tinh thần đoàn

kết, sẻ chia, năng nổ, nhiệt tình hơn trong các hoạt động phong trào, các em

cũng rèn được sự tự tin để có thể trình diễn trước đông người.

Trái ngược với điều đó, nhu cầu của đa số học sinh đối với việc đưa hát

Xoan vào trong trường phổ thông là chưa cao. Hơn nữa, các lãnh đạo nhà

trường được phỏng vấn đều có ý kiến tích cực đối với đề xuất đưa hát Xoan

vào trong trường phổ thông để góp phần giáo dục học sinh. Theo ý kiến của bà

Nguyễn Thị Thu Lan - Hiệu trưởng/ giáo viên trường THPT Lâm Thao “Nhà

trường cũng đã tổ chức hoạt động ngoại khóa về hát Xoan cho các em học sinh

nhưng chưa được hiệu quả và trong năm học 2020-2021 này nhà trường sẽ đưa

ra những biện pháp có tính mới mẻ, đem lại sự hào hứng cho học sinh về hát

Xoan để giúp các em trân trọng, tự hào một nền văn hóa văn học tiêu biểu của

vùng đất Lâm Thao, Phú Thọ này”.

Qua kết quả khảo sát ở phần trên, có thể khẳng định rằng nhận thức của

học sinh trong nhà trường phổ thông Lâm Thao là còn thấp, số học sinh am

hiểu về hát Xoan, biết gõ trống, phách, thực hành diễn xướng hát Xoan còn rất

ít, tình yêu đối với hát Xoan trong học sinh ở các trường phổ thông cũng chưa

được chú ý bồi dưỡng. Điều đó sẽ dần khiến cho thế hệ trẻ thờ ơ với giá trị văn

hóa phi vật thể đặc biệt là loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng này ở địa

phương. Sự có mặt của hát Xoan tại các chương trình văn nghệ hay các hoạt

động trong trường học là còn ít, chưa có hiệu quả cao. Đó chính là thực tiễn

quan trọng cho chúng tôi đề xuất các hoạt động sau này.

Ngoài ra, giá trị, ý nghĩa của hát Xoan với đời sống tinh thần của người

dân xã Hy Cương nói riêng, và của tỉnh Phú Thọ nói riêng, nói chung là rất

quan trọng. Trong điều kiện xã hội phát triển như hiện nay, trước nguy cơ các

giá trị văn hóa phi vật thể bị mất đi thì việc đưa hát Xoan vào trong các trường

phổ thông là điều cần thiết để góp phần nâng cao ý thức từ những lứa măng non

71

của đất nước trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.

Một cơ sở khác chính là định hướng nội dung giáo dục của chương trình

Giáo dục phổ thông 2018 đối với phần văn học địa phương. Văn học địa

phương là những sáng tác văn học của các tác giả trong một khu vực địa lý cụ

thể. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư ở một địa

bàn cư trú nhất định và mang bản sắc riêng, độc đáo có tính chất đặc thù của

vùng, miền, địa phương đó.

Môn Văn học địa phương đã được đưa vào giảng dạy ở cấp trung học cơ

sở trong hệ thống giáo dục phổ thông của chúng ta những năm gần đây nhưng

chưa được chú trọng nhiều. Thời gian theo phân phối chương trình còn hạn chế

và phần lớn chưa được thiết kế, giảng dạy một cách bài bản mà còn mang nhiều

tính tự phát. Tài liệu học tập thì khan hiếm, ít ỏi và chưa được cập nhật. Tài

liệu tham khảo hầu như không có đối với cả người dạy và người học. Điều này

cũng tạo ra thách thức không nhỏ cho thầy và trò trong việc dạy và học văn học

địa phương.

Tuy nhiên thách thức lớn hơn nữa là chúng ta cần tiếp cận và giảng dạy

văn học địa phương như thế nào để đạt hiệu quả tốt. Đây cũng là vấn đề quan

trọng cần được quan tâm để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục một cách

toàn diện và hiệu quả.

Xuất phát từ thực tế văn học địa phương ảnh hưởng tính chất vùng miền,

mang nét đặc thù, nên theo chúng tôi khi giảng dạy văn học địa phương chúng ta

cần chú ý tích hợp yếu tố văn hóa địa phương để người học có thể cảm nhận rõ

những nét riêng có tính đặc thù ở địa phương được thể hiện trong văn học. Đó có

thể là các yếu tố về văn hóa lịch sử, văn hóa tộc người phản ánh đời sống và tâm

hồn của cư dân nơi đây. Tiếp cận và giảng dạy văn học địa phương Phú Thọ thời

kì hiện đại, chúng ta cần chú ý đây là một tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ

của Việt Nam, nơi hội tụ nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Nơi đây có bề dầy về

lịch sử, tộc người với những dấu tích độc đáo. Đặc biệt văn học văn hóa Phú Thọ

khá phong phú và đa dạng thể hiện rõ dấu ấn văn hóa của người dân địa phương

72

mang những dấu tích của một thời xa xưa - thời Vua Hùng dựng nước..

