ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------
BÙI THỊ NGHỆ
HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------
BÙI THỊ NGHỆ
HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ MINH THU
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Hát Xoan ở xã Hy Cƣơng,
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trƣờng phổ thông”
là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
i
Bùi Thị Nghệ
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám
hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý thầy, cô giáo khoa Ngữ văn
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp
đỡ trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Lãnh đạo, giáo viên trường, học sinh THPT
Lâm Thao và trường THPT Ba Vì và cá nhân gia đình bà Nguyễn Thị Sen ... đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn: PGS.TS.
Nguyễn Thị Minh Thu, người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K26 chuyên ngành Ngữ văn trường ĐHSP
Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này.
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... v
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9
7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 9
NỘI DUNG ........................................................................................................ 11
Chƣơng 1: HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG TRONG KHÔNG GIAN VĂN
HÓA HUYỆN LÂM THAO, PHÚ THỌ ............................................................ 11
1.1 Khái quát về xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ...................... 11
1.2. Khái quát về Hát Xoan ............................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm................................................................................................. 14
1.2.2. Nguồn gốc của hát Xoan ......................................................................... 16
1.2.3. Đặc trưng của hát Xoan ........................................................................... 20
1.3 Khái quát về hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. ...... 24
Tiểu kết .............................................................................................................. 27
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA HÁT XOAN Ở XÃ HY
CƢƠNG, HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ ........................................... 28
2.1. Nội dung của hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ....... 28
2.1.1. Hát Xoan phản ánh đời sống tín ngưỡng, phong tục của người lao động ..... 28
iii
2.1.2. Hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của người lao động ............ 33
2.1.3 Hát Xoan phản ánh tình yêu lứa đôi ......................................................... 38
2.2. Nghệ thuật ................................................................................................... 45
2.2.1. Thể thơ ..................................................................................................... 45
2.2.2. Kết cấu ..................................................................................................... 46
2.2.3. Ngôn ngữ ................................................................................................. 49
2.2.4. Diễn xướng hát Xoan ............................................................................... 53
Tiểu kết .............................................................................................................. 60
Chƣơng 3: HÁT XOAN XÃ HY CƢƠNG VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC,
GIẢNG DẠY Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG ........................................................ 62
3.1. Thực trạng hoạt động giáo dục và giảng dạy hát Xoan ở huyện Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ .................................................................................. 62
3.1.1. Kết quả khảo sát công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh trung học
phổ thông ở trường THPT Lâm Thao và trường THCS xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ .................................................. 62
3.1.2. Một số kết quả đã đạt được trong công tác giáo dục hát Xoan cho
học sinh phổ thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ .......................... 67
3.1.3. Một số hạn chế trong công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ
thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ ................................................ 69
3.2. Đề xuất bổ sung một số hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh
phổ thông ở huyện Lâm Thao, Phú Thọ .................................................. 70
3.2.1. Cơ sở, nguyên tắc, quy trình .................................................................... 70
3.2.2. Đề xuất một số hoạt động giáo dục cụ thể .............................................. 74
Tiểu kết .............................................................................................................. 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 82
PHỤ LỤC ...............................................................................................................
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DSVH Di sản văn hóa
DSVHPVT Di sản văn hóa phi vật thể
GS.TS/ PGS.TS Giáo sư. Tiến sĩ/ Phó giáo sư. Tiến sĩ
HĐNK Hoạt động ngoại khóa
NXB Nhà xuất bản
THCS, THPT Trung học cơ sở, Trung học phổ thông
UBND Ủy ban nhân dân
v
UNESCO Tổ chức Văn hóa, khoa học, giáo dục của Liên hợp quốc
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình
lại có nét đặc sắc riêng. Trong số các loại hình nghệ thuật phi vật thể được thế
giới công nhận, hát Xoan là một trong những di sản văn hóa đáng tự hào nhất
của Việt Nam nhờ có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng.
Nhắc đến Phú Thọ là chúng ta nhắc đến một nền văn hóa sinh hoạt dân
gian hát Xoan và là nơi Đất Tổ Hùng Vương - Kinh đô của nước Văn Lang, nhà
nước đầu tiên của người Việt. Ở nơi hợp lưu 3 con sông Đà, sông Lô và sông
Thao, từ cách đây mấy nghìn năm trước, dưới sự trị vì của vua Hùng Vương, đất
nước Văn Lang vui hưởng thái bình, muôn dân ấm no, ngày đêm ca hát.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử hàng nghìn năm ấy, vùng đất Phú
Thọ đã hình thành nên một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú và
quý giá, trong đó phải kể đến nghệ thuật hát Xoan, một loại hình dân ca nghi lễ
đặc sắc, thường được biểu diễn tại các đình làng vào dịp mùa Xuân nhằm tưởng
nhớ ơn đức Vua Hùng. Với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: Trống, Hát và Múa,
phường hát Xoan biểu diễn cũng là để cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng
tươi tốt, đồng thời ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, mô tả lao động, sinh hoạt ở
nông thôn...
Là loại hình dân ca nghi lễ, hát Xoan phải tuân theo những quy tắc khá
nghiêm ngặt của phong tục, tín ngưỡng như chỉ được biểu diễn vào những ngày
nhất định trong năm (thường là vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch); biểu diễn
hát Xoan phải ở phía trước nhang án trong gian Đình cũng như việc tập luyện
chỉ được tổ chức trong nhà. Mỗi làn điệu hát Xoan khi biểu diễn phải kết hợp
được nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa múa và hát cùng nhạc cụ cơ bản là Trống
cái, Trống quân.
Xét từ góc độ văn học, lời hát Xoan là di sản văn học dân gian rất tiêu
1
biểu của người dân Phú Thọ nói chung và xã Hy Cương nói riêng. Việc nghiên
cứu về hát Xoan ở xã Hy Cương và vấn đề giáo dục học sinh phổ thông ở huyện
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ chính là tìm hiểu sâu sắc về di sản văn học dân gian đó
ở một địa bàn văn hóa tiêu biểu và mối liên hệ giữa di sản văn hóa đó với vấn đề
giáo dục học sinh ở các trường phổ thông trong địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh
Phú Thọ, để từ đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát triển hát Xoan ở xã Hy
Cương nói riêng ở học sinh phổ thông của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Thực trạng nhận thức và giữ gìn, phát huy giá trị hát Xoan trong đời
sống, cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Xoan đang chịu
những tác động tiêu cực của xã hội hiện đại và đang có nguy cơ mai một dần.
Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Sen chia sẻ: "Trước đây, hát Xoan rất được ưa
chuộng, nó có mặt trong tất cả các đêm hội của làng. Nhưng cùng với sự đổi
thay của lịch sử, nghệ thuật hát Xoan cũng trải qua nhiều biến cố thăng trầm,
các nghệ nhân hát Xoan ngày càng vắng bóng. Gần chục năm trở lại đây, tôi đã
mở lớp truyền dạy hát Xoan miễn phí nhưng cũng mới có gần ít dần người theo
học" (phỏng vấn ngày 18-9-2020). Và trong Nhà trường đặc biệt là môi trường
THPT các em học sinh không hào hứng và không thích đối với lĩnh vực văn
hóa văn học dân gian này.
Lí do cá nhân, do môi trường công tác của tác giả luận văn có khoảng
cách gần với địa danh xã Hy Cương, đây là động lực để tác giả thực hiện
nghiên cứu luận văn về hát Xoan nơi đây
Với những lí do trên, tác giả quyết định chọn nghiên cứu về “Hát xoan ở
xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường
phổ thông”.
Đề tài Hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với
vấn đề giáo dục ở trường phổ thông là cần thiết và là đề tài hoàn toàn mới,
nghiên cứu này xuất phát từ nhu cầu của lý luận và thực tiễn đang diễn ra trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ và không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào
2
trước đó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hát Xoan là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tiêu
biểu của người Việt khu vực đồng bằng và trung du Bắc bộ, vì thế hát Xoan trở
thành đối tượng nghiên cứu của khá nhiều công trình. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu chủ yếu từ góc độ văn hóa, bảo tồn, từ góc độ âm nhạc. Còn nghiên
cứu hát Xoan dưới góc độ văn học thì chưa có nhiều công trình đề cập đến. Tuy
vậy, để thực hiện vấn đề nghiên cứu trong luận văn này, chúng tôi đã khảo cứu,
kế thừa một số những kết quả nghiên cứu dưới đây trong các sách tham khảo và
bài báo khoa học đã công bố, đăng tải.
Đầu tiên, công trình nghiên cứu về hát Xoan đó là Hát Xoan- dân ca cội
nguồn- Công trình nghiên cứu văn hóa dân gian, xuất bản năm 1965 [tr 40-46]
của Dương Huy Thiện. Ở bài nghiên cứu này tác giả đã khái lược và đưa ra giả
thuyết về nguồn gốc của hát Xoan của từng khu vực dân cư như: người dân ở
Cao Mại (Lâm Thao) với giả thuyết hát Xoan có từ thời vua Hùng; người dân ở
phường Xoan Kim Đới (Việt Trì) với giả thuyết hát Xoan có từ nhà Lê; người
dân ở Nhang Nộn (Tam Nông) với giả thuyết hát Xoan có từ thời nhà Lý;
người dân phường Xoan Thét (Phù Ninh) với truyền thuyết hát Xoan phát tiết
từ mối quan hệ kết nghĩa giữa hai làng Tử Du và Phù Liễn. Tác giả cũng nêu
những vấn đề về tổ chức, sinh hoạt và trang phục về những đặc điểm và giá trị
nghệ thuật của hát Xoan; những đặc trưng của âm nhạc, lời ca và điệu múa
trong hát Xoan. Tuy nhiên ở luận văn này, tôi muốn đưa đến cho người đọc
những đóng góp, đổi mới của hát Xoan đến với người đọc dưới góc nhìn văn
học trên nền tảng những công trình đi trước đã đề cập đến hát Xoan.
Tiếp theo chúng ta phải kể đến là công trình nghiên cứu Hát Xoan - dân
ca nghi lễ, phong tục, Nxb Âm nhạc (1997) của tác giả Tú Ngọc [tr 165]. Đây
là công trình nghiên cứu đa chiều về hát Xoan Phú Thọ. Tác giả đưa ra những
nghiên cứu sâu về nguồn gốc và lịch sử phát triển của hát Xoan trên cơ sở nhận
3
định và đánh giá những truyền thuyết, huyền thoại, những thư tịch, tư liệu cổ
về hát Xoan; đề cập đến đặc trưng của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan và
một số hình thức dân ca nghi lễ của vùng trung du, châu thổ Bắc bộ; những đặc
điểm và tính phức hợp về mặt thể loại trong hát Xoan. Tuy nhiên ở công trình
này hát Xoan chỉ được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa tín ngưỡng. Đây là tiền
đề cơ sở để tác giả luận văn có những khẳng định những giá trị đặc sắc của hát
Xoan và đưa ra những bàn luận, những hướng đi để bảo tồn và phát huy được
những giá trị của hát Xoan trong điều kiện, tình hình mới.
Công trình Hát Xoan Phú Thọ (1998) [tr 112-114] của tác giả Nguyễn
Khắc Xương với cách tiếp cận của văn hóa dân gian đã phân tích, làm rõ một
số vấn để như: Nguồn gốc và sự phát triển của nghệ thuật hát Xoan; không gian,
thời gian, địa lý hành chính vùng Xoan, truyền thống văn hoá quê hương Xoan;
phương thức trình diễn hát Xoan; ngôn ngữ hát Xoan, các quả cách (làn điệu)
Xoan, trang phục hát Xoan. Ông phân tích rõ mọi đặc điểm của hát Xoan
không chỉ cái cốt lõi là âm nhạc đến hình thức diễn xướng của từng quả cách,
mà còn hiểu rõ mọi tín ngưỡng, phong tục tập quán, lề lối tổ chức làng xã cổ
truyền của người Việt vùng trung du đất Tổ và các tục lệ của nó như: tục lệ đưa
đón, tiếp đãi, tục giữ cửa đình, tục kết chạ, tục tế lễ, tục phường họ… Ở công
trình này hát Xoan được nghiên cứu trong mối quan hệ với âm nhạc chứ chưa
nghiên cứu sâu hát Xoan trong mối quan hệ với văn học.
Công trình Hát Xoan ở Phú Thọ (Xoan singing in Phú Thọ) (2010),
Vietnamese Institute for musicology, Department of Culture, Sports and
Tourism in Phú Thọ province [tr 120-134], là tập hợp các bài viết, bài phát biểu
trong Hội thảo khoa học quốc tế về Hát Xoan do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức. Các bài viết tập trung nghiên
cứu về nguồn gốc hình thành, lịch sử phát triển, các giá trị đặc trưng trong điệu
múa, lời ca của hát Xoan, mối quan hệ giữa hát Xoan với các loại hình dân ca
các tỉnh trung du và đồng bằng sông Hồng như hát hát Xoan, hát trống quân,
4
hát chèo thuyền. Tác giả Sheen Dea Cheol (Hàn Quốc) và tác giả Xiao Mei
(Trung Quốc) đưa ra những so sánh những điểm tương đồng giữa hát Xoan của
Việt Nam với nghệ thuật biểu diễn mừng đầu năm - cuối năm của người Hàn
Quốc và phong cách ca hát của Trung Quốc. Vấn đề bảo tồn, phát huy và phổ
biến hát Xoan trong xã hội ngày nay cũng là một vấn đề được nhiều tác giả đề
cập đến để Hát Xoan giữ mãi được những giá trị đặc trưng đặc sắc và được phổ
biến rộng rãi, có được sức sống lâu bền.
Về các nghiên cứu là bài báo, bài viết có thể kể đến các kết quả dưới đây:
hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9
Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn
Tác giả Duy Linh với bài “Sức lan tỏa của làn điệu cổ - Hát Xoan”
(2010), Tạp chí Đất Tổ, số 5, tr. 3-7 đã giới thiệu sức sống và sự lan tỏa của hát
Xoan qua vị trí, địa bàn hoạt động là trung tâm của di sản hát Xoan và các vùng
lân cận: thôn An Thái (xã Phượng Lâu - TP Việt Trì), thôn Thét, thôn Phù Đức,
thôn Kim Đái (xã Kim Đức - TP Việt Trì) và 17 xã, địa bàn liên quan đến hát
Xoan. Quy mô phát triển của Hát Xoan qua thời gian.
Bài viết “Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường”, (2012) của
tác giả Cao Khắc Thùy đã tổng quan về hát Xoan và Hát Ghẹo - một trong
những nét văn hóa đặc trưng thời kì Hùng Vương. Tác giả cũng công bố những
kết quả sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo từ giữa những năm 1950 đến
nay, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm khôi phục, bảo tồn ở các làng
Xoan, Ghẹo gốc và tiếp tục phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Kiến nghị về việc
thành lập các trung tâm sưu tầm, nghiên cứu hát Xoan, Hát Ghẹo.
Trong bài “Lịch sử hình thành và phong tục hát Xoan Phú Thọ”, (2013)
của Cao Văn Định với “Tập san di sản văn hóa Đất Tổ”, số 2, (tr 7-10) có nói
rằng trên mặt trống đồng Hùng Vương có những cảnh người múa hát. Một số
nhà nghiên cứu xem đó là sinh hoạt múa hát Việt Nam thời cổ đại và cho rằng
hát Xoan có nguồn gốc từ đây. Đã có một số bài dựa vào truyền thuyết Hùng
5
Vương để tìm ra nguồn gốc hát Xoan. Tất nhiên, truyền thuyết có cốt lõi từ lịch
sử, là sự thăng hoa của lịch sử. Nhưng truyền thuyết chỉ là truyện dân gian
truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang
yếu tố thần kì. Chẳng hạn từ một câu chuyện về một hoàng hậu của Vua Hùng
trong cơn khó đẻ nghe dân chúng múa hát mà dễ bề sinh nở. Vua khen các điệu
múa hát, sai các Mị Nương học lấy để lưu truyền. Lối hát múa này diễn ra vào
màu xuân nên gọi là hát Xoan, chính vì vậy có thể nói hát Xoan có từ thời
Hùng Vương dựng nước.
Cũng đã có một số tác giả đề cập đến vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị của
hát Xoan trong các bài báo của mình như Tác giả Lê Thị Hoài Phương trong
bài “Bảo tồn Hát Xoan (Phú Thọ) gắn liền với không gian thờ cúng Hùng
Vương” (Báo Phú Thọ, năm 2017) đã nghiên cứu vấn đề bảo tồn hát Xoan ở
Phú Thọ gắn liền với không gian thờ cúng Hùng Vương qua việc trả lời và giải
quyết từng câu hỏi: Bảo tồn bằng cách nào? Bảo tồn bằng cái gì? Bảo tồn như
thế nào? Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số ý kiến mang tính
phương pháp luận như: khôi phục lại càng sớm càng tốt môi trường văn hóa
cho hát Xoan, Việc truyền dạy nghệ thuật hát Xoan, chính sách của nhà nước
hỗ trợ vật chất cho hoạt động này.
Trong công trình “Những giá trị tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú
Thọ”, (Tạp chí Thế giới di sản, số 5, tr 6-7), GS.TS Nguyễn Chí Bền đã giới
thiệu Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua góc nhìn lịch sử. Phân tích những
giá trị Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương qua các phương diện: “Ở phương
diện xã hội, giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự thể hiện tính cố
kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc. Có thể coi tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương như một sợi chỉ đỏ, nối kết quá khứ với hiện tại, là bệ đỡ tâm linh
cho các thế hệ con người Việt Nam”. Tác giả khẳng định tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương là một sáng tạo văn hóa của người Việt qua trường kỳ lịch sử,
sáng tạo này mang tầm kiệt tác của nhân loại. Đó là một kho tàng văn hóa dân
gian từ truyền thuyết đến lễ hội, từ ẩm thực đến nghi lễ liên quan đến Hùng
6
Vương được dân gian sáng tạo và lưu truyền.
Như vậy có thể thấy, hát Xoan đã được quan tâm, nghiên cứu khá nhiều
tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về hát Xoan trong mối quan hệ
với văn học và hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ
gắn với vấn đề giáo dục người học. Tuy vậy, các vấn đề liên quan mà các công
trình nghiên cứu của các học giả đi trước đã đề cập dưới các góc độ và cách
tiếp cận khác nhau sẽ là những thông tin, tư liệu rất hữu ích để chúng tôi tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện với một cách nhìn mới, điều kiện hoàn cảnh mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với vấn đề giáo dục ở trường phổ thông
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề: Nghiên cứu dựa trên nội dung và nghệ thuật của các văn
bản hát Xoan mà tác giả sưu tầm được, thực trạng lưu truyền và giáo dục các
bài hát Xoan cho học sinh phổ thông. Một số biện pháp giáo dục hát Xoan cho
học sinh phổ thông trên địa bàn huyện Lâm Thao, Phú Thọ.
Phạm vi tư liệu: Trong luận văn tác giả sử dụng chủ yếu tư liệu điền dã
sưu tầm từ các nghệ nhân đặc biệt từ nghệ nhân Nguyễn Thị Sen hiện cư trú ở
làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Ngoài ra, tôi còn sử dụng liệu được sưu tầm, biên
soan trong công trình “Tổng tập hát Xoan Phú Thọ”, 2016, do Sở văn hóa, thể
thao và du lịch Phú Thọ xuất bản [tr 22- 170].
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm cung cấp thêm cho người đọc có thêm
hững hiểu biết về nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng và huyện Lâm
Thao, Phú Thọ nói chung, từ đó gây dựng niềm yêu thích và hứng thú của nhân
7
dân Việt Nam với loại hình nghệ thuật truyền thống quý giá và đặc sắc này.
Đặc biệt, đối với đề tài này, người làm nghiên cứu muốn chú trọng đến vấn đề
phát huy, vận dụng hát Xoan trong công tác giáo dục, giảng dạy ở trường phổ
thông trên địa bàn xã Hy Cương, Huyện Lâm Thao. Người thực hiện nghiên
cứu hiểu rằng, muốn phát huy được giá trị văn hóa thì cần việc thay đổi nhận
thức từ gốc rễ, tức là thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ ở tỉnh Phú
Thọ nói riêng cần được nâng cao nhận thức, phải tạo niềm đam mê từ phía các
bạn đối với “báu vật” của quê hương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu mà nghiên cứu đặt ra, người thực hiện nghiên cứu tự nhận
thấy các nhiệm vụ mà mình sẽ và cần thực hiện để đạt được các mục tiêu trên
như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về hát
Xoan ở ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích sâu về nội dung và nghệ thuật của các bài
hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ, chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung
và nghệ thuật các bài hát với đời sống sinh hoạt, văn hóa của nhân dân.
Thứ ba, khảo sát thực trạng giáo dục, giảng dạy hát Xoan trong các trường
Phổ thông trung học huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và cuối cùng là đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy tối đa việc giáo dục hát Xoan cho thế hệ trẻ trên địa bàn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp điền dã văn học: Điền dã văn hóa văn học dân gian để sưu
tầm các bài hát, khảo sát được thực trạng cụ thể về hoạt động giáo dục hát Xoan ở
xã Hy Cương, Lâm Thao, nhu cầu của học sinh phổ thông về hát Xoan, tạo cơ sở
cho để làm cơ sở nghiên cứu nội dung nghệ thuật để đề xuất một số biện pháp.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở tổng hợp, phân loại tư liệu
điền dã chúng tôi sử dụng phương pháp này để tiến hành phân tích những điểm
nổi bật về giá trị nội dung và nghệ thuật của hát Xoan ở xã Hy Cương. Sau khi
8
đã phân tích, chúng tôi đưa ra những nhận xét tổng hợp, đánh giá sâu sắc về cả
phương diện nội dung, nghệ thuật của hát Xoan ở Hy Cương, đánh giá thực
trạng, nhu cầu của học sinh ở một số trường phổ thông đối với hát Xoan.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng bước
đầu để chỉ ra một số nét tương đồng cũng như khác biệt, nét đặc sắc của hát
Xoan ở xã Hy Cương với hát Xoan Phú Thọ nói chung.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Hát Xoan vốn gắn liền với đời
sống của người dân, không tách rời hoạt động diễn xướng trong dân gian, bởi
vậy, khi tiếp cận hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, chúng tôi tiếp cận ở
nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học khác nhau như âm
nhạc, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, văn học, du lịch, trong mối quan hệ với đời
sống văn hóa tín ngưỡng gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng để có được
những hiểu biết đầy đủ, khoa học nhất về hát Xoan.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên tổng hợp và nghiên cứu sâu về hệ thống các
bài hát Xoan ở xã Hy Cương, đặc biệt trong vấn đề vận dụng hát Xoan vào
công tác giáo dục học sinh phổ thông. Cụ thể tác giả đã sưu tầm thống kê được
23 bài hát Xoan từ các nghệ nhân, đây có thể coi là tư liệu rất đáng quý góp
phần tạo nên diện mạo phong phú cho hát Xoan ở Phú Thọ nói chung. Đề tài
hoàn thành có thể được sử dụng như một nguồn tham khảo cho các nghiên cứu
sau này về hát Xoan ở Phú Thọ nói chung và hát Xoan ở xã Hy Cương nói
riêng. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, hát Xoan dù mang giá trị nghệ thuật và
văn hóa lớn, cần được bảo tồn và phát huy song mức độ đầu tư nghiên cứu, tìm
hiểu và phổ biến kiến thức về loại hình này chưa cao. Số lượng nghiên cứu
chuyên sâu rất ít. Do đó, việc thực hiện đề tài như một loại tài liệu tham khảo
cho những nghiên cứu chuyên sâu sau này là hết sức thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của
9
luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Hát Xoan ở xã Hy Cương trong không gian văn hóa Phú Thọ
Chương 2: Nội dung và nghệ thuật hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm
Thao, Phú Thọ
10
Chương 3: Hát Xoan với vấn đề giáo dục, giảng dạy ở trường phổ thông
NỘI DUNG
Chƣơng 1
HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA
HUYỆN LÂM THAO, PHÚ THỌ
1.1 Khái quát về xã Hy Cƣơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Xã Hy Cương nằm ở phía Tây của huyện Lâm Thao, phía đông giáp xã
Kim Đức và phường Vân Phú (TP. Việt Trì), phía Tây giáp xã Tiên Kiên
(huyện Lâm Thao), phía Nam giáp xã Chu Hóa (TP. Việt Trì) và phía Bắc giáp
xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh). Xã có diện tích 7,03 km² trong đó có hơn 5,00
km² thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng, dân số năm 2006 là 4.760 người, mật
độ dân số đạt 595 người/km².
