intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống (Penaeus monodon Fabricius, 1789) tại tỉnh Cà Mau

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

78
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điều tra hiện trạng kỹ thuật của nghề sản xuất giống tôm sú tại Cà Mau được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2010. Trong nghiên cứu này, 60 trong tổng số hơn 800 trại sản xuất tôm sú giống được điều tra ngẫu nhiên bằng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) nhằm tìm hiểu hiện trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tôm giống tại địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống (Penaeus monodon Fabricius, 1789) tại tỉnh Cà Mau

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2013<br /> <br /> KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br /> <br /> HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÔM SÚ<br /> GIỐNG (Penaeus monodon Fabricius, 1789) TẠI TỈNH CÀ MAU<br /> STATUS AND SOLUTION TO IMPROVE SEED QUALITY OF BLACK TIGER SHRIMP<br /> (Penaeus monodon Fabricius, 1789) IN CAMAU PROVINCE<br /> Tiết Tiến Dũng1, Lại Văn Hùng2<br /> Ngày nhận bài: 17/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 26/11/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Điều tra hiện trạng kỹ thuật của nghề sản xuất giống tôm sú tại Cà Mau được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6 năm<br /> 2010. Trong nghiên cứu này, 60 trong tổng số hơn 800 trại sản xuất tôm sú giống được điều tra ngẫu nhiên bằng phương<br /> pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) nhằm tìm hiểu hiện trạng và đề xuất các<br /> giải pháp nâng cao chất lượng tôm giống tại địa phương. Kết quả điều tra cho thấy, cơ sở trang thiết bị phục vụ sản xuất<br /> giống tôm sú cơ bản là đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật tuy còn có sự chênh lệch giữa các trại và phụ thuộc vào quy mô<br /> và khả năng đầu tư của chủ trại. Tôm sú bố mẹ được khai thác từ các vùng biển xa bờ sau đó được vận chuyển và xử lý<br /> hóa chất trước khi thả nuôi. Số lượng tôm bố mẹ qua kiểm dịch của các cơ quan chức năng còn chiếm tỷ lệ thấp. Ấu trùng<br /> mới nở được xử lý bằng formol (100 - 200 ppm) hoặc iodine (50 ppm). Cỡ tôm giống xuất thường ở giai đoạn Postlarvae<br /> (PL) 8 - 12 với tỷ lệ sống tới giai đoạn PL 10 đạt khoảng 23 - 65%. Sản lượng PL hàng năm đạt khoảng 5 - 7 tỷ con đáp<br /> ứng khoảng 1/3 nhu cầu tôm giống trong tỉnh. Nghiên cứu cũng đề xuất nhiều giải pháp liên quan đến kỹ thuật và quản lý<br /> nhằm nâng cao chất lượng tôm giống tại Cà Mau.<br /> Từ khóa: Cà Mau, chất lượng giống, giải pháp, kỹ thuật, Penaeus monodon, tôm bố mẹ, tôm sú<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Investigation into technical status of seed production industry of black tiger shrimp in Ca Mau province was<br /> conducted from January to June in 2010. In this survey, 60 hatcheries in the total of over 800 black tiger shrimp hatcheries<br /> were randomly selected and surveyed by the Rapid Rural Appraisal (RRA) and Survey Questionnaire (SQ) methods in<br /> order to learn about technical status and suggest solutions to improvement of seed quality in the locality. The result showed<br /> that, facilities and conditions for black tiger shrimp seed production in the area were basically satisfied the technical<br /> requirements although there were still different levels among hatcheries and depending on scales and capital investiment<br /> levels of farm owners. Black tiger shrimp broodstocks were exploited from open sea and then transported and chemical<br /> treated before stocking. The number of broodstocks quarantined by appropriate authorities still accounted for a low rate.