intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 5

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

83
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó từ nước đang phát triển được đề cập chiếm không quá 3%, và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. Theo thỏa thuận cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, trong vòng 12 năm (từ ngày 1-1-2007 tới ngày 31-12-2018) khi một nước nhập khẩu là Thành viên WTO quyết định áp thuế chống bán phá...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 5

  1. Các biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó từ nước đang phát triển được đề cập chiếm không quá 3%, và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. Theo thỏa thuận cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, trong vòng 12 năm (từ ngày 1-1-2007 tới ngày 31-12-2018) khi một nước nhập khẩu là Thành viên WTO quyết định áp thuế chống bán phá giá với hàng nhập khẩu từ Việt Nam, họ có quyền dựa trên chi phí sản xuất thực tế của Việt Nam hoặc sử dụng chi phí sản xuất của một quốc gia khác có điều kiện tương tự làm cơ sở tính toán mức phá giá, trợ cấp13. 2.5. THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Theo qui định của WTO, doanh nghiệp thương mại nhà nước (STE) là doanh nghiệp được Nhà nước dành cho những ưu đãi, quyền lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp khác trong hoạt động xuất nhập khẩu. STE khác với doanh nghiệp quốc doanh ở chỗ vốn của loại hình doanh nghiệp này không hoàn toàn là sở hữu của Nhà nước mà bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào (quốc doanh, cổ phần, liên doanh, tư nhân, v.v…) đều có thể được hưởng đặc quyền của Nhà nước và do vậy đều có thể gọi là STE. Điều XVII của GATT thừa nhận STE là những doanh nghiệp pháp lý cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng yêu cầu “khi thực hiện mua bán hàng hóa thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu phải tuân thủ các nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này liên quan đến các biện pháp của Chính phủ tác động tới hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân” và “những doanh nghiệp này khi tiến hành mua bán như vậy chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại, và phải dành cho các doanh nghiệp của các Thành viên cơ hội thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này”. Ngoài ra, Điều XVII cũng yêu cầu các Thành viên thông báo các Thành viên khác “về những sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ 13 www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=151&article=85565 - 26k - 111
  2. lãnh thổ của mình” do các STE tiến hành nhưng sự thông báo này không có nghĩa là họ phải “tiết lộ các thông tin không phổ biến mà nếu được tiết lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay đi ngược lại lợi ích của cộng đồng hoặc gây tổn hại đến quyền lợi thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất định”. WTO nhận thấy các biện pháp làm bóp méo thương mại có thể xảy ra như là kết quả từ thương mại nhà nước. Hai mối quan tâm cơ bản mà WTO đang xem xét trong các STE là: Các ưu tiên về độc quyền dành riêng cho STE cho phép họ có những hành vi phi cạnh tranh từ đó góp phần bóp méo thương mại; các hoạt động hay việc định giá của STE còn minh bạch có thể che đậy những vi phạm trong việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của một quốc gia. Khi các nước Thành viên của WTO đang hướng tới việc áp dụng thuế nhập khẩu là công cụ chính sách thương mại duy nhất, thì các Thành viên WTO có thể cần phải cải thiện các qui định về hành vi phi cạnh tranh của các STE. Việc thiếu tính minh bạch trong công tác định giá và hoạt động của STE đã khiến một số Thành viên WTO bày tỏ mối quan ngại việc các Thành viên khác có thể sử dụng STE để lẩn tránh các cam kết ở Vòng Uruguay về trợ cấp xuất khẩu, tiếp cận thị trường và hỗ trợ trong nước. Thương mại nhà nước là một nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc cũng như các nước có nền kinh tế phụ thuộc STE tương tự. Sự không rõ ràng về thể chế thương mại của một số nước đang gia nhập mà ở đó STE đóng một vai trò chủ đạo trong hoạt động xuất nhập khẩu có thể che giấu những hàng rào nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu. Quy định về thương mại nhà nước thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất, phải phù hợp với nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử, tức là hoạt động mua hoặc bán phải căn cứ vào các yếu tố mang tính thương mại và phải dành cơ hội thích đáng cho doanh nghiệp nước ngoài được tham gia các hoạt động mua hoặc bán đó. Thứ hai, phải minh bạch, tức là phải thông báo cho các Thành viên WTO khác thông qua Hội đồng thương mại hàng hóa của WTO. Mỗi nước phải thông báo cho WTO tên các STE hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các loại hàng hóa mà các doanh nghiệp này 112