Xã Hy Cương được xem là một trong những điểm hành hương quan
trọng của người Việt Nam vì nơi đây có đền thờ và mộ Tổ Vua Hùng. Nơi đây
cũng được xác định như khu vực của trung tâm nhà nước Văn Lang cổ xưa, có
nhiều di tích thờ Hùng Vương, gia quyến và các tướng lĩnh thời Hùng Vương,
là nơi bảo tồn được bản Ngọc phả quý với tên gọi đầy đủ là Hùng đồ thập bát
diệp thánh vương Ngọc phả cổ truyện do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố
biên soạn vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê
Thánh Tông, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính vào năm Canh Tý
niên hiệu Hoằng Định thứ nhất (1600) đời vua Lê Kính Tông và Lễ phiên Lê
Đình Hoan phụng sao. Ngọc phả ghi đầy đủ về 18 đời vua Hùng, còn ghi đầy
đủ danh tính của 100 người con từ bọc trứng do Quốc mẫu Âu Cơ sinh ra. Đây
còn là nơi sản sinh và lưu truyền nghệ thuật Hát Xoan đến tận ngày nay.
Trải qua hàng ngàn năm cư dân Văn Lang đã góp phần xây dựng cơ sở
vật chất, tạo nền tảng dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền
thống tinh thần Việt Nam.
Từ lâu đời nay, cư dân Phú Thọ là con cháu người Việt cổ, họ bảo lưu
nhiều phong tục tập quán cổ truyền và tiếp tục truyền thống đấu tranh bảo vệ
11
độc lập chủ quyền đất nước. Những cư dân nơi đây do giao lưu văn hóa,
thương mại và thích ứng với hoàn cảnh để cải tiến công cụ sản xuất, đưa trình
độ sản xuất ngày một phát triển cao hơn… một số vùng đã trở thành nơi đô hội,
có làng nghề đúc, làng nghề gốm, nung gạch, đan lát… Cũng có nơi trở thành
thị trường buôn bán sầm uất. Mặc dù bị bọn đô hộ áp bức nặng nề, nhưng do
cần cù lao động và thông minh sáng tạo, lại biết đùm bọc bảo vệ lẫn nhau, nên
cư dân nơi đây vẫn đẩy mạnh sản xuất, phát triển không ngừng mọi mặt và tiến
bộ nhanh hơn bộ phận dân cư sống biệt lập lâu đời, với nền kinh tế tự cấp, tự
túc ở vùng miền núi.
Từ thế kỷ X trở đi diễn ra sự phân lập người Mường và người Việt.
Người Lạc Việt ở đồng bằng trung du đông hơn, điều kiện phát triển kinh tế
thuận lợi nên đã hình thành dân tộc Việt hiện đại, phân hóa với người Mường
là bộ phận người Lạc Việt sống ở miền núi. Có thể nói con người Phú Thọ là
những cư dân sống lâu đời trên vùng Đất Tổ của đất nước Việt Nam được phát
triển ngày một đông trong quá trình lịch sử. Các thành phần cư dân sống trên
đất Phú Thọ, cơ bản vẫn là làm nông nghiệp, lấy cây lúa nước làm kinh tế chủ
đạo. Trước Cách mạng tháng Tám, nông dân chiếm 99%. Sau cách mạng đặc
biệt từ năm 1954 tới nay, do sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế- xã hội, từ nền nông
nghiệp, chúng ta xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa, do đó thành phần
công nhân và thị dân tăng lên, nhưng bản thân họ vẫn là người xuất thân từ
nông dân, phẩm chất, phong cách, lề lối làm ăn sinh sống vẫn còn mang nhiều
sắc thái nông dân. Phú Thọ ngoài hai thành phần chủ yếu là người Việt cổ và
người Mường, còn có các thành phần dân tộc Dao, Cao Lan… chiếm số lượng
ít nhưng đã hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Phú Thọ. Đó là sự giao lưu,
đan xen văn hóa tạo nên sắc thái riêng phong phú đa dạng trên cơ sở văn hóa
truyền thống từ thời Hùng Vương. Chính các sắc thái đó ảnh hưởng quyết định
tới sự hình thành truyền thống tinh thần của nhân dân các dân tộc Phú Thọ. Đó
là những phẩm chất tốt đẹp của cư dân vùng Đất Tổ, dòng dõi người Việt cổ
Phùng Nguyên- Đồng Đậu- Gò Mun- Đông Sơn, những con người tham gia
12
vào công cuộc chinh phục thiên nhiên vùng đất Ngã ba sông từ ngày đầu dựng
nước, đã góp phần xương máu vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Họ đã
cùng đồng bào cả nước viết lên truyền thống tốt đẹp: Lòng yêu nước thương
nòi, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất, niềm tin sâu sắc và mãnh
liệt vào tài năng của mình.
Trên một ngàn di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng kháng chiến lớn
nhỏ, trong đó có trên 300 di tích đã được Bộ Văn hóa và UBND tỉnh xếp hạng
bảo vệ, hiện còn là minh chứng lịch sử hùng hồn, là niềm tự hào của người dân
Phú Thọ. Đặc biệt Khu di tích lịch sử Đền Hùng- nơi có đền thờ Quốc Tổ Hùng
Vương và rất nhiều di tích vừa có giá trị lịch sử, giá trị kiến trúc vừa là nơi tổ
chức lễ hội truyền thống nhằm giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tôn
vinh người có công dựng nước, giữ nước như: Đình và chùa Hiền Quan, Đình
Hùng Lô, Đào Xá, Hữu Bổ, chùa Xuân Lũng… dưới lòng đất Phú Thọ, hiện tại
còn ẩn chứa bao bí mật, ẩn chứa những thông tin về nền văn minh Việt cổ và
Đại Việt đang từng bước được các nhà khảo cổ học làm sáng tỏ từ văn hóa Sơn
Vi, Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồng Đậu, Làng Cả… cách đây mấy ngàn năm.
Vì thế cho tới nay dòng văn hóa dân gian đặc sắc vùng Đất Tổ vẫn không
ngừng phát triển, phản ánh một cách phong phú cuộc sống lao động, sản xuất,
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Các giá trị văn hóa truyền thống ấy luôn được
các thế hệ lưu giữ qua các truyền thuyết như: Truyền thuyết Hùng Vương,
truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, các hình thức diễn xướng văn nghệ dân
gian như: hát Xoan ở xã Hy Cương, hát Ghẹo ở Thanh Uyên, Nam Cường; các
trò diễn hội làng: Rước chúa Gái ở Chu Hóa - Hy Cương, trò Trám ở Tứ Xã,
cướp Kén ở Dị Nậu, cướp Phết ở Hiền Quan… và rất nhiều ca dao, tục ngữ,
truyện ngụ ngôn, cổ tích, truyện cười mang đặc trưng quê hương Phú Thọ. Là
trung tâm Nhà nước Văn Lang xưa, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam,
miền đất Phú Thọ là nơi hội tụ của 21 dân tộc anh em, mỗi dân tộc với một
phong tục tập quán đa dạng cùng các loại hình văn nghệ dân gian phong phú ở
13
Phú Thọ như: Hát Xoan, Ghẹo, Trống quân, chàm thau, đâm đuống, cồng
chiêng, múa mời, trống đu, múa chuông… đã làm nên sự phong phú trong đời
sống văn hóa tinh thần của người dân vùng Đất Tổ. Nó được gìn giữ nâng cao
các giá trị từ đời này qua đời khác trở thành di sản quý giá góp phần bồi đắp
cho nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thêm phong phú, đa sắc.
Phú Thọ còn có các loại hình di sản văn hóa phi vật thể nổi tiếng khác
như: Xoan, Ghẹo, Trống quân, Trình nghề, Chàm thau, Đâm đuống, múa Tùng
dí, múa Mời, múa Chuông... của đồng bào các dân tộc. Về ẩm thực có các món
ăn đặc sắc của các dân tộc như: Xôi ngũ sắc, lợn thui, cá đốt, bánh tai, bánh
chưng, bánh giầy... đã khẳng định thêm một lần nữa những dấu tích văn hóa,
tín ngưỡng, cuộc sống, phong tục tập quán vô cùng phong phú của các dân tộc
anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh.
1.2. Khái quát về Hát Xoan
1.2.1. Khái niệm
Các cách hiểu về hát Xoan từ trước đến nay đều thống nhất cho rằng: hát
Xoan là hình nghệ thuật độc đáo và đặc biệt bởi sự kết giữa giữa hát, múa và
biểu diễn, đồng thời là một di sản văn hóa bởi lời điệu của hát Xoan mang đậm
tính lịch sử, văn hóa và đời sống tâm linh lâu đời của người dân Việt Nam. Đó
là hình thức âm nhạc cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật,
độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được
cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.
Nói cách khác, Hát xoan hội đủ các yêu cầu cần thiết để được UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đó là hình thức âm nhạc
cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai
điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ
qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.
hoá Nghệ thuật, số 2/2000, tr. 7- 9 cho biết: “Theo nhận định của những nhà
Tiến sĩ Lê Toàn, viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam trong tạp chí Văn
14
nghiên cứu thì Hát Xoan là hoạt hình văn hoá nghệ thuật cổ xưa của người Việt,
tàng chứa những tầng văn hoá khác nhau trong đó có âm nhạc, múa, lễ hội, văn
hoá.v.v. Ở lĩnh vực âm nhạc, trong Xoan là hát xướng, xô, đối đáp nam nữ,
không đồng giọng mà hát cách nhau quãng 4, quãng 5. Về thanh nhạc, tính theo
triết học âm nhạc, ngôn ngữ âm nhạc giữa phần thanh nhạc của giọng nam và
giọng nữ và sự đặc biệt đó trở thành đặc trưng mà chính các bạn quốc tế đã
phải ngỡ ngàng và đánh giá cao, mặc dù họ không thấy chúng ta hát bè như
trong Xoong hao, hay Earay của người Tây Nguyên. Chính sự cổ xưa, sự đặc
sắc làm nên nét độc đáo của loại hình này”
Ngày 24/11/2011, UNESCO đã công nhận Hát xoan - Phú Thọ là Di sản
văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại với những giá trị cộng đồng
trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua đời khác. Hát xoan là loại hình
dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần với hình thức nghệ thuật đa yếu tố, gồm
có ca - vũ - nhạc, thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất
tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh trung du Việt Nam. Hát xoan còn được gọi
là khúc môn đình (hát cửa đình), tương truyền có từ thời các vua Hùng. Hát
Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần và
thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới. Hát Xoan có 3 hình
thức: Hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt
tươi, cầu sức khỏe và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên. Hiện nay cả
bốn phường Xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và phường Thét đều nằm
ở 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu thuộc thành phố Việt Trì.
Sau khi Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại, việc khôi phục và duy trì thường
xuyên hoạt động của bốn phường Xoan gốc được các cấp, các ngành trong tỉnh
đặc biệt quan tâm. Nhiều hoạt động thiết thực trợ giúp cộng đồng nhận diện,
bảo tồn phát huy giá trị di sản đã được triển khai như: Khôi phục miếu Lãi Lèn;
hỗ trợ, trang phục, đạo cụ biểu diễn, duy trì kinh phí hoạt động, tổ chức các lớp
15
truyền dạy Hát Xoan; giao lưu giữa các phường Xoan; quảng bá Hát Xoan
trong dịp lễ hội Đền Hùng, trên các phương tiện truyền thông Trung ương và
địa phương; đưa chương trình học Hát Xoan vào trường phổ thông các cấp...
Nhờ đó, đã làm cho nhận thức của cộng đồng về Hát Xoan dần được nâng cao,
không gian Hát Xoan được mở rộng... Với những nỗ lực trên, Phú Thọ đã thành
công trong việc đưa Hát Xoan ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở thành
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hát Xoan Phú Thọ được công
nhận tháng 12/2017 là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
1.2.2. Nguồn gốc của hát Xoan
Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình
lại có nét đặc sắc riêng. Trong số các loại hình nghệ thuật phi vật thể được thế
giới công nhận, hát Xoan là một trong những di sản văn hóa đáng tự hào nhất
của Việt Nam nhờ có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng.
Người dân ở làng Phù Đức xã Kim Đức thành phố Việt Trì còn kể lại câu
chuyện liên quan đến nguồn gốc của hát Xoan rằng: Từ thuở Vua Hùng dựng
nước, một hôm vào buổi trưa ngày 13 tháng chạp, ba anh em vua Hùng đi tìm
đất mở mang kinh đô có đi qua thôn Phù Đức và An Thái dừng chân nghỉ trưa
tại một khu rừng gần thôn. Trong khi ngồi nghỉ, ba anh em Vua Hùng nhìn ra
bãi cỏ trước mặt, thấy có một đám trẻ chăn trâu vừa chơi các trò chơi như
đánh vật, kéo co lại vừa hát những khúc ca nghe rất hay. Thấy vậy, người anh
cả nhà họ Hùng liền bảo hai em dạy các trẻ mục đồng hát một số điệu mà họ
mang theo. Về sau, để tưởng nhớ công lao của ba anh em vua Hùng, hàng năm
cứ đến ngày 13 tháng chạp âm lịch, dân làng lại làm bánh để cúng vào buổi
trưa và cúng thịt bò vào buổi chiều để thờ anh Cả vua Hùng được nhân dân
suy tôn là đức Thánh Cả. Đến ngày mùng 2 và mùng 3 tháng giêng âm lịch,
dân làng Phù Đức mở hội cầu Đức Thánh Cả phù hộ cho “Dân khang, vật
thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt”. Trong hội cầu, họ diễn lại cảnh
hát xướng để nhớ lại sự tích các vua Hùng dạy dân múa hát và chơi các trò
16
chơi dân gian. Do vậy, hội cầu đã trở thành lệ làng hàng năm và bao giờ cũng
có trò hát xướng mở đầu trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn
hóa Phú Thọ [tr 22-25].
Còn người dân làng Cao Mại (nay là làng Cổ Tích) xã Hy Cương huyện
Lâm Thao thì lưu truyền một truyền thuyết như sau: Vợ vua Hùng mang thai đã
lâu tới ngày sinh nở, cứ đau bụng mãi mà không đẻ được. Người hầu nữ thấy
vậy tâu rằng: Có nàng Quế Hoa xinh đẹp, hát hay, múa giỏi. Nên đón về múa
hát để có thể làm đỡ đau và có thể sinh đẻ được. Vợ Vua Hùng nghe lời và cho
mời nàng Quế Hoa đến để hát múa chầu trực bên cạnh vợ Vua Hùng. Nàng
Quế Hoa vâng lời và vào chầu. Khi ấy, vợ Vua Hùng đang lên cơn đau đẻ dữ
dội, bà gọi Quế Hoa vào cạnh giường và múa hát. Quế Hoa trổ tài hát hay,
múa dẻo, tay uốn, chân đưa, người mềm như tơ, tay dẻo như bún, vợ Vua Hùng
và mọi người hầu cận đều rất say mê. Vợ vua Hùng trong khi mải xem nàng
Quế Hoa múa hát nên quên cả đau đẻ và đã sinh hạ được ba người con trai
khôi ngô tuấn tú. Khi ấy đang là mùa Xuân. Vua Hùng thấy thế hết lời khen
ngợi Quế Hoa và truyền cho các mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy để hát
mừng trong dịp lễ hội mùa xuân vì thế được gọi là Hát Xuân, sau này vì kiêng
tên húy của mỵ nương con gái vua Hùng có tên là Xuân Nương (có thể là tên
một nữ tướng của Hai Bà Trưng trong khởi nghĩa năm 40-43) nên phải gọi
chệch là Hát Xoan trong Tổng tập hát Xoan Phú Thọ,2016, Nxb Sở văn hóa
Phú Thọ,[tr 22-25].
Trong cuốn Văn hóa Việt Nam, 2011, Nxb Đại học Văn hóa Hà nội [tr
87-94] tác giả cũng đã nhắc đến một văn bản kể về nguồn gốc của hát Xoan
theo Truyền thuyết Hùng Vương rằng: hát Xoan có từ thời dựng nước với sự
tích, ngày xưa, có ba anh em vua Hùng đi tìm đất qua thôn Phù Đức vào buổi
trưa và có nghỉ lại một khu rừng gần thôn. Từ khu rừng, các vị nhìn ra bãi cỏ
trước mặt thấy có đám trẻ chăn trâu vừa chơi, vừa hát, vừa đánh vật, kéo co.
Thấy vậy, Đức Thánh Cả liền bảo những người đi theo đem những bài hát mà
17
họ biết dạy thêm cho lũ trẻ.
Về sau, cứ hàng năm, đến ngày 30 tháng Chạp âm lịch, dân làng phải làm
bánh nẳng để cúng vào buổi trưa và thịt bò cúng vào buổi chiều ở miếu "Lãi Lèn"
để thờ Đức Thánh Cả (vì dân trong thôn đã đãi Đức Thánh Cả hai món đó).
Tới ngày mồng hai, mồng ba tháng giêng âm lịch thì dân Phù Đức mở
hội cầu, trong hội cầu họ diễn lại cảnh hát xướng, kéo co, đánh vật ở bãi. Lệ
hàng năm phải hát xướng, cầu chúc bắt nguồn từ sự việc ấy, nên hát Xoan còn
được gọi là ca Xoan, hát "Lãi Lèn."
Qua truyền thuyết, chúng ta thấy rằng, hát Xoan có thể được ra đời từ rất
sớm, có thể từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang với hình thức ban đầu
còn rất sơ khai và nó được dùng làm nghi thức tín ngưỡng trong lễ hội của làng
để cầu đảo Trời đất ban cho mưa thuận gió hoà để mùa màng được tươi tốt,
đem lại cuộc sống ấm no cho muôn dân trăm họ và được tồn tại đến khởi nghĩa
Hai bà Trưng năm 40 đến 43 sau công nguyên. Bằng chứng là tại các địa điểm
có hát Xoan hoặc có liên quan đến Hát Xoan đều có tín ngưỡng thờ tự các Vua
Hùng và các con gái Vua Hùng như Tiên Dung, Ngọc Hoa, Nguyệt Cư và các
con rể, các tướng lĩnh của thời Vua Hùng.
Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa
bàn bán sơn địa thuộc trung tâm bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước.
Nó được ra đời cùng với tín ngưỡng mang tính nguyên thuỷ của cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước, đó là tín ngưỡng thờ Trời, thờ Thần, thờ Thánh để cầu
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Các làng Xoan đều là
những ngôi làng cổ nằm ở vị trí có địa hình bán sơn địa với địa hình đồi, gò
trung du xen kẽ với các tràn ruộng trồng lúa nước rất điển hình thuộc địa bàn
trung tâm của bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước. Đây là một trong
những yếu tố Vị- Thế - Địa rất quan trọng ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến
sự ra đời và tồn tại của các làn điệu và cách thể hiện của hát Xoan. Chính vì
vậy, yếu tố tâm linh là yếu tố quan trọng chi phối đến tính chất của hát Xoan
18
mang tính nghi lễ phồn thực của cư dân nông nghiệp. Vì vậy, Hát Xoan được
hát ở cửa đình thể hiện những lễ tục diễn xướng tế thần linh tại các cửa đình và
được tổ chức hát vào mùa Xuân- Mùa nghỉ ngơi của một chu trình canh tác
nông nghiệp trồng lúa nước hai vụ Chiêm- Xuân qua 12 tháng và 4 mùa Xuân-
Hạ- Thu- Đông, đó chính là nguyên nhân để hình thành các quả cách liên quan
đến bốn mùa Xuân- Hạ- Thu- Đông.
Hát Xoan là tài sản tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó được
bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với phong tục,
tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đây là yếu tố để hình thành
các quả cách trong lối hát để nói về các nghề trong công nghiệp: Ngư- Tiều-
Canh- Mục. Hát Xoan thể hiện ước nguyện thỉnh cầu của người nông dân đối
với các bậc Thánh, Thần cao siêu mà họ quan niệm rằng đó chính là các bậc cai
quản, ban phát sự may mắn, phong lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền với vận
mệnh sống còn của họ. Hát Xoan thể hiện đạo lý Vua- Tôi, nghĩa vợ chồng,
đạo làm cha, đạo làm con. Hát Xoan còn là tiếng nói tình cảm thể hiện tâm tư
tình cảm, nguyện vọng và ước vọng, là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng
đồng và quan hệ trên- dưới là mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt
địa vị sang- hèn và giàu- nghèo.
Hát Xoan là một nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp
trồng lúa nước nó được ra đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc nơi có nhiều
lễ hội dân gian được tổ chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy
đủ tính chất của nền văn hoá cội nguồn và cổ xưa nhất. Mặt khác, Hát Xoan
mang đậm yếu tố tín ngưỡng, tâm linh được hát tại đình làng là nơi thờ Thành
Hoàng để thể hiện ước nguyện cầu đảo linh thiêng. Chính vì vậy, Hát Xoan
mang đậm tín ngưỡng thể hiện qua hình thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể
hiện như trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là diễn xướng thiêng liêng được hát
để kết thúc một cuộc trình diễn Hát Xoan. Họ quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá
có ảnh hưởng sâu sắc đến mùa màng, đến sự sinh sôi phát triển giống nòi. Do
vậy, không bao giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối
19
hát đó thì dân làng sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém và gặp thiên tai hạn hán
hoặc lũ lụt v...v. Vì trong cả hai lối hát này đều có các Đào Xoan và các trai
làng cùng trình diễn để các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào bắt lấy trai làng
để tượng trưng cho âm- dương; Nam- Nữ giao phối để sinh sôi nảy nở, vì vậy
các cụ gọi đây là “Âm dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối hát Xoan cổ,
Cài Huê, Mó Cá được trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó là vào lúc
trời gần sáng. Khi mà khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất hiện.
Trời đất bảng lảng giao hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn Mó cá
và vào lúc các Kép bắt các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều phải
tắt hết, chỉ có hương thắp trên Thượng cung.
Có thể nói, một số truyền thuyết về Hát Xoan hiện còn được bảo lưu ở
Phú Thọ là ánh sáng phản xạ về sự hình thành và tồn tại của Hát Xoan trong
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ cư dân Đất Tổ Vua
Hùng. Mặc dù là truyền thuyết dân gian, nhưng vén đi bức màn huyền thoại,
các truyền thuyết ấy cũng đã ít nhiều cung cấp tư liệu mang tính khoa học để
chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu về Hát Xoan Phú Thọ làm căn cứ cho tổ chức
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, thiết
thực góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan ở Phú Thọ thể hiện
truyền thống và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn quả nhớ người trồng cây”
của dân tộc ta.
1.2.3. Đặc trưng của hát Xoan
Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình diễn xướng dân gian
gắn liền với Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một tín ngưỡng bắt nguồn từ
tập quán thờ cúng tổ tiên của người Việt. Hát Xoan còn gọi là Khúc môn đình,
là lối hát thờ thần, thường được tổ chức vào mùa xuân để đón chào năm mới.
Hát Xoan khi trình diễn đầy đủ thường có có 3 chặng hát: Hát thờ - tưởng nhớ
các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước; hát nghi lễ
- Ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt của
cộng đồng qua 14 làn điệu khác nhau (còn gọi là quả cách); hát Hội - lối hát
20
giao duyên, bày tỏ khát vọng cuộc sống, tình yêu nam nữ với những làn điệu
đậm chất trữ tình vui nhộn qua hình thức hát đối đáp giữa các Đào, Kép và trai
gái làng sở tại... Bài bản Xoan được kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc và giọng
điệu. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện còn lưu giữ được hơn 200 bài bản Hát
Xoan tại 4 phường Xoan gốc (An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái). Các làn
điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn trung tâm bộ
Văn Lang, thời các Vua Hùng dựng nước. Hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng
với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, hát đối và lĩnh xướng.
Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa
để minh họa cho lời ca. “Là nghệ thuật trình diễn cộng đồng, Hát Xoan đáp ứng
nhu 56 cầu giao lưu văn hóa, gắn kết cộng đồng. Khi cùng nhau trình diễn Hát
Xoan, những người thực hành hát Xoan tìm thấy niềm vui trong sự hòa đồng,
tôn trọng lẫn nhau và những nỗi vất vả, phiền muộn được giải tỏa”.
Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là
nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong
hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một
phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có
thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có
những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những
bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát
thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,
trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình
diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua
đêm tới 3, 4 giờ sáng là tàn cuộc.
Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ
nói riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Hát
Xoan là loại hình dân ca nghi lễ, phong tục, là hình thức nghệ thuật đa yếu tố:
Ca nhạc, hát, múa phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Hát Xoan có bề
21
dày lịch sử, có tổ chức nghệ thuật chặt chẽ, không gian văn hóa rộng lớn và sức
lan tỏa mạnh mẽ khắp cộng đồng. Với những giá trị nổi bật toàn cầu, ngày
24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản
văn hóa phi vật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, Hồ sơ Hát Xoan
- Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại.
Hát Xoan cũng như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn
hoá dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng
bằng Bắc Bộ. Nó đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự
nhiên và môi trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng
đồng người Việt đặt chân cư trứ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời
đại các vua Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của
nhà nước Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu
Lê cho đến khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX,
Hát Xoan vẫn hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vẫn tồn tại trong đời
sống tinh thần của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi
theo hướng thích nghi để tồn tại của văn hoá dân gian Việt Nam nói chung và
thể loại Hát Xoan nói riêng.