<br /> Newly hatched larvae were treated by formol (100 - 200 ppm) or iodine (50 ppm). Selling postlarvae were often at the<br /> stages of 8 to 12 with survival rates ranging between 23 - 65%. Total annual postlarvae production were around 5 - 7<br /> billions, which met about one third of the provincial demand. The survey also put forward a large number of solutions<br /> related to techniques and managements in order to improve black tiger shrimp seed quality in Ca Mau.<br /> Keywords: Ca Mau, black tiger shrimp, broodstock, P. monodon, seed quality, solution, techniques<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm<br /> nuôi trồng thủy sản của cả nước với 2 nhóm đối<br /> tượng chủ lực là cá da trơn và tôm he [3]. Nghề nuôi<br /> tôm he nói riêng và tôm sú nói chung đã và đang giữ<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> một vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc<br /> làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của<br /> nhiều cộng đồng dân cư ven biển. Cà Mau là địa<br /> phương hội tụ đầy đủ các điều kiện tự nhiên thuận<br /> lợi để phát triển nghề sản xuất giống và nuôi tôm sú<br /> <br /> Tiết Tiến Dũng: Lớp Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang<br /> PGS.TS. Lại Văn Hùng: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> thương phẩm [5, 14]. Sự phát triển nhanh chóng và<br /> mạnh mẽ của nghề nuôi tôm sú thương phẩm đã<br /> đặt ra nhiều vấn đề thách thức không nhỏ cho sự<br /> phát triển của ngành liên quan đến việc giải quyết<br /> ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và nâng cao chất<br /> lượng tôm giống [13, 16].<br /> Hiện tại, đã có nhiều trại sản xuất tôm sú giống<br /> ở Cà Mau hoạt động có hiệu quả với sản lượng mỗi<br /> năm khoảng 5 - 7 tỷ con giống. Tuy nhiên, nhu cầu<br /> con giống thực tế tại địa phương cần khoảng 15 - 17<br /> tỷ con mỗi năm [5, 15]. Do đó, gần 2/3 lượng tôm<br /> sú giống phải nhập từ các địa phương khác mà chủ<br /> yếu là từ các tỉnh Nam Trung Bộ. Một thực trạng<br /> hiện nay là do đầu tư thiếu đồng bộ và sự quản lý<br /> còn nhiều bất cập dẫn đến số lượng con giống sản<br /> xuất ra tại địa phương vừa thiếu về số lượng và<br /> yếu về chất lượng [5, 9, 16]. Trong khi đó, việc mua<br /> giống từ các tỉnh Nam Trung Bộ thường kèm chi<br /> phí cao và rủi ro trong quá trình vận chuyển do thời<br /> gian và quãng đường dài. Do đó, nhiều thương lái<br /> đã tiến hành vận chuyển tôm giống không rõ nguồn<br /> gốc, không qua chứng nhận kiểm dịch từ các cơ<br /> quan chức năng, tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm dịch<br /> bệnh và nhiều trường hợp đã gây thiệt hại lớn cho<br /> người nuôi [5].<br /> Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc nâng cao<br /> chất lượng tôm sú giống đó là việc chưa chủ động<br /> tạo nguồn tôm sú bố mẹ sạch bệnh [8, 16]. Đã có<br /> một số nghiên cứu trong nước thực hiện nhằm sản<br /> xuất đàn tôm bố mẹ sạch bệnh nhưng cho đến nay<br /> vẫn chưa được ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn<br /> [22]. Trong khi đó, nguồn tôm sú bố mẹ nhập khẩu<br /> thường có chi phí rất cao, thủ tục nhập khẩu phức<br /> tạp và chất lượng tôm bố mẹ nhiều khi không ổn<br /> định [16]. Trong quá trình sản xuất, do chạy đua<br /> với lợi nhuận, nhiều trại sử dụng nguồn tôm bố mẹ<br /> không rõ nguồn gốc và chất lượng kém. Hơn nữa,<br /> nhiều trại còn tiến hành cho tôm mẹ đẻ nhiều lứa,<br /> ương nuôi với mật độ dày, lạm dụng thuốc kháng<br /> sinh và hóa chất và xuất tôm không có chứng nhận<br /> kiểm dịch của các cơ quan chức năng [18]. Hậu quả<br /> là, nguy cơ tôm nhiễm bệnh, năng suất, sản lượng<br /> và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm sú tại Đồng<br /> bằng Sông Cửu Long bị ảnh hưởng rất lớn trong<br /> thời gian gần đây [18]. Cà Mau là địa phương có<br /> tiềm năng rất lớn để trở thành một trong những vùng<br /> nuôi sản xuất giống và nuôi tôm lớn nhất cả nước,<br /> tuy nhiên, cần có những giải pháp đồng bộ để thúc<br /> đẩy tiềm năng này [14]. Chính vì vậy, nghiên cứu<br /> được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng và đề xuất<br /> các giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống tại<br /> Cà Mau.