Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
82(06): 59 - 63<br />
<br />
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG SẮN VÀ PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN NUÔI GIA SÚC<br />
NHAI LẠI TẠI VIỆT NAM<br />
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và Nguyễn Hưng Quang*<br />
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Hiện nay, cây sắn là một cây trồng đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam bên cạnh hệ thống các cây<br />
lương thực như lúa, ngô và khoai lang. Sắn củ khá giầu năng lượng, nên nó là nguyên liệu sử dụng<br />
phổ biến trong chăn nuôi lợn, gia cầm và đại gia súc. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã thực<br />
hiện về việc sử dụng sắn và phụ phẩm từ cây sắn bằng các phương pháp chế biến khác nhau để sử<br />
dụng làm thức ăn cho vật nuôi. Để tận dụng tốt nguồn phụ phẩm công, nông nghiệp cho chăn nuôi<br />
gia súc nhai lại ở nước ta việc nghiên cứu phương pháp chế biến, bảo quản, mức bổ sung, cách<br />
thức bổ sung phù hợp và hiệu quả cần tiếp tục được quan tâm đầu tư. Bã sắn là phụ phẩm của quá<br />
trình sản xuất tinh bột sắn, chiếm khoảng 45% khối lượng sắn nguyên củ. Theo các kết quả đã<br />
nghiên cứu, có thể sử dụng phương pháp ủ chua bã sắn để dự trữ làm thức ăn cho gia súc nhai lại<br />
trong nông hộ. Tuy nhiên, bã sắn có hàm lượng protein thô rất thấp nên khi sử dụng cần bổ sung<br />
nguồn thức ăn giàu protein để cân đối dinh dưỡng và mức bổ sung không nên vượt quá 40% so với<br />
tổng chất khô trong khẩu phần. Phụ phẩm ngọn, lá sắn được coi là nguồn cung cấp protein sẵn có,<br />
rẻ tiền rất tốt cho gia súc nhai lại. Phơi, sấy khô rồi nghiền bột hoặc đem ủ chua là biện pháp bảo<br />
quản phù hợp. Theo các kết quả đã nghiên cứu, sử dụng bột lá sắn cho trâu bò ăn ở mức 1 1,5kg/con/ngày sẽ cho hiệu quả vỗ béo tốt.<br />
Từ khóa: cây sắn, chế biến, bã sắn, dinh dưỡng, gia súc.<br />
∗<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Sắn (Manihot esculenta Crantz) hiện được<br />
trồng trên 100 nước có khí hậu nhiệt đới và<br />
cận nhiệt đới thuộc ba châu lục: Châu Á,<br />
Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Tổ chức Nông<br />
Lương thế giới (FAO) xếp sắn là cây lương<br />
thực quan trọng ở các nước đang phát triển<br />
sau lúa gạo, ngô và lúa mì.<br />
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực, thức ăn<br />
gia súc quan trọng sau lúa và ngô, Theo số<br />
liệu thống kê 2010, tổng diện tích sắn cả nước<br />
là 496.200 ha, sản lượng đạt hơn 8,5 triệu tấn.<br />
Sắn dễ trồng, phù hợp với nhiều loại đất, vốn<br />
đầu tư thấp, phù hợp với khả năng kinh tế của<br />
nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao<br />
động. Các sản phẩm từ cây sắn bao gồm củ,<br />
thân, lá đều được có thể sử dụng được, củ sắn<br />
dùng để chế biến tinh bột sắn, sắn lát phơi<br />
khô, bột sắn nghiền hoặc dùng để ăn tươi [6].<br />
Từ sắn củ tươi hoặc từ các sản phẩm sắn sơ<br />
chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công<br />
nghiệp như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn liền,<br />
∗<br />
<br />
Tel:0985588164<br />
<br />
gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ chất<br />
dính (hồ vải, dán gỗ), bún, miến, phụ gia thực<br />
phẩm, phụ gia dược phẩm…. Thân sắn dùng<br />
để làm giống, nguyên liệu cho công nghiệp<br />
xenlulo (cellulose), làm nấm, làm củi đun….<br />
Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu đạm, dùng<br />
