BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA Ở HUYỆN KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA Ở HUYỆN KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: : 60 31 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS Chử Văn Tuyên
HÀ NỘI 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Chương 1 Trang 3 10 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA Ở HUYỆN
1.1. KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM Dồn điền đổi thửa và hiệu quả sử dụng đất nông 10
1.2. nghiệp sau dồn điền đổi thửa. Thực trạng sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa ở 31
Chương 2 huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 50
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA Ở
2.1. HUYỆN KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM. Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất 50
nông nghiệp ở Kim Bảng sau dồn điền đổi
2.2. thửa. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả 62
sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Kim Bảng hiện
nay
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC. 85 86 90
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
4
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Dồn điền đổi thửa DĐĐT
Hiệu quả sử dụng đất HQSDĐ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH
Nông nghiệp, nông thôn NN,NT
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Quan hệ sản xuất QHSX
Lực lượng sản xuất LLSX
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định
nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề mang tính chiến lược cơ bản,
lâu dài trong hoạch định, tổ chức thực hiện các chính sách vĩ mô, các chương
trình các dự án phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Sự chuyển dịch kép từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường cùng quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá với những mục tiêu có
tính đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội...đòi
hỏi chúng ta phải nhanh chóng xác định phương thức huy động, quản lý và
sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu, trong đó đặc biệt là tài nguyên đất.
Đây là yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường sức mạnh an ninh, quốc phòng của đất nước. Bởi vì, không phải chỉ
với chúng ta hiện nay mà trong mọi thời đại, với mọi quốc gia dân tộc, đất
đai luôn luôn là nguồn tài nguyên và cũng là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành tố cơ bản và quyết định nhất đến sự ổn định môi trường sống (cả môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội) của con người. Thực tiễn đã chứng
minh, quyền sở hữu và quyền sử dụng đất luôn mang yếu tố lịch sử, kinh
tế, chính trị, xã hội sâu sắc. Với nước ta hiện nay, lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn và người nông dân vẫn đang nảy sinh nhiều vấn đề mang tính thời
sự có liên quan trực tiếp tới đất đai, cần được quan tâm xem xét giải quyết.
Hà Nam nằm ở phía nam Đồng bằng sông Hồng, là tỉnh đất chật,
người đông, sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi) đang
trong quá trình chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, nhưng nhìn chung
vẫn còn ở trình độ lạc hậu, năng suất lao động và tỷ trọng nông phẩm hàng
hoá thấp. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là diện tích đất
canh tác bình quân đầu người không nhiều, lại bị phân chia thành nhiều
6
mảnh, thửa manh mún. Điều đó gây ra không ít khó khăn trở ngại cho quá
trình phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn,
hiện đại.
Khắc phục tình trạng này, các địa phương trong tỉnh Hà Nam đã cơ
bản hoàn thành chủ trương “Dồn điền đổi thửa”, thực chất là chuyển đổi
quyền sử dụng để tập trung ruộng đất thâm canh, chuyên canh cây trồng,
vật nuôi cho năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc dồn
điền, đổi thửa chỉ là điều kiện cần, còn những điều kiện đủ để nâng cao
hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa, cần phải tiếp tục tổng kết thực
tiễn, bổ sung lý luận để hoàn thiện các chính sách liên quan nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả chọn đề tài nghiên cứu
“Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điển đổi thửa ở huyện Kim
Bảng tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ - chuyên ngành kinh tế học chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông nghiệp, về đất và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội ở các góc
độ tiếp cận, phạm vi khác nhau. Có thể khái quát thành các nhóm công trình
nghiên cứu sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn
- Lại Ngọc Hải: Sự phát triển của quan hệ sản xuất trong nông nghiệp
và tác động của nó đối với củng cố quốc phòng trong chặng đầu của thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Luận án PTS khoa học quân sự (1991), Học
viện Chính trị - Quân sự (nay là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng)
- Lê Minh Vụ: Phát triển kinh tế nông thôn hàng hoá và tác động của
nó đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang ở Việt Nam hiện nay, Luận
án PTS khoa học quân sự(1996), Học viện Chính trị -Quân sự (nay là Học
viện Chính trị- Bộ Quốc phòng)
7
- Trần Xuân Châu: Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt
Nam hiện nay, Luận án TS kinh tế (2002), Học viện Chính trị quốc gia
- Phạm Anh Tuấn: Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở Việt Nam, Luận án TS
kinh tế (2004), Học viện Chính trị - Quân sự (nay là Học viện Chính trị - Bộ
Quốc phòng)
- Lê Thuỳ Hương: Về kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, luận
văn thạc sĩ (2003), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Lê Văn Điền: Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải
Dương, Luận văn thạc sĩ (2012), Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Các đề tài nghiên cứu trên đã đề cập và luận giải một cách tương đối có
hệ thống vai trò của sản xuất nông nghiệp, người nông dân và kinh tế nông
thôn trong sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc phòng- an ninh của đất nước. Có đề tài đi sâu vào việc phân tích sự
vân động, biến đổi sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn dưới góc độ quan
hệ sản xuất hoặc lực lượng sản xuất và có đề cập đến các chính sách vĩ mô
liên quan đến quyền sử dụng, quản lý đất nông nghiệp, tập trung ruộng đất;
đào tạo phát triển nguồn nhân lực, huy động và sử dụng vốn, liên kết hợp tác
trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn ...Nhiều kiến nghị do
các tác giả luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề xuất đã được nghiên cứu, sử
dụng làm luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách kinh tế-xã hội ở
các cấp, ngành, địa phương khác nhau.
- Vũ Văn Phúc: Đổi mới hợp tác xã và nhu cầu hợp tác của người lao
động hiện nay ở nông thôn Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, HN 2003.
- Chu Thị Hảo: Lý luận hợp tác xã, quá trình phát triển hợp tác xã
nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2003
- Phạm Thị Cần, Nguyễn Văn Kỷ, Vũ Văn Phúc: Kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, HN 2004.
8
- Nguyễn Như Hà: Hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà Nội 2005
- Nguyễn Thị Hồng Lâm: Hợp tác xã ở nước ta hiện nay, những vấn đề
đặt ra và phương hướng phát triển, Nxb Lao động, Hà Nội 2005
- Nguyễn Minh Tú: Phát triển kinh tế hợp tác xã ở nước ta, Tạp chí
Cộng sản, số 16(8-2004)
- Nguyễn Thị Mỹ Hương: Một số cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
phát triển kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay, Tạp chí Kinh tế và phát triển số
4 - 2006
Các sách tham khảo, bài báo khoa học trên, đã đi sâu phân tích mô hình
tổ chức kinh tế nông nghiệp và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới các chính
sách kinh tế, xã hội (trong đó đặc biệt là chính sách quản lý, sử dụng đất nông
nghiệp) nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và đời sống
người nông dân phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời tác giả của các công
trình trên cũng chỉ ra được những tồn tại, yếu kém; những khó khăn trở ngại
của nông nghiệp nước ta trong điều kiện mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế
thị trường.
* Nhóm công trình nghiên cứu về sử dụng đất nông nghiệp và dồn
điền đổi thửa
- Nguyễn Sinh Cúc: Ổn định đất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia, Tạp chí Lý luận chính trị số 9/2008
- Trần Thị Minh Châu: Chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam, Tạp
chí Cộng sản, số 824/2011
- Lê Đình Hiếu: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi
thực hiện chính sách đồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Gia Bình- tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp (2011), Trường Đại học Nông nghiệp 1
Hà Nội.
9
- Lê Thị Thanh Xuân: Đánh giá tác động của chính sách dồn điền đổi
thửa đến việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Kim Bảng – tỉnh Hả Nam,
Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, chuyên ngành quản lý đất đai, Trường Đại học
Nông nghiệp 1 Hà Nội.
- PGS, TS Vũ Trọng Khải: Tích tụ ruộng đất nông nghiệp xét trên khía
cạnh kinh tế, http://kinhtenongthon.com.vn/VandeSukien/2008/8/13095
Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến vai trò đặc biệt quan
trọng của đất đai; thực trạng quản lý, sử dụng đất nông nghiệp (chủ yếu là
những bất cập) ở một số địa phương cũng như trên phạm vi cả nước nói
chung. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý, sử
dụng tài nguyên đất hiệu quả nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Một số nội dung đề cập đến vấn đề giao đất, sử dụng đất, tranh chấp đất
đai...nhưng chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng đất sau dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp ở một huyện khu vực Đồng
bằng sông Hồng, tiếp cậndưới góc độ kinh tế học chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp trong và sau quá trình “dồn điền đổi thửa” ở huyện Kim Bảng
tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện trong những năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến chính sách “Dồn điền đổi
thửa” và nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
ở huyện Kim Bảng hiện nay.
Khảo sát đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất trong phát triển sản
xuất nông nghiệp của nông dân Kim Bảng trong những năm qua.
10
Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền, đổi thửa, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh, xây dựng nông thôn mới ở huyện
Kim Bảng, Hà Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi
thửa ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến “Dồn điền
đổi thửa” và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa
trên địa bàn huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam.
Phân tích thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trước, trong và sau quá
trình dồn điền đổi thửa ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam (tập trung phân
tích hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở
cửa và hội nhập, biến đổi khí hậu theo chiều hướng tiêu cực đến sản xuất
nông nghiệp). Tư liệu, số liệu minh họa, phân tích, so sánh, khảo sát...
thời gian từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở nguyên lý kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Kim Bảng,
những chủ trương, biện pháp của địa phương (huyện, xã) trong những
năm gần đây về dồn điền đổi thửa và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
sau dồn điền đổi thửa.
* Phương pháp nghiên cứu
11
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế học chính trị,
đó là: kết hợp lô-gíc với lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê…
và phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác trong nghiên
cứu kinh tế chính trị để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm tư liệu
tham khảo về tập trung ruộng đất; sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng đất; thực trạng, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa trong phạm vi cấp huyện ở đồng bằng
Bắc bộ. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng; đồng thời
cũng có thể dùng cho các cấp lãnh đạo huyện, xã tham khảo trong quá
trình chỉ đạo, quản lý sản xuất nông nghiệp ở địa phương trong những
năm tới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung: 2 chương, (4 tiết);
Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA Ở HUYỆN
KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM
1.1. Dồn điền đổi thửa và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau
dồn điền đổi thửa
1.1.1. Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
Trong kinh tế học chính trị mác-xít, C.Mác và V.I Lê-nin nghiên cứu
các quan hệ kinh tế xã hội có liên quan dến vấn đề đất đai thông qua phạm trù
địa tô tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt kinh tế xã hội, phạm trù “địa tô” chỉ rõ
mối quan hệ ba giai cấp: địa chủ - tư bản kinh doanh nông nghiệp – công
nhân làm thuê trong nông nghiệp; tư bản kinh doanh nông nghiệp và chủ
ruộng chia phần giá trị thặng dư do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo
ra. Xét về mặt kinh tế kỹ thuật, lý luận địa tô trong kinh tế học mác – xít chỉ
rõ những điều kiện hình thành các loại địa tô, nhất là địa tô chênh lệch. Theo
C.Mác, địa tô chênh lệch 1 gắn liền với những điều kiện thuận lợi tự nhiên
(độ phì nhiêu của đất, gần thị trường tiêu thụ nông phẩm); địa tô chênh lệch 2
gắn với điều kiện nhân tạo (đầu tư thâm canh do tiến bộ kỹ thuật). Lý luận địa
tô trong kinh tế học có thể được xem là là cơ sở để các nhà nước (kể cả nhà
nước tư sản) ban hành các chính sách về đất đai, đặc biệt là tích tụ ruộng đất
để phát triển nông nghiệp hàng hoá lớn hiện đại.
Vận dụng vào Việt Nam, những năm trước đổi mới, sự phát triển nông
nghiệp (nông nghiệp theo nghĩa hẹp) của cả nước nói chung, các tỉnh phía
Bắc nói riêng được tiến hành theo mô hình các hợp tác xã. Sau Chỉ thị 100-
CT/TW: Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động” trong các hợp tác xã nông nghiệp, ngày 13 tháng 1
năm 1981(thường gọi là khoán 100) đã đem lại những sinh khí mới cho nền
nông nghiệp nước ta lúc đó. Nhưng sau một thời gian thực hiện, “khoán 100”
13
bộc lộ một số vấn đề bất cập do chúng ta bắt đầu thực hiện đổi mới toàn diện
đất nước. Để tiếp tục thúc đẩy nông nghiệp phát triển, ngày 28 tháng 3 năm
1988, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương (khoá VI) đã ban hành Nghị
quyết 10- NQ/TW: “Đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp”(thường gọi
là khoán 10). Đến năm 1993, Quốc hội nước ta thông Luật đấi đai, trong đó
khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”
[Điều 1, Chương 1] và xác định: “Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao
đất có quyền chuyển đổi , chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền
sử đất. Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất và
đúng mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật” [Điểm 2, Điều 3, Chương 1]. Như vậy, cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, nông nghiệp và nông
thôn nói riêng, Đảng và Nhà nước ta từng bước hoàn thiện các văn bản Luật
nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân phát triển sản xuất, tăng thu
nhập, cải thiện và nâng cao đời sống, làm giàu cho mình và cho đất nước.
Trên cơ sở Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thực hiện, các địa
phương (tỉnh, huyện, xã) có chủ trương và người nông dân tiến hành chuyển
nhượng, chuyển đổi quyền sử dụng đất nhằm thực hiện tập trung ruộng đất,
chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá lớn hiện đại.
Đối với nước ta trước đây cũng như hiện nay, trong sản xuất nông
nghiệp và trong sự tồn tại của xã hội, đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng:
“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá , xã hội, an ninh và quốc
phòng” [Lời nói đầu - Luật đất đai 1993]. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông
nghiệp, tư liệu sản xuất đặc biệt này có đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội như
mong muốn hay không, lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác để tăng năng suất lao động;
14
gia tăng số, chất lượng nông phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác giữ vai
trò quyết định. Ở các nước phát triển, người ta đã tính toán được rằng, trong
giá trị gia tăng của những sản phẩm nông nghiệp, hàm lượng chất xám (thông
qua trình độ cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, sinh học
hoá...) chiếm 70 - 80%. Để ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học,
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, người ta phải tiến hành canh tác trên
những cánh đồng có diện tích lớn hàng trăm, thậm chí hàng ngàn héc-ta theo
hướng thâm canh và chuyên canh.
Hiện tại, do những yếu tố của lịch sử - xã hội chi phối, nhìn chung đất
nông nghiệp chưa được đầu tư khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả cao,
còn lãng phí nhiều. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết...hay nói cách khác, sản xuất nông nghiệp
chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, người dân có lúc, có nơi không thiết tha với
ruộng đất. Khắc phục tình trạng trên, việc giao đất ổn định, lâu dài cho người
nông dân là một giải pháp cơ bản, tạo động lực để người dân yên tâm đầu tư
các nguồn lực cho phát triển sản xuất.
Chủ trương nhà nước giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và cho phép người sử dụng đất có
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế… đã qui định trong
Luật Đất đai năm 1993 và cụ thể hóa trong Nghị định 64/CP ngày 7 tháng 9
năm 1993 của Chính phủ đã thể chế hóa chính sách đất đai của Đảng và Nhà
nước ta với phương trâm công bằng xã hội bằng cách chia đều ruộng đất tính
trên một khẩu cho các gia đình. Như vậy mỗi hộ nông dân đều có phần trên
những mảnh ruộng xấu, ruộng tốt, ruộng xa cũng như ruộng gần. Hiệu quả
của chính sách này đã có tác dụng lớn trong việc khai thác nguồn lực (lao
động sẵn có ở nông thôn), khuyến khích nông dân sản xuất, tăng cường an
ninh lương thực đặc biệt đối những vùng có bình quân ruộng đất trên đầu
người thấp như vùng Đồng Bằng Sông Hồng; những chính sách này đã đem
15
lại những thành quả to lớn về kinh tế xã hội cho đất nước. Từ một nước nhập
khẩu lương thực là chủ yếu, kinh tế nghèo nàn lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên
và trở thành nước xuất khẩu lớn trên thế giới về một số mặt hàng nông sản
như gạo, cà phê, chè, tiêu, thuỷ sản... Thu nhập và đời sống của người dân
luôn được cải thiện. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm đáng kể, đặc biệt ở nông thôn.
Tuy nhiên, sự phân chia ruộng đất cho hộ nông dân như trên cũng thể hiện
những hạn chế, nó gây nên tình trạng manh mún ruộng đất ở nông thôn, tạo
nên những khó khăn trong quy hoạch, quản lí và sử dụng có hiệu quả nguồn
tài nguyên đất đai và gây nên những khó khăn trong quá trình Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đó là ruộng đất manh mún, phân
tán, bờ vùng, bờ thửa nhiều đã tác động rất lớn đến việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Từ thực trạng chung về quản lý, sử dụng đất nông nghiêp thời gian qua
và yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn hiện đại
đòi hỏi các địa phương, các chủ thể sản xuất kinh doanh phải xoá bỏ tình
trạng cát cứ, mở rộng diện tích đất canh tác thông qua tập trung ruộng đất.
Với thực trạng quản lý, sử dụng ruộng đất ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ như
hiện nay, việc tập trung ruộng đất có thể được thực hiện bằng nhiều cách,
trong đó việc “dồn điền, đổi thửa” đang được người dân ở nhiều địa phương
thực hiện vì nó phù hợp với nhu cầu của chính người sử dụng đất và yêu cầu
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn.
Để góp phần hoàn thiện hơn khái niệm dồn điền đổi thửa dưới góc độ
kinh tế học, tác giả luận văn cho rằng, trước hết cần đề cập một cách khái
lược phạm trù đất nông nghiệ và, sản xuất nông nghiệp
Theo Từ điển bách khoa nông nghiệp (năm 1991) “Đất là vật hình
thành tự nhiên, gồm những tầng lớp liên quan nhau theo phát triển sinh học,
được tạo thành do kết quả biến đổi các lớp mặt của thạch quyển vỏ Trái đất,
dưới tác động của nước, không khí, sinh vật”
16
Luật đất đai năm 1993 đã khẳng định: Đất đai là tài nguyên vô cùng
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được của nông nghiệp,
lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh quốc phòng.
Cũng theo Từ điển bách khoa nông nghiệp (năm 1991) “Nông nghiệp:
tập hợp các mặt hoạt động của con người trong một môi trường khí hậu và
sinh học cụ thể, trong những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, nhằm tạo ra
những sản phẩm thực vật và động vật cần cho đời sống, đặc biệt là lương
thực, thực phẩm”
Cũng như công nghiệp, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, trong điều kiện trước mắt cũng như trong quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành nông nghiệp có 2 nhiệm vụ lớn là trực
tiếp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đảm bảo tối đa nguyên liệu cho
công nghiệp, tăng khối lượng nông sản cho xuất khẩu. Ngành nông nghiệp
hoạt động chủ yếu trên địa bàn nông thôn.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học bao gồm cả nông nghiệp theo nghĩa hẹp (trồng trọt, chăn nuôi)
lâm nghiệp (trồng và khai thác bảo vệ tài nguyên rừng), ngư nghiệp (đánh bắt
và nuôi trồng thủy sản), diêm nghiệp (làm muối). Thực tiễn cho thấy, trong
một thời gian dài của lịch sử, nông nghiệp là một ngành kinh tế chủ yếu của
hầu hết các quốc gia. Nông nghiệp là khu vực duy nhất sản xuất ra lương
thực, thực phẩm nuôi sống con người. Nông nghiệp theo nghĩa rộng thường
được sử dụng trong phân tích mối quan hệ với công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi.
Trong trồng trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây
thực phẩm, cây ăn quả, cây thức ăn cho chăn nuôi, cây dược liệu... chăn nuôi
17
bao gồm: chăn nuôi gia súc, gia cầm... Sản phẩm nông nghiệp thỏa mãn nhu
cầu dinh dưỡng hằng ngày của con người, nguyên liệu cho công nghiệp và
một phần quan trọng khác đáp ứng nhu cầu mặc, dược liệu để làm thuốc chữa
bệnh, sức kéo cho sản xuất và vận tải... Nông nghiệp là một ngành kinh tế
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, trong điều kiện cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại và nền kinh tế thị trường, sản xuất nông nghiệp cũng phải
phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại và tuân theo các quy luật của sản
xuất hàng hoá, cơ chế thị trường
Theo Luật đất đai năm 1993: Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ
yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, kể cả nuôi
trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi. “Đất nông
nghiệp” và “đất phi nông nghiệp” là những thuật ngữ được dùng để phân biệt
mục đích sử dụng đất khác nhau (Đất nông nghiệp: dùng để trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, làm muối... Đất phi nông nghiệp: thành
phố, xây dựng sân bay bến cảng, khai thác hầm mỏ...)
“Dồn điền, đổi thửa”
Hiện tại, việc dồn điền, đổi thửa đang được người nông dân nước ta nói
chung, các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng – kể cả thủ đô Hà Nội, rất quan
tâm và đang tiến hành thực hiện; một số địa phương đã cơ bản hoàn thành. Để
đưa ra được một quan niệm đầy đủ, có sức thuyết phục cao về “dồn điền đổi
thửa” cần phải có thời gian, với sự tham gia của nhiều người tiếp tục nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Việc dồn điền đổi thửa được chính quyền và
người dân nhiều địa phương quan tâm vì thực trạng phân chia đất nông
nghiệp (giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân) còn nhiều bất cập,
ruộng đất canh tác nhỏ lẻ, manh mún đang là lực cản lớn nhất cho quá trình
phát triển một nền nông nghiệp lớn hiện đại.
Theo quan niệm của một số nhà quản lý đất đai ruộng đất nhỏ lẻ, manh
mún trong nông nghiệp, có thể được hiểu:
18
Sự phân chia manh mún về mặt ô, thửa trong đó một đơn vị sản xuất
(thường là nông hộ) có quá nhiều mảnh ruộng với kích thước to nhỏ khác
nhau (có mảnh chỉ vài chục m2) diện tích của các mảnh ruộng này không đáp
ứng được yêu cầu của sản xuất.
Sự manh mún thể hiện trên quy mô về đất đai của các đơn vị sản xuất,
số lượng ruộng đất quá nhỏ không tương thích với số lượng lao động và các
yếu tố sản xuất khác.
Cả hai kiểu manh mún này đều dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả sản
xuất thấp, khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là
vấn đề cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp kém hiệu quả. Ngoài ra
tình trạng manh mún ruộng đất còn gây nên những khó khăn trong quy hoạch
sản xuất và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai... Vì thế mà người
ta luôn tìm cách để khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên, tình trạng manh mún
ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi, nhiều nước khác nhau trên thế giới và cả ở nhiều
thời kỳ của lịch sử phát triển nền nông nghiệp. Những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này cũng rất đa dạng: Nó có thể là do đặc điểm về mặt phân bố địa
lí, do sức ép gia tăng dân số... nhưng cũng có thể có nguyên nhân về mặt xã
hội như tính chất tiểu nông của nền sản xuất còn kém phát triển, đặc diểm tâm
lí của cộng đồng dân cư nông thôn, hệ quả của một hay nhiều chính sách
ruộng đất, mục tiêu kinh tế xã hội hoặc sự quản lí lỏng lẻo kém hiệu quả của
công tác địa chính... Muốn giải quyết triệt để tình trạng này đòi hỏi phải xác
định rõ các nguyên nhân của vấn đề mang tính lịch sử xã hội và cũng rất nhạy
cảm này.
Trước hết là ngày 27/9/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP
“Quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” trong đó quy định: Hộ gia
đình, cá nhân được nhà nước giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Toàn bộ đất nông nghiệp đang sử dụng
19
được giao cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp, trừ đất giao cho các
tổ chức, đất dùng cho nhu cầu công ích của xã. Đất nông nghiệp giao cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông nghiệp bao gồm: đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất có mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản. Các loại đất này gồm cả đất làm kinh tế gia đình
trước đây được hợp tác xã giao, đất vườn, đất xâm canh. Đối với những loại
đất nông nghiệp không thể giao cho từng hộ gia đình, cá nhân thì cho tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân thuê để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Trong quy định này còn nêu rõ: Nguyên tắc giao đất nông nghiệp, thời hạn
giao đất, hạn mức giao đất nông nghiệp, đối tượng giao đất nông nghiệp, cách
giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giải quyết đất vượt hạn
mức; đất dành cho nhu cầu công ích của xã hội, đất quốc phòng – an ninh;
giao (hoặc chuyển đổi) quyền sử dụng đất có yếu tố người nước ngoài...