  3. kinh doanh và các thông tin khác (ở dạng điền vào mẫu cho sẵn). Các nước cũng phải thường xuyên rà soát để cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động của các STE. Thương mại nhà nước có vị trí quan trọng hơn đối với ngành nông nghiệp nếu so với các ngành khác bởi vì nhiều quốc gia, bao gồm cả quốc gia phát triển và đang phát triển, coi đó là một công cụ thích hợp để đạt được các mục tiêu chính sách nông nghiệp trong nước, chẳng hạn như trợ giá cho người nông dân, khai thác tính kinh tế theo qui mô trong thu mua và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp chính, cũng như tăng cường an ninh lương thực. Theo cam kết của Việt Nam vào WTO, Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Việt Nam cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không phải là mua sắm chính phủ14. 2.6. CÁC QUI ĐỊNH KỸ THUẬT VỀ TIÊU CHUẨN SẢN PHẨM Trong thương mại, tiêu chuẩn làm cho người mua và người bán có thể dễ dàng hiểu nhau khi đàm phán về một mặt hàng5. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng tạo ra những trở ngại nhất định. Do tồn tại nhiều loại tiêu chuẩn giữa các quốc gia, khu vực nên hàng hóa khi nhập khẩu vào một nước có thể bị bắt buộc phải theo những tiêu chuẩn của nước ấy. Vì vậy, hàng hóa có thể không bán được vào thị trường nước có tiêu chuẩn khắt khe (mặc dù đã được hưởng ưu đãi về thuế quan), hoặc phải tốn thêm chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn đó và mất thêm thời gian khi giao hàng để kiểm tra xem hàng hóa có phù hợp với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu hay không (Hộp 2.6). Tiêu chuẩn giúp ích nhiều trong đời sống, nhưng sự tồn tại của quá nhiều tiêu chuẩn cho cùng một sản phẩm cũng gây ra phiền phức cho người sử dụng và ảnh hưởng đến việc buôn bán sản phẩm đó. Ví dụ, cùng là chiếc phích cắm điện, nhưng ở Việt Nam khác với ở Trung Quốc, 14 http://www.sokhoahoccn.angiang.gov.vn 113
  4. ở Australia khác với ở Mỹ, do vậy đồ điện bán từ thị trường này sang thị trường kia sẽ gặp khó khăn khi sử dụng. Vì vậy, cần phải hài hòa tiêu chuẩn giữa các nước. Hài hòa các tiêu chuẩn là quá trình thống nhất, chọn ra một tiêu chuẩn chung tối ưu để giảm bớt những khó khăn, bất tiện như trên và góp phần tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa. Đây cũng chính là tôn chỉ của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO). Hộp 2.6. Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật thường được các nước áp dụng. Một mặt các tiêu chuẩn này tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất lượng của sản phẩm. Nhưng mặt khác chúng cũng có thể trở thành rào cản thương mại nếu quá khác biệt giữa các nước. Ví dụ như hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ đều phải được dán mác hàng hóa, ghi rõ tên sản phẩm, tên và hàm lượng của loại sợi chiếm hơn 5% về khối lượng trong thành phẩm cuối cùng. Bất kỳ sản phẩm len nào chứa sợi len ngoại trừ thảm và các thành phẩm khác được sản xuất từ 20 năm trước khi nhập khẩu phải được dán nhãn mác rõ ràng theo quy định của đạo luật về nhãn mác sản phẩm len năm 1939. Ðối với sản phẩm rượu xuất khẩu sang Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam thậm chí phải xin cấp nhãn mác (kéo dài từ 3 đến 4 tháng) cho sản phẩm nhập khẩu ở cấp liên bang hoặc đôi khi cả ở cấp tiểu bang và trả phí cho nhãn mác này. Nguồn: Bộ Tài chính 2006 Hài hòa là phương cách tốt nhất để giảm bớt những khó khăn do tiêu chuẩn gây ra cho thương mại. Nhưng trên thực tế, hài hòa tiêu chuẩn rất khó thực hiện do mỗi nước đều muốn giữ quan điểm về tiêu chuẩn của mình. Chính vì thế, vẫn có những nước sản xuất ô-tô có tay lái ở bên trái, và có những nước sản xuất ô-tô có tay lái ở bên phải. Với việc ký các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA)6, nước nhập khẩu sẽ chấp nhận các chứng chỉ về tiêu chuẩn do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp, cho dù cách thức, phương pháp thử nghiệm để cấp chứng chỉ có thể khác nhau. Nhờ vậy, người xuất khẩu có thể giảm bớt phí tổn liên quan đến việc thử nghiệm ở nước nhập khẩu (gửi mẫu, mời chuyên gia thử nghiệm) cũng như giảm bớt thời gian chờ đợi liên quan đến quá trình này. 114
  5. Theo Hiệp định Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) tiêu chuẩn chỉ được áp dụng trên cơ sở tự nguyện, còn quy định kỹ thuật là những tiêu chuẩn mà Nhà nước bắt buộc phải tuân thủ. Các điều khoản của Hiệp định TBT trước hết áp dụng với sản phẩm là hàng hóa trao đổi trong thương mại quốc tế, ví dụ các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật về chất lượng, hàm lượng, kích thước, điện trở, từ trường, độ bức xạ, độ đàn hồi, độ chịu nén, v.v... Bên cạnh đó, Hiệp định TBT cũng áp dụng đối với phương pháp chế biến và sản xuất ra sản phẩm, nhưng chỉ trong trường hợp phương pháp đó có ảnh hưởng đến các đặc tính của sản phẩm. Ngoài ra, các thuật ngữ và biểu tượng, các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác cũng nằm trong diện điều chỉnh của Hiệp định TBT. Hiệp định TBT không nhằm áp đặt một bộ tiêu chuẩn chung thay thế cho tiêu chuẩn của các Thành viên WTO, Hiệp định này yêu cầu các Thành viên: không soạn thảo, thông qua hoặc áp dụng các quy định kỹ thuật gây ra trở ngại không cần thiết đối với thương mại; tham gia quá trình hài hòa và công nhận lẫn nhau các quy định kỹ thuật; dành đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia cho sản phẩm, thủ tục đánh giá sự phù hợp; đảm bảo thông tin đầy đủ cho tất cả các Thành viên khác về các chỉ tiêu, quy định kỹ thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp. 2.7. CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH KIỂM DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT (DỊCH TỄ) Vệ sinh dịch tễ là khái niệm chung để chỉ các biện pháp nhằm đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm. Cụ thể, đó là các biện pháp nhằm: bảo vệ sức khỏe con người khỏi các nguy cơ phát sinh từ các phụ gia, chất độc, chất gây ô nhiễm, sinh vật gây bệnh trong đồ ăn, thức uống; các bệnh lan truyền từ động, thực vật và tác hại từ các loài này; bảo vệ các loài động vật và thực vật khỏi nguy cơ từ việc xâm nhập, phát sinh hoặc lan truyền các loài sâu, bệnh, sinh vật mang bệnh và gây bệnh; khoanh vùng, ngăn chặn việc xâm nhập, phát sinh hoặc lan truyền các loài sâu bệnh. Như vậy, đối tượng của các biện pháp vệ sinh dịch tễ chủ yếu là các mặt hàng nông sản. Do tầm quan trọng của vấn đề vệ sinh dịch tễ nên nước nhập khẩu có thể đặt ra nhiều qui định nhằm hạn chế hoặc cấm nhập khẩu hàng nông sản (như thịt bò, gia cầm,…). Việc này làm chậm tiến độ giao hàng hoặc 115