để nuôi tằm, nuôi cá, bột lá sắn hoặc lá sắn ủ<br />
chua dùng để nuôi lợn, gà, trâu, bò, dê,….<br />
GIÁ TRỊ CỦA CÂY SẮN<br />
Củ sắn và lá sắn là sản phẩm chính từ cây sắn,<br />
là nguồn dinh dưỡng có giá trị, tỷ lệ vật chất<br />
khô 27,7%; Protein thô 0,9%; Lipit thô 0,4%;<br />
dẫn xuất không đạm 24,7%; khoáng tổng số<br />
0,7%; caxi 0,05%; photpho 0,04% và năng<br />
lượng trao đổi (ME) 968 Kcal (Viện Chăn<br />
nuôi, 2001) [16]. Bột củ sắn là nguồn thức ăn<br />
giàu năng lượng nhưng nghèo protein, tỷ lệ<br />
các axit amin không cân đối, nghèo<br />
methionine và tryptophan, các chất khoáng,<br />
vitamin cũng ít. Một loại phụ phẩm từ củ sắn<br />
sau khi chế biến là bã sắn, đây là sản phẩm<br />
phụ của quá trình sản xuất tinh bột của các<br />
nhà máy chế biến tinh bột sắn, chiếm khoảng<br />
59<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Theo<br />
Bùi Quang Tuấn (2005) [10], trong bã sắn<br />
chứa khoảng 8% tinh bột, 15 - 20% xơ thô.<br />
Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008) [15], khi<br />
phân tích hàm lượng các chất trong bã sắn<br />
tươi tính theo hàm lượng vật chất khô như<br />
sau: giá trị protein thô 3,6%, lipit thô 0,3%;<br />
năng lượng thô 4198 Kcal/kg. Hàm lượng<br />
HCN là 240mg/kg và pH là 4,21. Việc dự trữ<br />
và bảo quản đồng thời làm giảm hàm lượng<br />
HCN trong bã sắn để sử dụng trong chăn nuôi<br />
cần có các biện pháp phù hợp, hiệu quả.<br />
Lá sắn được coi là nguồn protein lý tưởng,<br />
được sử dụng làm thức ăn giàu đạm cho vật<br />
nuôi. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả<br />
Nguyễn Văn Thưởng (1993) [11], Từ Quang<br />
Hiển (1982) [4] hàm lượng protein thô trong<br />
vật chất khô của lá sắn tương đối cao, dao<br />
động từ 22,6 – 29,9%. Hàm lượng protein<br />
biến động tùy theo giống sắn, tuổi thu hoạch,<br />
độ phì nhiêu của đất trồng và khí hậu vùng<br />
canh tác. Theo Hội chăn nuôi (2003) [7]<br />
Thành phần hóa học của bột lá sắn như sau:<br />
Vật chất khô 93%; protein thô 16% (16,7 39,9%); lipit 5,5% (3,8 - 10,5%); xơ thô 20%<br />
(4,8 - 29%); khoáng tổng số 8,5% (5,7 12,5%); canxi 1,45%; photpho 0,45%; kẽm<br />
149 mg/kg; mangan 52 mg/kg; sắt 259 mg/kg;<br />
đồng 12 mg/kg. Trong lá sắn giàu vitamin C<br />
và A, có hàm lượng riboflavin đáng kể, giàu<br />
lysine nhưng thiếu methionin. Việc thu hoạch,<br />
chế biến, bảo quản và sử dụng lá sắn làm<br />
thức ăn cho gia súc sẽ tận dụng được nguồn<br />
protein khá lớn, góp phần tăng hiệu quả kinh<br />
tế trong cho người nông dân.<br />
Trong các bộ phận của cây sắn có chứa độc tố<br />
axit xianhydric (HCN) hình thành do thủy<br />
phân xyanogen glucoside (C6H17O6N), chất<br />
này gây độc cho cơ thể con người và động vật<br />
nói chung. Tùy theo từng giống sắn, thời gian<br />
thu hoạch mà hàm lượng HCN chứa trong các<br />
bộ phận thân, lá và củ sắn sẽ khác nhau. Hàm<br />
lượng HCN trong củ sắn nhiều hơn trong lá<br />
sắn và tập trung ở vỏ, lõi củ. Dựa vào hàm<br />
lượng HCN người ta chia ra hai giống sắn:<br />
<br />
82(06): 59 - 63<br />
<br />
giống sắn ngọt có chứa khoảng 20 - 30mg/kg<br />
củ tươi; giống sắn đắng chứa 60 - 150 mg/kg<br />
củ tươi (Mai Thạch Hoành, 2004) [5]. Theo<br />
tác giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [9] lá sắn càng<br />
già thì hàm lượng HCN càng thấp, ở những lá<br />
non hàm lượng HCN trong cuống lá cao hơn<br />
trong phiến lá, còn trong lá già thì ngược lại.<br />
Hàm lượng HCN ở những phiến lá búp là 330<br />
