intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiện trạng và mức độ tiếp cận của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương - Phúc lợi xã hội: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:159

11
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách "Phúc lợi xã hội - hiện trạng và mức độ tiếp cận của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương" phần 1 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Phúc lợi xã hội - những tiền đề lý thuyết và cơ sở pháp lý; đặc điểm đội ngũ và đời sống của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương; thực trạng tiếp cận phúc lợi xã hội của người công nhân. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiện trạng và mức độ tiếp cận của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương - Phúc lợi xã hội: Phần 1

  1. PHÚC LỢI XÃ HỘI HIỆN TRẠNG VÀ MỨC ĐỘ TIẾP CẬN CỦA CÔNG NHÂN NHẬP CƯ TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG
  2. 32(V)2 Mã số: CTQG - 2015
  3. PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC LỘC - PGS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP (Đồng chủ biên) PHÚC LỢI XÃ HỘI HIỆN TRẠNG VÀ MỨC ĐỘ TIẾP CẬN CỦA CÔNG NHÂN NHẬP CƯ TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG (SÁCH CHUYÊN KHẢO) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT Hà Nội - 2015
  4. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Từ khi Đảng ta chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới và thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã có những thay đổi tích cực trên mọi mặt. Đời sống người dân được cải thiện rõ nét. Tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh, thành thu hút nguồn vốn đầu tư lớn của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nên có rất nhiều công nhân từ những nơi khác đến làm việc và sinh sống. Bên cạnh những mặt tích cực là giải quyết nguồn nhân lực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tỉnh Bình Dương đang phải đối mặt với nhiều vấn đề của sự tăng dân số cơ học và các chính sách phúc lợi xã hội dành cho công nhân, đặc biệt là công nhân trong các khu chế xuất, khu công nghiệp. Hiện nay, đa số công nhân đều thuê phòng trọ do người dân địa phương kinh doanh trong điều kiện thiếu thốn cơ sở hạ tầng như: chợ, cơ sở y tế, nhà trẻ, trường học; đời sống văn hóa tinh thần nhìn chung rất đơn điệu và tẻ nhạt... Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương quan tâm đến hệ thống phúc lợi cho người dân và chính quyền tỉnh Bình Dương cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc thực thi trách nhiệm phúc lợi đối với người dân nói chung và công nhân nói riêng. Tuy nhiên, các phúc lợi xã hội dành cho công nhân hiện vẫn còn ở mức rất hạn chế, cơ sở vật chất và hệ thống phúc lợi địa phương ngày càng quá tải, chưa đáp ứng được nhu cầu của công nhân và nhân dân địa phương. Công nhân trong các khu công nghiệp ở Bình Dương đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro và khó khăn... 5
  5. Để nghiên cứu góp phần tìm ra các giải pháp cho vấn đề này, PGS. TS. Nguyễn Đức Lộc và PGS. TS. Nguyễn Văn Hiệp đã cùng các cộng sự tiến hành khảo sát và đi sâu tìm hiểu mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội của công nhân, tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp trên địa bàn 4 huyện, thị xã là: Dĩ An, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát. Qua đó, so sánh, đối chiếu và khái quát bức tranh chung về hiện trạng, mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội của công nhân tỉnh Bình Dương, bước đầu cung cấp các luận cứ khoa học cho các nhà quản lý xã hội giải quyết các vấn đề thực tiễn mà quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang đặt ra. Xin giới thiệu cuốn sách Phúc lợi xã hội - hiện trạng và mức độ tiếp cận của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương và rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Tháng 5 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6
