HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN SƯỚNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,

TỈNH BẮC NINH

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN SƯỚNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TIÊN DU,

TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP

DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .......................................................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt................................................................. 7

1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ..................................................... 19

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI

XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT CỦA TÒA

ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH ..................... 27

2.1. Tổng quan thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. 27

2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt và nguyên nhân .......................................... 39

Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

HÌNH PHẠT TÙ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ

TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .............................................................. 56

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 56

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................................... 59

KẾT LUẬN .......................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1. Tổng hợp hình phạt theo BLHS năm 2015 ............................. 22

Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ......................................... 27

Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

(2015 - 2019) ......................................................................................... 29

Bảng 2.3. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 31

Bảng 2.4. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 32

Bảng 2.5. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 33

Bảng 2.6. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội công nhiên chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ........... 34

Bảng 2.7. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ............................. 35

Bảng 2.8. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................ 36

Bảng 2.9. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -

2019) ..................................................................................................... 37

Bảng 2.10. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -

2019) ..................................................................................................... 38

Biểu đồ 2.1: Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019) ................................... 28

Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở

hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 – 2019) ............... 31

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua gần 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt

được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, vẫn

còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường

mang lại là cơ sở phát sinh các loại tội phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt trong đó có tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài

sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong đó có địa bàn huyện

Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tội phạm xâm phạm về trật tự xã hội đang có xu

hướng diễn biến phức tạp hơn, gia tăng cả về số vụ phạm tội và tính chất

của tội phạm, tuy các loại án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng

được kiềm chế, nhưng các loại thường án, án xâm phạm sở hữu vẫn chưa

có giải pháp, biện pháp ngăn chặn hiệu quả, nhất là loại tội phạm trộm cắp

tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những loại tội

phạm chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu,

cũng như chiếm tỷ lệ cao (án trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất) trong

cơ cấu tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.

Theo quy luật hàng năm vào dịp cuối năm, chuẩn bị đón năm mới,

dịp hè, dịp các giải bóng đá trong nước và quốc tế tổ chức thi đấu các loại

tội phạm trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài

sản sẽ gia tăng cả về số vụ và tính chất tội phạm. Đối tượng thực hiện

hành vi phạm tội có xu hướng trẻ hóa, đa phần là đối tượng lưu manh

chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự, có độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 30 tuổi,

phần lớn là nam giới, không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn

định, các đối tượng luôn có xu hướng cấu kết chặt chẽ với nhau thành

băng nhóm, hoạt động liên tuyến, liên tỉnh.

1

Để phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này, việc nghiên

cứu các vấn đề lý luận, phân tích chế tài các quy định của Bộ luật hình sự

đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, đánh giá

thực tiễn áp dụng hình phạt để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định

đối với nhóm tội này theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và bảo

đảm áp dụng đúng đắn trong thực tiễn có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt.

Chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh

Bắc Ninh” để thực hiện Luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trước sự phức tạp của tình hình tội phạm, việc nghiên cứu, đề xuất

vận dụng các lý luận về khoa học hình sự, tố tụng hình sự cũng như tội

phạm học có vai trò rất quan trọng và nhận được sự quan tâm của nhiều

chuyên gia, nhà nghiên cứu. Áp dụng hình phạt tù nói chung và đối với tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng đã được nhiều tác giá

tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích, cụ thể:

Lý luận và thực tiễn nghiên cứu về tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa

học như: 2) ThS. Đinh Văn Quế với tác phẩm “Bình luận Bộ luật hình sự

Phần các tội phạm, Tập II, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu trong

Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản 2002;

Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình

sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà

nước và pháp luật, Hà Nội, 2000; v.v... 5) Lê Tường Vy, Trách nhiệm

hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài sản, Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016...

2

Ở góc độ các Luận án tiến sĩ luật học liên quan đến lý luận và thực

tiễn về hình phạt và quyết định hình phạt, có Luận án về đề tài “Áp dụng

hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Tuyết Miên

đã bảo vệ thành công năm 2003. Ngoài ra còn có các Luận văn thạc sĩ đã

bảo vệ tại khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: “Áp dụng hình phạt

đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của

tác giả Nguyễn Minh Khuê bảo vệ năm 2007; đề tài “Áp dụng hình phạt

trong đồng phạm” của tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010, Luận

văn “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của Nguyễn Văn Chung, bảo vệ tại Học viện

Khoa học xã hội 2018; Luận văn “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của Nguyễn Thanh Liêm, bảo vệ

tại Học viện Khoa học xã hội 2019…

Như vậy, có thể nói, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình

sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan

đến hoạt động áp dụng hình phạt tù, phân tích, đánh giá, nhận định một số

nhận định liên quan đến yếu tố áp dụng hình phạt tù, đồng thời phân biệt

với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc nghiên cứu

trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu… Tuy nhiên, hiện

nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt tù

đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên một địa bàn cụ

thể là địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích lý luận, quy định của pháp luật và đánh giá

thực tiễn áp dụng hình phát tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất

3

chiếm đoạt, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của

pháp luật về hình phạt tù đối với loại tội phạm này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích các quy định pháp

luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt.

- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

- Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt

tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm lý luận, các

quy định của pháp luật về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng năm

năm (05 năm) từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm số liệu thống kê xét

xử sơ thẩm hình sự cấp huyện và các bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019;

- Về cơ sở pháp lý, đề tài đề cập các tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt qui định tại Bộ luật hình sự năm 2015;

- Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện phân tích thực tiễn

trên phạm vi huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

5.1. Phương pháp luận

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên nền tảng chủ nghĩa duy vật

lịch sử, biện chứng, chủ trương, đường lối của Đảng, Tư tưởng Hồ Chí

Minh về chính sách hình sự và cải cách tư pháp tại Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để triển khai nghiên cứu, đề tài vận dụng các phương pháp nghiên

cứu của khoa học hình sự, tố tụng hình sự như phương pháp lịch sử, logic;

phương pháp so sánh, đánh giá các số liệu, ý kiến, quan điểm; nghiên cứu

các vụ án điển hình, các vụ việc điển hình... Tác giả đã sử dụng phương

pháp thống kê để thống kê số liệu về tội phạm và người phạm tội, từ đó để

xác định các thông số của tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hoàn thiện lý luận

về áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Luận văn góp tiếng nói khoa

học về lý luận áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn

Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm

rõ hơn những vi phạm, sai lầm cũng như những nguyên nhân cơ bản của

của những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh, từ đó có những đề xuất, kiến nghị thay đổi của luận văn có

5

thể làm luận chứng khoa học phục vụ tốt hơn cho công tác lập pháp, áp

dụng BLHS liên quan đến nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trong công

tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt

tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù

đúng đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH

PHẠT TÙ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH

CHẤT CHIẾM ĐOẠT

1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù đối với tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt

Theo lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì áp dụng

pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện

pháp luật. Thông qua đó, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp

luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của

chủ thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm

pháp luật và tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các

quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa đã và đang được thiết lập. Có thể nói, áp

dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước

và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện

[3].

Theo Nguyễn Ngọc Chí đã đưa ra định nghĩa khoa học về QĐHP

như sau: “Áp dụng hình phạt là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình

sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã

định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định

khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức

hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới

hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy

7

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người

phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự” [3, tr.19] .

Tuy vậy, về vấn đề này trong khoa học luật hình sự trong và ngoài

nước từ trước đến nay vẫn còn tồn tại hai loại quan điểm khác nhau. Nhìn

chung, các quan điểm đó có thể được chia thành ba loại: 1) Coi hình phạt

là công cụ trừng trị, trả thù người phạm tội; 2) Coi hình phạt là công cụ

phòng ngừa tội phạm; 3) Coi hình phạt không chỉ trừng trị người phạm tội

mà còn là công cụ phòng ngừa tội phạm.

Nguyên tắc pháp chế không chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà

còn thể hiện ở hiệu lực thi hành của hình phạt. Nghiên cứu cho thấy, trong

các blĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án phải giải

quyết, các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông

qua Tòa án. Còn trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án phải thông

qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm

ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình

sự có ảnh hưởng rất lớn đến người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc

quyết định hình phạt như đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố

tụng hình sự đưa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt

đối với người phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước

tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội

phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành

quyền công tố của Nhà nước, thay mặt Nhà nước truy tố bị can và buộc

tội bị cáo trước Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình

tự luật tố tụng hình sự quy định. Hình phạt do Tòa án quyết định phải

được tuyên một cách công khai bằng một bản án và phải là kết quả của

một phiên tòa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố tụng

hình sự quy định.

8

Từ khái niệm chung nêu trên, theo chúng tôi, “ADHP đối với các

tội

1.1.2. Nội dung áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt

1.1.2.1. Đặc điểm chung của nhóm tội phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt

Cũng giống như tất cả các tội phạm khác quy định trong Luật hình

sự, nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có những đặc điểm

chung thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên sự thể hiện các

đặc điểm này có sự khác nhau vì nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt có tính đặc trưng của loại tội phạm mà nó thể hiện.

Các đặc trưng của nhóm tội xâm phạm này như sau:

Đặc trưng đầu tiên của nhóm tội phạm này là tính chất chiếm đoạt

trong quá trình phạm tội, tức là mục đích chiếm đoạt tài sản trong cấu

thành tội phạm mà không phải tội phạm liên quan đến xâm phạm sở hữu

nào cuãng có. Đồng thời, chúng ta có thể hiểu việc chuyển dịch trái pháp

luật tài sản có sự quản lý của của người khác (có chủ sở hữu) thành tài sản

của mình thông qua mục đích hành động, hành vi của người phạm tội.

Thông qua các cách thức, phương pháp khác nhau (thủ đoạn), tội phạm

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đặc điểm chung của tội

phạm về xâm phạm sở hữu. Các hành vi phạm tội luôn là hành động cố ý

trực tiếp với mục đích biến tài sản có chủ sở hữu thành tài sản của mình

thông qua hành động cụ thể.

Việc xác định chính xác hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác

định thời điểm tội phạm hoàn thành (không xem xét dấu hiệu giá trị tài

9

sản chiếm đoạt cũng như các dấu hiệu khác về bị xử phạt vi phạm hành

chính, có tiền án về hành vi chiếm đoạt…) đối với các tội mà dấu hiệu

chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội cụ

thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Bên cạnh đó, khi

xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời

điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc. Theo khoa học

luật hình sự, thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã

thực sự chấm dứt; tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã

thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.

Xem xét việc chiếm đoạt là một quá trình vào quy định đối với từng

tội phạm cụ thể thấy rằng, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực

hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội nhận tài sản từ người phạm

tội nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt qua đúng quy trình bên

trên. Tức là, người phạm tội tiếp cận tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian

dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt. Đối với các tội cướp

giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không nhận

tài sản từ người phạm tội và người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự

chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt

thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi chiếm giữ cũng

là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt là

một. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ

người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của

người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp

cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản.

Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan

của tội phạm nói chung và đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt nói riêng.

10

Có thể nói, yếu tố xác định “lỗi” là một nguyên tắc cơ bản trong

pháp luật hình sự Việt Nam, nên trong các văn bản luật hình sự của nước

ta khi định nghĩa về tội phạm đã nêu rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm

cho xã hội...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”.

Như vậy, theo khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật

hình sự thì hành vi tội phạm chỉ được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.

Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận hình thức lỗi thứ ba, nhưng trong

một số công trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến hình thức

lỗi thứ ba, đó là “lỗi hỗn hợp” tức là vừa vô ý vừa cố ý hoặc cố ý về hành

vi, vô ý về hậu quả. Có thể trong công tác nghiên cứu bản chất của các

hình thức lỗi, có thể đặt vấn đề một người thực hiện hành vi vừa cố ý lại

vừa vô ý (cố ý về hành vi vô ý về hậu quả) như đối với người cố ý vi

phạm các quy định về phòng cháy (có biển cẩm lửa nhưng vẫn hút thuốc)

gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (cháy kho xăng), nhưng việc gây

thiệt hại đến tài sản họ không mong muốn. Trong trường hợp này, lỗi của

người phạm tội cũng chỉ là lỗi vô ý chứ không thể nói cố ý được vì nếu cố

ý thì phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chứ không còn là vô ý

gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nữa.

Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định rõ, nhưng về lý luận

cũng như thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội

phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng có một số

trường hợp cụ thể tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây

thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là

tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không

thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh

truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề

nghiệp hoặc trong sản xuất [28, tr.52-69]. Tuy nhiên, đối với các tội xâm

11

phạm sở hữu, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có

lỗi ít xảy ra.

Thứ ba, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt gây ra có thể là hậu quả kép do xâm phạm hai loại quan hệ xã hội:

thiệt hại chủ yếu là về tài sản nhưng còn có thể xâm phạm đến tính mạng,

sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; xâm phạm đến trật tự an

toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức.