- 790 ppm (khối lượng tươi), ở những lá bánh<br />
tẻ là 340 - 1040 ppm và ở những lá già là 210<br />
- 730 ppm. Nồng độ HCN trong củ và lá sắn<br />
có thể được giảm đi đáng kể bằng các phương<br />
pháp như bóc vỏ, nấu chín, thái lát ngâm<br />
nước, muối dưa lá, phơi khô và ủ chua. Khi<br />
sử dụng các sản phẩm từ sắn làm thức ăn cho<br />
vật nuôi cần áp dụng các biện pháp chế biến<br />
phù hợp để làm giảm hàm lượng độc tố và<br />
bảo quản nguồn thức ăn này được tốt.<br />
CHẾ BIẾN, BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG<br />
PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN<br />
NUÔI GIA SÚC NHAI LẠI<br />
Theo số liệu của thống kê của nước ta, năm<br />
2009 số lượng đàn bò là 6,1 triệu con, đàn<br />
trâu gần 2,9 triệu con. Định hướng phát triển<br />
đến năm 2020 đàn bò sữa đạt khoảng 500 ngàn<br />
con, đang bò thịt đạt khoảng 12,5 triệu con,<br />
đàn trâu ổn định với số lượng khoảng 2,9 triệu<br />
con [8]. Để đạt được mục tiêu trên một vấn đề<br />
cần được quan tâm giải quyết đó là việc đảm<br />
bảo nguồn thức ăn thô xanh cho đàn trâu bò.<br />
Theo thống kê thì diện tích bãi chăn thả ở<br />
nước ta rất hạn chế, năng suất cỏ tự nhiên khá<br />
thấp (6 - 8 tấn cỏ tươi/ ha/ năm), việc mở rộng<br />
diện tích trồng cỏ gặp nhiều khó khăn, cùng<br />
với đặc điểm thời tiết có mùa khô và mùa<br />
đông kéo dài dẫn tới thiếu thức ăn xanh cho<br />
trâu bò. Là một nước sản xuất nông nghiệp,<br />
chúng ta có nguồn phụ phẩm nông nghiệp khá<br />
dồi dào như rơm lúa, thân cây ngô, dây lạc,<br />
dây lang, ngọn lá sắn, ngọn lá mía... Theo số<br />
liệu thống kê của Cục Chăn nuôi [3] lượng<br />
phụ phẩm nông nghiệp ước tính hàng năm có<br />
khoảng 40 triệu tấn, trong đó rơm khoảng<br />
36,6 triệu tấn, dây khoai lang 0,19 triệu tấn,<br />
dây lá lạc 0,45 triệu tấn, ngọn và lá ngô 0,62<br />
<br />
60<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
triệu tấn, lá sắn 0,19 triệu tấn, ngọn lá mía 3,0<br />
triệu tấn…nhưng tỷ lệ sử dụng chỉ chiếm<br />
khoảng 18% (7,5 triệu tấn) còn lại trên 32,5<br />
triệu tấn chưa được sử dụng cho chăn nuôi,<br />
chưa tận dụng tốt nguồn phụ phẩm này thông<br />
qua chế biến, dự trữ để cung cấp cho gia súc.<br />
Việc nghiên cứu các biện pháp chế biến, dự<br />
trữ rất cần được thực hiện và phổ biến cho<br />
người chăn nuôi. Tận dụng nguồn phụ phẩm<br />
từ cây sắn là bã sắn và thân lá sắn để chăn<br />
nuôi gia súc nhai lại cũng đã được nhiều nhà<br />
khoa học ở nước ta nghiên cứu và đạt được<br />
một số kết quả có ý nghĩa nhất định, là tiền đề<br />
để tiếp tục nghiên cứu và phát huy được lợi<br />
thể của phụ phẩm trong chăn nuôi.<br />
* Chế biến và sử dụng bã sắn: Ủ chua là<br />
phương pháp đã được nhiều tác giả nghiên<br />
cứu để chế biến và bảo quản bã sắn làm thức<br />
ăn cho gia súc nhai lại [12]. Theo các tác giả<br />
Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, 2001 [2] khi chế<br />
biến sắn bằng phương pháp ủ chua đã làm<br />
giảm rõ rệt hàm lượng độc tố. Nếu lá sắn tươi<br />
hàm lượng HCN là 862,5 mg/kg VCK thì ủ<br />
chua chỉ còn 32,5 mg/kg VCK; bột khô chỉ<br />
còn có 90,2 mg/kg VCK. Theo quy định của<br />
Cộng đồng Châu Âu (EC) thì hỗn hợp cho gia<br />
súc chỉ được phép chứa thấp hơn 60 mg<br />
HCN. Như vậy, rõ ràng phương pháp ủ chua<br />
đã làm giảm mạnh mẽ lượng HCN.<br />
Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008)[15], khi<br />
nghiên cứu ủ chua bã sắn để làm thức ăn cho<br />
gia súc nhai lại thì ủ với công thức 0,5% muối<br />