Theo số liệu tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường tính đến nay, cả
nước đã cơ bản hoàn thành việc giao ruộng đất cho hơn 11 triệu hộ nông dân
sử dụng đất nông nghiệp và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông
nguyên và Môi trường (2005) - Báo cáo tình hình thực hiện công tác đăng ký, lập hồ sơ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất- Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai]. Kết quả đó
dân, đạt 91,74% về số hộ và 87,02% về diện tích đất nông nghiệp [5]Bộ Tài
đã tác động tích cực, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển làm tăng tổng
sản phẩm nông nghiệp, nhất là sản lượng lương thực trong những năm qua,
góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của
cả nước và đổi mới nhanh chóng bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được thì tình trạng manh mún
ruộng đất đã và đang bộc lộ những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển sản xuất
trong nông nghiệp, làm cho chủ sử dụng đất không thể áp dụng khoa học tiến
bộ vào sản xuất nông nghiệp, cản trở sự nghiệp hiện đại hoá sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn.
20
Quá trình thực hiện nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, phần
lớn các địa phương kế thừa từ việc giao khoán ruộng đất của các hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết 10 NQ-TƯ ngày 28 tháng 3
năm 1988 của Bộ Chính trị, trong nông nghiệp gọi là “khoán 10”. Ruộng đất
ở các địa phương hầu như được giữ nguyên như đã khoán cho các hộ (có điều
chỉnh nhưng không nhiều, ví dụ: rút của hộ thừa và bù cho hộ thiếu). Có một
số địa phương rũ ra chia lại với phương châm: “Rũ nhưng không rối”, nhưng
số địa phương làm được như vậy không nhiều, mặt khác chính quyền đã thừa
nhận và công bố thời hạn sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất (hộ gia đình, cá nhân).
Ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, quĩ đất 5% dành cho nhu cầu công ích của
các xã, hầu hết được chuyển từ quỹ đất vòng II của Hợp tác xã nông nghiệp.
Hợp tác xã trước đây giao khoán cho các hộ có lao động, vốn, có khả năng
thâm canh, với mức giao khoán cao hơn mức khoán bình quân khoảng 30%
để làm nghĩa vụ với Nhà nước và bù đắp cho quĩ đất cơ bản (quĩ đất vòng I,
giao khoán cho nhân khẩu). Quỹ đất này thường giao khoán hoặc cho các hộ
đấu thầu, đồng thời quỹ đất không tập trung hầu hết là phân tán, xen kẽ trong
đất giao ổn định của các hộ gia đình.
Sự phân chia đất nông nghiệp ở các vùng, miền trong phạm vi cả nước
(hoặc trong cùng một vùng, địa phương huyện, xã) rất khác nhau do yếu tố tự
nhiên, xã hội và lịch sử (Bảng so sánh dưới)
Ở những vùng đất rộng người thưa hoặc trình đô phân công lao động xã
hội và kinh tế hàng hoá phát triển thì sự manh mún ít, nghĩa là: bình quân số
thửa / hộ dân nhỏ; diện tích / thửa lớn làm cho diện tích đất canh tác / hộ lớn
Sự manh mún về phân chia đất nông nghiệp một mặt phản ánh trình độ
lạc hậu, mặt khác nó cản trở sự phát triển một nền nông nghiệp lớn hiện đại.
21
Sự manh mún ruộng đất canh tác ở các vùng (số thửa trên hộ và diện tích bình quân của thửa)
Tổng số thửa
Diện tích bình quân/ thửa
Bình quân/ hộ
(m2)
Vùng
Trung bình Cá biệt
Đất lúa
Đất rau màu
1. Miền núi – trung du
10-20
150
150-300
100-150
2. Đồng bằng Bắc Bộ
7
300-400
100-150
25
3. Khu Bốn cũ
7-10
300-500
200-300
30
4. Duyên hải Miền Trung
5-10
300-1000
200-1000
30
5. Tây Nguyên
5
200-500
1000-5000
25
6. Đông Nam Bộ
4
1000-3000
1000-5000
15
7. Đồng bằng Sông Cửu Long
3
3000-5000
500-1000
10
(Nguån: B¸o c¸o thùc tr¹ng t×nh h×nh manh món ruéng ®Êt hiÖn nay vµ viÖc chuyÓn ®æi ruéng ®Êt gi÷a c¸c hé n«ng d©n ë mét sè ®Þa ph¬ng - Tæng côc ®Þa chÝnh nay lµ Bé Tµi nguyªn vµ M«i trêng, 1997).
Sự phân chia đất đai ở một số tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng
Tổng số thửa
Diện tích bình quân trên thửa (m2)
ít nhất
TT Tỉnh
Nhiều nhất
Trung bình
Lớn nhất
Nhỏ nhất
Trung bình
1
Hà Tây (cũ)
-
-
700,0
20,0
216,8
9,5
-
20,0
-
6,8
2
Hải Phòng
5,0
18,0
-
10,0
-
11,0
3
Hải Dương
9,0
17,0
10,0
5868,0
228,0
9,0
4
Vĩnh Phúc
7,0
47,0
10,0
1000,0
288,0
5,7
5
Nam Định
3,1
19,0
-
6
7,0
-
5,0
4224,0
8,0
7
Ninh Bình
3,3
24,0
14,0 1265,0 8,2 Hà Nam 37,0
(Nguồn: Viện QH và TKNN, 2002)
22
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng ruộng đất manh mún:
- Một là, chủ trương của nhà nước về giao đất trên cơ sở hiện trạng để
đảm bảo đoàn kết, ổn định nông thôn.
Nguồn gốc sâu xa của tình trạng manh mún ruộng đất hiện nay là sự kế
thừa kết quả phân chia ruộng đất ở các hợp tác xã cho các hộ nông dân khi
thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá
VI, kết hợp với việc điều chỉnh lại theo Nghị định 64/CP: Hộ nhiều ruộng thì
lấy ra cho hộ không có ruộng; hộ ít ruộng thì được chia bổ sung.
Hai là, tư tưởng, tâm lý và trình độ nhận thức hạn chế của một bộ phận
không nhỏ nông dân đòi hỏi sự công bằng trong phân chia và giao ruộng đất.
Trong quá trình giao ruộng đất và phân hạng đất, sự nguyên tắc cứng
nhắc của chính quyền địa phương cùng với trình độ có hạn, người ta không có
cách nào khác là tổ chức phân chia đều từng loại đất trên từng cánh đồng,
từng loại đất tốt - xấu theo năng suất sản lượng hàng năm. Do trình độ nhận
thức của nông dân còn hạn chế, đòi hỏi sự “công bằng” trong phân chia ruộng
đất chỉ đơn giản là phải chia đều mọi người đều phải có ruộng tốt, xấu, có xa,
có gần. Hình thức phân chia này cũng phần nào chịu ảnh hưởng bởi gánh
nặng tâm lý lo ngại thiên tai xảy ra thì có thửa mất mùa nhưng có thửa còn
cho thu hoạch để đảm bảo đời sống ở mức tối thiểu, thường ngày.
Như vậy, tình trạng manh mún đất đai đang cản trở quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hoá, tác động không thuận chiều đến sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Vấn đề đó đặt ra
yêu cầu là cần phải xem xét, giải quyết một cách khẩn trương tình trạng đất
đai manh mún nhằm phát triển sản xuất, ổn định về xã hội, kinh tế và an ninh
lương thực của từng hộ, từng địa phương và ở phạm vi huyện, tỉnh, quốc gia.
23
Kết quả khảo sát cho thấy, tình trạng manh mún đất đai nếu được dồn đổi
sẽ tác động tích cực đến quá trình sản xuất nông phẩm, phát triển nông nghiệp
hàng hoá. Điều đó được thể hiện trên những nội dung sau:
Một là, tăng diện tích đất canh tác nông nghiệp
Nguyên nhân làm giảm diện tích đất canh tác có nhiều, trong đó có
nguyên nhân do đất manh mún nên phải đắp bờ ngăn giữa các mảnh, thửa quá
nhiều và một phần diện tích đất “đầu thừa đuôi thẹo”dư thừa khi giao chia
trong cùng một lô đất.
Kết quả khảo sát lại diện tích đất nông nghiệp trong quá trình “dồn
điền, đổi thửa” tại Kim Bảng cho thấy: khi giao đất theo Nghị định 64/CP
ngày 27/9/1993, diện tích đất nông nghiệp có gần 13.492 ha, nhưng năm 2005
khi thực hiện các Chỉ thị của Tỉnh uỷ và các Quyết định của UBND tỉnh về
thí điểm dồn điền, đổi thửa, thì đất nông nghiệp lên đến 13.909,85 ha, chênh
lệch 416,15 ha, tăng (3,8%). Một số huyện khác trong tỉnh cũng có tình trạng
tương tự, như ở Lý Nhân, Thanh Liêm...(Phụ lục 3)
Theo số liệu tổng hợp của nhiều địa phương khi tình trạng manh mún
đất đai được khắc phục sẽ làm tăng diện tích đất canh tác trung bình từ 1,8 –
4% . Như vậy, nếu hoàn thành dồn điền, đổi thửa, khắc phục được tình trạng
manh mún đất canh tác, riêng tỉnh Hà Nam sẽ tăng thêm ít nhất 1200 ha đất
nông nghiệp.
Hai là, làm tăng khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật .
Ruộng đất nông nghiệp manh mún, phân tán không khuyến khích người
lao động, hộ gia đình, người lao động đầu tư công sức, vốn, vật tư để thâm
canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng đa dạng hoá cây trồng, đặc
biệt là hạn chế khả năng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào đồng ruộng.
Qua khảo sát các địa phương hoàn thành dồn điền đổi thửa cho thấy, trong
một lô đất (thậm chí một cánh đồng) nếu có ít hộ sử dụng, khả năng vốn, trình
24
độ canh tác đồng đều, từ giống cây trồng, đầu tư phân bón, điều tiết nước
tưới, phòng trừ sâu bệnh và các biện pháp canh tác cũng sẽ thuận lợi hơn. Các
hộ gia đình cùng canh tác trên một cánh đồng sẽ hợp tác đầu tư áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật thì hiệu quả kinh tế tăng lên. Do vậy năng suất cây trồng cao
hơn so với những cánh đồng được chia cắt thành nhiều mảnh, thửa với diện
tích nhỏ.
Ba là, tăng khả năng cơ giới hoá khâu làm đất, thu hoạch, vận chuyển
nông phẩm
Chuyển từ lao động thủ công sang cơ giới sẽ làm giảm chi phí lao động,
hạ giá thành nông phẩm hàng hoá. Để cơ giới hoá được phải có quy mô diện
tích của thửa đất đủ lớn, mặc dù hiện nay có nhiều loại máy nhỏ, phù hợp với
quy mô sản xuất của hộ gia đình. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, qua khảo sát tại một số xã hai bên bờ sông Hồng (thuộc
huyện Khoái Châu, Hưng Yên; huyện Thanh Trì, Hà Nội), mỗi hộ có đến 12-
15 thửa, có thửa dài hàng cây số, thậm chí 2 km và chỉ gieo được 1-2 hàng
ngô. Tình trạng này không chỉ có ở xã ngoài đê có điều kiện thuận lợi sản
xuất các loại rau màu, mà còn có ở hầu hết các xã bên trong hệ thống đê điều,
chuyên canh cây lúa, nhưng diện tích thửa đất nhỏ, trung bình 288m 2, nhỏ
nhất là 10 m2 (báo cáo dồn ghép ruộng đất trong nông nghiệp tỉnh Vĩnh
Phúc). Do vậy đã làm cản trở quá trình đầu tư, mua sắm thiết bị phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Thực trạng đó cũng diễn ra ở Hà Nam nói chung, huyện
Kim Bảng nói riêng.
Tại đồng bằng sông Hồng bình quân 13 hộ/1 máy kéo, trong khi đó tại
Đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ này là 6,2 hộ/1máy.
Như vậy, xoá bỏ tình trạng manh mún ruộng đất không chỉ làm tăng
năng suất lao động trong nông nghiệp mà còn tác động tích cực đến sự phát
25
triển của ngành sản xuất máy móc, thiết bị chuyên ngành trong nông nghiệp
và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Bốn là, việc quản lý đất đai (thông qua cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, hoàn thiện hồ sơ địa chính) thuận lợi hơn.
Quá trình hoàn thiện hồ sơ địa chính gồm nhiều khâu, nhiều việc từ đo
đạc, giao đất ngoài thực địa, lập sổ mục kê, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, đăng ký và theo dõi biến động để cập nhật giúp cho công tác quản lý đất
đai được chặt chẽ. Nếu số mảnh thửa ít, quy mô diện tích của từng thửa lớn, số
thửa của một hộ giảm, cán bộ địa chính không phải can vẽ bản đồ hoặc trích đo bổ
sung nhiều, thậm chí hạn chế những tiêu cực .
Theo tính toán của nhiều địa phương thuộc tỉnh Hà Nam, khi thực hiện
nghị định 64/CP, chỉ riêng đo đạc đã tăng 1,5 – 2 lần; nếu tính toàn bộ chi phí
từ khâu đo đạc đến hoàn thiện hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho người sử dụng thì tăng từ 30-50% so với tổng chi phí thực
hiện ở địa bàn đã dồn điền, đổi thửa (chỉ còn 1- 4 thửa/hộ).
Để đảm bảo công bằng giữa những người sử dụng đất, nguyên tắc giao
đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình cá nhân có xa, có gần, có tốt, có xấu nên
ruộng đất của mỗi hộ có nhiều thửa và nằm ở nhiều xứ đồng khác nhau.Ví dụ
kết quả khảo sát ở xã Nhật Tựu: có nông hộ được giao quyền sử dụng 21 thửa
đất nông nghiệp, phân bố ở 21 xứ đồng; xứ đồng xa nhất 1,5 km; nếu tính
trung bình 1 tháng đi thăm đồng 4 lần thì trong một vụ phải đi mất 48 km
(1,5km x 2 lượt đi & về x 4 lần/tháng x 4 tháng/vụ), chưa kể quãng đường từ thửa
nọ đến thửa kia nhỏ bé rất khó đi lại. Như vậy, nếu dồn đổi lại chỉ còn 1-2
thửa / hộ, thời gian để đi lại thăm đồng, chăm sóc mùa màng giảm xuống, hiệu
quả kinh tế tăng do sản phẩm làm ra có giá thành thấp hơn. Nếu sản phẩm làm
ra là hàng hoá thì sức cạnh tranh (về giá) mạnh hơn so với sản phẩm cùng loại
được sản xuất trong điều kiện đất đai bị “băm chia” manh mún.
26
Mặt khác, sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung, ở Hà Nam trong
đó có huyện Kim Bảng nói riêng, về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng
hoá, đặc biệt như một số nông phẩm chủ yếu: bò, lợn, ngô, lạc, đậu…Quá
trình sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung chủ yếu ở những vùng có quy
mô bình quân đất nông nghiệp lớn và có lợi thế cạnh tranh. Về hàng hoá
nông sản có: lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, chè
ở các tỉnh miền núi phía Bắc… Các vùng khác như ĐBSH được coi là vùng
có thế mạnh về sản xuất lương thực, thực phẩm nhưng trong điều kiện qui mô
đất nông nghiệp của từng nông hộ rất thấp, bình quân 0,05 ha/người, tình
trạng đất manh mún đã làm hạn chế khả năng sản xuất nông sản hàng hoá.
Rõ ràng xó bỏ tình trạng manh mún đất nông nghiệp có tác động tích
cực đến phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Chi phí sản xuất giảm, làm
tăng diện tích đất canh tác đồng thời làm giảm đáng kể chi phí hoàn thiện hồ
sơ địa chính, tạo thuận lợi cho việc quản lý nhà nước về đất đai. Chính vì lẽ
đó, ngay sau khi giao ruộng cho hộ nông dân, nhiều địa phương đã tự nguyện
“dồn điền, đổi thửa” để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, tăng thu
nhập và cải thiện dời sống vật chất tinh thần của người nông dân.
Quan niệm về dồn điền đổi thửa
Theo quan điểm của các nhà kinh tế nông nghiệp và quản lý đất đai,
Dồn điền đổi thửa xuất hiện trong quá trình phát triển của đất nước và do đòi
hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tuỳ
vào từng địa phương có thể có các tên gọi khác nhau. Có nơi gọi là Dồn đất
đổi ruộng có nơi thì gọi là Dồn điền đổi thửa, nhưng chung quy lại, mục đích
chính của nó vẫn là sắp xếp lại ruộng đất, dồn đổi ruộng đất từ nhiều thửa nhỏ
thành những thửa lớn nhằm “Khắc phục tình trạng ruộng đất phân tán, manh
mún, tổ chức lại đồng ruộng; đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế hộ và trang trại,
27
củng cố quan hệ sản xuất, thực hiện Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn” [Nghị định 64/CP ngày 7/9/1993 của Chính Phủ về “Ban
hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp”]
Trong phạm vi một đề tài luận văn cao học kinh tế, chúng tôi cho rằng
cần thống nhất một số nội dung (năm vấn đề) có liên quan trực tiếp đến dồn
điền, đổi thửa, đó là:
Thứ nhất, phải khẳng định đây là một phạm trù kinh tế gắn liền với đất
đai mà các chủ thể (có quyền và nghĩa vụ) tham gia vào mối quan hệ này,
trước hết là người nông dân (được giao quyền sử dụng đất) và nhà nước
(thống nhất quản lý đất đai)
Thứ hai, việc dồn điền đổi thửa phải được tiến hành trên cơ sở đồng
thuận giữa các chủ thể sử dụng đất theo hướng tự nguyện, cùng có lợi.
Thứ ba, thực chất của dồn điền đổi thửa là tập trung ruộng đất nhằm
tăng diện tích đất canh tác vào những hộ gia đình, những trang trại có nhu
cầu, khả năng canh tác với quy mô lớn, chủng loại sản phẩm có giá trị kinh tế
cao theo “tín hiệu” của thị trường.
Thứ tư, việc dồn điền đổi thửa được thực hiện trên cơ sở tuân thủ Luật
đất đai, các Văn bản luật có liên quan và phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã
hội của từng địa phương.
Thứ năm, việc dồn điền đổi thửa phải hướng vào mục tiêu phát triển
nông nghiệp hàng hoá lớn, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh lương
thực và trật tự an toàn xã hội, xây dựng nông thôn mới, cải thiện và nâng cao
đời sống của người nông dân.
Từ cách đặt vấn đề trên, có thể quan niệm:
Dồn điền, đổi thửa là tập trung, dồn dịch các mảnh, thửa ruộng nông
nghiệp có diện tích nhỏ thành những mảnh, thửa ruộng có diện tích lớn hơn
28
thông qua việc chuyển đổi hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các
chủ thể có liên quan đến đất đai.
Dồn điền, đổi thửa - xét về ngữ nghĩa là khái niệm kép. Theo lô-gíc
hình thức, dồn điền là tập trung, sát nhập hai hay nhiều thửa ruộng sẵn có
thành một thửa lớn hơn, đáp ứng nhu cầu người sử dụng đất. Dồn điền có thể
được thực hiện thông qua việc chuyển nhượng (mua lại) quyền sử dụng đất
của một hay nhiều người khác. Đổi thửa là chuyển đổi quyền sử dụng các
thửa đất khác nhau giữa người này với người khác nhằm giảm thiểu số mảnh,
thửa ruộng hiện có. Dồn điền, đổi thửa làm cho diện tích đất sử dụng của
những người tham gia đồn, đổi có thể tăng hay giảm, nhưng tổng diện tích đất
canh tác không đổi trong khi số thửa mảnh giảm xuống.
Như vậy dồn điền có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó
có đổi thửa. Đổi thửa là trao đổi quyền sử dụng các thửa ruộng có vị trí khác
nhau, diện tích khác nhau. Đổi thửa có thể làm cho số thửa của mỗi hộ giảm
xuống nhưng diện tích của mỗi thửa tăng lên; tổng diện tích đất canh tác trên
từng cánh đồng, của từng địa phương là không đổi.
Trước thực trạng quản lý, khai thác sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều
bất cập và để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, việc dồn điền, đổi thửa đất nông
nghiệp ở nước ta hiện nay (nhất là các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ) là một chủ
trương đúng, một việc làm cần thiết vì những lý do sau:
Trước hết, từng bước khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ về diện tích
đất canh tác do việc giao đất lâu dài, theo tư tưởng bình quân, chia đều để hộ
nông dân nào cũng có phần đất ở tất cả các cánh đồng vốn do địa phương quản
lý khi thực hiện Luật đất đai 1993 và Nghị định 64/NĐ-CP, theo kiểu “có tốt,
có xấu; có gần, có xa...”
Mục đích cơ bản của dồn điền đổi thửa là tạo điều kiện tập trung ruộng
đất để những người có khả năng (về tài chính, lao động, kinh nghiệm sản xuất,
29
quản lý kinh doanh...) và nhu cầu kinh doanh nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn. Muốn chủ trương dồn điền đổi thửa thực sự có ý nghĩa về kinh tế
- xã hội, việc cần quan tâm hàng đầu là hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền
đổi thửa.
Để thực hiện mục đích phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng lớn, trước hết phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác. Hiệu
quả sử dụng đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được xem xét theo nhiều tiêu
chí, cả định tính và định lượng.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa
là sử dụng tối ưu diện tích đất nông nghiệp đã được đồn đổi để sản xuất ra
những nông phẩm với số lượng, chất lượng ngày càng cao. Trong kinh tế
thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa là thay
đổi phương thức canh tác, lựa chọn vật nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế
cao, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho người nông dân.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất gắn liền với tốc độ chu chuyển của vốn
đầu tư vào đất; biểu hiện thông qua sản lượng, chất lượng nông phẩm, doanh
thu và lợi nhuận của chủ thể sản xuất.
Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, trước hết phải ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật làm tăng năng suất lao động, tăng vòng quay sử dụng
đất; lựa chọn vật nuôi cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ
nhưỡng và nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Trong kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng đất được biểu hiện
thông qua việc các chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp lựa chọn vật nuôi
cây trồng và phương thức canh tác theo hướng tối ưu hoá; gắn kết sản xuất và
lưu thông nhằm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Chủ thể trực tiếp thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng đất là những
người đang tiến hành sản xuất kinh doanh trên những diện tích đất được giao.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp (tuân theo
những quy luật sinh học và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết)
30
chúng tôi cho rằng, tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất được xác định trên
bốn nội dung:
Thứ nhất, tăng số vòng quay sử dụng đất thông qua việc tăng vụ (rút
ngắn chu kỳ sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi) thực hiện xen canh, luân
canh cây trồng, vật nuôi
Sản xuất nông nghiệp - nhất là trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản, không
chỉ phụ thuộc vào diện tích đất canh tác hay mặt bằng hồ đầm, mà còn có thể
đem lại sản lượng nông phẩm và doanh thu cao cho người sản xuất bằng cách
tăng hệ số, tăng số vòng quay sử dụng đất (giảm thời gian từ khi gieo trồng
đến khi thu hoạch một loại cây trồng, vật nuôi). Tăng hệ số sử dụng đất cũng
có ý nghĩa như tăng diện tích đất canh tác.
Thứ hai, sản xuất tăng trưởng thường xuyên, sản lượng nông phẩm
tăng, thu nhập của người sử dụng đất tăng
Tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp chính là tổng giá trị nông
phẩm tính bằng tiền - trên cùng một đơn vị diện tích, vụ sau cao hơn vụ trước;
năm sau cao hơn năm trước. Để có tăng trưởng thường xuyên, phải thực hiện
việc chuyên canh đi cùng với thâm canh (đầu tư phát triển theo chiều sâu) cây
trồng vật nuôi.
