intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 1

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

104
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một hệ thống quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu được coi là có tác động tích cực về mặt kinh tế đối với những nước đang phát triển quan tâm tới chuyển giao công nghệ, dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay chuyển giao li-xăng. Một yếu tố quan trọng trong bối cảnh này là năng lực tiếp thu công nghệ mới của từng nước. Ví dụ, hiện Việt Nam có ít nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển, do đó có ít sáng chế để bảo vệ. Vì vậy, Việt Nam ít được hưởng lợi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 1

  1. điều này cũng đúng với các nước đang phát triển, thì những khiếm khuyết trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ tác động xấu đến việc chuyển giao công nghệ. Một hệ thống quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu được coi là có tác động tích cực về mặt kinh tế đối với những nước đang phát triển quan tâm tới chuyển giao công nghệ, dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay chuyển giao li-xăng. Một yếu tố quan trọng trong bối cảnh này là năng lực tiếp thu công nghệ mới của từng nước. Ví dụ, hiện Việt Nam có ít nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển, do đó có ít sáng chế để bảo vệ. Vì vậy, Việt Nam ít được hưởng lợi từ việc bảo hộ mạnh sáng chế nếu như năng lực tiếp thu công nghệ mới trong nước của ta không được cải thiện. Việt Nam cần tập trung các nguồn lực vào việc tăng cường năng lực để có thể chuyển giao công nghệ tốt hơn như: quản lý được cải thiện, tăng cường các chương trình đào tạo, ban hành các biện pháp khuyến khích công nghệ trọng điểm và một chính sách cạnh tranh hiệu quả giữa những đơn vị tiếp nhận chuyển giao công nghệ. 236
  2. Chương VII TỰ VỆ VÀ NGOẠI LỆ TRONG WTO TS. Nông Quốc Bình Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội GIỚI THIỆU CHUNG Để thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại, các Thành viên của WTO cam kết giảm và tiến tới xoá bỏ các hàng rào làm cản trở tới thương mại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các Thành viên của WTO được phép áp dụng các biện pháp nhất định mà hậu quả của việc áp dụng các biện pháp này ảnh hưởng tới tự do thương mại. “Tự vệ” và “ngoại lệ” được coi là các biện pháp như vậy. “Tự vệ” trong WTO có thể được hiểu theo hai cách. Cách thứ nhất, tự vệ là biện pháp được nêu tại Điều XIX của GATT 1994 và được chi tiết hóa trong Hiệp định về tự vệ47. Cách thứ hai, theo nghĩa rộng hơn, tự vệ không chỉ là biện pháp được quy định trong Hiệp định về tự vệ, mà còn là các biện pháp khác mà các Thành viên của Tổ chức này được phép áp dụng trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ nền kinh tế trong nước. Chương này sẽ tiếp cận vấn đề tự vệ theo cách hiểu thứ hai. Theo đó, các hành động tự vệ có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau và phải tuân theo các điều kiện cụ thể để đảm bảo rằng các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng khi có các lý do chính đáng48. “Ngoại lệ” trong WTO được hiểu là các trường hợp Thành viên WTO được phép không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết của mình theo các hiệp định của WTO. Việc WTO cho phép các Thành viên được áp dụng các biện pháp “tự vệ” và “ngoại lệ” là nhằm tăng cường và thúc đẩy hệ thống thương mại quốc tế giữa các Thành viên có điều kiện kinh tế khác nhau. Nhìn Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế. Hỏi đáp về Tổ chức Thương mại Thế giới. 47 NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2004, tr. 97. MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005. 48 237