Việc đề xuất một số hoạt động cũng phải lưu ý một số vấn đề như: Các

biện pháp đề ra không được vi phạm Hiến pháp, không vi phạm các bộ luật và

các văn bản pháp quy đã được quy định. Khi nghiên cứu để đề xuất giải pháp,

cần phải tìm hiểu các văn bản quy định về giáo dục và vấn đề thành lập các hội

nhóm như: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết, các Nghị định của

Chính phủ, Luật giáo dục, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều lệ nhà trường, các văn bản hướng dẫn của

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo và các văn bản hành chính

khác. Các biện pháp được đề xuất cũng phải đảm bảo tính hệ thống, được xác

định trên cơ sở cốt lõi là giáo dục học sinh về kiến thức và tình yêu đối với hát

Xoan ở Lâm Thao, Phú Thọ và có liên quan tới các vấn đề khác như giảng dạy

của nghệ nhân, của giáo viên, vấn đề học tập, nghiên cứu, tìm hiểu của học sinh,

cơ sở vật chất cho hoạt động, các nguồn lực khác cho hoạt động, … Việc đề

xuất các hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ thông ở Lâm Thao, Phú

Thọ cần được thực hiện theo trình tự hợp lí với nhận thức, khả năng tiếp nhận

của học sinh, từ tìm sưu tầm, tìm hiểu lời bài hát Xoan học cách gõ trống,

phách, học cách hát Xoan, cách trình diễn, … Bởi thế mà các hoạt động đề ra

cần hướng tới hình thành cho học sinh kiến thức, kĩ năng, tình cảm đối với hát

Xoan nơi đây.

Các biện pháp được đề xuất phải có hiệu quả, có tác động tích cực đến

giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện. Muốn như vậy, các giải pháp

được đưa ra phải đảm bảo được tính hợp pháp và hợp lí để tác động tích cực tới

các đối tượng, khiến họ huy động được tối đa năng lực, tình cảm của bản thân

tham gia vào các hoạt động đạt được hiệu quả cao.

Để thành lập được một hoạt động trong trường học thì cần đảm bảo được

quy trình chung gồm 9 bước: Bước 1: Đặt tên cho hoạt động; Bước 2: Xác định

mục tiêu của hoạt động; Bước 3: Xác định nội dung, hình thức của hoạt động;

73

Bước 4: Chuẩn bị tiến hành hoạt động, dự kiến thời gian, địa điểm, kinh phí,

nhân lực thực hiện (giáo viên, học sinh, nghệ nhân); Bước 5: Xây dựng kế

hoạch; Bước 6: Thiết kế chi tiết hoạt động; Bước 7: Kiểm tra, điều chỉnh, hoàn

thiện chương trình hoạt động; Bước 8: Tổ chức thực hiện hoạt động; Bước 9:

Tổng kết, đánh giá hoạt động

3.2.2. Đề xuất một số hoạt động giáo dục cụ thể

3.2.2.1. Hoạt động “Điền dã, sưu tầm hát Xoan trong đời sống”

* Mục tiêu hoạt động

Kết nối được đam mê, tình yêu của học sinh dành cho loại hình văn nghệ

dân gian tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam: hát Xoan từ đó phát

huy tình cảm, tình yêu mến, niềm tự hào của học sinh đối với quê hương - đất

nước, tinh thần yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống;

Giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản về hát Xoan ở xã Hy

Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ.

Đưa học sinh được đến với vùng đất Hy Cương nơi mang những dấu ấn

trầm tích văn hóa của một thời xa xưa, được nghe những làn điệu Xoan được

các nghệ nhân thực hiện giúp các em yêu thêm một loại hình văn hóa văn học

dân gian.

Góp phần vào việc bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa phi

vật thể đặc sắc của địa phương.

* Nội dung hoạt động

Đầu tiên, giáo viên bộ môn Ngữ văn cần phổ biến mục tiêu, cách thức,

quy định của việc thực hiện hoạt động điền dã. Đồng thời, hướng dẫn học sinh

công tác chuẩn bị: sách, bút, máy ảnh, điện thoại, trang phục…và một số nhiệm

vụ, biện pháp để có thể tiến hành điền dã như dự kiến câu hỏi phỏng vấn, khảo

sát, dự kiến nội dung điền dã, đối tượng điền dã…

Trong các hoạt động ở phần trên, học sinh đã có nhận thức và hiểu biết

nhất định về hát Xoan, với những hiểu biết đó chúng tôi tổ chức các buổi điền

74

dã trong xã Hy Cương, để các em có thêm những hiểu biết về hát Xoan và các

loại hình dân ca khác. Qua các buổi dã ngoại giáo viên định hướng cho học

sinh tìm hiểu về nguồn gốc, giá trị nội dung, nghệ thuật, trang phục, đạo cụ

biểu diễn của hát Xoan, tìm hiểu thông qua các người dân trong xã, các cụ cao

niên trong làng. Trong buổi dã ngoại các em được tìm hiểu về các nghệ nhân

hát Xoan xưa và các nghệ nhân hiện nay tại xã Hy Cương. Với thuận lợi là

trường PTTH Lâm Thao, trường THCS xã Hy Cương nằm trong không gian

văn hóa Hát Xoan, nên học sinh có những hiểu biết nhất định về các nghệ nhân,

có những em là con cháu, họ hàng với nghệ nhân.