Thứ ba, tăng doanh thu tăng, tăng lợi nhuận và thực hiện tái sản xuất
mở rộng (theo chiều sâu) trên diện tích đất đã, đang canh tác.
Muốn có sự tăng trưởng cần tạo nhiều giá trị gia tăng cho nông phẩm
hàng hoá thông qua việc lựa chọn giống vật nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế
cao, tìm kiếm thị trường có sức mua lớn, cung nhỏ hơn cầu...)
Thứ tư, mức sinh lời trên vốn đầu tư, thu nhập bình quân tính bằng tiền
trên một diện tích canh tác (số tiền/ha/năm). Trong kinh tế hàng hoá và cơ chế
thị trường, đây là chỉ tiêu hoàn toàn có thể định lượng được và là tiêu chí
quan trọng nhất đánh giá hiệu quả sử dụng đất, kinh doanh nông nghiệp hàng
hoá.
31
1.1.2 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền
đổi thửa
Thực chất của dồn điền, đổi thửa là tập trung ruộng đất cho từng chủ
thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp (nông hộ, trang trại). Mục đích của dồn
điền đổi thửa là tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật để thực hiện thâm canh, chuyên canh vật nuôi cây trồng, tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong kinh tế thị
trường, đó là điều kiện cần để nâng cao sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận cho
người sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Vì vậy, việc dồn điền đổi thửa và
nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đầu thửa của cả nước nói chung,
từng địa phương (tỉnh, huyện) nói riêng, là cần thiết như nhau
Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp, với nền văn minh lúa nước xuất hiện rất sớm và hiện tại vẫn là một
nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá. Theo số liệu thống
kê gần nhất, hiện nay có 70% dân số và 65% lực lượng lao động xã hội sống
và làm việc trong lĩnh vực nông thôn, nông nghiệp, nhưng diện tích đất canh
tác bình quân đầu người vào loại thấp của thế giới. Không những diện tích đât
canh tác bình quân đầu người thấp mà còn bị phân chia nhỏ lẻ. Nước ta hiện
có 14,5 triệu nông hộ, đất nông nghiệp được chi thành 70 triệu mảnh, thửa với
những diện tích khác nhau. Thửa rộng (cánh đồng mẫu lớn) có thể lên đến
hàng chục thậm chí hàng trăm héc- ta, nhưng cũng có mảnh được chia đều
cho các hộ với diện tích vài chục m2 ...Vì vậy, việc dồn điền, đổi thửa là yêu
cầu có tính cấp thiết cả về mặt kinh tế và xã hội. Điều đó thể hiện trên những
nội dung sau
Thứ nhất, trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đất đai là đối tượng
lao động không thể thiếu để con người có thể khai thác, tạo ra sản phẩm, tạo
giá trị mới tăng thêm và thu lợi nhuận. Nhưng đấy mới là điều kiện cần và
điều kiện nói chung, còn điều kiện đủ để sản xuất nông nghiệp đem lại kết
32
quả như mong muốn là lao động, vốn, thị trường và cả những yếu tố về số
lượng, chất lượng đất (diện tích đất canh tác, độ phì nhiêu, khoảng cách đến
thị trường, trình độ thâm canh...). Với nước ta hiện nay (đặc biệt là các tỉnh
thuộc vùng châu thổ sông Hồng, đất đai bị phân chia manh mún) việc dồn
điền, đổi thửa là giải pháp có tính khả thi về mặt kinh tế và sự phù hợp về mặt
xã hội để chuyển đổi chủ thể và mục đích sử dụng đất theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn, hiện đại
Thứ hai, đi cùng với quá trình CNH, HĐH nền kinh tế là quá trình đô thị
hoá. Đô thị hóa là mở rộng không gian đô thị làm cho không gian nông
nghiệp, nông thôn thu hẹp tương ứng. Đó là quá trình chuyển đổi một phần
đất sản xuất nông nghiệp, khu cư dân nông thôn thành các khu đô thị mới.
Diện tích đất canh tác có xu hướng thu hẹp, trong khi nhu cầu đảm bảo an
ninh lương thực ngày càng cao, chỉ có dồn điền đổi thửa mới có điều kiện đưa
máy móc, kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh nông
phẩm, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn hiện đại.
Thứ ba, cách mạng khoa học công nghệ và quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, một bộ
phận nông dân sẽ “ly ruộng, bất ly hương”- từ bỏ sản xuất nông nghiệp nhưng
không từ bỏ quê hương bản quán. Họ có nhu cầu chuyển nhượng hoặc chuyển
đổi quyền sử dụng đất để chuyển đổi mục đích sử dụng...trong khi đó, một bộ
phận nông dân mong muốn gắn bó với nông nghiệp, có khả năng và nhu cầu
mở rộng sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Có cầu thì có cung và ngược lại, nên
việc dồn điền đổi thửa như là một nhu cầu tất yếu trong kinh tế hàng hoá và
cơ chế thị trường.
Thứ tư, cạnh tranh kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay
cũng diễn ra rất quyết liệt. Để có thể đứng được trong cơ chế thị trường và sản
xuất kinh doanh có lãi, người sản xuất (các trang trại , hộ gia đình) phải thực
hiện tích luỹ tái sản xuất mở rộng trong đó có tích tụ, tập trung ruộng đất. Việc
33
dồn điền, đổi thửa là cách thực hiện tích tụ, tập trung có tính kinh tế và tính
hiện thực nhất. Chỉ có dồn điền, đổi thửa (trong điều kiện đất đai do nhà nước
thống nhất quản lý và giao quyền sử dụng lâu dài cho nông dân) mới tạo ra
những cánh đồng mẫu lớn, những vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm
canh, chuyên canh; nền nông nghiệp nước ta mới khắc phục được tình trạng
nhỏ lẻ, tự cấp, tự tức để chuyển sang sản hàng hoá lớn, hiện đại.
Thứ năm, xuất phát từ thực trạng sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền
đổi thửa ở Hà Nam cũng như ở huyện Kim Bảng hiện nay.
Sau dồn điền đổi thửa, việc sử dụng đất ở Kim Bảng nói riêng, tỉnh Hà
Nam nói chung, tuy đã có hiệu quả tốt hơn song cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp
tục tổng kết thực tiễn, bổ sung hoàn thiện các chính sách có liên quan đến sản
xuất nông nghiệp. Đặc biệt là xây dựng, phát huy tính năng động, tư duy sản
xuất hàng hoá và kinh tế thị trường cho các chủ thể tham gia sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp. Bên cạnh đó không thể không đề cập đến quan hệ sản xuất
mới trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay, khi các loại hình kinh tế hợp tác
đang trong quá trình vận động trở về đúng với quy luật vốn có của nó.
1.2 Thực trạng sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa ở huyện Kim
Bảng tỉnh Hà Nam
1.2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến dồn điền đổi thửa và
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền, đổi thửa ở huyện Kim Bảng
Nằm phía tây bắc của tỉnh Hà Nam, Kim Bảng là huyện thuần nông
nhưng diện tích đất canh tác bình quân đầu người không nhiều, lại được phân
chia thành rất nhiều mảnh, thửa khác nhau theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Về vị trí địa kinh tế, xã hội
Kim Bảng cách Hà nội 60km; phía bắc giáp huyện Ứng Hoà và Mỹ Đức
(Hà Nội), phía tây giáp huyện Lạc Thuỷ (Hoà Bình), phía đông giáp huyện
Duy Tiên và thành phố Phủ Lý, phía Nam giáp huyện Thanh Liêm. Các đơn
vị hành chính của huyện gồm 2 thị trấn (Quế, Ba Sao) 17 xã (Nguyễn Uý, Lê
34
Hồ, Đại Cương, Nhật Tựu, Hoàng Tây, Nhật Tân, Văn Xá, Kim Bình, Đồng
Hoá, Tượng Lĩnh, Tân Sơn, Khả Phong, Thuỵ Lôi, Ngọc Sơn, Thi Sơn, Thanh
Sơn, Liên Sơn)
Về hệ thống giao thông, thuỷ lợi: Có sông Đáy và sông Nhuệ; các quốc
lộ 21A, 21B, 38B; cùng hệ thống giao thông liên huyện, liên xã khá phát triển
do phong trào xây dựng điện - đường - trường - trạm theo phương châm nhà
nước và nhân dân cùng làm trước đây đem lại [Xem phô lôc 1 & 2]
Là huyện cách xa trung tâm công nghiệp lớn, nên tốc độ đô thị hoá ở
Kim Bảng không diễn ra nhanh chóng, rộng lớn như những huyện trên địa
bàn các thành phố lớn. Do tác động của quá trình công nghiệp hoá, tỷ lệ tăng
dân số cao và mật độ dân số cũng tăng theo. Tốc độ tăng dân số bình quân
giai đoạn 2000 – 2005 là 1,68%/năm; giai đoạn 2005 – 2010 là 1,85%/năm.
Dân số và lực lượng lao động phân bố tương đối đồng đều giữa các xã, thôn.
Năm 2008: GDP của huyện tăng 12,39% (chỉ tiêu đặt ra là 10,7%); GDP/
người/năm là 4,3 triệuVND
Cơ cấu kinh tế: nông-lâm-thuỷ sản chiếm 39,21%, công nghiệp-xây
dựng chiếm 33,49%, dịch vụchiếm 27,3%
Sản lượng lương thực có hạt: 39.852 tấn (thóc: 33.811 tấn, ngô: 6.041)
năng suất lúa đạt bình quân 62tạ/ha. Lực lượng lao động xã hội của huyện là
29,6 nghìn người, chiếm 44,55% dân số, trong đó số lao động thường có việc
làm là 28,3 nghìn người, chiếm 94,6% lực lượng lao động.
Cơ cấu kinh tế thời kỳ 2001 – 2010 chuyển dịch theo hướng giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành thủ công nghiệp, công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Hiện tại, theo đánh giá chung của Huyện uỷ và
UBND huyện: Các lĩnh vực kinh tế xã hội đều có sự chuyển biến tích cực,
nhất là lĩnh vực nông nghiêp, dịch vụ; đã tạo nên bức tranh mới với nhiều
gam màu sáng cho một vùng quê lúa lâu đời, nhưng đang quá trình CNH,
HĐH xây dựng nông thôn mới.
35
1.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi
thửa ở huyện Kim Bảng trong thời gian qua
Kết quả đạt được trong dồn điền đổi thửa đã tạo tiền đề quan trọng
và thuận lợi cho các trang trại, hộ nông dân đầu tư vốn, lao động ...mở
rộng sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nâng cao hiệu quả sử dụng diện
tích đất được quyền sử dụng.
Cũng như các huyện khác của tỉnh Hà Nam, Kim Bảng là một trong
những huyện vùng Đồng bằng Bắc Bộ cơ bản hoàn thành việc dồn điền đổi
thửa đất nông nghiệp. Cơ sở pháp lý cho việc dồn điền đổi thửa là những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai đó là:
Luật Đất đai năm 1993 đã thừa nhận đất có giá trị và Nhà nước xác định
giá các loại đất để tính thuế đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường
thiệt hại về đất khi thu hồi đất, Chính phủ quy định khung giá các loại đất đối
với từng vùng và theo thời gian. Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 của Chính
phủ về quy định khung giá các loại đất, Thông tư liên bộ số 94/TT-LB ngày
14//11/1994 của Bộ Tài chính, Bộ xây dựng, Bộ Tổng cục Địa chính, Ban vật
giá Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị định 87/NĐ-CP...lµ c¬ së cho c¸c
tØnh vµ thµnh phè trùc thuéc Trung ¬ng x©y dùng b¶ng gi¸ ®Êt cho ®Þa ph-
¬ng m×nh. Đến năm 1996 Chính phủ ra quyết định số 302/QĐ-TTg ngày
13/5/1996 về việc điều chỉnh hệ số k trong khung giá ban hành theo Nghị
định só 87/NĐ-CP. Hệ số k được điều chỉnh từ 0.5 đến 0.8 lần mức giá trong
bảng khung giá đất đô thị. Năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định số
17/NĐ-CP quy định lại hệ số k điều chỉnh khung giá đất cộng, trừ 50% theo
khung giá quy định tại Nghị định số 87/NĐ-CP.
Việc ban hành khung giá và các quy định về định giá đối với đất đai, các
chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là cơ sở quan trọng để xác
lập sự vận động của các quan hệ đất đai trong điều kiện nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Những chính sách tiến bộ đó đã góp phần làm cho
36
đất đai trở lại tài sản quý giá, vai trò của đất đai trong sự phát triển kinh tế-xã
hội được khôi phục và thực sự là một nguồn lực đặc biệt của nền kinh tế.
Như vậy, Luật Đất đai năm 1993 qui định quỹ đất nông nghiệp giao cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp trong đó có:
đất trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất có mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản. Các loại đất này gồm cả đất làm kinh tế gia đình trước
đây do hợp tác xã giao, đất vườn, đất xâm canh, đất trống đồi núi trọc, đất
hoang hoá xác định để sản xuất nông nghiệp. Còn Luật Đất đai năm 2003 đã
xác định: Đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân sử dụng bao gồm đất nông
nghiệp được Nhà nước giao, cho thuê, do thuê quyền sử dụng đất của tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân khác; do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng
cho quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đây chính là cơ sở pháp
lý để các địa phương trong huyện, các hộ gia đình thực hiện dồn điền đổi thửa
– tích tụ ruộng đất, thực hiện sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn.
Đánh giá kết quả dồn điền, đổi thửa của huyện Kim Bảng, có thể khái
quát trên 4 nội dung:
Trước hết, thường xuyên thông tin, tuyên truyền giáo dục cho các đối
tượng có liên quan, tạo được sự đồng thuận tương đối cao trong xã hội. Đây là
thành công lớn nhất vì đất đai liên quan trực tiếp, quyết định nhất đến việc
làm thu nhập và đời sống của cư dân nông thôn.
Thứ hai, việc dồn điền đổi thửa được thực hiện trên cơ sở tự nguyện,
cùng có lợi nên không để xảy ra những vi phạm về luật pháp, mất ổn định về
kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Từ 2003 – 2012 Kim Bảng không để xảy ra các
điểm nóng về đất đai, cơ bản không có tình trạng khiếu kiện đông người, kéo
dài, vượt cấp.
Thứ ba, sản xuất tiếp tục được tiến hành theo đúng thời vụ, đúng kế
hoach. Cơ cấu vật nuôi cây trồng có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý; hiệu
quả sử dụng đất cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp tăng lên.
37
Tuy tình trạng được mùa rớt giá, sản xuất theo phong trào vẫn còn diễn ra,
nhưng nhìn chung người nông dân Kim Bảng những năm gần đây đã nhanh,
nhạy hơn với tín hiệu (trước hết là giá cả) của thị trường
Thứ tư, các hoạt động kinh tế, xã hội có nhiều thuận lợi; sự quản lý,
điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu lực và hiệu quả hơn. Người sản xuất
kinh doanh nông nghiệp có điều kiện thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà
nước, địa phương và tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn. Kim Bảng là
một trong những huyện đi đầu của phong trào nhà nước và nhân dân cùng làm
điện, đường, trường, trạm ở Hà Nam thời kỳ 2000 – 2010.
Thành tựu và những hạn chế trong sử dụng đất nông nghiệp sau
dồn điền đổi thửa ở huyện Kim Bảng
* Thành tựu
Một là, , ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho thâm canh vật nuôi, cây trồng;
hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng hộ, từng trang trại tăng lên.
Để thực hiện thâm canh và chuyên canh vật nuôi, cây trồng có hiệu quả
cao, điều kiện cần là đất đai; điều kiện đủ là vốn tài chính, kinh nghiệm sản
xuất, quy mô thị trường nông phẩm, đặc biệt là nhận thức được tính chất đặc
thù của sản xuất nông nghiệp (quy luật sinh trưởng, điều kiện thổ nhưỡng, khí
hậu, mùa vụ...của vật nuôi, cây trồng).
Trong nông nghiệp, quy mô và trình độ phát triển sản xuất không giống
như trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Sự gia tăng hiệu quả sản xuất nhờ
việc tăng quy mô chỉ giới hạn đến ngưỡng về đất đai, lao động, máy móc...
Nếu vượt ngưỡng này, hiệu quả sản xuất lại giảm xuống. Giá thành của một
đơn vị nông phẩm không những không giảm mà có thể lại tăng lên, người ta
gọi đó là kinh tế phi quy mô. Ngưỡng của các yếu tố sản xuất không chỉ phụ
thuộc nhiều vào đặc điểm của mỗi loại hình sản xuất kinh doanh: chăn nuôi
hay trồng trọt (bao gồm: chăn nuôi gia súc hay gia cầm; trồng lúa hay rau) mà
còn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu thời tiết, khả năng ứng dụng kỹ thuật,
38
công nghệ vào sản xuất, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ nông sản, đặ biệt là
dung lượng của thị trường.
Hiện tại, ở kuyện Kim bảng cũng như một số địa phương khác của tỉnh
Hà Nam, quá trình sản xuất - tiêu thụ nông sản thường gặp khó khăn ở khâu
tiêu thụ sản phẩm, còn diện tích đất canh tác đối với từng hộ hoặc trang trại
được các chính sách chung của Nhà nước hỗ trợ và tạo nhiều thuận lợi hơn so
với trước đây.
Chẳng hạn, về diện tích đất canh tác cho các loại hình trang trại và hộ gia
đình, theo Luật Đất đai năm 2003 (điều 70) hạn mức giao đất nông nghiệp
được mở rộng hơn, như chỉ tính chung mức đất nông nghiệp trồng cây hàng
năm là không quá 3 ha, không qui định chi tiết cho từng vùng. Diện tích đất
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân do nhận chuyển nhượng, cho thuê, thuê
lại, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền
sử dụng đất từ người khác, nhận khoán, được Nhà nước cho thuê đất không
tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp...[Luật Đất đai (2003), Nxb Bản đồ,
Hà Nội]
Như vậy, hộ gia đình – nông hộ, gieo trồng cây hàng năm hiện nay
không bị giới hạn là 3 ha; tuỳ theo khả năng của chủ thể sản xuất kinh doanh,
điều kiện tự nhiên về đất đai, thổ nhưỡng; quy mô và sức mua của thị trường
nông phẩm.... mà diện tích đất sử dụng của từng hộ có thể tăng lên, kể cả
những hộ mới được xác lập do chia tách, hoặc công dân đến tuổi lập gia đình
có nhu cầu sống không phụ thuộc về kinh tế với thế hệ trước...
Năm 1993 khi thực hiện Quyết định 115 và năm 1995 khi thực hiện
Quyết định 990 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Hà (tỉnh Nam Hà cũ nay tách
thành tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định) về việc giao đất nông nghiệp ổn định
lâu dài cho hộ nông dân, Uỷ ban nhân dân huyện Kim Bảng đã tiến hành đo
chia ruộng đất cho các hộ nông dân. Năm 1996 thực hiện Quyết định
924/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện Kim Bảng đã chỉ đạo cho các
39
xã trong huyện thực hiện đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ nông dân. Cho đến trước thời điểm thực hiện dồn điền đổi thửa,
tổng số diện tích đất trồng lúa và đất rau màu của huyện là 7.382,02 ha với
tổng số thửa đất là 259.166 thửa, trong đó: 1275 hộ có từ 3 đến 5 thửa; 23.625
hộ có từ 6 đến 10 thửa; 3.389 hộ có từ 11 đến 15 thửa; 1058 hộ có trên 15
thửa. Bình quân chung của toàn huyện là là 8,24 thửa cho một hộ. Hộ có
nhiều nhất là 37 thửa (ở xã Lê Hồ), diện tích 1 thửa lớn nhất 1.265m2, diện
tích 1 thửa nhỏ nhất là 14 m2 (ở các xã Lê Hồ, Nguyễn Uý, Tân Sơn…).
Tổng quỹ đất nông nghiệp còn lại sau giao chia là 1.099,2 ha bằng
14,9% trong đó cá biệt có xã để quỹ đất sau giao, chia bằng 28% tổng quỹ
đất sản xuất nông nghiệp của xã.
Thực trạng trên cho thấy, khi thực hiện việc chia, giao đất cho hộ nông
dân còn quá manh mún và phân tán, trên cùng một xứ đồng có hộ có đến vài
mảnh, có hộ có thửa diện tích chỉ 14 m2; có hộ được giao gần 40 mảnh, thửa
ruộng. Diện tích đất giao cho hộ nông dân quá manh mún không phát huy
hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp, việc
đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất gặp khó, khăn hạn chế cho điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nên hiệu quả thấp. Quỹ đất nông nghiệp còn lại sau khi chia
manh mún, phân tán chưa phát huy được hiệu quả kinh tế, nhiều địa phương
chưa quản lý chặt chẽ quỹ đất này, có nơi thôn, xóm, đoàn thể, HTX quản lý
vì vậy ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách xã.
Đến thời điểm năm 2011, Kim Bảng có trên 130 cụm dân cư sống tập
trung theo hình thái thôn, xóm với 35621 hộ, tổng dân số (khu vực nông thôn)
là 140238 nhân khẩu, tổng diện tích đất ở là: 680,34 ha; đất nông nghiệp:
13.909, 85 ha chiếm 74,70% diện tích tự nhiên. Sau dồn điền đổi thửa, sản xuất nông
nghiệp theo mô hình trang trại của Kim Bảng (cũng như toàn tỉnh Hà Nam) đã giảm
mạnh về số lượng.
40
Số lượng trang trại của tỉnh Hà Nam và huyện Kim Bảng
từ 2006 đến 2011
Năm
Toàn tỉnh Kim Bảng 2006 547 251 2009 560 263 2007 558 252 2008 582 212 2011 215 20
2010 574 263 (Nguån: Côc Thèng kª Hµ Nam, Niªn gi¸m thèng kª 2012)
Tuy giảm về số lượng nhưng diên tích đất gieo trồng hoặc nuôi trồng thuỷ
sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm bình quân 1 trang trại tăng lên. Cụ thể:
Năm 2011 toàn huyện còn 20 trang trại trong đó: 15 trang trại chăn nuôi, 3
trang trại nuôi trồng thuỷ sản, 2 trang trại trồng xen kẽ cây lâu năm và cây hàng
năm. Diện tích đất của các trang trại chăn nuôi tăng bình quân 1,42 lần; trang trại
nuôi trồng thuỷ sản tăng 1,82 lần; trồng cây hàng năm là 2 lần so với 2008. Số
nông hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp giảm gần 6%, điều đó cũng có nghĩa diện
tích đất canh tác của một số hộ có liên quan cũng sẽ tăng tương ứng.
Số mảnh, thửa đất canh tác của từng hộ, trên từng cánh đồng cũng như ở
từng địa phương (thôn, xã) giảm, nhưng diện tích đất canh tác của từng thửa tăng
lên. Đây là điều kiện thuận lợi để người nông dân mở rộng việc cơ giới hoá các
khâu: làm đất, thu hoạch và vận chuyển nông phẩm, vật tư sản xuất...Năng suất
lao động tăng, giá thành giảm, lợi nhuận của người sản xuất tăng và có thêm điều
kiện thực hiện tái sản xuất mở rộng, trong đó việc thâm canh, chuyên canh vật
nuôi, cây trồng được người nông dân quan tâm lựa chọn.
Trước dồn điền đổi thửa, do ruộng đất manh mún nên dù muốn hay
không, người nông dân cũng phải đa canh (gieo trồng hoặc chăn nuôi nhiều
loại cây, con khác nhau, theo từng cánh đồng). Nay diện tích đất tập trung
thành những thửa lớn hơn, người nông dân sẽ tiến hành chuyên canh (gieo
trồng, chăn nuôi một loại cây trồng vật nuôi nào đó) phù hợp với điều kiện tự
nhiên của đất đai, kinh nghiệm sản xuất và nhu cầu thị trường.