  6. LỜI NÓI ĐẦU Nhìn vào thực trạng đời sống công nhân hiện nay tại tỉnh Bình Dương cũng như các đô thị lớn khác ở Việt Nam, chúng ta thấy được rõ những khó khăn mà công nhân ngày nay đang gặp phải. Công nhân ngày nay đa phần phải rời xa quê hương đến tập trung tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Mong muốn của họ trong cuộc mưu sinh không có gì khác hơn là ước mơ đổi đời, nhưng cuối cùng hiện thực lại là cuộc sống tạm bợ như những người nghèo thành thị. Họ là “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống của họ đều phụ thuộc vào số cầu người lao động, tức là vào tình hình chuyển hướng tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không có gì ngăn nổi”1. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta từ động lực lao động giá rẻ, hệ thống phúc lợi xã hội dành cho người lao động mặc nhiên là trách nhiệm của nước sở tại. Khi chuyển sang mô hình “xã hội hóa” các tiểu hệ thống phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, nhà ở... thì gánh nặng chi phí cuộc sống tiếp tục đè lên vai gia đình và bản thân người lao động. Xu hướng thay đổi của các hệ thống phúc lợi xã hội từ sau thời kỳ đổi mới (đặc biệt trong 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.4, tr.4. 7
  7. lĩnh vực giáo dục và y tế) cho thấy hiện tượng “hàng hóa hóa” các dịch vụ bảo trợ xã hội đang diễn ra một cách thường xuyên. Người dân muốn hưởng dụng một số dịch vụ thì phải bỏ tiền, thậm chí phải trả giá cao để có được dịch vụ tốt. Một hệ thống phúc lợi xã hội toàn diện sẽ cho thấy được nghĩa vụ của mỗi người đối với việc bảo đảm đời sống cho bản thân và cộng đồng. Nhưng xu hướng “hàng hóa hóa” hiện nay đang khiến cho phúc lợi xã hội ngày càng khó tiếp cận đối với những người lao động có thu nhập thấp. Trong khi đó, khi tình trạng khủng hoảng kinh tế càng trở nên phức tạp thì công nhân lại càng bị đặt vào những tình thế khó khăn hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho giai cấp công nhân, là lực lượng tiên phong trong tiến trình phát triển xã hội, đang phải chịu thách thức trước những khó khăn trong cuộc sống. Lạm phát đã ảnh hưởng đến tất cả người dân Việt Nam, đặc biệt là người nghèo. Trong tình hình đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X họp tại Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 22-1-2008 đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28-1- 2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết ra đời có ý nghĩa rất quan trọng, bởi đây là lần đầu tiên Đảng ta ra Nghị quyết chuyên đề về giai cấp công nhân. Ngày 17-4-2008, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010-2015) cũng đã đề ra mục tiêu về an sinh xã hội là: “Cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường”1. 1. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX, diễn ra từ ngày 27-9 đến ngày 30-9-2010, tr.219. 8
  8. Mặc dù đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị hướng đến mục tiêu nâng cao mức sống và bảo đảm an sinh xã hội cho người dân nói chung và công nhân nói riêng, nhưng các nghiên cứu có trước và các tài liệu liên quan cho thấy đa phần công nhân đang phải sống trong cảnh thiếu thốn về các điều kiện vật chất và quan hệ xã hội. Bởi đa phần công nhân xuất thân từ nông thôn đến thành thị lao động kiếm sống, họ không có tay nghề chuyên môn mà chỉ làm những việc phổ thông và thường phải sống trong hoàn cảnh khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Chưa kể những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra như tai nạn lao động, mất việc làm, đau ốm hay sinh con nhỏ. Có thể nói vốn xã hội (social capital) của họ rất nghèo và mạng liên kết xã hội (social network) rất mỏng1. Bên cạnh đó, cuộc sống sẽ khó khăn hơn khi