Điều này được thể hiện rất rõ, khi tội phạm xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt khi xảy ra thì ngoài thiệt hại về tài sản, tội xâm phạm

sở hữu có tính chất liếm đoạt còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,

nhân phẩm, danh dự của người bị hại; xâm phạm đến trật tự an toàn xã

hội, khu dân cư; xâm phạm đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ

chức...

1.1.2.2. Áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt

Cũng như các loại tội phạm xâm phạm sở hữu khác, tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt sẽ bị áp dụng hình phạt từ khi các dấu hiệu

phạm tội đủ để cấu thành tội danh với đầy đủ các điều kiện để Tòa án

nhân dân quyết định hình phạt tù sau khi định tội danh. Cụ thể là:

Đầu tiên, Toà án nhân dân các cấp nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án được

Viện kiểm sát chuyển sang qua đó xác định rõ các tình tiết của vụ án xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt liên quan đến quá trình áp dụng hình

phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng. Đó là các tình tiết của vụ án mà

sau khi nghiên cứu, căn cứ vào pháp luật hình sự hiện hành có thể làm căn

cứ cho việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với bị cáo; các

tình tiết của vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là căn cứ để

12

áp dụng hình phạt tù như các tình tiết thể hiện tính chất, mức độ nguy

hiểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã bị kết tội,

các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự

liên quan đến vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra,

Toà án nhân dân các cấp phải xác định các tình tiết khác trong quá trình

xét xử, thu thập bổ sung chứng cứ để quyết định có ADHP trong các

trường hợp đặc biệt liên quan đến tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt (đồng phạm, phạm tội chưa đạt, áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định

của luật, cho hưởng án treo…) hay không.

Thứ hai, Toà án nhân dân theo nhiệm vụ cần nhận thức chính xác

hiệu lực và quy định của pháp luật hình sự hiện hành liên quan đến việc

ADHP tù đối với xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, nhất là chế

tài của tội phạm của phần chung và phần cụ thể. Trong BLHS hiện hành

của nước có rất nhiều quy định liên quan đến ADHP tù đối với các tội

phạm nói chung và xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt mà Toà án

không thể bỏ qua khi áp dụng trong quá trình xét xử như hệ thống các

hình phạt chính và hình phạt bổ sung, nội dung cũng như phạm vi, điều

kiện áp dụng các hình phạt đó đối với từng loại tội phạm cụ thể, trong đó

có tội phạm về xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; các quy định về

căn cứ QĐHP mà Tòa án nhân dân cần phải pháp dụng khi ADHP tù đối

với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt; đặc biệt là chế tài các

quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm cụ thể đã được Toà án

xác định trước đó.

Thứ ba, nội dung tiếp theo là việc Toà án nhân dân lựa chọn ADHP

tù đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt: có căn cứ

miễn TNHS, miễn hình phạt hay không trên cơ sở các tình tiết vụ án,

13

chứng cứ được thu thập trong hồ sơ; nếu không có căn cứ miễn thì loại và

mức hình phạt tù cụ thể áp dụng đối với người bị kết tội xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt;

Thứ tư, ra phán quyết về việc ADHP tù đối với người bị kết tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Đồng thời trong một số trường hợp,

Toà án nhân dân cũng quyết định về việc chấp hành hình phạt tù được áp

dụng như hoãn chấp hành hình phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù có

điều kiện (án treo)... tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

Từ những nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng ADHP tù đối với

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là giai đoạn áp dụng pháp

luật hình sự sau hoạt động định tội danh của Tòa án đối với tội phạm này;

còn QĐHP chỉ là một nội dung cụ thể của hoạt động ADHP tù đổi với tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Vì vậy, nên chăng, từ góc độ

đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật nói dung và ADHP tù nói riêng,

cùng với khái niệm định tội danh, nên sử dụng khái niệm ADHP để bảo

đảm tính chính xác của thuật ngữ, qua đó có tính chất bao trùm.

1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt

Qua việc nghiên cứu khái niệm và nội dung ADHP tù, chúng tôi

thấy ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

có các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, đây là hoạt động ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân

các cấp và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động định tội danh của loại tội

phạm này. Nếu như hoạt động định tội danh của tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt được các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án

14

cùng thực hiện và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng hình sự thì hoạt

động ADHP tù đối với tội phạm này chỉ duy nhất Tòa án được quyền thực

hiện theo quy định của hiến pháp và pháp luật hình sự. Thông qua chức

năng xét xử, Tòa án được Nhà nước giao cho chủ thể duy nhất có quyền

xác định loại hình phạt và mức hình phạt để áp dụng với người phạm tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nên hoạt động này chỉ thông

qua phiên tòa.

Thứ hai, BLHS có qui định về các căn cứ để Tòa án ADHP, tức là

những tiêu chí mà dựa vào đó, Tòa án sẽ lựa chọn được loại hình phạt và

mức hình phạt phù hợp với trường hợp cụ thể của mỗi bị cáo, trên cơ sở

đánh giá tổng thể các yếu tố về khách quan, chủ quan, về con người, tâm

lý... với mục đích đạt được là hình phạt tù sẽ không chỉ là “cái giá” mà bị

cáo phải gánh chịu do hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

của mình mà còn là “cơ hội” để bị cáo đó có khả năng phục thiện, tái hóa

nhập cộng đồng sau khi thực hiện các quyết định của Tòa án.

Thứ ba, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt của Toà án nhân dân mang tính lựa chọn và tính tuỳ nghi cao.

Khi ADHP tù, Toà án nhân dân sẽ lựa chọn một trong các hình phạt chính

được quy định trong pháp luật hình sự hiện hành đối với người bị kết tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra, chế tài Tòa án lựa

chọn, các chế tài quy định về từng loại hình phạt tù đều có một khoảng

tuỳ nghi nhất định và Toà án có quyền quyết định mức cụ thể trong phạm

vi tuỳ nghi đó khi ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt. Khả năng lựa chọn rộng, tuỳ nghi cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ

tham gia tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải có trình

độ, kỹ năng, phẩm chất và bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng và

lương tâm, đạo đức trong sáng vì công lý... để có thể trong từng trường

15

hợp cụ thể lựa chọn hình phạt tù hợp lý áp dụng với người bị kết tội tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật hình sự hiện

hành.

Thứ tư, ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt còn có điểm đặc thù so với việc ADHP tù đối với nhóm các tội

phạm khác xuất phát từ đặc điểm của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt. Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành các tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm

cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp người khác, thực hiện

dưới hình thức lỗi cố ý, vô ý gây thiệt hại không chỉ về tài sản cho cá

nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tinh thần của

con người.

1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt

1.1.4.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội

Ý nghĩa của ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt thể hiện trong lĩnh vực chính trị - xã hội là tăng cường phòng

ngừa, phòng chống tội phạm nếu việc ADHP tù của Tòa án thực hiện

đúng theo quy định của pháp luật và chức năng xét xử của Tòa án. Việc

ADHP hiệu quả, đúng người, đúng tội, tương ứng với hình phạt phù hợp

thì sẽ thể hiện được tính hiệu lực của hình phạt. Mối quan hệ chặt chẽ

giữa sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình sự và hiệu

quả ADHP tù đối với tội phạm nói chung và tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt là rất rõ. Nếu hệ thống văn bản pháp luật hình sự về tội

phạm, hệ thống văn bản pháp luật về tố tụng hình sự toàn diện và phù hợp

thì việc ADHP tù sẽ nhanh và bảo đảm được mục đích của hình phạt hơn.

16

Trong xã hội ta, tuyệt đại đa số nhân dân không vi phạm pháp luật

hình sự, không phải do sợ hình phạt mà lý do chính thuộc về ý thức tôn

trọng pháp luật và tinh thần đấu tranh không dung thứ của họ đối với tội

phạm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác

nhau mà xã hội còn một bộ phận những công dân không vững vàng, dễ bị

lôi kéo vào con đường vi phạm pháp luật, thậm chí nghiêm trọng là phạm

tội. Với bộ phận công dân này, tác dụng răn đe và giáo dục của hình phạt

để ngăn ngừa tội phạm được đưa lên hàng đầu trong mục đích phòng ngừa

chung của hình phạt.

Bên cạnh đó, việc ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt không đúng hoặc có những sai sót trong quá trình tố

tụng thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến bản thân nạn nhân cũng như người bị

kết án. Đồng thời, việc này cũng tạo ra những dư luận, những nhìn nhận

không hài lòng về cơ quan xét xử, ảnh hưởng đến uy tín và tính chất đại

diện Nhà nước của Tòa án trong công tác xét xử.

1.1.4.2. Ý nghĩa pháp lý

ADHP tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

là một hoạt động quan trọng của Tòa án nhân dân các cấp, thông qua hoạt

động này các hình phạt cụ thể đã được BLHS quy định sẽ được áp dụng

đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến tội này.

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nên Hiến pháp,

Luật tổ chức Tòa án, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự đều khẳng

định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và quyết định hình phạt với

người phạm tội theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ ào quy định của Bộ luật Hình sự

17

và Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính

xác, khách quan, bảo đảm không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết

tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo quy định của pháp luật nước ta,

chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự bằng hình phạt.

Quy định này còn thể hiện sự thống nhất giữa tội phạm và hình phạt. Tội

phạm là cơ sở phải chịu hình phạt, ngược lại hình phạt là hậu quả pháp lý

của tội phạm nhằm trừng trị vào giáo dục người phạm tội, giáo dục người

khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. [41, tr.115-

116]. Trong BLHS hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các

tội phạm. Vì vậy, khi áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu

nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi khi xét xử về tội cụ thể nào của

Chương XIV thì trước hết phải căn cứ vào các điều luật cụ thể đó, ngoài

việc phải tuân thủ các nguyên tắc khác và các quy định khác của Hiến

pháp và pháp luật hình sự trong áp dụng hình phạt.

1.1.4.3. Ý nghĩa phòng ngừa

Mục đích của hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng

pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nội dung của mục

đích này không nhằm vào người hoặc pháp nhân phạm tội mà nhằm vào

cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa. Mọi người hoặc

pháp nhân thương mại phạm tội nhìn vào hình phạt để có những xử sự

đúng đắn, tôn trọng pháp luật , nếu không họ cũng có thể bị xử phạt như

người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để

áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, đồng thời

nhắc nhở mọi người hoặc pháp nhân thương mại trong cộng đồng xã hội

chớ có phạm tội, nếu có ý định phạm tội thì phải dừng lại, nếu không

dừng ắt phải chịu hậu quả thích đáng. Đặt ra mục đích này vừa có tính răn

đe, vừa có tính chất giáo dục để mọi người hoặc pháp nhân thương mại

18

tránh xa nó. Do đó, Tòa án không được đề cao hay coi nhẹ mặt nào mà

phải đặt trong mối liên hệ tổng quát trên cơ sở các căn cứ áp dụng hình

phạt để áp dụng một hình phạt cụ thể tương xứng dành cho người đã thực

hiện hành vi phạm tội.

1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt tù đối

với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

1.2.1. Quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến áp dụng hình

phạt tại phần chung

1.2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt tù

Theo quy định của BLHS hiện hành, hình phạt tù có thời hạn là việc

buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời

hạn nhất định theo quy định của pháp luật đối với từng loại tội phạm. Như

vậy, về bản chất pháp lý hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế

tước quyền tự do của người bị kết án trong thời hạn do Toà án quyết định

trong phạm vi và giới hạn pháp luật quy định. BLHS hiện hành quy định

giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn: Thời hạn tối thiểu

của hình phạt tù là 03 tháng. Trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta, đã

có thời kỳ thời hạn tối thiểu của hình phạt tù được quy định ngắn hơn (01

tháng, 10 ngày, thậm chí 07 ngày). Sở dĩ như vậy là vì người ta cho rằng

phạt tù là hình phạt nghiêm khắc, nên tước tự do thân thể của một người ở

các mức độ đó là đủ để người phạm tội “trả giá” cho hành vi của mình.

Thời hạn tối đa của hình phạt tù được quy định khác nhau tùy từng tội

phạm cụ thể trong pháp luật hình sự hiện hành.

Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tù có thời hạn thì [21]:

1.Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt

tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.

19

2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu

phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

Điều 38 BLHS quy định tù có thời hạn đối với người phạm một tội

có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù.

So với hình phạt cải tạo không giam giữ thì tù có thời hạn trong

quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam có nội dung cưỡng chế

nghiêm khắc hơn nhiều và cơ sự trừng trị thích đáng theo đúng người,

đúng tội. Nếu như hình phạt cải tạo không giam giữ tác động đến người bị

kết án mà không cần phải cách ly họ khỏi xã hội thì đối với hình phạt tù

có thời hạn người bị kết án sẽ bị giam giữ trong một môi trường (trại

giam) chịu sự chi phối của những quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt

của pháp luật hình sự..