Với những thuận lợi đó các em sẽ đi tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình,

cuộc sống của các nghệ nhân, vai trò của nghệ nhân trong việc lưu truyền và

phát triển Hát Xoan, phương pháp truyền dạy hát Xoan của nghệ nhân. Ảnh

hưởng của nghệ nhân đối với cộng đồng, các chế độ chính sách của nhà nước

đối với nghệ nhân hát Xoan. Sau buổi dã ngoại, giáo viên cho các em viết thu

hoạch về những gì đã được tìm hiểu được (có thể bằng nhiều hình thức khác

nhau). Giáo viên tổng hợp lại tất cả các thông tin tìm hiểu về Hát Xoan, sau đó

sắp xếp lại và giảng cho chúng nghe theo hệ thống hoàn chỉnh nhất, đồng thời

có lời khen, điểm thưởng, giấy chứng nhận động viên khích lệ... như vậy học

sinh sẽ hiểu rõ hơn về hát Xoan, từ đó các em sẽ có ý thức giữ gìn, tự hào về

quê hương mình với những giá trị của các làn điệu hát Xoan.

* Nhân sự tham gia

Có thể tổ chức cho học sinh đi điền dã theo khối lớp, theo đợt. Những đợt

đi đầu cần có giáo viên Bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, ban đại diện hội cha mẹ phụ

huynh học sinh tham gia cùng các em. Những đợt sau có thể để các em học sinh tự

đi điền dã dưới sự quản lý của Nhóm trưởng và liên lạc với giáo viên Bộ môn.

* Kinh phí và dự kiến kết quả

Về kinh phí: Dự kiến mỗi em học sinh đóng góp 80.000/ học sinh,

kinh phí này bao gồm tiền xe, tiền phí sinh hoạt, nước uống, bồi dưỡng

75

nghệ nhân….

Về dự kiến kết quả: Sau chuyến đi điền dã sưu tầm hát Xoan ở xã Hy

Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ mỗi em sẽ viết một bài thu hoạch về chủ đề

“Cảm nghĩ của em về chuyến đi điền dã hát Xoan và hát Xoan có vai trò như

thế nào trong đời sống hiện đại hôm nay”.

3.2.2.2. Hoạt động thực hiện chương trình phát thanh tuyên truyền hát Xoan

trong nhà trường

* Mục tiêu hoạt động

Qua các buổi phát thanh dành một thời lượng để tuyên truyền về truyền

thống hiếu học, thu hút sự quan tâm của đông đảo các em HS. Ngoài công tác

phát thanh tuyên truyền, Nhà trường tổ chức chương trình trò chuyện với nghệ

nhân Hát Xoan, thông qua chương trình HS được trò chuyện, đặt câu hỏi với

nghệ nhân. Nghệ nhân sẽ giới thiệu về nguồn gốc, giá trị của hát Xoan và tham

gia biểu diễn một số làn điệu. Thông qua buổi phát thanh các em có cơ hội

được tìm hiểu về nguồn gốc hát Xoan, các làn điệu hát Xoan, nội dung và ý

nghĩa của lời thơ trong hát Xoan…

* Nội dung hoạt động

Thành lập đội phát thanh trong Nhà trường, thành viên là 05 em HS có

giọng đọc truyền cảm, lưu loát và có khả năng viết các bài phát thanh hoàn

chỉnh về bố cục, có chiều sâu về nội dung, cô tổng phụ trách liên đội là người

trực tiếp quản lý và điều hành đội phát thanh, tham gia viết và duyệt nội dung

trước khi phát thanh (nội dung các bài phát thanh phải được cô tổng phụ trách

duyệt trước).

Thực hiện phát thanh một số làn điệu hát Xoan, do các bạn trong CLB

Hát Xoan xã Cảnh Dương hát trong các giờ ra chơi, đan xen các buổi sinh

hoạt tập thể, phát thanh các làn điệu hát Xoan do các nghệ nhân hát nhằm giới

thiệu tới toàn thể các em về nguồn gốc, giá trị tinh thần của hát Xoan. Các

buổi phát thanh cần linh hoạt trong việc xây dựng nội dung và thay đổi theo

từng tuần, từng quý, thu âm những lời giới thiệu, các truyền thuyết do nghệ

76

nhân kể về hát Xoan.

Qua các buổi phát thanh dành một thời lượng để tuyên truyền về truyền

thống hiếu học, thu hút sự quan tâm của đông đảo các em HS. Ngoài công tác

phát thanh tuyên truyền, Nhà trường tổ chức chương trình trò chuyện với nghệ

nhân hát Xoan, thông qua chương trình HS được trò chuyện, đặt câu hỏi với

nghệ nhân. Nghệ nhân sẽ giới thiệu về nguồn gốc, giá trị của hát Xoan và tham

gia biểu diễn một số làn điệu. Thông qua buổi giao lưu các em có cơ hội được

tìm hiểu về nguồn gốc hát Xoan, các làn điệu hát Xoan, nội dung và ý nghĩa

của lời thơ trong hát Xoan...

Thực hiện phát thanh một số làn điệu hát Xoan, do các bạn trong CLB hát

Xoan xã Hy Cương hát trong các giờ ra chơi, đan xen các buổi sinh hoạt tập thể,

phát thanh các làn điệu hát Xoan do các nghệ nhân hát nhằm giới thiệu tới toàn thể

các em về nguồn gốc, giá trị tinh thần của hát Xoan. Các buổi phát thanh cần linh

hoạt trong việc xây dựng nội dung và thay đổi theo từng tuần, từng quý, thu âm

những lời giới thiệu, các truyền thuyết do nghệ nhân kể về hát Xoan.