  3. tổng thể thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ và ngoại lệ là điều kiện an toàn để các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế kém phát triển, có thể hội nhập sâu hơn vào lĩnh vực thương mại quốc tế. Bởi vì, trong những điều kiện cho phép, để bảo vệ nền kinh tế của mình, các Thành viên đều có thể áp dụng các biện pháp tự vệ và ngoại lệ. Theo quy định của WTO, các hành động tự vệ và áp dụng các ngoại lệ có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, khi thực hiện các biện pháp này cần phải tuân theo các điều kiện cụ thể nhất định. Thông thường, biện pháp tự vệ và các ngoại lệ được thể hiện dưới các hình thức sau đây: - Đàm phán lại về ưu đãi; - Miễn trừ; - Bảo hộ khẩn cấp và Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VERS) - Các biện pháp chống bán phá giá; - Các biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp; - Các hạn chế thương mại nhằm bảo vệ cán cân thanh toán; - Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ; - Các ngoại lệ chung. 7.1. ĐÀM PHÁN LẠI VỀ ƯU ĐÃI 7.1.1. Giới thiệu Để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá lưu thông trong thương mại quốc tế, các nước thường dành cho nhau những ưu đãi nhất định. Đối tượng của ưu đãi thông thường là thuế. Theo đó mức thuế ưu đãi được áp dụng đối với hàng hoá dựa trên danh mục ưu đãi mà các bên đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, nếu việc áp dụng những thoả thuận ưu đãi sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế của một nước thì những thoả thuận về ưu đãi này có thể không được áp dụng. Trong trường hợp này, các nước sẽ tiến hành đàm phán lại về ưu đãi. Đàm phán lại về ưu đãi được quy định tại Điều XXVIII GATT 1947 và 238
  4. được giải thích trong “Thoả thuận về cách hiểu Điều XXVIII của GATT 1994”. Mục đích của đàm phán lại là các bên cố gắng duy trì một mức nhân nhượng chung có đi có lại và cùng có lợi, không kém phần thuận lợi hơn cho thương mại so với mức đã có được theo Hiệp định GATT trước các cuộc đàm phán đó49. Khoản 4, Điều XXVIII GATT 1947 quy định bất kỳ lúc nào và trong những hoàn cảnh đặc biệt, các Bên ký kết có thể cho phép một Bên ký kết tiến hành đàm phán nhằm điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng trong Biểu tương ứng thuộc phụ lục của Hiệp định GATT theo những thủ tục và điều kiện nhất định. 7.1.2. Điều kiện thủ tục đàm phán lại - Việc đàm phán lại và mọi tham vấn liên quan được tiến hành theo quy định của Điều XXVIII như sau: + Thời gian được xác định là ngày đầu tiên của mỗi thời kỳ 3 năm, thời kỳ này được xác định bắt đầu từ ngày 1/1/1958 hoặc do các Bên ký kết xác định; + Bên ký kết có yêu cầu phải đàm phán và đạt được thoả thuận về điều chỉnh hoặc rút bỏ nhân nhượng; + Bên ký kết có yêu cầu đã tham vấn với bất kỳ Bên ký kết nào khác có quyền lợi đáng kể với nhân nhượng đó. - Nếu các Bên ký kết có quyền lợi chủ yếu không đạt được một thoả thuận trước ngày 1 tháng 1 năm 1958 hoặc trước khi kết thúc một thời kỳ mà đã được các Bên ký kết xác định thì Bên đưa ra đề nghị điều chỉnh hoặc rút bỏ các nhân nhượng có thể thực hiện đề nghị của mình. Khi đó, bất kỳ Bên ký kết nào đã tham gia đàm phán ban đầu về nhân nhượng cụ thể này hoặc bất kỳ Bên ký kết nào có quyền lợi là đối tác cung cấp chủ yếu được các Bên ký kết công nhận hoặc bất kỳ Bên ký kết nào có quyền lợi đáng kể với nhân nhượng này đều có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã được đàm phán ban đầu (khoản 3a Điều XVIII GATT). - Nếu đàm phán đạt được một thoả thuận giữa các Bên ký kết có quyền lợi chủ yếu nhưng không thoả đáng với một Bên ký kết khác có 49 Khoản 2, Điều XXVIII, Hiệp định GATT 1947. 239