Trên cơ sở quy định chung, pháp luật hình sự hiện hành quy định

các chế tài cụ thể áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với từng loại tội

phạm cụ thể theo quy định. Có thể thấy, đại đa số chế tài các tội phạm

thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt

nghiêm trọng đều có quy định hình phạt tù có thời hạn với các mức án

khác nhau từ tối thiểu (03 tháng) đến tù chung thân.

1.2.1.2. Quy định về quyết định hình phạt

Căn cứ quyết định hình phạt: Các tội được quy định trong Bộ luật

hình sự 2015 quy định hình phạt đối với người phạm tội khá rộng chẳng

hạn như: Phạt cải tạo giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến

ba năm ; Phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Vậy trong những trường

hợp này Hội đồng xét xử vụ án sẽ căn cứ vào những yếu tố nào để quyết

định hình phạt phù hợp với người phạm tội. Căn cứ quyết định hình phạt

20

đối với người phạm tội: Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:

1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ

luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

trách nhiệm hình sự.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại

khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành

của người phạm tội [21].

Hội đồng xét xử sẽ quyết định hình phạt dựa vào các yếu tố sau:

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

của bị cáo thông qua hồ sơ vụ án, hậu quả gây ra... Dấu hiệu này được thể

hiện qua động cơ phạm tội, yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, hung khí sử dụng khi

phạm tội…; Nhân thân người phạm tội, yếu tố này được xem xét thông

qua việc người phạm tội đã từng phạm tội hay chưa? Ý thức chấp hành

các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng; Các

tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các trường

hợp tội phạm cụ thể. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nói chung sẽ được áp

dụng theo quy định tại điều 51, điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017) [21]. Tuy nhiên những tình tiết này nếu đã được

coi là tình tiết xác định tội, định khung hình phạt thì không được coi là

tình tiết giảm nhẹ.

Như vậy tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, bị cáo cần dựa vào 3

yếu tố chủ yếu ở trên để phản biện lại ý kiến của Đại diện viện kiểm sát…

21

cũng như nêu quan điểm ý kiến trước Hội đồng xét xử để đảm bảo quyền

lợi cho mình.

Quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt: Người

phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy

định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án nhân dân các

cấp được quyền quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt quy định trong trường hợp cụ thể theo pháp luật hình sự hiện hành.

Quy định về tổng hợp hình phạt: Trong trường hợp một người phạm

nhiều tội, được xét xử trong cùng 01 lần thì Tòa án quyết định hình phạt

với từng tội và tổng hợp theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015

như sau:

Đối với hình phạt chính, tổng hình phạt chung sẽ được tính như sau

[21]:

Bảng 1.1. Tổng hợp hình phạt theo BLHS năm 2015

STT Hình phạt riêng Hình phạt chung

- Cộng tổng mức phạt Đều là cải tạo không giam 1 giữ - Không quá 03 năm

- Cộng tổng mức phạt

2 Đều là tù có thời hạn - Không quá 30 năm

- Cộng tổng mức phạt

Hỗn hợp gồm cả cải tạo - 03 ngày cải tạo không giam giữ = 3 không giam giữ và tù có 01 ngày tù có thời hạn thời hạn

- Không quá 30 năm

22

Hình phạt nặng nhất là 4 Tù chung thân chung thân

Hình phạt nặng nhất là tử 5 Tử hình hình

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

Tuy nhiên, phạt tiền và trục xuất không tổng hợp với các hình phạt

khác. Hình phạt bổ sung được tính như sau: Hình phạt riêng là cùng loại

thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn của Bộ luật Hình sự

với từng loại hình phạt đó. Hình phạt riêng là khác loại thì người bị kết án

phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên theo quy định của pháp luật

hình sự hiện hành. Các khoản tiền trong hình phạt riêng được cộng lại

thành hình phạt chung theo quy định.

1.2.2. Quy định chế tài các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt Phần các tội phạm

Theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định hình

phạt cụ thể đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt:

- Tội cướp tài sản (Điều 168) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ ba

năm đến mười năm; khoản 2 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm;

khoản 3 bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm; khoản 4 - bị phạt

tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân. So với BLHS năm

1999 thì tội phạm cướp tài sản đã không bị áp dụng hình phạt tử hình tại

Khoản 4 Điều 168 của BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, tại Khoản 5, BLHS

năm 2015 có quy định “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01

năm đến 05 năm” thể hiện rõ quan điểm phòng, ngừa đối với hành vi

phạm tội trên [21].

23

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169) quy định khoản 1 -

bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 2 - bị phạt tù từ năm năm đến

mười hai năm; khoản 3 - bị phạt tù từ mười năm đến mười tám năm;

khoản 4 - bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung

thân và khoản 6 - người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu

đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản,

phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm [21].

Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ

một năm đến năm năm; khoản 2 - bị phạt tù từ ba năm đến mười năm;

khoản 3 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ

mười hai năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể

bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần

hoặc toàn bộ tài sản [21].

Tội cướp giật tài sản (Điều 171) quy định khoản 1 - bị phạt tù từ

một năm đến năm năm; khoản 2 - phạt tù từ ba năm đến mười năm; khoản

3 - phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười

hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân và khoản 5 - người phạm

tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng

[21].

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172) quy định khoản 1 - bị

phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy

năm; khoản 3 - bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị

phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng. So với

quy định tại BLHS năm 1999 thì Điều 172 đã lược bỏ áp dụng hình thức

tù chung thân đối với loại tội phạm này [21].

24

Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) quy định khoản 1 - phạt tù từ sáu

tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 -

bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai

năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) quy định khoản 1 - bị

phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba

năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 - bị phạt tù từ

bảy năm đến mười lăm năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai năm đến hai

mươi năm hoặc tù chung thân và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị

phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần

hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định từ một năm đến năm năm [21].

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) quy định

khoản 1 - bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba

tháng đến ba năm; khoản 2 - bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm; khoản 3 -

bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm; khoản 4 - bị phạt tù từ mười hai

năm đến hai mươi năm và khoản 5 - người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức

vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm

năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình

phạt này [21].

25

Kết luận chương 1

Kết quả nghiên cứu tại chương 1 của luận văn tập trung làm rõ

những vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chất

chiếm đoạt như khái niệm, đặc điểm về loại tội phạm này. Phân tích

những đặc điểm chung nhất về nhóm tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có

tính chất chiếm đoạt. Bên cạnh đó, để làm rõ cấu thành của loại tội phạm

này, nội dung chương 1 tập trung phân tích các dấu hiệu pháp lý của loại

tội phạm này. Quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt tù đối

với loại tội phạm này từ Điều 168 đến Điều 175 đã xác định các mức phạt

tù đối với từng hành vi phạm tội liên quan.

26

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI TỘI XÂM

PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

2.1. Tổng quan thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh

2.1.1. Kết quả thụ lý và xét xử đối với tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt

Theo số liệu thống kê, số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội

xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015

đến năm 2019 diễn biến như sau:

Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Kết quả thụ lý các Các tội xâm phạm

tội xâm phạm sở sở hữu có tính Tỷ lệ

hữu chung chất chiếm đoạt Năm

Số vụ án Số bị Số vụ án Số bị c/a d/b (a) cáo (b) cáo (d) (c)

2015 78 96 51 53,85 53,13 42

2016 72 91 49 56,94 53,85 41

2017 76 83 48 57,89 57,83 44

2018 82 101 66 62,19 65,35 51

2019 71 84 48 54,93 57,14 39

455 57,26 57,58 Tổng 379 217 262

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

27

Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy, trong thời gian 5 năm (từ

2015 đến 2019), Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử

886 vụ án với 941 bị cáo, trong đó xét xử 379 vụ án với 455 bị cáo về các

tội XPSH. Số vụ án mà TAND huyện Tiên Du xét xử có diễn biến tăng

giảm từ năm 2015 đến năm 2019. Đối với các tội XPSH năm 2018 xảy ra

nhiều nhất với 51 vụ án và 66 bị cáo, năm 2019 xảy ra ít nhất với 39 vụ án

và 48 bị cáo. Bảng 2.1 cho thấy tổng số vụ án và số bị cáo liên quan đến

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chiếm đa phần các vụ án

liên quan đến tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

70

66

60

51

51

49

48

48

50

44

42

41

39

Ninh.

40

30

20

10

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Số vụ án

Số bị cáo

Biểu đồ 2.1: Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

2.1.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt

28

Với đặc điểm là địa bàn có vị trí chiến lược, là cửa ngõ kết nối

nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng… đồng thời, huyện Tiên Du

nói riêng, tỉnh Bắc Ninh nói chung đang có sự bứt phá nhanh chóng trong

phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt công ty được thành lập với việc

tuyển dụng lao động ồ ạt nên một lượng lớn người lao động là người nhập

cư đã sinh sống và làm việc trên địa bàn. Cùng với sự phát triển nhanh

chóng của kinh tế do quá trình công nghiệp hóa nói chung trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh, thì tình hình tội phạm nói chung, tội phạm liên quan đến

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ngày càng có xu hướng gia

tăng, có diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn khác nhau gây ra những

ảnh hưởng rất lớn đến tài sản, sức khỏe của các cá nhân, tổ chức trên địa

bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn vừa qua.

Từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh

Bắc Ninh đã đưa ra xét xử 217 vụ án với 262 bị cáo về các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt với các loại và mức hình phạt được thể

hiện như sau:

Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

(2015 - 2019)

TT Hình phạt 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

1 Tù 03 năm trở xuống 34 35 32 44 24 169

2 Tù từ 3 đến dưới 7 11 9 8 9 13 50

năm

3 Tù từ 7 đến dưới 15 6 4 6 9 8 33

năm

4 Tù trên 15 năm 0 1 2 4 3 10

29

5 Tù chung thân 0 0 0 0 0 0

Tổng 51 49 48 66 48 262

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Qua bảng số liệu 2.2 trên cho thấy, loại hình phạt chính được Tòa

án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử các

vụ án xảy ra trên địa bàn huyện Tiên Du áp dụng đối với tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt từ năm 2015 đến năm 2019 chỉ là hình phạt tù

có thời hạn, các loại hình phạt khác không áp dụng. Trong tổng số 262 bị

cáo bị xét xử thì mức hình phạt chính được Tòa án áp dụng nhiều nhất là

phạt tù đến 03 năm với 169 bị cáo chiếm tỷ lệ 64,5%; tù từ trên 03 năm

đến 07 năm với 50 bị cáo chiếm tỷ lệ 19,82%; tù từ trên 07 năm đến 15

năm với 33 bị cáo chiếm tỷ lệ 12,59%; tù trên 15 năm là 3,82%. Có thể

nhận thấy rằng, các cơ quan xét xử đã áp dụng hình phạt tù rất nhiều trong

quá trình áp dụng hình phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, việc áp dụng các

0

3,82

12,95

19,82

64,5

Tù dưới 03 năm

Tù từ 7 đến dưới 15 năm

Tù từ 3 đến 7 năm

Tù trên 15 năm

Tù chung thân

hình phạt khác còn hạn chế.

30

Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng về mức hình phạt chính của các tội xâm phạm sở

hữu trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 – 2019)

Loại hình phạt bổ sung được Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh

Bắc Ninh áp dụng khi xét xử các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2015 đến

năm 2019 chủ yếu là hình phạt tịch thu tài sản, phạt tiền, các loại hình

phạt khác không áp dụng. Việc áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn

trên địa bàn huyện Tiên Du cho thấy, trong tổng số 262 bị cáo bị xét xử

thì có 26 bị cáo bị Tòa án áp dụng hình phạt bổ sung chiếm tỷ lệ 10%.

Cơ cấu về mức hình phạt của từng loại tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019 chủ yếu

tập trung vào các tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản,

trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản…

Bảng 2.3. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

sung Số bị

Năm cáo bị Tịch thu Từ 03 Tù cho Từ 03 năm Tù từ 07 xét xử tài sản, năm hưởng đến dưới năm đến phạt trở án treo 07 năm 15 năm tiền xuống

2015 4 0 1 0 0 3

2016 6 0 2 0 1 3

31

3 3 0 0 2017 6 0

5 3 1 2 2018 9 0

5 2 1 1 2019 8 0

2 4 0 Tổng 33 19 11

0 Tỷ lệ (%) 100 57,57 33,33 6,06 12,12

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Kết quả tổng hợp từ Bảng 2.3 cho thấy cơ cấu tội xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn 2015 -

2019 cho thấy: Tội cướp tài sản với 33 bị cáo được Tòa án nhân dân các

cấp xét xử trong đó 19 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm

chiếm tỷ lệ 57,57% tổng số bị cáo; tiếp đến là 11 bị cáo bị áp dụng mức

hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 33,33%; 2 bị cáo bị áp

dụng mức hình phạt tù tù trên 7 năm đến 15 năm chiếm tỷ lệ 6,06%. Áp

dụng hình phạt bổ sung đối với 4 bị cáo chiếm 12,12%.