công nhân lập gia đình và sinh con. Bởi vì tuy có thêm một thành viên trong gia đình là niềm vui cho đôi vợ chồng, nhưng đi kèm theo đó là nỗi lo lắng với những khoản chi phí cho con cái. Việc nghiên cứu thực trạng hệ thống an sinh xã hội với mục tiêu nâng cao đời sống cho công nhân tại các khu công nghiệp là một việc rất cần thiết để tìm ra giải pháp cho những vấn đề nêu trên. Bởi công nhân là lực lượng lao động góp phần chính trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Lực lượng lao động dồi dào này đã mang những lợi ích to lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng đồng thời họ cũng đang gặp những trở ngại về kỹ năng nghề nghiệp, phong tục tập quán, điều kiện sống,... trong bối cảnh vấn đề xây dựng và áp dụng hệ thống phúc lợi dành cho công nhân chưa được quan tâm đúng mức làm ảnh hưởng ít nhiều 1. Nguyễn Minh Hòa: Vai trò của tổ chức trong việc chăm lo đời sống văn hóa tinh thần trong các khu công nghiệp tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đời sống văn hóa tinh thần của công nhân tại các khu chế xuất - khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12-2005, tr.89. 9
  9. đến năng suất lao động. Chính vì vậy, chúng tôi hy vọng cuốn sách này trên cơ sở những tư liệu thực tiễn, được phân tích dưới góc độ khoa học, sẽ giúp các cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương nhận diện được thực trạng hệ thống phúc lợi của công nhân, để xây dựng chính sách an sinh xã hội phù hợp, giúp công nhân yên tâm làm việc, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Bình Dương. Cuốn sách này là kết quả nghiên cứu về chính sách và hiện trạng, mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội của công nhân tỉnh Bình Dương mà chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trong nhiều năm qua với các nội dung chính yếu: (1) Đánh giá việc thực hiện chính sách phúc lợi của nhà nước, doanh nghiệp đối với công nhân; (2) Mức độ tiếp cận những chính sách này của công nhân; (3) Những hệ lụy có thể nảy sinh từ hiện trạng chất lượng cuộc sống của người công nhân đối với các đối tượng có liên quan như bản thân người công nhân với tư cách chủ thể, doanh nghiệp và nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương; (4) Xác định các mô hình phúc lợi xã hội cũng như trách nhiệm xã hội của các bên liên quan trong bối cảnh toàn cầu hóa với hiện tượng chuyển dịch nguồn vốn giữa các quốc gia đi đôi với việc gánh vác trách nhiệm phúc lợi xã hội giữa doanh nghiệp và các quốc gia sở tại. Với lối tiếp cận liên ngành xã hội học, dân tộc học và nhân học xã hội, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tại 4 thị xã/ huyện tập trung nhiều khu công nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Bình Dương: (1) thị xã Dĩ An, (2) thị xã Thuận An, (3) huyện Bến Cát và (4) huyện Tân Uyên. Sở dĩ chúng tôi chọn địa bàn nghiên cứu như vậy là vì mỗi địa bàn kể trên có những đặc điểm riêng và mang tính đại diện cho loại hình các khu công nghiệp tại tỉnh Bình Dương (xét cả hai chiều kích không gian phân bố và quá trình hình thành). Việc tiến hành khảo sát cùng lúc 4 địa bàn giúp chúng tôi có được cái nhìn so sánh, 10
  10. đối chiếu, đồng thời từ đó có thể khái quát được bức tranh chung về hiện trạng, mức độ tiếp cận phúc lợi xã hội của công nhân tỉnh Bình Dương. Về phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật khảo sát, chúng tôi đã tiến hành các tuyến khảo sát như thu thập thông tin định lượng (bảng hỏi anket), thu thập và xử lý thông tin định tính (thu thập dữ liệu thứ cấp và quan sát tham dự). Tổng mẫu khảo sát định lượng bao gồm 800 đơn vị mẫu được phân bổ đồng đều giữa 4 địa bàn nghiên cứu tập trung đông đảo công nhân đang sinh sống và làm việc tại các doanh nghiệp, trong đó: thị xã Dĩ An (200 đơn vị mẫu), thị xã Thuận An (200 đơn vị mẫu), huyện Bến Cát (200 đơn vị mẫu) và