Nghệ thuật hát Xoan là nghệ thuật diễn xướng tổng hợp, hát đi đôi với
múa và nhạc đỡ giọng giữ nhịp. Xoan là hát mà Xoan cũng là múa, là thơ.
Chính Xoan cũng có những câu hát nói lên tính đa yếu tố của mình:
“Lấy nhạc làm thơ
Trước tôi tấu thơ
Sau tôi múa nhạc
Vậy có thơ hát múa rằng”…
[Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Xoan không chỉ là ca hát tuy ta vẫn thường gọi là hát Xoan mà còn là
nhạc, là thơ, là múa. Xoan là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp và trong
22
hình thức nghệ thuật đa yếu tố này, yếu tố hát vẫn là chính. Xoan có một
phương thức trình diễn được hình thành từ lâu đời, đó là lề lối của hát Xoan, có
thể nói lề lối là những quy chế truyền thống. Dân ca địa phương nào cũng có
những lề lối của nó. Hát Xoan có các giọng lề lối mở đầu với tính chất là những
bài giáo vào đám, có giọng hát thờ là hát tế lễ. Hát Xoan là hát cửa đình, hát
thờ lễ cho nên không hát ngoài trời như ví hay hát Xoan. Xoan hát trong đình,
trước bàn thờ lung linh đèn nến, thơm ngát hương trầm. Hát Xoan được trình
diễn trong khoảng thời gian từ lúc nông thôn lên đèn cho tới sáng hôm sau qua
đêm tới 3, 4 giờ sáng là tan cuộc.
Phong cách hát nói sự trình bày thường là: Một kép ngồi giữa cầm dùi
trống vừa đánh trống vừa “Dẫn cách” còn các cô đào thì hát phụ hoạ bằng cách
nhắc lại nguyên nhạc điệu của một đoạn mà người “dẫn cách” hoặc xen vào
phần đệm.
Xoan là tiếng hát làng chạ, là lễ ca dâng lên thần linh những lời thành
kính, đón rước thần linh về hưởng tế và phù hộ cho làng. Xoan là tiếng hát cầu
chúc, khấn nguyện:
“Hộp chầu, vò nước, nén nhang
Của tôi thành kính dâng vua ngự trên linh sàng
Đọc bài ca chúc tôi kêu thử
Bách bái bạn thần tất hưởng”
(Nhập tịch)
Xoan là tiếng hát từ đình đám và vì làng chạ mà ra, mang khá đầy đủ
những yếu tố cơ bản về ý thức hệ, đời sống tình cảm và phản ánh hiện thực lịch
sử của xã hội: Xã hội của Xoan là xã hội phong kiến nông nghiệp. Đó là xã hội
được tổ chức trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, kinh tế
tiểu nông và là xã hội tổ chức theo trật tự phong kiến, chi phối bởi lễ giáo
phong kiến, thống trị bởi nhân sinh quan phong kiến. Cho nên hát Xoan mang
đậm dấu ấn của nhân sinh quan, lễ giáo phong kiến, biểu lộ rõ nét trật tự, kỷ
23
cương phong kiến.
1.3 Khái quát về hát Xoan ở xã Hy Cƣơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Đến với Hy Cương chúng ta được đến với không gian văn hóa hát Xoan
mang dấu ấn của thời dựng nước giữ nước Văn Lang Âu Lạc. Tuy đây không
phải là làng Xoan cổ nhưng đây là nơi hiện lưu giữ những trầm tích văn hóa
của một thời dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cũng như hát Xoan nơi đây
có nội dung phản ánh khá nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, ngay cả những điều
giản dị đời thường nhất cũng được hát Xoan nơi đây nhắc đến.
Đây là địa phương hiện có số lượng nghệ nhân nhiều nhất trong huyện
Lâm Thao, Phú Thọ với 4 nghệ nhân gồm:
Năm Giới Stt Họ và tên Địa chỉ sinh tính
Làng Cổ Tích, xã Hy Cương, 1957 Nữ 1 Nguyễn Thị Sen huyện Lâm thao, Phú Thọ
Làng Cổ Tích, xã HY
1972 Nữ Cương, huyện Lâm Thao, 2 Nguyễn Thị Thu Hằng
Phú Thọ
Làng Máy, xã Hy Cương, 1964 Nam 3 Nguyễn Văn Quyết Lâm Thao, Phú thọ
Làng Cổ Tích, Hy Cương, 1960 Nữ 4 Hoàng Thị Thu Uyên Lâm Thao, Phú Thọ
Như vậy, các nghệ nhân hát Xoan ở xã Hy Cương đa số là nữ ở độ tuổi
trung niên, chưa quá già nhưng cũng không còn trẻ. Ở độ tuổi này, có lẽ niềm
say mê hát Xoan đã trở nên sâu sắc, thời gian thực hành hát Xoan cũng đủ dài,
dày để tiếp tục truyền dạy cho các thế hệ sau. Khi được tác giả phỏng vấn, bà
Sen chia sẻ: “Bà và các nghệ nhân ở đây bắt đầu hát Xoan từ khi lên 10 tuổi
đến nay bà đã có trên 50 năm hát Xoan, bà được truyền dạy hát Xoan từ thế hệ
trước và đến bà hiện tại là đời thứ năm được kế thừa hát Xoan mà cha công để
24
lại. Các nghệ nhân ở đây sẽ hát Xoan vào dịp lễ hội và lễ hội ở đây từ tháng
Giêng cho đến hết tháng 3 âm lịch (mùa xuân) và ngày rằm, mùng một âm lịch
hàng tháng, trong các dịp trọng đại như cưới hỏi. Hát Xoan được các nghệ nhân
thực hiện là để gìn giữ tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, mong một cuộc sống
yên bình ấm no, xua tan đi mệt nhọc của lao động thường ngày, hạnh phúc lứa
đôi được trọn vẹn” (Phỏng vấn ngày 18-9-2020).
Xã Hy Cương cũng là một trong những xã điển hình của trong huyện
Lâm Thao là nơi tập trung đào tạo, bồi dưỡng các lớp nghệ nhân kế cận, mở
các lớp Xoan trong cộng đồng, thành lập các câu lạc bộ Hát Xoan và đưa Xoan
vào trường học… Đến nay, xã có 7 câu lạc bộ với trên 100 thành viên yêu thích
và trình diễn Hát Xoan, các trường Tiểu học và THCS của xã đã thực hiện đưa
Hát Xoan vào giảng dạy thông qua bộ môn Âm nhạc ở cấp tiểu học và Trung
học cơ sở, môn Ngữ Văn ở cấp THPT. Chủ trương này đã góp phần nâng cao
nhận thức, lòng tự hào, trách nhiệm của các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ trong việc
bảo tồn, phát huy giá trị di sản Hát Xoan; đưa số lượng người thực hành Xoan,
hiểu biết về Hát Xoan tăng lên một cách đáng kể.
Trong thời gian thực hiện luận văn, tôi đã điền dã, thu thập được từ chủ
yếu từ nghệ nhân Nguyễn Thị Sen 23 bài Xoan hiện được các nghệ nhân ghi
chép bằng sổ tay và thực hành hát trong các dịp lễ hội, ngày rằm, mùng một âm
lịch hàng tháng, trong các dịp trọng đại như cưới hỏi trên địa bàn xã Hy Cương.
Tư liệu này có thể được phân thành 3 nhóm theo nội dung phản ánh với tỉ lệ
như sau:
Thứ nhất là nhóm bài hát Xoan phản ánh phong tục tín ngưỡng của người
dân nơi đây gồm 17 bài chiếm 74% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.
Thứ hai là nhóm bài hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của nhân
dân lao động gồm 2 bài chiếm 8,6% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.
Thứ ba là nhóm bài hát Xoan phản ánh tính yêu lứa đôi gồm 4 bài chiếm
17,4% số lượng bài hát Xoan ở xã Hy Cương.
Hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng và hát Xoan Phú Thọ nói chung cũng
25
như các hình thức dân ca khác là một hiện tượng của văn hoá dân gian nói
chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Nó
đã ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên và môi
trường lịch sử- kinh tế xã hội nhiều nghìn năm, ít nhất là khi cộng đồng người
Việt đặt chân cư trú ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời đại các vua
Hùng với nhà nước Văn Lang Âu Lạc, thời đại độc lập tự chủ của nhà nước
Đại Việt và thời đại nhà nước phong kiến toàn thịnh dưới triều Hậu Lê cho
đến khi chế độ phong kiến suy tàn ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XIX, Hát
Xoan vẫn hiện diện qua những biến thiên của lịch sử, vẫn tồn tại trong đời
sống tinh thần của dân tộc. Điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, sự biến đổi
theo hướng thích nghi để tồn tại của văn hoá dân gian Việt Nam nói chung và
thể loại Hát Xoan nói riêng.
Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan là
chiến lược phát triển bền vững quốc gia, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội
trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất, bằng con đường giáo dục và
thông qua giáo dục, các giá trị về vật chất và tinh thần, các kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn, kinh nghiệm ứng xử, lối sống, ngôn ngữ, phong tục, tập quán…
của cha ông được lưu truyền, tồn tích, vận hành nối liền các thế hệ. Giáo dục
giúp cho học sinh hiểu biết về giá trị di sản văn hóa , tôn trọng, giữ gìn và phát
huy văn hóa truyền thống văn hóa của dân tộc.
Giáo dục văn hóa di sản trong trường phổ thông nhằm mục đích cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, những hiểu biết về vốn văn hoá
truyền thống của thế hệ cha ông trên quê hương mình. Hình thành và phát triển
ở học sinh các kỹ năng tiếp cận, khai thác tri thức và vốn văn hoá truyền thống
của địa phương để tiếp thu, học hỏi, vận dụng trong hoạt động hiện tại cũng
như sau này. Giáo dục truyền thống văn hoá, bồi dưỡng ý thức dân tộc, nâng
cao thái độ trân trọng di sản văn hoá dân tộc và trách nhiệm đối với sự phát
triển của cộng đồng và quê hương, hình thành ở học sinh tình cảm trong sáng,
cao đẹp, yêu thương, gắn bó với cộng đồng. Làm phong phú nội dung giáo dục
26
và giáo dục văn hóa thông qua văn học, góp phần giáo dục cho học sinh nhân
cách con người mới có tri thức và văn hoá, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội trong thời đại mới.
Tiểu kết
Có thể thấy, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ là một vùng đất
giàu bản sắc văn hóa. Trong đó, hát Xoan chính là một nét đẹp văn hóa tiêu
biểu cùng tồn tại trong đời sống xã hội của người dân nơi đây. Hát Xoan ở xã
Hy Cương mang một màu sắc khá đa dạng trong đời sống, mang những phong
tục tín ngưỡng riêng biệt của người dân nơi đây. Đặc điểm tự nhiên, đời sống
văn hóa - xã hội ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao chính là cái nôi nuôi dưỡng
các làn điệu hát Xoan ngọt ngào, sâu lắng mang nét đặc trưng tiêu biểu cho dân
ca đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam của tỉnh Phú Thọ nói chung. Trong đời sống
của con người xã Hy Cương nói riêng, Phú Thọ nói chung, hát Xoan cũng là
một yếu tố không thể thiếu.
Những nét khái lược về lịch sử, điều kiện tự nhiên, xã hội, đời sống văn
hóa, văn học dân gian trong đó có hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú
Thọ chính là những yếu tố cơ sở có vai trò quan trọng để chúng tôi tìm hiểu giá
trị nội dung và nghệ thuật của hát Xoan nơi đây từ góc độ văn bản nghệ thuật
27
ngôn từ gắn với môi trường sinh hoạt dân gian ở chương tiếp theo.
Chƣơng 2
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA HÁT XOAN Ở XÃ HY CƢƠNG,
HUYỆN LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Nội dung của hát Xoan ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Hát Xoan phản ánh đời sống tín ngưỡng, phong tục của người lao động
Hát Xoan ra đời từ tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ lúa, thờ Thành
hoàng, thờ Vua, thờ Tổ tiên…) của người Việt cổ vùng Kinh đô Văn Lang.
Những nội dung tín ngưỡng này được phản ánh sâu đậm trong nội dung và hình
thức Hát Xoan, trở thành nội dung quan trọng nhất của loại hình dân ca này. Có
thể nói, yếu tố tín ngưỡng như một sợi chỉ xuyên suốt toàn bộ quá trình diễn
xướng Xoan, không chỉ ở phần hát thờ, các quả cách mà cả ở trong các tiết mục
giao duyên nam nữ. Với tính chất tín ngưỡng, Hát Xoan trở thành một loại dân
ca nghi lễ phong tục không thể thiếu trong lễ hội vùng Xoan. Hội làng mở ra,
sau nghi thức cáo tế là phường Xoan hát trong lòng đình, ngay trước bàn thờ
thánh để mời Vua, Thành hoàng, tổ tiên các họ Xoan về dự hội, xem hát và phù
hộ cho làng năm đó được mùa, dân khang vật thịnh. Như vậy, đối với dân làng,
nghi lễ Hát Xoan là nghi lễ bắt buộc có tính bài bản, trước tiên là để khẩn cầu
Thành hoàng phù hộ. Nghi lễ đó càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với một
xã hội nông nghiệp “dĩ nông vi bản”. Người ta coi Hát Xoan và phường Xoan
như một cây cầu nối giữa dân làng với thần linh, khiến cho thần Thành hoàng
hiểu được ước nguyện của họ mà ban cho họ những điều tốt đẹp như lời cầu
khấn, tránh được mọi tai ương bệnh tật. Thực tế, người nông dân có một lòng
tin tưởng vững chắc vào các lễ nghi tế lễ, những lời chúc nguyện của Hát Xoan
sẽ đem lại hiệu quả thực tế trong cuộc sống hiện tại.
Theo Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch tỉnh Phú Thọ, Hát Xoan là một
nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp trồng lúa nước nó được ra
đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc nơi có nhiều lễ hội dân gian được tổ
28
chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy đủ tính chất của nền văn
hoá cội nguồn và cổ xưa nhất. Mặt khác, Hát Xoan mang đậm yếu tố tín
ngưỡng, tâm linh được hát tại đình làng là nơi thờ Thành Hoàng để thể hiện
ước nguyện cầu đảo linh thiêng. Chính vì vậy, Hát Xoan mang đậm tính chất
phồn thực thể hiện qua hình thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể hiện như
trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là diễn xướng thiêng liêng được hát để kết thúc
một cuộc trình diễn hát Xoan. Họ quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá có ảnh hưởng
sâu sắc đến mùa màng, đến sự sinh sôi phát triển giống nòi. Do vậy, không bao
giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối hát đó thì dân làng
sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém và gặp thiên tai hạn hán hoặc lũ lụt.v...v. Vì
trong cả hai lối hát này đều có các Đào Xoan và các trai làng cùng trình diễn để
các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào bắt lấy trai làng để tượng trưng cho âm-
dương; Nam- Nữ giao phối để sinh sôi nảy nở, vì vậy các cụ gọi đây là “Âm
dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối hát Xoan cổ, Cài Huê, Mó Cá được
trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó là vào lúc trời gần sáng. Khi mà
khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất hiện. Trời đất bảng lảng giao
hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn Mó cá và vào lúc các Kép bắt
các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều phải tắt hết, chỉ có hương
thắp trên Thượng cung.
Chính vì vậy, hát Xoan trở thành một dạng nghi thức không thể thiếu
được trong ngày mở tiệc làng đầu năm. Nó trở thành một tập quán sâu sắc, lâu
đời của người dân các xã vùng Xoan ở Phú Thọ. Chúng ta đều biết hát Xoan
Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại là đặc
trưng của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Ta có thể thấy trong bài Xoan sau:
“Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ Văn
minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết nhớ mồ ông”.
29
[Hạ thời- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Hay trong bài Xoan mời Vua:
Mười hai phu kiện bước ơ bước vào
Tay lót lấy khăn đào ơ rước lấy cơ hồ mà vừa lên
Vua lên thánh đức mà trị ơ trị vì
Vua về mà nghe hát ơ mừng ơ làng mừng làng là sống lâu
Chân con đạp đất, đầu con đội trời, cất tiếng con mời ơ
Con rước cờ hồ mà vừa lên
[“Nguyễn Thị Sen- Trong bài Nhập tịch mời vua”]
Ta thấy rằng: Hát Xoan và phường Xoan như một cây cầu nối giữa dân
làng với thần linh, khiến cho thần Thành Hoàng(Vua) hiểu được ước nguyện
của họ mà ban cho họ những điều tốt đẹp như lời cầu khấn, tránh được mọi tai
ương bệnh tật. Thực tế, người nông dân có một lòng tin tưởng vững chắc vào
các lễ nghi tế lễ, những lời chúc nguyện của hát Xoan sẽ đem lại hiệu quả thực
tế trong cuộc sống hiện tại.
Nội dung của hát Xoan phản ánh tín ngưỡng thờ vua Hùng, tổ tiên của
người Việt, một hình thức tín ngưỡng rất đặc biệt ở Việt Nam. Theo kết quả
điều tra năm 2010 cho thấy, hát Xoan gắn với 30 cửa đình, đền thuộc vùng
trung tâm bộ Văn Lang, nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di
tích thờ Hùng Vương và các nhân vật thời Hùng Vương. Nội dung của hát
Xoan phản ánh tín ngưỡng thờ vua Hùng và thờ lúa nước của cư dân Văn Lang.
Nghi lễ hát thờ, hát quả cách trước bàn thờ thành hoàng nhằm mời vua về dự
hội và phù hộ cho dân làng được phong đăng hòa cốc, mùa màng bội thu, dân
chúng khang ninh thịnh vượng. Nội dung ngôn ngữ của hát Xoan vừa mang
tính dân dã, vừa mang tính bác học của các nhà Nho với các bài thơ phản ánh
thiên nhiên, phản ánh cuộc sống lao động và đặc biệt là sự thể hiện lòng thành
kính với các vua Hùng và thần linh có công bảo trợ cho cuộc sống của dân làng.
Như vậy hát Xoan là dân ca bản địa, hình thành từ cuộc sống sản xuất của cư
30
dân trồng lúa nước thời đại Văn Lang, phản ánh tín ngưỡng và ước vọng của
người Việt cổ. Trải qua chặng đường dài của lịch sử, khi Nho giáo du nhập
cùng tín ngưỡng thờ thành hoàng xuất hiện, hát Xoan mang thêm nội dung Nho
giáo, vua Hùng được tôn làm thành hoàng, vừa là Thánh vương, Thánh tổ bảo
trợ cuộc sống nhân dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý, phong tục của
cư dân bản địa. Như vậy tín ngưỡng thờ vua Hùng được khẳng định và nâng
cao trong hát Xoan, ngày càng phát triển, trường tồn trong lòng xã hội nông
nghiệp Việt Nam.
Yếu tố tín ngưỡng trong diễn hát Xoan được thể hiện rõ nhất là trong
chặng hát nghi lễ. Đây là phần lễ hát múa phục vụ các nghi lễ. Những người hát
nghi lễ phải được tuyển chọn kỹ càng thể hiện nghiêm túc từ trang phục, giọng
hát, điệu múa. Khởi đầu hát nghi lễ là phải có mâm lễ dâng lên. Sau đó hát chào
Vua và mời đức Vua về đình làng dự lễ hội. Khi các thủ tục dâng lễ đã hoàn tất.
Đoàn kiệu bát cống do 8 trai làng trẻ trung khôi ngô tuấn tú chưa vợ, nhà không
có tang chế, với đầy đủ trướng, phướn, tiếng chiêng vang lên khởi kiệu rước
Vua từ điện về đình. Khi rước có 4 đào Xoan trẻ tuổi chưa chồng, đi dưới gầm
kiệu hát điệu phụ giá:
“Tám người trai kiệu bước vào
Tay lót khăn đào rước lấy vua lên
Vui lên thánh đức trị vì
Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”
[Nguyễn Thị Sen- Nhập tịch mời Vua]
Sau nghi lễ khởi đầu rước kiệu Vua vào nội điện là đến giáo trống và giáo
pháo thể hiện hai làn điệu múa và hát trình diễn thành liên khúc. Trong giáo
trống được thể hiện hai âm, âm trầm và âm cao (âm trầm lá tầm); (âm cao gọi là
vông) muốn thể hiện âm tầm và vông của trống phải có mâm cơm bưng lên mặt
trống. Gọi là trống cơm do phường Xoan vỗ vang lên trong tiệc đình làng, cầu
31
mong cho trăm họ no đủ, an hòa phúc lộc được thể hiện bằng lời ca như:
“Trống này bé bé mà vẽ rồng vàng
Đôi tay tôi nâng cả đám làng
Trống tôi vỗ bến “tầm” thờ Vua, thờ chúa
Trống tôi vỗ nên “Vông”
Thờ Đức Đại vương”
[Đóng đám- Tổng Tập hát Xoan Phú Thọ]
Sau giáo trống, giáo pháo là điệu thơ nhang. Thơ nhang là làn điệu hát
dâng hương lên bàn thờ Đại Vương, cầu xin vua giáng phúc cho dân làng. Khi
múa hát các đoàn, Xoan tây cầm nhang vừa múa vừa hát có câu:
“Cầu Vua lên ngự ngai vàng
Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”.
[Nguyễn Thị Sen- Mời vua”]
Trong bài Xoan nhập tịch có câu:
Vua vâng làng này đi đánh cá sông
Đánh hòa cho được cá kình cá thú
Vua vâng làng này đi trồng bầu trồng đỗ
Quả bầu bằng cả nồi hổ
Quả đỗ dài bằng thước năm…
[Nhập tịch- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Rõ ràng nội dung mà hát Xoan phản ánh ở đây là khấn nguyện các thần
linh cũng như vua (thành hoàng làng) cả về vâng làng vâng chạ. Tín ngưỡng
thành hoàng làng là một tín ngưỡng truyền thống của người Việt. Đó là sự thờ
tế một vị thần của một cộng đồng người định cư trên một địa vực nhất định.
Với các cộng đồng du canh du cư hẳn chưa thể có tín ngưỡng thành hoàng làng,
tín ngưỡng có thể ra đời cùng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước.
Ngoài ra đến với hát Xoan ở xã Hy Cương chúng ta sẽ được thưởng thức
những bài Xoan mang dấu ấn của một tập tục văn hóa riêng biệt. Chẳng hạn
như phong tục mời rượu trong đám cưới nơi đây được thể hiện qua hát Xoan
32
mà nghệ nhân ghi chép lại được rất độc đáo:
Ngày vui mời chén rượu này
Nâng ly ta cạn không say không về.
Chúc nhau sức khỏe tràn trề
Giàu sang phú quý đi về có nhau.
….………..
[Mời rượu đám cưới- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen]
Đây là nội dung chủ yếu, là đặc trưng của hát Xoan nơi đây phản ánh
những phong tục, tín ngưỡng bình dị hiện diện trong giao tiếp cũng như cách
mà người dân tưởng nhớ vua Hùng vào mỗi dịp lễ hội, hay trong những phong
tục hết sức đời thường như mời trầu, mời nước chè, hay phong tục cưới hỏi.
2.1.2. Hát Xoan phản ánh ước mơ, niềm lạc quan của người lao động
Cứ mỗi độ Tết đến xuân về, người dân quê hát Xoan lại nô nức đón chờ
làng vào hội với tiếng hát Xoan bay bổng ngọt ngào. Sau một năm lao động nhọc
nhằn vất vả, người ta được đến với hội Xoan, được xem và nghe hát Xoan để
quên đi mọi nỗi lo toan đời thường. Mỗi làn điệu Xoan thấm sâu vào tâm hồn,
đưa người ta đến với những ước mơ bay bổng, ước mơ về một cuộc sống đủ đầy
hạnh phúc. Cùng với những mơ ước lạc quan của các tầng lớp trong xã hội, hát
Xoan còn đem lại một đời sống tình cảm phong phú, chân thực cho người lao
động. Một bộ phận lớn của Xoan là những câu hát giao duyên nam nữ. Tình yêu
trai gái của người lao động hết sức mộc mạc nhưng không kém phần tha thiết và
chứa đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với các tiết mục chứa đầy mơ ước lạc quan
và nội dung trữ tình giao duyên với niềm vui trong sáng, tính chất lãng mạn, hát
Xoan thực sự đem lại cho người xem một cuộc sống tinh thần phong phú, lạc
quan yêu đời. Đó cũng chính là một trong những điểm khiến Xoan đi vào lòng
người và sống mãi trong cộng đồng dân tộc.
Hát Xoan là tài sản tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó được
bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với phong tục,
33
tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Hát Xoan thể hiện ước
nguyện thỉnh cầu của người nông dân đối với các bậc Thánh, Thần cao siêu mà
họ quan niệm rằng đó chính là các bậc cai quản, ban phát sự may mắn, phong
lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền với vận mệnh sống còn của họ. Hát Xoan
còn là tiếng nói tình cảm thể hiện tâm tư tình cảm, nguyện vọng và ước vọng,
là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng đồng và quan hệ trên - dưới là mối quan
hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt địa vị sang - hèn và giàu - nghèo. Hát
Xoan Hy Cương nói riêng, hát Xoan Phú Thọ còn mang nhiều giá trị văn hoá
truyền thống cổ xưa bởi yếu tố âm nhạc, điệu múa, hình thức trình diễn bao
hàm ý nghĩa nhân văn, nhân bản của người nông dân vùng trung du Phú Thọ,
đó là ca ngợi cuộc sống lao động đầy khó khăn vất vả thông qua các hoạt động
nghề nghiệp tiêu biểu, khá điển hình của nhà nông trong lịch sử dựng nước và
giữ nước như: Ngư (đánh cá); Tiều (kiếm củi ); Canh (nghề cửi canh dệt vải);
Mục (chăn trâu, cắt cỏ); xe chỉ, vá may... của các thế hệ người dân Đất Tổ đã
trải qua và được dân gian hoá bằng hình thức nghệ thuật truyền thống chứa đầy
bản sắc văn hoá của người dân vùng trung du mà không nơi nào có được. Hát
Xoan Phú Thọ còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn khác về tình cảm và mối
quan hệ gắn bó giữa những người nông dân quanh năm “một nắng, hai sương”
với thiên nhiên thông qua hình thức trình diễn hát quả cách để biểu cảm ước
muốn, nguyện cầu thiên nhiên như: Tứ mùa cách; Xuân thời cách; Hạ thời cách;
Thu thời cách; Đông thời cách.
Chẳng hạn trong bài Xoan sau:
Làng này đóng đám ơ cho được quan sang
Văn a thời áo đỏ ơ võ ngai vàng có sống hỡi là lâu
….………..
[“Nguyễn Thị Sen- Trong bài Đóng Đám”]
Đó là tinh thần lạc quan, có niềm tin vào cuộc sống và theo người dân nơi
đây hát Xoan là một phần phản ánh tâm tư cũng như mong ước của họ về một
cuộc sống yên bình, mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hòa. Hơn nữa họ luôn tin
34
rằng ở hiền sẽ gặp điều lành, điều tốt và học hành thành đạt sẽ có ngày làm quan.
A á Kiều Giang Cách
Kính lại trình làng, điểm trống ra tang
Lẳng lặng mà nghe, tôi giáo Kiều Giang một cách
….
Giầu têm mà đệm vàng, cung têm mà đệm ngọc
Chén nước í a vò xanh
Kén được ngày tốt í a ngày lành
[“Nguyễn Thị Sen- Trong Kiều Giang Cách”]
Hát Xoan là lễ tục của một xã hội nông nghiệp. Nội dung tín ngưỡng, ca
ngợi thần linh, ước mong cuộc sống no đủ, ca ngợi thời tiết bốn mùa… Trong ca
từ đều xoay quanh cây lúa - thành quả lao động sản xuất nông nghiệp của người
nông dân. Các quả cách có nội dung về lao động sản xuất là sự phản ánh hiện thực
xã hội đương thời; cuộc sống làm ăn, các nghề: Săn bắn, đánh cá, hái củi, làm
ruộng, dệt vải, trồng bông, trồng đậu, may vá, canh cửi... Thông qua câu hát ta có
thể hiểu được thực trạng nền kinh tế xã hội của một thời kỳ lịch sử nhất định.
Các quả cách có nội dung về sinh hoạt xã hội đã diễn tả thực tiễn xã hội;
bởi vậy có những khuynh hướng khác nhau: Tôn thờ và tín ngưỡng (tôn thờ tự
nhiên xã hội và lễ giáo phong kiến).
Các quả cách có nội dung diễn tích nghĩa có nội dung đề cập trực tiếp
đến lịch sử, các câu chuyện đã qua, các sự tích về sự vật hoặc nhân vật lịch
sử… Trong nội dung này Xoan ca phô diễn trực tiếp, nói thẳng về sự tích ấy
mà không lồng ý kiến bình luận của người đương thời hoặc diễn không trực
tiếp là nhân kể về sự tích ấy nhưng có lồng ý chủ định, chủ quan của người
đương thời để giáo dục đạo lý, nhân cách cho mọi tầng lớp trong xã hội.
Các quả cách kể về lịch tiết: Tứ thời tiết lập, Xuân, Hạ, Thu, Đông về cơ
bản là sản phẩm của văn chương bác học. Cảnh vật thiên nhiên 4 mùa trong con
mắt kẻ sĩ (các nhà Nho) đã luôn tươi đẹp lại được thi vị hóa, được lồng với cảm
xúc hoài niệm để câu hát Xoan toát lên phong độ nhàn tản. Mỗi quả cách khi
35
diễn xướng đều
Kiều Giang cách: Là một áng thơ Nôm kể về sự tích công chúa Kiều Giang
thời Hán Vũ Đế; xinh đẹp nết na, có tài ca hát. Nàng bẻ giát giường làm phách để
gõ và hát theo. Tiếng hát của nàng đã làm cho vua cha khỏi bệnh, sống trường thọ,
bách niên giai lão. Kiều Giang cách còn là lời cầu chúc cho Vua, cho Thần Thành
hoàng làng và cho toàn dân làng xã luôn được an khang, thịnh vượng.
Vua là đại vương
Chào nhà thục y
Hỡi á thần nông
Có thần hà bá
[Kiều dương cách- tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]
Tứ dân cách: Là bài hát ca ngợi 4 ngành nghề đã phát triển rất sớm ở Việt
Nam; đó là Sĩ (giới chữ nghĩa học hành khoa cử); Nông (nghề làm ruộng, chăn
tằm, dệt vải, đánh cá); Công (nghề đóng thuyền, làm mộc, rèn đúc công cụ sản
xuất); Thương (nghề buôn bán, chợ búa, trao đổi sản vật). Thông qua đề tài này ta
có thể hình dung được cuộc sống lao động với những sắc thái và dáng vẻ riêng của
từng giới trong xã hội nông nghiệp. Nổi bật trong các tầng lớp ấy là kẻ sĩ. Trong
gia đình và trong xã hội, kẻ sĩ luôn ở vị trí cao hơn các tầng lớp nhân dân khác.
Thuyền chèo cách: Là bài hát thể hiện ước vọng của những người làm
nghề chài lưới trên các dòng sông: Sông Lô, sông Thao, sông Chảy. Họ ước ao
bắt được những con cá quý như cá măng, cá vược để dâng lên thờ Vua và thờ
Thành hoàng làng nhằm cầu mong Vua cùng Thần ban phúc lộc cho.
Ngư tiều canh mục cách: Là bài hát ca ngợi 4 nghề nông: Ngư (đánh cá),
Tiều (kiếm củi); Canh (cày bừa, cấy hái); Mục (chăn thả gia súc). Nội dung quả
cách này ca ngợi cuộc sống tự do, phóng khoáng, không gợn chút bụi trần ai
của những người nông dân sống chết với ruộng đồng, núi rừng, sông suối, đầm
ao. Thực tế đây là những công việc của nhà nông được cụ thể hóa bằng lời ca,
khúc hát của nhân dân lao động.
Đối dẫy cách: Là điệu hát khấn nguyện, đi tìm người thương nhưng mãi
36
không thấy người, chỉ thấy vầng trăng giống như cái lược của người con gái
thường hay cài ở đầu và chỉ thấy “Rầu rầu dõi tiếng chuông thôi; Đôi hàng
nước mắt cảm ai đượm lòng”.
Chơi Dâu cách: Là điệu hát vui chơi của trai gái trong ngày hội chùa Dâu
(mùng 8-4 âm lịch) rồi nhân chuyện ấy, sự tích ấy mà dạy bảo về đạo lý làm ăn
cho con trai, con gái.
Tôi chào vua bà
Trẩy đi ngàn ngạt
Đã chật hết đường
Nó hết hai hàng kiệu tán
Nó hết hàng đạn hàng cung
[Chơi dâu cách- tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]
Hát quả cách xuất hiện sớm nhất bắt nguồn từ lao động nông nghiệp hình
thành, có trước cả thời Hùng Vương dựng nước. Hát quả cách đa dạng và
phong phú phản ảnh trong lao động thuộc các ngành nghề khác nhau. Theo
thống kê chưa đầy đủ đã có 15 quả cách, đó là: Nhàn ngân cách, tràng mai cách,
xoan thời cách, mục đồng cách, đồng dẫy cách, hồi liên cách, tứ mùa cách,
thuyền chèo cách, từ dân cách, chơi dân cách, kiều giang cách…
Hát Xoan Phú Thọ là một hiện tượng của văn nghệ dân gian nói chung
và của người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc bộ nói riêng, là sản phẩm văn hóa
đặc sắc của người nông dân vùng đất Tổ, nó ra đời và được nuôi dưỡng trong
môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường kinh tế - xã hội có lịch sử từ thời
đại các Vua Hùng dựng nước Văn Lang, khi cộng đồng người Việt biết khẩn
hoang trồng lúa nước và định cư trên đất Tổ Phong Châu thuộc vùng trung lưu
châu thổ sông Hồng. Môi trường kinh tế sản sinh và nuôi dưỡng hát Xoan là
nghề trồng lúa nước kết hợp với khai thác lâm sản (hái củi), săn bắn, đánh bắt
cá trên hồ đầm, sông suối, khe ngòi... và canh tác trồng cây tạp giao trên đất
37
vườn chủ yếu là cây lương thực và cây ăn quả.
2.1.3 Hát Xoan phản ánh tình yêu lứa đôi
Hát Xoan Phú Thọ (hay hát Xoan Hy Cương) cũng phản ánh đời sống
tinh thần phong phú thông qua các hoạt động lễ hội dân gian với hình thức hát
đối đáp nam nữ giao duyên như Xin huê, đố chữ, hát đúm, hát bỏ bộ... Hát
Xoan còn đề cập đến mối quan hệ xã hội giữa các làng, chạ với nhau thông qua
tục lệ hát nước nghĩa giao lưu giữa các làng có Đình thờ Thành hoàng làng với
nhau trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc. Mối quan hệ rất nhân văn ấy
đã được thể hiện qua làn điệu trong Hát Xoan như: Hát đón Đào; Hát mời rượu;
Hát nước nghĩa; Hát giã bạn... được thể hiện rất rõ trong Hát Xoan Phú Thọ.
Chúng tôi xin trình bày một số nghiên cứu, nhận xét về tính nhân văn thể hiện
trong lối hát Mời rượu của Hát Xoan Phú Thọ.
Trong lời hát của làn điệu Mời rượu có 3 khổ lời ca để hát. Nhiều người
cứ nghĩ đây chỉ là lối hát mời rượu của các Đào, Kép Xoan được dùng trong
các cuộc hát nước nghĩa với các cửa Đình thuộc các làng, chạ khác. Nhưng đi
sâu tìm hiểu thì nhận định ấy có phần chưa được đầy đủ bởi mỗi khổ hát có lời
ca khác nhau, thể hiện ý nghĩa, nội dung khác nhau chứ không chỉ có mời rượu!
Điều này chỉ đúng với khổ hát đầu:
“Tay tiên nâng chén (ối, a) (ố mấy) đào, rượu đào;
(Ố mấy rằng) đổ ra (đi) đổ ra (thời, thì) tiếc, uống vào (thời, thì) uống vào
Uống vào (thời, thì) say, ố mới say, tình say”.
[Mời rượu- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Nhưng đến khổ hát thứ hai thì lời ca đã thay đổi và đương nhiên, ý nghĩa
của lời ca cũng khác với lời chào, mời rượu ban đầu khi mới gặp mặt nhau.
“Đố ai quét sạch (ối, a, ố mấy) rừng lá rừng.
Ố mấy rằng để ta (để ta) khuyên gió, (ố mấy đừng), đừng gió đừng.
Gió đừng rung cây, (ố mấy ru) tình ru”.
[Mời rượu- Tuyển tập hát Xoan Phú Thọ]
Ý nghĩa của những lời ca ấy nói lên sự cần thiết phải duy trì mối đoàn
38
kết cộng đồng trong làng, trong chạ. Khuyên bảo nhau đoàn kết chặt chẽ để
chống lại " phong ba, bão táp" với mong muốn nếu có giận dỗi nhau thì cũng
chỉ như cơn gió nhẹ thoảng qua thôi chứ đừng có làm cho rụng lá, đổ cây, tan
rừng, đánh mất đi tình đoàn kết, gắn bó keo sơn đã có được từ xưa đến nay. Cố
gắng gìn giữ đừng để nó mất đi và tan hoang như những chiếc lá trong cơn gió
bão mà rừng cây phải gánh chịu.
Ở khổ hát thứ 3 thì lời ca như một lời nhắn nhủ trước khi tạm biệt, chia
tay, phản ánh tình cảm thiết tha, gắn bó đã nảy sinh từ tục hát nước nghĩa của
các đào, kép Xoan giữa các phường của các làng chạ kết nghĩa. Cuộc chia tay
ấy rất bị rịn với bao nỗi nhớ nhung sâu sắc và nhắc nhở nhau đừng bao giờ
quên nhau mà phải luôn nhớ đến nhau như “gừng cay” như “muối mặn”: “Tay
nâng chén muối (ối a) ố mấy gừng (gừng đĩa gừng) ố mấy rằng gừng cay, gừng
cay muối mặn (ối a) ố mấy đừng (đừng xin đừng) xin đừng quên nhau (ố mấy
ru tình ru, ố mấy ta ru hời)”. Có thể ví đây chính là lời hát chia tay “Giã bạn”
của các Đào, Kép trong các phường Hát Xoan Phú Thọ mà các thế hệ nghệ
nhân Hát Xoan đã cố ý gửi lại cho thế hệ tiếp theo bảo tồn và gìn giữ những giá
trị nhân văn quý báu đó. Mặc dù trong lời hát không có ca từ nào nói đến “Giã
bạn, chia tay, tạm biệt...” nhưng ý nghĩa của “gừng cay; muối mặn” đã nói lên
lời nhắn nhủ khi chia tay tạm xa nhau hãy luôn nhớ đến nhau, gắn bó sâu nặng
nghĩa tình như “gừng cay” như “muối mặn”. Có thể sau này các lối hát dân ca
của vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong đó có hát Quan họ Bắc Ninh đã kế thừa và
phát triển thành lối hát Giã bạn. Trong hát Quan họ trước khi chia tay giữa các
liền anh, liền chị bằng những ca từ thấm đậm âm hưởng đằm thắm, trữ tình.
Như đã đề cập ở trên, một diễn hát Xoan thường có 3 chặng. Ba chặng
hát có nội dung khác nhau, nhưng gắn kết vào một vấn đề: Đấy là ước nguyện
được sinh sôi, được giàu có và con đàn cháu đống.
Chặng đầu tiên là những bài hát mang tính nghi thức, khởi đầu một đêm
hát thờ, từ tiếng trống đến việc mời thần về tại vị và cuối cùng được khẳng định
39
rằng làng này chính thức vào đám. Chặng 2 là những bài hát quả cách, trong đó
chứa đựng những lời chúc phúc, tự sự tình yêu, tứ quý bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông, tự do hóa cuộc sống nông nhàn. Chặng 3 là những bài hát giao duyên,
với nỗi niềm khát khao hạnh phúc ví như xin huê, đố chữ, mó cá…
Có thể nói, trong 3 chặng, thì chặng hát giao duyên trong hát Xoan có
nhiều điệu hát như đón đào, bợm gái, hát đúm, mó cá, xin huê, đố huê, bỏ bộ…
Trong đó, điệu đi chơi bợm gái (đi chơi bạn gái) và điệu mó cá là những điệu
hát phồn thực nhất.
Nếu như điệu “đi chơi bợm gái” thể hiện tinh thần, sự khao khát giữa
những đôi trai gái:
“Đôi anh lại đây đôi em thết ơ thết trầu
Thưa làm sao em ngỏ túi trầu ra thết mấy hờ là đôi anh
[“Nguyễn Thị Sen- Kết bạn”]
Thì điệu mó cá thể hiện sâu sắc cho ước vọng sinh sôi, nảy nở ấy. Trong
điệu mó cá, các cô đào xoan vòng tay làm thành lưới, vây lấy các chàng trai
đứng giữa làm cá. Khi đã quay thành vòng tròn, các cô gái giả làm lưới vỗ tay
thách thức các chàng trai giả làm cá.
Các chàng trai muốn thể hiện mình là người bắt cá, chứ không phải thụ
động là con cá, vì vậy nên các anh chàng cá, thì lại biến thành các trai làng, và
nhảy ra vồ vào các cô đào, với các điệu hát hết sức phồn thực: Các cô đào cất
tiếng hát:
“Là vông, vông tập, vông tập, tầm vông
Là vông, vông tập, vông tập, tầm vông’’,
Các chàng trai hát đáp lại:
“Đánh cá bóng giăng, đôi ta đánh cá bóng giăng
Cá thời chẳng được dung dăng bắt đào
Đôi ta mò cá đầm đăng, cá thời không được tung tăng mò đào”…
40
[“Nguyễn Thị Sen- Mời trầu”]
Hát đón đào, xin huê, hát đúm… cũng là những làn điệu hát rất thú vị
trong chặng hát giao duyên. Vào ngày lễ hội, khi các phường xoan đi hát ở làng
kết nghĩa, các trai làng hào hứng, phấn khởi ra đón đào và hát rằng:
“Còn chưa có quai,
Trống quân còn chưa có quai,
Mời đào bưng trống rồi mai đến gần’’.
[“Nguyễn Thị Sen_ Trống quân”]
Còn hát đúm, là hình thức các chàng trai, cô gái cùng tham gia lễ hội, cô
gái cầm quả đúm (là một chiếc khăn, bọc trầu cau, và có những đồng tiền) hát:
“Đúm ơi, ta dặn đúm nghe,
Tìm nơi quần trắng, áo the, đúm vào
Đúm vào, người hỏi làm sao,
Em là quả đúm, em vào kết duyên”…
Hát rồi, cô gái nhằm vào một quan viên hoặc một chàng trai ném đúm,
người nhận quả đúm hát rằng:
“Đúm này anh đã thưa rồi,
Đào mà ném đúm đứng gần lại đây.
Đúm này là quả đúm tiên,
Đào muốn lấy tiền đào dịch lại đây.
Đào dịch lại đây, đào dịch lại đây,
Anh cầm quả đúm trao tay cho đào…”.
[“Nguyễn Thị Sen- Hát Đúm trao duyên”]
Cuối câu hát, chàng trai tiến lại phía cô đào, cầm tay và trao quả đúm
cho cô đào. Cứ như thế lần lượt các cô đào tiến ra hát đối đáp với các chàng trai
hoặc các quan viên.
Hát giao duyên là phần hát Xoan thể hiện tình cảm của con người với
con người bằng tình yêu, bằng trí tuệ đó là hát Bỏ Bộ, hát Huề, đố Huề, đố chữ,
41
hát Đúm và hát Bợm.
Hát múa Bỏ Bộ là múa hát minh họa muôn mặt của đời sống sinh hoạt
của người nông dân thể hiện những động tác, những công việc, thậm chí từng
công đoạn của công việc, nên lời hát đến đâu thì động tác múa trình diễn minh
hoạ đến đấy.
Hát Huề là hát đố chữ được hát liền mạch, liền khúc như Huê đố chữ là
những câu hát lắt léo để thử trí, thử tài, nhằm thôi thúc, khích lệ tinh thần hiếu
học. Thí dụ trong lời ca đó có câu:
“Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?
Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta?
Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa, việc nhà?
Anh đố em biết chữ gì thấy người qua mà chẳng chào?
[“Nguyễn Thị Sen- Đố chữ”]
Hát đúm là một nhóm người tập trung làm việc với một nhóm người kia,
có thể hát về công việc họ làm và kết quả đạt được khi mưa thuận, gió hòa là
gieo trồng đúng ngày, đúng vụ nên có được những vụ mùa bội thu.
Hát Bợm là hát tỏ tình giao duyên một nhóm nam, nhóm nữ, đi lễ, đi trẩy
hội, họ gặp nhau hai bên nam nữ thay nhau lúc đầu là hát thăm dò sau là hát tỏ
tình rồi hẹn hò. Từ đây sẽ có những cuộc hẹn hò đôi lứa riêng để nên vợ, nên
chồng. Bài khái lược diễn giải trên đây để chứng minh giá trị lịch sử văn hóa
của người Việt cổ nói lên tầm quan trọng giá trị nghệ thuật phong phú, sâu sắc
của hát Xoan trong đời sống cư dân nông nghiệp vùng đất Tổ cội nguồn. Hát
Xoan xuất hiện rất sớm, như các nhà khoa học ở các nước tiên tiến trên thế giới
đến nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã xác nhận.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan khẳng định, chặng hát giao
duyên như đón đào bợm gái là chặng sôi động và rất quan trọng trong phần hội
của hát Xoan. Chặng này có vai trò hấp dẫn cộng đồng cùng hòa vào hát múa
với các đào Xoan, đồng thời, đây cũng là chặng làm cho người ta luôn nhớ tới
phường xoan, đặc biệt là các nam thanh nữ tú, bởi đây là làn điệu mang tính
42
phồn thực, và cũng vì “có nam, có nữ nên mới nên xuân”. Đây cũng là chặng
hát mà các cô đào, các chàng trai trong làng mong muốn nhất mỗi khi vào hội,
thể hiện nỗi nhớ mong của các chàng trai với các cô gái.
Cũng theo nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan, chặng hát đón đào, đi chơi
bợm gái này làm không khí âm nhạc hát xoan thay đổi. Nếu trước kia các tiết
tấu, tiết điệu lối hát giống nhau đều đặn, thì đến chặng này nhịp điệu thay đổi,
rộn ràng, dồn dập hơn, làm cho không khí hát Xoan trở nên sôi động, vui vẻ vô
cùng. Đây cũng là chặng hát chứa nhiều tâm khảm, ước vọng, khát khao về tình
yêu, cuộc sống… vô cùng thú vị của các nam thanh nữ tú khi đi lễ hội. [Hát
Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của Phú Thọ - Đất Tổ Vua
Hùng, là dân ca nghi lễ, phong tục, là tiếng hát cửa đình, thể hiện lễ tục diễn
xướng, tế thần linh và đậm chất trữ tình”]
Một trong những yếu tố khiến cho hát Xoan lan tỏa mạnh mẽ là tục kết
nghĩa giữa các phường hát Xoan. Theo đó, khi các nghệ nhân đến các làng kết
nghĩa hát, sẽ dung nạp nhiều loại hình nghệ thuật của các quan viên và trai làng
sở tại vào trong nghệ thuật hát Xoan và làm cho các điệu hát Xoan ngày càng
phong phú, hấp dẫn, nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan đánh giá.
Còn nữa, tác giả luận văn thấy rằng ngay như trong khúc hát trao duyên
nhưng lời của khúc hát trao duyên ở xã Hy Cương có đôi điều khác biệt so với
hát Xoan chung của Phú Thọ.
Nếu như ở cuốn Tổng tập hát Xoan Phú Thọ - xuất bản năm 2016, ta bắt
gặp hình ảnh lời mời gọi làm bạn thân thương của chàng trai đối với cô gái:
Nàng bay sẽ bước
Xuống thuyền í a cùng anh
Nàng bay sẽ bước
Xuống thuyền í a cùng anh
Là hỡi í a thanh thay nhớ nguyệt í a đêm canh
Trăng tròn mà nghiêng miệng
Cái lược í a ở đầu í a tóc mai
43
[Trao duyên- Tổng tập hát Xoan Phú Thọ]
Thì đến với xã Hy Cương ta sẽ thấy lời Xoan cũng như nội dung mà
Xoan ở đây phản ảnh có đôi điều khác biệt mà chỉ ở đây mới có còn Xoan Phú
Thọ nói chung không có.
Gặp nàng anh hỏi đôi lời
Trước là làm bạn sau là người thương
Hỏi rằng nàng đã yêu ai
Để ta thưa mẹ ngày mai sang nhà.
[Trao duyên- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp]
Hát Xoan ở xã Hy Cương được coi là nơi gìn giữ và phát triển nét văn
hóa lâu đời của vùng đất Tổ và là nơi để truyền lại cho thế hệ mai sau vốn văn
hóa mà ông cha đã để lại, cùng với đó là nơi để quảng bá hình ảnh của vùng
đến du khách thập phương.
Điều đặc biệt hơn, Hát Xoan ở Hy Cương ngoài được hát vào mỗi dịp lễ
hội, mỗi dịp Tết đến xuân về còn được các nghệ nhân tổ chức hát vào mỗi
ngày rằm và mùng một âm lịch hàng tháng, và ngoài các nghệ nhân hát còn có
cả các em học sinh từ lớp một đến lớp năm của địa bàn tham dự và đây là hình
thức giữ gì và phát huy giá trị của hát Xoan. Địa điểm diễn xướng ở cửa đình,
nhưng còn hát ở trong đình. Ngày xưa trước cuộc hát Xoan, đào phường Xoan
thường hát Trống Quân với trai làng Đức Bác ở bến sông, trên đường làng đầu
đường làng, đầu đường làng rồi mới vào hát ở cửa đình. Một số làng lại có
những tư gia, sau khi nghe hát Xoan ở cửa đình thì lại mời phường Xoan về
hát ở nhà, nhưng không hát thờ mà chủ yếu nghe hát Phú ngâm ngợi những
bài thơ áng văn.