Bảng 2.4. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cưỡng đoạt tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

sung Số bị

Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm

2015 2 0 1 1 0 0

32

1 2 1 1 2016 4 0

2 1 1 0 2017 4 0

1 4 1 1 2018 6 0

1 4 0 1 2019 5 0

6 12 3 3 Tổng 21 0

0 Tỷ lệ % 100 57,14 28,57 14,28 14,28

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt từ đối với tội cưỡng đoạt tài sản:

Có 21 bị cáo bị xét xử trong đó 0 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù cho

hưởng án treo; 12 bị cáo bị phạt dưới 03 năm tù chiếm 57,14%; 6 bị cáo

bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 28,57%

và 03 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù từ 7 năm đến dưới 15 năm chiếm

14,28%. Áp dụng hình phạt bổ sung đối với 03 bị cáo chiếm 14,28%.

Bảng 2.5. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình

phạt bổ Hình phạt tù

sung Số bị

Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm

2015 5 0 3 2 0 0

2016 5 0 2 3 0 0

33

2017 6 0 3 2 1 1

2018 7 0 3 3 1 1

2019 3 0 2 1 0 0

Tổng 26 0 13 10 2 2

0 Tỷ lệ % 100 50,00 38,46 7,69 7,68

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt từ đối với Tội cướp giật tài sản

trên địa bàn huyện Tiên Du giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy: Có 26 bị cáo

bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó 13 bị cáo bị áp dụng mức hình

phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 50,00%; 10 bị cáo bị áp dụng mức hình

phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ 38,46%.

Bảng 2.6. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội công nhiên chiếm đoạt

tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình phạt Hình phạt tù bổ sung

Số bị

Từ 03 Từ 03 Năm cáo bị Tù cho Tù từ 07 Tịch thu tài năm năm đến xét xử hưởng năm đến sản, phạt trở dưới 07 án treo 15 năm tiền xuống năm

2015 0 0 0 0 0 0

2016 0 0 0 0 0 0

2017 1 0 1 0 0 0

2018 0 0 0 0 0 0

2019 0 0 0 0 0 0

34

Tổng 1 0 0 0 0 0

Tỷ lệ % 100 0 1 0 0 0

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Hành vi chiếm đoạt tài

sản công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc

lợi dụng hoàn cảnh khác như thiên tai,, hỏa hoạn, chiến tranh… (khác với

tội cướp giật ở chỗ không cần sự nhanh chóng). Trong giai đoạn 2015 -

2019, trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có 01 bị cáo bị xét xử bị

cáo bị áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 100%.

Bảng 2.7. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

Số bị sung

Năm cáo bị

Tù cho Từ 03 Từ 03 năm Tù từ 07 Tịch thu xét xử

hưởng năm trở đến dưới năm đến tài sản,

án treo xuống 07 năm 15 năm phạt tiền

2015 27 0 18 7 2 1

2016 31 0 17 12 2 1

2017 27 0 16 11 0 2

2018 33 0 15 18 1 1

35

13 12 3 3 2019 28 0

79 60 8 8 Tổng 146 0

Tỷ lệ 0 100 54,11 41,09 5,48 5,48 %

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội trộm cắp tài sản:

Có 146 bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó có 79 bị cáo bị

áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 54,11% tống số bị cáo

xét xử; 60 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm

chiếm tỷ lệ 41,09% tổng số bị cáo. Đối với việc áp dụng hình phạt bổ

sung cho 8 bị cáo chiếm 5,48%.

Bảng 2.8. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 - 2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

sung Số bị

Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm

2015 1 0 0 0 0 1

2016 1 0 0 0 0 1

2017 2 0 0 1 1 1

2018 3 0 0 1 1 2

36

2019 1 0 1 0 0 0

Tổng 8 5 3 0 2 0

0 0 Tỷ lệ % 100 62,5 37,5 25,00

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội lừa đảo chiếm đọat

tài sản: Có 8 bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp xét xử trong đó 5 bị cáo bị

áp dụng mức hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 62,5% tống số bị cáo;

Tiếp đến là có 03 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ trên 3 năm đến 7

năm chiếm tỷ lệ 37,5% tổng số bị cáo xét xử. Đối với việc áp dụng hình

phạt bổ sung đối với quá trình xét xử cho 2 bị cáo chiếm tỷ lệ 25%.

Bảng 2.9. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -

2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

sung Số bị

Năm cáo bị Từ 03 Tù cho Từ 03 Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm đến hưởng năm trở năm đến tài sản, dưới 07 án treo xuống 15 năm phạt tiền năm

2015 1 0 0 0 0 1

2016 1 0 0 0 1 0

2017 2 0 0 0 1 1

2018 2 0 0 0 2 0

37

2019 3 1 1 1 0 0

Tổng 9 3 5 1 0 0

Tỷ lệ % 100 33,33 55,66 22,22 0 0

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Đối với cơ cấu áp dụng hình phạt tù đối với Tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đọat tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du trong giai đoạn 2015 –

2019 cho thấy: Có 9 bị cáo bị xét xử trong đó 3 bị cáo bị áp dụng mức

hình phạt tù đến 3 năm chiếm tỷ lệ 33,33%; 5 bị cáo bị áp dụng hình phạt

từ 3 đến 7 năm chiếm 55,66% và 1 bị cáo bị áp dụng mức phạt tù từ 7 đến

15 năm chiếm 22,22%.

Bảng 2.10. Mức hình phạt được áp dụng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015 -

2019)

Hình

Hình phạt tù phạt bổ

sung Số bị

Năm cáo bị Từ 03 Từ 03 Tù cho Tù từ 07 Tịch thu xét xử năm năm đến hưởng năm đến tài sản, trở dưới 07 án treo 15 năm phạt tiền xuống năm

2015 0 0 0 0 0 0

2016 0 0 0 0 0 0

2017 1 0 0 1 0 0

2018 1 0 0 0 1 0

38

2019 1 1 0 0 0 0

Tổng 3 2 1 0 0 0

Tỷ lệ % 100 66,67 33,33 0 0 0

(Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản: Có 3 bị cáo bị xét xử

trong đó 2 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù dưới 3 năm chiếm 66,67%;

1 bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm chiếm tỷ lệ

33,33%.

Bên cạnh đó, giai đoạn 2015 – 2019, trên địa bàn huyện Tiên Du

không xảy ra các tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong thời gian 05

năm trên địa bàn chưa xảy ra trường hợp nào.

Nhìn chung, với tinh thần thượng tôn pháp luật, trong giai đoạn

2015 - 2019, khi áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, các Hội đồng xét xử đã

nêu cao tinh thần trách nhiệm, thận trọng khi áp dụng pháp luật trong quá

trình tố tụng, áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng, tuy

nhiên thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn các sai sót về vận dụng các căn cứ

quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, cho

hưởng án treo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…

2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và nguyên nhân

2.2.1. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

Có thể thấy hạn chế trong giải quyết các vụ án liên quan đến các tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đó là vẫn còn tình trạng án có

39

kháng cáo, bị kháng nghị của TAND hai cấp bị cấp phúc thẩm, giám đốc

thẩm sửa, hủy do lồi chủ quan, bị Viện kiểm sát kiến nghị về việc khắc

phục một số vi phạm trong việc chuyển giao bản án, ra quyết định thi

hành án, áp dụng điều luật không đúng; cơ quan thi hành án dân sự đề

nghị giải thích bản án hoặc đính chính, bổ sung bản án.

Chưa khắc phục triệt để số thẩm phán, thư ký còn nợ bằng tốt

nghiệp đại học luật. Quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự đồng

bộ và rõ ràng, nhất là đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt, cùng một hành vi phạm tội nhưng các cơ quan tiến hành tố

tụng đã có những nhận thức khác nhau xung quanh vấn đề định tội danh

nên trong thực tiễn áp dụng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, vi phạm nguyên tắc công bằng trong luật hình

sự.

Số lượng các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày càng có xu hướng tăng nhiều

với tính chất phức tạp, đa dạng và thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm

nên các cơ quan tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành điều

tra, truy tố, xét xử và áp dụng hình phạt tù.

Trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án, số các bản án, quyết

định bị hủy, cải sửa còn nhiều, phần lớn sai sót là do: Xét xử sơ thẩm hình

sự chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo; chưa làm

rõ hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá chứng cứ thiếu chính xác, toàn

diện hoặc giải quyết bồi thường không đúng theo quy định của Bộ luật

dân sự, một số ít trường hợp xét xử còn nặng hoặc nhẹ, chưa đánh giá đầy

đủ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Do đó, dẫn đến bản án bị hủy,

cải sửa.

40

Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của một số ít Tòa án

cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay, các vụ án bị

hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán còn nhiều; việc hủy án của Tòa án

cấp phúc thẩm đối với bản án, quyết định Sơ thẩm còn một số trường hợp

thiếu thuyết phục; việc hoãn phiên tòa một số ít trường hợp không đúng

theo quy định của pháp luật; việc hủy án của Tòa án cấp trên còn một số ít

vụ án thiếu thuyết phục, không phải là mẫu mực cho Tòa án cấp Sơ thẩm

học tập.

Công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho

cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân mặc dù đã được quan

tâm đẩy mạnh nhưng cũng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đề ra; chưa thực

hiện các chuyên đề rút kinh nghiệm về các vướng mắc, sai sót trong việc

giải quyết, xét xử vụ án hình sự, chưa thực sự đổi mới trong công tác này.

Việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt tù đối với

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật đối với hoạt động này chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trên

địa bàn huyện Tiên Dung cũng như tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù có rất nhiều

vướng mắc cần được hướng dẫn áp dụng, nhưng cơ quan có chức năng

liên quan đến hoạt động áp dụng hình phạt tù còn chậm ban hành các nghị

quyết để hướng dẫn, tháo gỡ, giải quyết vướng mắt cho các cơ quan xét

xử bên dưới.

Công tác tuyển dụng cán bộ nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng

yêu cầu của biên chế và của công việc. Nhiều địa phương nhất là vùng sâu

vùng xa còn gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển chọn cán bộ vì không có

nguồn cán bộ; Việc xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật chưa

kịp thời, một số cán bộ địa phương vi phạm phẩm chất đạo đức như: làm

41

trái nguyên tắc quản lý hành chính, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản, có sai sót trong xét xử.

Công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự tuy được

các đơn vị triển khai và thực hiện thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao.

Việc giải quyết đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân

tối cao tuy đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu

do số lượng đơn ngày càng tăng và khả năng giải quyết có hạn. Việc triển

khai tổng kết thực hiện các Thông báo, các biện pháp để đẩy nhanh tiến

độ và hiệu quả giải quyết đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm là một

trong những nhiệm vụ đặt ra từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được.

Do cơ chế cung cấp vốn chưa phù hợp nên việc đầu tư, xây dựng cơ

bản còn dàn trải, một số công trình chưa đảm bảo chất lượng; việc đầu tư

cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác xét xử còn thiếu

thốn.Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử và ADHP đối với các tội XPSH của

TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong 5 năm trở lại đây (từ năm

2012 đến năm 2016) cho thấy việc QĐHP không đúng do những nguyên

nhân chủ quan và khách quan khác nhau nhưng nguyên nhân chính và chủ

yếu là do các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi ADHP đã không tuân

thủ và áp dụng đúng các căn cứ QĐHP.

Có thể hệ thống những hạn chế, sai sót trong ADHP tù đối với tội

phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt của TAND huyện

Tiên Du như sau:

- Hạn chế trong xác định các tình tiết của vụ án liên quan đến

ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. hoàn cảnh nhân thân bị cáo để giảm

nhẹ hoặc tăng nặng TNHS đối với bị cáo.

42

Trong quá trình thực hiện việc áp dụng hình phạt tù dưới mức thấp

nhất của khung hình phạt chưa đúng quy định của BLHS quy định QĐHP

nhẹ hơn quy định của Bộ luật là trong trường hợp khi có ít nhất hai tình

tiết giảm nhẹ thuộc Khoản 1 Điều 46 BLHS, Tòa án nhân dân các cấp có

thể quyết định một hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ

hơn của điều luật… Thực tiễn nghiên cứu ADHP tù đối với tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh, tác giả nhận thấy các trường hợp quyết định một hình phạt dưới

mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định đều có căn

cứ và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều trường hợp bị cáo có

hai thậm chí hơn hai tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng

không được áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

- Hạn chế trong áp dụng loại và mức hình phạt:

Loại và mức hình phạt được áp dụng là quá nghiêm khắc, chưa thể

hiện được chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa,

giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù của Nhà nước

ta và được thể hiện khá cụ thể trong BLHS. Cụ thể là:

+ Trong 4/7 tội xâm phạm sở hữu được xét xử tại Toà án huyện

Tiên Du có chế tài lựa chọn giữ hình phạt tù và Cải tạo không giam giữ,

nhưng Toà án chỉ áp dụng duy nhất hình phạt tù; Cải tạo không giam giữ

không được áp dụng;

+ Có 169/262 (65%) bị cáo bị kết án từ 3 năm tù trở xuống, nhưng

không có bị cáo nào được hưởng án treo;

43

+ Chế tài các tội phạm đều có quy định hình phạt bổ sung, nhất là

phạt tiền, nhưng các hình phạt đó không được áp dụng.