huyện Tân Uyên (200 đơn vị mẫu). Mỗi thị xã/huyện lại chọn hai xã/thị trấn theo tiêu chí một nằm gần trung tâm khu công nghiệp, một nằm ở ngoại vi khu công nghiệp. Ở cấp xã/thị trấn, chúng tôi tiếp tục chọn hai khu phố/ấp, mỗi phố/ấp sẽ chọn ra 50 công nhân trong tổng số công nhân đang có trên địa bàn bằng cách tiến hành chọn mẫu theo nguyên tắc ngẫu nhiên có hệ thống theo danh sách công nhân tạm trú được các địa phương cung cấp. Hiện nay, các ngành khoa học như nhân học, xã hội học, chính trị học, công tác xã hội... đã và đang tham gia vào nghiên cứu và góp phần giải quyết các vấn đề mang tính lý thuyết, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa học cho các nhà quản lý xã hội giải quyết các vấn đề thực tiễn mà quá trình đô thị hóa ở nước ta đang đặt ra. Hy vọng cuốn sách này góp phần làm phong phú, đa dạng thêm kho tri thức cho các ngành khoa học có liên quan khi nghiên cứu về những vấn đề văn hóa - xã hội của các nhóm dân cư, đặc biệt là người công nhân nhập cư. Các sinh viên, học viên cao học và những nhà nghiên cứu quan tâm có thể xem đây là một nghiên cứu cụ thể về hệ thống phúc lợi xã hội dành cho người công nhân, từ đó có thể tham khảo, 11
  11. tiếp tục khám phá tri thức khoa học trên cơ sở những nghiên cứu thực tiễn này. Trong khuôn khổ của cuốn sách này, chúng tôi chưa thể trình bày hết những dữ liệu mà người công nhân cung cấp và chắc chắn rằng còn nhiều điều thiếu sót. Chúng tôi xin nhận hết những thiếu sót về phần mình và xin chân thành cảm ơn những chỉ bảo, góp ý của quý vị tiền bối và các đồng nghiệp gần xa. NHÓM TÁC GIẢ 12
  12. LỜI CÁM ƠN Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến: - Đối tượng chính của công trình nghiên cứu này là những công nhân nhập cư đang sinh sống và làm việc tại các khu công nghiệp thuộc hai thị xã Dĩ An, Thuận An và hai huyện Bến Cát, Tân Uyên đã dành nhiều thời gian cho việc chia sẻ thông tin liên quan đến cuộc sống mưu sinh của mình cho chúng tôi. - Sở Khoa học và Công nghệ Bình Dương, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Thủ Dầu Một là các cơ quan chủ quản, đơn vị chủ trì, bảo trợ cho chúng tôi trong việc nghiên cứu và xuất bản cuốn sách này. - Các cộng sự đã có nhiều thời gian cùng tham gia thu thập và xử lý thông tin liên quan đến công trình nghiên cứu này: GV. Lê Thị Mỹ Dung, ThS. Đỗ Hồng Quân, ThS. Lê Thị Hiếu, ThS. Nguyễn Thị Tuyết Thanh, ThS. Lê Thị Ngọc Phúc, ThS. Phan Thị Kim Liên. - GS.TS. Ngô Văn Lệ, PGS.TS. Trần Thị Kim Xuyến, TS. Trương Thị Thu Hằng, TS. Ngô Xuân Điệp và ThS. Dương Hiền Hạnh đã góp ý cho bản thảo cuốn sách được hoàn chỉnh trước khi công bố đến bạn đọc gần xa. NHÓM TÁC GIẢ 13
  13. Chương 1 PHÚC LỢI XÃ HỘI - NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ Ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển, các cơ quan chức năng lại càng chú trọng hơn đến vấn đề an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho người dân, bởi sự phát triển của một xã hội không đánh giá đơn thuần trên lĩnh vực kinh tế mà còn được xem xét ở nhiều khía cạnh khác. Một trong những khía cạnh được quan tâm là xây dựng hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội toàn dân. Tuy nhiên, để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội hoàn chỉnh, thích hợp thì trước hết phải hiểu rõ những khái niệm như an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo trợ xã hội, trợ cấp xã hội và một số khái niệm liên quan khác. 1. Các khái niệm và quan điểm tiếp cận a) Phúc lợi xã hội Xét về mặt từ vựng, Hán - Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, “phúc lợi” là “hạnh phúc và lợi ích”1. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên không có định nghĩa về những cụm từ như “phúc lợi xã hội”, “an sinh xã hội”, “an sinh” mà chỉ có cụm từ “phúc lợi”, “bảo trợ” và “bảo hiểm xã hội”. Tuy xuất bản cách đây chưa lâu, 1. Đào Duy Anh: Hán - Việt từ điển giản yếu, Sài Gòn, Nxb. Trường Thi, in lần thứ ba, 1957, tr.137. 15