41
Qua khảo sát thực tế ở một số xã (Đại Cương, Hoàng Tây, Nhật Tân, ,
Kim Bình, Tân Sơn, Khả Phong ...) cho thấy: tỉ lệ cơ giới hoá khâu làm đất đã
đạt 80% diện tích đất trồng lúa, cây công nghiệp hàng năm; 60% dất trồng rau
màu. Bản đồ nông nghiệp huyện Kim Bảng đã xuất hiện nhiều gam màu sáng
biểu thị vùng chuyên sản xuất lúa, chuyên nuôi trồng thuỷ sản, chuyên sản
xuất cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Việc cơ giới hoá các khâu
làm đất, thu hoạch, vận chuyển nông sản...một mặt giải phóng sức người, mặt
khác có điều kiện phát triển các loại hình dịch vụ, phát triển phân công lao
động xã hội, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn nông thôn.
Hai là, mở rộng xen canh, luân canh, làm số vòng quay trung bình của
đất trồng lúa, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày tăng.
Nói tới hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, tiêu chí có thể định lượng
được là số vòng quay của đất (thông qua thời gian mùa vụ). Muốn tăng số
vòng quay của đất phải giảm thời gian mùa vụ (giảm thời gian sinh trưởng của
vật nuôi, cây trồng) bằng cách ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào lai
tạo các giống vật nuôi cây trồng có giá trị kinh thế cao nhưng thời gian một
chu kỳ sinh trưởng ngắn.
Trước kia do sử dụng giống cũ có tính truyền thống (thường từ 4 đến 5
tháng một vụ) nên 1 năm người nông dân ở hầu hết các xã của Kim Bảng chỉ
gieo cấy 2vụ / năm thậm chí 1vụ / năm. Nhưng nay do sử dụng các giống mới
(thời gian từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch 3 tháng) và đồng bộ hoá, hiện
đại hoá hệ thống thuỷ lợi (cả các công trình đầu mối và nội đồng) nên người ta
có thể thực hiện canh tác 2 vụ lúa + 1 vụ màu / năm). Sản lượng lương thực
quy thóc trên cùng diện tích tăng gấp rưỡi, năng suất vụ mùa năm 2011 đạt
bình quân 56,3 tạ/ha (phụ lục14)
Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, do lựa chọn các giống nuôi có giá
trị kinh tế cao (cá chim trắng, rô-phi đơn tính, tôm sú, tôm càng trắng, ếch,
42
lươn, ốc, ba ba...) thay thế cho loài cá nuôi trước đây (mè, trắm cỏ, rô phi) nên
doanh thu bình quân 1 ha mặt nước đạt khoảng trên dưới 120. 000.000 VND
Nguyên nhân là do người dân (các trang trại, nông hộ) mở rộng việc sử
dụng giống cây, con mới có năng suất và giá trị kinh tế cao. Vì diện tích
canh tác bình quân trên một mảnh hoặc thửa tăng lên làm cho doanh thu và lợi
nhuận tăng, tạo động lực (thoát nghèo và làm giàu) nguồn lực (tài chính) để
người nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh
nông nghiệp.
Thực tế cho thấy ở Kim Bảng cũng như một số huyện, thị khác của Hà
Nam hiện nay, tư duy sản xuất hàng hoá của người nông dân đã định hình và
ngày càng phát triển. Điều đó được biện hiện thông qua hệ thống “chợ quê”
được mở rộng về không gian do loại và lượng hàng hoá tăng lên, người nông
dân trực tiếp bán và mua lương thực, thực phẩm ngày càng đông đảo. Rõ ràng
là chuyên môn hoá, tập trung hoá sản xuất nông nghiệp làm cho tỷ trọng nông
phẩm hàng hoá tăng là kết quả trực tiếp của dồn điền, đổi thửa mang lại.
Kết quả khảo sát một số xã trọng điểm trồng lúa của huyện cho thấy,
giá trị nông sản hàng hoá của 1ha đất trồng lúa có thể đạt gần 65 triệu VND,
thu nhập của các nông hộ, các trang trại và kết quả thực hiện các nghĩa vụ
(thuế, phí) của người sử dụng đất với nhà nước, với địa phương tăng lên. Các
hoạt động kinh tế xã hội, giáo dục, y tế của toàn huyện cũng như từng xã đa
dạng, hiệu quả hơn.
Ba là, cải tạo làm tăng giá trị sử dụng của đất (độ phì nhiêu, thổ
nhưỡng, môi trường)
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng vừa là tư liệu lao
động hàng đầu của người nông dân. Mặt khác sản xuất nông nghiệp tuân theo
những quy luật tự nhiên vốn có của nó (chu kỳ sinh trưởng của vật nuôi cây
trồng; độ màu mỡ của đất đai có xu hướng giảm xuống...). Vì vậy, việc tái tạo
43
và làm tăng giá trị sử dụng của ruộng đất đang canh tác (trồng trọt) là thực sự
cần thiết. Thực hiện được điều đó, trước hết cần duy trì độ màu mỡ (độ phì
nhiêu) của đất bằng cách bón đủ loại, đủ lượng; bón đúng thời điểm, đúng kỹ
thuật các loại phân (cả hữu cơ và vô cơ, trong đó phân hữu cơ có nhiều ưu thế
hơn cho bảo vệ môi trường và phát triển bền vững). Điều dễ nhận thấy nhất là
quá trình đô thị hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng đất.. nên diện tích đất lúa
của Hà Nam nói chung, huyện Kim Bảng nói riêng giảm xuống nhưng sản
lượng lúa vẫn không giảm do năng suất tăng. [ Phụ lục 8,9,10]
Theo số liệu Cục Thống kê Hà Nam, năm 2000, sản lượng thuỷ sản của
huyện Kim Bảng là 961 tấn (khai thác: 180 tấn; nuôi trồng: 781tấn). Năm
2005, sản lượng đạt 3208 tấn (khai thác: 193; nuôi trồng: 3015). Năm 2011,
sản lượng đạt 4789,5 tấn (khai thác: 185,1; nuôi trồng: 4604,4) [Phụ lục 19,
19a, 19b]. Rõ ràng diện tích đất trồng lúa, nuôi trồng thuỷ sản giảm nhưng do
tích cực đầu tư cải tạo đất nên độ phì nhiêu của đất tăng (cùng với giống cây,
con mới) làm cho năng suất, sản lượng tăng; doanh thu và lợi nhuận của người
sản xuất tăng.
Để duy trì, làm tăng giá trị sử dụng đất và thích ứng được với cơ chế thị
trường, bước đầu người nông dân ở Kim Bảng đã ý thức được rằng: cần lựa
chọn vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, kinh nghiệm sản
xuất, nhu cầu của thị trường nông phẩm...sao cho nông phẩm hàng hoá làm ra
bao nhiêu, bán hết bấy nhiêu, để người sản xuất thực sự có lợi nhuận trong sản
xuất nông nghiệp..
Bốn là, phân công lao động xã hội, thương hiệu và thị phần nông
phẩm, việc làm và thu nhập của nông dân trên địa bàn huyện đều có sự
tăng trưởng khá.
Trong kinh tế thị trường, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung,
hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp - gắn với hiệu quả sử dụng đất,
nói riêng, đều được xem xét về mặt giá trị (quy thành tiền). Không thể
44
không thừa nhận rằng, do thực hiện tốt việc dồn điền đổi thửa nên người
sản xuất có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc cơ giới hoá khâu làm đất,
thu hoạch, vận chuyển nông phẩm...năng suất lao động và thu nhập của
người sản xuất tăng tạo thêm động lực để họ đầu tư thâm canh (tìm chọn
giống cây con có giá trị kinh tế cao, tìm hiểu nhu cầu thị trường, mở rộng
quy mô sản xuất, phạm vi kinh doanh)
Do tính đặc thù của ngành nông nghiệp, việc sản xuất theo hướng
tập trung hoá (quy mô lớn) và chuyên môn hoá (trồng hoặc nuôi 1 loại
cây, con nào đó) sẽ đem lại nhiều lợi thế nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố rủi ro cho chính chủ thể sản xuất kinh doanh.
Xem xét dưới góc độ lợi ích của người nông dân ở huyện Kim Bảng
nói riêng, tỉnh Hà Nam nói chung, sản xuất tập trung quy mô lớn sẽ giảm
chi phí cá biệt trên một diện tích đất canh tác, làm cho giá trị cá biệt của
một đơn vị hàng hoá nông phẩm giảm xuống. Giá trị cá biệt của hàng hoá
giảm, tất yếu làm cho lợi nhuận của người sản xuất tăng lên. Lợi nhuận
của ngành nông nghiệp huyện, cũng như của từng chủ thể tăng, làm cho
“cầu sản xuất” trong nông nghiệp và “cầu tiêu dùng” của nông dân, cũng
như tổng cầu của thị trường nông thôn tăng lên. Có cầu thì có cung và có
cung thì có cầu, thị trường nông thôn trên địa bàn huyện sôi động, một số
ngành, lĩnh vực mới xuất hiện tiếp tục thúc đẩy phân công lao động xã hội
phát triển. Trước đây, tham gia thị trường nông thôn địa bàn huyện, chủ
yếu là những người nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ; hàng hoá trao đổi
chủ yếu là nông phẩm, nông cụ và một số loại vật tư nông nghiệp; còn
hàng công nghệ phẩm chủ yếu là hàng tiêu dùng thiết yếu (quần áo, giày
dép, soong nồi, bát đĩa.. ) thì nay có nhiều hàng hoá là đồ gia dụng tiện
nghi. Các loại ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy điều hoà không khí; thiết bị vật
tư xây dựng cao cấp, hàng may mặc thời trang, hoá mỹ phẩm đắt tiền...
không chỉ có ở trung tâm thương mại huyện mà nhiều chợ thôn, xã cũng
45
có các ki-ốt chuyên doanh hàng có giá trị lớn, thậm chí cửa hàng kinh
doanh vàng, bạc cũng không phải là hiếm thấy ở các vùng quê Kim Bảng
hiện nay.
Kinh tế nông thôn phát triển trước hết là do sản xuất nông nghiệp có
sự tăng trưởng và phát triển. Đến lượt nó, kinh tế nông thôn (nông nghiệp,
thủ công nghiệp, dịch vụ) phát triển sẽ tác động tích cực tới sản xuất nông
nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp làm ra được quan tâm nhiều hơn về chất
lượng, chủng loại và sự an toàn cho người tiêu dùng. Sản xuất nông
nghiệp phát triển, người nông dân mở rộng quy mô, loại hình sản xuất
kinh doanh tạo điều kiện cho các hình thức hợp tác xã và kinh tế tập thể
phát triển.
* Một số hạn chế, bất cập trong sử dụng đất nông nghiệp ở Kim Bảng
hiện nay.
Bên cạnh những kết quả tích cực trong sử dụng đất sau dồn điền đổi
thửa, tính hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp ở Kim Bảng còn nhiều vấn
đề cần tiếp tục quan tâm giải quyết.
Thứ nhất, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh
mẽ và cơ chế thị trường, cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng gay
gắt, nhưng nhìn chung trình độ thâm canh chưa cao, trong sản xuất nông
nghiệp vẫn dựa nhiều vào thói quen kinh nghiệm, mang tính tự phát; tư duy về
xuất hàng hoá, kinh tế thị trường với nhiều người nông dân Kim Bảng còn bất
cập. Những năm gần đây, do chi phí các yếu tố đầu vào tăng, nhưng giá nông
phẩm có xu hướng giảm, sản xuất lương thực, thực phẩm không có lãi, không
có công (thậm chí và lỗ vốn). Một số cây trồng, vật nuôi, đầu tư càng lớn, thua
lỗ càng nhiều, nên “Tấc đất tấc vàng” chỉ đúng khi Nhà nước hay chủ đầu tư
đền bù thu hồi đất. Một số xã ở Kim Bảng đang diễn ra hiện tượng diện tích
đất canh tác trở thành hoang hoá, do người dân không canh tác vì hiệu quả sản
xuất thấp, người dân không có công.
46
Thứ hai, lựa chọn vật nuôi, cây trồng có nơi còn thiếu chủ động làm cho
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, điều đó cũng đồng nghĩa với việc sử dụng
đất chưa đạt hiệu quả cao
Thực sự Kim Bảng chưa tạo được nhiều lợi thế cho sản xuất nông
nghiệp, chưa có cây, con nào xác định được thương hiệu (trở thành đặc sản)
trên thị trường tỉnh Hà Nam nói riêng và vùng Đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có
thủ đô Hà Nội nói chung. Các loại lúa, rau màu, thuỷ hải sản mà Kim Bảng có
đều là những thứ hàng hoá “bình dân”, do vậy giá trị kinh tế và hiệu quả sản
xuất kinh doanh nông nghiệp không cao. Doanh thu và lợi nhuận bình quân
trên 1ha thấp, một số nông hộ, nông trại hoạt động cầm chừng để giữ trương
đất, chờ Nhà nước thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất. [Phụ lục 13- Diện tích
lúa mùa của tỉnh Hà Nam, huyện Kim Bảng từ 2000 - 2011]
Thứ ba, Khả năng sinh lời từ đất nông nghiệp chưa tương xứng với
công sức và sự kỳ vọng của nông dân nên việc đầu tư các nguồn lực vào đất
và cho đất chưa được quan tâm đúng mức.
Ở Kim Bảng cũng như nhiều địa phương khác của cả nước, do hiệu quả
sản xuất kinh doanh thấp nên người nông dân không đủ điều kiện về tài chính
đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất (mua sắm máy móc nông
nghiệp, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi, sử dụng phân bón, gieo trồng giống
mới...) mặt khác sản xuất nông nghiệp có tính rủi ro cao (phụ thuộc nhiều vào
thời tiết, thị trường) nên một số người có điều kiện về vốn, kinh nghiệm sản
xuất nhưng cũng chỉ đầu tư ở mức độ nhất định. Chính điều này lại làm cho
nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại càng tụt hậu hơn so với công nghiệp và dịch
vụ. Cái “vòng luẩn quẩn”: Cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu làm cho năng suất
lao động, doanh thu và lợi nhuận thấp; mức độ đầu tư tái sản xuất không tăng;
thu nhập, hiệu quả sử dung đất thấp, người sử dụng đất không có điều kiện và
không muốn đầu tư nhiều vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Theo kết quả
khảo sát của Chi cục thống kê Kim Bảng, từ 1/2010 đến 10/2012 giá vật tư
47
nông nghiệp tăng 14,8% (xăng dầu: 13% ; điện: 16% ; thuốc trừ sâu: 13% ;
phân bón: 14%..) nhưng giá nông phẩm tăng 7% (lúa: 6% ; rau màu: 9%; thực
phẩm: 8% ; cây công nghiệp: 11%)
Thứ tư, thu nhập, lợi nhuận của người nông dân còn thấp. Mức độ phân
hoá giàu nghèo tăng nhanh.
Đây là mối quan tâm chung của người nông dân trong cơ chế thị trường
và trong điều khí hậu thời tiết đang biến đổi theo chiều hướng bất lợi cho con
người, cho sản xuất nông nghiệp. “Được mùa thì mất giá”, “Được giá khi mất
mùa” do tác động của quy luật cung – cầu. Vì vậy, được mùa hay được giá,
người nông dân cũng chẳng vui bởi thu nhập của họ cũng vẫn bấp bênh. Qua
tìm hiểu thực tế sản xuất nông nghiệp ở huyện Kim Bảng và một số địa
phương vùng Đồng bằng Bắc Bộ, tác giả luận văn nhận thấy rằng, quan niệm
“lấy công làm lãi” vẫn còn khá phổ biến. Với người trồng lúa, sau khi trừ các
chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, làm đất và các loại phí (c); phần
giá trị gia tăng (v + m) không lớn; nếu tính thành tiền công (v) cũng rất thấp,
chứ chưa nói đến lợi nhuận ( p). Đây cũng là vấn đề rất đáng lưu tâm khi đánh
giá hiệu quả sử dụng đất của người nông dân và lí giải tình trạng “ly ruộng bất
ly hương ” đang diễn ra ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, trong đó có tỉnh
Hà Nam, huyện Kim Bảng.
Tất nhiên cơ chế thị trường cũng tạo cơ hội cho những ai sẵn vốn, nhiều
kinh nghiệm, am hiểu thị trường, dám chịu rủi ro trong sản xuất kinh doanh
nông nghiệp. Nông thôn Kim Bảng hiện nay không ít những tỉ phú phất lên
bằng con đường sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Hiện tượng phân hoá giàu
nghèo diễn ra mạnh mẽ hơn. Thu nhập tăng cao, mức sống, lối sống của một
bộ phận dân cư thay đổi. Sự phân tầng xã hội diễn ra là tất yếu. Đây sẽ là
động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển; nhưng
đồng thời cũng có thể là một trong những yếu tố gây ra sự bất ổn về xã hội
nếu khoảng cách này là quá lớn.
48
* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Một là, tư duy về “việc làm” của người nông dân còn chịu ảnh hưởng
của nền nông nghiệp tự túc, cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Có thể
tâm lý an phận, đợi chờ, phó thác cho trời đất từ xa xưa, nay vẫn còn hiện diện
trong cách nghĩ, cách làm của không ít người nông dân Kim Bảng. Ruộng đất
bình quân đầu người ít trong khi thủ công nghiệp, công nghiêp nông thôn và
dịch vụ chưa phát triển, thời gian nông nhàn nhiều nhưng tỉ lệ người đi xuất
khẩu lao động, ra thành phố tìm việc làm chưa cao.
Hai là, chính sách vĩ mô liên quan đến nông nghiệp, nông thôn đang
trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên ít nhiều tác động đến tâm lý người
nông dân và các cấp quản lý. Sự chưa đồng bộ trong một số chính sách kinh tế
xã hội (Luật Đất đai, Luật Tài nguyên, môi trường; các chính sách về tín
dụng, thị trường...) đang hạn chế khả năng huy động các nguồn lực cho phát
triển nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện Kim Bảng. Bên cạnh đó chính
quyền các cấp chưa thật sự thích ứng được phương thức quản lý theo cơ chế
thị trường.
Ba là, sản xuất nông nghiệp ở Kim Bảng - cũng như tất cả các vùng
miền khác, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Lượng vốn đầu tư trên một
diện tích đất canh tác còn thấp. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và
chứa đựng yếu tố rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn chậm nên nhiều người sản
xuất không dám đầu tư nhiều vào sản xuất kinh doanh. Các hợp tác xã dịch vụ
đảm nhiệm khâu làm đất cũng không đầu tư mua sắm máy cày, bừa lớn bởi
ruộng đất không liền khoảnh, thanh toán chi phí và tiền công nhiều phiền
phức. Không ít hộ, thường đến khi có sản phẩm thu hoạch mới thanh toán chi
phí làm đất, vật tư nông nghiệp, các khoản phí...
Bốn là, những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; vai trò của chính
quyền, các đoàn thể, tổ chức kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông dân còn
hạn chế.
49
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nông nghiệp, nên Đảng, Nhà nước
ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chính sách tạo thuận lợi cho nông dân phát
triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên cơ chế thị trường với
những quy luật vốn có của nó; sự khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết đôí với sản
xuất nông nghiệp; tập quán, thói quen của một nền kinh tế hiện vật...đang là
những lực cản cho việc khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên đất cho
phát triển nông nghiệp hàng hoá ở huyện Kim Bảng cũng như ở tỉnh Hà Nam.
Từ những kết quả tích cực cũng như những hạn chế, bất cập trong khai
thác, sử dụng nguồn tài nguyên đất trong sản xuất nông nghiệp ở Kim Bảng
thời gian qua, tác giả luận văn bước đầu khái quát Bốn vấn đề nảy sinh cần
quan tâm giải quyết là:
Thứ nhất, số nông dân chuyển nhượng quyền sử dụng đất (đúng quy
định của pháp luât) sẽ không còn việc làm và thu nhập, trong khi đó phân
công lao động xã hội chưa phát triển, khả năng tìm kiếm, chuyển đổi việc làm
cho họ là không dễ, điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển nông
nghiệp bền vững; phát triển kinh tế, xã hội; củng cố an ninh và quốc phòng
Thứ hai, nguồn lực về tài chính, năng lực quản lý sản xuất của người
nông dân - với diện tích canh tác lớn và tiến hành sản xuất hàng hoá, còn
nhiều bất cập trong khi đó sức ép về cạnh tranh của thị trường đầu vào (tư liệu
sản xuất) và đầu ra (nông phẩm) ngày càng tăng. Điều đó dẫn đến việc sử
dụng đất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững gặp nhiều khoá khăn.
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ và chịu sự tác động
khắc nghiệt của thiên nhiên. Các chính sách hỗ trợ vĩ mô thường có độ
“trễ”và có khi thiếu mềm dẻo, uyển chuyển. Sự liên kết giữa bốn nhà (Nhà
nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) bị chi phối bởi những quan
hệ lợi ích khác nhau, thường thiếu sự hài hoà, ổn định.
Thứ tư, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nền kinh tế chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực
50
nông nghiệp và người nông dân thường gặp nhiều rủi ro, bất lợi hơn các
ngành, lực lượng khác trong nền kinh tế. Nếu thiên tai xảy ra, nông nghiệp bị
tàn phá, không đảm bảo được an ninh lương thực sẽ dẫn đến mất ổn định về
xã hội.
*
* *
Do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan tác động, thờì gian trước 2005,
đất nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam nói chung, huyện Kim Bảng nói riêng chưa
được khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả. Sau khi thực hiện việc dồn
điền, đổi thửa, sự manh mún về đất đai được khắc phục, tạo thêm nhiều điều
kiện thuận lợi để người nông dân – trước hết là những trang trại và nông hộ
sản xuất hàng hoá, mạnh dạn đầu tư các nguồn lực (vốn, lao động, kỹ thuật
mới...) vào sản xuất. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tăng đồng nghĩa với
năng suất lao động, sản lượng nông phẩm hàng hoá tăng; doanh thu, lợi nhuận
của người sản xuất tăng làm cho khả năng tích luỹ tái sản xuất mở rộng (cả
chiều rộng và chiều sâu) tăng. Đầu tư tăng làm cho hiệu quả sử dụng đất tăng,
người sản xuất kinh doanh nông nghiệp có việc làm ổn định và thu nhập tăng
góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông
thôn nói riêng cũng như của mọi người dân nói chung.
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong sản xuất nông nghiệp và phát
triển kinh tế nông thôn, nhưng nhìn chung việc khai thác, sử dụng đất nông
nghiệp sau dồn điền, đổi thửa, ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam còn nhiều bất
cập và chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Năng suất lao động, chất
lượng và sản lượng nông phẩm tăng chậm, lượng giá trị gia tăng và lợi nhuận
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chưa nhiều, nhất là trong lĩnh vực trồng
lúa. Để góp phần tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống của người
nông dân, thời gian tới chính quyền, người dân, các tổ chức kinh tế, xã hội
của huyện Kim Bảng cần cần xác định rõ phương hướng tiến hành nhiều giải
51
pháp nhằm phát triển sản xuất; gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xây
dựng nông thôn mới. Trước hết cần tập trung các nguồn lực nâng cao hiệu
quả sử dụng đất tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hóa cho thị trường.
Chương 2
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI
THỬA Ở HUYỆN KIM BẢNG TỈNH HÀ NAM.
52
2.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
ở Kim Bảng sau dồn điền đổi thửa.
Để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất nông
nghiêp, phát triển kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nông dân và xây dựng
nông thôn mới, việc sử dụng đất trong và sau quá trình dồn điền, đổi thửa ở
huyện Kim Bảng cần thấu suốt một số phương hướng sau:
2.1.1 Khai thác tối ưu tài nguyên đất hiện có góp phần phát triển sản
xuất nông nghiệp, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân.
Để đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện, trước hết phải
thống nhất trong nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của của sản xuất nông
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH và xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện được việc đó, trước hết cần phải tiến hành tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục làm cho người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn Hà Nam
nói chúng, Kim Bảng nói riêng thấy được sự cần thiết và vai trò to lớn của việc
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển sản xuất đảm bảo an ninh lương thực;
xóa bỏ sự manh mún về đất đai, cách nghĩ, cách làm vốn là tập quán của nền
kinh tế hiện vật, tự cấp tự túc với cách thức sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, thủ
công; phát huy được tính năng động sáng tạo của họ trong sản suất kinh
doanh, tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả các quy hoạch, dự án về phát
triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, thích ứng được những
yêu cầu của cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập. Trong điều kiện cạnh tranh
của cơ chế thị trường, chỉ có thâm canh, chuyên canh mới đem lại hiệu quả kinh
tế cho người nông dân. Muốn thực hiện thâm canh cây trồng, vật nuôi phải có sự
đầu tư các nguồn lực như vốn, lao động, tiến bộ khoa học kỹ thuật...Những
nguồn lực cần và có thể được đầu tư cho sản xuất nông nghiệp (dù là trồng trọt
hay chăn nuôi; với quy mô trang trại hay nông hộ sản xuất hàng hoá...) đều phải
căn cứ vào thời gian, diện tích đất được giao, hoặc nhượng quyền sử dụng và
nhu cầu của thị trường. Trong và sau quá trình dồn điền đổi thửa, người sử dụng
53
đất đều có mong muốn và trên thực tế đã cố gắng tìm mọi cách để duy trì, phát
triển sản xuất. Bởi chính cuộc sống đã giúp cho họ nhận thức được rằng, có đất
trong tay nhưng không có khát vọng vươn lên, không một nắng hai sương với
đất, không đầu tư các nguồn lực để khai thác tiềm năng đất đai thì không có thu
nhập, cuộc sống không bảo đảm, không thể thoát nghèo, ổn định cuộc sống và
làm giàu từ đất nông nghiệp.
Người nông dân là chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động sản xuất tạo ra
nông phẩm cho mình và nông phẩm hàng hoá cho xã hội. Quá trình sản xuất ra
của cải để nuôi sống mình và xã hội, người nông dân rất cần được sự hợp tác,
giúp đỡ của nhiều lực lượng trong đó có cả các cấp chính quyền, đoàn thể từ
trung ương đến địa phương nơi họ cư trú, sản xuất kinh doanh. Điều đó đặt ra
vấn đề là các chính sách, chủ trương, quy chế, thậm chí cả hương ước (nếu có)
liên quan đến nông thôn, nông nghiệp, đến quyền và nghĩa vụ của người dân sử
dụng đất, phải đồng bộ, ổn định để người nông dân yên tâm đầu tư sử dụng đất
lâu dài, có hiệu quả. Việc dồn, đổi ruộng đất những năm vừa qua là những chủ
trương hợp lòng dân, được người dân đồng tình. Mục đích dồn điền đổi thửa là
tập trung ruộng đất (quyền sử dụng) vào những người có điều kiện, khả năng,
nhu cầu để họ khai thác đất đai vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp một cách
có hiệu quả nhất. Nguyên tắc dồn điền đổi thửa là trên cơ sở Luật đất đai, các
Văn bản hướng dẫn, quy chế, quy định do Nhà nước, chính quyền địa phương
ban hành; đồng thời việc dồn đổi phải được tiến hành trên cơ sở sự tự nguyện,
cùng có lợi của người dân.
Thực tiễn đã khẳng định, động lực của mọi sự tăng trưởng và phát triển xét
cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. Khi bài toán về lợi ích được giải quyết thấu
tình đạt lý thì những vướng mắc trong chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên những mảnh, thửa khác nhau sẽ được xoá bỏ. Tạo lập và giữ vững
sự đồng thuận về các quan hệ ruộng đất, là yếu tố cần thiết cho phhát triển nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh
54
thần của nông dân cũng như cư dân nông thôn nói chung.
2.1.2 Khai thác, sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện phải
hướng tới một nền nông nghiệp sạch, phát triển bền vững.
Nông nghiệp – trước hết là trồng trọt, chăn nuôi, là một trong những
ngành sản xuất vật chất quan trọng nhất. Nó cung cấp lương thực, thực phẩm
đảm bảo sự tồn tại của con người và cả xã hội loài người. Không những thế,
nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến;
là thị trường rộng lớn tiêu thụ hàng công nghệ phẩm góp phần thúc đẩy công
nghiệp, dịch vụ phát triển. Để thực hiện những chức năng không ngành nào
có thể thay thế được, sản xuất nông nghiệp phải được tiến hành theo hướng
hiện đại, bền vững
Tính hiện đại trong ngành nông nghiệp thể hiện trình độ chế ngự thiên
nhiên, khả năng khai thác tối ưu các nguồn lực trong quá trình sản xuất lương
thực, thực phẩm của con người. Mặc dù sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện tự nhiên như khí hậu, thổ nhưỡng, độ phì nhiêu của đất
đai... nhưng trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão, nhất là công nghệ sinh học, trình độ tự động hoá, hoá học hoá như hiện
nay, con người hoàn toàn có thể làm chủ được quá trình lao động sản xuất để
tạo ra nhiều sản phẩm từ đất, từ nước, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người. Quan niệm sản phẩm nông nghiệp là kỷ vật của giới tự nhiên
ban tặng cho con người, ngày nay không còn phù hợp.
Tính bền vững của sản xuất nông nghiệp, trước hết phải biểu hiện là một
nền nông nghiệp sạch (nông nghiệp xanh) đó là khai thác hợp lý các nguồn
lực trước hết là đất và nước; khả năng duy trì, tái tạo môi trường sinh thái để
lại cho các thế hệ tương lai. Các nhà kinh tế học quan niệm, phát triển nông
nghiệp bền vững được thể hiện trên ba nội dung: kinh tế nông nghiệp tăng
trưởng, phát triển liên tục; xã hội nông thôn ngày càng văn minh tiến bộ; môi
trường thiên nhiên ổn định. Sản xuất nông nghiệp bền vững góp phần đảm
bảo an ninh lương thực, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
55
Trong phạm vi một huyện như Kim Bảng, để nâng cao hiệu quả sử dụng
đất và phát triển một nền nông nghiệp sạch, bền vững, cần thực hiện tốt
những nội dung chủ yếu là:
Thứ nhất, trên cơ sở Luật đất đai và các Văn bản hướng dẫn thực hiện;
dựa vào các Nghị quyết, các mục tiêu kinh tế xã hội do Huyện uỷ, UBND
huyện đề ra, các nông hộ, các trang trại các cơ quan quản lý nhà nước về nông
nghiệp trên địa bàn huyện cần phải thực hiện tốt các quy định của pháp luật
về sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo hướng: khai thác tối ưu, sử dụng tiết
kiệm, an toàn các nguồn lực, trong đó có đất đai phục vụ sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp. Để làm được điều này, trước hết tiếp tục khảo sát đánh giá đầy
đủ tiềm năng của đất và nước cho từng vùng (xã, thôn) trên cơ sở đó khuyến
cáo (tư vấn) cho người dân (chủ trang trại, chủ nông hộ) lựa chọn cây trồng,
vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, khí hậu và nhu cầu thị
trường; sử dụng hoá chất (phân hoá học thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ, thuốc
phòng dịch bệnh, chất kích thích tăng trưởng cho gia súc, gia cầm...) theo
những quy định, quy chuẩn an toàn, hiệu quả.
Thứ hai, để tăng trưởng phát triển bền vững, các cấp, các ngành cần
tuyên truyền giáo dục kết hợp với các biện pháp kinh tế, hành chính làm cho
các chủ thể sử dụng đất phải quan tâm tới các yếu tố kinh tế - xã hội - môi
trường với một ý thức trách nhiệm cao. Phải tạo được sự tăng trưởng liên tục
trong thời gian dài (nhiều năm); phải có những biện pháp bảo vệ đất, không
để tồn tại tình trạng khai thác kiểu chụp giật làm suy kiệt sự màu mỡ của đất
đai, mất đi sự đa dạng phong phú môi trường sinh thái.
Thứ ba, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi một cách
thường xuyên.
Trong kinh tế thị trường, với một nền nông nghiệp hàng hoá, việc trồng
con gì?, nuôi con gì? không phải là ý muốn chủ quan của người sản xuất mà
phải tuân theo “mệnh lệnh” của thị trường. Thị trường càng hiện đại thì
“mệnh lệnh” đó càng nghiêm minh, càng khắt khe hơn. Đối với người sản
56
xuất phải tìm hiểu thị trường, phải thực hiện phương châm: “Bán cái gì xã hội
cần chứ không phải bán cái gì người nông dân có”.
Với huyện Kim Bảng nói riêng, tỉnh Hà Nam nói chung, do trình độ
phát triển kinh tế xã hội chưa cao, dung lượng thị trường còn hạn hẹp và dễ
tính nên ít xảy ra hiện tượng mất cân đối lớn về cung cầu dẫn đến khủng
hoảng kinh tế. Nhưng hiện tại, nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng tăng nhanh,
nông phẩm từ các vùng, miền khác nhau trong nước và cả hàng nhập ngoại sẽ
xâm nhập nhiều hơn tạo áp lực cạnh tranh khốc liệt hơn. Mặt khác, kinh tế xã
hội phát triển, nhu cầu về đời sống vật chất tinh thần của các thành viên trong
xã hội cũng không ngừng được nâng cao theo hướng tiến bộ, văn minh. Sản
phẩm nông nghiệp cung ứng ra thị trường phải an toàn người tiêu dùng mới
chấp nhận. Có cầu thì có cung và ngược lại, chính nhu cầu của thị trường
buộc người nông dân phải thay đổi cách nghĩ, cách làm nông nghiệp sao cho
có hiệu quả nhất. Vì vậy, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng đáp ứng nhu
cầu người tiêu dùng có ý nghĩa sống còn đối với người sản xuất kinh doanh
nông nghiệp ở Kim Bảng hiện nay cũng như những năm tới.
Thứ tư, giá trị sản xuất nông nghiệp, doanh thu và lợi nhuận của người
sản xuất tăng, tạo khả năng đầu tư tái sản xuất mở rộng.
Điều này không chỉ là mong muốn của người sản xuất, các cấp quản lý
ở huyện Kim Bảng mà là cái chung của mọi người sản xuất hàng hoá trong
kinh tế thị trường. Muốn có phát triển bền vững, trước hết phải tạo ra sự tăng
trưởng thường xuyên. Trong cơ chế thị trường, tăng trưởng ở tầm vĩ mô là sự
gia tăng (tăng thêm) của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời gian
nhất định. Còn ở tầm vi mô, tăng trưởng trước hết biểu hiện ở sự gia tăng sản
lượng hàng hoá, gia tăng phần giá trị mới, làm cho doanh số bán hàng tăng,
lợi nhuận của người sản xuất tăng. Lợi nhuận tăng người nông dân mới có
điều kiện, khả năng tích luỹ tái sản xuất trước hết là đầu tư cho nguồn tài
nguyên đất để khai thác lâu dài, có hiệu quả.
57
Trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh thu và lợi nhuận tăng khi nông
phẩm bán được giá (giá cả cao hơn giá trị). Điều đó chỉ xảy ra trên thị trường,
đối với một loại hàng hoá nào đó, khi cung nhỏ hơn cầu. Còn đối với từng chủ
thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nông phẩm hàng hoá sản xuất ra phải có
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá mới thu được lợi nhuân
siêu ngạch. Trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, muốn có lợi nhuận siêu
ngạch phải kinh doanh trên những thửa ruộng màu mỡ, gần thị trường tiêu
thụ; đặc biệt là đầu tư thâm canh, tăng vụ nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nhằm giảm chi phí ban đầu cùng chi phí thường xuyên.
Đầu tư thâm canh, tăng vụ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất được tiến
hành thông qua việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại
vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, tạo ra những sản phẩm có
thương hiệu (đặc sản) và người sản xuất có thể độc quyền về giá bán. Cùng
với đó là các hoạt động tìm hiểu thị trường, xử lý chính xác các thông tin về
đối tác (người tiêu dùng) và cả những đối thủ cạnh tranh (tham gia thị trường
với sản phẩm cùng loại). Những lập luận trên là câu trả lời của người sản xuất
nông nghiệp ở Hà Nam nói chung, huyện Kim Bảng nói riêng.
2.1.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng đất phải phù hợp với điều kiện
cách mạng khoa học kỹ thuật, nền kinh tế thị trường, mở cửa hội
nhập
Thực tiễn đã chứng minh giữa hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả sản
xuất kinh doanh nông nghiệp có tác động qua lại với nhau. Muốn thực hiện
được mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng - an ninh đáp ứng yêu
cầu, mục tiêu CNH, HĐH, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Kim
Bảng, trước hết phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đất đai,
yếu tố có liên quan trực tiếp đến “tam nông” luôn mang tính lịch sử - xã hội
và là vấn đề nhạy cảm, đặc biệt trong kinh tế thị trường. Để giao quyền sử
dụng đất đúng luật định, tạo động lực cho nông dân huy động các nguồn lực
đầu tư sản xuất kinh doanh theo hướng thâm canh, chuyên canh, tạo ra nhiều
58
nông phẩm hàng hoá làm giàu cho mình và xã hội, cần công khai, minh bạch.
Quá trình giao quyền sử dụng đất (chia đất cho người dân sử dụng lâu dài)
cho người nông dân, nếu không xuất phát từ cái chung (Luật Đất đai, các Văn
bản pháp quy do nhà nước trung ương ban hành) và cái riêng (vận dụng vào
thực tiễn của từng ngành, địa phương) dễ dẫn đến phiến diện, làm cho các chủ
trương của nhà nước và địa phương về đất đai kém hiệu lực, hiệu quả; gây
nhiều hệ luỵ về kinh tế và xã hội, dẫn đến tình trạng lãng phí đất đai.
Thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở Kim Bảng trước đây cũng như hiện
nay cho thấy, không thể khai thác có hiệu quả đất đai để phát triển một nền
nông nghiệp hàng hoá lớn nếu không huy động tối đa, sử dụng tối ưu các
nguồn lực sẵn có và tìm kiếm, tạo dựng những nguồn lực mới cho sản xuất
kinh doanh nông nghiệp. Các nguồn lực của nông nghiệp Kim Bảng hiện nay
là đất đai, lao động với kinh nghiệm sản xuất, sự cần cù, khát vọng vươn lên
không cam chịu đói nghèo...nhưng điều đó chưa đủ trong điều kiện cách
mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ; nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường, sản xuất nông nghiệp mang nặng tính tự cấp, tự túc, chuyển sang
nền nông nghiệp hàng hoá với sự cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy, việc khai thác
một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên đất trên địa bàn huyện nói chung, từng
địa phương nói riêng phải hướng tới việc thay đổi tập quán sản xuất của nền
kinh tế hiện vật, bao cấp; phải ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất kinh doanh; hình thành phát triển tư duy sản xuất hàng hoá cho
nông dân, cho cán bộ lãnh đạo quản lý trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Thực hiện phương hướng này cần tiếp tục khảo sát đánh giá điều kiện
tự nhiên (diện tích đất và tài nguyên nước, khí hậu, thổ nhưỡng...) xã hội (dân
cư, lao động, tập quán, quy mô thị trường nông phẩm...) trên cơ sở đó hình
thành những cánh đồng lớn chuyên canh cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế
cao. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật cần được chuyển giao kịp thời, rộng rãi
để người sản xuất kinh doanh ứng dụng vào sản xuất và thu được kết quả cao.
Sự chuyển giao công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp ở
59
phạm vi cấp huyện, xã cần được tiến hành một cách chủ động linh hoạt. Hình
thức phổ biến và có hiệu quả thiết thực nhất là lồng ghép các chương trình
khuyến nông, khuyến ngư; vốn tín dụng ưu đãi, xoá đói giảm nghèo... với
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Ví dụ, định kỳ hàng năm tổ
chức cho cán bộ thôn, xã phụ trách về nông nghiệp tập huấn kiến thức mới,
thăm quan nhưng mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả về trồng trọt, chăn
nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản. Sau đó cán bộ đem kiến thức tuyên truyền
đến người thân, hàng xóm láng giềng, thôn, xã...theo kiểu lan toả. Các chi
nhánh Ngân hàng Phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện rải
ngân vốn tín dụng cho nông dân thông qua các hợp đồng mua máy móc, thiết
bị vật tư nông nghiệp có số lượng hoặc giá trị lớn (máy làm đất, phân bón,
thức ăn gia súc nuôi trồng thuỷ sản...). Phương thức này một mặt hạn chế rủi
ro cho ngân hàng, mặt khác hướng người nông dân sử dụng vốn vay đúng
mục đích, có hiệu quả.
Cùng với việc nhận chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất để tăng năng suất lao động, đem lại hiệu quả kinh tế cao, trong kinh tế thị
trường cần tìm hiểu, lựa chọn một số loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế
cao, dung lượng thị trường lớn. Hiện tại, trên địa bàn huyện Kim Bảng, sản
lượng thực, thực phẩm sản xuất ra đã vượt quá nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy,
việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của huyện trong những năm tới cần được
thực hiện thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ sang các vùng, địa phương
khác, nhất là những thành phố, khu công nghiệp đông dân cư, sức tiêu thụ
lớn. Muốn vươn ra thị trường bên ngoài, cần phát triển một số loại hàng nông
sản chủ lực được sản xuất theo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn, thân thiện
(VIETGAP) từng bước tạo lòng tin cho người tiêu dùng, xây dựng thương
hiệu và đứng vững được trên thị trường. Ngay trong thị trường nông thôn của
huyện, một số cây, con có giá trị sử dụng và sức mua lớn do nhu cầu một bộ
phận dân cư có thu nhập cao (cây cảnh, lợn rừng, nhím, ba ba...) cũng đang
60
mở ra hướng sản xuất mới cho người dân các xã như: Lê Hồ, Kim Bình, Khả
Phong...của huyện.
Ngoài yếu tố về chủng loại, chất lượng hàng nông phẩm (chủ yếu là an
toàn cho sức khoẻ người tiêu dùng), để giữ vững thị phần trên địa bàn huyện
và vươn ra thị trường nội tỉnh, ngoại tỉnh, người sản xuất kinh doanh nông
nghiệp ở Kim Bảng cần nâng cao sức cạnh tranh về giá cả bằng cách tăng
năng suất lao động. Trước mắt, các xã, hợp tác xã, từng nông trại, nông hộ
cần lựa chọn và tiến hành có điều kiện việc cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, điện khí
hoá, sinh học hoá ... các khâu làm đất, tưới tiêu nước, gieo trồng, thu hoạch,
chế biến, bảo quản, vận chuyển ra thị trường, nhằm giảm chi phí sản xuất
nhưng vẫn tạo được nhiều giá trị gia tăng, nhằm tăng doanh thu và tăng lợi
nhuận cho người sản xuất. Phát huy những lợi thế qua dồn điền đổi thửa đất
nông nghiệp và phát triển nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, huyện và từng
địa phương sớm quy hoạch hoặc mở rộng các cơ sở, khu công nghiệp chế
biến nông sản tập trung hình thành hệ thống dịch vụ tổng hợp (logistics) nhằm
hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Có mở rộng thị trường, tăng
doanh thu và lợi nhuận, mới tạo điều kiện cho người sản xuất chuyển đổi cây
trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tích lũy tái sản xuất mở rộng
và phát triển nông nghiệp bền vững.
2.1.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất phục vụ quá trình CNH,
HĐH, đảm bảo an ninh lương thực, xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện Kim Bảng
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nội dung,
một bộ phận quá trình CNH, HĐH nói chung. CNH,HĐH nông nghiệp nông
thôn là một quá trình với mục tiêu cơ bản là: phát triển nền nông nghiệp hiện
đại, xây dựng nông thôn mới văn minh, đời sống vật chất tinh thần của cư dân
nông thôn được cải thiện và nâng cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn trong điều kiện xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường,
không thể tách rời giữa sản xuất với lưu thông; giữ quá trình tạo ra nông sản
61
với vấn đề chế biến, tiêu thụ hàng hoá nông sản. Muốn phát triển sản xuất
phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hàng hoá nông sản phải có sức cạnh tranh
cao. Đây yêu cầu đồng thời là mục tiêu đặt ra đối với người sản xuất hàng hoá
trong lĩnh vực nông nghiệp ở huyện Kim Bảng hiện nay và những năm tiếp
theo.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nông phẩm được sản xuất ra phải có
giá thành rẻ, muốn có giá thành rẻ phải giảm chi phí đầu vào, bao gồm chi phí
chi phí tư liệu sản xuất (lao động vật hoá) và chi phí lao động sống. Mặt khác
để hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường thì ngoài giá thấp, sản phẩm
phải có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Những yêu
cầu này không thể thực hiện được nếu không tiến hành CNH,HĐH nền kinh
tế quốc dân trong đó có nội dung quan trọng là CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Vấn đề đặt ra là, việc dồn điền đổi thửa và hiệu quả sử dụng đất
sau dồn điền đổi thửa ở Kim Bảng hiện nay có mối quan hệ như thế nào với
quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện. Kết quả
nghiên cứu, khảo sát cho thấy: giữa chúng có mối quan hệ nhân – quả với
nhau. Điều khẳng định đó được biểu hiện:
Thứ nhất, CNH,HĐH nói chung, CNH,HĐH nông nghiệp, nông
thôn nói riêng tác động mạnh mẽ đến phát triển phân công lao động xã
hội theo hướng tập trung hoá, chuyên môn hoá.
Tuy là huyện thuần nông, không tiếp giáp với các đô thị lớn
nhưng trong kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường, cạnh tranh tất yếu
dẫn đến tập trung hoá và chuyên môn hoá. Tập trung hoá, chuyên môn
hoá lại là điều kiện, là tiền đề để các chủ thể kinh tế thực hiện hiệp tác
hoá (liên kết, hợp tác với nhau, do LLSX đòi hỏi), nhằm khai thác và sử
dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực sẵn có cho phát triển kinh tế -
xã hội. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nguồn lực quan trọng nhất cho sản
xuất kinh doanh là đất đai và lao động. Nếu đất đai được tập trung và
62
lao động được chuyên môn hoá, sẽ đưa sản xuất nông nghiệp thoát khỏi
tình trạng nhỏ lẻ, cát cứ để tiến lên một nền sản xuất lớn, hiện đại.
Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại, một mặt
sẽ tạo ra khối lượng lương thực, thực phẩm dồi dào hơn; mặt khác lại
làm giảm (cả tương đối và tuyệt đối) lao động trực tiếp làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp. Lực lượng lao động “dư thừa” từ lĩnh vực nông
nghiệp sẽ nhanh chóng được bổ sung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch
vụ, nông dân trở thành công nhân, thị dân. Lịch sử xã hội loài người
chứng minh rằng chỉ khi nào nông nghiệp cung cấp “đủ” lương thực,
thực phẩm cho con người, lúc ấy xã hội mới có sự phân chia nền sản
xuất thành nông nghiêp, công nghiệp và dịch vụ.
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nam, năm 2006 toàn tỉnh có
547 trang trại (huyện Kim Bảng có 251, chiếm gần 46%); đến năm 2011
toàn tỉnh còn 215 trang trại (huyện Kim Bảng còn 20 chiếm 9,3%) [Phụ
lục 5,6]. Xét về góc độ quản lý, riêng huyện Kim Bảng có 231 chủ
trang trại chuyển sang làm việc khác (mở doanh nghiệp, đại lý vật tư
nông nghiệp, chủ thầu xây dựng hoặc trở về quy mô sản xuất gia đình)
Quá trình CNH,HĐH nền kinh tế quốc dân làm cho quá trình đô
thị hoá diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp. Thực chất của đô thị hoá là mở rộng
không gian đô thị làm cho không gian nông nghiệp, nông thôn thu hẹp tương
ứng. Điều đó có nghĩa là quá trình đô thị hoá cũng là quá trình chuyển đổi
một phần đất sản xuất nông nghiệp, khu cư dân nông thôn thành các khu đô
thị mới theo hướng ngày càng hiện đại; biến nông dân thành thị dân với
những thay đổi về việc làm, thu nhập, mức sống, lối sống, tâm lý, thói quen,
lợi ích... Quá trình đô thị hoá ở nước ta nói chung, ở Hà Nam và huyện Kim
Bảng nói riêng tạo ra những thách thức lớn và cả những cơ hội không nhỏ cho
người nông dân, các cấp chính quyền quản lý nông nghiệp, nông thôn.
Về những thách thức, đó là diện tích đất canh tác bị thu hẹp dẫn
đến việc làm, thu nhập và đời sống của người nông dân gặp nhiều khó
63
khăn; vấn đề an ninh lương thực, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
nông thôn phức tạp hơn. Đặc biệt nếu sảy ra thiên tai gây mất mùa trên
diện rộng. Về thời cơ vận hội, đô thị hoá sẽ làm cho diện tích đất nông
nghiệp thu hẹp, theo lô-gíc hình thức, diện tích canh tác giảm (năng
suất không đổi) làm cho sản lượng lương thực giảm; sản lượng giảm
làm cho cung giảm; cung giảm (cầu không đổi) làm cho giá cả tăng; giá
nông phẩm tăng (chi phí sản xuất không đổi) làm cho lợi nhuận của
người sản xuất tăng.
Thứ hai, tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
trên địa bàn huyện theo hướng hiệu quả, hiện đại
Muốn sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai hiện có, toàn huyện cũng
như từng xã, thôn, thậm chí từng nông hộ, từng trang trại tiếp tục lựa
chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp với đồng đất đang sử dụng, đáp ứng
nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao.
Ở cấp huyện, tiếp tục khảo sát, quy hoạch thành vùng, ngành sản xuất
tập trung (lúa, rau màu, chăn nuôi bò, lợn, thuỷ sản) theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn. Công tác quy hoạch phát triển KT - XH nói chung và công tác quy
hoạch phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung nói riêng ở
Kim Bảng đã và đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Ví
dụ: dồn điền đổi thửa vẫn có thể phải tiếp tục thực hiện vì bình quân 5 – 7
mảnh thửa/hộ; hoặc từ 2011 đến nay, do chính sách tiền tệ không còn được
nới lỏng, việc huy động nguồn tiền cho xây dựng, bảo dưỡng sửa chữa hệ
thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng không thực hiện được như trước. Vì
vậy, tiếp tục quy hoạch và hoàn thiện các quy hoạch (tổng thể của huyện và
từng xã) sẽ khai thác, sử dụng tối ưu các nguồn lực trước hết là đất đai và
tạo thêm những động lực mới (ứng dụng công nghệ tiên tiến và tổ chức
quản lý phù hợp)thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hợp lý hiệu quả.
Với cấp xã, các trang trại và nông hộ, từng bước hình thành những
cánh đồng quy mô vừa (3 – 10 ha) hoặc lớn trên 10 ha để chuyên canh một
64
loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế và thực sự có lợi nhuận cho người
sản xuất.
Về trồng trọt, vẫn xác định cây lúa là chủ lực vì trước hết nó đảm bảo
nhu cầu lương thực cho người sản xuất và cả nhu cầu của người dân trên
địa bàn huyện; nhưng với từng trang trại, từng nông hộ, cần sớm xoá bỏ
cách nghĩ, cách làm theo kiểu phải “tự túc lương thực” bằng mọi giá. Đất
lúa có thể chuyển thành đất rau, màu; đất rau, màu có thể chuyển sang
trồng cây lâu năm (ăn quả, cây bonsai, nuôi trồng thuỷ sản) vì nhu cầu tiêu
dùng (tỷ lệ giá trị dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, khẩu vị, khả
năng tài chính, tâm lý tiêu dùng và đời sống tinh thần) của xã hội thay đổi
nhiều so với trước đây.
Về chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy hải sản, cần quan tâm đến
năng suất, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện nay trên thị
trường nông thôn, người tiêu dùng khi sử dụng các loại thực phẩm không
chỉ quan tâm đến giá cả mà còn quan tâm đến nguồn gốc, dư lượng hoá
chất độc hại, mầm bệnh... Vì vậy, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản
một mặt chuyển dịch theo hướng tậo trung, chuyên môn hoá; gắn sản xuất
với bảo quản, chế biến nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh
doanh, từng bước tạo lập thương hiệu sản phẩm trên thị trường, góp phần
mở rộng thị phần, phát triển nông nghiệp hàng hoá bền vững.
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp ở huyện Kim Bảng hiện nay
Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp thành những mảnh, thửa, cánh đồng
lớn hơn nhằm mục đích xóa bỏ sự “chia chác” đất đai manh mún, nhỏ lẻ,; tập
trung diện tích đất vào số ít người hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, từng
bước chuyển nông nghiệp mang nặng tính tự cấp sang sản xuất nông nghiệp
hàng hóa lớn.
65
Thực trạng sản xuất nông nghiệp và khai thác sử dụng đất đai thời gian
qua cũng như yêu cầu, điều kiện phát triển nền nông nghiệp hàng hoá lớn hiện
đại ở Kim Bảng trong những năm tới đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn vừa mang tính cơ bản lâu dài, lại vừa có tính thời sự cấp thiết. Theo tác
giả luận văn, để nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn huyện Kim Bảng
trong những năm tới, cần xem xét và thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau
2.2.1. Giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dàii để người nông dân yên
tâm đầu tư sản xuất kinh doanh
Sản xuất nông nghiệp gắn liền với đất đai, hiệu quả sản xuất kinh doanh
nông nghiệp gắn liền với hiệu quả sử dụng đất. Muốn phát triển kinh tế nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới, tăng thu nhập và cải thiện đời sống người
nông dân trên địa bàn huyện Kim Bảng, điều cần trước hết và cơ bản nhất là
khai thác và sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên đất hay diễn đạt cách một cách
khác là không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đất thông qua việc giải quyết
tốt quan hệ quản lý, sử dụng đất. Thực hiện giải pháp này cần:
Một là, trên cơ sở Luật đất đai 1993 (đang được nghiên cứu sửa đổi)
chính quyền và các ban ngành trong huyện ban hành và thường xuyên hoàn
thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người sử dụng đất.
Luật Đất đai 1993 của nước ta quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý... Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước
giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp
quyền sử đất. Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất
và đúng mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật” [21]. Những điều này khẳng định vai trò
quản lý của Nhà nước, quyền, giới hạn quyền của người sử dụng đất, trong đó
có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế...
66
Như vậy, Luật Đất đai là văn bản luật cao nhất vế đất và được áp dụng
trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nhưng đối với từng vùng,địa phương, do điều
kiện, khả năng, nhu cầu quản lý, sử dụng đất khác nhau, nên việc áp dụng
Luật cần có phương thức thực hiện khác nhau. Muốn Luật đi vào cuộc sống
và nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người nông dân phát triển sản xuất,
tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống, làm giàu cho mình và cho xã
hội, thì từng địa phương (tỉnh, huyện) phải ban hành kèm theo văn bản Luật
những hướng dẫn, quy định, quy chế cụ thể, thiết thực.
Kim Bảng, một huyện thuần nông, với đặc điểm cơ bản là tốc độ đô thị
hoá chậm, công nghiệp, thủ công nghiệp chưa phát triển, thị trường nông thôn
hạn hẹp. Vì vậy, Huyện uỷ, UBND và các cơ quan chức năng của huyện tiếp
tục ban hành các Nghị quyết, xây dựng các chương trình, dự án phát triển cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, đời sống: hệ thống giao thông nông
thôn, thuỷ lợi nội đồng, mạng lưới truyền tải điện (điện, đường, trường, trạm)
để khắc phục tình trạng hư hỏng, sự xuống cấp hệ thống hạ tầng kinh tế, xã
hội trên địa bàn huyện. Có như vậy mới tạo điều kiện cho người nông dân đầu
tư thêm các nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là, Tiếp tục đổi mới phương thức quản lý sản xuất kinh doanh
nông nghiệp theo hướng gắn sát với thị trường và phù hợp với khả năng, điều
kiện về vốn, lao động của nông hộ, trang trại, hợp tác xã...trên địa bàn huyện.
Trên thực tế, khó khăn trở ngại lớn nhất của sản xuất nông nghiệp ở
Kim Bảng hiện nay là vốn cho sản xuất và thị trường tiêu thụ nông phẩm.
Về vốn, do sản xuất chưa phát triển nên lợi nhuận và tích luỹ cho tái sản
xuất mở rộng của người nông dân chưa có nhiều. Vốn tự có chủ yếu đảm
bảo tái sản xuất giản đơn. Các trang trại, nông hộ sản xuất hàng hoá muốn
mở rộng quy mô hoặc phát triển theo chiều sâu (chuyển đổi vật nuôi cây
trồng có giá trị kinh tế cao) phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau,
trong đó vốn vay ngân hàng là chủ yếu. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp
67
phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, thị trường, năng lực quản lý sản xuất
kinh doanh nên rủi ro lớn. Hợp đồng tín dụng giữa các chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trên địa bàn
huyện với nông dân chỉ đảm bảo trên dưới 50% nhu cầu vốn sản xuất. Theo
kết quả khảo sát một số xã (Thi Sơn, Văn Xá, Hoàng Tây...) khoảng 18%
nông hộ có quan hệ tín dụng với ngân hàng, dư nợ bình quân 17,5 triệu/hộ.
Toàn huyện có 20 trang trại, (trong đó chăn nuôi: 15; nuôi trồng thuỷ sản: 3;
kinh doanh tổng hợp: 2) [phụ lục 6]. Dư nợ bình quân mỗi trang trại chăn
nuôi là 160.000.000VND; nuôi trồng thuỷ sản 250.000.000VND.
Về thị trường, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là sản phẩm làm ra
một phần để thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất (trước hết là lương thực,
thực phẩm) sau đó phần còn lại mới trở thành hàng hoá. Tuy nhiên do đặc
tính giá trị sử dụng nên các loại gia súc như lợn, bò, trâu, thuỷ hải sản; cây
công nghiệp, cây ăn quả đều là hàng hoá, nhưng dung lượng thị trường hạn
hẹp bởi sức mua, nguồn thực phẩm thay thế, thói quen tập quán của người
nông dân nói chung. Khắc phục khó khăn bất cập về vốn cho sản xuất, thị
trường cho hàng nông phẩm ở Kim Bảng hiện nay cần tiếp tục tiến hành
củng cố và phát triển kinh tế tập thể trong đó có loại hình HTX nông nghiệp,
HTX dịch vụ; tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại (kinh tế tư nhân
trong nông nghiệp) phát triển phù hợp với định hướng của Nhà nước và nhu
cầu thị trường. Có giải pháp thu hút nguồn đầu tư từ bên ngoài (ngoại tỉnh,
ngoại quốc) để huy động vốn, tiếp nhận được công nghệ mới vào khai thác
đất đai phục vụ sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Hình thành mối liên kết
chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; giữa sản xuất, bảo quản,
chế biến và tiêu thụ nông sản theo cơ chế “liên kết 4 nhà nhỏ + 1 nhà lớn”
(nhà nông, nhà băng, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp hợp tác với nhau -
dưới sự hỗ trợ, điều tiết và quản lý của Nhà nước); mối quan hệ về lợi ích
giữa “các nhà” phải được giải quyết trên cơ sở nhận thức và vận dụng linh
68
hoạt quy luật kinh tế thị trường, đảm bảo sự hài hoà, bền vững.
Ba là, xây dựng thí điểm các loại hình sản xuất kinh doanh nông
nghiệp khép kín, như các trang trại trồng trọt liên kết mua sắm máy móc nông
nghiệp để cơ giới hoá khâu làm đất, vận chuyển và chế biến nông sản; các
trang trại, nông hộ chăn nuôi góp vốn xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn công
nghiệp. Bên cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi và không hạn chế quy mô, ngành
nghề, lĩnh vực, địa bàn cho người dân, mọi thành phần kinh tế tích cực tham
gia phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đổi mới mô hình, phương thức hoạt
động để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp,
dịch vụ; khuyến khích các trang trại, các nông hộ sản xuất hàng hoá liên kết
hợp tác sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người sản xuất mở rộng hoạt động lưu
thông hàng hoá; duy trì và phát triển các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ nông nghiệp, chế biến nông sản. Phát triển các ngành thủ công
nghiệp, công nghiệp nông thôn, dịch vụ sản xuất và đời sống... nhằm chuyển
một bộ phận nông dân “ly ruộng” góp phần tập trung ruộng đất vào những
người có nhu cầu, khả năng sản xuất kinh doanh nông nghiệp, phân công lại
lao động xã hội trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông
thôn phát triển.
Cần có kế hoạch hỗ trợ các trang trại, các hộ nông dân tiếp cận thị
trường khoa học công nghệ ứng dụng thành tựu kỹ thuất tiên tiến vào sản
xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ nông sản, nâng cao hiệu quả sử
dụng đất và năng suất lao động.
Triển khai đề án nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông phẩm trong
điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế; đề án tin học hoá, sinh học hoá đến cấp
huyện, xã để giảm thiểu thời gian và chi phí cho người sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp khi gia nhập thị trường. Khuyến khích phát triển các mô hình
liên kết ở nông thôn để hình thành các trang trại, các hợp tác xã quy mô lớn
khép kín từ trong sản xuất, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... Thực hiện có
69
hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tỉnh Hà Nam cho phát triển
nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn huyện.
2.2.2. Quy hoạch các vùng sản xuất của huyện theo hướng tập trung
hoá, khuyến khích sự liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh nông nghiệp
Trong kinh tế nông nghiệp, nhất là nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn,
vấn đề quy hoạch hình thành, mở rộng những cánh đồng (trồng trọt), khu vực
(chăn nuôi) sản xuất tập trung có vai trò rất quan trọng, đây là quá trình
nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm cuả địa phương cũng như các huyện, tỉnh
khác vào thực tiễn sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa lớn của huyện. Công tác quy hoạch phát triển vùng nông nghiệp
hàng hóa tập trung ở huyện Kim Bảng đã và đang đặt ra những vấn đề mới,
cấp thiết cần được quan tâm giải quyết. Thông qua quy hoạch sẽ khai thác
tối ưu tài nguyên đất và các nguồn lực khác, tạo thêm những động lực mới
cho phát triển nông nghiệp hàng hóa; triển khai những giải pháp ứng dụng
công nghệ và tổ chức quản lý phù hợp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng ngày càng hợp lý hơn
Từ thực trạng sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp những năm
qua và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn huyện
Kim Bảng đến 2020, công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp hàng hóa
cần tập trung thực hiện những nội dung cơ bản sau:
Một là, bổ sung hoàn thiện quy hoạch tổng thể của huyện cũng như đối
với từng xã, từng ngành dựa vào lợi thế so sánh về đất đai, lao động, thị
trường.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá hiện đại, cần tiếp tục khảo sát đánh giá đúng tiềm năng thế mạnh của từng
vùng(xã hoặc liên xã) trên cơ sở đó khuyến cáo trang trại, nông hộ xác định
70
loại cây trồng, vật nuôi và thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù
hợp, đảm bảo ổn định, phát triển sản xuất.
Ruông đất Kim Bảng không có nhiều lợi thế (lợi thế so sành và lợi thế
tuyệt đối) so với các huyện khác trong tỉnh và vùng Đồng bằng Bắc Bộ nên
đất nông nghiệp chủ yếu được sử dụng cho trồng trọt và chăn nuôi gia súc
Đối với đất trồng trọt
Vùng sản xuất hàng hóa tập trung có thể được xây dựng dưới loại hình
những cánh đồng chuyên canh (hai vụ lúa/năm), hoặc kết hợp chuyên canh
một loại cây trồng chính với xen canh loại cây trồng khác như 2 lúa + vụ
đông/năm. Vùng chuyên canh chỉ nên áp dụng với những loại cây trồng có thị
trường tiêu thụ lớn, ổn định; sản phẩm dễ bảo quản thời gian dài như: lúa
hàng hóa, khoai lang, bí xanh, đậu tương... Các loại rau màu, hoa cây cảnh
chỉ hình thành vùng chuyên quy mô thôn, xóm khi có ngwời dựng dão lên và
có thị trường tiêu thụ ổn định. Còn ruộng đất ven sông (đất màu) hình thành
những vùng rau màu theo hướng xen canh, rải vụ cho phù hợp với nhu cầu
của thị trường, đồng thời đảm bảo người sản xuất có thu nhập thường xuyên
ổn định. Việc xen canh, rải vụ cũng dễ dẫn đến vắt kiệt độ màu mỡ của đất.
Vì vậy, muốn sử dụng đất lâu dài, hiệu quả và bên vững cần thực hiện cải tạo,
bồi bổ đất bằng các biện pháp hoá học hoặc sinh học.
Nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất và vốn đầu tư, việc quy hoạch
vùng sản xuất hàng hóa tập trung cần lựa chọn vùng đất cao có thể gieo trồng
được ít nhất 2 vụ trong 1 năm (đối với cây lúa), 3 vụ/năm đối với cây ngắn
ngày (đậu, lạc, vừng) hoặc gieo trồng quanh năm (rau màu) Đối với những
vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung phải có quy mô đất canh tác từ 20 ha trở
lên, được xác định là những vùng áp dụng công thức luân canh vụ lúa hàng
hóa + vụ đông. Vùng sản xuất lúa cần được quy hoạch theo hai hướng: cánh
đồng sản xuất lúa có năng suất cao và cánh đồng lúa chất lượng có giá trị kinh
tế cao.
71
Đối với những vùng sản xuất cây công nghiệp hàng hóa tập trung phải
có quy mô từ 30 ha trở lên và ít nhất có 1 vụ sản xuất cây công nghiệp hàng
hóa chính (mía, đay) và một loại cây xen canh (đỗ, lạc, khoai lang) trong năm.
Đối với vùng sản xuất rau an toàn tập trung phải có quy mô từ 3 ha trở lên và
có ít nhất 2 vụ sản xuất cây cho củ, quả (bí, cà rốt) và 1 loại cho lá (rau gia vị,
xà lách, rau cải) trong năm.
Nhằm tạo ra sản phẩm lúa gạo có chất lượng cao phục vụ nhu cầu tiêu
thụ cho thị trường, huyện chuyển đổi mạnh sang trồng lúa chất lượng cao là:
lúa nếp, lúa thơm các loại. Dự kiến năm 2020 về địa giới hành chính không có
thay đổi lớn, 17 xã của Kim Bảng sẽ hình thành ít nhất 17 vùng sản xuất lúa
tập trung.
Các loại cây trồng chủ lực khác là ngô, khoai lang, trong những năm tới
diện tích sẽ giảm để chuyển sang trồng cây thực phẩm (lạc, vừng, đậu tương)
và cây công nghiệp (mía, đay) cho hiệu quả kinh tế cao hơn.
Phương hướng chung của tỉnh Hà Nam và huyện Kim Bảng là: trong
giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo là duy trì và mở rộng diện tích
trồng một số cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao, sản xuất theo mô hình nông
nghiệp Việt Nam an toàn, tự nguyện (VIET GAP). Tăng sản lượng và chất
lượng sản phẩm rau lá, củ, quả theo hướng sạch, an toàn, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường như: khoai tây, cà chua, cà rốt, ớt, hành, tỏi... trong đó,
hướng phát triển rau sạch (su hào, cà rốt, mướp đắng...) trên đất cây vụ đông
và đất chuyên màu để tăng giá trị sản phẩm lên gấp 1,5 - 2 lần so với hiện na.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất – đồng thời là nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh nông nghiệp, từng xã, hợp tác xã, từng nông hộ cần tìm tòi mở
rộng sản xuất các loại rau, củ, quả có giá trị kinh tế cao. Trên cùng một diện tích
canh tác, nếu trồng khoai lang giống mới cho sản lượng 17 tấn/ ha với giá bán ;
12 triệu/tấn; nếu trồng lúa, sản lượng 5,6 tấn/ha, giá bán 8 triệu/tấn. Như vậy
doanh thu 1ha trồng khoai lang = 4,5 lần doanh thu 1ha trồng lúa. Tất nhiên đây
72
là số liệu so sánh tại thời điểm 2012, còn nếu thấy trồng khoai lang có lãi,
nhiều người bỏ trồng lúa sang trồng khoai lang, làm thay đổi cung - cầu lúc đó
lợi nhuận thu được giữa lúa và khoai sẽ thay đổi.
Đối với chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản.
Theo quy định chung, đất để xây dựng các khu chăn nuôi tập trung là
các vùng đất đất bãi, đất sản xuất nông nghiệp và phải cách khu dân cư,
trường học, bệnh viện, chợ, công sở, khu công nghiệp, đường giao thông quốc
lộ hoặc tỉnh lộ 500 m trở lên.
Đưa chăn nuôi ngang bằng với trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hóa,
và bền vững, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho người tiêu dùng là thách thức
không nhỏ của Kim Bảng hiện nay và những năm tiếp theo. Để nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp vào chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản, trước
mắt huyện, xã, các trang trại (toàn huyện có 15 trang trại chăn nuôi, 3 trang
trại nuôi trồng thuỷ sản) các nông hộ và người nông dân từng bước tổ chức lại
sản xuất chăn nuôi theo hướng gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản
phẩm, đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường, chăn
nuôi ra ngoài khu dân cư, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
vệ sinh an toàn thực phẩm
Hiện nay chăn nuôi lợn được tập trung ở những xã phát triển thuần
nông, có điều kiện về đất đai để xây dựng chuồng trại, hệ thống cung cấp
giống, thức ăn và tạo điều kiện thuận lợi trong khâu tiêu thụ sản phẩm với
khối lượng lớn. Chăn nuôi bò có thể phát triển ở các xã thôn có đất bãi ven
đê. Chăn nuôi gia cầm, phát triển đàn gia cầm lấy thịt, lấy trứng, khuyến
khích phát triển gà nuôi theo hai hướng: theo phương pháp công nghiệp và
nuôi thả vườn bán thâm canh. Phấn đấu đến năm 2020 huyện đàn lợn 50.000
con (năm 2011: 46.000); đàn bò đạt 8.000 con (năm 2011 là 6.069 con); đàn
gia cầm chủ yếu hộ gia đình đạt 950.000 con (năm 2011: 809.000) [phụ lục
16,17,18]. Đối với nuôi trồng thủy sản (năm 2011 có 3 trang trại), tập trung
73
chỉ đạo thâm canh tăng năng suất trên diện tích mặt nước hiện có bằng các
công thức nuôi thả giống cá, tôm, loại lưỡng cư có hiệu quả kinh tế cao. Dự
kiến đến năm 2020 nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện đạt sản lượng 5.000 tấn
(năm 2011, sản lượng thuỷ sản của Kim Bảng là 4.789,5 tấn, trong đó nuôi
trồng: 4.604,4 tấn; khai thác tự nhiên: 185,1 tấn.) [phụ lục 19a,19b,19c]
Trong kinh tế thị trường và khi đất đai được giao cho người nông dân
quyền sử dụng lâu dài thì việc quy hoạch không thể thực hiện theo kiểu biện
pháp hành chính, áp đặt như thời kỳ kinh tế hiện vật bao cấp. Quy hoạch đất
nông nghiệp ở Kim Bảng (cũng như tất cả các địa phương khác) cần công
khai các thông tin có liên quan đến chủ thể sử dụng đất, giúp họ tiếp cận đầy
đủ, chính xác các luận cứ chứng minh sự cần thiết, những lợi ích mà người
nông dân có được khi tham gia các chương trình, dự án chuyển đổi vật nuôi,
cây trồng theo quy hoạch.
2.2.3. Đào tạo, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực trong khai thác sử
dụng đất cho phát triển nông nghiệp
Ở Kim Bảng hiện nay cũng như những năm tiếp theo, hiệu quả sử dụng
đất nói riêng, phát triển nông nghiệp nói chung được quyết định bởi chất
lượng nguồn nhân lực - trước hết là năng lực lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán
bộ đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở và kiến thức, kỹ năng lao động của
người trực tiếp sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Hiện tại, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp, nông thôn của huyện còn gần
70%, chưa qua đào tạo, trong đó những người trực tiếp sản xuất chiếm gần 80%,
đồng thời cơ cấu, sử dụng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện còn nhiều bất cập.
Theo một khảo sát do nhóm sinh viên cuối khoá trường Đại học Lao động xã hội
thực hiện, từ 2008 – 2011, mỗi năm toàn huyện có gần 3 nghìn người bổ sung
vào lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. Trong đó trình độ học vấn: tốt
nghiệp trung học cơ sở = 42%; tốt nghiệp trung học phổ thông = 28%; trung cấp
và dạy nghề = 21%; đại học, cao đẳng = 9% (khoảng 290 người). Nhóm có trình
74
độ đại học, cao đẳng chủ yếu liên quan đến giáo dục, y tế, bộ máy công quyền,
còn nông nghiệp. Hàng năm cả huyện chỉ có một hoặc hai kỹ sư nông nghiệp về
làm việc. Còn phần lớn lao động nông nghiệp không được đào tạo chuyên môn
ngành nghề, họ làm theo kinh nghiệm do người đi trước để lại là chủ yếu.
Sự mất cân đối về lao động ở khu vực nông nghiệp ở Kim Bảng Hà
Nam được xem là “điểm nghẽn ” gây cản trở quá trình khai thác sử dụng đất
một cách có hiệu quả nhất. Khắc phục tình trạng này, những năm tới, huyện
cần tập trung vào mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề,
nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của nông dân. Công tác đào tạo nghề lao
động nông nghiệp ở Kim Bảng triển khai theo hướng đa dạng các loại hình,
các ngành nghề đào tạo: dạy nghề tại cộng đồng thôn, xóm theo nhu cầu sản
xuất; lồng ghép hoạt động khuyến nông, khuyến ngư với dạy nghề; dạy nghề
và trang bị kỹ năng lao động thông qua các chương trình dự án của Nhà nước,
của tỉnh, huyện,
Trong thời gian tới, để trang bị tri thức, kỹ năng cho nông dân khai
thác, sử dụng đất có hiệu quả cao nhất, để đồng đất Kim Bảng thật sự là “tấc
đất, tấc vàng” Đảng bộ, chính quyền, cơ quan chức năng và người dân trên
địa bàn huyện cần tập trung:
Thứ nhất, làm tốt công tác tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức
để mọi người chấp hành nghiêm các chủ trương chính sách của Đảng, của
Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn. Quản lý, sử dụng đất đai đúng pháp
luật và đạt hiệu quả cao. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra với những
hình thức, biện pháp phù hợp, thiết thực đảm bảo nghiêm minh, công bằng và
tạo sự đồng thuận trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp.
Lãnh đạo các cấp (huyện, xã), ngành (phòng Nông nghiêp và phát triển
nông thôn, Tài nguyên môi trường, Tài chính, Kế hoạch đầu tư, giao thông,
thuỷ lợi, điện lực có kế hoạch, giải pháp cụ thể trong quy hoạch, xây dựng
phát triển hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nhân lực, cung ứng vốn , vật tư cho sản
75
xuất nông nghiệp nông. Đảm bảo việc bảo vệ và sử dụng nguồn tài nguyên
đất một cách hợp lý, hiệu quả cao.
Hai là, đối với lực lương lao động trực tiếp trong nông nghiệp, huyện,
Phòng khoa học công nghệ tăng cường hướng dẫn và tập huấn kỹ thuật, xây
dựng mô hình, phương pháp chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật
phù hợp như kỹ thuật chọn nhân giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá
trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và
điều kiện tự nhiên cánh đồng, xã, thôn. Ngoài việc đào tạo phổ cập những kiến
thức cơ bản, với tài liệu học tập ngắn gọn, dễ hiểu, cần sự tham gia rộng rãi của
các đoàn thể quần chúng như: Phụ nữ, Ðoàn Thanh niên, Nông dân, Cựu
chiến binh, Người cao tuổi; các hội, hiệp hội, câu lạc bộ theo ngành nghề tại
địa phương (Hội những người chăn nuôi giỏi, Hội những người làm vườn giỏi,).
Tiếp tục kiện toàn trạm khuyến nông huyện, thị; cụm khuyến nông xã, cán bộ
khuyến nông thôn, để hướng dẫn và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông
dân và người lao động. Quan tâm đào tạo lao động trình độ cao, chuyên sâu; đào
tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách, cán bộ quản lý đất đai, nông nghiệp, đáp ứng
nhu cầu phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.
2.2.4. Ứng dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh
doanh nông nghiệp trên địa bàn huyện
Thực hiện giải pháp này, trước hết phải nhận thức đầy đủ vai trò của tiến
bộ kỹ thuật trong khai thác, sử dụng đất đai cho phát triển nông nghiệp hàng
hóa lớn, hiện đại làm cho hàng hoá nông phẩm có năng suất, chất lượng, sức
cạnh tranh cao; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh
trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới ở các khâu, các công
đoạn của sản xuất – chế biến - tiêu thụ nông phẩm hàng hóa.
Để nhanh chóng ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến (trước hết và
quan trọng nhất là sinh học, tin học) vào phát triển nông nghiệp hàng hóa,
giải pháp duy nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở Kim
76
Bảng hiện nay và trong những năm tiếp theo là phát triển nông nghiệp theo
mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch - nông nghiệp bền
vững, theo xu thế chung cuả thời đại.
Trong kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, muốn khai thác, sử dụng
đất đai có hiệu quả, muốn có một nền nông nghiệp hàng hóa lớn hiện đại,
không thể tách rời quá trình phát triển các sản phẩm có khả năng cạnh tranh
cả về chất lượng, mẫu mã, chủng loại; giá cả; các dịch vụ trước, sau bán hàng.
Đặc biệt hàng nông phẩm thiết yếu có liên quan trực tiếp tới sức khoẻ người
tiêu dùng, nên yêu cầu về vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm được xã hội
rất quan tâm.
Trên thực tế, không thể khai thác sử dụng đất có hiệu quả để phát triển
nông nghiệp hàng hóa nếu đất đai manh mún, sản xuất độc canh cây lương
thực, phương thức canh tác lạc hậu, do không quan tâm đầu tư nhận chuyển
giao và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn dựa trên nền tảng ứng dụng
khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, thay đổi tập quán sản xuất nhỏ, phân
tán, tự túc, độc canh cây lương thực sang sản xuất hàng hóa lớn, đa dạng các
loại vật nuôi, cây trồng, quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa
tập trung, kết hợp sản xuất nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ... chính là
thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Kim Bảng cũng như tỉnh Hà Nam. Để nâng cao hiệu
qua rsử dụng đất, phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn, huyện cần làm tốt một
số yêu cầu sau:
Thứ nhất, nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ các cấp, các
ngành và nhân dân, nhất là người nông dân về vai trò của khoa học công
nghệ trong khai thác sử dụng đất cho phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn.
Cần thống nhất về nhận thức đối với việc ứng dụng khoa học - công nghệ
mới, hiện đại là điều kiện tiên quyết để phát triển nông nghiệp hàng hóa đạt
77
hiệu quả cao đáp ứng xu thế mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Có
như vậy thì Đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành và mọi người nhất là cư
dân nông nghiệp, nông thôn ở Kim Bảng mới thấy hết được vai trò tính chất
quyết định của khoa học - công nghệ đối với quá trình tăng trưởng, phát triển
của nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường
nông phẩm như hiện nay.
Để ứng dụng nhanh, hiệu quả những tiến bộ khoa học kỹ thuật nông
nghiệp vào khai thác đất đai, trước hết cần phải tiến hành tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục làm cho người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn các xã,
thị trấn trong huyện thấy được sự cần thiết của việc ứng dụng khoa học -
công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa. Có như vậy, người nông dân mới yên tâm gắn bó với đất, quan
tâm đầu tư vào đất và cho đất; xóa bỏ cách nghĩ, cách làm theo kiểu “bóc
ngắn cắn dài”, “ăn sổi ở thì” làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đất, nước, môi
trường sinh thái; từ đó phát huy được tính năng động sáng tạo của họ trong
sản suất kinh doanh, tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả các quy hoạch,
các đề án, dự án về phát triển nông nghiệp hàng hóa của địa phương trước
những yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực các cơ quan chức năng
thường xuyên thực hiện sự chuyển giao và nhận chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh (công nghệ sinh học, thông
tin, bảo quản sau thu hoạch, maketing...). Phát động phong trào cải tiến kỹ
thuật, tiết kiệm trong tiêu dùng, trong sản xuất để đầu tư mua sắm máy móc
thiết bị hiện đại, lai tạo, nhân giống các loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh
tế cao bằng cách ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp. Sản xuất kinh doanh nông nghiệp thực sự có lợi
nhuận, người sử dụng đất sẽ gắn bó lâu dài, khai thác có hiệu quả các nguồn
78
lực cho sản xuất nông nghiệp, trước hết là đất, nước, lao động, thị trường hàng
nông phẩm.
Thứ hai, hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh lớn nhằm
tạo điều kiện thuận lợi để đưa các ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến vào sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông phẩm.
Giải pháp này không thể tách rời giải pháp quy hoạch lại đồng đất trên
địa bàn huyện, trọng tâm là quy hoạch các vùng sản xuất lúa năng suất cao, vùng
lúa chất lượng cao; các khu chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản cung cấp sản phẩm
giá trị dinh dưỡng cao, an toàn cho người sử dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng nhưng cũng rất khắt khe của thị trường. Trên cơ sở đó mới khai thác được
những lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn từng vùng để tạo điều kiện thuận
lợi cho sản xuất nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa, tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả sử dụng đất, tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích, giảm hao
phí lao động cá biệt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Xây dựng, phát triển
các cơ sở chế biến theo hướng kết hợp các dạng công nghệ (truyền thống,
hiện đại) tạo được nhiều sản phẩm đáp ứng sự đa dạng về nhu cầu, khả năng
tài chính của các tầng lớp dân cư. Thực hiện sự gắn kết công nghiệp chế biến
và dịch vụ với các hợp tác xã, trang trại, nông hộ, tạo ra những nông phẩm
đứng vững trên thị trường huyện va ftừng bước vươn ra thị trường mới rộng
lớn hơn.
Ba là, Phát triển sản xuất các mặt hàng mà huyện có thế mạnh và lợi thế
so sánh. Xây dựng một nền “nông nghiệp sạch”, đáp ứng yêu cầu về chất lượng
và vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc gia.
Huyện cần đầu tư các nguồn lực phát triển một số mặt hàng nông sản
chủ lực, xây dựng thương hiệu, hệ thống bao bì nhãn mác theo tiêu chuẩn
quốc gia và được quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thực hiện có lựa chọn việc cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa, hoá học
hoá, sinh học hoá... sản xuất nông nghiệp. Khắc phục tình trạng “mạnh ai
79
người ấy làm”; khuyến khích tiếp dồn điền đổi thửa, chuyển nhượng, cho
thuê, góp vốn cổ phần bằng đất thực hiện tập trung ruộng đất cho sản xuất lớn
hiện đại. Quy hoạch các cơ sở, khu công nghiệp chế biến hàng nông sản, hệ
thống dịch vụ hậu cần (golichtich) nông nghiệp nông thôn nhằm hỗ trợ đầu
vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống đó bao gồm ít nhất một chợ
nông sản đầu mối (thực hiện bán buôn), các cửa hàng, hệ thống dịch vụ kỹ
thuật ở nông thôn, trong đó đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư,
công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác. Nhận chuyển
giao và ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản
xuất nông nghiệp như công nghệ gen, công nghệ cấy ghép tế bào, kỹ thuật
canh tác, công nghệ bảo quản sau thu hoạch và công nghệ chế biến... nhằm
nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, tạo ra những giống cây, con; những
sản phẩm có ưu tế vượt trội về năng suất, chất lượng, chủng loại đáp ứng yêu
cầu thị trường.
Trong kinh tế thị trường, khoa học công nghệ - trong đó có khoa học và
công nghệ sử dụng trong nông nghiệp, cũng là hàng hoá. Vì vậy, để tiến bộ
khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, đem lại hiệu quả to lớn, thiết thực
cho người sản xuất, trước hết cần xoá bỏ tư tưởng bao cấp, xin-cho, từng
bước thực hiện sự liên kết giữa nhà nông với nhà khoa học theo nguyên tắc
thị trường, cùng có lợi. Tạo sự gia tăng hàm lượng chất xám trong từng đơn vị
sản phẩm nông nghiệp thông qua việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật của các
nhà nông học cho người nông dân và người nông dân cung ứng nông phẩm có
phẩm cấp tốt, chủng loại đa dạng, an toàn cho người tiêu dùng, trong đó có
các nhà nông học.
2.2.5. Khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khai thác một cách tiết kiệm, hợp lý có hiệu quả đất đai trên địa bàn
huyện Kim Bảng hiện nay cần sử dụng nhiều biện pháp, nhiều nguồn lực với
80
sự tham gia của nhiều lực lượng và được thực hiện thường xuyên liên tục. Phải
kết hợp nội lực (vốn tự có) với ngoại lực (vốn vay). Thực hiện tiết kiệm chi
phí, tiết kiệm tiêu dùng để tái sản xuất mở rộng (theo chiều sâu là chủ yếu).
Thường xuyên điều chỉnh phương thức huy động và sử dụng các nguồn lực
theo hướng chủ động, hiệu quả, an toàn. Trong đó tập trung đầu tư xây dựng,
nâng cấp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn.
Việc xây dựng và phát triển hạ tầng kinh tế (hệ thống giao thông, thuỷ
lợi, điện, thông tin liên lạc) và hạ tầng xã hội (cơ sở giáo dục y tế, vui chơi
giải trí) trên địa bàn nông thôn huyện Kim Bảng có vai trò rất quan trọng và
luôn được lồng ghép với các chương trình: xoá đói giảm nghèo, phát triển
nông nghiệp hàng hoá, xây dựng nông thôn mới. Ở Hà Nam nói chung, huyện
Kim Bảng nói riêng, xây dựng, phát triển hạ tầng KT - XH trong nông nghiệp,
nông thôn không chỉ là vấn đề kinh tế - kỹ thuật đơn thuần mà còn là vấn đề
xã hội quan trọng nhằm tạo tiền đề cho phát triển nguồn nhân lực, sự đồng
thuận trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đặc biệt đối với phát
triển nông nghiệp hàng hóa, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được
xem là “mạch máu” của sản xuất và lưu thông, nó không chỉ tăng năng suất
lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn nâng cao giá trị hàng hóa và tiếp cận
với thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản giữa các vùng trong huyện, trong
tỉnh và cả nước.
Trong thời gian qua, với sự gia tăng đầu tư từ ngân sách tỉnh, huyện,
xã; với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, việc huy động các
nguồn lực to lớn trong xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng KT - XH nông
nghiệp, nông thôn đã mang lại những kết quả tích cực. Điều đó đã góp phần
quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng, làm tăng hiệu quả
sử dụng đất làm cho kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn huyện Kim Bảng
phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan tác động, hệ
81
thống hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn huyện xuốn cấp và lạc hậu không
đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá hiện đại. Khắc phục tình
trạng này trước hết cần tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế nông
nghiệp, nông thôn (hệ thống giao thông, điện, thủy lợi, thông tin liên lạc…) phục vụ
sản xuất hàng hóa tập trung. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá lớn hiện đại, từ nay đến năm 2016, Kim Bảng cần tập
trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển đồng bộ hệ thống giao thông phục vụ sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn.
Từ trước đến nay, hệ thống giao thông nông thôn luôn được ví như
“mạch máu” trong cơ thể con người; nó kết nối các vùng sản xuất, các thị
trường bằng các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn; các tuyến nội
đồng ...
Hệ thống giao thông là yếu tố hết sức quan trọng để phát triển KT - XH
nông thôn, đặc biệt đối với việc sử dụng đất cho phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Sự phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn của huyện có liên quan đến
cung cấp dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho nông hộ, các trang trại, các khu sản xuất
chế biến tập trung nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất kinh doanh nông
phẩm. Nó tạo các mối liên kết không gian và giao lưu giữa các luồng hàng
hóa giữa thành thị và nông thôn. Khi sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát
triển, giao thông nông thôn có ý nghĩa to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu
thông hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi chế biến, đến thị trường tiêu thụ.
Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ góp phần giảm chi phí vận chuyển do
đó giảm được chi phí sản xuất, làm cho giá cả các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
đến tay người tiêu dùng giảm đi, nâng cao tính cạnh tranh, mở rộng thị phần.
Đồng thời, nó tạo cơ hội giao lưu văn hoá giữa các vùng miền, kich sthích sản
xuất tiêu dùng; tạo điều kiện thuận tiện cho các tầng lớp dân cư tiếp cận với
các dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế, vui chơi giải trí, tạo thêm động lực mới
82
cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển.
Để phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn, trong thời gian tới,
huyện cần tăng cường công tác duy tu, bảo dưỡng và từng bước nâng cấp
những con đường hiện có để phục vụ sản xuất. Đồng thời phải đẩy mạnh khảo
sát, thiết kế mở rộng và xây dựng mới đường, cầu, cống nhất là mạng lưới giao
thông nội đồng để cơ giới hoá khâu vận chuyển hàng nông phẩm. Ưu tiên các
công trình trọng điểm, đầu mối và giao thông nội đồng, bằng biện pháp bê tông
hóa, nhựa hóa để đảm bảo độ bền vững của công trình và tiết kiệm đất canh
tác.
Hai là, phát triển hệ thống thủy lợi đảm bảo chủ động tưới, tiêu nước
trong những điều kiện thời tiết bất thường.
Hệ thống thủy lợi phục vụ nông nghiệp, nông thôn của Kim Bảng bao
gồm toàn bộ hệ thống công trình phục vụ cho việc khai thác, sử dụng hợp lý
nguồn nước (nước mặt và nước ngầm) và hạn chế những tác hại do nước gây
ra đối với sản xuất, đời sống và môi trường sinh thái. Các công trình chủ yếu
thuộc hệ thống thủy lợi bao gồm: Hệ thống các hồ đập giữ nước; hệ thống các
trạm bơm tưới, tiêu; hệ thống kênh mương...
Vốn là huyện thuần nông và hiện tại có nhiều lợi thế để phát triển nông
nghiệp hàng hóa nên công tác thủy lợi có vị trí hết sức quan trọng không chỉ
cho sản xuất nông nghiệp, mà cho cả các ngành, các lĩnh vực khác. Thấy
được tầm quan trọng của hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp,
kinh tế nông thôn, Uỷ ban nhan dân huyện, các cơ quan liên quan xác định
các hạng mục công trình cần nâng cấp, cần xây mới để hoàn thiện quy hoạch
hệ thống thủy lợi phục vụ việc khai thác có hiệu quả diện tích đất hiện có. Từ
thực tiễn của huyện tác giả luận văn đề xuất một số công việc liên quan đến
hệ thống thuỷ lợi của huyện như sau:
Bằng nhiều hình thức, tăng cường công tác tuyên truyền về pháp lệnh
khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, pháp lệnh đê điều và phòng chống lụt
83
bão, các Nghị quyết và Quyết định của Chính phủ, Bộ có liên quan đến việc
quản lý khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên đất, nước, đặc biệt là NQTƯ 7
khoá XI về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường” một cách tích cực và mạnh mẽ hơn nữa để các cá nhân, tổ
chức, cộng đồng biết và thực hiện nghiêm túc.
Thực hiện tốt “Quy hoạch phát triển thủy lợi 2010 - 2020” của huyên
đã được tỉnh Hà Nam phê duyệt trong tổng thể quy hoạch của tỉnh được
Chính phủ phê duyệt. Tăng cường đầu tư cho các dự án cải tạo nâng cấp và
xây mới các công trình thủy lợi một cách đồng bộ theo phương châm đồng bộ
hoá và kiên cố hóa kênh mương đầu mối, kênh mương nội đồng. Bổ sung
công trình cho những vùng còn thiếu năng lực tưới, tiêu thoát nước nhất là
vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn. Nghiên cứu bổ sung đầu tư các
công trình tiếp nhận nước, dự trữ nước cho mùa khô bằng các biện pháp thích
hợp như không san lấp, hồ, đầm trữ nước, có sắn nhằm đáp ứng được khả năng
trữ và cung cấp nước cho sản xuất và đời sống dân sinh trong huyện
Ba là, phát triển hệ thống truyền tải điện nông thôn.
Hệ thống điện nông thôn là toàn bộ các yếu tố cơ sở vật chất làm nền
tảng cho việc cung cấp điện sử dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và phục vụ sinh hoạt nông thôn. Hệ thống này bao gồm mạng lưới đường dây
tải điện từ nguồn cung cấp, hệ thống các trạm hạ thế, mạng lưới phân phối và
dẫn điện tới các phụ tải... Nguồn năng lượng điện có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển của các vùng nông thôn. Điện là nguồn năng lượng
phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của các hộ gia đình, điện còn được dùng cho
công tác thuỷ lợi, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; chế biến nông sản.,
các hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại...
Cung ứng đủ nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và đời sống, chi nhánh
điện Kim Bảng thuộc Công ty Điện lực Hà Nam cần triển khai thực hiện một
số dự án cải tạo, nâng cấp đường dây và trạm biến áp, hoán đổi máy biến áp
84
từ nơi thiếu tải sang nơi thừa tải để nâng cao điện áp cho sản xuất. Đến năm
2015, huyện hoàn thiện cải cải tạo lưới điện 17 xã, 2 thị trấn; về cơ bản 100%
hạ tầng lưới điện nông thôn đáp ứng được tiêu chí nông thôn mới.
Về tổ chức quản lý, nên có sự kết hợp kết hợp giữa địa phương và
ngành điện. Các HTX dịch vụ ký hợp đồng mua bán điện, giá cả theo quy định
của Nhà nước, đảm bảo ngành điện không bị thất thoát, địa phương điều tiết
phân phối nguồn điện một cách chủ động, an toàn, hiệu quả.
Bốn là, phát triển hệ thống thông tin, truyền thông và xây dựng đời sống
văn hoá xã hội văn minh, tiến bộ.
Hệ thống thông tin truyền thông bao gồm mạng lưới cơ sở vật chất,
các phương tiện phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trao đổi thông tin đáp
ứng nhu cầu sản xuất và đời sống ở nông thôn. Hệ thống thông tin và viễn
thông bao gồm: Mạng lưới bưu cục, điện thoại, internet sóng phát thanh,
truyền hình... Trong điều kiện phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, kinh tế
thị trường, thông tin đóng vai trò ngày càng quan trọng, không những với phát
triển kinh tế mà cả vấn đề văn hoá, xã hội khác. Các nông hộ, các trang trại,
các doanh nghiệp thu mua, chế biến nông sản và các chủ thể kinh tế khác cần
biết nhiều thông tin về thời tiết, về chủ trương, chính sách của Nhà nước, về
tình hình biến động của thị trường, giá cả.. Do vậy, việc cung cấp thông tin
cho khu vực nông thôn và người nông dân ở Kim Bảng hiện nay cũng như các
năm tới là rất cần thiết. Để thực hiện điều đó cần phải có một hệ thống hạ tầng
thông tin truyền thông đồng bộ, hiện đại. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng,
phát triển hạ tầng thông tin truyền thông đòi hỏi có nguồn vốn lớn cùng các
điều kiện vật chất và con người quản lý, khai thác sử dụng chúng. Với nông
thôn và nông dân, khi nguồn lực tài chính còn hạn chế thì để có hệ thống
thông tin truyền thông cấp huyện đáp ứng được các yêu cầu phát triển nông
nghiệp còn cần nhiều sự hỗ trợ từ Tỉnh, Nhà nước.
Sản xuất nông nghiệp gắn với địa bàn nông thôn và mang tính tự phát nên
85
điều kiện tiếp cận thông tin còn nhiều khó khăn. Nông dân thường rơi vào tình
trạng thiếu, đói thông tin, dẫn đến những thiệt hại không đáng có về lợi ích của
người nông dân. Vì vậy, cần phải có kế hoạch phát triển hệ thống thông tin
truyền thông, hệ thống bưu điện văn hóa rộng khắp đến từng thôn, xóm nhằm
đảm bảo thông tin kịp thời đến người sản xuất, giúp họ nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thông tin về thời tiết,
thiên tai, giá cả thị trường liên quan đến sản xuất nông nghiệp.
Để phát triển hệ thống thông tin truyền thông phục vụ sản xuất và nhu cầu
đời sống của dân cư nông thôn cần phải tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công
trình, đổi mới thiết bị kỹ thuật của các trung tâm bưu điện, ở thị trấn, thị tứ, trung
tâm xã . Đồng thời mở rộng hệ thống thông tin xuống tận cấp thôn, xóm làm cho
nông dân được tiếp cận thông tin về kinh tế - xã hội nhanh nhất. Mặt khác, các cấp
chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề cần có sự hỗ trợ trong việc
cung cấp các thông tin về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt các thông tin về
thị trường nông sản và công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp để giúp hộ nông
dân và các nông chủ, trang chủ nâng cao kiến thức và nắm bắt kịp thời những thông
tin về kinh tế thị trường, điều chỉnh sản xuất kinh doanh.
Trong những năm tới, huyện Kim Bảng cần tiếp tục xây dựng, nhân
rộng các khu dân cư nông thôn theo tiêu chuẩn thôn văn hoá, làng văn hoá.
Tích cực triển khai thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp hàng hóa và
xây dựng nông thôn mới. Quan tâm đầu tư phát triển giáo dục, y tế và xây
dựng thiết chế văn hóa ở nông thôn. Cần ưu đãi, hỗ trợ các chương trình, dự
án phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phấn đấu thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội huyện đã đề ra, góp phần vào sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn cua rcả nước nói chung, tỉnh Hà Nam nói riêng.
*
* *
86
Những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa ở huyện Kim Bảng mà tác giả luận văn
nghiên cứu đề xuất, là một hệ thống mở và được được tiếp cận, luận giải dưới
góc độ lý luận kinh tế chính trị. Đây là những vấn đề thực sự mang tính cơ
bản lâu dài, vừa có tính thời sự cấp thiết, không chỉ đối với người nông dân
nói riêng mà của cả xã hội nói chung. Để sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn trên địa bàn huyện phát triển ổn định, bền vững, cần nâng cao hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp nhất là sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa. Muốn
thực hiện được điều đó, cần bổ sung và nhận thức đầy đủ phương hướng, thực
hiện đồng bộ các giải pháp; cần được sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các
ngành, các cơ quan đoàn thể, các thành phần kinh tế có liên quan từ tỉnh đến
huyện, xã và người dân. Đây là nhiệm vụ là việc làm không dễ dàng, cần có
thời gian với sự góp sức của cả xã hội và nhất định sẽ thực hiện được, vì nó
không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích của người nông dân mà còn của tất
cả người dân nói chung.
87
KẾT LUẬN
1. Kim Bảng thuộc tỉnh Hà Nam là huyện thuần nông, nhưng diện tích
đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại bị phân chia nhỏ lẻ, manh mún,
gây nhiều trở ngại cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
Vì vậy, việc tiến hành dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đang được người
nông dân tỉnh Hà Nam nói chung, huyện Kim Bảng nói riêng rất quan tâm và
cơ bản đã thực hiện xong. Tuy nhiên, dồn điền đổi thửa mới chỉ tạo ra điều
kiện thuận lợi hơn cho người nông dân trong sản xuất kinh doanh nông
nghiệp, còn việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất mới thực sự và trực tiếp thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển.
2. Sau dồn điền đổi thửa việc sử dụng đất ở Kim Bảng hiện nay đang
đặt ra một số vấn đề bất cập cần quan tâm xem xét, giải quyết. Đó là nhu cầu
đầu tư cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp lớn nhưng khả năng huy động
vốn khó khăn, trình độ chuyên môn ngành nghề của ngưòi nông dân chưa cao,
dung lượng thị trường hạn chế...Điều đó đòi hỏi phải xác định rõ phương
hướng và lựa chọn những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và lợi nhuận cho người sản
xuất.
3. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất và phát triển một nền nông nghiệp
hàng hoá, tạo ra nhiều nông phẩm hàng hoá cho xã hội, thực sự đem lại lợi
nhuận cho người sản xuất, những năm tới, huyện Kim Bảng cần tiếp tục đầu
tư phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội; khuyến khích ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật; tăng cường sự liên kết các lực lượng trên cơ sở giải quyết
hài hoà quan hệ lợi ích, trong đó quan trọng nhất là lợi ích của người nông
dân, để họ gắn bó với đất, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới tiến bộ, văn minh, hiện đại.
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường – Vụ Đăng ký và thống kê đất đai Báo
cáo tình hình thực hiện công tác đăng ký, lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. HN, 2005.
2. Phạm Thị Cần, Nguyễn Văn Kỷ, Vũ Văn Phúc: Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Nxb CTQG ST HN 2004.
3. Trần Thị Minh Châu: Chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam, Tạp
chí Cộng sản (số 824 – 2011).
4. Trần Xuân Châu: Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Việt
Nam hiện nay, Luận án TS kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia (2002).
5. Nguyễn Sinh Cúc: Ổn định đất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia, Tạp chí Lý luận chính trị (số 9 – 2008).
6. Cục Thống kê Hà Nam, Niên giám thống kê 2012.
7. Đảng bộ huyện Kim Bảng, NQ Đại hội đại biểu nhiệm kỳ 2010 - 2015
8. Đảng cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 100/CT-TW: Khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong nông nghiệp, Nxb Sự thật, HN (1981).
9. Đảng cộng sản Việt Nam NQ10/NQ-TW: Đổi mới quản lý kinh tế
trong nông nghiệp, Nxb Sự thật, HN (1988).
10. Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H.N ( 1991).
11. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb - CTQG, HN (2001).
12. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2002.
13. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, HN 2006.
14. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
89
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2011.
15. Lê Văn Điền: Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải
Dương, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (2012).
16. Lại Ngọc Hải: Sự phát triển của quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp và tác động của nó đối với củng cố quốc phòng trong chặng đầu của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Luận án PTS khoa học quân sự, Học
viện Chính trị - Quân sự ( nay là Học viện Chính trị- Bộ Quốc phòng) (1991).
17. Chu Thị Hảo: Lý luận hợp tác xã, quá trình phát triển hợp tác xã
nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội (2003).
18. Lê Đình Hiếu: Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi
thực hiện chính sách đồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Gia Bình- tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội (2011)
19. PGS, TS Vũ Trọng Khải: Tích tụ ruộng đất nông nghiệp xét trên
khía cạnh kinh tế, http://kinhtenongthon.com.vn/VandeSukien/2008/8/13095
20. Nguyễn Thị Hồng Lâm: Hợp tác xã ở nước ta hiện nay, những vấn
đề đặt ra và phương hướng phát triển, Nxb Lao động, Hà Nội 2005.
21. Luật Đất đai (2003), Nxb Bản đồ, Hà Nội.
22. Phạm Huy Quang: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Bình
Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội (2011).
23. Chu Hữu Qúy và Nguyễn Kế Tuấn (1998): “Chính sách thị trường
với phát triển nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí cộng sản, (20), tr.19-23.
24. Lương Xuân Qúy: Những biện pháp kinh tế tổ chức và quản lý để
phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn
Bắc bộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội (1996).
25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam : Luật đất đai 1993.
26. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam : Luật đất đai 2003.
27. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam (2010), Báo
90
cáo tổng kết phong trào thi đua và biểu dương điển hình tiên tiến ngành
nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nam 5 năm (2005-2010).
28. Tỉnh Hà Nam Quyết định số 169/QĐ-TU ngày 5/5/2000 của Tỉnh
uỷ Hà Nam (Thành lập BCĐ vận động chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp
nhằm khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất).
29. Tỉnh Hà Nam, Quyết định số 472/QĐ-UB ngày 13/6/2000 của
UBND tỉnh Hà Nam (về thành lập tổ chuyên viên giúp việc BCĐ vận động
chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp).
30. Lê Đình Thắng: “ Vấn đề quan hệ ruộng đất trong nông nghiệp –
Thực trạng và giải pháp”, Nghiên cứu kinh tế, (số 237 - 1998), tr.21-27.
31. Đào Thế Tuấn: “ Về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản, (số 771- 2007), tr.79-84.
32. Phạm Anh Tuấn: Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở Việt Nam, Luận
án TS kinh tế, Học viện Chính trị - Quân sự (nay là Học viện Chính trị-
Bộ Quốc phòng) (2004).
33. Nguyễn Minh Tú: Phát triển kinh tế hợp tác xã ở nước ta, Tạp chí
Cộng sản, số 16 (8-2004).
34. Nguyễn Từ: Tác động của hội nhập kinh tế quốc đối với phát triển
nông nghiệp Việt Nam, Nxb CTQG HN 2009
35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam – Cổng thông tin điện tử: Các văn
bản pháp quy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
36. Uỷ ban nhân dân huyện Kim Bảng (2003): Báo cáo kết quả thực
hiện kế hoạch số 08/KH-UB của UBND tỉnh Hà nam về chuyển đổi ruộng đất
nông nghiệp nhằm khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất theo
Chỉ thị số 15/CT-TU ngày 4/5/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ - Hà Nam.
91
37. Uỷ ban nhân dân huyện Kim Bảng: Báo cáo đánh giá tình hình
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội quốc phòng – an ninh năm
2004, phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ trọng tâm năm 2005
38. Hồ Văn Vĩnh: Bảo vệ tài nguyên, môi trường vì mục tiêu phát triển
bền vững, Tạp chí Lý luận chính trị số 7 – 2009.
39. Lê Minh Vụ: Phát triển kinh tế nông thôn hàng hoá và tác động
của nó đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang ở Việt Nam hiện nay,
Luận án PTS khoa học quân sự, Học viện Chính trị -Quân sự ( nay là Học
viện Chính trị- Bộ Quốc phòng) 1996.
40. Lê Thị Thanh Xuân:“Đánh giá tác động của chính sách dồn điền
đổi thửa đến việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp huyện Kim Bảng – tỉnh Hà
Nam” Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, chuyên ngành Quản lý đất đai – Trường
Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội 2011
41. Võ Tòng Xuân: “ Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản
xuất – thị trường”, Tạp chí Cộng sản, (số 812 - 2010), tr.49-54.
92
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
93
Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam
Phụ lục 2
94
Phụ lục 3
C¬ cÊu diÖn tÝch c¸c lo¹i ®Êt huyÖn Kim B¶ng n¨m 2005
5%
20%
75%
nhãm ®Êt phi n«ng nghiÖp
Nhãm ®Êt n«ng nghiÖp nhãm ®Êt ch a sö dông
Nhãm ®Êt n«ng nghiÖp: 13909.85 ha
- chiÕm 74,70% diÖn tÝch tù nhiªn
Nhãm ®Êt phi n«ng nghiÖp: 3761.38 ha
- chiÕm 20,19% diÖn tÝch tù nhiªn, trong ®ã: + §Êt ë ®« thÞ: 24,53 ha, chiÕm 0,13 % diÖn tÝch tù nhiªn + §Êt ë n«ng th«n: 621,57 ha, chiÕm 3,34% diÖn tÝch tù nhiªn
- Nhãm ®Êt cha sö dông: 951.52 ha, chiÕm 5,11% diÖn tÝch tù nhiªn
91
Phụ lục 4: Sản lượng cây lương thực có hạt phân theo huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh (tấn)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
408,853
401,715
435,014
443,507
456,776
448,041
459,179.4
468,839.2
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
13,623
11,914
12,146
12,829
10,964
10,232
10,443.9
9,313.9
79,223
72,266
77,363
80,401
80,216
80,357
80,284.0
82,089.9
HuyÖn Duy Tiªn
69,853
67,967
71,409
73,856
76,002
71,006
74,136.8
76,701.1
HuyÖn Kim B¶ng
73,980
75,379
81,238
81,756
84,608
83,610
84,361.0
86,984.3
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
94,205
95,793
104,875
106,783
111,560
110,687
98,186.0
113,442.0
78,396
87,983
87,882
93,426
92,149
111,767.7
100,308.0
77,969
HuyÖn Lý Nh©n
(Nguồn: Cục Thống kê Hà Nam, Niên giám thống kê 2012)
Phụ lục 5: Trang trại phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (trang trại)
Tên đơn vị hành chính
Tổng sổ Thµnh phè Phñ Lý HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng HuyÖn Thanh Liªm HuyÖn B×nh Lôc HuyÖn Lý Nh©n
Năm 2006 547 25 82 251 65 72 52
Năm 2007 558 25 88 252 56 72 65
Năm 2008 572 25 88 262 62 71 64
Năm 2009 560 15 88 263 55 71 68
Năm 2010 574 20 88 263 57 70 76
Năm 2011 215 2 68 20 4 93 28
Phụ lục 6.: Số trang trại năm 2011 phân theo ngành h/ động và phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
92
Trang trại
Tên đơn vị hành chính
Tổng số
Trang trại trồng cây hàng năm
Trong đó Trang trại trồng cây lâu năm
Trang trại chăn nuôi
Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
Tæng sè
7
3
169
24
215
Thµnh phè Phñ Lý
2
2
HuyÖn Duy Tiªn
4
3
41
15
68
15
3
20
HuyÖn Kim B¶ng
HuyÖn Thanh Liªm
4
4
HuyÖn B×nh Lôc
3
82
3
93
HuyÖn Lý Nh©n
27
1
28
Ghi chú: Trang trại năm 2011 theo tiêu chí mới
Phụ lục 7: Diện tích cây lương thực có hạt phân theo huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh (ha)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2005
83,304
77,912
78,438
77,996
76,462
78,753.7
78634.9
78,646
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
2,909
2,296
2,389
1,962
1,859
1,887.4
1,638.7
2,354
15,696 14,669
13,492 12,842
13,712 13,052
13,323 13,201
13,254 12,007
13,360.0 12,893.0
13,335.5 12,885.2
13,640 13,050
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
16,109
14,518
14,469
14,413
14,344
14,448.6
14,341.3
14,992
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
18,929
18,840
18,920
18,931
18,961
16,975.1
19,257.4
18,950
14,992
15,924
15,896
16,166
16,037
19,189.6
17,176.8
15,660
HuyÖn Lý Nh©n
Ha
Phụ lục 8: Diện tích lúa cả năm phân theo huyện, thành phố txhuộc tỉnh
93
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2007
Năm 2006
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
75,407
72,227
70,706
71,274
69,631
70,404
70,283.6
69,854.7
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
2,512
2,067
2,040
1,990
1,675
1,644
1,610.9
1,387.4
13,889 12,075
12,577 11,237
12,554 11,174
12,512 11,301
12,056 11,176
12,409 10,957
12,295.1 10,944.4
12,251.9 10,885.8
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
14,585
14,508
14,087
14,144
14,070
14,143
14,124.8
14,024.5
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
18,497
18,426
18,098
18,203
18,038
18,425
18,412.8
18,306.8
13,849
13,412
12,753
13,124
12,616
12,826
12,895.6
12,998.3
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 9: Năng suất lúa cả năm phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (tạ/ha)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tæng sè
59.8
59.5
59.4
60.8
51,1
51,9
56,8
57.6
57.5
56.6
56.7
58.9
49,9
52,5
54,6
56.2
Thµnh phè Phñ Lý
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
61.3 60.1
61.6 59.8
61.0 59.5
62.5 61.4
53,7 51,4
53,8 54,2
58,3 57,1
59.6 58.5
HuyÖn Thanh Liªm
59.2
58.4
58.6
61.0
50.5
50,8
56,4
57.0
59.5
58.7
58.6
59.5
50,1
50,8
56,1
56.9
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
59.3
60.1
60.0
60.4
50.5
50.8
56.7
56.5
Phụ lục 10: Sản lượng lúa cả năm phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (tấn)
Tên đơn vị hành chính
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
94
2000
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
385,574
374,790
404,744
407,109
416,275
419,109
417,374.3
424,535.0
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
12,531
10,843
10,870
11,464
9,640
9,309
9,135.6
8,178.0
74,621 62,114
67,633 60,876
72,950 64,543
74,878 65,374
73,936 67,177
76,456 65,535
75,002.0 65,167.0
76,611.0 66,858.0
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
73,124
73,652
79,830
80,312
83,343
82,612
82,820.2
85,490.0
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
93,229
93,672
102,186
103,026
107,400
108,081
107,922.0
108,925.0
69,955
68,114
74,365
72,055
74,779
77,116
77,327.5
78,473.0
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 11: Diện tích lúa đông xuân phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (ha)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
37,346.0
35,871.0
35,307.0
34,813.7
33,769.0
34,699.4
34,764.8
34,521.8
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
1,150.0
970.0
948.0
931.0
775.0
780.4
780.0
663.0
6,798.0 6,000.0
6,186.0 5,505.0
6,084.0 5,536.0
6,145.1 5,484.7
5,762.0 5,453.0
6,137.6 5,328.0
6,072.1 5,331.5
6,016.7 5,320.3
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
7,460.0
7,469.0
7,340.0
7,214.8
7,003.0
7,098.3
7,115.7
7,079.4
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
9,186.0
9,200.0
9,079.0
8,969.8
8,827.0
9,237.8
9,231.0
9,119.0
6,752.0
6,541.0
6,320.0
6,068.3
5,949.0
6,117.3
6,234.5
6,323.4
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 12: Sản lượng lúa đông xuân phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (tấn)
95
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
218,909
221,594
Tæng sè
200,593 5,967
215,963 5,742
216,582 5,631
208,162 5,353
214,169 4,589
229,660.0 4,230.0
Thµnh phè Phñ Lý
4,776.0
4,773.6
37,365
38,042
38,021
38,156
36,931
40,384.0
39,645.0 33,673.0
39,469.0 34,015.0
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
31,959 39,400
33,305 44,440
34,046 44,994
33,402 42,928
34,847 43,975
35,524.0 47,014.0
43,867.0
44,971.2
HuyÖn Thanh Liªm
49,374
55,384
55,654
53,370
56,050
60,413.0
36,528
39,050
38,236
34,953
37,777
42,095.0
57,736.0 39,212.0
58,340.0 40,025.5
HuyÖn B×nh Lôc HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 13: Diện tích lúa mùa phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (ha)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2011
38,061
36,356
35,967
35,892
35,862
35,705
35,332.9
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
1,361
1,097
1,042
1,109
900
863
724.4
7,091 6,075
6,391 5,732
6,428 5,765
6,409 5,689
6,294 5,722
6,272 5,629
6,235.2 5,565.5
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
7,126
7,039
6,804
6,872
7,068
7,045
6,945.1
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
9,311
9,226
9,124
9,128
9,211
9,187
9,187.8
7,097
6,871
6,804
6,685
6,667
6,709
6,674.9
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 14: Năng suất lúa mùa phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (tạ/ha)
Tên đơn vị hành chính
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
96
2000
2005
2006
2007
2008
2009
2011
48.6
43.7
52.3
55.4
56.4
56.1
55.2
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
48.2
46.5
50.3
55.1
56.1
52.5
54.5
52.5 49.6
46.3 48.1
54.3 52.9
57.3 56.2
58.8 56.5
58.7 56.6
58.1 56.3
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
47.3
41.5
51.2
54.4
55.7
56.5
55.4
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
47.1
41.5
51
54.4
55.8
54.8
52.8
47.1
42.3
53.1
55.5
55.5
55.0
54.5
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 15: Sản lượng lúa mùa phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh (tấn)
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2011
184,981
158,827
188,162
198,947
202,106
200,200
194,875
Tæng sè
Thµnh phè Phñ Lý
6,564
5,101
5,239
6,111
5,051
4,533
3,948
37,256 30,155
29,591 27,571
34,929 30,497
36,722 31,972
37,005 32,330
36,811 31,862
36,227 31,334
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
33,724
29,212
34,836
37,384
39,368
38,745
38,476
HuyÖn Thanh Liªm
HuyÖn B×nh Lôc
43,855
38,288
46,532
49,656
51,350
50,345
48,512
33,427
29,064
36,129
37,102
37,002
37,904
36,378
HuyÖn Lý Nh©n
Phụ lục 16: Số lượng bò phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Con
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
27,500
42,357
45,033
48,458
40,111
36,998
34,688
34,714
Tæng sè
1,920
1,582
1,934
1,860
1,893
1,838
1,807
1,599
Thµnh phè Phñ Lý
97
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
10,473 6,665
8,621 5,564
9,210 6,720
5,827 6,766
5,200 6,986
4,716 7,013
4,857 7,069
3,183 5,193
HuyÖn Thanh Liªm
10,140
9,555
9,854
7,880
6,916
6,186
6,176
5,223
4,565
8,324
9,226
7,309
5,926
5,428
5,490
6,149
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
11,270
8,711
11,514
10,469
10,077
9,507
9,315
6,153
Phụ lục 17: Số lượng lợn phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Tên đơn vị hành chính
Năm 2006
Năm 2005
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Nghìn con Năm 2011
Năm 2000
Tæng sè
408.8
369.8
424.6
424.9
452.2
367.8
360.2
278.4
20.9
24.9
22.0
19.6
19.6
16.0
15.8
18.4
Thµnh phè Phñ Lý
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
43.7 59.7
62.1 62.1
42.4 71.4
35.3 72.7
40.5 60.5
37.8 46.3
34.5 46.0
40.8 34.6
HuyÖn Thanh Liªm
53.9
53.6
56.7
61.1
57.6
48.9
48.3
49.3
121.5
87.1
122.3
126.4
161.2
127.3
124.3
68.8
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
109.1
80
109.8
109.8
112.8
91.5
91.4
66.5
Phụ lục 18: Số lượng gia cầm phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Nghìn con Năm 2011
Tæng sè
2,573.0
3,413.0
3,867.0
3,913.4
4,325.3
5,000.0
4,498.5
5,468.2
36
129
173.8
158.1
174.3
175.8
184.4
170.0
Thµnh phè Phñ Lý
98
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
598 375
975 576
856.4 652.0
858.6 663.0
1,113.2 861.7
1,153.5 808.6
995.8 662.1
1274.1 803.9
HuyÖn Thanh Liªm
513
322
525.0
500.3
511.1
947.4
735.1
841.8
577
727
819.6
887.0
912.3
996.9
1102.7
1538.5
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
474
684
840.2
846.4
752.7
917.8
818.4
839.9
Phụ lục 19: Sản lượng thuỷ sản phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Tæng sè
4,910
12,277
13,698
14,669
18,587
19,231.7
20,382.0
13,299
343
479
489
518
541
710
628.3
623.5
Thµnh phè Phñ Lý
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
1,032 961
2,411 3,208
2,551 4,075
2,584 4,720
2,230 3,627
4,622 3,921
3773.4 4196.9
3,827.1 4,789.5
HuyÖn Thanh Liªm
464
1,154
1,503
1,693
1,733
2,494
3104.3
3,405.6
812
1,632
1,700
1,764
2,107
3,306
3105.8
3,321.9
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
1,298
3,393
3,380
3,390
3,061
3,533
4423
4,414.4
Phụ lục 19a: Sản lượng thuỷ sản khai thác phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Tấn
Tên đơn vị hành chính
Năm 2011
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Tæng sè
979.6
579
682
706
747
1,397
1291.0
1,023.8
144
103
106
105
192
166.7
112.5
107.2
Thµnh phè Phñ Lý
99
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
140 180
167 193
171 145
221 160
261 301
231.0 294.0
159.6 212.7
152.5 185.1
HuyÖn Thanh Liªm
34
59
89
76
175
175.0
158.1
153.8
29
69
104
109
329
235.5
214.0
212.4
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
52
91
91
76
139
188.8
166.9
168.6
Phụ lục 19b: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh
Tấn
Tên đơn vị hành chính
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Tæng sè
4,331
11,595
12,992
13932.5
11,902
17295.6
18207.9
19402.4
199
376
383
413.2
349
543.2
515.8
516.3
Thµnh phè Phñ Lý
HuyÖn Duy Tiªn HuyÖn Kim B¶ng
892 781
2,244 3,015
2,380 3,930
2373.2 4560.6
1,969 3,326
4,391.2 3,627.2
3,613.8 3,984.2
3674.6 4604.4
HuyÖn Thanh Liªm
430
1,095
1,414
1617.1
1,558
2,318.8
2,946.2
3251.8
783
1,563
1,596
1654.4
1,778
3,070.6
2,891.8
3109.5
HuyÖn B×nh Lôc
HuyÖn Lý Nh©n
1,246
3,302
3,289
3314.0
2,922
3,344.6
4,256.1
4245.8