* Nhân sự và tham gia

Người xây dựng kịch bản, duyệt nội dung: Bí thư đoàn trường và các

giáo viên trong tổ chuyên môn Văn - Địa cùng với một số em học sinh tiêu biểu

có niềm yêu thích và hiểu biết về hát Xoan

Người đọc tin: các bí thư, lớp trưởng các khối lớp và các em học sinh có

giọng đọc truyền cảm, lưu loát sẽ đọc tin vào mỗi buổi truyền thông.

Phụ trách kỹ thuật: các cán bộ giáo viên trong đội đoàn trường phụ trách

kĩ thuật như loa, mic, âm thanh..

* Dự kiến kết quả

Học sinh toàn trường sẽ được nghe các bài hát Xoan của các nghệ nhân

hát Xoan thực hiện vào đầu giờ mỗi buổi thứ 4 hàng tuần và nghe các phóng sự

về sự hình thành cũng như nội dung hát Xoan phản ánh vào mỗi đầu giờ thứ 6

hàng tuần.

Hoạt động này sẽ định hướng giáo dục về truyền thống để các em có

77

thêm những hiểu biết về nguồn gốc, xuất xứ của hát Xoan xưa và các thể loại

dân ca. và môi trường giáo dục trường học là nơi rèn luyện cho các em các kỹ

năng ca hát, biểu diễn và tham gia hoạt động văn nghệ trong Nhà trường, góp

phần hình thành tình cảm yêu thích đối với hát Xoan để từ đó các em biết tự

hào và sẽ là thế hệ nối tiếp gìn giữ loại hình văn hóa văn học dân gian này.

Tiểu kết

Trên cơ sở mục tiêu của chương trình phổ thông mới và khảo sát bằng

phiếu hỏi và phỏng vấn trực tiếp giáo viên, học sinh về thực trạng, nguyện

vọng đối với hát Xoan, chúng tôi đã đề xuất hoạt động giáo dục:“hoạt động

điền dã điền dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện chương trình

phát thanh tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường”. Đây là một hình thức

hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế của trường THPT Lâm Thao nói riêng

và các trường phổ thông trên địa bàn huyện Lâm Thao, Phú Thọ nói chung.

Đồng thời, thông qua hình thức điền dã, truyền thông hát Xoan Phú Thọ sẽ đến

được với nhiều học sinh hơn, góp phần khơi dậy, bồi dưỡng tình yêu hát Xoan

cho thế hệ trẻ ở địa phương Hy Cương. Qua đó góp phần bảo tồn, phát huy

78

được những giá trị quý báu của loại hình văn hóa dân gian tại địa phương.

KẾT LUẬN

Hát Xoan Phú Thọ được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa

phi vật thể của nhân loại. Hát Xoan khởi nguồn từ dân gian và lưu truyền theo

hình thức truyền khẩu, trải qua hàng nghìn năm lịch sử được cộng đồng gìn giữ,

bồi đắp, trao truyền. Đây là niềm tự hào, vinh dự đối với người dân Phú Thọ mà

còn là niềm tự hào của người dân Việt Nam. Hát Xoan đưa nền văn hóa của Việt

Nam đi ra hội nhập với nền văn hóa phi vật thể của khu vực và toàn thế giới.

Hát Xoan cũng như hình thức dân ca khác, là một hiện tượng của văn

hoá dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng

bằng Bắc bộ. Nó ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên

và môi trường kinh tế- xã hội có lịch sử nhiều nghìn năm, ít nhất là từ khi cộng

đồng người Việt định cư bậc trên thềm trung du của vùng châu thổ sông Hồng.

Trải qua các triều đại Việt Nam với hàng nghìn năm lịch sử, hát Xoan vẫn tồn

tai, điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, và sự biến đổi theo hướng thích nghi

để tồn tại của văn hoá dân gian, trong đó có hát Xoan.

Cũng như các loại hình dân gian khác hát Xoan Phú Thọ là loại hình

nghệ thuật độc đáo và có ý nghĩa lớn trong nền văn học dân gian của Việt Nam.

Hát Xoan là một hình thức ca hát phát sinh từ lễ hội với dấu ấn tín ngưỡng thờ

vật tổ, thờ thần lúa, thờ thần lửa… giai điệu và cách thức khởi nguồn từ màu

sắc văn hóa dân gian như những nghi lễ gắn với tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội.

Những lời hát trữ tình mộc mạc, vừa hát vừa phô ra vẻ đẹp của lao động, của

tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, đất nước đi sâu vào lòng người. Nội dung

mà hát Xoan phản ánh đó là mọi mặt của đời sống ca ngợi tình yêu lao động

với những mong ước cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mang những phong tục, tín

ngưỡng riêng biệt của vùng đất Hy Cương nói riêng và Phú Thọ nói chung.

Chính sự giản dị gần gũi ấy đóng góp một phần giúp văn học dân gian tồn tại

bền lâu, tạo ra màu sắc riêng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam so với

79

văn học hiện đại.