  14. nhưng cuốn từ điển này vẫn sử dụng định nghĩa “phúc lợi” là “lợi ích cộng đồng mà người dân được hưởng không phải trả tiền hoặc chỉ phải trả một phần”1. Đây là định nghĩa ra đời trong bối cảnh trước thời kỳ đổi mới, bởi khi đó Nhà nước còn bao cấp cho người dân ở nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, y tế, v.v.. Thuật ngữ “phúc lợi xã hội” trong tiếng Việt tương ứng với cụm từ “social welfare” trong tiếng Anh, còn “phúc lợi” tương ứng với cụm từ “welfare”. Trong Từ điển Xã hội học, nhà xã hội học người Anh Gordon Marshall đã đưa ra định nghĩa: “Phúc lợi là tình trạng hoặc điều kiện làm ăn khấm khá [well- doing]) hoặc sinh sống đàng hoàng hạnh phúc [well- being]”. Theo ông, lúc đầu phúc lợi gắn liền với những chính sách để đáp ứng nhu cầu của cá nhân hoặc nhóm. Các nhu cầu ở đây không chỉ có cái ăn, cái mặc mà còn là nhu cầu nhà ở, giáo dục, y tế và cơ hội có việc làm. “Không phải chỉ có những nhu cầu tối thiểu để sinh tồn, mà bao gồm cả những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống tử tế, xứng đáng [a reasonable and adequate life]. Các nhu cầu này không chỉ có cái ăn, cái mặc, mà còn bao gồm nhà ở đàng hoàng, giáo dục, y tế và cơ hội có việc làm”2. Trước tiên, chúng tôi xin lược qua những khái niệm “phúc lợi xã hội” của các học giả nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Nhà xã hội học người Anh Thomas H. Marshall được xem là người có công gắn khái niệm phúc lợi (welfare) với khái niệm quyền công dân (citizenship), ông cho rằng: quyền được hưởng phúc lợi (welfare rights) là nhóm quyền thứ ba mà các thành 1. Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, 1992, tr.780. 2. Gordon Marshall, 1998, A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press, tr.701-702. Dẫn lại theo Trần Hữu Quang (Trần Hữu Quang, 2010, tr.33-34). 16
  15. viên của xã hội đã giành được trong thế kỷ XX sau nhóm các quyền dân sự và nhóm các quyền chính trị1. Trong bài viết “Citizenship and Social Class” (1949), ông định nghĩa “quyền công dân” gồm có ba thành tố: quyền công dân về mặt dân sự, về mặt chính trị và về mặt xã hội. Marshall khẳng định rằng việc được hưởng các khoản phúc lợi cần quan niệm như một quyền mang tính pháp lý (universality), dựa trên nguyên tắc phổ quát, chứ không phải dựa trên quyền ấn định của những cơ quan có thẩm quyền (discretionary)2. Phúc lợi xã hội là mục tiêu mà mọi quốc gia trên thế giới đều hướng tới. Năm 1950, trong Báo cáo Điều tra phúc lợi xã hội quốc tế lần I ở Anh, Hiệp hội Phúc lợi xã hội nước này cho rằng: “Phúc lợi xã hội từ trước tới nay không phải chỉ là các hoạt động liên quan đến phúc lợi đối với người già, người tàn tật, tội phạm, tức là những người cần có sự quan tâm đặc biệt. Ở đây, phúc lợi xã hội được hiểu một cách rộng rãi hơn và để chỉ hoạt động này người ta đưa ra khái niệm “social service” (tạm dịch: dịch vụ xã hội). Như vậy, phúc lợi xã hội bao gồm cả lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nhà ở, hoạt động cứu trợ...”3. Nhật Bản là một trong những nước có bước đột phá về sự phát triển kinh tế và xã hội sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Họ đã ý thức được rằng sự phát triển của một đất nước không chỉ dựa trên sự phát triển đơn lẻ của lĩnh vực kinh tế, nên từ rất sớm, Nhật Bản đã chú trọng phát triển khía cạnh xã hội, đầu tư vào phúc lợi xã hội. Chính phủ Nhật Bản chọn 1. Trần Hữu Quang (chủ biên): Cơ sở dữ liệu, thông tin và tri thức phục vụ chiến lược nghiên cứu 2006-2010 của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, 2010, tr.42. 2. Gordon Marshall, A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press, 1998, tr.702, dẫn lại theo Trần Hữu Quang (Trần Hữu Quang, 2009, tr.37). 3. Nguyễn Duy Dũng: Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.24. 17