- Hạn chế ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp phạm

nhiều tội, trong tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 124/2016/HSST ngày 31/7/2016 của

TAND huyện Tiên Du xử phạt các bị cáo Quy và Nhân về tội “Cướp tài

sản” theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành còn hiệu lực. Ngày

28/9/2012, Chánh án TAND huyện Tiên Du sau khi nghiên cứu các quy

định, hồ sơ vụ án, kết quả xét xử đã ban hành Quyết định tổng hợp hình

phạt số 260-261/2012/ QĐ-THHP đối với các bị cáo nhưng lại không tổng

hợp hình phạt đối với bị cáo Nhân và bị cáo Quy đã tuyên tại Bản án

HSST số 87/2016/HSST ngày 20/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tiên

Du là chưa đầy đủ.

- Hạn chế trong ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong trường hợp

chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

Khoản 2 và Khoản 3 Điều 57 BLHS 2015 quy định rất rõ về mức án

đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nhưng trong thực

tiễn ADHP tù đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có nhiều bản án mặc dù đã áp dụng

quy định này nhưng khi áp dụng hình phạt lại không tính đến mức án

không quá ½ mức hình phạt mà điều luật quy định đối với trường hợp

chuẩn bị phạm tội và ¾ mức hình phạt mà điều luật quy định đối với

trường hợp phạm tội chưa đạt.

44

Ví dụ 4: Tại nội dung bản án sơ thẩm số 67/2018/HSST ngày

25/5/2018 của TAND huyện Tiên Du xét xử vụ án “trộm cắp tài sản” theo

Điều 171 BLHS với nội dung như sau: Khoảng 06 giờ 00 ngày

24/02/2018 Nguyễn Văn Nguyên gặp đối tượng tên Hùng, không rõ lai

lịch. Hùng rủ Nguyên đi trộm bình ắc quy, Nguyên đồng ý. Hùng giao xe

máy không rõ biển số cho Nguyên điều khiển, đến trước Nghĩa trang liệt

sỹ huyện Tiên Du phát hiện xe tải thùng biển số 99C-50197. Nguyên dừng

xe cảnh giới cho Hùng dùng cờ lê để mở bình ắc quy, Hùng không mở

được nên đưa cờ lê cho Nguyên đến xe mở lấy, Hùng đứng cảnh giới. Khi

Nguyên đang mở các ốc vít thì Công an xã Phật Tích đi tuần phát hiện bắt

quả tang, Hùng điều khiển xe tẩu thoát.

Với hành vi trên Nguyên bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du

truy tố về tội “trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015.

Kết quả phiên xét xử sơ thẩm HĐXX đã áp dụng Khoản 2 Điều 171; Điểm

g, Khoản 1 Điều 57; Điểm g, p Khoản 1 Điều 56; Điều 18; Điều 57 BLHS

2015 xử phạt Nguyễn Văn Nguyên 01 năm 06 tháng tù.

Qua bản án trên, tác giả thấy Nguyễn Văn Nguyên phạm tội trong

trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Mặc dù HĐXX đã áp dụng Điều;

Điều 18; Điều 57 BLHS nhưng lại quyết định mức hình phạt đối với bị

cáo 01 năm 06 tháng tù là xử phạt bị cáo cao hơn mức án ¾ mức án theo

quy định, bỡi lẽ trong trường hợp này bản thân bị cáo có 01 tình tiết tăng

nặng, có hai tình tiết giảm nhẹ; giá trị tài sản 2.800.000 đồng nên đối với

tội phạm đã hoàn thành cũng chỉ bị xét xử ở mức hình phạt 09 tháng đến

01 năm tù, nếu áp dụng Khoản 3 Điều 57 BLHS thì mức án bị cáo phải

chịu chỉ là 06 tháng tù.

- Hạn chế trong áp dụng hình phạt trong trường hợp đặc biệt

45

Tại bản án số 79/2018/HSST ngày 20/6/2018 của TAND huyện

Tiên Du xét xử vụ án “Trộm cắp tài sản” theo Điều 171 BLHS với nội

dung như sau: khoảng 10g00 ngày 12/01/2018, Lê Văn Khải điều khiển xe

máy đến nhà Huỳnh Hữu Nghĩa, Nghĩa rủ Khải đi cướp giật tài sản, Khải

đồng ý và lấy xe chở Nghĩa đến trước nhà dân, Nghĩa phát hiện chị Diệu

đứng trước nhà, trên tay cầm 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy core 2

Prime, Nghĩa nói với Khải dừng xe, Nghĩa xuống xe giật điện thoại trên

tay chị Diệu, chị Diệu và Nghĩa giằng co nhưng Nghĩa đã giật được điện

thoại và lên xe do Khải đang nổ máy chờ sẵn rồi tẩu thoát. Tài sản không

thu hồi được.

Với hành vi trên Nghĩa và Khải bị Viện kiểm sát nhân dân huyện

Tiên Du truy tố về tội “cướp giật tài sản” theo Điều 168 BLHS năm 2015,

chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để thực hiện công tác

xét xử. Kết quả phiên xét xử sơ thẩm HĐXX huyện Tiên Du đã áp dụng

Điểm c Khoản 2 Điều 168; Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 xử phạt

bị cáo Huỳnh Hữu Nghĩa 04 năm tù; áp dụng Khoản 1 Điều 168; Điểm p

Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 xử phạt bị cáo Lê Trần Khải 01 năm 06

tháng tù.

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Trên cơ sở phân tích rõ thực tiễn những kết quả đạt được, hạn chế

trong việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có thể rút ra

một số nguyên nhân chủ yếu sau:

2.2.2.1. Nguyên nhân do các bất cập của BLHS cũ

Vướng mắc trong áp dụng văn bản xử lý hành vi xâm phạm sở hữu

liên tục, kế tiếp nhau.

46

Theo quy định tại Điều 5 của Chương II Thông tư liên tịch số 02

ngày 25/12/2001 của các đơn vị Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân

dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn về một số quy

định tại Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự, quy

định: Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi

xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối

thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không

thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây

hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa

được xoá án tích...), đồng thời, trong các hành vi xâm phạm đó chưa có

lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính,

nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối

thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người

thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của

các lần bị xâm phạm, nếu: Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện

một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng quy định này đã phát sinh vướng

mắc. Trường hợp sau đây là một ví dụ:

Trong khoảng thời gian từ 21- 23 giờ ngày 31/5/2018, Nguyễn Văn

A mang theo một bao tải với mục đích trộm cắp tài sản. Lần thứ nhất, A

bắt trộm được 01 con chó, trị giá 1.400.000 đồng. Lần thứ hai, sau khi bán

chó cho C, A tiếp tục đi bắt trộm được 01, trị giá 1.200.000 đồng. Tổng

giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.600.000 đồng.

Quan điểm thứ nhất: Trường hợp này không áp dụng Thông tư liên

tịch số 02/2001 để xử lý đối với Nguyễn Văn A, vì văn bản này hướng

47

dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của

BLHS năm 1999, mà không hướng dẫn việc áp dụng cho các tội xâm

phạm sở hữu quy định tại Chương XIV của BLHS năm 2015.

Mặt khác, Điều 138 BLHS năm 1999 chưa quy định cụ thể các

trường hợp tổng số giá trị tài sản trộm cắp dưới mức tối thiểu (2.000.000

đồng) thì phải chịu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 173 BLHS

năm 2015 đã có 05 trường hợp cụ thể xử lý đối với trường hợp tổng số

dưới mức khởi điểm quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, nên

việc áp dụng văn bản này là bất lợi cho bị can, bị cáo và trái với nguyên

tắc bảo vệ quyền con người của Hiến pháp năm 2013 (quyền con người

chỉ được hạn chế theo quy định của Luật). Do đó, Nguyễn Văn A không

phạm tội vì tổng giá trị của mỗi lần trộm cắp dưới mức tối thiểu để truy

cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình

sự (A không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm

hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án

nhưng chưa được xoá án tích...).

Quan điểm thứ hai: Trường hợp này vẫn áp dụng Thông tư liên tịch

số 02/2001 để truy cứu trách nhiệm đối với Nguyễn Văn A, vì mặc dù

hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu

quy định tại Chương XV của Bộ luật Hình sự năm năm 2015, nhưng hành

vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về

mặt thời gian, không trái với nguyên tắc của BLHS. Trong trường hợp

này, nên cộng tổng giá trị của hai lần A thực hiện hành vi trộm tài sản của

người khác để truy cứu trách nhiệm đối với Nguyễn Văn A theo quy định

tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.

48

Hiện nay BLHS năm 2015 chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, để

áp dụng các quy định của BLHS một cách thống nhất thì Liên ngành tư

pháp trung ương sớm có văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 2015 và

BLTTHS năm 2015. Trước mắt cần có văn bản hướng dẫn thống nhất việc

áp dụng hay không áp dụng đối với các văn bản như: Nghị quyết, Thông

tư liên tịch… hướng dẫn áp dụng BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003,

cho các quy định tương ứng của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015.

Trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, BLHS năm 2015 quy định tình

tiết định tội cơ bản như quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung

năm 2009), đó là, quy định tại khoản 1 của các điều 172, 173, 174, 175

BLHS năm 2015: “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm

đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong

các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174, 175 và

290 của Bộ luật, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”

Các điểm a, b khoản 1 mà các khoản 2, 3, 4 của Điều 172, Điều 173

dẫn chiếu, không vì khác hơn đó chính là yếu tố “đã bị xử phạt vi phạm

hành chính”; “đã bị kết án chưa được xóa án tích”.

- Nghiên cứu các nhóm tội phạm khác trong phần các tội phạm cụ

thể của BLHS năm 2015, tác giả không tìm thấy quy định tình tiết “đã bị

xử phạt vi phạm hành chính”; “đã bị kết án chưa được xóa án tích” này

làm tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ có 04 tội danh trong nhóm tội

xâm phạm sở hữu nêu trên (Điều 172, Điều 173, Điều 174 và Điều 175),

là thật sự không công bằng;

- Nghiên cứu các điều luật liên quan, thấy rằng, việc áp dụng các

tình tiết định khung, như: Phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội có tổ chức;

phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm… chỉ áp dụng

49

đối với 01 khung hình phạt cụ thể trong 01 điều luật. 04 tội danh quy định

tại các điều 172, 173, 174 và 175, tình tiết “tái phạm nguy hiểm” cũng chỉ

sử dụng tại khoản 2. Tuy nhiên tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành

chính” và “đã bị kết án chưa được xóa án tích” lại được áp dụng làm tình

tiết định khung cho tất cả các khung hình phạt tại 04 điều luật nêu trên

trong BLHS năm 2015, mặc dù, xét về tính chất nguy hiểm thì rõ ràng “đã

bị xử phạt vi phạm hành chính” và “đã bị kết án chưa được xóa án tích” ít

nguy hiểm hơn so với tái phạm nguy hiểm;

- Bất cập từ quy định như trên dẫn đến những trường hợp phạm tội

thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” có thể áp dụng khung hình phạt

nhẹ hơn so với trường hợp “đã bị xử phạt vi phạm hành chính”; “tái

phạm”. Nhận định này, tác giả chứng minh bằng các ví dụ sau:

Ví dụ: Lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng, Phạm C lẻn vào nhà ông Ph.

trộm cắp tài sản gồm: 01 máy tính xách tay ; 01 máy chụp ảnh ; Chính vì

C. “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” về hành vi chiếm đoạt nên theo

quy định của điều luật, tình tiết này được áp dụng làm tình tiết định khung

hình phạt. Do đó, Phạm C. phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm

cắp tài sản” theo điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS năm 2015 với mức hình

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Từ 02 ví dụ trên cho thấy, tuy cùng là hành vi trộm cắp tài sản, giá

trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt như nhau và cùng bị truy tố, xét

xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 BLHS năm 2015, nhưng với

C. khi phạm tội thuộc trường hợp “đã bị xử phạt vi phạm hành chính”phải

chịu khung hình phạt nặng hơn H. phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm

nguy hiểm”.

50

- Chế tài một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có

mức độ nguy hiểm hạn chế chỉ quy định lựa chọn giữa phạt tù với Cải tạo

không giam giữ mà không có phạt tiền là thiếu hợp lý, thiếu cơ sở để áp

dụng hình phạt khác, phù hợp với động cơ tư lợi, mục đích “kinh tế” của

người phạm tội.