  6. cản trở xuất khẩu hàng nông sản của người xuất khẩu. Do đó, cần phải hài hòa các quy định về vệ sinh dịch tễ giữa các nước để các quy định này không trở thành rào cản đối với thương mại. Đó cũng là một trong những mục đích của Hiệp định về Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) của WTO. Hiệp định SPS quy định những nội dung chính như sau: các nước đều có quyền áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ, nhưng phải dựa trên căn cứ khoa học; không được dùng các biện pháp vệ sinh dịch tễ như một công cụ trá hình để hạn chế thương mại quốc tế; các nước cần tích cực hài hòa các biện pháp vệ sinh dịch tễ bằng cách tham gia hoạt động của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này và xây dựng các biện pháp của nước mình trên cơ sở những tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị của các tổ chức này; công nhận tính tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ của các nước khác; đảm bảo việc thông tin đầy đủ, kịp thời về những thay đổi trong chính sách vệ sinh dịch tễ, trong đó có việc mỗi nước phải thiết lập một điểm đầu mối để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp và các nước khác. Cùng một sản phẩm nhập khẩu có thể áp dụng cả qui định kỹ thuật (TBT) và biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS). Việc áp dụng biện pháp của Hiệp định nào cần căn cứ vào mục đích và tính chất của biện pháp đó. Mục đích của các biện pháp vệ sinh dịch tễ tương đối hẹp, đó là nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm và ngăn ngừa sự lan truyền dịch bệnh (các biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh thường chỉ áp dụng tạm thời một thời gian ngắn). Trong khi đó, các quy định kỹ thuật là những tiêu chuẩn áp dụng lâu dài vì nhiều mục đích khác nhau về an toàn sản xuất, an toàn giao thông, an ninh xã hội, thuận lợi cho người tiêu dùng, thích ứng với điều kiện tự nhiên, văn hóa của nước sở tại, v.v... Việc xác định mức độ thích hợp của các biện pháp vệ sinh dịch tễ cần được tiến hành trên cơ sở đánh giá nguy cơ của các chất có hại và sâu bệnh đối với sức khỏe con người và động, thực vật. Đây là một khâu rất quan trọng vì nếu đánh giá nguy cơ thấp quá thì sẽ không có đủ biện pháp cần thiết để ngăn chặn tác hại của dịch bệnh, mà nếu đánh giá nguy cơ cao quá thì sẽ tạo ra trở ngại quá mức cho hàng nhập khẩu, đi ngược lại mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại. Việt Nam hiện đang xây dựng một hệ thống SPS dựa trên những khuyến nghị, hướng dẫn và tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống hiện hành của đất 116
  7. nước dựa theo tiêu chuẩn của OIE, IPPC và CODEX (FAO/WHO), tiêu chuẩn vùng hay của các nước phát triển, hoặc tiêu chuẩn quốc gia (Hộp 2.7). Hộp 2.7. Biện pháp kiểm dịch - vệ sinh động vật của Việt Nam Việt Nam ban hành Pháp lệnh Thú y ngày 15/02/1993 là văn bản luật cao nhất về biện pháp vệ sinh động vật. Để thực hiện Pháp lệnh này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 93/CP ngày 27/11/1993 về các qui định vệ sinh thú y của Việt Nam. Quyết định 389/NN-TY/QĐ của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 15/4/1994 ban hành những hướng dẫn chi tiết để thực hiện nghị định này. Tất cả những biện pháp vệ sinh động vật được căn cứ theo Nghị định 93/CP. Nghị định này bao gồm các biện pháp phòng chống dịch bệnh động vật; kiểm dịch, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y động vật, sản phẩm động vật; quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học và giống vi sinh vật dùng trong thú y. Động vật và các sản phẩm từ động vật sẽ chỉ được vận chuyển trong nước, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh qua Việt Nam sau khi đã được kiểm tra và được cấp giấy chứng nhận kiểm dịch bởi cơ quan thu ý có thẩm quyền nếu đáp ứng được các điều kiện vệ sinh thú y. Trong một số trường hợp, việc miễn kiểm tra vệ sinh thú y tạm thời đối với công tác kiểm dịch để bán tự do trong nước sẽ do Bộ Nông nghiệp và PTNT (MARD) qui định. Nghị định 93/CP cũng đưa ra hướng dẫn về các thủ tục ngoại thương. Trong trường hợp nhập khẩu hoặc quá cảnh qua Việt Nam, chủ sở hữu động vật và các sản phẩm từ động vật hoặc người được ủy thác sẽ xuất trình giấy chứng nhận kiểm dịch do cơ quan Kiểm dịch Quốc gia của nước xuất xứ ban hành trước khi cơ quan thú y Việt Nam bắt đầu công việc kiểm dịch. Gần đây, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh mới về Thú y số 18/2004/PL- UBTVQH11 (gọi là Pháp lệnh Thú y năm 2004) phù hợp hơn với các qui định và tiêu chuẩn quốc tế. Xem xét tất cả những văn bản pháp luật hiện hành về Thú y cho thấy không có sự mâu thuẫn rõ ràng giữa các qui định trong nước với điều khoản của Hiệp định SPS về kiểm dịch động vật. Nguồn: Báo cáo nghiên cứu Dự án “Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn - SCARDSII”, 2005 117