  16. năm 1973 làm năm khởi đầu của “phúc lợi xã hội”. Nhưng từ năm 1946, nước này đã có khái niệm phúc lợi xã hội, nêu lên tình hình biến động trong đất nước, đồng thời đề cập đến giải pháp mà cả Nhà nước và người dân Nhật Bản cùng cố gắng thực hiện để khắc phục những biến động đó: Khi gặp những sự biến đổi, trước tiên, chính người dân phải tập thích nghi; những người không có khả năng thích nghi thì Chính phủ mới can thiệp, giúp đỡ. Phương tiện để can thiệp, hỗ trợ những người không đủ khả năng chống chọi với sự biến đổi của xã hội chính là những chính sách phúc lợi xã hội: “Cùng với sự biến động về kinh tế - xã hội, cuộc sống của con người cũng biến đổi. Điều này buộc mọi người phải tự thích nghi với tình hình biến đổi đó. Trong quá trình tự thích nghi này, có người có năng lực, có khả năng thích nghi được, cũng có người không đủ khả năng. Chính sách phúc lợi xã hội chính là các biện pháp nhằm giúp những người không đủ khả năng đó có thể có được cuộc sống bình thường như những người khác. Những người không có đủ khả năng đó là người già, trẻ em, người tàn tật, thần kinh, ốm đau, bệnh tật, người có thu nhập thấp, v.v.. Vì vậy, đối với những người này, cùng với chính sách hỗ trợ về kinh tế, cần phải có chính sách phúc lợi xã hội đa dạng”1. Để nhấn mạnh đến chức năng của các chính sách phúc lợi xã hội, một quan niệm khác ra đời ở Nhật Bản. Chính sách này được Nguyễn Duy Dũng, trong cuốn sách Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản, đánh giá là khá phổ biến và ngày càng được nhiều người ủng hộ. Đó là định nghĩa được nêu ra trong Báo cáo Điều tra phúc lợi xã hội và giáo dục quốc tế lần thứ V, năm 1971: “Phúc lợi xã hội là biện pháp, thủ tục hỗ trợ một cách gián tiếp và là dịch vụ xã hội nhằm tăng cường phúc lợi cho mỗi cá nhân, với mục đích cải 1. Nguyễn Duy Dũng: Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản, Sđd, tr.26. 18
  17. thiện mối quan hệ và công việc xã hội đối với mỗi thành viên trong xã hội. Biện pháp này được tiến hành ở tất cả mọi trình độ, cấp độ xã hội từ cá nhân, đoàn thể đến toàn xã hội. Phúc lợi xã hội ngoài việc đóng góp bảo đảm sức khỏe, giáo dục, còn nhằm cải thiện và nâng cao đời sống, công việc cho mọi người. Nó là biện pháp tổng hợp toàn diện để giải quyết các vấn đề của cá nhân và xã hội hiện tại”1. Khi xã hội thay đổi, đời sống, hoàn cảnh của người dân cũng thay đổi theo. Để tiếp tục đáp ứng cho sự phát triển của xã hội, trong “Kế hoạch bảy năm về kinh tế - xã hội” năm 1979, Nhật Bản đã đưa ra một định nghĩa khác: phúc lợi xã hội là “hoàn thiện cơ sở y tế, khám chữa bệnh, xây dựng các trung tâm dành cho người già bị liệt, người thần kinh nặng với mục đích là tạo điều kiện cho người già và người thần kinh tham gia vào đời sống xã hội, đưa ra các chính sách động viên, khuyến khích bổ sung và mở rộng dịch vụ giúp đỡ tại nhà, dịch vụ dài ngày, dịch vụ ngắn hạn, phục hồi chức năng cho người già, người tàn tật, giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em”2. Do có nhiều định nghĩa nên “phúc lợi xã hội” vẫn còn là một khái niệm chưa thống nhất ở Nhật Bản. Trong tác phẩm nêu trên, Nguyễn Duy Dũng đưa ra những tranh luận về các khái niệm như bảo đảm xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và an toàn xã hội, v.v.. Đặc biệt, các tranh luận này thường xoay quanh khái niệm phúc lợi xã hội và bảo đảm xã hội. “Ở Nhật Bản hiện nay trong giới chuyên môn về phúc lợi xã hội đang tranh luận về phạm vi sử dụng hai thuật ngữ “bảo đảm xã hội” và “phúc lợi xã hội”. Một loại ý kiến cho rằng, bảo đảm 1. Nguyễn Duy Dũng: Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản, Sđd, tr.27. 2. Từ điển “phúc lợi xã hội”, 1988, Hiệp hội Phúc lợi xã hội Nhật Bản xuất bản, tr.213, dẫn lại theo Nguyễn Duy Dũng, 1998, tr.27. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2