+ 3% rỉ mật, hoặc 0,5% muối + 3% cám gạo<br />
có thể bảo quản bã sắn và làm giảm đáng kể<br />
hàm lượng HCN sau 21 ngày ủ nên có thể sử<br />
dụng một lượng lớn bã sắn ủ trong khẩu phần<br />
mà không gây độc. Tuy nhiên, theo các tác<br />
giả do bã sắn tươi có hàm lượng protein thô<br />
rất thấp nhưng có giá trị năng lượng tương đối<br />
cao, vì vậy khi sử dụng làm thức ăn cho gia<br />
súc nhai lại cần thiết phải bổ sung nguồn thức<br />
ăn giàu protein để cân đối năng lượng và<br />
protein cho nhu cầu dinh dưỡng của vi sinh<br />
vật dạ cỏ và cho sản xuất. Theo các tác giả<br />
Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn (2006)<br />
<br />
82(06): 59 - 63<br />
<br />
[10], khi sử dụng khẩu phần có 10kg bã sắn ủ<br />
chua và 0,75 kg cám đỗ xanh để vỗ béo bò<br />
thịt đã cho tăng trọng tương đối cao 656,0 682,2 g/con/ngày so với lô đối chứng là<br />
728,9g/con/ngày với khẩu phần thí nghiệm có<br />
thức ăn tinh. Theo các tác giả Nguyễn Hải<br />
Quân, Nguyễn Xuân Bả, 2008 [7] khi nghiên<br />
cứu về mức bổ sung bã sắn ủ chua với khẩu<br />
phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng là rơm lúa<br />
thì mức bổ sung không nên vượt quá 40% so<br />
với tổng chất khô khẩu phần, và việc bổ sung<br />
các loại thức ăn giàu protein thực trong khẩu<br />
phần là rất cần thiết để đảm bảo khả năng tiêu<br />
hóa thức ăn và môi trường trong dạ cỏ.<br />
* Chế biến và sử dụng lá sắn: Theo các tác<br />
giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [15], Bùi Văn Chính<br />
và Lê Viết Ly, 2001 [2], phương pháp băm<br />
nhỏ, phơi khô hoặc sấy khô rồi nghiền thành<br />
bột là một biện pháp chế biến để có thể bảo<br />
quản, dự trữ và làm giảm hàm lượng độc tố<br />
trong lá sắn rất tốt, hơn nữa có thế thực hiện<br />
với một khối lượng lá sắn khá lớn. Ủ chua lá<br />
sắn để dự trữ và bảo quản cũng cho kết quả tốt,<br />
theo tác giả Bùi Văn Chính, 1995 [1] khi thí<br />
nghiệm ủ chua lá sắn thì hàm lượng HCN chỉ<br />
còn 32,5 ppm trong vật chất khô.<br />
Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Trịnh<br />
Văn Trung và cs, 2007 [13] khi nghiên cứu bổ<br />
sung mức 0,5, 1,0 và 1,5 kg/con/ngày bột lá<br />
sắn trong khẩu phần ăn của trâu tơ là cỏ xanh<br />
và rơm ủ urê nuôi trong vụ đông xuân đã cho<br />
kết quả là mức tăng trọng của trâu tăng dần<br />
theo khối lượng bột sắn bổ sung trong khẩu<br />
phần, tương ứng là 594 g/con/ngày, 589<br />
g/con/ngày, 444 g/con/ngày và thấp nhất là lô<br />
đối chứng 389 g/con/ngày. Và để đạt hiệu quả<br />
kinh tế cao nhất các tác giả cũng khuyến cáo<br />
nên bổ sung bột lá sắn ở mức 1kg/con/ngày<br />
tương ứng với 17% vật chất khô trong khẩu<br />
phần là phù hợp. Theo tác giả Vũ Văn Tý,<br />
2002 [14] khi sử dụng lá sắn ủ chua để vỗ béo<br />
trâu tơ với mức bổ sung là 1,4; 2,8; 4,2<br />
kg/con/ngày trong khẩu phần ăn là rơm khô<br />
và cỏ hỗn hợp thì có mức tăng trọng tương<br />
ứng sau 90 ngày là 34,42 kg/con; 42,58<br />
61<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
kg/con và 45,75 kg/con còn ở lô đối chứng là<br />
27,33 kg/con. Kết quả vỗ béo trên đàn trâu<br />
già với mức bổ sung là 3 và 5,5 kg/con/ngày<br />
cho khối lượng tăng là 36,5 kg/con và 39,0<br />
kg/con, ở lô đối chứng là 29,0 kg/con.<br />
Như vậy, việc sử dụng phụ phẩm từ sắn trong<br />
chăn nuôi gia súc nhai lại sẽ tận dụng được<br />
nguồn thức ăn sẵn có, rẻ tiền ở địa phương,<br />
góp phần giải quyết vấn đề cạnh tranh nguồn<br />
thức ăn giàu protein để cung cấp cho gia súc<br />