Hát Xoan tuy là một lĩnh vực văn hóa dân gian mang hình thức sinh hoạt

cộng đồng nhưng cũng mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật như về

ngôn ngữ, về kết cấu, thể thơ, và hình thức diễn xướng, giống với những nét

nghệ thuật cơ bản của văn học dân gian Việt Nam. Với thể thơ lục bát, thể thơ

song thất lục bát, thể thơ tự do, nhưng thể thơ lục bát chiếm đa số trong hát

Xoan có vần có nhịp dễ nhớ, dễ thuộc gần gũi với thể thơ truyền thống của dân

tộc. Với kết cấu lối trình diễn, sắp đặt các bài bản, các chặng hát cũng tuân thủ

theo các nghi thức hát thờ các Vua Hùng một cách thành kính; các lời ca Xoan

mang ý nghĩa chúc tụng, ca ngợi công đức các Vua Hùng xuất hiện trong nhiều

bài Xoan. Và kết hợp với ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học tạo dấu ấn

riêng cho hát Xoan Phú Thọ- loại hình văn hóa văn nghệ dân gian tiêu biểu của

vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.

Trong xã hội đang ngày càng phát triển theo hướng hiện đại ngày nay,

nhiều giá trị truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một đi và hát Xoan

cũng không ngoại lệ. Bởi thế mà việc giáo dục ý thức cho cho cộng đồng đối

với vấn đề giữ gìn, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống và bồi đắp tình

cảm yêu mến, trân trọng, tự hào của cộng đồng đối với những giá trị đó là điều

thực sự rất cần thiết để có thể tạo dựng được vị thế vững chắc, sự phát triển tích

cực của các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, hát Xoan ở xã Hy Cương

nói riêng, Môi trường giáo dục mà đặc biệt là các trường phổ thông chính là

một môi trường lý tưởng để giáo dục được sâu rộng tới cộng đồng về gìn giữ,

phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc. Việc đưa hát Xoan vào

để giáo dục học sinh phổ thông ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ

là một việc làm rất thiết thực để giúp thế hệ trẻ ở địa phương hiểu sâu sắc về

giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc, từ đó biết trân trọng, có ý thức gìn giữ,

phát huy những giá trị quý báu đó.

Để bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật hát Xoan, trong thời gian

80

tới, chúng ta chú trọng tới việc quảng bá giới thiệu giá trị của hát Xoan với

cộng đồng trong tỉnh, trong cả nước và với bạn bè quốc tế. Đồng hành với đó là

việc tổ chức truyền dạy và phổ biến rộng rãi nghệ thuật hát Xoan. Đưa hát

Xoan vào giáo dục trong các trường học ở Phú Thọ nói chung và xã Hy Cương

nói riêng, đồng thời tại các làng Xoan cổ sẽ khuyến khích các nghệ nhân truyền

dạy cho các thế hệ trẻ. Chúng ta tin tưởng rằng với sức sống bền bỉ, sức lan tỏa

mãnh liệt và kế hoạch bảo tồn cụ thể, hát Xoan sẽ mãi mãi trường tồn, không

chỉ bừng sáng trong lòng mỗi người dân nước Việt mà còn của bạn bè khắp

năm châu.

Trên cơ sở khảo sát thực trạng hiểu biết về hát Xoan trong các trường

học phổ thông trên địa bàn xã Hy Cương, huyện Lâm Thao cũng như nhu cầu

của giáo viên, học sinh về lưu giữ, phát huy những giá trị của hát Xoan, căn cứ

vào mục tiêu, kế hoạch chương trình giáo dục tổng thể và giá trị to lớn của hát

Xoan trong đời sống của người dân xã Hy Cương, huyện Lâm Thao việc đề

xuất “hoạt động điền dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện

chương trình phát thanh tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường” là một việc

làm thiết thực, có ý nghĩa không chỉ khích lệ được học sinh tìm hiểu để hiểu

những giá trị của hát Xoan mà còn giúp các em có được sân chơi bổ ích, được

trao đổi, giao lưu, học hỏi, hình thành được nhiều kĩ năng sống, phẩm chất quý

báu cho bản thân, từ đó các em sẽ được nâng cao hơn tinh thần trách nhiệm của

bản thân trong việc chia sẻ, lan tỏa giá trị của hát Xoan tới các lớp học sinh

khác, tới cộng đồng.

Các phong trào tìm hiểu về Xoan, học hát Xoan cần được diễn ra sôi nổi

hơn trong các trường học thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của chủ trương đưa

Xoan vào trường học. Đó thực sự là tín hiệu vui trong việc bảo tồn và gìn giữ

di sản văn hóa quý báu của nhân loại trong thế hệ trẻ. Qua các phong trào này,

các em học sinh không chỉ được học hát mà còn biết nhận ra những giá trị văn

81

hóa tinh thần to lớn kết tinh trong các làn điệu dân ca của quê hương Phú Thọ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1932), Từ điển Hán Việt, tái bản (2000), Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, tái bản (2006), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

số 11 tr. 103 -104.

3. Dương Anh (2005), “Đôi điều về hát Xoan”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,

4. Ngô Kim Anh (2000), “Quan hệ du lịch - văn hóa và triển vọng ngành du

lịch Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr. 10 -12.

5. Trần Thúy Anh (chủ biên) (2011), Giáo trình du lịch văn hóa - Những

vấn đề lý luận và nghiệp vụ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

6. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2009), Hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể

hát Xoan Phú Thọ đệ trình UNESCO, Hà Nội.

7. Nguyễn Chí Bền (2004), “Nghiên cứu, sưu tầm, bảo vệ và phát huy các

di sản văn hoá phi vật thể”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 1, tr. 44 -47.

8. Nguyễn Chí Bền (2011), “Những giá trị tín ngưỡng thờ cúng Hùng

Vương ở Phú Thọ”, Tạp chí Thế giới di sản, số 5, tr. 6 -7.