  8. 2.8. CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai,... vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận. Đầu tư quốc tế là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý,... từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đến đầu năm 2006, khu vực kinh tế có vốn FDI đã trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp gần 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác, đóng góp trên 15,5% tổng GDP và 56% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tạo nguồn thu khoảng 1,3 tỷ USD cho Ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp. FDI cũng đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, thúc đẩy mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Việt Nam cần huy động khoảng 150 tỷ USD vốn đầu tư nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng GDP 7,5% - 8%/năm và phát triển bền vững, trong đó khoảng 35% là vốn từ bên ngoài, riêng vốn FDI khoảng 25 tỷ USD. Đạt được mục tiêu này không phải là dễ trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt thu hút FDI của nhiều nước trên thế giới. Do đó, Việt Nam đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong WTO, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM) chủ yếu liên quan đến đầu tư quốc tế. Thương mại và đầu tư có mối quan hệ với nhau. Chính sách thu hút hoặc hạn chế đầu tư có thể là khởi nguồn cho những biện pháp gây tác động đến thương mại quốc tế. Vì vậy, WTO đã đưa đầu tư vào phạm vi điều chỉnh của mình, nhưng chỉ với một mức độ nhất định ở những khía cạnh liên quan đến thương mại (Hộp 2.8). Hiệp định TRIM chỉ áp dụng đối với thương mại hàng hóa của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiệp định này đặt ra yêu cầu các 118
  9. nước phải xóa bỏ các biện pháp đầu tư gây cản trở thương mại trong các khía cạnh: i) yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mua hoặc sử dụng một tỷ lệ nhất định các sản phẩm sản xuất trong nước hoặc do các doanh nghiệp trong nước cung cấp. Ví dụ trong các lĩnh vực lắp ráp ô-tô, xe máy, máy thu hình, tủ lạnh...; ii) yêu cầu cân đối xuất/nhập khẩu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được nhập khẩu một số lượng hoặc giá trị hàng hóa tương ứng với số lượng, giá trị mà doanh nghiệp đó xuất khẩu. Như vậy, nếu doanh nghiệp này xuất khẩu ít thì cũng chỉ được nhập khẩu ít. Nếu doanh nghiệp chỉ sản xuất hàng hóa để tiêu thụ trong nước thì có thể bị gây khó khăn khi nhập khẩu; iii) yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Khi đầu tư, doanh nghiệp phải đảm bảo phát triển nguồn nguyên liệu tại chỗ thay vì nhập khẩu. Ví dụ xây nhà máy sữa phải đảm bảo phát triển đàn bò ở địa phương đặt nhà máy, xây nhà máy đường phải đảm bảo giúp địa phương trồng mía; iv) yêu cầu tự cân đối ngoại tệ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị khống chế giá trị ngoại tệ sử dụng cho việc nhập khẩu. Các nước phát triển phải xóa bỏ các TRIMs trong vòng 2 năm sau khi WTO được thành lập (tức là vào năm 1997), các nước đang phát triển phải xóa bỏ TRIMs trong vòng 5 năm (năm 2000). Thời gian dành cho các nước chậm phát triển để xóa bỏ TRIMs là 7 năm (năm 2002). Nếu gặp khó khăn khi xóa bỏ TRIMs thì các nước có thể được WTO xem xét dành cho một thời kỳ quá độ dài hơn. Hộp 2.8. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) Nhận thấy rằng Việt Nam có vẻ như đang áp dụng các yêu cầu về hàm lượng nội địa và tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc 80% đối với một số sản phẩm công nghiệp nhất định theo Quyết định số 718/2001/QĐ-BKH và giai đoạn chuyển đổi cho phép các nước đang phát triển áp dụng các yêu cầu này đã chấm dứt từ cuối năm 2000, một số Thành viên yêu cầu Việt Nam có chương trình hành động chi tiết, trong đó xác định rõ các biện pháp hiện hành mà chưa phù hợp với Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (Hiệp định TRIMs) và nêu rõ lộ trình thời gian loại bỏ các biện pháp này. Theo một số Thành viên, Việt Nam cần tuân thủ đầy đủ Hiệp định TRIMs kể từ ngày gia nhập WTO mà không yêu cầu có thời hạn chuyển đổi. Một Thành viên lưu ý 119
  10. rằng trong khi Quyết định 718/2001/QĐ-BKH đã đưa một số sản phẩm ra khỏi danh mục hàng hóa phải tuân thủ yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu 80% nhưng trong thực tế Việt Nam có vẻ như vẫn áp dụng yêu cầu xuất khẩu đối với các sản phẩm này. Thành viên này cũng lưu ý rằng trong một số trường hợp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vẻ như đã bị yêu cầu duy trì tỉ lệ bán hàng xuất khẩu như vậy đối với các sản phẩm không nằm trong danh mục (như đối với thịt lợn). Một Thành viên lưu ý Việt Nam rằng giải pháp được đề xuất đối với các nhà máy lắp ráp ô tô, ví dụ như tự nguyện đăng ký tỷ lệ nội địa hóa, không thể giải quyết được vấn đề đem lại sự phù hợp với Hiệp định TRIMs. Thêm vào đó, các Thành viên yêu cầu Việt Nam bãi bỏ quy định hạn chế mức sản lượng xe máy tối đa của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Một số Thành viên cũng lưu ý rằng hầu hết các biện pháp TRIMs đã được Việt Nam ban hành sau khi Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO, và nhắc nhở Việt Nam là các nước đang tiến hành gia nhập không được áp dụng các biện pháp hạn chế mới. Một số Thành viên khuyến khích Việt Nam không cho thực thi các hợp đồng có áp đặt các yêu cầu không phù hợp với Hiệp định TRIMs với nhận thức là Chính phủ Việt Nam sẽ loại bỏ bất cứ yêu cầu xuất khẩu nào như vậy mà đã được chấp nhận trên cơ sở tự nguyện. Việt Nam cũng được đề nghị khẳng định rằng bất cứ yêu cầu xuất khẩu nào được nêu trong giấy phép đầu tư, dù được cơ quan Trung ương hay chính quyền địa phương cấp, sẽ đồng thời được loại bỏ. Các Thành viên cũng đề nghị Việt Nam cam kết kể từ khi gia nhập không gắn việc phân bổ hạn ngạch thuế quan với các định mức sản lượng hoặc định mức xuất khẩu của các doanh nghiệp cụ thể có sử dụng sản phẩm có liên quan bị điều chỉnh bởi hạn ngạch thuế quan, vì theo khoản 2 (a), Phụ lục của Hiệp định TRIMs, các biện pháp như vậy không phù hợp với Điều XI của Hiệp định GATT 1994. Đại