nhai lại, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người<br />
chăn nuôi nhất là các hộ nông dân. Các tác<br />
giả đã đưa ra khuyến cáo khi sử dụng bổ sung<br />
bã sắn cho khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh<br />
dưỡng là rơm lúa thì không nên bổ sung quá<br />
40% trong khẩu phần, còn đối với bột lá sắn<br />
khi sử dụng để vỗ béo thì bổ sung ở mức 1,0<br />
– 1,5 kg/con/ngày vào khẩu phần thì sẽ mang<br />
lại hiệu quả vỗ béo tốt.<br />
KẾT LUẬN<br />
Cây sắn là cây trồng đem lại năng suất, sản<br />
lượng cao hiện nay ở Việt Nam. Sắn không<br />
chỉ là một loại cây lương thực, cây thực phẩm<br />
mà loại cây công nghiệp để tạo ra các sản<br />
phẩm như: cồn, đường, bột ngọt, tinh<br />
bột....phục vụ ngành chế biến. Ngoài các sản<br />
phẩm chính ra, chế biến sắn sẽ tạo ra một<br />
lượng phụ phẩm lớn giúp ngành chăn nuôi.<br />
Tuy giá trị dinh dưỡng của chúng không cao<br />
nhưng cũng đem lại hiệu quả tích cực cho<br />
chăn nuôi. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho<br />
thấy rằng vấn đề nghiên cứu mức bổ sung,<br />
cách thức bổ sung và đưa ra các phương pháp<br />
chế biến thích hợp nhằm nâng cao khả năng<br />
tận dụng và cải thiện giá trị dinh dưỡng của<br />
nguồn phụ phẩm sử dụng trong chăn nuôi vẫn<br />
cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu để<br />
phát huy tối đa khả năng tiêu hóa của gia súc<br />
nhai lại và nguồn phụ phẩm công nông nghiệp<br />
ở nước ta hiện nay.<br />
‘’<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Bùi Văn Chính (1995), Nghiên cứu, chế biến và<br />
sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và nguồn thức ăn<br />
sẵn có ở nông thôn. Tuyển tập NCKH (69 - 95),<br />
Nxb Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Hà Nội.<br />
[2]. Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly (2001), Kết quả<br />
nghiên cứu chế biến nâng cao giá trị dinh dưỡng<br />
<br />
82(06): 59 - 63<br />
<br />
của một số phụ phẩm nông nghiệp quan trọng ở<br />
Việt Nam cho trâu, bò, Hội thảo về dinh dưỡng gia<br />
súc nhai lại, Hội Chăn nuôi Việt Nam.<br />
[3]. Cục Chăn nuôi Phát triển gia súc lớn, Việt<br />
Nam cơ hội và thách thức/77 – Hội thảo phát triển<br />
bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam, 2009<br />
[4]. Từ Quang Hiển, Nghiên cứu sử dụng lá sắn<br />
vào chăn nuôi lợn. KHKT Viện Chăn nuôi – Hà<br />
Nội 4/1983.<br />
[5]. Mai Thạch Hoành (2004), Kỹ thuật thâm canh<br />
sắn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.<br />
[6]. Hội Chăn nuôi Việt Nam (2003), Thức ăn<br />
chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc, Nxb Nông<br />
nghiệp, Hà Nội.<br />
[7]. Nguyễn Hải Quân, Nguyễn Xuân Bả (2008),<br />
“Ảnh hưởng của mức bổ sung bã sắn ủ chua đến<br />
lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa và một số chỉ số môi<br />
trường dạ cỏ của cừu được nuôi bằng rơm lúa”<br />
Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 46, 2008.<br />
[8]. Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg về việc phê<br />
duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm<br />
2020 của Thủ tướng Chính phủ.<br />
[9]. Phạm Sỹ Tiệp (1999), Nghiên cứu giá trị dinh<br />
dưỡng của một số giống sắn ở trung du và miền núi<br />
phía Bắc, ảnh hưởng của phương pháp chế biến<br />
đến thành phần hóa học của củ, lá và khả năng sử<br />
dụng bột sắn để vỗ béo lợn F1 (ĐB x MC), Luận án<br />
Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi.<br />