Những bài hát Xoan mà tác giả điền dã sưu tầm được chủ yếu phản ánh
về phong tục, lễ hội, về tình yêu lứa đôi, về cuộc sống sinh hoạt văn hóa của
người dân nơi đây. Phong tục ấy chỉ riêng xã Hy Cương mới có ví dụ như trong
44
đám cưới: phong tục mời rượu, mời nước, mời trầu, đón dâu, giao dâu,cũng
khác so với những địa phương khác. Ngay như hát Xoan phản ánh những sinh
hoạt hết sức đời thường giản dị mà chỉ có ở xã Hy Cương nói riêng mới có như:
chào ra về, mời rượu, mời nước trà xanh.
2.2. Nghệ thuật
2.2.1. Thể thơ
Hát Xoan cũng như một số các hình thái sinh hoạt văn hóa âm nhạc dân
gian khác của người Việt: Hát Dô, Hát Dậm, Hát Chèo Tàu, Hát Quan Họ, Ca
Trù… khởi đầu đều là lối hát tế thần(từ nhiên thần đến nhân thần) rồi từ dần
đến những yếu tố tín ngưỡng, tâm linh bớt đi (Quan Họ).
Lời ca trong hát Xoan được cấu trúc theo nhiều thể thơ. Lời Xoan thường
được thể hiện dưới dạng thể thơ song thất lục bát (2 câu 7, một câu 6, một câu
8), thất ngôn (7 tiếng), lục bát, lục bát biến thể, bốn tiếng, sáu tiếng đơn giản dễ
nhớ, dễ thuộc, dễ hát. Đặc biệt thể thơ lục bát được nghệ nhân nhân cung cấp
mà tác giả luận văn sưu tầm được chiếm ưu thế cao nhất, có lẽ vì thể thơ lục bát
là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu truyền
mà mang những ngọt ngào sâu lắng trữ tình cho người đọc người nghe. Ví như
trong bài Xoan “Chào ra về” dưới đây:
Thuyền son lại đậu bến son
Con chào các mẹ để con ra về
Con về đến tận Giang Khê
Con chào các mẹ ở lại con về còn xa
Con về đến chốn quê nhà
Con chào các mẹ con ra hẹn đò
[Chào ra về- Nguyễn Thị Sen]
Ở bài Xoan trên ta thấy thể thơ lục bát rất gần gũi với ca dao hơn thế
những hình ảnh trong bài Xoan cũng có nét tương đồng với ca dao, hình ảnh
con đò, bến nước gọi chúng ta nhớ đến câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
45
[Ca dao Việt Nam- Đỗ Bình Trị]
Thơ trong Hát Xoan bao gồm cả thơ dân gian và thơ bác học. Thể thơ 4
chữ là thể thơ cổ mà một số bài ở chặng hát nghi thức và trong 14 quả cách ta
đều thấy như:
“Vạn thần tất hưởng
Tôi mời vua cả
Người sang đất này.”
[“Nguyễn Thị Sen- Mó cá”]
Thơ lục bát, lục bát biến thể và song thất lục bát được sử dụng nhiều
trong cấu trúc lời ca Hát Xoan:
“Đường đi trên suối dưới khe
Đưa cố nhân long càng kiểu cách
Tưởng long sầu mọi mạch nhỏ to
Thương Xoan đêm những mà lo
Ngày nào được hợp nhỏ to kẻo phiền.”
[“Nguyễn Thị Sen- Trong Bỏ Bộ”]
Ngoài những thể thơ nói trên thì lời ca Hát Xoan còn có thể thơ tự do.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, những yếu tố ngoại lai đôi khi lấn lướt cái
gốc rễ, cội nguồn nguyên sơ, nhưng về cơ bản nội dung lời ca hát Xoan, đó là
hàng loạt những tiếng đưa hơi và những tiếng đệm vào câu hát. Những tiếng
đưa hơi và những tiếng đệm vào câu hát cũng tạo nên một số đặc trưng cho một
số thể loại thơ ca. Những tiếng đưa hơi thường dùng trong hát Xoan là ơ, a,i, ê
hê…Những tiếng đệm thường dùng trong hát Xoan là: tềnh là tềnh tang tềnh,
vông vông tầm, tênh tang tít tang tông… Những tiếng đưa hơi, tiếng đệm trong
hát Xoan hầu như không có nghĩa về nội dung lời ca, nhưng lại có tác dụng nối
nét nhạc cho liền ý, liền mạch hoặc để phát giai điệu, để tiếp nét nhạc này sang
nét nhạc khác.
2.2.2. Kết cấu
Thuộc loại dân ca cổ nhất và cùng quá trình tồn tại và phát triển, âm nhạc
trong hát Xoan chứa đựng những yếu tố từ giản dị nhất cho đến những bài bản,
46
làn điệu hoàn thiện và tinh tế.
Hát Xoan chủ yếu phản ánh phong tục thờ Thần linh, Thành Hoàng làng
và các Vua Hùng trước cửa đình nên nghệ thuật trình diễn của hát Xoan rất đơn
giản, mộc mạc với sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, thơ, vè và giọng điệu
mang đậm dấu ấn thổ ngữ của địa phương vùng trung du Phú Thọ (dân ca). Lời
ca trong hát Xoan còn có sự kết hợp với các điệu múa đơn giản chủ yếu bằng
đôi tay của các đào, kép đưa ra, thu vào, ngửa bàn tay, úp bàn tay, kết hợp với
việc sử dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu... Di chuyển trong hát
Xoan bằng đôi chân chủ yếu theo hàng dọc hoặc hàng ngang và vòng tròn (mó,
giã cá) cũng đơn giản không phức tạp.
Hát Xoan hội đủ các yếu tố của văn nghệ dân gian bao gồm về tổ chức
Phường (họ); trình diễn theo hình thức đơn giản hát kết hợp với múa gắn với
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Đó là hình thức âm nhạc cổ truyền, kết hợp
được yếu tố văn hóa, văn học, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu
và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ qua
nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.
Lời hát Xoan được tạo nên bởi lối hát thơ, các ý thơ câu thơ khổ thơ tạo
nên các kiểu cấu trúc. Cấu trúc các bài, làn điệu Hát Xoan khá đa dạng bao gồm
các dạng cơ bản sau: Khởi thuỷ là lối hát truyền cầu cúng, nên Hát Xoan có một
dạng cấu trúc âm nhạc phụ thuộc thuộc vào lời của bài văn, hay bài thơ được
trình bày bằng kiểu vừa nói vừa hát. Những cấu trúc này là cấu trúc khổ nhạc hát
nói. Các bài ở chặng nghi thức trong Hát Xoan như Giáo trống, Giáo, Giáo pháo,
Thơ nhang có cấu trúc khổ nhạc hát nói. Các câu trong khổ nhạc hát nói thường
giống nhau lặp đi lặp lại. Độ dài, ngắn của lời hát nói phụ thuộc vào nội dung thể
thơ 4 hoặc 5 chữ (từ) hoặc thể thơ tự do có thêm các tiếng đưa hơi, tiếng đệm.
Dạng cấu trúc thứ hai trong Hát Xoan là cấu trúc khổ nhạc đơn. Khổ nhạc đơn
gồm nhiều câu nhạc, mỗi câu ứng với một câu 6 chữ, câu thơ 8 chữ của thể thơ
lục bát hoặc lục bát biến thể. Dạng cấu trúc thứ ba trong Hát Xoan là cấu trúc 2
47
khổ đơn thường là do sự phát triển của cấu trúc khổ nhạc đơn mà ra.
Có thể thấy rằng, hát Xoan Phú Thọ là loại hình dân ca nghi lễ nên Xoan
không có hình thức hát thi với đối giọng(làn điệu) như Quan họ, đối ý, đối lời như
hát Ví, Trống quân mà chỉ là thi thuộc bài bản và thanh xướng. Hát nghi lễ phải có
quy tắc, khuôn khổ cho nên nó hạn chế ứng tác, sáng tác ngẫu hứng, sáng tác ứng
chiến của nghệ nhân theo yêu cầu đột biến so với Quan họ và hạn hẹp lời so với
Ví. Hát Xoan nghi lễ là khuôn khổ cố định không thể vượt ra ngoài.
Ngoài ra, trong hát Xoan cũng có kết cấu đối - đáp với hình thức hỏi-
đáp mang với những bài hát Xoan giao duyên. Ra đời trong hoàn cảnh đối đáp
giao duyên nam nữ trong môi trường lao động hay khi vui chơi hội hè nên
trong hát Xoan thể hiện tình yêu nam nữ có phần lớn những lời Xoan là lời
đối thoại của người nam và người nữ, gồm có hai vế đi song hành với nhau.
Hình thức thông thường nhất là câu 6-8 đối của giới này và câu 6-8 đáp của
giới kia. Có khi đó là lời trao đổi chuyện trò của hai bên nam nữ. Có khi đó là
câu hỏi của bên này và câu đáp của bên kia. Cũng có khi bên này ra câu đố
cho bên kia trả lời... Đa phần những câu Xoan này thường có nội dung dí dỏm,
hài hước. Nhìn chung dù ở hình thức đối thoại như thế nào đi nữa thì nội dung
của những câu Xoan này cũng ý nhị, dễ thương, khiến người nghe có thể mỉm
cười nhẹ nhàng hay cười to sảng khoái xua tan những mệt nhọc ngày thường.
Chẳng hạn như:
Đôi ta đánh cá bóng giăng,
Cá thời chẳng được dung dăng bắt đào/
Đôi ta mò cá đầm đăng,
Cá thời không được tung tăng mò đào”
Hay:
“Đúm này anh đã thưa rồi
Đào mà ném đúm đứng gần lại đây
Đúm này là quả đúm tiên
48
Đào muốn lấy tiền đào dịch lại đây
Xin mời đào dịch lại đây
Anh cầm quả đúm trao tay cho đào”
[ Hát Đúm trao duyên- Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp]
Và hát Xoan là hình thái sinh hoạt văn hoá âm nhạc dân gian, được hình
thành bởi xúc cảm thiêng liêng trong đời sống tâm linh của người Việt vùng Phú
Thọ. Nằm trong tổng thể nguyên hợp của một hiện tượng folklore, nhịp điệu hát
Xoan cũng như các thành tố khác của hát Xoan đều có mối tương quan logic.
Với những bài ở chặng nghi thức: Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang và các bài
có gắn với múa minh hoạ như: Bỏ bộ, Đánh cá, Bợm gái nhịp điệu mạch lạc,
khúc triết. Nhịp tương ứng với loại nhịp 2/4 được sử dụng rất nhiều trong âm
nhạc hát Xoan. Loại nhịp tương ứng hỗn hợp cũng có xuất hiện (Thơ nhang,
Đóng đám) nhưng số lượng ít. Những bài hát ngâm ngợi (Gài hoa, Hát phú) nhịp
tự do. Một đặc điểm khá tiêu biểu trong nhịp điệu hát Xoan là kiểu nhấn lệch, sử
dụng ở nhiều bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Xin hoa- đố chữ.
2.2.3. Ngôn ngữ
Về ngôn ngữ, nội dung ngôn ngữ của hát Xoan vừa mang tính dân dã,
vừa mang tính bác học của các nhà Nho với các bài thơ phản ánh thiên nhiên,
phản ánh cuộc sống lao động và đặc biệt là sự thể hiện lòng thành kính với các
vua Hùng và thần linh có công bảo trợ cho cuộc sống của dân làng.
Ngày xưa, người các vùng không có hát Xoan đến với vùng hát Xoan
thường có nhận xét: "Người hát Xoan nói như có văn có sách". Ngôn ngữ của
người Hát Xoan là một ngôn ngữ giàu chất thi ca của ca dao, tục ngữ, truyện nôm.
Ví dụ nói:
“Bây giờ gặp mặt nhau đây mà cứ ngỡ như là chuyện chiêm bao... ”
Câu nói này khiến ta liên tưởng đến những chữ đã dùng trong 2 câu thơ
truyện Kiều:
“Bây giờ gặp mặt đôi ta
49
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ”
Ví dụ nói để khen bạn: “Thưa anh Hai, anh Ba... thật là thơm cây, thơm
rễ, người giồng (trồng) cũng thơm, đấy ạ! ”.
Câu nói này khiến ta nghĩ ngay đến câu ca dao:
“Người như hoa quế thơm lừng
Thơm cây, thơm rễ, người giồng (Trồng) cũng thơm. ”
Ngôn ngữ giao tiếp của người hát Xoan tuy mềm mại, khéo léo, tinh thế,
nhiều khi bóng bẩy, lững lờ... nhưng không gợn lên những ẩn ý dối trá, lừa lọc
mà đậm đà tình người, sự tôn trọng giữa người và người luôn hướng tới sự giàu
đẹp, của ngôn ngữ. Vì vậy, người hát Xoan không thích, không chấp nhận sự
thô kệch, vụng về trong ngôn ngữ.
Cho nên, khi các em bé được các anh nhớn, chị nhớn hát Xoan rủ bọn để
luyện ca hát thì cũng hướng dẫn các em "học ăn, học nói, học gói, học mở" để
sau này giao tiếp trong hát Xoan. Người hát Xoan cũng rất coi trọng sự lịch
thiệp, thanh nhã trong mọi việc cử chỉ giao tiếp.
Từ việc đỡ ô, đỡ nón khi đón bạn, nâng cơi giầu (trầu) mời bạn, nâng
chén nước, chén rượu, đến dáng đi, dáng đứng, thế ngồi, cái miệng, đôi mắt, tư
thế khi chuyện trò cùng bạn.v.v.... gần như đều có chuẩn mực thế này là phải, là
duyên, thế kia là không phải, vô duyên.
Có những người, những nhóm hát hay, thuộc nhiều bài, nhưng cử chỉ
giao tiếp kém cũng không có nhiều bạn muốn hát cùng, muốn kết bạn, thậm chí
kết bạn rồi cũng lại nhạt dần rồi thôi.
Một chùm hoa bưởi đặt trong cơi trầu, một nhành hoa sói cài trên mái tóc nép
kín vào vành khăn hoặc dấu trong khăn tay... vốn là sự tinh tế của người hát Xoan.
Phong tục, lề lối trong hát hát Xoan là một hệ thống quy ước không
thành văn, không do một ai ban bố, nhưng, từ đời này qua đời khác, những quy
ước ấy lần lượt ra đời và được mọi người tuân thủ, tuy có những chi tiết khác
nhau nhưng mang tính thống nhất cao trong toàn vùng hát Xoan.
Hệ thống quy ước ấy được hình thành do những yêu cầu tồn tại, duy trì,
50
phát triển hoạt động ca hát hát Xoan, nhưng cũng chịu sự chi phối trực tiếp của
toàn bộ phong tục tập quán của cộng đồng dân cư vùng hát Xoan, trở nên một bộ
phận gắn bó khăng khít với toàn bộ phong tục tập quán của một vùng văn hoá.
Ngôn ngữ thi ca trong lời ca hát Xoan đạt tới những thành tựu nghệ thuật
đặc sắc, độc đáo. Một ngôn ngữ khi thì mộc mạc đồng quê, khi thì trau chuốt
tài hoa nhưng bao giờ cũng giàu tính hình tượng, sâu đậm nghĩa tình. Ngôn ngữ
ấy đã thu hút nhiều tinh hoa của nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca dân gian, thơ ca
bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng với những giá trị nổi bật, góp phần tạo
nên những giá trị riêng của bài ca hát Xoan.
Ta có thể tìm hiểu một số thành tựu tiêu biểu của ngôn ngữ thơ ca trong
lời ca hát Xoan. Sự mộc mạc và sự trau chuốt. Có một số lời ca hát Xoan, nếu
tách riêng lời ca thành văn bản, thì bước đầu tiếp xúc, có khi ta chưa thấy hết
cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là cảm thụ theo góc độ thi ca thuần tuý.
Một ngôn ngữ đầy hình tượng, âm thanh: có cảnh, có tình, cảnh tình hòa
quyện và "bổng trầm, non nỉ..." âm thanh. Từ cảnh ấy, tình ấy, nổi bật lên con
người "tài trai" và "thục nữ", con người khao khát, đắm say vẻ đẹp của thiên
nhiên, của tình người. Cho nên, dù ngôn từ lời ca Quan họ được thể hiện trong
dạng mộc mạc, hoặc trau chuốt, bóng bảy, đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật cao.
Ðược như vậy chính vì người sáng tạo lời ca biết gạn lọc, lựa chọn ngôn từ ở
trình độ cao, có một trình độ tích luỹ, am hiểu sâu rộng về thơ ca dân gian và
cao hơn hết là sự rung cảm nghệ thuật tinh tế, chân thành.
Nếu nhìn về theo chiều dài lịch sử hát Xoan có kèm theo những khẩu
ngữ dân gian chẳng hạn như:
Buông câu bỏ lưới
Lướt thướt áo tơi
Kiếm củi lân la
Non xanh nước biếc
51
[Nghề kiếm củi- các bài xoan của nghệ nhân Nguyễn Thị Sen]
Cùng thời kì này có một bài ca Nôm là “Đắc thú lâm tuyền hành đạo
ca” viết theo lối thơ bốn chữ thường gặp ở thơ ca dân gian. Hầu hết các từ của
bài ca trên là từ cổ thuần Việt. Cách kể, lời thơ đã thoát khỏi thể cách quảng
vận phức tạp của Hán văn cùng thời
Sinh có thân nhân
Ấy là họa cả
Ai hay cộc dược
Mới rằng là đã
Tuần này mà ngẫm
Ta lại xá ta
[Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca- Thơ Nôm Việt Nam]
Từ ngữ và nhịp điệu của thể thơ ca dân gian này giống như cách kể trong
một vài quả cách: Ngư tiều canh mục, Nhàn ngâm, Kiều dương cách, … của
hát Xoan.
Chẳng hạn:
Kính lạy chiềng làng
Điểm trống gia tang
Vua cha mừng được
Nàng ấy tốt thay
Gọi là tiên nữ
Nàng ấy dóng dảy
Hơn cả Hằng Nga
[Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen sưu tầm]
Về mặt ngôn ngữ và thi pháp đã có nét gần gũi giữa thơ Nôm Lý - Trần
với một số bài quả cách của hát Xoan Phú Thọ. Tuy nhiên, đó chỉ là những ảnh
hưởng về hình thức biểu hiện qua việc kế thừa cách diễn đạt của dân gian, còn
những nội dung của hát Xoan thì không có dấu tích nào về tinh thần văn hóa
52
của thời Lý - Trần là ca ngợi Phật giáo và Thiền tông.
2.2.4. Diễn xướng hát Xoan
Môi trường, không gian diễn xướng
Có thể nói sự gắn kết giữa hát Xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương là hết sức độc đáo. Lịch sử ra đời và phát triển của hát Xoan, từ tên gọi,
nguồn gốc ra đời đều gắn chặt và hòa quyện với các truyền thuyết liên quan tới
thời Hùng Vương; lối trình diễn, sắp đặt các bài bản, các chặng hát cũng tuân
thủ theo các nghi thức hát thờ các Vua Hùng một cách thành kính; các lời ca
Xoan mang ý nghĩa chúc tụng, ca ngợi công đức các Vua Hùng xuất hiện trong
nhiều bài bản Xoan, xuyên suốt từ chặng hát thờ cho đến phần hát hội. Đặc biệt,
hát Xoan được thực hành trình diễn ở các di tích đình, đền, miếu thờ tự Hùng
Vương. Đó chính là không gian diễn xướng - không gian văn hóa đảm bảo sức
sống bền vững của di sản hát Xoan. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hát Xoan và Tín
ngưỡng Hùng Vương đã tạo nên sức sống mãnh liệt để hai di sản cùng song
song tồn tại, phát triển vượt thời gian cho đến tận ngày nay. Việc ghi danh hát
Xoan Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là sự khẳng
định lại của quốc tế về giá trị hát Xoan và đóng góp cho sự củng cố các di sản
khác, trong đó có Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Hát Xoan gắn bó mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc, nhịp điêu thơ và nhịp
điệu nhạc, ý thơ và ý nhạc đều có sự thống nhất. Vì trước là hát tế thần, sau là
hát kỹ năng hát Xoan cũng đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật khá cao, với 4 tiêu
chí: vang, rền, nền, nảy. Như chúng ta đã biết địa điểm diễn xướng hát Xoan
khởi đầu là vùng đất thiêng (bãi cỏ ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, Việt Trì), nơi
vua Hùng dạy trẻ mục đồng ca hát. Hiện nay mỗi khi mở hội hát Xoan, dân
làng Phù Đức vẫn đến tế lễ ở bãi cỏ này. Về sau người ta xây miếu ở bãi cỏ
(vùng đất thiêng) gọi là “Miếu Lãi Lèn” các cuộc hát Xoan vẫn được hát ở
trước miếu Lãi Lèn. Khi có thiết chế đình làng địa điểm diễn xướng hát Xoan ở
cửa đình. Do đó hát Xoan còn gọi là Hát Lãi Lèn, Hát Cửa Đình. Hát Xoan là
53
sinh hoạt ca hát tập thể, người tha gia đông, hát ở không gian rộng nên tiêu chí
đầu tiên là hát phải vang. Tiêu chí hát vang trong hát Xoan không có nghĩa là
gào hay thét to. Khi tuyển đào, kép phường Xoan phải chọn người có giọng
khỏe và trong (không được khan), lúc hát vận dụng đẩy hơi thở làm âm thanh
vang lên trong vòm họng, ở hốc mũi. Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ
nhang là những bài ca khấn nguyện, hát theo kiểu hát nói. Bởi vậy độ âm vang
không những để nghe rõ mà còn thể hiện sự trang trọng, thần bí của giọng hát
trước khung cảnh trang nghiêm của cuộc tế lễ. Hầu hết các bài ở chặng thứ nhất
(nghi thức) và chặng thứ hai (14 quả cách) đều được trình diễn theo kiểu hát
nói. Những bài Hát phú, Gài hoa giai điệu mềm mại uyển chuyển, hát theo kiểu
ngâm ngợi nên tiêu chí quan trọng nhất là phải rền. Theo các nghệ nhân Hát
Xoan thì dền có nghĩa là âm phải liền nhau, hơi phải trường để ngâm nga
những bài thơ áng văn. Trên cơ sở của hát nói, hát ngâm ngợi lấy hơi sâu hơn
và không chỉ lấy hơi ngực mà còn lấy hơi ở bụng. để lượng hơi dồi dào hơn,
ngâm ngơi được trường hơi. Kỹ năng hát ngâm ngợi đòi hỏi phải mềm mai thể
hiện được tình cảm sâu lắng, trữ tình.
Cách thức diễn xướng
Theo nghệ nhân Sen cung cấp: “Hát Xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ.
Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành
phường. Đây là một tổ chức văn nghệ nghiệp dư của những người cùng làng,
phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau. Người đứng đầu một phường Xoan (hay
họ Xoan) gọi là ông Trùm. Ông Trùm là một người có kinh nghiệm về nghề
nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự.
Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng 15
đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân,
khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm đào, thắt lưng bao, dải yếm các màu, quần lụa,
đeo xà tích. Những làng có người đi hát Xoan này nước nghĩa với phường
Xoan và các phường Xoan cũng nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau thân thiết
như anh em, nhưng tuyệt đối đào kép Xoan không được lấy nam nữ thanh niên
54
của làng nước nghĩa”.
Trong ứng xử, phường Xoan hết sức trân trọng làng kết nghĩa. Cách ứng
xử này cũng được thể trong khi hát Hát đối đáp giao duyên tiêu chí hang đầu là
phải nền. Theo các nghệ nhân phường Xoan thì nền có nghĩa là nền nã lịch
thiệp. Nam nữ trong hát đối phải trân trọng nhau, thân ái, không đùa nghịch
chòng ghẹo. Nhả chữ phải rõ ràng rành mạch nhưng phải da diết đằm thắm.
Còn tiêu chí nảy trong Hát Xoan là những bài hát kèm theo múa như Giáo
trống, Giáo pháo hay Đánh cá phải vừa có âm vang, vừa nảy. Vang là phải
dõng dạc, nảy là mỗi câu phải dứt (ngắt).
Trong những bài trình diễn ở chặng hát hội của cuộc hát Xoan hát theo
kiểu hát xướng. Hát xướng là sự tổng hợp của hái kiểu hát nói và giọng hát ngâm
ngợi giống như hát khúc), lấy hơi phải nhanh hơn hát nói hát ngâm ngợi, lượng
hơi phải đủ để phù hợp với nhịp độ tương đối nhanh, linh hoạt của một số bài:
Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa, Đố chữ…Cách mở khẩu hình trong hát Xoan là phải
vừa phải, không quá to cũng không quá nhỏ, sử dụng môi và lưỡi linh hoạt để
làm rõ chữ. Sự đa dạng của các bài, làn điệu thuộc giọng lề lối và giọng ngoài lề
lối của Hát Xoan, bắt buộc đào kép phải có kỹ năng hát điêu luyện mới thực hiện
được các bài bản làn điệu với nội dung và tính chất khác nhau.