diện Việt Nam đã nộp một Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TRIMs trong tài liệu WT/ACC/VNM/18 và một bản sửa đổi chương trình hành động trong tài liệu WT/ACC/VNM/18/Rev.1 ngày 31/10/2003. Đại diện này tuyên bố, theo chương trình hành động sửa đổi, các ưu đãi thuế nhập khẩu dựa trên tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp xe máy được cụ thể hóa trong Thông tư liên tịch số 176/1998/TTLT-BTC-BCN- TCHQ đã được bãi bỏ trong năm 2003. Quyết định số 43/2006/QĐ-BTC ngày 29/8/2006 cũng bãi bỏ những chính sách về mức thuế nhập khẩu ưu đãi trên cơ sở tỷ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm và linh kiện trong ngành công nghiệp cơ khí/điện/điện tử kể từ ngày 1/10/2006. Ngoài ra, yêu cầu tỉ lệ xuất khẩu đã được bãi bỏ theo Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003, Luật Đầu tư 120
  11. năm 2005 và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư không còn đặt điều kiện được cấp phép đầu tư hay được hưởng các ưu đãi đầu tư theo cách như được nêu trong Hiệp định TRIMs. Nguồn: Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO 2.9. TỔNG QUAN VỀ CÁC MỐI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM Đứng trước cơ hội thách thức của việc gia nhập WTO, Việt Nam đang quan tâm đến nhiều vấn đề về thương mại hàng hóa, trong đó có một số vấn đề nổi bật: Thứ nhất, mặc dù đã có nhiều điều chỉnh chính sách thương mại hàng hóa để đáp ứng yêu cầu của các đối tác trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo trong các chính sách, qui định của các Bộ, ngành liên quan đến thương mại hàng hóa. Do đó, Chính phủ và các Bộ/ngành, địa phương đang rất quan tâm, tích cực rà soát, điều chỉnh và bổ sung các chính sách thương mại hàng hóa để phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Thứ hai, cắt giảm thuế quan tiến tới tự do hóa thương mại hàng hóa đang đặt ra vấn đề quan ngại: giảm nguồn thu ngân sách nhà nước và giảm bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước (Hộp 2.9). Thứ ba, cắt giảm trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước cũng là vấn đề khó khăn lớn. Hiện nay, khá nhiều doanh nghiệp nhà nước tồn tại được chủ yếu dựa vào trợ cấp của Chính phủ nên nếu hạn chế và tiến tới xóa bỏ nguồn tài chính này thì hiện tượng thua lỗ, phá sản hàng loạt là điều khó tránh khỏi. Thứ tư, cùng với tiến trình hội nhập sâu vào thị trường thế giới, các vụ kiện chống bán phá giá sẽ ngày càng nhiều. Cuối cùng, qui định các tiêu chuẩn kỹ thuật xuất khẩu hàng hóa (chủ yếu đối với hàng nông, thủy sản) đang là những rào cản kỹ thuật khó vượt qua đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam. 121
  12. Hộp 2.9. Ảnh hưởng của cắt giảm thuế quan đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ sản xuất trong nước Vụ Chính sách thuế - Bộ Tài chính, cho biết: con số giảm thu thuế nhập khẩu này tính bình quân trong 5 năm với 3.800 dòng thuế cắt giảm theo cam kết. Việc cắt giảm này, sẽ có tác động lớn đến nền sản xuất trong nước. Những ngành chịu tác động đầu tiên chính là những ngành hàng đang áp dụng thuế suất nhập khẩu cao từ trên 20%. Trong đó, dệt may, thủy sản, gỗ, giấy, máy móc thiết bị điện, điện tử… sẽ chịu những ảnh hưởng lớn. Đây là những ngành hàng phải thực hiện cắt giảm ngay từ khi gia nhập. Ngành dệt may được coi là chịu tác động nhiều nhất: tính chung mức thuế suất nhập khẩu bình quân các sản phẩm và nguyên liệu sẽ thực hiện giảm ngay từ 37,3% xuống còn 13,7%. Cụ thể, dự kiến mặt hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12%, mặt hàng sợi từ 20% xuống còn 5%, áo quần từ 50% còn 20%... Vì vậy, dự kiến thời gian tới các mặt hàng quần áo, vải vóc từ nước ngoài sẽ có cơ hội thâm nhập do thuế suất nhập khẩu giảm đáng kể. Đặc biệt là quần áo từ Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông… là những sản phẩm vốn phù hợp với sở thích của người Việt Nam và giá cả cũng vừa phải. Tuy nhiên, do thuế nhập khẩu nguyên liệu vải và sợi cũng giảm, nên lại mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may trong nước nâng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh. Tương tự như vậy, các lĩnh vực khác cũng sẽ phải đối diện với việc hàng ngoại tràn vào thị trường nội địa, và phải tận dụng việc giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu để tăng cường sức cạnh tranh. Nhìn vào lĩnh vực hàng điện tử sẽ thấy rõ điều này. Đa số các nhà máy điện tử trong nước nhập linh kiện về lắp ráp. Trong khi đó thời gian tới, hàng nhập khẩu nguyên chiếc vốn được ưa chuộng hơn, sẽ được nhập về ồ ạt. Điều đó bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao chất lượng, vì thuế suất lúc này gần như ngang nhau. Về thu ngân sách, ước đoán lộ trình 5 năm đầu, mỗi năm sẽ giảm thu thuế nhập khẩu từ 1.000 đến 1.500 tỷ đồng. Mức giảm này không gây ra ảnh hưởng lớn đến ngân sách hoặc đến nền kinh tế. Nếu so với trong năm nay, tổng thu ngân sách là 258 nghìn tỷ, thì số giảm thu 1.500 tỷ chỉ bằng 0,58%. Nguồn: Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính 122