2.2.2.2. Nguyên nhân do các bất cập, thiếu sót trong hướng dẫn áp

dụng pháp luật

Như trên đã phân tích, trong BLHS còn nhiều tranh cãi và thiếu

thống nhất trong thực tiễn áp dụng vì chưa có hướng dẫn hoặc hướng dẫn

thiếu chính xác. Ví dụ, quy định về mức độ trong trường hợp nào là gây

thiệt hại lớn, trong trường nào là gây thiệt hại không lớn. Thực tế, có

trường hợp người phạm tội Trộm cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng, có

Thẩm phán đánh giá áp dụng Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS để áp dụng

hình phạt đối với bị cáo, có trường hợp bị cáo lại không được xem xét để

áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Một thực tế khác có trường hợp tuy người

phạm tội Trộm cắp tài sản trị giá 2.000.000 đồng sau đó khi xét xử bị cáo

được áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt

hại không lớn” theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy

nhiên, tài sản mà bị cáo trộm cắp là chiếc xe máy làm phương tiện “xe

ôm” để có thu nhập nuôi sống cho một gia đình. Vì vậy, đối với người “xe

ôm” trong trường hợp này chiếc xe máy là tài sản “lớn” đối với họ nên

việc Tòa án áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây

thiệt hại không lớn” sẽ là không hợp lý. Nhưng vì chưa có quy định cụ thể

nên các cơ quan tố tụng còn lúng túng và thiếu thống nhất khi xem xét

đánh giá tình tiết này khi áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình

phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.

51

Về tình tiết: “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” hiện nay chưa có

văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên việc

áp dụng trên thực tế áp dụng hình phạt còn mang tính chủ quan, thiếu

thống nhất.

Về tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải"

được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS hiện nay chưa có văn

bản quy phạm pháp luật hay văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm

quyền xác định “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” có phải là hai

tình tiết giảm nhẹ hay “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” chỉ là một

tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 52 BLHS năm

2015.

2.2.2.3. Nguyên nhân do năng lực, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội

thẩm

Nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ Thẩm phán - những người trực

tiếp thực hiện việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu

có tính chất chiếm đoạt.

Cùng với Thẩm phán, thì Hội thẩm nhân dân là một trong các thành

viên của HĐXX khi xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt. Hội thẩm nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ

án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng

đều phải tuân thủ nguyên tắc độc lập khi xét xử.

2.2.2.4. Nguyên nhân trong tổ chức, quản lý Tòa án

Việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm hằng năm Tòa án nhân dân

tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du trong áp dụng hình phạt tù

đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chưa được kịp

thời và chưa sâu sát với thực tiễn nên ứng dụng của nó trong công tác xét

52

xử án hình sự nói chung và áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng chưa được thiết thực.

Những vi phạm sai lầm trong việc ADHP đối với các tội XPSH trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thời gian qua cho thấy sự kiểm tra,

hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới

chưa được thường xuyên.

Tập huấn nghiệp vụ áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt là nhiệm vụ rất quan trọng trong việc

thống nhất đường lối áp dụng pháp luật trong thực tiễn trên địa bàn

huyện. Tuy nhiên do số lượng công việc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,

huyện Tiên Du rất nhiều, tổng lượng án với số lượng tương đối lớn. Từ đó

dẫn đến áp dụng pháp luật trong nhiều trường hợp không đúng quy định

của BLHS dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, trước và trong

phiên tòa, hội đồng xét xử làm việc cần có sự độc lập với các cơ quan nhà

nước ở nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp cũng như các cơ quan khác

trong hệ thống tư pháp. Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc vào quan

điểm cuả các cơ quan này, không bị ảnh hưởng chi phối một cách tiêu cực

để làm sai trái với sự thật khách quan của vụ án. Các cơ quan quản lí theo

đó, không được can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, vì

công tác xét xử đã được Nhà nước giao cho tòa án. Tòa án không lệ thuộc

hoàn toàn vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Nếu qua phiên

tòa, cảm thấy cần thiết, hội đồng xét xử có thể xử lí vụ việc khác với bản

kết luận, cáo trạng của các cơ quan nói trên theo đúng quy định của pháp

luật, đảm bảo tính chính xác, công minh. Trong hệ thống tòa án từ trung

53

ương đến địa phương, tòa án cấp trên hướng dẫn tòa cấp dưới về việc áp

dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không quyết đinh

trước về cách thức, kết quả xét xử một vụ án cụ thể buộc tòa cấp dưới

phải làm theo. Tóm lại, thẩm phán, hội thẩm không bị phụ thuộc vào kết

luận của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của

Viện kiểm sát, không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của

Tòa án cấp trên.Có như vậy thì tính độc lập, đúng đắn, hiệu quả mới được

đảm bảo trong hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm tại phiên tòa.

54

Kết luận Chương 2

Tại nội dung chương 2, tác giả đi sâu phân tích thực tiễn áp dụng

hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở phân tích thực tiễn chỉ

ra những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm đối

với áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Từ những số liệu

thống kê, phân tích, so sánh việc áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, các hình phạt đối với từng tội phạm

cụ thể trong thời gian năm năm từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh do TAND các cấp xét xử, tác giả đã rút ra

được những tồn tại, vướng mắc trong quá trình xét xử và áp dụng hình

phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt của cơ

quan Tòa án. Việc liệt kê và phân tích một cách chi tiết, đầy đủ giúp

người đọc hiểu một cách sâu sắc hơn về việc áp dụng hình phạt tù đối với

các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh. Qua đó thấy được những thuận lợi, khó khăn vướng

mắc và nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng

hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra các yêu cầu và giải

pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu có

tính chất chiếm đoạt được thể hiện ở Chương 3.

55

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT

TÙ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT

CHIẾM ĐOẠT

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

3.1.1. Yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi

trọng tính phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt

không phải tù

Bộ luật Hình sự năm 2015 được ban hành lần này sẽ khắc phục

được cơ bản những nhược điểm của Bộ luật Hình sự năm 1999; thể hiện

được tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa, tăng cường tính hướng thiện

của Bộ luật Hình sự trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm theo

hướng giảm bớt hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền và hình phạt cải tạo

không giam giữ; góp phần vào việc hoàn thiện và lành mạnh hóa thể chế

kinh tế thị trường bằng việc có những sửa đổi quan trọng đối với các tội

phạm về kinh tế. Chính vì vậy, việc áp dụng các hình phạt tù đối với tội

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần áp dụng đúng trên tinh thần của

yêu cầu trên.

3.1.2. Yêu cầu bảo đảm các nguyên tắc của luật hình sự

Trong quá trình áp dụng hình phạt tù đối với các tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt các cơ quan xét xử, tham gia xét xử cần phải

nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc của luật hình sự. Đặc biệt là nguyên

56

tắc pháp chế xã hội chủ ngĩa, Pháp chế cũng là tiền đề cho việc thực hiện

các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Việc áp dụng đúng đắn các quy

định của BLHS và các văn bản pháp luật nội dung khác là thể hiện cao

nhất của nguyên tắc pháp chế. Bảo đảm nguyên tắc xử lý nói chung và các

nguyên tắc áp dụng hình phạt nói riêng. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt

tù đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, cá thể hoá

hình phạt, nhân đạo và công bằng phải tuyệt đối được tuân thủ trong

ADHP.

3.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, chủ trương cải cách tư

pháp được nêu một cách nhất quán và được tổ chức thực hiện nghiêm túc.

Khi chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được thể chế hóa

trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ Chính trị đã ban hành

các nghị quyết chuyên đề về pháp luật và tư pháp (Nghị quyết số 08/NQ-

TW ngày 0201-2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

25-6-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020) thì công tác cải cách tư

pháp được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Đối với áp dụng hình phạt tù đối với

các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cũng được nhắc đến như

nội dung chung về tội phạm, chủ trương áp dụng hình phạt tù…

3.1.4. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người

Có thể nói trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, việc nghiên cứu hoàn

thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) liên quan đến

bảo đảm quyền con người, đánh giá việc thực hiện các quy định đó trên

57

thực tế để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả hoạt động tố tụng là một trong những nội dung quan trọng của

việc nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự hiện nay.

Cùng với việc quy định quyền con người, Hiến pháp cũng quy định những

bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người nói chung và trong

tố tụng hình sự nói riêng. Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà

nước tôn trọng, bảo vệ quyền con người; Điều 3 đã khẳng định Nhà nước

bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đi cùng với các

quy định về quyền con người, bao giờ cũng có quy định về trách nhiệm

của Nhà nước hoặc bảo hộ của pháp luật nhằm thực hiện các quyền đó

trên thực tế.

3.1.5. Yêu cầu phòng, chống tội phạm

Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp tội

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bao giờ cũng tác động đến các

thành viên khác trong xã hội. Trong xã hội ta, tuyệt đại đa số nhân dân

không vi phạm pháp luật hình sự, không phải do sợ hình phạt mà lý do

chính thuộc về ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần đấu tranh không

dung thứ của họ đối với tội phạm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân

khách quan và chủ quan khác nhau mà xã hội còn một bộ phận những

công dân không vững vàng, dễ bị lôi kéo vào con đường vi phạm pháp

luật, thậm chí nghiêm trọng là phạm tội. Với bộ phận công dân này, tác

dụng răn đe và giáo dục của hình phạt để ngăn ngừa tội phạm được đưa

lên hàng đầu trong mục đích phòng ngừa chung của hình phạt.

58

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt tù đối với tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự

Mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 đã khắc phục được nhiều vấn đề

tồn tại, vướng mắc nhưng để triển khai thi hành và bảo đảm cơ sở pháp lý

vững chắc trong việc định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt, cần tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 như

sau:

- Bổ sung điều luật về cơ sở pháp lý của việc định tội danh chính là

quy định của Bộ luật hình sự trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 2015;

- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để cân nhắc có nên tiếp tục quy

định hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản (khoản 4 Điều 168 Bộ luật

hình sự năm 2015). Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009

quy định, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình.

- Hoàn thiện quy định các căn cứ QĐHP: Cần hoàn thiện căn cứ thứ

hai của việc áp dụng hình phạt: “cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội” theo hướng cần quy định tiêu chí cụ thể

cho việc đánh giá nhằm bảo đảm tính thống nhất trong việc đánh giá mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tiêu chí cụ thể bao

gồm: mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho

các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; mức độ lỗi; tính chất động

cơ phạm tội.

- Hoàn thiện quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.

Như đã phân tích tại phần nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm khi áp

dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu; một loạt các tình tiết

giảm nhẹ được quy định tại Điều 52 BLHS hiện nay còn có nhiều cách

59

hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất giữa các Tòa án,

thậm chí là thiếu thống nhất ngay trong cùng một Tòa án. Thực tiễn áp

dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 52 BLHS 2015, tác giả

thấy cần phải sửa một số điểm theo hướng rõ ràng hơn tránh việc gây

nhiều cách hiểu và áp dụng thiếu thống nhất như hiện nay. Theo BLHS

2015, chuẩn bị phạm tội đã được quy định thành các cấu thành tội phạm,

có chế tài riêng trong phần tội phạm.

- Bổ sung hình phạt tiền vào chế tài lựa chọn trong khoản 1 một số

tội như Công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172 BLHS), Trộm cắp tài sản

(Điều 173 BLHS), Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS), Lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) để tạo cơ sở pháp lý

cho việc thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, nhân đạo, bảo đảm cá

thể hoá hình phạt cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản trong những

trường hợp cần thiết.

3.2.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật

Trước mắt, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần

nghiên cứu ban hành Nghị quyết về án treo thay thế Nghị quyết

01/2013/NQ-HĐTP để hướng dẫn áp dụng án treo chính xác hơn; phù hợp

với quy định mới về án treo; quy định mới về án tích (Điều 69 BLHS

2015), về tái phạm (Điều 53 BLHS 2015); Nghị quyết hướng dẫn về các

căn cứ QĐHP; Nghị quyết hướng dẫn ADHP đối với pháp nhân thương

mại phạm tội; hướng dẫn về án tích, về tái phạm, tái phạm nguy hiểm… là

những quy định có nhiều nội dung mới trong BLHS 2015.

3.2.3. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng hình

phạt của Toà án

60

Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử nên có tính chất quyết định

trong hoạt động vụ án. Do đó khi gặp những vụ án phức tạp, khó phân

biệt hành vi phạm tội hay phân định hành vi có phạm tội hay không thì

cần trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, thống nhất quan điểm là vô cùng

cần thiết cho hoạt động xét xử.

Tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng xây dựng

phiên tòa rút kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên

tòa theo tinh thần cải cách tư pháp để rút kinh nghiệm trong công tác điều

tra, truy tố, xét xử đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa.

Nâng cao vai trò trách nhiệm đối với lãnh đạo các Tòa, Phòng, Tòa

án nhân dân cấp huyện trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Thực hiện luân chuyển, điêu động Tẩm phán, Thư ký khi các đơn vị có

phát sinh nhiêu án, nhằm đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu công tác; tiếp tục

thực hiện tốt 03 giải pháp cơ bản mang tính đột phá của Tòa án nhân dân

tối cao.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp,

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác

giám sát, động viên nhân dân phát hiện những hạn chế,khuyết điểm trong

hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa.

Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong

việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một

nền tư pháp của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về

hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các thẩm phán.