<br /> <br /> 90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 2/2013<br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Nghiên cứu được thực hiện thông qua phương<br /> pháp điều tra thu mẫu từ tháng 1 đến tháng 6 năm<br /> 2010. Số liệu thứ cấp về tình hình sản xuất giống<br /> tôm sú được thu từ Sở và các Phòng Nông nghiệp<br /> và Phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh Cà Mau.<br /> Trong nghiên cứu này, 60 trại sản xuất tôm sú giống<br /> trên địa bàn tỉnh được chọn ngẫu nhiên để tiến hành<br /> điều tra bằng phương pháp đánh giá nhanh nông<br /> thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ)<br /> [21, 26]. Những thông tin chính được thu thập gồm:<br /> thông tin chung về chủ trại, hệ thống công trình và<br /> trang thiết bị của trại giống, kỹ thuật xử lý nước, tôm<br /> bố mẹ, kỹ thuật cho đẻ và ương ấu trùng, các biện<br /> pháp phòng trị bệnh,… Các số liệu sau khi thu được<br /> tổng hợp và phân tích bằng phần mềm Microsoft<br /> Excel 2003 nhằm khái quát hiện trạng từ đó đề xuất<br /> các giải pháp nâng cao chất lượng tôm sú giống tại<br /> tỉnh Cà Mau. Các số liệu được trình bày dưới dạng<br /> trung bình ± độ lệch chuẩn, sai khác giữa các trung<br /> bình được thể hiện bằng các chữ cái (a, b, c) trong<br /> cùng một cột (P < 0,05).<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Trình độ của người sản xuất tôm sú giống ở<br /> Cà Mau<br /> Kết quả điều tra 60 trại sản xuất tôm sú giống cho<br /> thấy, nhân lực có trình độ chuyên môn (từ trung cấp<br /> trở lên) trong các trại tôm sú giống thường có chiếm<br /> tỷ lệ rất thấp chỉ 12% trong khi số người không có<br /> trình độ chuyên môn chiếm tỷ lệ cao (88%). Những<br /> người không có trình độ chuyên môn thường vận<br /> hành trại giống dựa trên kinh nghiệm của bản thân,<br /> trao đổi với những trại xung quanh, tham gia các lớp<br /> tập huấn hoặc hội thảo do các công ty hoặc Trung<br /> tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tổ chức. Mặc dù<br /> chiếm tỷ lệ thấp, nhưng sản lượng tôm giống sản<br /> xuất ra từ các trại có trình độ chuyên môn lại chiếm<br /> số lượng lớn hơn 25,6±1,28 so với 21,0 ± 1,29 triệu<br /> giống (P < 0,05).<br /> 2. Hiện trạng kỹ thuật nghề sản xuất giống tôm<br /> sú tại Cà Mau<br /> 2.1. Hệ thống trại sản xuất<br /> Cơ sở trang thiết bị phục vụ sản xuất giống<br /> tôm sú ở các trại là khá đầy đủ và tùy thuộc vào<br /> quy mô của trại giống. Nhìn chung bể nuôi vỗ tôm<br /> bố mẹ và ương nuôi ấu trùng là các bể xi măng có<br /> dạng hình vuông và hình chữ nhật. Tổng thể tích bể<br /> ương dao động trong khoảng 60 - 300 m3/trại. Kết<br /> quả điều tra cũng cho thấy, sản lượng tôm sú giống<br /> có tương quan thuận với thể tích bể ương của trại.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2013<br /> <br /> Trại giống có thể tích lớn hơn cho sản lượng tôm<br /> giống cao hơn: với trại có thể tích 140 - 270 m3 cho<br /> sản lượng 26,9 ± 1,17 triệu giống/năm trong khi các<br /> trại có thể tích nhỏ hơn 90 - 140 m3 và 60 - 90 m3<br /> cho sản lượng thấp hơn lần lượt là 23,2 ± 1,36 và<br /> 20,6 ± 1,68 triệu giống/năm (P
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2