  13. Chương III CÁC HIỆP ĐỊNH ĐA PHƯƠNG CHUYÊN NGÀNH PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội 3.1. HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP 3.1.1. Vị trí của hàng nông sản trong thương mại quốc tế Trong thương mại quốc tế, hàng nông sản có tính nhạy cảm1 cao vì sử dụng nhiều lao động, trong đó phần lớn là nông dân (Hộp 3.1). Ðây là lực lượng đáng kể tác động đến sự ổn định chính trị - xã hội của từng quốc gia. Mặt khác, các sản phẩm này chịu nhiều tác động từ thiên nhiên, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng. Do đó, các nước đều cố gắng đảm bảo tự túc lương thực để không phải phụ thuộc vào nước khác về lương thực và muốn thông qua nông nghiệp để bảo vệ "những giá trị không đo lường được", ví dụ như bảo vệ môi trường, bảo tồn cộng đồng và cảnh quan nông thôn, v.v... Do vị trí quan trọng của hàng nông sản như trên nên hầu hết các nước đều có khuynh hướng bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp của nước mình bằng cách dựng hàng rào thuế quan thật cao, đề ra những tiêu chuẩn khắt khe, đồng thời tăng cường trợ cấp cho nông dân trong nước. Vì lẽ đó, nông sản thường là loại hàng hóa gặp nhiều trở ngại nhất trong thương mại quốc tế và là chủ đề của những cuộc tranh cãi quyết liệt tại các diễn đàn và cuộc đàm phán thương mại. Các qui định của WTO đối với thương mại nông sản (chủ yếu được qui định trong Hiệp định Nông nghiệp) có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nông nghiệp và nông thôn của các nước. Các vấn đề về bảo hộ, hỗ trợ và trợ cấp trong nông nghiệp vẫn là những vấn đề đang được bàn cãi trong GATT (trước đây) và WTO. Từ đầu những năm 50, GATT đã 123
  14. cố gắng áp dụng những nguyên tắc cơ bản của Hiệp định này cho thương mại quốc tế hàng nông sản, nhưng rõ ràng là đã thất bại. Các Vòng đàm phán thương mại đa phương Kennedy (1963-1967) và Tokyo (1973) đã mang lại những kết quả rất hạn chế về nông nghiệp. Chỉ đến Vòng Uruguay (1986-1994) mới đạt được những bước đột phá căn bản do các quốc gia đã cam kết mạnh mẽ việc đưa các qui tắc điều chỉnh thương mại nông nghiệp vào trong khuôn khổ các qui tắc áp dụng cho thương mại thế giới. Một trong những kết quả đáng kể đạt được trong Vòng đàm phán Uruguay là bắt đầu đưa các chính sách nông nghiệp vào khuôn khổ các qui định của GATT tương tự như với những chính sách áp dụng cho các sản phẩm công nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp tại Vòng Uruguay bao gồm 3 nội dung chính: giảm trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp, tăng cường mở cửa thị trường nhập khẩu, và cắt giảm hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong nước mang tính bóp méo thương mại. Mục tiêu chính của Hiệp định Nông nghiệp là cải cách lại các nguyên tắc, luật lệ, chính sách nông nghiệp cũng như giảm bớt những bóp méo trong thương mại nông nghiệp gây ra bởi cơ chế bảo hộ nông nghiệp và hỗ trợ trong nước. Những công cụ bảo hộ này đã được áp dụng mạnh trong những thập kỷ gần đây, nhất là ở các quốc gia phát triển nhằm bảo hộ ngành nông nghiệp của mình từ áp lực mở cửa thị trường. Để tạo thuận lợi cho trao đổi quốc tế hàng nông sản, Hiệp định Nông nghiệp đã qui định các biện pháp mở cửa thị trường2, trợ cấp hàng nông sản (các mặt hàng từ Chương 1 đến Chương 24 của Biểu thuế HS và một vài mặt hàng khác). Theo Hiệp định này, các mặt hàng nông sản được chia thành hai nhóm: nông sản nhiệt đới (chủ yếu từ các nước đang phát triển, ví dụ: chè, cà phê, ca cao, bông, chuối, xoài) và nông sản ôn đới (chủ yếu từ các nước phát triển, ví dụ: bột mỳ, ngô, thịt, sữa). Các nước phát triển đã xóa bỏ dần các hạn chế thuế quan và phi thuế quan đối với nông sản nhiệt đới, nhưng vẫn duy trì bảo hộ cao đối với nông sản ôn đới. 124
  15. Hộp 3.1.1. Nhà nông Việt Nam và WTO Một nghiên cứu ở vùng Nội Mông, Trung Quốc cho biết hàng nghìn gia đình ở đây đã phải từ bỏ nghề bán các sản phẩm len có truyền thống hàng trăm năm do không thể cạnh tranh nổi với len của Australia và New Zealand, sau khi Trung Quốc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nông dân trồng mía cũng trong tình cảnh tương tự. Giá thu mua mía giảm xuống do lượng đường ngoại nhập từ EU tăng vọt, trong khi giá phân bón và thuốc trừ sâu lại tăng do Nhà nước phải chấm dứt trợ giá. Ngoài ra, Trung Quốc bây giờ nhập nhiều lúa mì của Mỹ đến nỗi người dân cho rằng họ “ăn nhiều bánh mì Mỹ hơn là bánh mì Trung Quốc”. Đó là câu chuyện do các chuyên gia Trung Quốc kể tại một hội thảo về WTO được Action Aid, một tổ chức phi chính phủ chuyên về chống đói nghèo, tổ chức tại Tuyên Quang hồi đầu năm nay. “Nông dân Trung Quốc chịu đựng các cú sốc này mà ít người hiểu được đó là hệ quả của việc Trung Quốc buộc phải cam kết mức thuế đánh vào hàng nông nghiệp nhập khẩu là 15,5%, trong khi các nhà sản xuất đường của EU hằng năm được nhận trợ cấp ngầm 833 triệu euro các mặt hàng xuất khẩu” - ông Ramesh Khadka, người Nepal, giám đốc Tổ chức Action Aid. Theo điều kiện gia nhập WTO, mỗi năm Trung Quốc phải chấp nhận nhập 1,6 triệu tấn đường tinh luyện, tương đương 20% sản lượng đường trong nước. Kể từ khi gia nhập WTO năm 2001, giá đường ở Trung Quốc giảm 35% làm cho người trồng mía, người chế biến và chính quyền địa phương điêu đứng. Nông dân ở Quảng Tây đã thiệt hại 369 triệu USD do đường mất giá. Đó cũng có thể là viễn cảnh của ngành mía đường Việt Nam - ông Ho Seung, chủ tịch nhóm công tác Việt Nam gia nhập WTO, nhận định. “Tôi cho rằng gạo và bông của Việt Nam có khả năng cạnh tranh nhưng ngành đường sẽ gặp khó khăn. Ngoài ra, nông dân trồng ngô cũng có thể bị ảnh hưởng mạnh”, ông nói trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua để chuẩn bị cho phiên đàm phán đa phương Việt Nam gia nhập WTO lần 9. Hiện giá đường của Việt Nam đang cao hơn giá đường thế giới và thuế suất đánh vào hàng đường trắng nhập khẩu là 40-60%. Trong thỏa thuận đạt được với EU về kết thúc đàm phán gia nhập WTO, mức thuế bình quân trong lĩnh vực nông nghiệp mà Việt Nam cam kết là 24% với thời gian quá độ thực hiện là ba năm. Mức thuế này nếu so với Trung Quốc được coi là ưu đãi hơn nhưng vẫn thiệt thòi nếu so với các nước láng giềng ASEAN khác. Thái Lan và Philippines được áp dụng mức thuế nông nghiệp lần 125