9. Nguyễn Chí Bền (2012), “Phục dựng các lễ hội truyền thống ở Việt Nam,

Bảo tồn hay “Sáng tạo từ truyền thống”, Tạp chí Văn hóa học, số 4, tr. 3 -15.

10. Vũ Kim Biên (1999), “Văn hiến làng xã vùng đất tổ Hùng Vương”, Sở

Văn hoá Thông tin Thể thao Phú Thọ.

11. Cao Văn Định, “Lịch sử hình thành và phong tục hát Xoan Phú Thọ”,

Tập san di sản văn hóa Đất Tổ số 2 năm 2013.

12. Đào Đăng Hoàn (chủ biên), 2000, Tổng tập văn nghệ dân gian đất Tổ,

tập 1, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao - Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ

Nxb, Phú Thọ, tr.115.

13. Nguyễn Đăng Hòe (1979), Bước đầu tìm hiểu Hát Xoan Vĩnh Phú, Sở

82

Văn hóa thông tin Vĩnh Phú xuất bản, Phú Thọ.

14. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), Biện pháp quản lý hoạt động dạy hát

Xoan trong trường Trung học cơ sở huyện Lâm Thao, Phú Thọ, Luận văn

thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.

15. Trần Văn Khê (2011), “Văn hóa Việt Nam”, Nxb Đại học Văn Hóa Hà Nội.

16. Tú Ngọc (1997), Hát Xoan dân ca nghi lễ - phong tục, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

17. Lê Thị Hoài Phương (2107) “Bảo tồn Hát Xoan (Phú Thọ) gắn liền với

không gian thờ cúng Hùng Vương”, Tạp chí văn hóa văn nghệ Phú Thọ,

số 5, tr.11-17.

18. Sheen Dea Cheol (Hàn Quốc) và Xiao Mei (Trung Quốc) (2010), Tác

phẩm “Hát Xoan ở Phú Thọ“(Xoan singing in Phú Thọ), Nxb, Văn Hóa

thông tin.

19. Dương Huy Thiện (chủ biên) (2015), Hát Xoan - Dân ca cội nguồn, Nxb

Văn hóa nghệ thuật.

20. Cao Khắc Thùy (chủ biên) (2012), Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một

chặng đường, Nxb Văn hóa.

21. Tổng tập hát Xoan Phú Thọ (2016), Nxb Sở văn hóa Phú Thọ.

22. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo dục.

23. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân

gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

24. Tư liệu điền dã Các bài hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ,

Tài liệu chưa xuất bản, nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp.

25. Lê Toàn (2000), Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 2, tr. 7- 9

26. Nguyễn Anh Thúy, “Đôi điều về lịch sử hát Xoan”, Tập san Văn hóa,

Thể thao và Du lịch Phú Thọ số 3/2012.

27. Nguyễn Khắc Xương (1988), Hát Xoan Phú Thọ, Nxb Đại học sư phạm

Hà Nội.

28. Nguyễn Khắc Xương (1999), “Hát Xoan Phú Thọ và tín ngưỡng cội

83

nguồn”, Nxb ĐHSP Hà Nội.

Tài liệu tham khảo trên mạng

29. Anh Thơ, “Hát Xoan sống giữa cộng đồng”, http/baophutho.vn, truy cập

ngày 23-9-2020.

30. BBT, “Giới thiệu về hát Xoan Phú Thọ”, http/phutho.gov.vn, truy cập

ngày 20-9-2019.

31. Hoài Ngân, “Hát Xoan Phú Thọ - di sản văn hóa của nhân loại”,

http/vtr/org.vn, truy cập ngày 20-3-2020

84

32. “Hát Xoan”, https://vi.wikipedia.org/, truy cập ngày 25-3-2020.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Tư liệu hát Xoan

Cuốn sổ ghi chép các bài Xoan của gia đình để lại

[Ảnh: Tác giả tự chụp ngày 18-9-2020]

Ảnh bài Xoan của Nghệ nhân sưu tầm

[Ảnh: Tác giả tự chụp ngày 18-9-2020]