Qua việc trình bày ở trên cho ta nhận định một điều là hát Xoan là hình
thức sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc của người Việt ở Phú Thọ.
Hình thức diễn xướng
Hát Xoan được diễn xướng theo hình thức hát quả cách- đây là điểm đặc
biệt của hát Xoan Phú Thọ nói chung và hát Xoan ở xã Hy Cương nói riêng mà
không một loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian nào có hình thức này.
Có 3 hình thức diễn xướng hát Xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và
Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là
hình thức để nam nữ giao duyên.
Phường Xoan hoạt động như một đơn vị hoạt động nghệ thuật bán
chuyên nghiệp, do đó khâu tuyển chọn đào kép rất được chú trọng. Kép trong
55
phường Xoan không những là diễn viên hát mà còn là nhạc công có tay trống
tay phách điêu luyện. Đào phường Xoan phải đảm bảo có hai tiêu chuẩn nhanh
và sắc. Thiếu một trong hai tiêu chuẩn không được nhập phường. Khi đã có
chồng thường các cô đào không theo chồng đi hát nữa. Ngoài khả năng bẩm
sinh về thanh sắc, các cô đào được truyền kỹ năng về hát múa, được giảng dạy
cặn kẽ về các điển tích, được trau dồi bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức văn
học dân gian, âm nhạc dân gian và cả âm nhạc bác học.
Như một đơn vị nghệ thuật bán chuyên nghiệp, phường Xoan lưu diễn từ
làng này qua làng khác, mỗi làng sở tại đều có những yêu cầu riêng. Có làng
yêu cầu ngoài phần hát lề lối các cô đào cùng các chàng trai sở tại Hát Đúm
giao duyên. Có làng có những tư gia mời phường Xoan đến hát tại nhà, chủ yếu
là hát bài bản, làn điệu thuộc giọng ngoài như: Giọng Lý, Giọng Ru, Giọng
Phú…đây là bài bản làn điệu có âm điệu, lời ca và lối hát khác với Hát Xoan.
Nhất là giọng Phú, chỉ hát những điển tích của văn chương bác học: Phú Kiều,
phú Lưu Bình Dương Lễ, phú Thị Kính.
Với những yêu cầu của các làng sở tại thì từ trùm Xoan đến các đào kép
phải có một trình độ nhất định và khả năng văn hoá âm nhạc tương đối phong
phú mới đáp ứng được yêu cầu.
Hát quả cách là chặng tiếp theo trong quá trình diễn xướng của hát Xoan,
là lối hát cách hay trình diễn các quả cách. Hát quả cách là hát những bài hát
chúc Vua và những bài hát kể về lịch tiết, lịch sử, nghề nghiệp của cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước.
Chặng nghi thức: Phường Xoan thường đi hát ở các làng kết nghĩa, nên
phần nghi thức ông trùm phường cùng ông chủ tế làng s tại phải đứng trước
hương án của làng, chắp tay kính cẩn vái lạy các thần linh. Sau đó ông trùm
phường hát những lời thỉnh mời, được xướng theo kiểu vãi tế gọi là Hát Chúc,
nối tiếp bài Hát Chúc là bài Giáo Trống. Bài Giáo Trống do chú kép trẻ nhất
phường với chiếc trống nhỏ đeo trước bụng vừa múa vừa nhảy dẫn, phường
Xoan phụ họa phần diễn của chú kép trẻ, bốn cô đào ra trước hương án, tay
56
nâng quạt làm điệu bộ dâng hương, chân bước lên bước xuống, hát bài Thơ
nhang, Đóng đám… Nội dung chủ yếu của những bài hát ở phần nghi thức là
thỉnh mời, cầu xin các vi thần linh về dự lễ tế, che chở cho dân làng được an
khang, mùa màng tươi tố thiên hạ thái bình.
+ Chặng hát các Quả cách Hát cách hay trình bày các Quả cách là lối hát
các bài bản khá dài như bài văn hay bài diễn ca. Nội dung Quả cách miêu tả
cảnh đẹp thiên nhiên với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông hay mô tả cuộc sống của
bốn lớp người trong xã hội lúc bấy giờ: sĩ, nông, công, thương, hoặc kể lại
những chuyện xưa.
Hát cách gồm 14 bài bản được gọi là Quả cách và có tên gọi và được sắp
xếp trình diễn như sau:
Kiều Giang Cách.
Nhàn Ngâm Cách.
Tràng Mai Cách.
Ngư Tiều Canh Mục Cách.
Đối Dẫy Cách Xuân Thời Cách.
Hồi Liên Cách.
Hạ Thời Cách.
Thu Đông Cách.
Đông Thời Cách.
Tứ Mùa Cách.
Thuyền Chèo Cách.
Tứ Dân Cách.
Chơi Dâu Cách.
Cấu Trúc mỗi Quả cách gồm có ba phần: mở đầu là giáo cách, phần
trung tâm là đưa cách, phần kết thúc là kết cách. Về diễn xướng thì mỗi Quả
cách có nhiều vẻ nhưng cơ bản là hát ngâm và hát nói. Ông trùm phường
Xoan hay một kép ngồi ở giữa khoang đình vừa đánh trống phách vừa hát dẫn,
57
các cô đào đứng sau hát phụ hoạ bằng cách hát lai nguyên một câu hay một
đoạn vừa hát, có khi chỉ là những câu đưa hơi. Để nối các Quả cách theo trình
tự diễn xướng người ta thường dùng các câu láy: các bạn họ ta lấy quả làm
dậm, là hỡi dậm nào dậm ấy cho qua, hoặc cách ấy cho qua, hỡi ban chèo ta
giờ sang cách khác.
Gọi là “Quả cách” vì quả là một bài bản dài, một thiên, một áng văn, một
chương, một diễn ca… Còn cách là một lối hát, một bài bản cụ thể. Ở chặng hát
này khi hát một bài, với tên gọi - tiêu đề có thêm từ “cách” như: Kiều Giang
cách; Tràng mai cách; Nhàn ngâm cách; Ngư tiều canh mục cách; Đối dẫy cách;
Thuyền chèo cách; Hồi liên cách; Xoan thời cách; Hạ thời cách; Thu thời cách;
Đông thời cách; Tứ thời cách; Tứ dân cách và Chơi dâu cách.
Trong hát quả cách ở cuối mỗi bài thường có lời kết như:
“Cách ấy đã qua
Giở qua cách khác”
[“Quả cách- bài 1”- Văn hóa Việt Nam- Trần Văn Khê]
Trong cuộc hát tại đình làng, các quả cách có vị trí quan trọng; có lúc có
nơi đã chiếm vị trí trung tâm của cuộc hát. Theo PGS, nhạc sĩ Tú Ngọc, một
quả cách khi hát thường có bố cục làm 3 phần:
Giáo cách: Phần này chỉ do người dẫn cách (gọi là kép) - hát. Độ dài
ngắn không nhất định (có khi chiếm 1/3, có khi chiếm 1/2 bài hát).
Đưa cách: Trong diễn xướng nhiều khi được coi là phần trọng tâm, cốt
lõi của một quả cách. Ở phần này người dẫn cách hát một đoạn dài rồi các đào
đứng ở phía bên hát đệm theo (phần hát của các đào được coi là hát phụ họa, có
khi là lặp lại lời hát của kép dẫn cách; có khi phụ họa hát bằng lời mới).
Kết cách: Là phần kết thúc một quả cách. Phần này có khi chỉ là một câu
ngắn do các đào diễn xướng. Kết cách thực chất là một bố cục rất ngắn gồm các
tiếng đệm; đó là tín hiệu để báo hết một quả cách bằng một lời ca và là giai
điệu dùng chung cho tất cả các quả cách, dù cho đã có câu, chữ báo hết ở cuối
phần trên.
58
Trong 15 quả cách được thể hiện hát Xoan thành 4 nhóm bổ sung:
Nhóm thứ nhất là: Những quả cách kể về các nhân vật lịch sử đó là: Kiều
giang cách, hội liên cách và tứ dân cách.
Nhóm thứ 2 là: Những quả cách hát chúc các bậc thánh nhân tiên đế đã
được dân chúng tôn vinh là những người đem lại hạnh phúc thịnh vượng cho
muôn dân, đó là: Nhàn ngân cách, trùng mai cách, thuyền chèo cách.
Nhóm thứ 3 là: Các quả cách thể hiện những cảm xúc của con người
trước thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đó là: Quả cách xoan thời, quả
cách hạ thời, thu thời cách, đồng thời cách.
Nhóm thứ 4 là: Những quả cách miêu tả về 4 lớp người trong xã hội
nông thôn thời phong kiến thể hiện trên các nghề (dạy học, nghề nông, làm
ruộng, chăn tằm, đánh cá...): Đúc đồng, đóng thuyền, làm mộc, làm rèn và nghề
thương (người làm nghề buôn bán) được thể hiện các quả cách: Ngư tiểu cách,
canh mục cách, tứ dân cách, để thấy sự đa dạng và phong phú của quả cách.
Hát Xoan có 3 kiểu hát: hát nói, hát ngâm ngợi, hát xướng (giống như
hát ca khúc). Vì vậy giai điệu hát Xoan cũng có một số nét đặc trưng như sau:
Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang hát theo kiểu hát nói. Đặc
điểm của giai điệu hát nói là sự đồng nhất giữa dấu giọng của lời ca với giai
điệu. Lời ca của kiểu giai đoạn hát nói thường là thơ 4 hoặc 5 chữ hoặc biến thể
của của chúng. Các quãng trong kiểu giai đoạn hát nói không vượt quá quãng 8,
thường là từ quãng 2 đến quãng 5. Từng từ, từng chữ trong lời ca thường chỉ
ứng với một đến hai, ba nốt nhạc.Giai điệu không sử dụng nhiều nốt luyến láy.
Kiểu giai điệu hát nói mộc mạc giản đơn nhưng dõng dạc, khoẻ khoắn.
Những bài Hát phú, Gài hoa theo kiểu ngâm ngợi. Đặc điểm của kiểu
giai điệu hát ngâm ngợi thường mềm mại, uyển chuyển, nhịp tự do thể hiện
tình cảm trữ tình sâu lắng. Dấu giọng lời ca hầu hết đồng nhất với độ cao giai
điệu. Giai điệu của hát kiểu hát ngâm ngợi có nhiều nốt luyến láy hơn giai điệu
59
của điệu hát nói.
Trang phục, đạo cụ diễn xướng
Phường Xoan có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, có phương thức hoạt động
như một đơn vị hoạt động bán chuyên nghiệp. Bởi vậy hàng năm phường Xoan
thường trích một khoản thù lao thu nhập tù đi hát để mua sắm trang bi đạo cụ
và nhạc cụ. Khi đi hát các cô đào thường mặc váy sồi hay quần láng đen, áo tứ
thân, năm thân, (hoặc là bao xanh bao hồng), đầu vấn khăn nhung đen, hay
khăn mỏ quạ. Kép và những chàng trai làng tham gia trong cuộc hát Xoan, mặc
quần ống sớ màu trắng, áo the thâm dài tới đầu gối. Cổ quàng dải nhiễu điều,
đầu đội khăn hay khăn xếp đen. Trong quan niệm của phường Xoan, trang phục
khi đi hát phải đẹp, trang trọng không những biểu lòng tôn kính với thần linh
mà còn biểu lộ sự tôn trong của mình đối với dân các làng kết nghĩa. Đây cũng
là biểu hiện văn hoá ứng xử của phường Xoan.
Đạo cụ hành nghề của phường Xoan rất đơn giản, chỉ có quạt giấy với
một quyển sách chép đầy đủ 14 Quả cách chép bằng chữ Nôm.
Nhạc cụ của phường Xoan cũng rất đơn giản, chỉ gốm một trống nhỏ
bằng gỗ (thường gỗ mít già) hoặc cặp trống bịt bằng da trâu hoặc da bò, và một
cặp phách.
Tiểu kết
Qua phân tích ở trên có thể thấy hát Xoan vừa là sản phẩm, vừa là hiện
tượng văn hóa dân gian đặc trưng của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát Xoan là
một bản tình ca mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đậm đà bản sắc văn hóa văn
học dân tộc.
Cũng như các loại hình dân gian khác hát Xoan Phú Thọ là loại hình
nghệ thuật độc đáo và có ý nghĩa lớn trong nền văn học dân gian của Việt Nam.
Hát Xoan là một hình thức ca hát phát sinh từ lễ hội với dấu ấn tín ngưỡng thờ
vật tổ, thờ thần lúa, thờ thần lửa… ngôn ngữ, kết cấu và cách thức khởi nguồn
60
từ màu sắc văn hóa dân gian như những nghi lễ gắn với tín ngưỡng tôn giáo, lễ
hội, phong tục. Những lời hát trữ tình mộc mạc, vừa hát vừa phô ra vẻ đẹp của
lao động, của tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, đất nước đi sâu vào lòng
người. Chính sự giản dị gần gũi ấy đóng góp một phần giúp văn học dân gian
tồn tại bền lâu, tạo ra màu sắc riêng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam
61
so với văn học hiện đại.
Chƣơng 3
HÁT XOAN XÃ HY CƢƠNG VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC, GIẢNG DẠY
Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
3.1. Thực trạng hoạt động giáo dục và giảng dạy hát Xoan ở huyện Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Kết quả khảo sát công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh trung học
phổ thông ở trường THPT Lâm Thao và trường THCS xã Hy Cương, huyện
Tiếp tục giữ gìn, lưu truyền, phổ biến, phát huy cho thế hệ mai sau những
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
giá trị độc đáo mang tính xã hội, nhân văn, những phong tục, tập quán tốt đẹp
về Hát Xoan gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Nâng cao nhận thức và
lòng tự hào trong cộng đồng, trách nhiệm của các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa hát Xoan.
Việc đưa hát Xoan vào giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục, trải
nghiệm trong và ngoài nhà trường phổ thông đã trở thành một hoạt động
thường xuyên, hiệu quả, lan tỏa tới tất cả các em học sinh. Đây là một hoạt
động có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di
sản văn hóa hát Xoan của tỉnh Phú Thọ bước bảo tồn phát huy giá trị hát Xoan
trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ có một trường cấp 3
đó là trường THPT Lâm Thao. Đây là một ngôi trường có chất lượng giảng dạy
và học tập rất cao. Học sinh của trường đạt nhiều thành tích ở cấp thành phố và
quốc gia. Tuy nhiên, trường chưa chú trọng đến các hoạt động ngoại khóa cho
học sinh để nâng cao kỹ năng mềm và tạo ra một môi trường học tập năng động,
62
tích cực và vui tươi cho các em học sinh. Trong luận văn này, chúng tôi kết hợp
tổ chức khảo sát cùng tổ Ngữ Văn của trường thực hiện vào ngày 18 tháng 6
năm 2020 trong buổi hoạt động ngoại khóa cho học sinh về hát Xoan do kết
quả khảo sát nằm trong thời gian thực hiện luận văn. Số lượng học sinh mà
khảo sát tiếp cận được là 60 học sinh chia đều các khối lớp 10, 11 và 12 của
trường THPT Lâm Thao. Do ảnh hưởng của dịch Covid nên việc khảo sát số
lượng lớn hơn là rất khó. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một khảo sát định tính
dành cho học sinh bằng cách đặt các câu hỏi phỏng vấn và ghi chép lại các
phản hồi từ phía các em. Kết quả phỏng vấn thu được từ 10 học sinh là một
bằng chứng và cơ sở đáng tin cậy cho các đề xuất của đề tài.
Thứ nhất, đối với câu hỏi: “Bạn đã bao giờ biểu diễn hát Xoan trong các
hoạt động ngoại khóa ở trường chưa?”, câu trả lời được thể hiện qua bảng sau:
Biểu đồ 3.1: Tần suất biểu diễn hát Xoan của học sinh trường THPT Lâm Thao
Những con số trên thực sự biết nói. Kết quả trả lời câu hỏi này cho thấy
sự báo động đối với vấn đề bảo tồn và lưu giữ hát Xoan trong tương lai ở huyện
Lâm Thao nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung. Theo bảng, 92% tức là 55/60
học sinh được phỏng vấn cho biết, các em chưa bao giờ biểu diễn hát Xoan
63
trong các hoạt động ngoại khóa của trường.
Trả lời cho con số này, một học sinh lớp 11 được phỏng vấn cho biết:
“Em không biết hát Xoan và cũng không thích nhà trường biểu diễn hát Xoan
trong các hoạt động ngoại khóa. Lý do là vì hát Xoan là hình thức nghệ thuật
dân gian, rất khó học. Ngoài ra, hát Xoan cũng khó cảm thụ và không phù hợp
với không khí vui tươi, năng động của các hoạt động ngoại khóa cho học sinh.
Hát Xoan phù hợp với các lễ hội và hoạt động thờ cúng hơn”. Cùng quan điểm
với bạn học sinh này, đa số các em cho rằng, hát Xoan không mang tính giải trí
nên không thể sử dụng để biểu diễn trong các hoạt động ngoại khóa của trường
mà chỉ phù hợp biểu diễn tại các dịp lễ lớn của địa phương tại các đền chùa.
Một số rất ít còn lại cho rằng, hát Xoan là một nét văn hóa đặc trưng của
địa phương tỉnh Phú Thọ nên không thể phân biệt hoạt động lễ hội ở đền chùa
hay hoạt động ngoại khóa ở trường là phù hợp hơn để biểu diễn. Đây đều là
những học sinh được tiếp xúc với hát Xoan từ nhỏ do có người thân, ông bà, bố
mẹ hoặc cô dì chú bác tham gia các phường hát Xoan. Do đó, các em hiểu được
giá trị của loại hình nghệ thuật này và sớm yêu thích, tìm hiểu.
Thứ hai, khi được hỏi: “Theo bạn, hát Xoan có mấy chặng?”, câu trả lời
được thể hiện trong bảng sau:
64
Biểu đồ 3.2: Các chặng trong hát Xoan
Như vậy có thể thấy, đa phần học sinh biết về hát Xoan và lý thuyết cơ
bản của hát Xoan. Khi được phỏng vấn với câu hỏi “Đã bao giờ bạn thưởng
thức trọn vẹn một buổi biểu diễn hát Xoan chưa? Và cảm nhận của bạn như thế
nào?”, các bạn học sinh khi đã xem trọn vẹn một buổi biểu diễn đều cho rằng
nếu theo dõi cẩn thận từ đầu đến cuối sẽ thấy hát Xoan rất hay và thú vị. Mỗi
bài hát đều về một nội dung riêng, thấm nhuần tinh hoa văn hóa dân tộc. Nó
không chỉ thể hiện niềm lạc quan, ước thế, sinh hoạt đời sống mà còn là niềm
tự hào của người dân Việt Nam nói chung và Phú Thọ nói riêng.
Tiếp theo, một câu hỏi vô cùng quan trọng được đề cập trong Bảng câu
hỏi đó là “Trong các đề tài sau, đề tài nào mà bạn thích thú nhất trong hát
Xoan?” đã nhận được câu trả lời như sau:
Biểu đồ 3.3: Mức độ yêu thích các đề tài trong hát Xoan
Có thể thấy, đa số học sinh yêu thích các bài hát Xoan nói về sinh hoạt đời
sống của người dân Việt Nam như cày nông, sản xuất, sinh hoạt đôi lứa, yêu
đương, v.v. Khi được hỏi lý do thì các bạn trả lời rằng, các bài hát Xoan về đề tài
này thường có ngôn ngữ dễ hiểu hơn và giai điệu thú vị hơn các cách về sự tích
65
hay truyền thuyết xưa. Thiên nhiên cũng là một đề tài thú vị theo quan điểm của
các bạn và nhận được nhiều sự hứng thú. Riêng với đề tài sự tích, một phần do
sự không thích thú của nhiều học sinh đối với môn lịch sử nên các em thường e
dè trước các thể loại giải trí, văn hóa có nội dung về đề tài này do định kiến về
tính khô khan và khó nắm bắt của chúng. Đây cũng là một thực tế dễ hiểu và cần
có cách thức, lộ trình đối với vấn đề này để cải thiện quan điểm của học sinh đối
với hát Xoan thông qua cách tiếp cận đề tài phù hợp trước và sau.
Phỏng vấn lãnh đạo và giáo viên trường THPT Lâm Thao chúng tôi cũng
thu được một số kết quả đáng kể. Bà Nguyễn Thị Thu Lan Hiệu trưởng nhà
trường chia sẻ: “Hát Xoan có được nhà trường đưa vào trong công tác giảng
dạy giáo dục học sinh như thành lập các câu lạc bộ, đưa vào chủ đề của hoạt
động ngoại khóa trong nhà trường. Tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan mà
hát Xoan chưa thật sự hiệu quả trong môi trường THPT Lâm Thao” (Phỏng vấn
ngày 19.12.2019). Còn bà Vũ Thị Lan Anh tổ trưởng tổ Văn- Địa/ giáo viên bộ
môn Ngữ Văn trong trường chia sẻ: “Hát Xoan cũng đã được đưa vào giảng
dạy trong những tiết học Văn học địa phương nhưng có đến 90% các em học
sinh không hào hứng cũng như không thích bộ môn nghệ thuật này, đây là khó
khăn mà cả giáo viên cũng như lãnh đạo nhà trường đang gặp phải trong công
tác truyền dạy hát Xoan trong nhà trường” (Phỏng vấn ngày 19. 12. 2019).
Ở trường THCS xã Hy Cương, việc dạy hát Xoan trong các tiết học Âm
Nhạc Và Mỹ Thuật ở trường học đã được triển khai. Những ngày đầu đưa hát
Xoan vào giảng dạy, giáo viên âm nhạc của các trường cũng gặp không ít khó
khăn vì cả cô và trò đều bỡ ngỡ. Tuy nhiên, nhờ tích cực tuyên truyền và lựa
chọn phương pháp dạy phù hợp bằng cách cho các em xem, nghe các băng đĩa
hát Xoan, dạy những bài đơn giản, dễ nhớ trước rồi đến các bài khó nên sau
một thời gian, các học sinh đã hát được nhiều bài và tỏ ra rất hứng thú với loại
hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, để hát Xoan không bị mai một và giữ được đặc
trưng của nó, cần có sự đầu tư hơn nữa để các em học sinh dễ tiếp thu, học hỏi.
Ngoài ra, nhà trường cần tạo điều kiện để các em được tới xem các nghệ nhân
66
trình diễn Xoan trong không gian nghệ thuật của mình. Điều này giúp hát Xoan
giữ được bản sắc, tránh tình trạng truyền dạy một cách khô cứng. Cô giáo Tống
Thị Thu Hà- giáo viên âm nhạc ở Trường THCS Hy Cương cho biết, ở trường
hiện nay đã thành lập CLB hát Xoan với hơn 20 học sinh và duy trì dạy hát
Xoan trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa để truyền đạt cho các em niềm yêu
thích với những làn điệu Xoan, tự hào về di sản văn hóa của vùng đất Tổ.
3.1.2. Một số kết quả đã đạt được trong công tác giáo dục hát Xoan cho học
sinh phổ thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Từ năm 2016 đến nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã
phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức các lớp tập huấn hát Xoan cho
giáo viên dạy âm nhạc tại các trường tiểu học và THPT trên địa bàn nhằm nâng
cao ý thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ.
Theo đó, các học viên được chia thành 3 lớp, mỗi lớp 90 người sẽ được
học 08 làn điệu hát Xoan. Đối với các giáo viên dạy nhạc khối tiểu học sẽ học
các làn điệu: Tràng mai cách; Đối dẫy cách; Trồng bông luống đậu - Xe chỉ vá
may; Hát ru; Xẻ ván bắc cầu - dắt mẹ qua đèo - lên núi hái chè; Trèo lên cây
bưởi hái hoa - đường đi trên suối dưới khe; Đố huê; Mó cá. Các giáo viên dạy
nhạc khối THPT sẽ học 08 làn điệu: Hò chèo cách; ngư tiều canh mục cách;
Trống quân đón đào; Xin huê; Đố huê; Hát Đúm; Ngựa hồng - ai nhuộm cho
mình - mua lấy miệng cười; Mó cá.
Lớp tập huấn sẽ giúp cho các học viên biết sâu hơn về lịch sử, ý nghĩa
của hát Xoan, nắm được những kỹ năng cơ bản về nghệ thuật trình diễn hát
Xoan Phú Thọ để phục vụ cho việc tuyên truyền dạy cho học sinh trong các
trường tiểu học và trung học cơ sở.