  16. lượt là 26% và 34%. Nepal, một nước kém phát triển vừa gia nhập WTO năm 2003, cũng được áp dụng mức thuế nông nghiệp bình quân là 42% tại Việt Nam. “Trung Quốc đã chấp nhận mức thuế nông nghiệp thấp bởi họ quyết định sẽ “hi sinh” ngành nông nghiệp nhằm đổi lấy những cơ hội xuất khẩu khổng lồ hơn từ ngành công nghiệp chế tạo. Quyết định này có thể phù hợp với Trung Quốc bởi vì họ cực kỳ mạnh về công nghiệp chế tạo, đặc biệt là dệt may, đồ chơi, hàng điện tử” - ông Khadka phân tích. Tuy nhiên, theo ông, hướng suy nghĩ này không phù hợp lắm với Việt Nam bởi gần 80% dân số Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam chưa đủ mạnh để cạnh tranh. Đến từ Nepal, nước láng giềng của Trung Quốc, ông Khadka cho biết hiện tượng nông dân bỏ làng lên thành phố ở Ấn Độ gia tăng sau khi Ấn Độ gia nhập WTO do các sản phẩm nông nghiệp không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. “Tôi có thể tưởng tượng với mức thuế nhập khẩu thấp, trứng gà và gà của Trung Quốc sẽ tràn ngập Việt Nam chứ không chỉ chiếm lĩnh thị trường vùng biên như hiện giờ” - ông Khadka nói. Ông Ho Seung cho rằng Việt Nam cần tận dụng tối đa khoảng thời gian quá độ để tăng tính cạnh tranh cho các lĩnh vực dễ bị tổn thương mạnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO. “Việt Nam cần có đàm phán tốt với các đối tác để có thời gian quá độ càng dài càng tốt. Kinh tế Hàn Quốc khi gia nhập WTO cũng yếu kém nhưng chúng tôi phải nỗ lực cải tổ, chuyển đổi cơ cấu trong thời kỳ quá độ. Cạnh tranh luôn là sức ép lớn với bất kỳ nước nào, ví dụ như Việt Nam đang chịu sức ép cạnh tranh từ các nước láng giềng trong khi Hàn Quốc luôn bị cạnh tranh bởi Nhật Bản, Mỹ”, ông nói. Action Aid gợi ý Việt Nam cần phải kết hợp chặt chẽ hơn với các nước đang phát triển khác như Brazil, Ấn Độ... để tạo thành một liên minh đấu tranh với những đòi hỏi quá đáng của một số nước phát triển. “Tại hội nghị các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ đã phát biểu rằng Việt Nam cần đẩy mạnh các nghiên cứu cùng với các nước khác để chỉ ra tác động tiêu cực tới nông dân, người nghèo nếu Việt Nam buộc phải chịu các điều khoản quá thiệt thòi để gia nhập WTO”, ông Khadka nói. Nguồn: Theo Tuổi trẻ (VnExpress ngày11/12/2004) 3.1.2. Nội dung chủ yếu của Hiệp định Nông nghiệp Mặc dù có cách hành văn khá phức tạp, nhưng nhìn chung Hiệp định Nông nghiệp đề cập đến hai vấn đề chính: mở cửa thị trường nông nghiệp (thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan, cắt giảm và ràng 126
  17. buộc thuế quan đối với các mặt hàng nông sản); quy định về các khoản trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước đối với nông sản. Điều 4 của Hiệp định quy định về tiếp cận thị trường như sau: "Các Thành viên sẽ không được duy trì, viện đến, hoặc áp dụng lại bất kỳ biện pháp nào thuộc loại đã được yêu cầu chuyển sang thuế quan thông thường". Những biện pháp này bao gồm "hạn chế số lượng nhập khẩu, các loại thu đối với hàng nhập khẩu, giá nhập khẩu tối thiểu, cấp phép nhập khẩu tùy ý, các biện pháp phi quan thuế được duy trì thông qua doanh nghiệp thương mại nhà nước, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, và các biện pháp cửa khẩu tương tự khác với thuế quan thông thường”. Mở cửa thị trường trong nông nghiệp3 thể hiện ở các điểm: bãi bỏ các biện pháp phi thuế quan đang áp dụng đối với sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu; các nước được phép thuế hóa khi bãi bỏ các biện pháp phi thuế quan, nhưng phải ràng buộc mức thuế sau khi đã thuế hóa; các nước cũng phải cắt giảm dần mức thuế quan sau khi thuế hóa. Yêu cầu đặt ra là các nước phát triển phải cắt giảm ít nhất 36% mức thuế trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển phải cắt giảm ít nhất 24% mức thuế trong vòng 10 năm; giảm trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước. Một số nước trước đây đã dành ưu đãi cho việc nhập khẩu một số lượng nhất định nông sản nhiệt đới bằng cách cho hưởng thuế quan thấp hoặc thậm chí bằng 0%. Sau khi thuế quan hóa, thuế suất của các mặt hàng này tăng lên đáng kể. Để đảm bảo quyền lợi của những nước xuất khẩu các mặt hàng nông sản đã được hưởng ưu đãi trước đây, nước nhập khẩu với mức thuế suất trong hạn ngạch rất thấp, còn thuế suất ngoài hạn ngạch bằng thuế suất sau khi đã thuế quan hóa. Mức hạn ngạch thuế quan này căn cứ trên số lượng hàng nông sản nhập khẩu được hưởng ưu đãi và gọi là mức cam kết hiện tại về mở cửa thị trường. Một số sản phẩm như sữa, thịt, rau quả trước đây đã từng được bảo hộ bằng những biện pháp ngặt nghèo đến mức sản phẩm của nước ngoài gần như không thể nhập khẩu vào những nước có sự bảo hộ cao như vậy. Hiệp định Nông nghiệp yêu cầu những nước này phải mở cửa thị trường cho nông sản nhập khẩu bằng cách dành hạn ngạch thuế quan ở mức ít nhất bằng 3% lượng tiêu thụ trong nước thời kỳ 1986-1988. Con số 3% này chính là mức cam kết tối thiểu về mở cửa thị trường nông sản. Các nước phát triển phải nâng con số này lên 5% vào cuối năm 2000, còn 127