61

Từng bước thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án, trừ những

bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến

thuần phong mỹ tục.

Việc công bố hình thức công khai, minh bạch hóa chính sách và

pháp luật, việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu

để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng đòi hỏi của quá

trình hội nhập quốc tế, trong đó người dân thực sự được làm chủ xã hội

thông qua việc được biết, được bàn, được kiểm tra việc thực thi pháp luật

của cơ quan tư pháp, của Tòa án. Cũng chính vì thế mà bản thân các

Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để làm sao tuyên bản án

được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật được xã hội

thừa nhận.

3.2.4. Nâng cao năng lực, phẩm chất Thẩm phán và Hội thẩm

Để nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo phán quyết cuối cùng của

Tòa án đưa ra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức

thấp nhất việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, Tòa án nhân dân các cấp

trong tỉnh thường xuyên chú trọng xây dựng đội ngũ thẩm phán “vừa

hồng vừa chuyên”, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ,

chuyên môn.

Ngay từ khâu tuyển dụng, xây dựng, tạo nguồn cán bộ để bổ nhiệm

đội ngũ thẩm phán cho tòa án các cấp yêu cầu phải tốt nghiệp Đại học

Luật hệ chính quy, có ít nhất 5 năm công tác; sau đó, ban cán sự họp, xem

xét những trường hợp có đủ tiêu chí về đạo đức, năng lực chuyên môn cử

đi học lớp nghiệp vụ xét xử để thi thẩm phán, nếu đạt kết quả theo quy

định tại các cuộc thi do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức mới được làm hồ

sơ để bổ nhiệm thẩm phán. Thời gian qua, bên cạnh đổi mới công tác đào

62

tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ thẩm phán, tòa án nhân dân

hai cấp trong tỉnh còn tăng cường việc tổ chức các hội nghị tập huấn, coi

đây là giải pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các

loại án. Theo định kỳ, Tòa án nhân dân tỉnh mời các đồng chí lãnh đạo,

chuyên gia các lĩnh vực thuộc Tòa án nhân dân tối cao về truyền đạt, bồi

dưỡng kiến thức cho đội ngũ thẩm phán nói riêng, cán bộ, công chức tòa

án hai cấp trong tỉnh nói chung; thường xuyên cử thẩm phán đi học các

lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức.

Nghiêm túc thực hiện việc giám sát thẩm phán, định kỳ hàng tháng,

thông qua họp giao ban thẩm phán, các thẩm phán phải báo cáo về kết quả

xét xử, giải quyết các vụ việc; khi có án hủy, sửa, phải yêu cầu thẩm phán

giải trình cụ thể; trong đó, xác định rõ tính chất, mức độ sai lầm, thiếu sót

và trách nhiệm cá nhân của thẩm phán đối với vụ án bị hủy, sửa; lấy kết

quả giải quyết, xét xử vụ án sau khi bị hủy để làm căn cứ đánh giá cán bộ,

công chức và bổ nhiệm lại thẩm phán. Hàng năm, mỗi thẩm phán phải

đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm để kịp thời giải quyết

những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử.

Bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, ghi nhớ lời dạy của

Bác Hồ: “Trong công tác xét xử án phải công bằng, liêm khiết, trong

sạch”, Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh đặc biệt chú trọng đến việc bồi

dưỡng, giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ thẩm phán; duy

trì thường xuyên, nghiêm túc việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh. Nội dung học tập, làm theo được cụ thể hóa,

thiết thực và gắn liền với nhiệm vụ chuyên môn được giao, từ đó làm tiêu

chí, đánh giá xếp loại cán bộ, đảng viên hàng năm.

63

Để tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, thời gian tới, Ban Cán sự

Đảng Tòa án nhân dân tỉnh sẽ tiếp tục làm tốt công tác giáo dục chính trị,

tư tưởng; lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, tập huấn

chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán; tăng cường, chấn chỉnh kỷ

cương, kỷ luật công vụ; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời

phát hiện và khắc phục hạn chế, vướng mắc, góp phần nâng cao năng lực

chuyên môn cho các thẩm phán.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác hội thẩm nhân dân, thời

gian tới, Tòa án nhân dân hai cấp cần tăng cường công tác tập huấn, nâng

cao kỹ năng xét xử cho hội thẩm nhân dân, tiến hành trao đổi kinh nghiệm

giữa các cấp hội thẩm và các hội thẩm cũ, mới. Đồng thời tổ chức các

chuyến công tác học tập kinh nghiệm các Tòa án nhân dân các tỉnh và các

đơn vị bạn; tăng cường phối hợp xây dựng kế hoạch xét xử; cung cấp tài

liệu liên quan đến hoạt động xét xử đối với các vụ án điểm, vụ án cần trao

đổi nghiệp vụ để thống nhất áp dụng. Chú trọng chuẩn bị tốt các vụ án lưu

động để tăng cường tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục pháp luật

trong nhân dân.

3.2.5. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét

xử độc lập

Để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hạn chế oan sai, tiêu cực, xét xử đúng

người, đúng tội và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử, chúng ta cần làm tốt

những nội dung sau:

64

Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của

Hội thẩm nhằm bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét

xử. Theo chúng tôi, cần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng quy

định thời hạn dài hơn cho một nhiệm kỳ của Hội thẩm là 07 năm. Về

thành phần Hội đồng xét xử, có thể giảm số lượng Hội thẩm trong Hội

đồng xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính, cụ thể là trong phiên

tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử có một Hội thẩm và hai Thẩm phán (hoặc

trong trường hợp đặc biệt có hai Hội thẩm và ba Thẩm phán). Như vậy,

vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp của Thẩm phán, vừa bảo đảm tính nhân

dân của Hội đồng xét xử. Bổ sung quy định về đạo đức nghề nghiệp của

Hội thẩm. Quy chế đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm sẽ quy định những

yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất cần có của Hội thẩm,

những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Hội thẩm trong hoạt động tố

tụng, trong quan hệ công tác, trong quan hệ với những người tiến hành tố

tụng, với những người tham gia tố tụng và trong mối quan hệ hành

chính…; quy định về cơ chế khen thưởng và xử lý vi phạm đối với Hội

thẩm.

Hai là, xử lý nghiêm tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo án” của

Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Thực trạng “trao đổi đường lối giải

quyết vụ án”, “trao đổi nghiệp vụ” hay “tham khảo ý kiến” giữa Thẩm

phán của Tòa án cấp dưới với Thẩm phán của Tòa án cấp trên là một thực

tế đang tồn tại. Tính tiêu cực của cơ chế “thỉnh án”,“báo cáo án”, “trao

đổi đường lối giải quyết vụ án với lãnh đạo Tòa án” hay “tham khảo ý

kiến của Tòa án cấp trên” đã làm cho cơ cấu tổ chức của hệ thống xét xử

trở nên không có ý nghĩa, làm cho chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa,

quyền bào chữa của công dân không được bảo đảm; phá vỡ các nguyên

tắc của hoạt động tư pháp đã được hiến định, như “nguyên tắc độc lập xét

65

xử”, “nguyên tắc xét xử tập thể” hay “nguyên tắc bảo đảm tính đại diện

của nhân dân trong xét xử”, làm cho những nguyên tắc này đã trở nên

hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ

nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử.

Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động

xét xử, cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm

quyền tư pháp giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án

với Thẩm phán; phải có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu

trách nhiệm về hành động của mình. Cần tăng cường tính chịu trách

nhiệm giải trình công khai, minh bạch của Thẩm phán và Hội thẩm trong

hoạt động xét xử. Sự độc lập của tư pháp cần phải đi cùng với cơ chế

trách nhiệm trong hoạt động tư pháp. Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm

phán cần công khai, minh bạch, chuẩn hóa các tiêu chuẩn đối với Thẩm

phán, đồng thời có cơ chế kết hợp thi tuyển với tuyển chọn người để bổ

nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm để nâng cao chất lượng đội

ngũ Thẩm phán.

Ba là, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác

tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân

dân các cấp. Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các

văn bản pháp luật mới được ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng

quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực

thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp chế tài hành chính cụ thể đối với

những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ

quan của Thẩm phán và Hội thẩm. Kiện toàn nâng cao trình độ, năng lực,

bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Nghiên cứu, xây

dựng cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán,

Hội thẩm phù hợp với vị trí, vai trò và đặc thù của công tác xét xử. Xây

66

dựng chế độ tiền lương cho Thẩm phán theo thang, bậc lương riêng. Cần

có những biện pháp bảo đảm an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,

tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi thi hành công vụ. Bên

cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công

tác xét xử của Tòa án như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng xử án, trang bị

đầy đủ các phương tiện phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử đảm bảo

thực hiện các nguyên tắc tố tụng như độc lập xét xử, xét xử công khai,

nguyên tắc tranh tụng… để ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử

trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

3.2.6. Bảo đảm về chế độ, chính sách đối với đội ngũ Thẩm phán,

Hội thẩm

Đổi mới và xây dựng hệ thống chính sách đãi ngộ đói với đội ngũ

cán bộ, Thẩm phán (nhất là chính sách tiền lương, nhà ở và các chế độ,

chính sách đặc thù) một cách nhất quán, công bằng, có lý có tình, thống

nhất trong phạm vi toàn ngành và giữa các loại Thẩm phán thực sự

khuyến khích những Thẩm phán có tài, trân trọng những Thẩm phán có

thành tích phù hợp với điều kiện chung của đất nước, của ngành. Thường

xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời khen thưởng những tập

thể, cá nhân có thành tích; Thẩm phán đúng phải được bảo vệ, sai phải

đấu tranh, có dư luận phải được kịp thời làm rõ, tránh tình trạng để dư

luận âm ỷ, lan truyền ngờ vực lẫn nhau; xử lý nghiêm và kịp thời những

tập thể, cá nhân có sai phạm; kịp thời rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc

phục những biểu hiện sai phạm, lệch lạc trong công tác cán bộ và xây

dựng đội ngũ Thẩm phán.

Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc

cho cán bộ Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội

67

nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp.

Bên cạnh thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, trở ngại, vì vậy, rất cần có sự

đồng thuận của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, phải rất

quyết tâm và coi đó là nhiệm vụ chính trị của toàn hệ thống thì mới có thể

thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng này.

Trước hết, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục bám sát các chủ trương

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công

tác chỉ đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương

tiện và trang thiết bị làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp.

Thứ hai, tập trung kinh phí và rà soát, xác định trọng điểm đầu tư

xây dựng mới hoặc sữa chữa cải tạo trụ sở làm việc cho các Tòa án nhân

dân, đảm bảo các tiêu chí về diện tích đất theo định hướng chung, đặc biệt

đối với các Toà án nhân dân chưa có trụ sở. Phối hợp với các cơ quan, bộ,

ngành chức năng xây dựng các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc,

trang thiết bị, phương tiện cho từng chức danh cán bộ theo đặc thù Tòa

án.

Thứ ba, phát triển việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt

động của tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại hóa về cơ sở hạ

tầng, trang thiết bị; hệ thống các phần mềm ứng dụng chuyên biệt của tòa

án có đủ về số lượng với công nghệ hiện đại, thuận tiện, dễ sử dụng, bảo

đảm phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo tòa án

nhân dân các cấp chủ yếu thông qua hệ thống mạng máy tính, đáp ứng các

yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hóa các hoạt động của Tòa án nhân

dân.

Song song với giải pháp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đòi hỏi

cần phải tuyển chọn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là đội

68

ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, vì đội ngũ này có vai trò, ý nghĩa

quyết định trong việc xử lý các vụ án. Về mặt nguyên tắc cơ bản đã thể

hiện rõ quan điểm của Nhà nước theo yêu cầu của xã hội mới song trên

mặt thực tế yêu cầu này chưa thực sự đảm bảo mà mới dừng lại ở khía

cạnh hình thức. Một thẩm phán được xem xét trên cơ sở có bằng đại học

Luật, có qua thời gian công tác pháp luật khoảng 4 hoặc 6 năm, về việc

tuyển chọn được thông qua hội đồng theo quy định của Pháp lệnh Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên, quá trình xem xét bảo đảm chế

độ, chính sách đối với cán bộ chưa được đề cập một cách đầy đủ đến khả

năng của một Thẩm phán trong tương lai sẽ làm được gì khi họ ở cương vị

một người Thẩm phán để giải quyết những vấn đề liên quan đến con

người, sinh mệnh chính trị của con người, liên quan đến tội phạm, đến uy

tín của họ đối với người phạm tội ra sao, khả năng và tầm nhìn nhận của

họ về xã hội thế nào.

Đặc biệt, thực hiện Kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của

Bộ Chính trị về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và ngành

Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai xây dựng Chiến

lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân đến

năm 2020 và nhiều đề án quan trọng liên quan đến công tác đào tạo như:

Đề án thành lập Học viện Tòa án tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành,

đào tạo bậc trên đại học và chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp

vụ xét xử, Đề án về đào tạo chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp

vụ Tòa án, Đề án phối hợp với các trung tâm đào tạo để xây dựng cơ chế

đào tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa....