Cũng trong khuôn khổ lớp học, Ban Tổ chức sẽ phát phiếu xin ý kiến đến
từng học viên để tiến tới biên soạn sách, đĩa CD làm giáo trình giảng dạy trong
các trường tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Mới nhất gần đây, trong quý IV/2019, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
dự kiến đã tổ chức 4 lớp truyền dạy hát Xoan, lớp đầu tiên diễn ra từ ngày
67
17/10 - 26/10 với các hoạt động hát, diễn, gõ trống, múa dưới sự hướng dẫn của
các nghệ nhân thuộc các phường Xoan gốc, các cán bộ, giảng viên, trợ giảng
thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Lớp học giúp đội ngũ giáo viên âm
nhạc trong các trường học trên địa bàn nắm được những kỹ năng cơ bản về
nghệ thuật trình diễn Hát Xoan để phục vụ việc truyền dạy cho học sinh bậc
Tiểu học và Trung học cơ sở.
Ở trường THPT Lâm Thao, nhà trường đã thành lập các câu lạc bộ hát
Xoan như: Khối lớp 10 có các câu lạc bộ như: Xoan kết bạn, Xoan đoàn kết. Khối
lớp 11 có các câu lạc bộ như: Xoan phong tục, Xoan lễ hội. Và khối 12 có các câu
lạc bộ như: Xoan tài ba, … với mục tiêu đề ra mỗi tháng câu lạc bộ này sẽ thực
hiện học hát Xoan 1 buổi. Ngoài ra, giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn trong
trường đã kết hợp đưa hát Xoan vào các tiết dạy văn học địa phương.
Ở trường THCS Hy Cương qua tìm hiểu tác giả luận văn được biết, nhà
trường đã rất chú trọng đưa hát Xoan vào giảng dạy trong chương trình bộ môn
Âm Nhạc và Mỹ Thuật mỗi tuần 1 tiết âm nhạc và 1 tiết Mỹ Thuật từ lớp 6 đến
lớp 9. Ở bộ môn Âm nhạc các em được học đó là học ca từ, lời bài hát, học
nhịp điệu và học cách gõ trống, phách của hát Xoan. Còn trong bộ môn Mỹ
Thuật các em được học cách vẽ trang phục, đạo cụ, vẽ những cảnh hội có liên
quan đến hát Xoan. Ngoài ra nhà trường đã tổ chức các câu lạc bộ về hát Xoan
cho học sinh từng khối hoạt động diễn ra thường xuyên hàng tuần vào thứ 7, cứ
chiều thứ 7 từ 4-6 giờ chiều các câu lạc bộ tập trung tại trường lần lượt biểu
diễn hát Xoan. Tuy nhiên ở tiết học Văn học địa phương thì hát Xoan lại chưa
được đưa vào giảng dạy mà tiết học Văn học địa phương của nhà trường lại dạy
về những sự tích hiện đang lưu truyền ở địa phương như: tên gọi làng Cổ
Tích, …. Các biện pháp mà nhà trường thực hiện có hiệu quả trong việc truyền
dạy hát Xoan cho các em học sinh dưới góc nhìn với Âm Nhạc Và Hội Họa,
giúp các em hiểu biết thêm về hát Xoan, còn hát Xoan trong mối quan hệ với
68
Văn học thì lại chưa được chú trọng nhiều.
3.1.3. Một số hạn chế trong công tác giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ
thông tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
Tuy địa phương và nhà trường đã khá chú trọng đến việc giáo dục hát
Xoan cho học sinh nhưng thực tế cho thấy các biện pháp được đưa ra chưa thật
sự hiệu quả. Hiện nay, tại xã Hy Cương có một câu CLB hát Xoan do nghệ
nhân Nguyễn Thị Sen làm chủ nhiệm, có 50 thành viên, các thành viên tham
gia sinh hoạt thường xuyên có 32 em, CLB hát Xoan của xã sinh hoạt vào các
buổi tối thứ bảy trong tuần và nghệ nhân Nguyễn Thị Sen là người sưu tầm,
truyền dạy. Theo chia sẻ của bà Lan- Hiệu trưởng trường THPT Lâm Thao thì
đối tượng tham gia chủ yếu là các em ở cả ba cấp học phổ thông, điều đặc biệt
là trong hoạt động này có hai em lớp 2 đang theo học, đối với các em HS trung
học phổ thông, vì đây là bậc học cuối cấp nên việc tham gia sinh hoạt gặp khó
khăn do phải chuẩn bị cho thi tốt nghiệp và thi Đại học. HS bậc THPT tham gia
chỉ tập trung ở hai khối lớp 10 và lớp 11.
Trong CLB có những em tham gia được 3 năm nhưng khi xây dựng gia
đình thì bỏ không tham gia. Vì vậy, vấn đề đặt ra là hiện tại xã đã có CLB
hát Xoan, thì việc thành lập CLB hát Xoan ở trường THPT Lâm Thao có cần
thiết không?
Để trả lời được câu hỏi này tôi đã tìm hiểu về các thành viên tham gia
CLB hát Xoan xã, theo chia sẻ của chủ nhiệm CLB, thì từ khi thành lập đến
nay thành phần tham gia chủ yếu là các em bậc học trung học phổ thông như đã
nói ở trên thì các em này tham gia được hai năm, năm cuối cấp do phải chuẩn
bị cho thi tốt nghiệp và thi Đại học nên không tham gia, với những em này khi
tốt nghiệp cấp ba có em đi học, đi làm và cũng không tham gia nữa. Các em
học trường THPT Lâm Thao tham gia có bốn em và đều là cháu của nghệ nhân.
Như vậy trong CLB hát Xoan của xã thì HS trường THPT Lâm Thao tham gia
rất ít, nên số lượng các em hiểu biết và hát được các làn điệu hát Xoan còn
69
khiêm tốn. Các câu lạc bộ Xoan của trường hoạt động theo hình thức tập trung,
mỗi câu lạc bộ gồm 7-10 học sinh,và mỗi tuần sinh hoạt 1 buổi vào chủ nhật
khoảng từ 4 giờ chiều trở đi. Tuy nhiên các câu lạc bộ này khi đi sinh hoạt
thường không đầy đủ và hoạt động mới chỉ dừng ở mức độ hình thức chưa thật
sự hiệu quả, chưa hiểu thật chi tiết về hát Xoan- loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian này.
Trong giờ dạy học Ngữ Văn có nói đến chủ đề hát Xoan thì học sinh
không hào hứng và không thích hát Xoan. Bởi lẽ, ở lứa tuổi các em trong mỗi
giờ Văn học địa phương các em sẽ thích nghe, thích học về các sự tích, các
truyền thuyết về Vua Hùng, về cái tên làng Cổ Tích hơn theo đúng với lứa tuổi
của các em. Đây là khó khăn cũng như trở ngại khi đưa hát Xoan vào giảng dạy
trong bộ môn Ngữ Văn ở trường THCS Hy Cương nói riêng và các trường phổ
thông trên địa bàn nói chung.
3.2. Đề xuất bổ sung một số hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ
thông ở huyện Lâm Thao, Phú Thọ
3.2.1. Cơ sở, nguyên tắc, quy trình
Từ thực trạng khảo sát ở trên có thể thấy rằng nguồn lực về hát Xoan ở
các trường phổ thông đều khá thuận lợi, có những học sinh am hiểu về hát
Xoan, đã được học từ gia đình hoặc được gia đình tạo điều kiện cho học tập với
các nghệ nhân trước đó. Các em có thể chính là cầu nối đưa hát Xoan vào trong
nhà trường. Bên cạnh đó, trong quá trình phỏng vấn trực tiếp Hiệu trưởng, phó
hiệu trưởng phụ trách cơ sở vật chất, Bí thư Đoàn trường của trường THPT
Lâm Thao, chúng tôi cũng nhận được sự đồng tình, ủng hộ đối với việc “điền
dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện chương trình phát thanh
tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường” tại trường THPT Lâm Thao, đã được
Tổ trưởng chuyên môn tổ Văn - Địa và Ban giám hiệu nhà trường đánh giá là
kế hoạch có tính khả thi và có thể thực hiện trong thời gian tới, bởi đó là một
trong những hình thức hữu ích để tạo được cho học sinh sân chơi bổ ích sau
70
những giờ học căng thẳng ở trường, lớp, giúp học sinh có được tinh thần đoàn
kết, sẻ chia, năng nổ, nhiệt tình hơn trong các hoạt động phong trào, các em
cũng rèn được sự tự tin để có thể trình diễn trước đông người.
Trái ngược với điều đó, nhu cầu của đa số học sinh đối với việc đưa hát
Xoan vào trong trường phổ thông là chưa cao. Hơn nữa, các lãnh đạo nhà
trường được phỏng vấn đều có ý kiến tích cực đối với đề xuất đưa hát Xoan
vào trong trường phổ thông để góp phần giáo dục học sinh. Theo ý kiến của bà
Nguyễn Thị Thu Lan - Hiệu trưởng/ giáo viên trường THPT Lâm Thao “Nhà
trường cũng đã tổ chức hoạt động ngoại khóa về hát Xoan cho các em học sinh
nhưng chưa được hiệu quả và trong năm học 2020-2021 này nhà trường sẽ đưa
ra những biện pháp có tính mới mẻ, đem lại sự hào hứng cho học sinh về hát
Xoan để giúp các em trân trọng, tự hào một nền văn hóa văn học tiêu biểu của
vùng đất Lâm Thao, Phú Thọ này”.
Qua kết quả khảo sát ở phần trên, có thể khẳng định rằng nhận thức của
học sinh trong nhà trường phổ thông Lâm Thao là còn thấp, số học sinh am
hiểu về hát Xoan, biết gõ trống, phách, thực hành diễn xướng hát Xoan còn rất
ít, tình yêu đối với hát Xoan trong học sinh ở các trường phổ thông cũng chưa
được chú ý bồi dưỡng. Điều đó sẽ dần khiến cho thế hệ trẻ thờ ơ với giá trị văn
hóa phi vật thể đặc biệt là loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng này ở địa
phương. Sự có mặt của hát Xoan tại các chương trình văn nghệ hay các hoạt
động trong trường học là còn ít, chưa có hiệu quả cao. Đó chính là thực tiễn
quan trọng cho chúng tôi đề xuất các hoạt động sau này.
Ngoài ra, giá trị, ý nghĩa của hát Xoan với đời sống tinh thần của người
dân xã Hy Cương nói riêng, và của tỉnh Phú Thọ nói riêng, nói chung là rất
quan trọng. Trong điều kiện xã hội phát triển như hiện nay, trước nguy cơ các
giá trị văn hóa phi vật thể bị mất đi thì việc đưa hát Xoan vào trong các trường
phổ thông là điều cần thiết để góp phần nâng cao ý thức từ những lứa măng non
71
của đất nước trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
Một cơ sở khác chính là định hướng nội dung giáo dục của chương trình
Giáo dục phổ thông 2018 đối với phần văn học địa phương. Văn học địa
phương là những sáng tác văn học của các tác giả trong một khu vực địa lý cụ
thể. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư ở một địa
bàn cư trú nhất định và mang bản sắc riêng, độc đáo có tính chất đặc thù của
vùng, miền, địa phương đó.
Môn Văn học địa phương đã được đưa vào giảng dạy ở cấp trung học cơ
sở trong hệ thống giáo dục phổ thông của chúng ta những năm gần đây nhưng
chưa được chú trọng nhiều. Thời gian theo phân phối chương trình còn hạn chế
và phần lớn chưa được thiết kế, giảng dạy một cách bài bản mà còn mang nhiều
tính tự phát. Tài liệu học tập thì khan hiếm, ít ỏi và chưa được cập nhật. Tài
liệu tham khảo hầu như không có đối với cả người dạy và người học. Điều này
cũng tạo ra thách thức không nhỏ cho thầy và trò trong việc dạy và học văn học
địa phương.
Tuy nhiên thách thức lớn hơn nữa là chúng ta cần tiếp cận và giảng dạy
văn học địa phương như thế nào để đạt hiệu quả tốt. Đây cũng là vấn đề quan
trọng cần được quan tâm để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục một cách
toàn diện và hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế văn học địa phương ảnh hưởng tính chất vùng miền,
mang nét đặc thù, nên theo chúng tôi khi giảng dạy văn học địa phương chúng ta
cần chú ý tích hợp yếu tố văn hóa địa phương để người học có thể cảm nhận rõ
những nét riêng có tính đặc thù ở địa phương được thể hiện trong văn học. Đó có
thể là các yếu tố về văn hóa lịch sử, văn hóa tộc người phản ánh đời sống và tâm
hồn của cư dân nơi đây. Tiếp cận và giảng dạy văn học địa phương Phú Thọ thời
kì hiện đại, chúng ta cần chú ý đây là một tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ
của Việt Nam, nơi hội tụ nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Nơi đây có bề dầy về
lịch sử, tộc người với những dấu tích độc đáo. Đặc biệt văn học văn hóa Phú Thọ
khá phong phú và đa dạng thể hiện rõ dấu ấn văn hóa của người dân địa phương
72
mang những dấu tích của một thời xa xưa - thời Vua Hùng dựng nước..
Việc đề xuất một số hoạt động cũng phải lưu ý một số vấn đề như: Các
biện pháp đề ra không được vi phạm Hiến pháp, không vi phạm các bộ luật và
các văn bản pháp quy đã được quy định. Khi nghiên cứu để đề xuất giải pháp,
cần phải tìm hiểu các văn bản quy định về giáo dục và vấn đề thành lập các hội
nhóm như: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết, các Nghị định của
Chính phủ, Luật giáo dục, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều lệ nhà trường, các văn bản hướng dẫn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo và các văn bản hành chính
khác. Các biện pháp được đề xuất cũng phải đảm bảo tính hệ thống, được xác
định trên cơ sở cốt lõi là giáo dục học sinh về kiến thức và tình yêu đối với hát
Xoan ở Lâm Thao, Phú Thọ và có liên quan tới các vấn đề khác như giảng dạy
của nghệ nhân, của giáo viên, vấn đề học tập, nghiên cứu, tìm hiểu của học sinh,
cơ sở vật chất cho hoạt động, các nguồn lực khác cho hoạt động, … Việc đề
xuất các hoạt động giáo dục hát Xoan cho học sinh phổ thông ở Lâm Thao, Phú
Thọ cần được thực hiện theo trình tự hợp lí với nhận thức, khả năng tiếp nhận
của học sinh, từ tìm sưu tầm, tìm hiểu lời bài hát Xoan học cách gõ trống,
phách, học cách hát Xoan, cách trình diễn, … Bởi thế mà các hoạt động đề ra
cần hướng tới hình thành cho học sinh kiến thức, kĩ năng, tình cảm đối với hát
Xoan nơi đây.
Các biện pháp được đề xuất phải có hiệu quả, có tác động tích cực đến
giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện. Muốn như vậy, các giải pháp
được đưa ra phải đảm bảo được tính hợp pháp và hợp lí để tác động tích cực tới
các đối tượng, khiến họ huy động được tối đa năng lực, tình cảm của bản thân
tham gia vào các hoạt động đạt được hiệu quả cao.
Để thành lập được một hoạt động trong trường học thì cần đảm bảo được
quy trình chung gồm 9 bước: Bước 1: Đặt tên cho hoạt động; Bước 2: Xác định
mục tiêu của hoạt động; Bước 3: Xác định nội dung, hình thức của hoạt động;
73
Bước 4: Chuẩn bị tiến hành hoạt động, dự kiến thời gian, địa điểm, kinh phí,
nhân lực thực hiện (giáo viên, học sinh, nghệ nhân); Bước 5: Xây dựng kế
hoạch; Bước 6: Thiết kế chi tiết hoạt động; Bước 7: Kiểm tra, điều chỉnh, hoàn
thiện chương trình hoạt động; Bước 8: Tổ chức thực hiện hoạt động; Bước 9:
Tổng kết, đánh giá hoạt động
3.2.2. Đề xuất một số hoạt động giáo dục cụ thể
3.2.2.1. Hoạt động “Điền dã, sưu tầm hát Xoan trong đời sống”
* Mục tiêu hoạt động
Kết nối được đam mê, tình yêu của học sinh dành cho loại hình văn nghệ
dân gian tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam: hát Xoan từ đó phát
huy tình cảm, tình yêu mến, niềm tự hào của học sinh đối với quê hương - đất
nước, tinh thần yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống;
Giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản về hát Xoan ở xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ.
Đưa học sinh được đến với vùng đất Hy Cương nơi mang những dấu ấn
trầm tích văn hóa của một thời xa xưa, được nghe những làn điệu Xoan được
các nghệ nhân thực hiện giúp các em yêu thêm một loại hình văn hóa văn học
dân gian.
Góp phần vào việc bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa phi
vật thể đặc sắc của địa phương.
* Nội dung hoạt động
Đầu tiên, giáo viên bộ môn Ngữ văn cần phổ biến mục tiêu, cách thức,
quy định của việc thực hiện hoạt động điền dã. Đồng thời, hướng dẫn học sinh
công tác chuẩn bị: sách, bút, máy ảnh, điện thoại, trang phục…và một số nhiệm
vụ, biện pháp để có thể tiến hành điền dã như dự kiến câu hỏi phỏng vấn, khảo
sát, dự kiến nội dung điền dã, đối tượng điền dã…
Trong các hoạt động ở phần trên, học sinh đã có nhận thức và hiểu biết
nhất định về hát Xoan, với những hiểu biết đó chúng tôi tổ chức các buổi điền
74
dã trong xã Hy Cương, để các em có thêm những hiểu biết về hát Xoan và các
loại hình dân ca khác. Qua các buổi dã ngoại giáo viên định hướng cho học
sinh tìm hiểu về nguồn gốc, giá trị nội dung, nghệ thuật, trang phục, đạo cụ
biểu diễn của hát Xoan, tìm hiểu thông qua các người dân trong xã, các cụ cao
niên trong làng. Trong buổi dã ngoại các em được tìm hiểu về các nghệ nhân
hát Xoan xưa và các nghệ nhân hiện nay tại xã Hy Cương. Với thuận lợi là
trường PTTH Lâm Thao, trường THCS xã Hy Cương nằm trong không gian
văn hóa Hát Xoan, nên học sinh có những hiểu biết nhất định về các nghệ nhân,
có những em là con cháu, họ hàng với nghệ nhân.
Với những thuận lợi đó các em sẽ đi tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình,
cuộc sống của các nghệ nhân, vai trò của nghệ nhân trong việc lưu truyền và
phát triển Hát Xoan, phương pháp truyền dạy hát Xoan của nghệ nhân. Ảnh
hưởng của nghệ nhân đối với cộng đồng, các chế độ chính sách của nhà nước
đối với nghệ nhân hát Xoan. Sau buổi dã ngoại, giáo viên cho các em viết thu
hoạch về những gì đã được tìm hiểu được (có thể bằng nhiều hình thức khác
nhau). Giáo viên tổng hợp lại tất cả các thông tin tìm hiểu về Hát Xoan, sau đó
sắp xếp lại và giảng cho chúng nghe theo hệ thống hoàn chỉnh nhất, đồng thời
có lời khen, điểm thưởng, giấy chứng nhận động viên khích lệ... như vậy học
sinh sẽ hiểu rõ hơn về hát Xoan, từ đó các em sẽ có ý thức giữ gìn, tự hào về
quê hương mình với những giá trị của các làn điệu hát Xoan.
* Nhân sự tham gia
Có thể tổ chức cho học sinh đi điền dã theo khối lớp, theo đợt. Những đợt
đi đầu cần có giáo viên Bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, ban đại diện hội cha mẹ phụ
huynh học sinh tham gia cùng các em. Những đợt sau có thể để các em học sinh tự
đi điền dã dưới sự quản lý của Nhóm trưởng và liên lạc với giáo viên Bộ môn.
* Kinh phí và dự kiến kết quả
Về kinh phí: Dự kiến mỗi em học sinh đóng góp 80.000/ học sinh,
kinh phí này bao gồm tiền xe, tiền phí sinh hoạt, nước uống, bồi dưỡng
75
nghệ nhân….
Về dự kiến kết quả: Sau chuyến đi điền dã sưu tầm hát Xoan ở xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ mỗi em sẽ viết một bài thu hoạch về chủ đề
“Cảm nghĩ của em về chuyến đi điền dã hát Xoan và hát Xoan có vai trò như
thế nào trong đời sống hiện đại hôm nay”.
3.2.2.2. Hoạt động thực hiện chương trình phát thanh tuyên truyền hát Xoan
trong nhà trường
* Mục tiêu hoạt động
Qua các buổi phát thanh dành một thời lượng để tuyên truyền về truyền
thống hiếu học, thu hút sự quan tâm của đông đảo các em HS. Ngoài công tác
phát thanh tuyên truyền, Nhà trường tổ chức chương trình trò chuyện với nghệ
nhân Hát Xoan, thông qua chương trình HS được trò chuyện, đặt câu hỏi với
nghệ nhân. Nghệ nhân sẽ giới thiệu về nguồn gốc, giá trị của hát Xoan và tham
gia biểu diễn một số làn điệu. Thông qua buổi phát thanh các em có cơ hội
được tìm hiểu về nguồn gốc hát Xoan, các làn điệu hát Xoan, nội dung và ý
nghĩa của lời thơ trong hát Xoan…
* Nội dung hoạt động
Thành lập đội phát thanh trong Nhà trường, thành viên là 05 em HS có
giọng đọc truyền cảm, lưu loát và có khả năng viết các bài phát thanh hoàn
chỉnh về bố cục, có chiều sâu về nội dung, cô tổng phụ trách liên đội là người
trực tiếp quản lý và điều hành đội phát thanh, tham gia viết và duyệt nội dung
trước khi phát thanh (nội dung các bài phát thanh phải được cô tổng phụ trách
duyệt trước).
Thực hiện phát thanh một số làn điệu hát Xoan, do các bạn trong CLB
Hát Xoan xã Cảnh Dương hát trong các giờ ra chơi, đan xen các buổi sinh
hoạt tập thể, phát thanh các làn điệu hát Xoan do các nghệ nhân hát nhằm giới
thiệu tới toàn thể các em về nguồn gốc, giá trị tinh thần của hát Xoan. Các
buổi phát thanh cần linh hoạt trong việc xây dựng nội dung và thay đổi theo
từng tuần, từng quý, thu âm những lời giới thiệu, các truyền thuyết do nghệ
76
nhân kể về hát Xoan.
Qua các buổi phát thanh dành một thời lượng để tuyên truyền về truyền
thống hiếu học, thu hút sự quan tâm của đông đảo các em HS. Ngoài công tác
phát thanh tuyên truyền, Nhà trường tổ chức chương trình trò chuyện với nghệ
nhân hát Xoan, thông qua chương trình HS được trò chuyện, đặt câu hỏi với
nghệ nhân. Nghệ nhân sẽ giới thiệu về nguồn gốc, giá trị của hát Xoan và tham
gia biểu diễn một số làn điệu. Thông qua buổi giao lưu các em có cơ hội được
tìm hiểu về nguồn gốc hát Xoan, các làn điệu hát Xoan, nội dung và ý nghĩa
của lời thơ trong hát Xoan...
Thực hiện phát thanh một số làn điệu hát Xoan, do các bạn trong CLB hát
Xoan xã Hy Cương hát trong các giờ ra chơi, đan xen các buổi sinh hoạt tập thể,
phát thanh các làn điệu hát Xoan do các nghệ nhân hát nhằm giới thiệu tới toàn thể
các em về nguồn gốc, giá trị tinh thần của hát Xoan. Các buổi phát thanh cần linh
hoạt trong việc xây dựng nội dung và thay đổi theo từng tuần, từng quý, thu âm
những lời giới thiệu, các truyền thuyết do nghệ nhân kể về hát Xoan.
* Nhân sự và tham gia
Người xây dựng kịch bản, duyệt nội dung: Bí thư đoàn trường và các
giáo viên trong tổ chuyên môn Văn - Địa cùng với một số em học sinh tiêu biểu
có niềm yêu thích và hiểu biết về hát Xoan
Người đọc tin: các bí thư, lớp trưởng các khối lớp và các em học sinh có
giọng đọc truyền cảm, lưu loát sẽ đọc tin vào mỗi buổi truyền thông.
Phụ trách kỹ thuật: các cán bộ giáo viên trong đội đoàn trường phụ trách
kĩ thuật như loa, mic, âm thanh..
* Dự kiến kết quả
Học sinh toàn trường sẽ được nghe các bài hát Xoan của các nghệ nhân
hát Xoan thực hiện vào đầu giờ mỗi buổi thứ 4 hàng tuần và nghe các phóng sự
về sự hình thành cũng như nội dung hát Xoan phản ánh vào mỗi đầu giờ thứ 6
hàng tuần.
Hoạt động này sẽ định hướng giáo dục về truyền thống để các em có
77
thêm những hiểu biết về nguồn gốc, xuất xứ của hát Xoan xưa và các thể loại
dân ca. và môi trường giáo dục trường học là nơi rèn luyện cho các em các kỹ
năng ca hát, biểu diễn và tham gia hoạt động văn nghệ trong Nhà trường, góp
phần hình thành tình cảm yêu thích đối với hát Xoan để từ đó các em biết tự
hào và sẽ là thế hệ nối tiếp gìn giữ loại hình văn hóa văn học dân gian này.