  18. với các nước đang phát triển thì thời hạn là năm 2004. Trong trường hợp này để đảm bảo giá trị của cam kết tối thiểu, thuế suất trong hạn ngạch thường không được quá 1/3 thuế suất ngoài hạn ngạch. Các nước phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi phải cắt giảm thuế quan trung bình 36% trong thời gian 6 năm (tức là đến 01/01/2001). Thuế suất đối với mỗi sản phẩm phải giảm ít nhất 15%. Các nước đang phát triển phải cắt giảm thuế quan trung bình 24% trong thời gian 10 năm (tức là đến 01/01/2005). Thuế suất đối với mỗi sản phẩm phải giảm ít nhất 10%. Các nước kém phát triển không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan đối với hàng nông sản. Nhìn chung, việc ràng buộc thuế quan đối với hàng nông sản cũng giống như với hàng công nghiệp. Có một điều là thuế quan của tất cả các mặt hàng nông sản đều phải ràng buộc, trong khi không phải mọi mặt hàng công nghiệp đều phải làm như vậy. Trong bối cảnh nông sản vốn là loại hàng nhạy cảm và luôn được bảo hộ cao thì việc ràng buộc thuế quan tất cả các mặt hàng nông sản có một ý nghĩa lớn đối với tự do hóa thương mại trong ngành nông nghiệp. Tại một số nước, do chi phí sản xuất cho các mặt hàng nông sản cao mà nhu cầu tiêu dùng trong nước lại đã đáp ứng đủ nên các mặt hàng này phải tìm cách tiêu thụ ở thị trường bên ngoài, và chúng chỉ có thể xuất khẩu được khi có trợ cấp của Chính phủ. Các nước EU, Hoa Kỳ, Australia, Ba Lan, Mexico, Phần Lan, Thụy Điển, Canada đã từng sử dụng trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản. Hiệp định Nông nghiệp không yêu cầu các nước xóa bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản, nhưng buộc các nước phải giảm mức độ trợ cấp cả về mặt trị giá cũng như lượng hàng xuất khẩu được trợ cấp. Các nước phát triển phải cam kết giảm ít nhất là 36% (riêng New Zealand bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu), các nước đang phát triển phải cam kết giảm ít nhất là 24%. Hỗ trợ trong nước có nhiều loại hình đa dạng hơn trợ cấp xuất khẩu. Quy định chung của Hiệp định Nông nghiệp là những loại hỗ trợ tác động bóp méo thương mại đều phải cam kết cắt giảm. Tương tự như hỗ trợ hàng công nghiệp, hỗ trợ trong nước đối với hàng nông sản chia làm ba loại: hỗ trợ hộp xanh lục (các loại hỗ trợ không mang tính thương mại mà chỉ thuần túy nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, ví dụ như hỗ trợ cho công tác nghiên cứu lai tạo giống mới, 128
  19. diệt trừ sâu bệnh, bù đắp thiệt hại do thiên tai, cải thiện môi trường, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu và phương thức canh tác, v.v…); hỗ trợ hộp xanh lam (hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất như trợ cấp đầu vào cho nông dân có thu nhập thấp, ở vùng có nhiều thiên tai, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu cây trồng); hỗ trợ hộp vàng (hỗ trợ trong nước có ảnh hưởng tới thương mại và phải cam kết cắt giảm, ví dụ áp dụng giấy phép, hạn ngạch để hỗ trợ giá trong nước làm cho giá trong nước không phản ánh đúng giá thị trường quốc tế, trợ giá để thu mua theo giá can thiệp của Chính phủ. Hỗ trợ hộp xanh lục và hộp xanh được phép duy trì và không phải cam kết cắt giảm. Tổng lượng hỗ trợ trong nước (Total AMS), là tổng trị giá các hỗ trợ hộp hổ phách. Đây là con số căn cứ để các nước đưa ra cam kết cắt giảm trợ cấp trong nước. Các nước phát triển phải giảm 20% trợ cấp hộp vàng trong thời gian 1995-2000, các nước đang phát triển phải giảm ít nhất 13% trong thời gian 1995-2004. Total AMS được tính toán bằng tổng của trợ cấp trong nước thuộc diện cắt giảm dành cho từng mặt hàng nông sản cụ thể cộng với số trợ cấp chung không dành riêng cho một mặt hàng nào. Total AMS = trợ cấp mặt hàng A + trợ cấp mặt hàng B + ... + trợ cấp chung. Chi tiết về cách xác định AMS được nêu trong Phụ lục 3 của Hiệp định Nông nghiệp. 3.1.3. Quan điểm của Việt Nam về thương mại hàng nông sản Theo định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam đầu thế kỷ 21, thương mại nông sản được phát triển theo các quan điểm chủ đạo như sau: Thứ nhất, phát triển nông nghiệp theo định hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa với mức độ phù hợp yêu cầu của nông nghiệp bền vững. Chuyển mạnh từ nền sản xuất tự túc, tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hóa với tỷ suất khoảng 40% và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản tăng nhanh. Thứ hai, thực hiện sản xuất nông nghiệp theo sát nhu cầu thị trường, sản xuất nông nghiệp hàng hóa hướng mạnh cho xuất khẩu. Nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nông sản xuất khẩu. Lựa chọn các mặt hàng nông sản hàng hóa có sức cạnh tranh cao, phát huy lợi thế so sánh vùng. 129
  20. Thứ ba, tập trung phát triển những ngành sản xuất hàng hóa quan trọng: sản xuất lương thực (lúa gạo, ngô); cây công nghiệp ngắn ngày (cây có dầu, sợi, thuốc lá nguyên liệu); cây công nghiệp lâu năm truyền thống có giá trị kinh tế cao (cà phê, hồ tiêu, cao su, chè); rau, quả (các loại đậu rau, ngô rau, măng, nấm ăn, nấm dược liệu,vải, nhãn, dứa, thanh long…); lâm nghiệp (các loại tre, trúc, bạch đàn, quế, hồi…, cây gỗ giáng hương, sao, lim, lát, pơmu, tếch…). Thứ tư, phát triển đàn lợn phù hợp nhu cầu thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu, phát triển đàn bò thịt theo hướng bò cho năng suất thịt cao; phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt. Cuối cùng, tập trung đầu tư phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản xuất khẩu, trong đó đặc biệt là tôm, các loại cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn và các loại đặc sản khác. Theo định hướng trên, nền nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8- 9 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, Chính phủ có chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Cụ thể, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh. Trong đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản kể từ ngày gia nhập. Các hình thức hỗ trợ nông nghiệp khác không gắn với xuất khẩu vẫn được duy trì. Ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. 130
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1