Phụ lục 2: Những bài hát Xoan tác giả điền dã sƣu tầm đƣợc từ nghệ nhân

Nguyễn Thị Sen đƣợc sử dụng trong luận văn

Bài 1: Chơi dâu cách

Á à chơi dâu xướng cách

Kính làng nước

Thượng hạ đâu đâu

Dẫn cách chơi dâu

Mà cho là phải lệ

Vốn xưa tích để

Có hội í a chàu Dâu

Chư quan công hầu

Dù che võng giá

Chùa Dâu vui lạ

Mùng 8 í a tháng tư

Vãi vãi lên chùa

Niệm kinh là tụng đọc

Nàng ra thấu giọng

Vãi ấy í a tốt ngay

Thằng ấy í a thẳng ngay

Dâng lên tướng Bụt

Ngày rằm mùng một

Rước Bụt í a lên chùa

Bài 2: Hát ru- Mời rượu

Ru hời hời ru, hỡi ru tình du

Đố ai quét sạch í a lá rừng

Chứ để ta, để ta khuyên gió í ơ

Đừng gió đừng, gió đừng rung cây chứ ta ru hời

Ru hời hời hợi í a hời ru hời

Ới ru tình ru, ới ru tình ru

Tay nâng chén muối í ơ gừng đĩa gừng

Chứ gừng cay, gừng cay muối mặn í ơ

Đừng xin đừng, xin đừng quên nhau chứ ta ru hời

Ru hời hời hợi í a hời ru hời

Ới ru tình ru, ới ru tình ru

Tay tiên chuốc chén í ơ, đào rượu đào

Chứ bỏ, đi bỏ đi thời tiếc í ơ

Uống vào, uống vào thời say chứ ta ru hời

Bài 3: Chào ra về

Thuyền son lại đậu bến son

Con chào các mẹ để con ra về

Con về đến tận Giang Khê

Con chào các mẹ ở lại con về còn xa

Con về đến chốn quê nhà

Con chào các mẹ con ra hẹn đò

Sông sâu còn phải qua đò

Tình con với mẹ đắn đo còn dài

Mẹ ngồi ở chốn cung mây

Con về nhớ mẹ cửa cài nhớ mong

Bây giờ mẹ đấy con đây

Rồi mai ta lại có ngày gặp nhau.

Bài 4: Giao dâu

Nào là thầy mẹ cháu đâu

Ra đây mà nhận lấy dâu nhà mình

Dâu còn thơ trẻ mẹ ơi

Chữ trung chữ hiếu con ghi vào lòng

Việc đồng cho chí việc nhà

Sớm trưa vất vả con không ngại ngần

Làm sao cho được dâu hiền

Để cho cha mẹ đôi bên vui lòng.

Bài 5: Giả dâu

Hôm nay ngày tốt tháng lành

Nhà trai dâng lễ kính thành gia tiên

Bà ơi ra đón dâu hiền

Để về làm lễ tổ tiên sau này

Hôm nay dâng đủ cả nhà

Chúng tôi đưa dâu về nhà giao giả cho ông bà đây

Dâu còn vụng dại ngây thơ

Ông bà dạy bảo có ngày nên khôn

Ba vuông sánh với bảng trầu

Ông bà có phúc được con dâu hiền.

Bài 6: Đố chữ

Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?

Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta?

Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa, việc nhà?

Anh đố em biết chữ gì thấy người qua mà chẳng chào?

Một đào Xoan hát đáp lại rằng:

Anh đã đố thì anh phải giảng

Em chẳng biết thời anh giảng giải cho dân làng nghe

Chàng Xoan cất tiếng hát ơ hờ... em không biết thì anh xin

giảng giải

Vũ là mưa trên trời rơi xuống

Ngưu là trâu làm ruộng nuôi ta

Thê là vợ nên giỏi việc cửa, việc nhà

Nộ là giận thấy người qua chẳng chào.

Bài 7: Mời rượu đám cưới

Ngày vui mời chén rượu này

Nâng ly ta cạn không say không về.

Chúc nhau sức khỏe tràn trề

Giàu sang phú quý đi về có nhau.

Chúc cho trăm tuổi bạc đầu

Gia đình hạnh phúc mai sau vững bền.

Rượu này càng uống càng êm

Nâng ly ta cạn cho thêm thân tình.

Hôm nay ta uống hết mình

Có say cũng bởi mối tình ta say.

Rượu ngon ta mới ngất ngây

Chúc nhau một chén rượu này làm quen.

Rượu này chưa uống đã thèm

Uống vào mới thấy thêm quen thêm gần.

Rượu này càng uống càng thân

Xin mời cạn chén cho nhau vui lòng.

Bài 8: Kiều Giang Cách

A á Kiều Giang Cách

Kính lại trình làng, điểm trống ra tang

Lẳng lặng mà nghe, tôi giáo Kiều Giang một cách

Bia chuyện cổ tích

Có con gái lành

Đi chơi một mình

Đến chưng quán ấy

Nàng ấy thấy vậy

Cầm lấy đôi xinh

Ngân nga một mình

Ca bằng tiếng dế

Nhớ xưa Hán Vũ đế, mới lại sinh ra

Được một con gái

Mềm mại nết na

Đến năm mười ba

Thanh tân dóng dẩy

Đến năm mười bảy, đi chơi đến quán Chương Dương

Bẻ lấy cành dương

Mà ca tam bộ

Gọi là ba bước

Vua cha mừng được

Nàng ấy tốt thay

Vậy vua cha bị bệnh

Ở trong cung này

Đòi nàng ấy vào

Vua cha coi thấy

Tức thời lại đỡ

Lại được trị vì thiên hạ

Tám mươi tám năm

Vua cha mừng thầm

Hơn nàng tiên nữ

Tiếng than tiếng thở

Hớn hở Hằng Nga

Tiếng chúc ngân nga

Thơ Kiều Giang Cách

Vậy có thơ Kiều Giang rằng:

Seo rằng: Bây giờ tôi mới giáo cách í a Kiều Giang

Mai xưa là tôi mới đến

Làng hỡi làng, văn quan làng này

Hàn lâm là Đông Các

Võ quan làng này

Chương phủ í a triều Đường

Chúc tuổi í a vua quan

Vua vạn vạn tuế

Rằng í a hỡi rằng Kiều Giang, mai xưa là tôi mới đến

Ấy đầu í a tôi gật

Ấy gối í a tôi quỳ

Chân tối đạp đất

Cất tiếng í a tôi mời

Vua là í a đại vương, hội là hội giám

Hội là í a giám mời, vua là đại vương

Hộp giầu chén nước hỡi a nén nhang

Quả tâm thành kính này để dâng lên cúng giàng

Giầu têm mà đệm vàng, cung têm mà đệm ngọc

Chén nước í a vò xanh

Kén được ngày tốt í a ngày lành.