Tiểu kết
Trên cơ sở mục tiêu của chương trình phổ thông mới và khảo sát bằng
phiếu hỏi và phỏng vấn trực tiếp giáo viên, học sinh về thực trạng, nguyện
vọng đối với hát Xoan, chúng tôi đã đề xuất hoạt động giáo dục:“hoạt động
điền dã điền dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện chương trình
phát thanh tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường”. Đây là một hình thức
hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế của trường THPT Lâm Thao nói riêng
và các trường phổ thông trên địa bàn huyện Lâm Thao, Phú Thọ nói chung.
Đồng thời, thông qua hình thức điền dã, truyền thông hát Xoan Phú Thọ sẽ đến
được với nhiều học sinh hơn, góp phần khơi dậy, bồi dưỡng tình yêu hát Xoan
cho thế hệ trẻ ở địa phương Hy Cương. Qua đó góp phần bảo tồn, phát huy
78
được những giá trị quý báu của loại hình văn hóa dân gian tại địa phương.
KẾT LUẬN
Hát Xoan Phú Thọ được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại. Hát Xoan khởi nguồn từ dân gian và lưu truyền theo
hình thức truyền khẩu, trải qua hàng nghìn năm lịch sử được cộng đồng gìn giữ,
bồi đắp, trao truyền. Đây là niềm tự hào, vinh dự đối với người dân Phú Thọ mà
còn là niềm tự hào của người dân Việt Nam. Hát Xoan đưa nền văn hóa của Việt
Nam đi ra hội nhập với nền văn hóa phi vật thể của khu vực và toàn thế giới.
Hát Xoan cũng như hình thức dân ca khác, là một hiện tượng của văn
hoá dân gian nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng của người Việt ở đồng
bằng Bắc bộ. Nó ra đời và được nuôi dưỡng trong môi trường sinh thái tự nhiên
và môi trường kinh tế- xã hội có lịch sử nhiều nghìn năm, ít nhất là từ khi cộng
đồng người Việt định cư bậc trên thềm trung du của vùng châu thổ sông Hồng.
Trải qua các triều đại Việt Nam với hàng nghìn năm lịch sử, hát Xoan vẫn tồn
tai, điều đó chứng tỏ sức sống bên trong, và sự biến đổi theo hướng thích nghi
để tồn tại của văn hoá dân gian, trong đó có hát Xoan.
Cũng như các loại hình dân gian khác hát Xoan Phú Thọ là loại hình
nghệ thuật độc đáo và có ý nghĩa lớn trong nền văn học dân gian của Việt Nam.
Hát Xoan là một hình thức ca hát phát sinh từ lễ hội với dấu ấn tín ngưỡng thờ
vật tổ, thờ thần lúa, thờ thần lửa… giai điệu và cách thức khởi nguồn từ màu
sắc văn hóa dân gian như những nghi lễ gắn với tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội.
Những lời hát trữ tình mộc mạc, vừa hát vừa phô ra vẻ đẹp của lao động, của
tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, đất nước đi sâu vào lòng người. Nội dung
mà hát Xoan phản ánh đó là mọi mặt của đời sống ca ngợi tình yêu lao động
với những mong ước cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mang những phong tục, tín
ngưỡng riêng biệt của vùng đất Hy Cương nói riêng và Phú Thọ nói chung.
Chính sự giản dị gần gũi ấy đóng góp một phần giúp văn học dân gian tồn tại
bền lâu, tạo ra màu sắc riêng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam so với
79
văn học hiện đại.
Hát Xoan tuy là một lĩnh vực văn hóa dân gian mang hình thức sinh hoạt
cộng đồng nhưng cũng mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật như về
ngôn ngữ, về kết cấu, thể thơ, và hình thức diễn xướng, giống với những nét
nghệ thuật cơ bản của văn học dân gian Việt Nam. Với thể thơ lục bát, thể thơ
song thất lục bát, thể thơ tự do, nhưng thể thơ lục bát chiếm đa số trong hát
Xoan có vần có nhịp dễ nhớ, dễ thuộc gần gũi với thể thơ truyền thống của dân
tộc. Với kết cấu lối trình diễn, sắp đặt các bài bản, các chặng hát cũng tuân thủ
theo các nghi thức hát thờ các Vua Hùng một cách thành kính; các lời ca Xoan
mang ý nghĩa chúc tụng, ca ngợi công đức các Vua Hùng xuất hiện trong nhiều
bài Xoan. Và kết hợp với ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học tạo dấu ấn
riêng cho hát Xoan Phú Thọ- loại hình văn hóa văn nghệ dân gian tiêu biểu của
vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Trong xã hội đang ngày càng phát triển theo hướng hiện đại ngày nay,
nhiều giá trị truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một đi và hát Xoan
cũng không ngoại lệ. Bởi thế mà việc giáo dục ý thức cho cho cộng đồng đối
với vấn đề giữ gìn, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống và bồi đắp tình
cảm yêu mến, trân trọng, tự hào của cộng đồng đối với những giá trị đó là điều
thực sự rất cần thiết để có thể tạo dựng được vị thế vững chắc, sự phát triển tích
cực của các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, hát Xoan ở xã Hy Cương
nói riêng, Môi trường giáo dục mà đặc biệt là các trường phổ thông chính là
một môi trường lý tưởng để giáo dục được sâu rộng tới cộng đồng về gìn giữ,
phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc. Việc đưa hát Xoan vào
để giáo dục học sinh phổ thông ở xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
là một việc làm rất thiết thực để giúp thế hệ trẻ ở địa phương hiểu sâu sắc về
giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc, từ đó biết trân trọng, có ý thức gìn giữ,
phát huy những giá trị quý báu đó.
Để bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật hát Xoan, trong thời gian
80
tới, chúng ta chú trọng tới việc quảng bá giới thiệu giá trị của hát Xoan với
cộng đồng trong tỉnh, trong cả nước và với bạn bè quốc tế. Đồng hành với đó là
việc tổ chức truyền dạy và phổ biến rộng rãi nghệ thuật hát Xoan. Đưa hát
Xoan vào giáo dục trong các trường học ở Phú Thọ nói chung và xã Hy Cương
nói riêng, đồng thời tại các làng Xoan cổ sẽ khuyến khích các nghệ nhân truyền
dạy cho các thế hệ trẻ. Chúng ta tin tưởng rằng với sức sống bền bỉ, sức lan tỏa
mãnh liệt và kế hoạch bảo tồn cụ thể, hát Xoan sẽ mãi mãi trường tồn, không
chỉ bừng sáng trong lòng mỗi người dân nước Việt mà còn của bạn bè khắp
năm châu.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng hiểu biết về hát Xoan trong các trường
học phổ thông trên địa bàn xã Hy Cương, huyện Lâm Thao cũng như nhu cầu
của giáo viên, học sinh về lưu giữ, phát huy những giá trị của hát Xoan, căn cứ
vào mục tiêu, kế hoạch chương trình giáo dục tổng thể và giá trị to lớn của hát
Xoan trong đời sống của người dân xã Hy Cương, huyện Lâm Thao việc đề
xuất “hoạt động điền dã tìm hiểu về hát Xoan trong đời sống và thực hiện
chương trình phát thanh tuyên truyền hát Xoan trong Nhà trường” là một việc
làm thiết thực, có ý nghĩa không chỉ khích lệ được học sinh tìm hiểu để hiểu
những giá trị của hát Xoan mà còn giúp các em có được sân chơi bổ ích, được
trao đổi, giao lưu, học hỏi, hình thành được nhiều kĩ năng sống, phẩm chất quý
báu cho bản thân, từ đó các em sẽ được nâng cao hơn tinh thần trách nhiệm của
bản thân trong việc chia sẻ, lan tỏa giá trị của hát Xoan tới các lớp học sinh
khác, tới cộng đồng.
Các phong trào tìm hiểu về Xoan, học hát Xoan cần được diễn ra sôi nổi
hơn trong các trường học thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của chủ trương đưa
Xoan vào trường học. Đó thực sự là tín hiệu vui trong việc bảo tồn và gìn giữ
di sản văn hóa quý báu của nhân loại trong thế hệ trẻ. Qua các phong trào này,
các em học sinh không chỉ được học hát mà còn biết nhận ra những giá trị văn
81
hóa tinh thần to lớn kết tinh trong các làn điệu dân ca của quê hương Phú Thọ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1932), Từ điển Hán Việt, tái bản (2000), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, tái bản (2006), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
số 11 tr. 103 -104.
3. Dương Anh (2005), “Đôi điều về hát Xoan”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,
4. Ngô Kim Anh (2000), “Quan hệ du lịch - văn hóa và triển vọng ngành du
lịch Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2, tr. 10 -12.
5. Trần Thúy Anh (chủ biên) (2011), Giáo trình du lịch văn hóa - Những
vấn đề lý luận và nghiệp vụ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
6. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2009), Hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể
hát Xoan Phú Thọ đệ trình UNESCO, Hà Nội.
7. Nguyễn Chí Bền (2004), “Nghiên cứu, sưu tầm, bảo vệ và phát huy các
di sản văn hoá phi vật thể”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 1, tr. 44 -47.
8. Nguyễn Chí Bền (2011), “Những giá trị tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương ở Phú Thọ”, Tạp chí Thế giới di sản, số 5, tr. 6 -7.
9. Nguyễn Chí Bền (2012), “Phục dựng các lễ hội truyền thống ở Việt Nam,
Bảo tồn hay “Sáng tạo từ truyền thống”, Tạp chí Văn hóa học, số 4, tr. 3 -15.
10. Vũ Kim Biên (1999), “Văn hiến làng xã vùng đất tổ Hùng Vương”, Sở
Văn hoá Thông tin Thể thao Phú Thọ.
11. Cao Văn Định, “Lịch sử hình thành và phong tục hát Xoan Phú Thọ”,
Tập san di sản văn hóa Đất Tổ số 2 năm 2013.
12. Đào Đăng Hoàn (chủ biên), 2000, Tổng tập văn nghệ dân gian đất Tổ,
tập 1, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao - Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ
Nxb, Phú Thọ, tr.115.
13. Nguyễn Đăng Hòe (1979), Bước đầu tìm hiểu Hát Xoan Vĩnh Phú, Sở
82
Văn hóa thông tin Vĩnh Phú xuất bản, Phú Thọ.
14. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), Biện pháp quản lý hoạt động dạy hát
Xoan trong trường Trung học cơ sở huyện Lâm Thao, Phú Thọ, Luận văn
thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
15. Trần Văn Khê (2011), “Văn hóa Việt Nam”, Nxb Đại học Văn Hóa Hà Nội.
16. Tú Ngọc (1997), Hát Xoan dân ca nghi lễ - phong tục, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
17. Lê Thị Hoài Phương (2107) “Bảo tồn Hát Xoan (Phú Thọ) gắn liền với
không gian thờ cúng Hùng Vương”, Tạp chí văn hóa văn nghệ Phú Thọ,
số 5, tr.11-17.
18. Sheen Dea Cheol (Hàn Quốc) và Xiao Mei (Trung Quốc) (2010), Tác
phẩm “Hát Xoan ở Phú Thọ“(Xoan singing in Phú Thọ), Nxb, Văn Hóa
thông tin.
19. Dương Huy Thiện (chủ biên) (2015), Hát Xoan - Dân ca cội nguồn, Nxb
Văn hóa nghệ thuật.
20. Cao Khắc Thùy (chủ biên) (2012), Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một
chặng đường, Nxb Văn hóa.
21. Tổng tập hát Xoan Phú Thọ (2016), Nxb Sở văn hóa Phú Thọ.
22. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo dục.
23. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
24. Tư liệu điền dã Các bài hát Xoan ở xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ,
Tài liệu chưa xuất bản, nghệ nhân Nguyễn Thị Sen cung cấp.
25. Lê Toàn (2000), Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 2, tr. 7- 9
26. Nguyễn Anh Thúy, “Đôi điều về lịch sử hát Xoan”, Tập san Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Phú Thọ số 3/2012.
27. Nguyễn Khắc Xương (1988), Hát Xoan Phú Thọ, Nxb Đại học sư phạm
Hà Nội.
28. Nguyễn Khắc Xương (1999), “Hát Xoan Phú Thọ và tín ngưỡng cội
83
nguồn”, Nxb ĐHSP Hà Nội.
Tài liệu tham khảo trên mạng
29. Anh Thơ, “Hát Xoan sống giữa cộng đồng”, http/baophutho.vn, truy cập
ngày 23-9-2020.
30. BBT, “Giới thiệu về hát Xoan Phú Thọ”, http/phutho.gov.vn, truy cập
ngày 20-9-2019.
31. Hoài Ngân, “Hát Xoan Phú Thọ - di sản văn hóa của nhân loại”,
http/vtr/org.vn, truy cập ngày 20-3-2020
84
32. “Hát Xoan”, https://vi.wikipedia.org/, truy cập ngày 25-3-2020.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tư liệu hát Xoan
Cuốn sổ ghi chép các bài Xoan của gia đình để lại
[Ảnh: Tác giả tự chụp ngày 18-9-2020]
Ảnh bài Xoan của Nghệ nhân sưu tầm
[Ảnh: Tác giả tự chụp ngày 18-9-2020]
Phụ lục 2: Những bài hát Xoan tác giả điền dã sƣu tầm đƣợc từ nghệ nhân
Nguyễn Thị Sen đƣợc sử dụng trong luận văn
Bài 1: Chơi dâu cách
Á à chơi dâu xướng cách
Kính làng nước
Thượng hạ đâu đâu
Dẫn cách chơi dâu
Mà cho là phải lệ
Vốn xưa tích để
Có hội í a chàu Dâu
Chư quan công hầu
Dù che võng giá
Chùa Dâu vui lạ
Mùng 8 í a tháng tư
Vãi vãi lên chùa
Niệm kinh là tụng đọc
Nàng ra thấu giọng
Vãi ấy í a tốt ngay
Thằng ấy í a thẳng ngay
Dâng lên tướng Bụt
Ngày rằm mùng một
Rước Bụt í a lên chùa
Bài 2: Hát ru- Mời rượu
Ru hời hời ru, hỡi ru tình du
Đố ai quét sạch í a lá rừng
Chứ để ta, để ta khuyên gió í ơ
Đừng gió đừng, gió đừng rung cây chứ ta ru hời
Ru hời hời hợi í a hời ru hời
Ới ru tình ru, ới ru tình ru
Tay nâng chén muối í ơ gừng đĩa gừng
Chứ gừng cay, gừng cay muối mặn í ơ
Đừng xin đừng, xin đừng quên nhau chứ ta ru hời
Ru hời hời hợi í a hời ru hời
Ới ru tình ru, ới ru tình ru
Tay tiên chuốc chén í ơ, đào rượu đào
Chứ bỏ, đi bỏ đi thời tiếc í ơ
Uống vào, uống vào thời say chứ ta ru hời
Bài 3: Chào ra về
Thuyền son lại đậu bến son
Con chào các mẹ để con ra về
Con về đến tận Giang Khê
Con chào các mẹ ở lại con về còn xa
Con về đến chốn quê nhà
Con chào các mẹ con ra hẹn đò
Sông sâu còn phải qua đò
Tình con với mẹ đắn đo còn dài
Mẹ ngồi ở chốn cung mây
Con về nhớ mẹ cửa cài nhớ mong
Bây giờ mẹ đấy con đây
Rồi mai ta lại có ngày gặp nhau.
Bài 4: Giao dâu
Nào là thầy mẹ cháu đâu
Ra đây mà nhận lấy dâu nhà mình
Dâu còn thơ trẻ mẹ ơi
Chữ trung chữ hiếu con ghi vào lòng
Việc đồng cho chí việc nhà
Sớm trưa vất vả con không ngại ngần
Làm sao cho được dâu hiền
Để cho cha mẹ đôi bên vui lòng.
Bài 5: Giả dâu
Hôm nay ngày tốt tháng lành
Nhà trai dâng lễ kính thành gia tiên
Bà ơi ra đón dâu hiền
Để về làm lễ tổ tiên sau này
Hôm nay dâng đủ cả nhà
Chúng tôi đưa dâu về nhà giao giả cho ông bà đây
Dâu còn vụng dại ngây thơ
Ông bà dạy bảo có ngày nên khôn
Ba vuông sánh với bảng trầu
Ông bà có phúc được con dâu hiền.
Bài 6: Đố chữ
Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?
Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta?
Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa, việc nhà?
Anh đố em biết chữ gì thấy người qua mà chẳng chào?
Một đào Xoan hát đáp lại rằng:
Anh đã đố thì anh phải giảng
Em chẳng biết thời anh giảng giải cho dân làng nghe
Chàng Xoan cất tiếng hát ơ hờ... em không biết thì anh xin
giảng giải
Vũ là mưa trên trời rơi xuống
Ngưu là trâu làm ruộng nuôi ta
Thê là vợ nên giỏi việc cửa, việc nhà
Nộ là giận thấy người qua chẳng chào.
Bài 7: Mời rượu đám cưới
Ngày vui mời chén rượu này
Nâng ly ta cạn không say không về.
Chúc nhau sức khỏe tràn trề
Giàu sang phú quý đi về có nhau.
Chúc cho trăm tuổi bạc đầu
Gia đình hạnh phúc mai sau vững bền.
Rượu này càng uống càng êm
Nâng ly ta cạn cho thêm thân tình.
Hôm nay ta uống hết mình
Có say cũng bởi mối tình ta say.
Rượu ngon ta mới ngất ngây
Chúc nhau một chén rượu này làm quen.
Rượu này chưa uống đã thèm
Uống vào mới thấy thêm quen thêm gần.
Rượu này càng uống càng thân
Xin mời cạn chén cho nhau vui lòng.
Bài 8: Kiều Giang Cách
A á Kiều Giang Cách
Kính lại trình làng, điểm trống ra tang
Lẳng lặng mà nghe, tôi giáo Kiều Giang một cách
Bia chuyện cổ tích
Có con gái lành
Đi chơi một mình
Đến chưng quán ấy
Nàng ấy thấy vậy
Cầm lấy đôi xinh
Ngân nga một mình
Ca bằng tiếng dế
Nhớ xưa Hán Vũ đế, mới lại sinh ra
Được một con gái
Mềm mại nết na
Đến năm mười ba
Thanh tân dóng dẩy
Đến năm mười bảy, đi chơi đến quán Chương Dương
Bẻ lấy cành dương
Mà ca tam bộ
Gọi là ba bước
Vua cha mừng được
Nàng ấy tốt thay
Vậy vua cha bị bệnh
Ở trong cung này
Đòi nàng ấy vào
Vua cha coi thấy
Tức thời lại đỡ
Lại được trị vì thiên hạ
Tám mươi tám năm
Vua cha mừng thầm
Hơn nàng tiên nữ
Tiếng than tiếng thở
Hớn hở Hằng Nga
Tiếng chúc ngân nga
Thơ Kiều Giang Cách
Vậy có thơ Kiều Giang rằng:
Seo rằng: Bây giờ tôi mới giáo cách í a Kiều Giang
Mai xưa là tôi mới đến
Làng hỡi làng, văn quan làng này
Hàn lâm là Đông Các
Võ quan làng này
Chương phủ í a triều Đường
Chúc tuổi í a vua quan
Vua vạn vạn tuế
Rằng í a hỡi rằng Kiều Giang, mai xưa là tôi mới đến
Ấy đầu í a tôi gật
Ấy gối í a tôi quỳ
Chân tối đạp đất
Cất tiếng í a tôi mời
Vua là í a đại vương, hội là hội giám
Hội là í a giám mời, vua là đại vương
Hộp giầu chén nước hỡi a nén nhang
Quả tâm thành kính này để dâng lên cúng giàng
Giầu têm mà đệm vàng, cung têm mà đệm ngọc
Chén nước í a vò xanh
Kén được ngày tốt í a ngày lành.
Bài 9: Đóng đám
Làng này đóng đám ơ cho được quan sang
Văn a thời áo đỏ ơ võ ngai vàng có sống hỡi là lâu
Võ thi ba hiệp ơ cung ơ hầu
Văn vào mà hội thi ơ đỗ ơ đầu có trạng hỡi là nguyên
Đất thiêng lại nổi ớ người ơ hiền
Sinh ra mà nam nữ ơ giỏi ơ truyền có đẫy hỡi là đà
Khoa văn đem lại ớ đa ơ đầy
Sinh ra mà nhang cống ơ thuở ơ này có đậu hỡi là khoa.
Bài 10: Mời nước đám cưới
Nước này là nước giao dâu
Nước này nên nghĩa nên tình hai họ ơ..
Nước này đẹp lứa đẹp đôi
Nước này hai cháu đời đời bên nhau
Nước này là nước giao dâu
Chung con chung cháu trước sau thuận hòa
Nước này trọng mẹ kính cha
Nước này hai họ ta là kính chung.
Bài 11: Mời trầu đám cưới
Ngày vui mời một miếng trầu
Không ăn cầm lấy cho nhau vừa lòng
Cau tươi, rễ đắng, trầu không
Mời nhau một miếng ấm lòng đôi bên
Chúc cho hạnh phúc lâu bền
Chúc cho rể thảo dâu hiền xứng đôi
Trầu têm cánh phượng đâu rồi
Mời nhau một miếng cho môi thêm hồng
Ông tơ bà nguyệt đồng lòng
Họ hàng nội ngoại cũng mong ngày này
Trầu này trầu quế trầu cay
Ăn vào mới thấy ngất ngây mối tình
Trầu này trầu nghĩa trầu tình
Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta
Chúc cho nội ngoại ông bà
Hai bên hai họ thông gia vững bền
Mong cho đất nước bình yên
Nhà nhà hạnh phúc vững bền an khang
Chúc cho hai cháu giàu sang
Chúc cho hai họ an khang thọ trường
Cơi trầu tươi tốt như hoa
Tôi xin hai họ trình ra bản trầu
Trầu này kén rể chọn dâu
Trầu này chính thực là trầu trăm năm
Ông tơ bà nguyệt khéo nhằm
Xe cho hai cháu trăm năm đời đời
Xe cho hai cháu đẹp đôi
Xe cho hai cháu đời đời hiển vinh
Cơi trầu tôi chúc tôi trình đã xong
Tôi mời hai họ có lòng cùng xơi.
Bài 12: Đón dâu về nhà
Hôm nay ngày tốt tháng lành
Ông bà xây dựng gia đình cho con
Mừng cho hai cháu vuông tròn
Ông bà có phúc cháu con sang giàu
Nhà trai nay có cô dâu
Đứng lên trình tổ con dâu về nhà
Chúc mừng hai họ nhà ta
Nội thì đi đón ngoại thì đi đưa
Trăm năm trọn lấy một ngày
Chúc mừng hai họ lại đưa dâu về
Dâu về làm lễ gia tiên
Dâu hiền lên gái rể hiền lên trai
Thế là được tất cả hai
Dâu giỏi rể tài hạnh phúc trăm năm.
Bài 13: Mừng đám cưới
Chẳng xa cũng chẳng là xa
Vì tình tôi phải bớt ra một ngày
Chúc mừng hai cháu hôm nay
Đẹp duyên kết nghĩa trọn ngày kết duyên
Cưới nhau chả phải bạc tiền
Chả phải xôi thịt mấy lên vợ chồng
Áo hồng lại nhuộm màu hồng
Yêu nhau tóc bạc răng long đời đời
Chúc cho hai cháu đẹp đôi
Muốn chóng có cháu thì tôi chúc mừng
Đường xa thì mặc đường xa
Hễ mà có cháu thì già đến thăm.
Phụ lục 3: Một số hình ảnh về nghệ nhân hát Xoan, xã Hy Cƣơng,
Lâm Thao, Phú Thọ
Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen trong buổi giới thiệu hát xoan cho đoàn khách du
lịch tại đình làng Cổ Tích
(Ảnh nghệ nhân cung cấp)
Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen trong buổi giới thiệu hát Xoan cho các em học sinh
lớp 10a5 của trường THPT Lâm Thao
[Ảnh: Nghệ nhân cung cấp]
Phụ lục 3: Đạo cụ, trang phục truyền thống của hát Xoan
Đạo cụ của hát Xoan gồm trống và phách do nghệ nhân cung cấp
[Ảnh: tác giả tự chụp]
Trang phục truyền thống của hát Xoan gồm áo the, khăn xếp của nghệ nhân
[Nguồn ảnh: Tác giả tự chụp]
Phụ lục 4: Giấy xác nhận của trường THPT Lâm Thao
Phụ lục 5: Một số hình ảnh tác giả và nghệ nhân
Ảnh tác giả chụp cùng nghệ nhân Nguyễn Thị Sen ngày 18-9-2020
[Nguồn ảnh: tác giả tự chụp 18-9-2020]
Nghệ nhân Nguyễn Thị Sen
[Nguồn ảnh: tác giả tự chụp ngày 18/9/2020]