[10]. Mai Thị Thơm, Bùi Quang Tuấn (2006), “Sử<br />
dụng bã sắn ủ chua với cám đỗ xanh để vỗ béo bò<br />
thịt”, Tạp chí Khoa học nông nghiệp, số 2, 2006.<br />
[11]. Nguyễn Văn Thưởng (1993), Thức ăn cho<br />
gia súc, gia cầm – Thành phần hóa học, giá trị<br />
dinh dưỡng. Nxb Nông nghiệp Hà Nội.<br />
[12]. Bùi Quang Tuấn (2005), “Nghiên cứu ủ chua<br />
bã sắn làm thức ăn dự trữ cho trâu bò”, Tạp chí<br />
Chăn nuôi, số 9, 2005.<br />
[13]. Trịnh Văn Trung, Mai Văn Sánh, Nguyễn<br />
Công Định (2007), “Bổ sung bột lá sắn vào khẩu<br />
phần cỏ xanh và rơm ủ urê nuôi trâu tơ trong vụ đông<br />
xuân”, Tạp chí Khoa học công nghệ, số 5, 2007.<br />
[14]. Vũ Văn Tý (2002), Ảnh hưởng của bổ sung<br />
lá sắn ủ chua đến tỷ lệ tiêu hóa thức ăn, khả năng<br />
sinh trưởng và vỗ béo trâu tại trung tâm nghiên<br />
cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, Luận văn<br />
Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp, trường Đại học<br />
Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên.<br />
[15]. Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Xuân Bả, Bùi<br />
Văn Lợi(2008), “Đánh giá giá trị dinh dưỡng của<br />
bã sắn công nghiệp ủ chua với các phụ gia để làm<br />
thức ăn cho gia súc nhai lại”. Tạp chí Khoa học,<br />
ĐH Huế, số 46, 2008.<br />
[16]. Viện Chăn nuôi (2001), Thành phần và giá<br />
trị dinh dưỡng của thức ăn gia súc gia cầm Việt<br />
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.<br />
<br />
62<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Vũ Thị Lan và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
82(06): 65 - 69<br />
<br />
SUMMARY<br />
CURRENT USE OF CASSAVA AND CASSAVA BY-PRODUCTS FOR<br />
RUMINANT IN VIETNAM<br />
Nguyen Thi Hong Hanh and Nguyen Hung Quang∗<br />
College of Agriculture and Forestry - TNU<br />
In Vietnam cassava is one of the most important food crops, besides rice, maize and sweet potato.<br />
Cassava root is a high energy feed material. It is considered as good nutrition supply for pig,<br />
poultry and ruminant. Some researches have been focussing on processing and using of cassava<br />
and cassava by-products as animal feed. To make a good use source of by-products of industrial<br />
and agricultural production for ruminants in our country, a number of methods such as processing,<br />
storage, additional levels, additional appropriate manner and efficiency need continue to be<br />
important of investments have been investigated. Cassava bagasse is a by-product of cassava<br />
starch production process, which accounts for about 45% of the volume of raw cassava tubers.<br />
According to some research results, it could be ensiled of cassava bagasse and stored for ruminants<br />
feeding. However, cassava bagasse is very low crude protein content which ought to be<br />
supplemented with high-protein source to balance the level of nutrition and the supplementation<br />
should not exceed 40% of total dry matter in the diet. By-products: tops and cassava leaves are<br />
high availability of protein source, which is cheap and good for ruminants. They could be dried,<br />
dry crushed then grounded or ensiled for preservation and use. According to some research results,<br />
using cassava leaf meal for cattle at 1 to 1.5 kg/head /day would be good for fattening effect.<br />
Key words: Cassava, Processing, Cassava residue, Nutrition, Livestock.<br />
<br />
∗<br />
<br />
Tel: 0985588164<br />
<br />
63<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />