HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN XUÂN SƯỚNG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,
TỈNH BẮC NINH
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN XUÂN SƯỚNG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,
TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .......................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt................................................................. 7
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ..................................................... 19
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT CỦA TÒA
ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH ..................... 27
2.1. Tổng quan thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 27
2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt và nguyên nhân .......................................... 39
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT TÙ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .............................................................. 56
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 59
KẾT LUẬN .......................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1. Tổng hợp hình phạt theo BLHS năm 2015 ............................. 22
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ......................................... 27
Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
(2015 - 2019) ......................................................................................... 29
Bảng 2.3. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 31
Bảng 2.4. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 32
Bảng 2.5. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 33
Bảng 2.6. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ........... 34
Bảng 2.7. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 35
Bảng 2.8. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................ 36
Bảng 2.9. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -
2019) ..................................................................................................... 37
Bảng 2.10. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -
2019) ..................................................................................................... 38
Biểu đồ 2.1: Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 28
Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 – 2019) ............... 31
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua gần 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, vẫn
còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường
mang lại là cơ sở phát sinh các loại tội phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong đó có tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài
sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong đó có địa bàn huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tội phạm xâm phạm về trật tự xã hội đang có xu
hướng diễn biến phức tạp hơn, gia tăng cả về số vụ phạm tội và tính chất
của tội phạm, tuy các loại án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
được kiềm chế, nhưng các loại thường án, án xâm phạm sở hữu vẫn chưa
có giải pháp, biện pháp ngăn chặn hiệu quả, nhất là loại tội phạm trộm cắp
tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những loại tội
phạm chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu,
cũng như chiếm tỷ lệ cao (án trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất) trong
cơ cấu tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.
Theo quy luật hàng năm vào dịp cuối năm, chuẩn bị đón năm mới,
dịp hè, dịp các giải bóng đá trong nước và quốc tế tổ chức thi đấu các loại
tội phạm trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài
sản sẽ gia tăng cả về số vụ và tính chất tội phạm. Đối tượng thực hiện
hành vi phạm tội có xu hướng trẻ hóa, đa phần là đối tượng lưu manh
chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự, có độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 30 tuổi,
phần lớn là nam giới, không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn
định, các đối tượng luôn có xu hướng cấu kết chặt chẽ với nhau thành
băng nhóm, hoạt động liên tuyến, liên tỉnh.
1
Để phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này, việc nghiên
cứu các vấn đề lý luận, phân tích chế tài các quy định của Bộ luật hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, đánh giá
thực tiễn áp dụng hình phạt để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định
đối với nhóm tội này theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và bảo
đảm áp dụng đúng đắn trong thực tiễn có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt.
Chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh” để thực hiện Luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước sự phức tạp của tình hình tội phạm, việc nghiên cứu, đề xuất
vận dụng các lý luận về khoa học hình sự, tố tụng hình sự cũng như tội
phạm học có vai trò rất quan trọng và nhận được sự quan tâm của nhiều
chuyên gia, nhà nghiên cứu. Áp dụng hình phạt tù nói chung và đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng đã được nhiều tác giá
tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích, cụ thể:
Lý luận và thực tiễn nghiên cứu về tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa
học như: 2) ThS. Đinh Văn Quế với tác phẩm “Bình luận Bộ luật hình sự
Phần các tội phạm, Tập II, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu trong
Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản 2002;
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình
sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật, Hà Nội, 2000; v.v... 5) Lê Tường Vy, Trách nhiệm
hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài sản, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016...
2
Ở góc độ các Luận án tiến sĩ luật học liên quan đến lý luận và thực
tiễn về hình phạt và quyết định hình phạt, có Luận án về đề tài “Áp dụng
hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Tuyết Miên
đã bảo vệ thành công năm 2003. Ngoài ra còn có các Luận văn thạc sĩ đã
bảo vệ tại khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: “Áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Minh Khuê bảo vệ năm 2007; đề tài “Áp dụng hình phạt
trong đồng phạm” của tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010, Luận
văn “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của Nguyễn Văn Chung, bảo vệ tại Học viện
Khoa học xã hội 2018; Luận văn “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của Nguyễn Thanh Liêm, bảo vệ
tại Học viện Khoa học xã hội 2019…
Như vậy, có thể nói, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình
sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động áp dụng hình phạt tù, phân tích, đánh giá, nhận định một số
nhận định liên quan đến yếu tố áp dụng hình phạt tù, đồng thời phân biệt
với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc nghiên cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu… Tuy nhiên, hiện
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt tù
đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên một địa bàn cụ
thể là địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận, quy định của pháp luật và đánh giá
thực tiễn áp dụng hình phát tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất
3
chiếm đoạt, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về hình phạt tù đối với loại tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích các quy định pháp
luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt
tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm lý luận, các
quy định của pháp luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng năm
năm (05 năm) từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm số liệu thống kê xét
xử sơ thẩm hình sự cấp huyện và các bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019;
- Về cơ sở pháp lý, đề tài đề cập các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt qui định tại Bộ luật hình sự năm 2015;
- Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện phân tích thực tiễn
trên phạm vi huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên nền tảng chủ nghĩa duy vật
lịch sử, biện chứng, chủ trương, đường lối của Đảng, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách hình sự và cải cách tư pháp tại Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu, đề tài vận dụng các phương pháp nghiên
cứu của khoa học hình sự, tố tụng hình sự như phương pháp lịch sử, logic;
phương pháp so sánh, đánh giá các số liệu, ý kiến, quan điểm; nghiên cứu
các vụ án điển hình, các vụ việc điển hình... Tác giả đã sử dụng phương
pháp thống kê để thống kê số liệu về tội phạm và người phạm tội, từ đó để
xác định các thông số của tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hoàn thiện lý luận
về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Luận văn góp tiếng nói khoa
học về lý luận áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm
rõ hơn những vi phạm, sai lầm cũng như những nguyên nhân cơ bản của
của những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh, từ đó có những đề xuất, kiến nghị thay đổi của luận văn có
5
thể làm luận chứng khoa học phục vụ tốt hơn cho công tác lập pháp, áp
dụng BLHS liên quan đến nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trong công
tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt
tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù
đúng đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
Theo lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì áp dụng
pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện
pháp luật. Thông qua đó, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp
luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của
chủ thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các
quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa đã và đang được thiết lập. Có thể nói, áp
dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước
và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
[3].
Theo Nguyễn Ngọc Chí đã đưa ra định nghĩa khoa học về QĐHP
như sau: “Áp dụng hình phạt là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình
sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã
định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định
khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức
hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới
hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy
7
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người
phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự” [3, tr.19] .
Tuy vậy, về vấn đề này trong khoa học luật hình sự trong và ngoài
nước từ trước đến nay vẫn còn tồn tại hai loại quan điểm khác nhau. Nhìn
chung, các quan điểm đó có thể được chia thành ba loại: 1) Coi hình phạt
là công cụ trừng trị, trả thù người phạm tội; 2) Coi hình phạt là công cụ
phòng ngừa tội phạm; 3) Coi hình phạt không chỉ trừng trị người phạm tội
mà còn là công cụ phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc pháp chế không chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà
còn thể hiện ở hiệu lực thi hành của hình phạt. Nghiên cứu cho thấy, trong
các blĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án phải giải
quyết, các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông
qua Tòa án. Còn trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án phải thông
qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm
ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình
sự có ảnh hưởng rất lớn đến người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc
quyết định hình phạt như đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố
tụng hình sự đưa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội
phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành
quyền công tố của Nhà nước, thay mặt Nhà nước truy tố bị can và buộc
tội bị cáo trước Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình
tự luật tố tụng hình sự quy định. Hình phạt do Tòa án quyết định phải
được tuyên một cách công khai bằng một bản án và phải là kết quả của
một phiên tòa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố tụng
hình sự quy định.
8
Từ khái niệm chung nêu trên, theo chúng tôi, “ADHP đối với các
tội
1.1.2. Nội dung áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt
1.1.2.1. Đặc điểm chung của nhóm tội phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Cũng giống như tất cả các tội phạm khác quy định trong Luật hình
sự, nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có những đặc điểm
chung thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên sự thể hiện các
đặc điểm này có sự khác nhau vì nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt có tính đặc trưng của loại tội phạm mà nó thể hiện.
Các đặc trưng của nhóm tội xâm phạm này như sau:
Đặc trưng đầu tiên của nhóm tội phạm này là tính chất chiếm đoạt
trong quá trình phạm tội, tức là mục đích chiếm đoạt tài sản trong cấu
thành tội phạm mà không phải tội phạm liên quan đến xâm phạm sở hữu
nào cuãng có. Đồng thời, chúng ta có thể hiểu việc chuyển dịch trái pháp
luật tài sản có sự quản lý của của người khác (có chủ sở hữu) thành tài sản
của mình thông qua mục đích hành động, hành vi của người phạm tội.
Thông qua các cách thức, phương pháp khác nhau (thủ đoạn), tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đặc điểm chung của tội
phạm về xâm phạm sở hữu. Các hành vi phạm tội luôn là hành động cố ý
trực tiếp với mục đích biến tài sản có chủ sở hữu thành tài sản của mình
thông qua hành động cụ thể.
Việc xác định chính xác hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định thời điểm tội phạm hoàn thành (không xem xét dấu hiệu giá trị tài
9
sản chiếm đoạt cũng như các dấu hiệu khác về bị xử phạt vi phạm hành
chính, có tiền án về hành vi chiếm đoạt…) đối với các tội mà dấu hiệu
chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội cụ
thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Bên cạnh đó, khi
xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời
điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc. Theo khoa học
luật hình sự, thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã
thực sự chấm dứt; tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã
thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Xem xét việc chiếm đoạt là một quá trình vào quy định đối với từng
tội phạm cụ thể thấy rằng, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực
hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội nhận tài sản từ người phạm
tội nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt qua đúng quy trình bên
trên. Tức là, người phạm tội tiếp cận tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian
dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt. Đối với các tội cướp
giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không nhận
tài sản từ người phạm tội và người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự
chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt
thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi chiếm giữ cũng
là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt là
một. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ
người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của
người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp
cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản.
Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan
của tội phạm nói chung và đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt nói riêng.
10
Có thể nói, yếu tố xác định “lỗi” là một nguyên tắc cơ bản trong
pháp luật hình sự Việt Nam, nên trong các văn bản luật hình sự của nước
ta khi định nghĩa về tội phạm đã nêu rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”.
Như vậy, theo khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật
hình sự thì hành vi tội phạm chỉ được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận hình thức lỗi thứ ba, nhưng trong
một số công trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến hình thức
lỗi thứ ba, đó là “lỗi hỗn hợp” tức là vừa vô ý vừa cố ý hoặc cố ý về hành
vi, vô ý về hậu quả. Có thể trong công tác nghiên cứu bản chất của các
hình thức lỗi, có thể đặt vấn đề một người thực hiện hành vi vừa cố ý lại
vừa vô ý (cố ý về hành vi vô ý về hậu quả) như đối với người cố ý vi
phạm các quy định về phòng cháy (có biển cẩm lửa nhưng vẫn hút thuốc)
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (cháy kho xăng), nhưng việc gây
thiệt hại đến tài sản họ không mong muốn. Trong trường hợp này, lỗi của
người phạm tội cũng chỉ là lỗi vô ý chứ không thể nói cố ý được vì nếu cố
ý thì phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chứ không còn là vô ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nữa.
Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định rõ, nhưng về lý luận
cũng như thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội
phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng có một số
trường hợp cụ thể tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là
tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không
thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh
truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề
nghiệp hoặc trong sản xuất [28, tr.52-69]. Tuy nhiên, đối với các tội xâm
11
phạm sở hữu, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có
lỗi ít xảy ra.
Thứ ba, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt gây ra có thể là hậu quả kép do xâm phạm hai loại quan hệ xã hội:
thiệt hại chủ yếu là về tài sản nhưng còn có thể xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm đến trật tự an
toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức.
Điều này được thể hiện rất rõ, khi tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt khi xảy ra thì ngoài thiệt hại về tài sản, tội xâm phạm
sở hữu có tính chất liếm đoạt còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của người bị hại; xâm phạm đến trật tự an toàn xã
hội, khu dân cư; xâm phạm đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ
chức...
1.1.2.2. Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Cũng như các loại tội phạm xâm phạm sở hữu khác, tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt sẽ bị áp dụng hình phạt từ khi các dấu hiệu
phạm tội đủ để cấu thành tội danh với đầy đủ các điều kiện để Tòa án
nhân dân quyết định hình phạt tù sau khi định tội danh. Cụ thể là:
Đầu tiên, Toà án nhân dân các cấp nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án được
Viện kiểm sát chuyển sang qua đó xác định rõ các tình tiết của vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt liên quan đến quá trình áp dụng hình
phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng. Đó là các tình tiết của vụ án mà
sau khi nghiên cứu, căn cứ vào pháp luật hình sự hiện hành có thể làm căn
cứ cho việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với bị cáo; các
tình tiết của vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là căn cứ để
12
áp dụng hình phạt tù như các tình tiết thể hiện tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã bị kết tội,
các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
liên quan đến vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra,
Toà án nhân dân các cấp phải xác định các tình tiết khác trong quá trình
xét xử, thu thập bổ sung chứng cứ để quyết định có ADHP trong các
trường hợp đặc biệt liên quan đến tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt (đồng phạm, phạm tội chưa đạt, áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định
của luật, cho hưởng án treo…) hay không.
Thứ hai, Toà án nhân dân theo nhiệm vụ cần nhận thức chính xác
hiệu lực và quy định của pháp luật hình sự hiện hành liên quan đến việc
ADHP tù đối với xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, nhất là chế
tài của tội phạm của phần chung và phần cụ thể. Trong BLHS hiện hành
của nước có rất nhiều quy định liên quan đến ADHP tù đối với các tội
phạm nói chung và xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt mà Toà án
không thể bỏ qua khi áp dụng trong quá trình xét xử như hệ thống các
hình phạt chính và hình phạt bổ sung, nội dung cũng như phạm vi, điều
kiện áp dụng các hình phạt đó đối với từng loại tội phạm cụ thể, trong đó
có tội phạm về xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; các quy định về
căn cứ QĐHP mà Tòa án nhân dân cần phải pháp dụng khi ADHP tù đối
với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; đặc biệt là chế tài các
quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm cụ thể đã được Toà án
xác định trước đó.
Thứ ba, nội dung tiếp theo là việc Toà án nhân dân lựa chọn ADHP
tù đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt: có căn cứ
miễn TNHS, miễn hình phạt hay không trên cơ sở các tình tiết vụ án,
13
chứng cứ được thu thập trong hồ sơ; nếu không có căn cứ miễn thì loại và
mức hình phạt tù cụ thể áp dụng đối với người bị kết tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt;
Thứ tư, ra phán quyết về việc ADHP tù đối với người bị kết tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Đồng thời trong một số trường hợp,
Toà án nhân dân cũng quyết định về việc chấp hành hình phạt tù được áp
dụng như hoãn chấp hành hình phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện (án treo)... tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Từ những nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng ADHP tù đối với
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là giai đoạn áp dụng pháp
luật hình sự sau hoạt động định tội danh của Tòa án đối với tội phạm này;
còn QĐHP chỉ là một nội dung cụ thể của hoạt động ADHP tù đổi với tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Vì vậy, nên chăng, từ góc độ
đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật nói dung và ADHP tù nói riêng,
cùng với khái niệm định tội danh, nên sử dụng khái niệm ADHP để bảo
đảm tính chính xác của thuật ngữ, qua đó có tính chất bao trùm.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
Qua việc nghiên cứu khái niệm và nội dung ADHP tù, chúng tôi
thấy ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
các cấp và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động định tội danh của loại tội
phạm này. Nếu như hoạt động định tội danh của tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt được các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
14
cùng thực hiện và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng hình sự thì hoạt
động ADHP tù đối với tội phạm này chỉ duy nhất Tòa án được quyền thực
hiện theo quy định của hiến pháp và pháp luật hình sự. Thông qua chức
năng xét xử, Tòa án được Nhà nước giao cho chủ thể duy nhất có quyền
xác định loại hình phạt và mức hình phạt để áp dụng với người phạm tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nên hoạt động này chỉ thông
qua phiên tòa.
Thứ hai, BLHS có qui định về các căn cứ để Tòa án ADHP, tức là
những tiêu chí mà dựa vào đó, Tòa án sẽ lựa chọn được loại hình phạt và
mức hình phạt phù hợp với trường hợp cụ thể của mỗi bị cáo, trên cơ sở
đánh giá tổng thể các yếu tố về khách quan, chủ quan, về con người, tâm
lý... với mục đích đạt được là hình phạt tù sẽ không chỉ là “cái giá” mà bị
cáo phải gánh chịu do hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
của mình mà còn là “cơ hội” để bị cáo đó có khả năng phục thiện, tái hóa
nhập cộng đồng sau khi thực hiện các quyết định của Tòa án.
Thứ ba, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt của Toà án nhân dân mang tính lựa chọn và tính tuỳ nghi cao.
Khi ADHP tù, Toà án nhân dân sẽ lựa chọn một trong các hình phạt chính
được quy định trong pháp luật hình sự hiện hành đối với người bị kết tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra, chế tài Tòa án lựa
chọn, các chế tài quy định về từng loại hình phạt tù đều có một khoảng
tuỳ nghi nhất định và Toà án có quyền quyết định mức cụ thể trong phạm
vi tuỳ nghi đó khi ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt. Khả năng lựa chọn rộng, tuỳ nghi cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ
tham gia tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải có trình
độ, kỹ năng, phẩm chất và bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng và
lương tâm, đạo đức trong sáng vì công lý... để có thể trong từng trường
15
hợp cụ thể lựa chọn hình phạt tù hợp lý áp dụng với người bị kết tội tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật hình sự hiện
hành.
Thứ tư, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt còn có điểm đặc thù so với việc ADHP tù đối với nhóm các tội
phạm khác xuất phát từ đặc điểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt. Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp người khác, thực hiện
dưới hình thức lỗi cố ý, vô ý gây thiệt hại không chỉ về tài sản cho cá
nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
con người.
1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.4.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Ý nghĩa của ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt thể hiện trong lĩnh vực chính trị - xã hội là tăng cường phòng
ngừa, phòng chống tội phạm nếu việc ADHP tù của Tòa án thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật và chức năng xét xử của Tòa án. Việc
ADHP hiệu quả, đúng người, đúng tội, tương ứng với hình phạt phù hợp
thì sẽ thể hiện được tính hiệu lực của hình phạt. Mối quan hệ chặt chẽ
giữa sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình sự và hiệu
quả ADHP tù đối với tội phạm nói chung và tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt là rất rõ. Nếu hệ thống văn bản pháp luật hình sự về tội
phạm, hệ thống văn bản pháp luật về tố tụng hình sự toàn diện và phù hợp
thì việc ADHP tù sẽ nhanh và bảo đảm được mục đích của hình phạt hơn.
16
Trong xã hội ta, tuyệt đại đa số nhân dân không vi phạm pháp luật
hình sự, không phải do sợ hình phạt mà lý do chính thuộc về ý thức tôn
trọng pháp luật và tinh thần đấu tranh không dung thứ của họ đối với tội
phạm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau mà xã hội còn một bộ phận những công dân không vững vàng, dễ bị
lôi kéo vào con đường vi phạm pháp luật, thậm chí nghiêm trọng là phạm
tội. Với bộ phận công dân này, tác dụng răn đe và giáo dục của hình phạt
để ngăn ngừa tội phạm được đưa lên hàng đầu trong mục đích phòng ngừa
chung của hình phạt.
Bên cạnh đó, việc ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt không đúng hoặc có những sai sót trong quá trình tố
tụng thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến bản thân nạn nhân cũng như người bị
kết án. Đồng thời, việc này cũng tạo ra những dư luận, những nhìn nhận
không hài lòng về cơ quan xét xử, ảnh hưởng đến uy tín và tính chất đại
diện Nhà nước của Tòa án trong công tác xét xử.
1.1.4.2. Ý nghĩa pháp lý
ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
là một hoạt động quan trọng của Tòa án nhân dân các cấp, thông qua hoạt
động này các hình phạt cụ thể đã được BLHS quy định sẽ được áp dụng
đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến tội này.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nên Hiến pháp,
Luật tổ chức Tòa án, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự đều khẳng
định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và quyết định hình phạt với
người phạm tội theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ ào quy định của Bộ luật Hình sự
17
và Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính
xác, khách quan, bảo đảm không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo quy định của pháp luật nước ta,
chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng hình phạt.
Quy định này còn thể hiện sự thống nhất giữa tội phạm và hình phạt. Tội
phạm là cơ sở phải chịu hình phạt, ngược lại hình phạt là hậu quả pháp lý
của tội phạm nhằm trừng trị vào giáo dục người phạm tội, giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. [41, tr.115-
116]. Trong BLHS hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các
tội phạm. Vì vậy, khi áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu
nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi khi xét xử về tội cụ thể nào của
Chương XIV thì trước hết phải căn cứ vào các điều luật cụ thể đó, ngoài
việc phải tuân thủ các nguyên tắc khác và các quy định khác của Hiến
pháp và pháp luật hình sự trong áp dụng hình phạt.
1.1.4.3. Ý nghĩa phòng ngừa
Mục đích của hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nội dung của mục
đích này không nhằm vào người hoặc pháp nhân phạm tội mà nhằm vào
cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa. Mọi người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhìn vào hình phạt để có những xử sự
đúng đắn, tôn trọng pháp luật , nếu không họ cũng có thể bị xử phạt như
người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để
áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, đồng thời
nhắc nhở mọi người hoặc pháp nhân thương mại trong cộng đồng xã hội
chớ có phạm tội, nếu có ý định phạm tội thì phải dừng lại, nếu không
dừng ắt phải chịu hậu quả thích đáng. Đặt ra mục đích này vừa có tính răn
đe, vừa có tính chất giáo dục để mọi người hoặc pháp nhân thương mại
18
tránh xa nó. Do đó, Tòa án không được đề cao hay coi nhẹ mặt nào mà
phải đặt trong mối liên hệ tổng quát trên cơ sở các căn cứ áp dụng hình
phạt để áp dụng một hình phạt cụ thể tương xứng dành cho người đã thực
hiện hành vi phạm tội.
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối
với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.2.1. Quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến áp dụng hình
phạt tại phần chung
1.2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt tù
Theo quy định của BLHS hiện hành, hình phạt tù có thời hạn là việc
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời
hạn nhất định theo quy định của pháp luật đối với từng loại tội phạm. Như
vậy, về bản chất pháp lý hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế
tước quyền tự do của người bị kết án trong thời hạn do Toà án quyết định
trong phạm vi và giới hạn pháp luật quy định. BLHS hiện hành quy định
giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn: Thời hạn tối thiểu
của hình phạt tù là 03 tháng. Trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta, đã
có thời kỳ thời hạn tối thiểu của hình phạt tù được quy định ngắn hơn (01
tháng, 10 ngày, thậm chí 07 ngày). Sở dĩ như vậy là vì người ta cho rằng
phạt tù là hình phạt nghiêm khắc, nên tước tự do thân thể của một người ở
các mức độ đó là đủ để người phạm tội “trả giá” cho hành vi của mình.
Thời hạn tối đa của hình phạt tù được quy định khác nhau tùy từng tội
phạm cụ thể trong pháp luật hình sự hiện hành.
Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tù có thời hạn thì [21]:
1.Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt
tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.
19
2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu
phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.
Điều 38 BLHS quy định tù có thời hạn đối với người phạm một tội
có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù.
So với hình phạt cải tạo không giam giữ thì tù có thời hạn trong
quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam có nội dung cưỡng chế
nghiêm khắc hơn nhiều và cơ sự trừng trị thích đáng theo đúng người,
đúng tội. Nếu như hình phạt cải tạo không giam giữ tác động đến người bị
kết án mà không cần phải cách ly họ khỏi xã hội thì đối với hình phạt tù
có thời hạn người bị kết án sẽ bị giam giữ trong một môi trường (trại
giam) chịu sự chi phối của những quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt
của pháp luật hình sự..
Trên cơ sở quy định chung, pháp luật hình sự hiện hành quy định
các chế tài cụ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với từng loại tội
phạm cụ thể theo quy định. Có thể thấy, đại đa số chế tài các tội phạm
thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng đều có quy định hình phạt tù có thời hạn với các mức án
khác nhau từ tối thiểu (03 tháng) đến tù chung thân.
1.2.1.2. Quy định về quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt: Các tội được quy định trong Bộ luật
hình sự 2015 quy định hình phạt đối với người phạm tội khá rộng chẳng
hạn như: Phạt cải tạo giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm ; Phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Vậy trong những trường
hợp này Hội đồng xét xử vụ án sẽ căn cứ vào những yếu tố nào để quyết
định hình phạt phù hợp với người phạm tội. Căn cứ quyết định hình phạt
20
đối với người phạm tội: Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ
luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành
của người phạm tội [21].
Hội đồng xét xử sẽ quyết định hình phạt dựa vào các yếu tố sau:
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
của bị cáo thông qua hồ sơ vụ án, hậu quả gây ra... Dấu hiệu này được thể
hiện qua động cơ phạm tội, yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, hung khí sử dụng khi
phạm tội…; Nhân thân người phạm tội, yếu tố này được xem xét thông
qua việc người phạm tội đã từng phạm tội hay chưa? Ý thức chấp hành
các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng; Các
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các trường
hợp tội phạm cụ thể. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nói chung sẽ được áp
dụng theo quy định tại điều 51, điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) [21]. Tuy nhiên những tình tiết này nếu đã được
coi là tình tiết xác định tội, định khung hình phạt thì không được coi là
tình tiết giảm nhẹ.
Như vậy tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, bị cáo cần dựa vào 3
yếu tố chủ yếu ở trên để phản biện lại ý kiến của Đại diện viện kiểm sát…
21
cũng như nêu quan điểm ý kiến trước Hội đồng xét xử để đảm bảo quyền
lợi cho mình.
Quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt: Người
phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy
định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án nhân dân các
cấp được quyền quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt quy định trong trường hợp cụ thể theo pháp luật hình sự hiện hành.
Quy định về tổng hợp hình phạt: Trong trường hợp một người phạm
nhiều tội, được xét xử trong cùng 01 lần thì Tòa án quyết định hình phạt
với từng tội và tổng hợp theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015
như sau:
Đối với hình phạt chính, tổng hình phạt chung sẽ được tính như sau
[21]:
Bảng 1.1. Tổng hợp hình phạt theo BLHS năm 2015
STT Hình phạt riêng Hình phạt chung
- Cộng tổng mức phạt Đều là cải tạo không giam 1 giữ - Không quá 03 năm
- Cộng tổng mức phạt
2 Đều là tù có thời hạn - Không quá 30 năm
- Cộng tổng mức phạt
Hỗn hợp gồm cả cải tạo - 03 ngày cải tạo không giam giữ = 3 không giam giữ và tù có 01 ngày tù có thời hạn thời hạn
- Không quá 30 năm
22
Hình phạt nặng nhất là 4 Tù chung thân chung thân
Hình phạt nặng nhất là tử 5 Tử hình hình
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Tuy nhiên, phạt tiền và trục xuất không tổng hợp với các hình phạt
khác. Hình phạt bổ sung được tính như sau: Hình phạt riêng là cùng loại
thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn của Bộ luật Hình sự
với từng loại hình phạt đó. Hình phạt riêng là khác loại thì người bị kết án
phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên theo quy định của pháp luật
hình sự hiện hành. Các khoản tiền trong hình phạt riêng được cộng lại
thành hình phạt chung theo quy định.
1.2.2. Quy định chế tài các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt Phần các tội phạm
Theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định hình
phạt cụ thể đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt:
- Tội cướp tài sản (Điều 168) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm; khoản 2 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm;
khoản 3 bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm; khoản 4 - bị phạt
tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân. So với BLHS năm
1999 thì tội phạm cướp tài sản đã không bị áp dụng hình phạt tử hình tại
Khoản 4 Điều 168 của BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, tại Khoản 5, BLHS
năm 2015 có quy định “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 05 năm” thể hiện rõ quan điểm phòng, ngừa đối với hành vi
phạm tội trên [21].
23
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169) quy định khoản 1 -
bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 2 - bị phạt tù từ năm năm đến
mười hai năm; khoản 3 - bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm;
khoản 4 - bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung
thân và khoản 6 - người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu
đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản,
phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm [21].
Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ
một năm đến năm năm; khoản 2 - bị phạt tù từ ba năm đến mười năm;
khoản 3 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể
bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản [21].
Tội cướp giật tài sản (Điều 171) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ
một năm đến năm năm; khoản 2 - phạt tù từ ba năm đến mười năm; khoản
3 - phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân và khoản 5 - người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng
[21].
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172) quy định khoản 1 - bị
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm; khoản 3 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng. So với
quy định tại BLHS năm 1999 thì Điều 172 đã lược bỏ áp dụng hình thức
tù chung thân đối với loại tội phạm này [21].
24
Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) quy định khoản 1 - phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 -
bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) quy định khoản 1 - bị
phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 - bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung thân và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ một năm đến năm năm [21].
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) quy định
khoản 1 - bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 -
bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm
năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình
phạt này [21].
25
Kết luận chương 1
Kết quả nghiên cứu tại chương 1 của luận văn tập trung làm rõ
những vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chất
chiếm đoạt như khái niệm, đặc điểm về loại tội phạm này. Phân tích
những đặc điểm chung nhất về nhóm tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có
tính chất chiếm đoạt. Bên cạnh đó, để làm rõ cấu thành của loại tội phạm
này, nội dung chương 1 tập trung phân tích các dấu hiệu pháp lý của loại
tội phạm này. Quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt tù đối
với loại tội phạm này từ Điều 168 đến Điều 175 đã xác định các mức phạt
tù đối với từng hành vi phạm tội liên quan.
26
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
2.1. Tổng quan thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh
2.1.1. Kết quả thụ lý và xét xử đối với tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Theo số liệu thống kê, số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015
đến năm 2019 diễn biến như sau:
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Kết quả thụ lý các Các tội xâm phạm
tội xâm phạm sở sở hữu có tính Tỷ lệ
hữu chung chất chiếm đoạt Năm
Số vụ án Số bị Số vụ án Số bị c/a d/b (a) cáo (b) cáo (d) (c)
2015 78 96 51 53,85 53,13 42
2016 72 91 49 56,94 53,85 41
2017 76 83 48 57,89 57,83 44
2018 82 101 66 62,19 65,35 51
2019 71 84 48 54,93 57,14 39
455 57,26 57,58 Tổng 379 217 262
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
27
Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy, trong thời gian 5 năm (từ
2015 đến 2019), Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử
886 vụ án với 941 bị cáo, trong đó xét xử 379 vụ án với 455 bị cáo về các
tội XPSH. Số vụ án mà TAND huyện Tiên Du xét xử có diễn biến tăng
giảm từ năm 2015 đến năm 2019. Đối với các tội XPSH năm 2018 xảy ra
nhiều nhất với 51 vụ án và 66 bị cáo, năm 2019 xảy ra ít nhất với 39 vụ án
và 48 bị cáo. Bảng 2.1 cho thấy tổng số vụ án và số bị cáo liên quan đến
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chiếm đa phần các vụ án
liên quan đến tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
70
66
60
51
51
49
48
48
50
44
42
41
39
Ninh.
40
30
20
10
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Số vụ án
Số bị cáo
Biểu đồ 2.1: Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
2.1.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt
28
Với đặc điểm là địa bàn có vị trí chiến lược, là cửa ngõ kết nối
nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng… đồng thời, huyện Tiên Du
nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung đang có sự bứt phá nhanh chóng trong
phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt công ty được thành lập với việc
tuyển dụng lao động ồ ạt nên một lượng lớn người lao động là người nhập
cư đã sinh sống và làm việc trên địa bàn. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế do quá trình công nghiệp hóa nói chung trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, thì tình hình tội phạm nói chung, tội phạm liên quan đến
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ngày càng có xu hướng gia
tăng, có diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn khác nhau gây ra những
ảnh hưởng rất lớn đến tài sản, sức khỏe của các cá nhân, tổ chức trên địa
bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn vừa qua.
Từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh đã đưa ra xét xử 217 vụ án với 262 bị cáo về các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt với các loại và mức hình phạt được thể
hiện như sau:
Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
(2015 - 2019)
TT Hình phạt 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
1 Tù 03 năm trở xuống 34 35 32 44 24 169
2 Tù từ 3 đến dưới 7 11 9 8 9 13 50
năm
3 Tù từ 7 đến dưới 15 6 4 6 9 8 33
năm
4 Tù trên 15 năm 0 1 2 4 3 10
29
5 Tù chung thân 0 0 0 0 0 0
Tổng 51 49 48 66 48 262
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Qua bảng số liệu 2.2 trên cho thấy, loại hình phạt chính được Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử các
vụ án xảy ra trên địa bàn huyện Tiên Du áp dụng đối với tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt từ năm 2015 đến năm 2019 chỉ là hình phạt tù
có thời hạn, các loại hình phạt khác không áp dụng. Trong tổng số 262 bị
cáo bị xét xử thì mức hình phạt chính được Tòa án áp dụng nhiều nhất là
phạt tù đến 03 năm với 169 bị cáo chiếm tỷ lệ 64,5%; tù từ trên 03 năm
đến 07 năm với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 19,82%; tù từ trên 07 năm đến 15
năm với 33 bị cáo chiếm tỷ lệ 12,59%; tù trên 15 năm là 3,82%. Có thể
nhận thấy rằng, các cơ quan xét xử đã áp dụng hình phạt tù rất nhiều trong
quá trình áp dụng hình phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, việc áp dụng các
0
3,82
12,95
19,82
64,5
Tù dưới 03 năm
Tù từ 7 đến dưới 15 năm
Tù từ 3 đến 7 năm
Tù trên 15 năm
Tù chung thân
hình phạt khác còn hạn chế.
30
Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 – 2019)
Loại hình phạt bổ sung được Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh áp dụng khi xét xử các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2015 đến
năm 2019 chủ yếu là hình phạt tịch thu tài sản, phạt tiền, các loại hình
phạt khác không áp dụng. Việc áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn
trên địa bàn huyện Tiên Du cho thấy, trong tổng số 262 bị cáo bị xét xử
thì có 26 bị cáo bị Tòa án áp dụng hình phạt bổ sung chiếm tỷ lệ 10%.
Cơ cấu về mức hình phạt của từng loại tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019 chủ yếu
tập trung vào các tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản,
trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản…
Bảng 2.3. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
sung Số bị
Năm cáo bị Tịch thu Từ 03 Tù cho Từ 03 năm Tù từ 07 xét xử tài sản, năm hưởng đến dưới năm đến phạt trở án treo 07 năm 15 năm tiền xuống
2015 4 0 1 0 0 3
2016 6 0 2 0 1 3
31
3 3 0 0 2017 6 0
5 3 1 2 2018 9 0
5 2 1 1 2019 8 0
2 4 0 Tổng 33 19 11
0 Tỷ lệ (%) 100 57,57 33,33 6,06 12,12
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Kết quả tổng hợp từ Bảng 2.3 cho thấy cơ cấu tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn 2015 -
2019 cho thấy: Tội cướp tài sản với 33 bị cáo được Tòa án nhân dân các
cấp xét xử trong đó 19 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm
chiếm tỷ lệ 57,57% tổng số bị cáo; tiếp đến là 11 bị cáo bị áp dụng mức
hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 33,33%; 2 bị cáo bị áp
dụng mức hình phạt tù tù trên 7 năm đến 15 năm chiếm tỷ lệ 6,06%. Áp
dụng hình phạt bổ sung đối với 4 bị cáo chiếm 12,12%.
Bảng 2.4. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
sung Số bị
Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm
2015 2 0 1 1 0 0
32
1 2 1 1 2016 4 0
2 1 1 0 2017 4 0
1 4 1 1 2018 6 0
1 4 0 1 2019 5 0
6 12 3 3 Tổng 21 0
0 Tỷ lệ % 100 57,14 28,57 14,28 14,28
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt từ đối với tội cưỡng đoạt tài sản:
Có 21 bị cáo bị xét xử trong đó 0 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù cho
hưởng án treo; 12 bị cáo bị phạt dưới 03 năm tù chiếm 57,14%; 6 bị cáo
bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 28,57%
và 03 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù từ 7 năm đến dưới 15 năm chiếm
14,28%. Áp dụng hình phạt bổ sung đối với 03 bị cáo chiếm 14,28%.
Bảng 2.5. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình
phạt bổ Hình phạt tù
sung Số bị
Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm
2015 5 0 3 2 0 0
2016 5 0 2 3 0 0
33
2017 6 0 3 2 1 1
2018 7 0 3 3 1 1
2019 3 0 2 1 0 0
Tổng 26 0 13 10 2 2
0 Tỷ lệ % 100 50,00 38,46 7,69 7,68
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt từ đối với Tội cướp giật tài sản
trên địa bàn huyện Tiên Du giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy: Có 26 bị cáo
bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó 13 bị cáo bị áp dụng mức hình
phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 50,00%; 10 bị cáo bị áp dụng mức hình
phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 38,46%.
Bảng 2.6. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình phạt Hình phạt tù bổ sung
Số bị
Từ 03 Từ 03 Năm cáo bị Tù cho Tù từ 07 Tịch thu tài năm năm đến xét xử hưởng năm đến sản, phạt trở dưới 07 án treo 15 năm tiền xuống năm
2015 0 0 0 0 0 0
2016 0 0 0 0 0 0
2017 1 0 1 0 0 0
2018 0 0 0 0 0 0
2019 0 0 0 0 0 0
34
Tổng 1 0 0 0 0 0
Tỷ lệ % 100 0 1 0 0 0
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Hành vi chiếm đoạt tài
sản công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc
lợi dụng hoàn cảnh khác như thiên tai,, hỏa hoạn, chiến tranh… (khác với
tội cướp giật ở chỗ không cần sự nhanh chóng). Trong giai đoạn 2015 -
2019, trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có 01 bị cáo bị xét xử bị
cáo bị áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 100%.
Bảng 2.7. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
Số bị sung
Năm cáo bị
Tù cho Từ 03 Từ 03 năm Tù từ 07 Tịch thu xét xử
hưởng năm trở đến dưới năm đến tài sản,
án treo xuống 07 năm 15 năm phạt tiền
2015 27 0 18 7 2 1
2016 31 0 17 12 2 1
2017 27 0 16 11 0 2
2018 33 0 15 18 1 1
35
13 12 3 3 2019 28 0
79 60 8 8 Tổng 146 0
Tỷ lệ 0 100 54,11 41,09 5,48 5,48 %
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội trộm cắp tài sản:
Có 146 bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó có 79 bị cáo bị
áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 54,11% tống số bị cáo
xét xử; 60 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm
chiếm tỷ lệ 41,09% tổng số bị cáo. Đối với việc áp dụng hình phạt bổ
sung cho 8 bị cáo chiếm 5,48%.
Bảng 2.8. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
sung Số bị
Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm
2015 1 0 0 0 0 1
2016 1 0 0 0 0 1
2017 2 0 0 1 1 1
2018 3 0 0 1 1 2
36
2019 1 0 1 0 0 0
Tổng 8 5 3 0 2 0
0 0 Tỷ lệ % 100 62,5 37,5 25,00
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội lừa đảo chiếm đọat
tài sản: Có 8 bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó 5 bị cáo bị
áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 62,5% tống số bị cáo;
Tiếp đến là có 03 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7
năm chiếm tỷ lệ 37,5% tổng số bị cáo xét xử. Đối với việc áp dụng hình
phạt bổ sung đối với quá trình xét xử cho 2 bị cáo chiếm tỷ lệ 25%.
Bảng 2.9. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -
2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
sung Số bị
Năm cáo bị Từ 03 Tù cho Từ 03 Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm đến hưởng năm trở năm đến tài sản, dưới 07 án treo xuống 15 năm phạt tiền năm
2015 1 0 0 0 0 1
2016 1 0 0 0 1 0
2017 2 0 0 0 1 1
2018 2 0 0 0 2 0
37
2019 3 1 1 1 0 0
Tổng 9 3 5 1 0 0
Tỷ lệ % 100 33,33 55,66 22,22 0 0
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đọat tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn 2015 –
2019 cho thấy: Có 9 bị cáo bị xét xử trong đó 3 bị cáo bị áp dụng mức
hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 33,33%; 5 bị cáo bị áp dụng hình phạt
từ 3 đến 7 năm chiếm 55,66% và 1 bị cáo bị áp dụng mức phạt tù từ 7 đến
15 năm chiếm 22,22%.
Bảng 2.10. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -
2019)
Hình
Hình phạt tù phạt bổ
sung Số bị
Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm
2015 0 0 0 0 0 0
2016 0 0 0 0 0 0
2017 1 0 0 1 0 0
2018 1 0 0 0 1 0
38
2019 1 1 0 0 0 0
Tổng 3 2 1 0 0 0
Tỷ lệ % 100 66,67 33,33 0 0 0
(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản: Có 3 bị cáo bị xét xử
trong đó 2 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù dưới 3 năm chiếm 66,67%;
1 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ
33,33%.
Bên cạnh đó, giai đoạn 2015 – 2019, trên địa bàn huyện Tiên Du
không xảy ra các tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong thời gian 05
năm trên địa bàn chưa xảy ra trường hợp nào.
Nhìn chung, với tinh thần thượng tôn pháp luật, trong giai đoạn
2015 - 2019, khi áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, các Hội đồng xét xử đã
nêu cao tinh thần trách nhiệm, thận trọng khi áp dụng pháp luật trong quá
trình tố tụng, áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng, tuy
nhiên thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn các sai sót về vận dụng các căn cứ
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, cho
hưởng án treo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…
2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và nguyên nhân
2.2.1. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Có thể thấy hạn chế trong giải quyết các vụ án liên quan đến các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đó là vẫn còn tình trạng án có
39
kháng cáo, bị kháng nghị của TAND hai cấp bị cấp phúc thẩm, giám đốc
thẩm sửa, hủy do lồi chủ quan, bị Viện kiểm sát kiến nghị về việc khắc
phục một số vi phạm trong việc chuyển giao bản án, ra quyết định thi
hành án, áp dụng điều luật không đúng; cơ quan thi hành án dân sự đề
nghị giải thích bản án hoặc đính chính, bổ sung bản án.
Chưa khắc phục triệt để số thẩm phán, thư ký còn nợ bằng tốt
nghiệp đại học luật. Quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự đồng
bộ và rõ ràng, nhất là đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, cùng một hành vi phạm tội nhưng các cơ quan tiến hành tố
tụng đã có những nhận thức khác nhau xung quanh vấn đề định tội danh
nên trong thực tiễn áp dụng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, vi phạm nguyên tắc công bằng trong luật hình
sự.
Số lượng các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày càng có xu hướng tăng nhiều
với tính chất phức tạp, đa dạng và thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm
nên các cơ quan tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử và áp dụng hình phạt tù.
Trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án, số các bản án, quyết
định bị hủy, cải sửa còn nhiều, phần lớn sai sót là do: Xét xử sơ thẩm hình
sự chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo; chưa làm
rõ hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá chứng cứ thiếu chính xác, toàn
diện hoặc giải quyết bồi thường không đúng theo quy định của Bộ luật
dân sự, một số ít trường hợp xét xử còn nặng hoặc nhẹ, chưa đánh giá đầy
đủ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Do đó, dẫn đến bản án bị hủy,
cải sửa.
40
Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của một số ít Tòa án
cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay, các vụ án bị
hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán còn nhiều; việc hủy án của Tòa án
cấp phúc thẩm đối với bản án, quyết định Sơ thẩm còn một số trường hợp
thiếu thuyết phục; việc hoãn phiên tòa một số ít trường hợp không đúng
theo quy định của pháp luật; việc hủy án của Tòa án cấp trên còn một số ít
vụ án thiếu thuyết phục, không phải là mẫu mực cho Tòa án cấp Sơ thẩm
học tập.
Công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân mặc dù đã được quan
tâm đẩy mạnh nhưng cũng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đề ra; chưa thực
hiện các chuyên đề rút kinh nghiệm về các vướng mắc, sai sót trong việc
giải quyết, xét xử vụ án hình sự, chưa thực sự đổi mới trong công tác này.
Việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt tù đối với
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật đối với hoạt động này chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trên
địa bàn huyện Tiên Dung cũng như tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù có rất nhiều
vướng mắc cần được hướng dẫn áp dụng, nhưng cơ quan có chức năng
liên quan đến hoạt động áp dụng hình phạt tù còn chậm ban hành các nghị
quyết để hướng dẫn, tháo gỡ, giải quyết vướng mắt cho các cơ quan xét
xử bên dưới.
Công tác tuyển dụng cán bộ nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng
yêu cầu của biên chế và của công việc. Nhiều địa phương nhất là vùng sâu
vùng xa còn gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển chọn cán bộ vì không có
nguồn cán bộ; Việc xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật chưa
kịp thời, một số cán bộ địa phương vi phạm phẩm chất đạo đức như: làm
41
trái nguyên tắc quản lý hành chính, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, có sai sót trong xét xử.
Công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự tuy được
các đơn vị triển khai và thực hiện thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao.
Việc giải quyết đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân
tối cao tuy đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
do số lượng đơn ngày càng tăng và khả năng giải quyết có hạn. Việc triển
khai tổng kết thực hiện các Thông báo, các biện pháp để đẩy nhanh tiến
độ và hiệu quả giải quyết đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm là một
trong những nhiệm vụ đặt ra từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được.
Do cơ chế cung cấp vốn chưa phù hợp nên việc đầu tư, xây dựng cơ
bản còn dàn trải, một số công trình chưa đảm bảo chất lượng; việc đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác xét xử còn thiếu
thốn.Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử và ADHP đối với các tội XPSH của
TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong 5 năm trở lại đây (từ năm
2012 đến năm 2016) cho thấy việc QĐHP không đúng do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan khác nhau nhưng nguyên nhân chính và chủ
yếu là do các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi ADHP đã không tuân
thủ và áp dụng đúng các căn cứ QĐHP.
Có thể hệ thống những hạn chế, sai sót trong ADHP tù đối với tội
phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt của TAND huyện
Tiên Du như sau:
- Hạn chế trong xác định các tình tiết của vụ án liên quan đến
ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. hoàn cảnh nhân thân bị cáo để giảm
nhẹ hoặc tăng nặng TNHS đối với bị cáo.
42
Trong quá trình thực hiện việc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt chưa đúng quy định của BLHS quy định QĐHP
nhẹ hơn quy định của Bộ luật là trong trường hợp khi có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ thuộc Khoản 1 Điều 46 BLHS, Tòa án nhân dân các cấp có
thể quyết định một hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ
hơn của điều luật… Thực tiễn nghiên cứu ADHP tù đối với tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh, tác giả nhận thấy các trường hợp quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định đều có căn
cứ và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều trường hợp bị cáo có
hai thậm chí hơn hai tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng
không được áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
- Hạn chế trong áp dụng loại và mức hình phạt:
Loại và mức hình phạt được áp dụng là quá nghiêm khắc, chưa thể
hiện được chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa,
giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù của Nhà nước
ta và được thể hiện khá cụ thể trong BLHS. Cụ thể là:
+ Trong 4/7 tội xâm phạm sở hữu được xét xử tại Toà án huyện
Tiên Du có chế tài lựa chọn giữ hình phạt tù và Cải tạo không giam giữ,
nhưng Toà án chỉ áp dụng duy nhất hình phạt tù; Cải tạo không giam giữ
không được áp dụng;
+ Có 169/262 (65%) bị cáo bị kết án từ 3 năm tù trở xuống, nhưng
không có bị cáo nào được hưởng án treo;
43
+ Chế tài các tội phạm đều có quy định hình phạt bổ sung, nhất là
phạt tiền, nhưng các hình phạt đó không được áp dụng.
- Hạn chế ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp phạm
nhiều tội, trong tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 124/2016/HSST ngày 31/7/2016 của
TAND huyện Tiên Du xử phạt các bị cáo Quy và Nhân về tội “Cướp tài
sản” theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành còn hiệu lực. Ngày
28/9/2012, Chánh án TAND huyện Tiên Du sau khi nghiên cứu các quy
định, hồ sơ vụ án, kết quả xét xử đã ban hành Quyết định tổng hợp hình
phạt số 260-261/2012/ QĐ-THHP đối với các bị cáo nhưng lại không tổng
hợp hình phạt đối với bị cáo Nhân và bị cáo Quy đã tuyên tại Bản án
HSST số 87/2016/HSST ngày 20/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tiên
Du là chưa đầy đủ.
- Hạn chế trong ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 57 BLHS 2015 quy định rất rõ về mức án
đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nhưng trong thực
tiễn ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có nhiều bản án mặc dù đã áp dụng
quy định này nhưng khi áp dụng hình phạt lại không tính đến mức án
không quá ½ mức hình phạt mà điều luật quy định đối với trường hợp
chuẩn bị phạm tội và ¾ mức hình phạt mà điều luật quy định đối với
trường hợp phạm tội chưa đạt.
44
Ví dụ 4: Tại nội dung bản án sơ thẩm số 67/2018/HSST ngày
25/5/2018 của TAND huyện Tiên Du xét xử vụ án “trộm cắp tài sản” theo
Điều 171 BLHS với nội dung như sau: Khoảng 06 giờ 00 ngày
24/02/2018 Nguyễn Văn Nguyên gặp đối tượng tên Hùng, không rõ lai
lịch. Hùng rủ Nguyên đi trộm bình ắc quy, Nguyên đồng ý. Hùng giao xe
máy không rõ biển số cho Nguyên điều khiển, đến trước Nghĩa trang liệt
sỹ huyện Tiên Du phát hiện xe tải thùng biển số 99C-50197. Nguyên dừng
xe cảnh giới cho Hùng dùng cờ lê để mở bình ắc quy, Hùng không mở
được nên đưa cờ lê cho Nguyên đến xe mở lấy, Hùng đứng cảnh giới. Khi
Nguyên đang mở các ốc vít thì Công an xã Phật Tích đi tuần phát hiện bắt
quả tang, Hùng điều khiển xe tẩu thoát.
Với hành vi trên Nguyên bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du
truy tố về tội “trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015.
Kết quả phiên xét xử sơ thẩm HĐXX đã áp dụng Khoản 2 Điều 171; Điểm
g, Khoản 1 Điều 57; Điểm g, p Khoản 1 Điều 56; Điều 18; Điều 57 BLHS
2015 xử phạt Nguyễn Văn Nguyên 01 năm 06 tháng tù.
Qua bản án trên, tác giả thấy Nguyễn Văn Nguyên phạm tội trong
trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Mặc dù HĐXX đã áp dụng Điều;
Điều 18; Điều 57 BLHS nhưng lại quyết định mức hình phạt đối với bị
cáo 01 năm 06 tháng tù là xử phạt bị cáo cao hơn mức án ¾ mức án theo
quy định, bỡi lẽ trong trường hợp này bản thân bị cáo có 01 tình tiết tăng
nặng, có hai tình tiết giảm nhẹ; giá trị tài sản 2.800.000 đồng nên đối với
tội phạm đã hoàn thành cũng chỉ bị xét xử ở mức hình phạt 09 tháng đến
01 năm tù, nếu áp dụng Khoản 3 Điều 57 BLHS thì mức án bị cáo phải
chịu chỉ là 06 tháng tù.
- Hạn chế trong áp dụng hình phạt trong trường hợp đặc biệt
45
Tại bản án số 79/2018/HSST ngày 20/6/2018 của TAND huyện
Tiên Du xét xử vụ án “Trộm cắp tài sản” theo Điều 171 BLHS với nội
dung như sau: khoảng 10g00 ngày 12/01/2018, Lê Văn Khải điều khiển xe
máy đến nhà Huỳnh Hữu Nghĩa, Nghĩa rủ Khải đi cướp giật tài sản, Khải
đồng ý và lấy xe chở Nghĩa đến trước nhà dân, Nghĩa phát hiện chị Diệu
đứng trước nhà, trên tay cầm 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy core 2
Prime, Nghĩa nói với Khải dừng xe, Nghĩa xuống xe giật điện thoại trên
tay chị Diệu, chị Diệu và Nghĩa giằng co nhưng Nghĩa đã giật được điện
thoại và lên xe do Khải đang nổ máy chờ sẵn rồi tẩu thoát. Tài sản không
thu hồi được.
Với hành vi trên Nghĩa và Khải bị Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tiên Du truy tố về tội “cướp giật tài sản” theo Điều 168 BLHS năm 2015,
chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để thực hiện công tác
xét xử. Kết quả phiên xét xử sơ thẩm HĐXX huyện Tiên Du đã áp dụng
Điểm c Khoản 2 Điều 168; Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 xử phạt
bị cáo Huỳnh Hữu Nghĩa 04 năm tù; áp dụng Khoản 1 Điều 168; Điểm p
Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 xử phạt bị cáo Lê Trần Khải 01 năm 06
tháng tù.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Trên cơ sở phân tích rõ thực tiễn những kết quả đạt được, hạn chế
trong việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có thể rút ra
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
2.2.2.1. Nguyên nhân do các bất cập của BLHS cũ
Vướng mắc trong áp dụng văn bản xử lý hành vi xâm phạm sở hữu
liên tục, kế tiếp nhau.
46
Theo quy định tại Điều 5 của Chương II Thông tư liên tịch số 02
ngày 25/12/2001 của các đơn vị Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn về một số quy
định tại Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự, quy
định: Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi
xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối
thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không
thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây
hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa
được xoá án tích...), đồng thời, trong các hành vi xâm phạm đó chưa có
lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính,
nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối
thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người
thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của
các lần bị xâm phạm, nếu: Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện
một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng quy định này đã phát sinh vướng
mắc. Trường hợp sau đây là một ví dụ:
Trong khoảng thời gian từ 21- 23 giờ ngày 31/5/2018, Nguyễn Văn
A mang theo một bao tải với mục đích trộm cắp tài sản. Lần thứ nhất, A
bắt trộm được 01 con chó, trị giá 1.400.000 đồng. Lần thứ hai, sau khi bán
chó cho C, A tiếp tục đi bắt trộm được 01, trị giá 1.200.000 đồng. Tổng
giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.600.000 đồng.
Quan điểm thứ nhất: Trường hợp này không áp dụng Thông tư liên
tịch số 02/2001 để xử lý đối với Nguyễn Văn A, vì văn bản này hướng
47
dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của
BLHS năm 1999, mà không hướng dẫn việc áp dụng cho các tội xâm
phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của BLHS năm 2015.
Mặt khác, Điều 138 BLHS năm 1999 chưa quy định cụ thể các
trường hợp tổng số giá trị tài sản trộm cắp dưới mức tối thiểu (2.000.000
đồng) thì phải chịu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 173 BLHS
năm 2015 đã có 05 trường hợp cụ thể xử lý đối với trường hợp tổng số
dưới mức khởi điểm quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, nên
việc áp dụng văn bản này là bất lợi cho bị can, bị cáo và trái với nguyên
tắc bảo vệ quyền con người của Hiến pháp năm 2013 (quyền con người
chỉ được hạn chế theo quy định của Luật). Do đó, Nguyễn Văn A không
phạm tội vì tổng giá trị của mỗi lần trộm cắp dưới mức tối thiểu để truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình
sự (A không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm
hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án
nhưng chưa được xoá án tích...).
Quan điểm thứ hai: Trường hợp này vẫn áp dụng Thông tư liên tịch
số 02/2001 để truy cứu trách nhiệm đối với Nguyễn Văn A, vì mặc dù
hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu
quy định tại Chương XV của Bộ luật Hình sự năm năm 2015, nhưng hành
vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về
mặt thời gian, không trái với nguyên tắc của BLHS. Trong trường hợp
này, nên cộng tổng giá trị của hai lần A thực hiện hành vi trộm tài sản của
người khác để truy cứu trách nhiệm đối với Nguyễn Văn A theo quy định
tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.
48
Hiện nay BLHS năm 2015 chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, để
áp dụng các quy định của BLHS một cách thống nhất thì Liên ngành tư
pháp trung ương sớm có văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 2015 và
BLTTHS năm 2015. Trước mắt cần có văn bản hướng dẫn thống nhất việc
áp dụng hay không áp dụng đối với các văn bản như: Nghị quyết, Thông
tư liên tịch… hướng dẫn áp dụng BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003,
cho các quy định tương ứng của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015.
Trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, BLHS năm 2015 quy định tình
tiết định tội cơ bản như quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009), đó là, quy định tại khoản 1 của các điều 172, 173, 174, 175
BLHS năm 2015: “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174, 175 và
290 của Bộ luật, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Các điểm a, b khoản 1 mà các khoản 2, 3, 4 của Điều 172, Điều 173
dẫn chiếu, không vì khác hơn đó chính là yếu tố “đã bị xử phạt vi phạm
hành chính”; “đã bị kết án chưa được xóa án tích”.
- Nghiên cứu các nhóm tội phạm khác trong phần các tội phạm cụ
thể của BLHS năm 2015, tác giả không tìm thấy quy định tình tiết “đã bị
xử phạt vi phạm hành chính”; “đã bị kết án chưa được xóa án tích” này
làm tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ có 04 tội danh trong nhóm tội
xâm phạm sở hữu nêu trên (Điều 172, Điều 173, Điều 174 và Điều 175),
là thật sự không công bằng;
- Nghiên cứu các điều luật liên quan, thấy rằng, việc áp dụng các
tình tiết định khung, như: Phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội có tổ chức;
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm… chỉ áp dụng
49
đối với 01 khung hình phạt cụ thể trong 01 điều luật. 04 tội danh quy định
tại các điều 172, 173, 174 và 175, tình tiết “tái phạm nguy hiểm” cũng chỉ
sử dụng tại khoản 2. Tuy nhiên tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành
chính” và “đã bị kết án chưa được xóa án tích” lại được áp dụng làm tình
tiết định khung cho tất cả các khung hình phạt tại 04 điều luật nêu trên
trong BLHS năm 2015, mặc dù, xét về tính chất nguy hiểm thì rõ ràng “đã
bị xử phạt vi phạm hành chính” và “đã bị kết án chưa được xóa án tích” ít
nguy hiểm hơn so với tái phạm nguy hiểm;
- Bất cập từ quy định như trên dẫn đến những trường hợp phạm tội
thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” có thể áp dụng khung hình phạt
nhẹ hơn so với trường hợp “đã bị xử phạt vi phạm hành chính”; “tái
phạm”. Nhận định này, tác giả chứng minh bằng các ví dụ sau:
Ví dụ: Lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng, Phạm C lẻn vào nhà ông Ph.
trộm cắp tài sản gồm: 01 máy tính xách tay ; 01 máy chụp ảnh ; Chính vì
C. “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” về hành vi chiếm đoạt nên theo
quy định của điều luật, tình tiết này được áp dụng làm tình tiết định khung
hình phạt. Do đó, Phạm C. phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm
cắp tài sản” theo điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS năm 2015 với mức hình
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Từ 02 ví dụ trên cho thấy, tuy cùng là hành vi trộm cắp tài sản, giá
trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt như nhau và cùng bị truy tố, xét
xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015, nhưng với
C. khi phạm tội thuộc trường hợp “đã bị xử phạt vi phạm hành chính”phải
chịu khung hình phạt nặng hơn H. phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm
nguy hiểm”.
50
- Chế tài một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có
mức độ nguy hiểm hạn chế chỉ quy định lựa chọn giữa phạt tù với Cải tạo
không giam giữ mà không có phạt tiền là thiếu hợp lý, thiếu cơ sở để áp
dụng hình phạt khác, phù hợp với động cơ tư lợi, mục đích “kinh tế” của
người phạm tội.
2.2.2.2. Nguyên nhân do các bất cập, thiếu sót trong hướng dẫn áp
dụng pháp luật
Như trên đã phân tích, trong BLHS còn nhiều tranh cãi và thiếu
thống nhất trong thực tiễn áp dụng vì chưa có hướng dẫn hoặc hướng dẫn
thiếu chính xác. Ví dụ, quy định về mức độ trong trường hợp nào là gây
thiệt hại lớn, trong trường nào là gây thiệt hại không lớn. Thực tế, có
trường hợp người phạm tội Trộm cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng, có
Thẩm phán đánh giá áp dụng Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS để áp dụng
hình phạt đối với bị cáo, có trường hợp bị cáo lại không được xem xét để
áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Một thực tế khác có trường hợp tuy người
phạm tội Trộm cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng sau đó khi xét xử bị cáo
được áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn” theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy
nhiên, tài sản mà bị cáo trộm cắp là chiếc xe máy làm phương tiện “xe
ôm” để có thu nhập nuôi sống cho một gia đình. Vì vậy, đối với người “xe
ôm” trong trường hợp này chiếc xe máy là tài sản “lớn” đối với họ nên
việc Tòa án áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây
thiệt hại không lớn” sẽ là không hợp lý. Nhưng vì chưa có quy định cụ thể
nên các cơ quan tố tụng còn lúng túng và thiếu thống nhất khi xem xét
đánh giá tình tiết này khi áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
51
Về tình tiết: “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” hiện nay chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên việc
áp dụng trên thực tế áp dụng hình phạt còn mang tính chủ quan, thiếu
thống nhất.
Về tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải"
được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS hiện nay chưa có văn
bản quy phạm pháp luật hay văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền xác định “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” có phải là hai
tình tiết giảm nhẹ hay “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” chỉ là một
tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS năm
2015.
2.2.2.3. Nguyên nhân do năng lực, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội
thẩm
Nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ Thẩm phán - những người trực
tiếp thực hiện việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt.
Cùng với Thẩm phán, thì Hội thẩm nhân dân là một trong các thành
viên của HĐXX khi xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt. Hội thẩm nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ
án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng
đều phải tuân thủ nguyên tắc độc lập khi xét xử.
2.2.2.4. Nguyên nhân trong tổ chức, quản lý Tòa án
Việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm hằng năm Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du trong áp dụng hình phạt tù
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chưa được kịp
thời và chưa sâu sát với thực tiễn nên ứng dụng của nó trong công tác xét
52
xử án hình sự nói chung và áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng chưa được thiết thực.
Những vi phạm sai lầm trong việc ADHP đối với các tội XPSH trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua cho thấy sự kiểm tra,
hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới
chưa được thường xuyên.
Tập huấn nghiệp vụ áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt là nhiệm vụ rất quan trọng trong việc
thống nhất đường lối áp dụng pháp luật trong thực tiễn trên địa bàn
huyện. Tuy nhiên do số lượng công việc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,
huyện Tiên Du rất nhiều, tổng lượng án với số lượng tương đối lớn. Từ đó
dẫn đến áp dụng pháp luật trong nhiều trường hợp không đúng quy định
của BLHS dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, trước và trong
phiên tòa, hội đồng xét xử làm việc cần có sự độc lập với các cơ quan nhà
nước ở nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp cũng như các cơ quan khác
trong hệ thống tư pháp. Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc vào quan
điểm cuả các cơ quan này, không bị ảnh hưởng chi phối một cách tiêu cực
để làm sai trái với sự thật khách quan của vụ án. Các cơ quan quản lí theo
đó, không được can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, vì
công tác xét xử đã được Nhà nước giao cho tòa án. Tòa án không lệ thuộc
hoàn toàn vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Nếu qua phiên
tòa, cảm thấy cần thiết, hội đồng xét xử có thể xử lí vụ việc khác với bản
kết luận, cáo trạng của các cơ quan nói trên theo đúng quy định của pháp
luật, đảm bảo tính chính xác, công minh. Trong hệ thống tòa án từ trung
53
ương đến địa phương, tòa án cấp trên hướng dẫn tòa cấp dưới về việc áp
dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không quyết đinh
trước về cách thức, kết quả xét xử một vụ án cụ thể buộc tòa cấp dưới
phải làm theo. Tóm lại, thẩm phán, hội thẩm không bị phụ thuộc vào kết
luận của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của
Viện kiểm sát, không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của
Tòa án cấp trên.Có như vậy thì tính độc lập, đúng đắn, hiệu quả mới được
đảm bảo trong hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm tại phiên tòa.
54
Kết luận Chương 2
Tại nội dung chương 2, tác giả đi sâu phân tích thực tiễn áp dụng
hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở phân tích thực tiễn chỉ
ra những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm đối
với áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Từ những số liệu
thống kê, phân tích, so sánh việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, các hình phạt đối với từng tội phạm
cụ thể trong thời gian năm năm từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh do TAND các cấp xét xử, tác giả đã rút ra
được những tồn tại, vướng mắc trong quá trình xét xử và áp dụng hình
phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt của cơ
quan Tòa án. Việc liệt kê và phân tích một cách chi tiết, đầy đủ giúp
người đọc hiểu một cách sâu sắc hơn về việc áp dụng hình phạt tù đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh. Qua đó thấy được những thuận lợi, khó khăn vướng
mắc và nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng
hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra các yêu cầu và giải
pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt được thể hiện ở Chương 3.
55
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
TÙ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
3.1.1. Yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi
trọng tính phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt
không phải tù
Bộ luật Hình sự năm 2015 được ban hành lần này sẽ khắc phục
được cơ bản những nhược điểm của Bộ luật Hình sự năm 1999; thể hiện
được tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa, tăng cường tính hướng thiện
của Bộ luật Hình sự trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm theo
hướng giảm bớt hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền và hình phạt cải tạo
không giam giữ; góp phần vào việc hoàn thiện và lành mạnh hóa thể chế
kinh tế thị trường bằng việc có những sửa đổi quan trọng đối với các tội
phạm về kinh tế. Chính vì vậy, việc áp dụng các hình phạt tù đối với tội
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần áp dụng đúng trên tinh thần của
yêu cầu trên.
3.1.2. Yêu cầu bảo đảm các nguyên tắc của luật hình sự
Trong quá trình áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt các cơ quan xét xử, tham gia xét xử cần phải
nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc của luật hình sự. Đặc biệt là nguyên
56
tắc pháp chế xã hội chủ ngĩa, Pháp chế cũng là tiền đề cho việc thực hiện
các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Việc áp dụng đúng đắn các quy
định của BLHS và các văn bản pháp luật nội dung khác là thể hiện cao
nhất của nguyên tắc pháp chế. Bảo đảm nguyên tắc xử lý nói chung và các
nguyên tắc áp dụng hình phạt nói riêng. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt
tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, cá thể hoá
hình phạt, nhân đạo và công bằng phải tuyệt đối được tuân thủ trong
ADHP.
3.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, chủ trương cải cách tư
pháp được nêu một cách nhất quán và được tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Khi chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được thể chế hóa
trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ Chính trị đã ban hành
các nghị quyết chuyên đề về pháp luật và tư pháp (Nghị quyết số 08/NQ-
TW ngày 0201-2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25-6-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020) thì công tác cải cách tư
pháp được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Đối với áp dụng hình phạt tù đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cũng được nhắc đến như
nội dung chung về tội phạm, chủ trương áp dụng hình phạt tù…
3.1.4. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
Có thể nói trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, việc nghiên cứu hoàn
thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) liên quan đến
bảo đảm quyền con người, đánh giá việc thực hiện các quy định đó trên
57
thực tế để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động tố tụng là một trong những nội dung quan trọng của
việc nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự hiện nay.
Cùng với việc quy định quyền con người, Hiến pháp cũng quy định những
bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người nói chung và trong
tố tụng hình sự nói riêng. Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà
nước tôn trọng, bảo vệ quyền con người; Điều 3 đã khẳng định Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đi cùng với các
quy định về quyền con người, bao giờ cũng có quy định về trách nhiệm
của Nhà nước hoặc bảo hộ của pháp luật nhằm thực hiện các quyền đó
trên thực tế.
3.1.5. Yêu cầu phòng, chống tội phạm
Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bao giờ cũng tác động đến các
thành viên khác trong xã hội. Trong xã hội ta, tuyệt đại đa số nhân dân
không vi phạm pháp luật hình sự, không phải do sợ hình phạt mà lý do
chính thuộc về ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần đấu tranh không
dung thứ của họ đối với tội phạm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau mà xã hội còn một bộ phận những
công dân không vững vàng, dễ bị lôi kéo vào con đường vi phạm pháp
luật, thậm chí nghiêm trọng là phạm tội. Với bộ phận công dân này, tác
dụng răn đe và giáo dục của hình phạt để ngăn ngừa tội phạm được đưa
lên hàng đầu trong mục đích phòng ngừa chung của hình phạt.
58
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự
Mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 đã khắc phục được nhiều vấn đề
tồn tại, vướng mắc nhưng để triển khai thi hành và bảo đảm cơ sở pháp lý
vững chắc trong việc định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt, cần tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 như
sau:
- Bổ sung điều luật về cơ sở pháp lý của việc định tội danh chính là
quy định của Bộ luật hình sự trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 2015;
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để cân nhắc có nên tiếp tục quy
định hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản (khoản 4 Điều 168 Bộ luật
hình sự năm 2015). Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009
quy định, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình.
- Hoàn thiện quy định các căn cứ QĐHP: Cần hoàn thiện căn cứ thứ
hai của việc áp dụng hình phạt: “cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội” theo hướng cần quy định tiêu chí cụ thể
cho việc đánh giá nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc đánh giá mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tiêu chí cụ thể bao
gồm: mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; mức độ lỗi; tính chất động
cơ phạm tội.
- Hoàn thiện quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
Như đã phân tích tại phần nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm khi áp
dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu; một loạt các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Điều 52 BLHS hiện nay còn có nhiều cách
59
hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các Tòa án,
thậm chí là thiếu thống nhất ngay trong cùng một Tòa án. Thực tiễn áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 52 BLHS 2015, tác giả
thấy cần phải sửa một số điểm theo hướng rõ ràng hơn tránh việc gây
nhiều cách hiểu và áp dụng thiếu thống nhất như hiện nay. Theo BLHS
2015, chuẩn bị phạm tội đã được quy định thành các cấu thành tội phạm,
có chế tài riêng trong phần tội phạm.
- Bổ sung hình phạt tiền vào chế tài lựa chọn trong khoản 1 một số
tội như Công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172 BLHS), Trộm cắp tài sản
(Điều 173 BLHS), Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS), Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) để tạo cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, nhân đạo, bảo đảm cá
thể hoá hình phạt cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản trong những
trường hợp cần thiết.
3.2.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật
Trước mắt, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần
nghiên cứu ban hành Nghị quyết về án treo thay thế Nghị quyết
01/2013/NQ-HĐTP để hướng dẫn áp dụng án treo chính xác hơn; phù hợp
với quy định mới về án treo; quy định mới về án tích (Điều 69 BLHS
2015), về tái phạm (Điều 53 BLHS 2015); Nghị quyết hướng dẫn về các
căn cứ QĐHP; Nghị quyết hướng dẫn ADHP đối với pháp nhân thương
mại phạm tội; hướng dẫn về án tích, về tái phạm, tái phạm nguy hiểm… là
những quy định có nhiều nội dung mới trong BLHS 2015.
3.2.3. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng hình
phạt của Toà án
60
Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử nên có tính chất quyết định
trong hoạt động vụ án. Do đó khi gặp những vụ án phức tạp, khó phân
biệt hành vi phạm tội hay phân định hành vi có phạm tội hay không thì
cần trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, thống nhất quan điểm là vô cùng
cần thiết cho hoạt động xét xử.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng xây dựng
phiên tòa rút kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa theo tinh thần cải cách tư pháp để rút kinh nghiệm trong công tác điều
tra, truy tố, xét xử đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa.
Nâng cao vai trò trách nhiệm đối với lãnh đạo các Tòa, Phòng, Tòa
án nhân dân cấp huyện trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Thực hiện luân chuyển, điêu động Tẩm phán, Thư ký khi các đơn vị có
phát sinh nhiêu án, nhằm đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu công tác; tiếp tục
thực hiện tốt 03 giải pháp cơ bản mang tính đột phá của Tòa án nhân dân
tối cao.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác
giám sát, động viên nhân dân phát hiện những hạn chế,khuyết điểm trong
hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa.
Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một
nền tư pháp của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về
hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các thẩm phán.
61
Từng bước thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án, trừ những
bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến
thuần phong mỹ tục.
Việc công bố hình thức công khai, minh bạch hóa chính sách và
pháp luật, việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu
để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng đòi hỏi của quá
trình hội nhập quốc tế, trong đó người dân thực sự được làm chủ xã hội
thông qua việc được biết, được bàn, được kiểm tra việc thực thi pháp luật
của cơ quan tư pháp, của Tòa án. Cũng chính vì thế mà bản thân các
Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để làm sao tuyên bản án
được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật được xã hội
thừa nhận.
3.2.4. Nâng cao năng lực, phẩm chất Thẩm phán và Hội thẩm
Để nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo phán quyết cuối cùng của
Tòa án đưa ra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức
thấp nhất việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, Tòa án nhân dân các cấp
trong tỉnh thường xuyên chú trọng xây dựng đội ngũ thẩm phán “vừa
hồng vừa chuyên”, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ,
chuyên môn.
Ngay từ khâu tuyển dụng, xây dựng, tạo nguồn cán bộ để bổ nhiệm
đội ngũ thẩm phán cho tòa án các cấp yêu cầu phải tốt nghiệp Đại học
Luật hệ chính quy, có ít nhất 5 năm công tác; sau đó, ban cán sự họp, xem
xét những trường hợp có đủ tiêu chí về đạo đức, năng lực chuyên môn cử
đi học lớp nghiệp vụ xét xử để thi thẩm phán, nếu đạt kết quả theo quy
định tại các cuộc thi do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức mới được làm hồ
sơ để bổ nhiệm thẩm phán. Thời gian qua, bên cạnh đổi mới công tác đào
62
tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ thẩm phán, tòa án nhân dân
hai cấp trong tỉnh còn tăng cường việc tổ chức các hội nghị tập huấn, coi
đây là giải pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các
loại án. Theo định kỳ, Tòa án nhân dân tỉnh mời các đồng chí lãnh đạo,
chuyên gia các lĩnh vực thuộc Tòa án nhân dân tối cao về truyền đạt, bồi
dưỡng kiến thức cho đội ngũ thẩm phán nói riêng, cán bộ, công chức tòa
án hai cấp trong tỉnh nói chung; thường xuyên cử thẩm phán đi học các
lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức.
Nghiêm túc thực hiện việc giám sát thẩm phán, định kỳ hàng tháng,
thông qua họp giao ban thẩm phán, các thẩm phán phải báo cáo về kết quả
xét xử, giải quyết các vụ việc; khi có án hủy, sửa, phải yêu cầu thẩm phán
giải trình cụ thể; trong đó, xác định rõ tính chất, mức độ sai lầm, thiếu sót
và trách nhiệm cá nhân của thẩm phán đối với vụ án bị hủy, sửa; lấy kết
quả giải quyết, xét xử vụ án sau khi bị hủy để làm căn cứ đánh giá cán bộ,
công chức và bổ nhiệm lại thẩm phán. Hàng năm, mỗi thẩm phán phải
đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm để kịp thời giải quyết
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, ghi nhớ lời dạy của
Bác Hồ: “Trong công tác xét xử án phải công bằng, liêm khiết, trong
sạch”, Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh đặc biệt chú trọng đến việc bồi
dưỡng, giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ thẩm phán; duy
trì thường xuyên, nghiêm túc việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Nội dung học tập, làm theo được cụ thể hóa,
thiết thực và gắn liền với nhiệm vụ chuyên môn được giao, từ đó làm tiêu
chí, đánh giá xếp loại cán bộ, đảng viên hàng năm.
63
Để tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, thời gian tới, Ban Cán sự
Đảng Tòa án nhân dân tỉnh sẽ tiếp tục làm tốt công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng; lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, tập huấn
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán; tăng cường, chấn chỉnh kỷ
cương, kỷ luật công vụ; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời
phát hiện và khắc phục hạn chế, vướng mắc, góp phần nâng cao năng lực
chuyên môn cho các thẩm phán.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác hội thẩm nhân dân, thời
gian tới, Tòa án nhân dân hai cấp cần tăng cường công tác tập huấn, nâng
cao kỹ năng xét xử cho hội thẩm nhân dân, tiến hành trao đổi kinh nghiệm
giữa các cấp hội thẩm và các hội thẩm cũ, mới. Đồng thời tổ chức các
chuyến công tác học tập kinh nghiệm các Tòa án nhân dân các tỉnh và các
đơn vị bạn; tăng cường phối hợp xây dựng kế hoạch xét xử; cung cấp tài
liệu liên quan đến hoạt động xét xử đối với các vụ án điểm, vụ án cần trao
đổi nghiệp vụ để thống nhất áp dụng. Chú trọng chuẩn bị tốt các vụ án lưu
động để tăng cường tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục pháp luật
trong nhân dân.
3.2.5. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập
Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hạn chế oan sai, tiêu cực, xét xử đúng
người, đúng tội và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử, chúng ta cần làm tốt
những nội dung sau:
64
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của
Hội thẩm nhằm bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét
xử. Theo chúng tôi, cần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng quy
định thời hạn dài hơn cho một nhiệm kỳ của Hội thẩm là 07 năm. Về
thành phần Hội đồng xét xử, có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội
đồng xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính, cụ thể là trong phiên
tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử có một Hội thẩm và hai Thẩm phán (hoặc
trong trường hợp đặc biệt có hai Hội thẩm và ba Thẩm phán). Như vậy,
vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp của Thẩm phán, vừa bảo đảm tính nhân
dân của Hội đồng xét xử. Bổ sung quy định về đạo đức nghề nghiệp của
Hội thẩm. Quy chế đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm sẽ quy định những
yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất cần có của Hội thẩm,
những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm trong hoạt động tố
tụng, trong quan hệ công tác, trong quan hệ với những người tiến hành tố
tụng, với những người tham gia tố tụng và trong mối quan hệ hành
chính…; quy định về cơ chế khen thưởng và xử lý vi phạm đối với Hội
thẩm.
Hai là, xử lý nghiêm tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo án” của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Thực trạng “trao đổi đường lối giải
quyết vụ án”, “trao đổi nghiệp vụ” hay “tham khảo ý kiến” giữa Thẩm
phán của Tòa án cấp dưới với Thẩm phán của Tòa án cấp trên là một thực
tế đang tồn tại. Tính tiêu cực của cơ chế “thỉnh án”,“báo cáo án”, “trao
đổi đường lối giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án” hay “tham khảo ý
kiến của Tòa án cấp trên” đã làm cho cơ cấu tổ chức của hệ thống xét xử
trở nên không có ý nghĩa, làm cho chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa,
quyền bào chữa của công dân không được bảo đảm; phá vỡ các nguyên
tắc của hoạt động tư pháp đã được hiến định, như “nguyên tắc độc lập xét
65
xử”, “nguyên tắc xét xử tập thể” hay “nguyên tắc bảo đảm tính đại diện
của nhân dân trong xét xử”, làm cho những nguyên tắc này đã trở nên
hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ
nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử.
Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động
xét xử, cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm
quyền tư pháp giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án
với Thẩm phán; phải có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu
trách nhiệm về hành động của mình. Cần tăng cường tính chịu trách
nhiệm giải trình công khai, minh bạch của Thẩm phán và Hội thẩm trong
hoạt động xét xử. Sự độc lập của tư pháp cần phải đi cùng với cơ chế
trách nhiệm trong hoạt động tư pháp. Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm
phán cần công khai, minh bạch, chuẩn hóa các tiêu chuẩn đối với Thẩm
phán, đồng thời có cơ chế kết hợp thi tuyển với tuyển chọn người để bổ
nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm để nâng cao chất lượng đội
ngũ Thẩm phán.
Ba là, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác
tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân
dân các cấp. Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các
văn bản pháp luật mới được ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng
quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực
thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp chế tài hành chính cụ thể đối với
những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ
quan của Thẩm phán và Hội thẩm. Kiện toàn nâng cao trình độ, năng lực,
bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Nghiên cứu, xây
dựng cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán,
Hội thẩm phù hợp với vị trí, vai trò và đặc thù của công tác xét xử. Xây
66
dựng chế độ tiền lương cho Thẩm phán theo thang, bậc lương riêng. Cần
có những biện pháp bảo đảm an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi thi hành công vụ. Bên
cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công
tác xét xử của Tòa án như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng xử án, trang bị
đầy đủ các phương tiện phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử đảm bảo
thực hiện các nguyên tắc tố tụng như độc lập xét xử, xét xử công khai,
nguyên tắc tranh tụng… để ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử
trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
3.2.6. Bảo đảm về chế độ, chính sách đối với đội ngũ Thẩm phán,
Hội thẩm
Đổi mới và xây dựng hệ thống chính sách đãi ngộ đói với đội ngũ
cán bộ, Thẩm phán (nhất là chính sách tiền lương, nhà ở và các chế độ,
chính sách đặc thù) một cách nhất quán, công bằng, có lý có tình, thống
nhất trong phạm vi toàn ngành và giữa các loại Thẩm phán thực sự
khuyến khích những Thẩm phán có tài, trân trọng những Thẩm phán có
thành tích phù hợp với điều kiện chung của đất nước, của ngành. Thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời khen thưởng những tập
thể, cá nhân có thành tích; Thẩm phán đúng phải được bảo vệ, sai phải
đấu tranh, có dư luận phải được kịp thời làm rõ, tránh tình trạng để dư
luận âm ỷ, lan truyền ngờ vực lẫn nhau; xử lý nghiêm và kịp thời những
tập thể, cá nhân có sai phạm; kịp thời rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc
phục những biểu hiện sai phạm, lệch lạc trong công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ Thẩm phán.
Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc
cho cán bộ Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội
67
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp.
Bên cạnh thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, trở ngại, vì vậy, rất cần có sự
đồng thuận của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, phải rất
quyết tâm và coi đó là nhiệm vụ chính trị của toàn hệ thống thì mới có thể
thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng này.
Trước hết, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục bám sát các chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công
tác chỉ đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương
tiện và trang thiết bị làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp.
Thứ hai, tập trung kinh phí và rà soát, xác định trọng điểm đầu tư
xây dựng mới hoặc sữa chữa cải tạo trụ sở làm việc cho các Tòa án nhân
dân, đảm bảo các tiêu chí về diện tích đất theo định hướng chung, đặc biệt
đối với các Toà án nhân dân chưa có trụ sở. Phối hợp với các cơ quan, bộ,
ngành chức năng xây dựng các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc,
trang thiết bị, phương tiện cho từng chức danh cán bộ theo đặc thù Tòa
án.
Thứ ba, phát triển việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt
động của tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại hóa về cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị; hệ thống các phần mềm ứng dụng chuyên biệt của tòa
án có đủ về số lượng với công nghệ hiện đại, thuận tiện, dễ sử dụng, bảo
đảm phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo tòa án
nhân dân các cấp chủ yếu thông qua hệ thống mạng máy tính, đáp ứng các
yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hóa các hoạt động của Tòa án nhân
dân.
Song song với giải pháp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đòi hỏi
cần phải tuyển chọn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là đội
68
ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, vì đội ngũ này có vai trò, ý nghĩa
quyết định trong việc xử lý các vụ án. Về mặt nguyên tắc cơ bản đã thể
hiện rõ quan điểm của Nhà nước theo yêu cầu của xã hội mới song trên
mặt thực tế yêu cầu này chưa thực sự đảm bảo mà mới dừng lại ở khía
cạnh hình thức. Một thẩm phán được xem xét trên cơ sở có bằng đại học
Luật, có qua thời gian công tác pháp luật khoảng 4 hoặc 6 năm, về việc
tuyển chọn được thông qua hội đồng theo quy định của Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, quá trình xem xét bảo đảm chế
độ, chính sách đối với cán bộ chưa được đề cập một cách đầy đủ đến khả
năng của một Thẩm phán trong tương lai sẽ làm được gì khi họ ở cương vị
một người Thẩm phán để giải quyết những vấn đề liên quan đến con
người, sinh mệnh chính trị của con người, liên quan đến tội phạm, đến uy
tín của họ đối với người phạm tội ra sao, khả năng và tầm nhìn nhận của
họ về xã hội thế nào.
Đặc biệt, thực hiện Kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của
Bộ Chính trị về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và ngành
Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai xây dựng Chiến
lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân đến
năm 2020 và nhiều đề án quan trọng liên quan đến công tác đào tạo như:
Đề án thành lập Học viện Tòa án tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành,
đào tạo bậc trên đại học và chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp
vụ xét xử, Đề án về đào tạo chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp
vụ Tòa án, Đề án phối hợp với các trung tâm đào tạo để xây dựng cơ chế
đào tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa....
Bên cạnh đó, cùng với Tòa án, đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Ninh tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:
69
- Triển khai thực hiện Kết luận số 92- KL/TW của Bộ Chính trị về
việc tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị
quyết số 96/201 5/QH ngày 26/6/2015 của Quốc hội và Chỉ thị 04/CT -
VKSTC ngày 28/7/2015 của Viện KSNĐ tối cao về tăng cường các biện
pháp phòng, chống oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Tiếp tục quán triệt thi hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán
bộ để đáp ứng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành; chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để triển khai thi hành một số Luật, Bộ luật liên
quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành khi được Quốc
hội thông qua như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân
sự, Bộ luật tố tụng dân sự...
- Tập trung giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án trọng điểm
về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Tiếp tục phối hợp
với Tòa án tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao hơn nữa
chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại các phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm.
Muốn vậy, ngay từ bây giờ Nhà nước phải có quy chế chặt chẽ
trong việc xây dựng một đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm
phán có tâm, có tầm đủ sức làm nhiệm vụ. Trước hết phải có chính sách
và lương bổng hợp lý của nghề đặc biệt này, hình thức và nội dung tuyển
chọn về khả năng lành nghề, hiểu được một cách sâu sắc tâm lý của tội
phạm bên cạnh các yếu tố đạo đức nghề nghiệp.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn toàn tỉnh.
70
Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 13/7/1998 của Chính phủ ở điểm 12 có
đoạn ghi như sau: “Đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp
luật của Chính phủ đẩy mạnh công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm
một cách kịp thời và nghiêm chỉnh”.
3.2.7. Các giải pháp khác
Chủ động phòng, chống tội phạm, dàn dựng lại các tình huống, thủ
đoạn của bọn tội phạm để người dân có kiến thức, tinh thần cảnh giác với
thủ đoạn của tội phạm
Hoạt động giải quyết vụ án hình sự có thể xem là bị động khi giải
quyết những sự việc đã xảy ra thiệt hại trên thực tế, dù thế nào đi nữa thì
có bắt người phạm tội chịu mức hình phạt tương đương với mức độ nguy
hiểm của hành vi của tội phạm gây ra thì cũng không có ý nghĩa bằng
cách chủ động phòng chống tội phạm ngay từ đầu khi chưa xảy ra thiệt
hại. Cho nên chủ động phòng chống tội phạm là cách hữu hiệu nhất mà
người dân có thể tự bảo vệ tài sản của bản thân và cơ quan Nhà nước cũng
có thể giảm thiểu tình hình phạm tội chiếm đoạt tài sản xảy ra hiện nay.
Bên cạnh đó, hiểu hiểu biết người dân nói chung còn kém trong khi thủ
đoạn của phạm tội ngày càng tinh vi nên việc dàn dựng lại các tình huống,
thủ đoạn của bọn tội phạm để người dân có kiến thức, tinh thần cảnh giác
với thủ đoạn của tội phạm là hết sức cần thiết.
Cải thiện chất lượng cuộc sống, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục kiến thức pháp luật cho người dân có ý thức tuân thủ pháp luật
Giáo dục có chiều sâu, tăng cường sự giáo dục, quan tâm của nhà
trường, gia đình. Sự giáo dục của gia đình và nhà trường có ảnh hưởng
nhất định đến nhân cách của con người. Đa số tội phạm chiếm đoạt tài sản
71
đều có nhân thân không tốt hoặc là do thiếu giáo dục, thiếu quan tâm của
gia đình nên dễ lệch lạc trong cách suy nghĩ, hành xử cho nên muốn giảm
thiểu tội phạm chiếm đoạt tài sản một cách ổn định, lâu dài cần có cái
nhìn thấu đáo, toàn diện là kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình
một cách sâu sắc trong suốt quá trình hình thành, phát triển nhân cách
đồng thời cần có sự quan tâm đến những biểu hiện lệch lạc, khả nghi để
có sự can thiệp kịp thời.
Tăng cường nguồn phản biện xã hội nhất là trong lĩnh vực truyền
thông, báo chí nhằm phát hiện, đấu tranh và phòng chống tội phạm
Truyền thông, báo chí có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án
hình sự, về chuyên môn, lĩnh vực này nắm bắt thông tin nhanh gọn, có
tính chính xác cao, thông qua hoạt động đưa tin, viết báo phản ánh những
vụ án chiếm đoạt cụ thể hay thông tin về tình hình tội phạm trên một địa
bàn, khu vực cụ thể có thể giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nắm bắt tình
hình tội phạm, có những thông tin ban đầu mà có thể xác sơ, điều tra, khởi
tố vụ án, khởi tố bị can. Bên cạnh đó thông qua hoạt động đưa tin, viết
báo truyền thông, báo chí còn tạo ra áp lực xã hội buộc các chủ thể tiến
hành tố tụng làm việc nghiêm túc góp phần vào việc giải quyết vụ án
được công bằng, nhanh chóng hơn. Tăng cường hoạt động tuần tra. Nâng
cao phương tiện kỹ thuật cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự tăng
cường về số lượng và chất lượng tuần tra sẽ làm giảm sự lộng hành, hung
hãn của tội phạm. Mặt khác muốn công tác giải quyết vụ án nói chung và
công tác tuần tra, truy bắt nói riêng đối tượng được hiệu quả cần trang bị
cho những lực lượng này những phương tiện kỹ thuật hiện đại để thực
hiện nhiệm vụ được dể dàng. Phương tiện kỹ thuật hiện như vũ khí,
phương tiện di chuyển sẽ hỗ
72
Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về an
ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống bạo lực
Tội phạm - đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không
chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức bị thiệt hại mà còn gây mất trật tự an
ninh và an toàn xã hội. Để nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh
phòng và chống tội phạm, Đảng bộ và chính quyền các cấp phải không
ngừng nâng cao hiệu quả quản lý để đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã
hội. Chỉ khi phát huy được vai trò trong công tác quản lý nhà nước, khắc
phục được những tình trạng xấu trong công tác quản lý nhà nước thì hoạt
động phạm tội nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt nói riêng mới được đẩy lùi. Xét riêng trên địa bàn huyện Tiên Du
thời gian qua, các cấp, các ngành đã thường xuyên quan tâm đến công tác
quản lý hành chính, quản lý trật tự xã hội trên địa bàn, kịp thời xử lý, trấn
áp tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản cho Nhà nước, cho công dân,
giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, phải tạo ra ý thức tự giác, chủ động phòng ngừa của
mỗi công dân, mỗi gia đình, mỗi cụm dân cư, mỗi thôn xóm, làng bản.
Phải tự ý thức cảnh giác trước hoạt động của bọn tội phạm, mặt khác
chính quyền phải tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào các hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngoài công tác tuyên truyền và giáo dục
pháp luật, chính quyền còn phải xây dựng các khu phố, cụm dân cư văn
hóa, xây dựng các làng xã và gia đình văn hóa. Định kỳ và đột xuất kiểm
tra thủ đoạn phạm tội, những địa điểm thường xuyên xảy ra cướp tài sản,
cần thông báo, thông tin cảnh báo, tăng cường tuần tra. Phải tiếp tục xây
dựng, phát triển phong trào nhân dân tự quản vì trật tự an toàn xã hội; cần
phải vận động và xây dựng lực lượng nòng cốt nhân dân, đó là các tiểu
73
ban bảo vệ, đội ngũ bảo vệ với sự tham gia hoạt động của các đối tượng ra
tù. Lực lượng này phải được tổ chức một cách chặt chẽ và phân công
nhiệm vụ rõ ràng bởi vì lực lượng này là nòng cốt trong công tác tuyên
truyền và vận động quần chúng, là nòng cốt trong công tác đấu tranh
phòng, chống, vây bắt tội phạm ở khu vực dân cư (cướp, cướp giật, cưỡng
đoạt…).
Nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan Điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án trong giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Định kỳ hàng năm, hàng quý (nếu có thể) liên ngành Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án tổ chức tổng kết việc giải quyết các vụ án
cướp tài sản, thống kê kịp thời số vụ, số bị can, bị cáo và những thiệt hại
do tội phạm này gây ra. Trong đó, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, bất
cập trong quá trình giải quyết còn để tìm cách tháo gỡ; nêu ra những
phương thức, thủ đoạn, cách thức hoạt động phạm tội mới, những kinh
nghiệm hay để các đơn vị trao đổi, học hỏi, từ đó nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản,
cướp giật tài sản...
74
Kết luận Chương 3
Nội dung chương 3 của luận văn tập trung phân tích và làm rõ các
yêu cầu bảo đảm việc áp dụng đúng hình phạt tù đối với các tội phạm xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Trên cơ sở những hạn chế được rút
ra, nguyên nhân của những hạn chế đề xuất các giải pháp bảo đảm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng hình phạt tù nói riêng
đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như: hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật liên quan; tăng cường công tác hướng dẫn triển
khai các văn bản; Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng
hình phạt của Toà án; nâng cao năng lực của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm
nhân dân… Các giải pháp trên cần triển khai đồng thời và tùy vào hoàn
cảnh để ưu tiên áp dụng giải pháp nào trước.
75
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, luận văn đã làm rõ được một số vấn đề lý luận về
áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng bao gồm: Phân tích và đưa ra các nguyên tắc áp
dụng hình phạt, các căn cứ áp dụng hình phạt. Phân tích các căn cứ áp
dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu. Bên cạnh đó, luận văn
đã đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và văn
bản hướng dẫn về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, làm rõ được những kết quả đạt
được và những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc và nêu nguyên nhân của
những tồn tại, vướng mắc đó. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu bao gồm
các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về áp dụng
hình phạt nói chung và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả việc
áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Tác giả
mong muốn rằng những kiến nghị trong luận văn này sẽ được các nhà làm
luật xem xét, từ đó có thể hoàn thiện pháp luật hình sự trong đó có các
quy định về áp dụng hình phạt.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận
cơ bản, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 10), trang 7-11.
2. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương giảng dạy sau đại học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước
và Pháp luật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày
22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.
7. Trần Văn Độ (1996), Các nguyên tắc của luật hình sự và quyết định
hình phạt, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (Số 100), tr. 21-27
8. Trần Văn Độ (2019), Chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính
phòng ngừa trong đổi mới tư pháp ở nước ta, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học, Đại học mở, Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, trường đại học Luật Hà Nội.
10. Dương Tuyết Miên (2010), Định tội danh và quyết định hình phạt,
Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
11. Bùi Thị Chinh Phương (2011), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn
về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các
tội phạm, Tập II, Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học về các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
14. Đinh Văn Quế (1992), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đinh Văn Quế (2000), Một số điểm mới của Bộ luật hình sự năm
1999 về hình phạt và quyết định hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân
dân,(số 3).
16. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Hà Nội.
18. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự 1985, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.
20. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung) 2009, Hà Nội.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.
23. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.
25. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung) 2001, Hà Nội.
26. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hà Nội.
27. Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002,
Hà Nội.
28. Trần Văn Sơn (1996), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2014), Báo cáo
tổng kết năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2015.
30. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015), Báo cáo
tổng kết năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2016.
31. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo
tổng kết năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2017.
32. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo
tổng kết năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2018.
33. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo
tổng kết năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2019.
34. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác
xét xử từ năm 2011 đến 2015.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI,
ngày 15/3/2017, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01/HĐTP ngày
19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo số 39/BC-TA ngày
28/8/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của
các Tòa án tại kỳ học thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an và Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/2 hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong Chương XIV - Các tội xâm
phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
16/11/1988 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc quyết
định hình phạt khi bị cáo phạm nhiều tội và bị phạt tù giam, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Chu Thị Trang Vân (2003), Tìm hiểu việc định tội danh và quyết
định hình phạt từ phương diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự cơ bản của Tòa án, Tạp chí Khoa học - Chuyên san Kinh tế -
Luật, (số 3).
42. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình
sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Võ Khánh Vinh (2006), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.