Bên cạnh đó, cùng với Tòa án, đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Bắc Ninh tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:

69

- Triển khai thực hiện Kết luận số 92- KL/TW của Bộ Chính trị về

việc tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị

quyết số 96/201 5/QH ngày 26/6/2015 của Quốc hội và Chỉ thị 04/CT -

VKSTC ngày 28/7/2015 của Viện KSNĐ tối cao về tăng cường các biện

pháp phòng, chống oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự.

- Tiếp tục quán triệt thi hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán

bộ để đáp ứng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành; chuẩn bị

các điều kiện cần thiết để triển khai thi hành một số Luật, Bộ luật liên

quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành khi được Quốc

hội thông qua như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân

sự, Bộ luật tố tụng dân sự...

- Tập trung giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án trọng điểm

về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Tiếp tục phối hợp

với Tòa án tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao hơn nữa

chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại các phiên tòa sơ

thẩm, phúc thẩm.

Muốn vậy, ngay từ bây giờ Nhà nước phải có quy chế chặt chẽ

trong việc xây dựng một đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm

phán có tâm, có tầm đủ sức làm nhiệm vụ. Trước hết phải có chính sách

và lương bổng hợp lý của nghề đặc biệt này, hình thức và nội dung tuyển

chọn về khả năng lành nghề, hiểu được một cách sâu sắc tâm lý của tội

phạm bên cạnh các yếu tố đạo đức nghề nghiệp.

Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật

trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn toàn tỉnh.

70

Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 13/7/1998 của Chính phủ ở điểm 12 có

đoạn ghi như sau: “Đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân

dân tối cao có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp

luật của Chính phủ đẩy mạnh công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm

một cách kịp thời và nghiêm chỉnh”.

3.2.7. Các giải pháp khác

Chủ động phòng, chống tội phạm, dàn dựng lại các tình huống, thủ

đoạn của bọn tội phạm để người dân có kiến thức, tinh thần cảnh giác với

thủ đoạn của tội phạm

Hoạt động giải quyết vụ án hình sự có thể xem là bị động khi giải

quyết những sự việc đã xảy ra thiệt hại trên thực tế, dù thế nào đi nữa thì

có bắt người phạm tội chịu mức hình phạt tương đương với mức độ nguy

hiểm của hành vi của tội phạm gây ra thì cũng không có ý nghĩa bằng

cách chủ động phòng chống tội phạm ngay từ đầu khi chưa xảy ra thiệt

hại. Cho nên chủ động phòng chống tội phạm là cách hữu hiệu nhất mà

người dân có thể tự bảo vệ tài sản của bản thân và cơ quan Nhà nước cũng

có thể giảm thiểu tình hình phạm tội chiếm đoạt tài sản xảy ra hiện nay.

Bên cạnh đó, hiểu hiểu biết người dân nói chung còn kém trong khi thủ

đoạn của phạm tội ngày càng tinh vi nên việc dàn dựng lại các tình huống,

thủ đoạn của bọn tội phạm để người dân có kiến thức, tinh thần cảnh giác

với thủ đoạn của tội phạm là hết sức cần thiết.

Cải thiện chất lượng cuộc sống, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo

dục kiến thức pháp luật cho người dân có ý thức tuân thủ pháp luật

Giáo dục có chiều sâu, tăng cường sự giáo dục, quan tâm của nhà

trường, gia đình. Sự giáo dục của gia đình và nhà trường có ảnh hưởng

nhất định đến nhân cách của con người. Đa số tội phạm chiếm đoạt tài sản

71

đều có nhân thân không tốt hoặc là do thiếu giáo dục, thiếu quan tâm của

gia đình nên dễ lệch lạc trong cách suy nghĩ, hành xử cho nên muốn giảm

thiểu tội phạm chiếm đoạt tài sản một cách ổn định, lâu dài cần có cái

nhìn thấu đáo, toàn diện là kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình

một cách sâu sắc trong suốt quá trình hình thành, phát triển nhân cách

đồng thời cần có sự quan tâm đến những biểu hiện lệch lạc, khả nghi để

có sự can thiệp kịp thời.

Tăng cường nguồn phản biện xã hội nhất là trong lĩnh vực truyền

thông, báo chí nhằm phát hiện, đấu tranh và phòng chống tội phạm

Truyền thông, báo chí có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án

hình sự, về chuyên môn, lĩnh vực này nắm bắt thông tin nhanh gọn, có

tính chính xác cao, thông qua hoạt động đưa tin, viết báo phản ánh những

vụ án chiếm đoạt cụ thể hay thông tin về tình hình tội phạm trên một địa

bàn, khu vực cụ thể có thể giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nắm bắt tình

hình tội phạm, có những thông tin ban đầu mà có thể xác sơ, điều tra, khởi

tố vụ án, khởi tố bị can. Bên cạnh đó thông qua hoạt động đưa tin, viết

báo truyền thông, báo chí còn tạo ra áp lực xã hội buộc các chủ thể tiến

hành tố tụng làm việc nghiêm túc góp phần vào việc giải quyết vụ án

được công bằng, nhanh chóng hơn. Tăng cường hoạt động tuần tra. Nâng

cao phương tiện kỹ thuật cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự tăng

cường về số lượng và chất lượng tuần tra sẽ làm giảm sự lộng hành, hung

hãn của tội phạm. Mặt khác muốn công tác giải quyết vụ án nói chung và

công tác tuần tra, truy bắt nói riêng đối tượng được hiệu quả cần trang bị

cho những lực lượng này những phương tiện kỹ thuật hiện đại để thực

hiện nhiệm vụ được dể dàng. Phương tiện kỹ thuật hiện như vũ khí,

phương tiện di chuyển sẽ hỗ

72

Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về an

ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống bạo lực

Tội phạm - đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không

chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức bị thiệt hại mà còn gây mất trật tự an

ninh và an toàn xã hội. Để nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh

phòng và chống tội phạm, Đảng bộ và chính quyền các cấp phải không

ngừng nâng cao hiệu quả quản lý để đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã

hội. Chỉ khi phát huy được vai trò trong công tác quản lý nhà nước, khắc

phục được những tình trạng xấu trong công tác quản lý nhà nước thì hoạt

động phạm tội nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt nói riêng mới được đẩy lùi. Xét riêng trên địa bàn huyện Tiên Du

thời gian qua, các cấp, các ngành đã thường xuyên quan tâm đến công tác

quản lý hành chính, quản lý trật tự xã hội trên địa bàn, kịp thời xử lý, trấn

áp tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản cho Nhà nước, cho công dân,

giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, phải tạo ra ý thức tự giác, chủ động phòng ngừa của

mỗi công dân, mỗi gia đình, mỗi cụm dân cư, mỗi thôn xóm, làng bản.

Phải tự ý thức cảnh giác trước hoạt động của bọn tội phạm, mặt khác

chính quyền phải tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào các hoạt động

đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngoài công tác tuyên truyền và giáo dục

pháp luật, chính quyền còn phải xây dựng các khu phố, cụm dân cư văn

hóa, xây dựng các làng xã và gia đình văn hóa. Định kỳ và đột xuất kiểm

tra thủ đoạn phạm tội, những địa điểm thường xuyên xảy ra cướp tài sản,

cần thông báo, thông tin cảnh báo, tăng cường tuần tra. Phải tiếp tục xây

dựng, phát triển phong trào nhân dân tự quản vì trật tự an toàn xã hội; cần

phải vận động và xây dựng lực lượng nòng cốt nhân dân, đó là các tiểu

73

ban bảo vệ, đội ngũ bảo vệ với sự tham gia hoạt động của các đối tượng ra

tù. Lực lượng này phải được tổ chức một cách chặt chẽ và phân công

nhiệm vụ rõ ràng bởi vì lực lượng này là nòng cốt trong công tác tuyên

truyền và vận động quần chúng, là nòng cốt trong công tác đấu tranh

phòng, chống, vây bắt tội phạm ở khu vực dân cư (cướp, cướp giật, cưỡng

đoạt…).

Nâng cao chất lượng phối hợp giữa Cơ quan Điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án trong giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt

Định kỳ hàng năm, hàng quý (nếu có thể) liên ngành Cơ quan Điều

tra, Viện kiểm sát và Tòa án tổ chức tổng kết việc giải quyết các vụ án

cướp tài sản, thống kê kịp thời số vụ, số bị can, bị cáo và những thiệt hại

do tội phạm này gây ra. Trong đó, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, bất

cập trong quá trình giải quyết còn để tìm cách tháo gỡ; nêu ra những

phương thức, thủ đoạn, cách thức hoạt động phạm tội mới, những kinh

nghiệm hay để các đơn vị trao đổi, học hỏi, từ đó nâng cao hiệu quả công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội xâm phạm sở hữu có

tính chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản,

cướp giật tài sản...

74

Kết luận Chương 3

Nội dung chương 3 của luận văn tập trung phân tích và làm rõ các

yêu cầu bảo đảm việc áp dụng đúng hình phạt tù đối với các tội phạm xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Trên cơ sở những hạn chế được rút

ra, nguyên nhân của những hạn chế đề xuất các giải pháp bảo đảm nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng hình phạt tù nói riêng

đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như: hoàn thiện hệ

thống văn bản pháp luật liên quan; tăng cường công tác hướng dẫn triển

khai các văn bản; Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng

hình phạt của Toà án; nâng cao năng lực của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm

nhân dân… Các giải pháp trên cần triển khai đồng thời và tùy vào hoàn

cảnh để ưu tiên áp dụng giải pháp nào trước.

75

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu, luận văn đã làm rõ được một số vấn đề lý luận về

áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình phạt đối với các tội xâm

phạm sở hữu nói riêng bao gồm: Phân tích và đưa ra các nguyên tắc áp

dụng hình phạt, các căn cứ áp dụng hình phạt. Phân tích các căn cứ áp

dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu. Bên cạnh đó, luận văn

đã đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và văn

bản hướng dẫn về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, làm rõ được những kết quả đạt

được và những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc và nêu nguyên nhân của

những tồn tại, vướng mắc đó. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp nâng

cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu bao gồm

các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về áp dụng

hình phạt nói chung và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả việc

áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Tác giả

mong muốn rằng những kiến nghị trong luận văn này sẽ được các nhà làm

luật xem xét, từ đó có thể hoàn thiện pháp luật hình sự trong đó có các

quy định về áp dụng hình phạt.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Cảm (2001), Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận

cơ bản, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 10), trang 7-11.

2. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương giảng dạy sau đại học, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước

và Pháp luật, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày

22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.

7. Trần Văn Độ (1996), Các nguyên tắc của luật hình sự và quyết định

hình phạt, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (Số 100), tr. 21-27

8. Trần Văn Độ (2019), Chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính

phòng ngừa trong đổi mới tư pháp ở nước ta, Kỷ yếu Hội thảo khoa

học, Đại học mở, Hà Nội.

9. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, trường đại học Luật Hà Nội.

10. Dương Tuyết Miên (2010), Định tội danh và quyết định hình phạt,

Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

11. Bùi Thị Chinh Phương (2011), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn

về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm

tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Đại học quốc gia Hà Nội.

12. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các

tội phạm, Tập II, Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

13. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học về các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

14. Đinh Văn Quế (1992), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đinh Văn Quế (2000), Một số điểm mới của Bộ luật hình sự năm

1999 về hình phạt và quyết định hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân

dân,(số 3).

16. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình

phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Hà Nội.

18. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự 1985, Hà Nội.

19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.

20. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung) 2009, Hà Nội.

21. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội.

22. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Hà Nội.

23. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hà Nội.

24. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.

25. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung) 2001, Hà Nội.

26. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hà Nội.

27. Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002,

Hà Nội.

28. Trần Văn Sơn (1996), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.

29. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2014), Báo cáo

tổng kết năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2015.

30. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2015), Báo cáo

tổng kết năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2016.

31. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo

tổng kết năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2017.

32. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo

tổng kết năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2018.

33. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo

tổng kết năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2019.

34. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác

xét xử từ năm 2011 đến 2015.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân

dân tối cao về công tác Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI,

ngày 15/3/2017, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01/HĐTP ngày

19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao

hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

37. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo số 39/BC-TA ngày

28/8/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của

các Tòa án tại kỳ học thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công

an và Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số

02/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/2 hướng

dẫn áp dụng một số quy định trong Chương XIV - Các tội xâm

phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày

16/11/1988 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc quyết

định hình phạt khi bị cáo phạm nhiều tội và bị phạt tù giam, Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Chu Thị Trang Vân (2003), Tìm hiểu việc định tội danh và quyết

định hình phạt từ phương diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình

sự cơ bản của Tòa án, Tạp chí Khoa học - Chuyên san Kinh tế -

Luật, (số 3).

42. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình

sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2006), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.