Bài 9: Đóng đám

Làng này đóng đám ơ cho được quan sang

Văn a thời áo đỏ ơ võ ngai vàng có sống hỡi là lâu

Võ thi ba hiệp ơ cung ơ hầu

Văn vào mà hội thi ơ đỗ ơ đầu có trạng hỡi là nguyên

Đất thiêng lại nổi ớ người ơ hiền

Sinh ra mà nam nữ ơ giỏi ơ truyền có đẫy hỡi là đà

Khoa văn đem lại ớ đa ơ đầy

Sinh ra mà nhang cống ơ thuở ơ này có đậu hỡi là khoa.

Bài 10: Mời nước đám cưới

Nước này là nước giao dâu

Nước này nên nghĩa nên tình hai họ ơ..

Nước này đẹp lứa đẹp đôi

Nước này hai cháu đời đời bên nhau

Nước này là nước giao dâu

Chung con chung cháu trước sau thuận hòa

Nước này trọng mẹ kính cha

Nước này hai họ ta là kính chung.

Bài 11: Mời trầu đám cưới

Ngày vui mời một miếng trầu

Không ăn cầm lấy cho nhau vừa lòng

Cau tươi, rễ đắng, trầu không

Mời nhau một miếng ấm lòng đôi bên

Chúc cho hạnh phúc lâu bền

Chúc cho rể thảo dâu hiền xứng đôi

Trầu têm cánh phượng đâu rồi

Mời nhau một miếng cho môi thêm hồng

Ông tơ bà nguyệt đồng lòng

Họ hàng nội ngoại cũng mong ngày này

Trầu này trầu quế trầu cay

Ăn vào mới thấy ngất ngây mối tình

Trầu này trầu nghĩa trầu tình

Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta

Chúc cho nội ngoại ông bà

Hai bên hai họ thông gia vững bền

Mong cho đất nước bình yên

Nhà nhà hạnh phúc vững bền an khang

Chúc cho hai cháu giàu sang

Chúc cho hai họ an khang thọ trường

Cơi trầu tươi tốt như hoa

Tôi xin hai họ trình ra bản trầu

Trầu này kén rể chọn dâu

Trầu này chính thực là trầu trăm năm

Ông tơ bà nguyệt khéo nhằm

Xe cho hai cháu trăm năm đời đời

Xe cho hai cháu đẹp đôi

Xe cho hai cháu đời đời hiển vinh

Cơi trầu tôi chúc tôi trình đã xong

Tôi mời hai họ có lòng cùng xơi.

Bài 12: Đón dâu về nhà

Hôm nay ngày tốt tháng lành

Ông bà xây dựng gia đình cho con

Mừng cho hai cháu vuông tròn

Ông bà có phúc cháu con sang giàu

Nhà trai nay có cô dâu

Đứng lên trình tổ con dâu về nhà

Chúc mừng hai họ nhà ta

Nội thì đi đón ngoại thì đi đưa

Trăm năm trọn lấy một ngày

Chúc mừng hai họ lại đưa dâu về

Dâu về làm lễ gia tiên

Dâu hiền lên gái rể hiền lên trai

Thế là được tất cả hai

Dâu giỏi rể tài hạnh phúc trăm năm.

Bài 13: Mừng đám cưới

Chẳng xa cũng chẳng là xa

Vì tình tôi phải bớt ra một ngày

Chúc mừng hai cháu hôm nay

Đẹp duyên kết nghĩa trọn ngày kết duyên

Cưới nhau chả phải bạc tiền

Chả phải xôi thịt mấy lên vợ chồng

Áo hồng lại nhuộm màu hồng

Yêu nhau tóc bạc răng long đời đời

Chúc cho hai cháu đẹp đôi

Muốn chóng có cháu thì tôi chúc mừng

Đường xa thì mặc đường xa

Hễ mà có cháu thì già đến thăm.

Phụ lục 3: Một số hình ảnh về nghệ nhân hát Xoan, xã Hy Cƣơng,

Lâm Thao, Phú Thọ

Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen trong buổi giới thiệu hát xoan cho đoàn khách du

lịch tại đình làng Cổ Tích

(Ảnh nghệ nhân cung cấp)

Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen trong buổi giới thiệu hát Xoan cho các em học sinh

lớp 10a5 của trường THPT Lâm Thao

[Ảnh: Nghệ nhân cung cấp]

Phụ lục 3: Đạo cụ, trang phục truyền thống của hát Xoan

Đạo cụ của hát Xoan gồm trống và phách do nghệ nhân cung cấp

[Ảnh: tác giả tự chụp]

Trang phục truyền thống của hát Xoan gồm áo the, khăn xếp của nghệ nhân

[Nguồn ảnh: Tác giả tự chụp]

Phụ lục 4: Giấy xác nhận của trường THPT Lâm Thao

Phụ lục 5: Một số hình ảnh tác giả và nghệ nhân

Ảnh tác giả chụp cùng nghệ nhân Nguyễn Thị Sen ngày 18-9-2020

[Nguồn ảnh: tác giả tự chụp 18-9-2020]

Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen

[Nguồn ảnh: tác giả tự chụp ngày 18/9/2020]