  5. quyền lợi đáng kể với nhân nhượng đã được thừa nhận thì Bên ký kết khác này có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã được đàm phán ban đầu (khoản 3b Điều XVIII GATT). - Nếu không đạt được một thoả thuận giữa các Bên ký kết có quyền lợi chủ yếu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được phép tiến hành đàm phán hoặc trong thời hạn dài hơn do các Bên ký kết xác định thì bên yêu cầu có quyền đưa vấn đề ra các Bên ký kết giải quyết (khoản 4c Điều XVIII GATT). Khi được yêu cầu như vậy, các Bên ký kết phải nhanh chóng xem xét và thông báo ý kiến của mình cho các Bên ký kết có quyền lợi chủ yếu biết để giải quyết vấn đề (khoản 4 Điều XVIII GATT). 7.2. MIỄN TRỪ 7.2.1. Khái niệm Khi tham gia với tư cách Thành viên của WTO, các nước phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, Thành viên không phải thực hiện nghĩa vụ của mình, những trường hợp này được gọi là trường hợp miễn trừ. Nói cách khác, miễn trừ là trường hợp mà các Thành viên WTO dành cho một Thành viên khác không phải áp dụng một điều khoản nào đó trong một lĩnh vực xác định trong thương mại quốc tế của nước đó. 7.2.2. Các điều kiện cho phép miễn thực hiện nghĩa vụ Những quy tắc về cho phép miễn thực hiện nghĩa vụ được quy định tại các khoản 5 Điều XXV của GATT và khoản 3 Điều IX của Hiệp định WTO. Theo các quy định trên đây thì việc miễn thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể được phép áp dụng khi đảm bảo hai điều kiện: Trong các trường hợp ngoại lệ và được đại đa số Thành viên WTO chấp thuận. Thứ nhất, trong các trường hợp ngoại lệ. Khoản 4 Điều IX Hiệp định WTO yêu cầu các quyết định của Hội nghị Bộ trưởng cho phép miễn trừ một nghĩa vụ nào đó phải nêu rõ các trường hợp ngoại lệ áp dụng cho quyết định đó, cũng như các điều khoản và điều kiện điều chỉnh việc áp dụng này và ngày hết hiệu lực của miễn trừ. Bất cứ việc miễn thực hiện nghĩa vụ nào được chấp thuận với thời gian trên một năm phải được xem xét lại hàng năm để đảm bảo rằng các trường hợp ngoại lệ 240
  6. làm cơ sở cho việc miễn thực hiện nghĩa vụ đó vẫn tồn tại, cũng như các yêu cầu và điều kiện kèm theo việc miễn thực hiện nghĩa vụ này được thoả mãn. Dựa trên xem xét hàng năm, Hội nghị Bộ trưởng có thể gia hạn, sửa đổi hoặc chấm dứt sự miễn trừ đó. Thứ hai, việc miễn trừ phải được đại đa số Thành viên chấp thuận. Việc chấp thuận này thông qua bỏ phiếu. Đối với việc bỏ phiếu, khoản 5 Điều XXV của GATT quy định hai điều kiện. Một là, các Bên ký kết bỏ phiếu về vấn đề liệu có chấp nhận cho Bên ký kết làm đơn được miễn thực hiện nghĩa vụ hay không, ít nhất phải có hai phần ba trong số Thành viên bỏ phiếu chấp thuận việc miễn thực hiện nghĩa vụ. Hai là, đa số Thành viên bỏ phiếu phải chiếm quá bán tổng số các Bên ký kết. Tuy nhiên, điều kiện thứ hai trên đây được quy định trong khoản 5 Điều XXV của GATT đã bị thay đổi bởi khoản 3 Điều IX của Hiệp định WTO khi điều khoản này ấn định nguyên tắc quyết định miễn trừ được thông qua bởi ba phần tư số Thành viên. Ngoại lệ cho nguyên tắc này được quy định tại khoản 3a Điều IX. Khoản 3a Điều IX quy định yêu cầu miễn trừ một nghĩa vụ nào đó liên quan đến Hiệp định WTO phải được đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng để xem xét theo đúng thông lệ của cơ chế ra quyết định bằng nguyên tắc đồng thuận. 7.3. BẢO HỘ KHẨN CẤP VÀ HẠN CHẾ XUẤT KHẨU TỰ NGUYỆN 7.3.1. Bảo hộ khẩn cấp Bảo hộ khẩn cấp là một trong những cách tự vệ trong thương mại quốc tế. Theo đó một Thành viên có thể áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế hàng hoá nhập khẩu một cách ồ ạt vào nước mình gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trong nước. Nội dung cơ bản của bảo hộ khẩn cấp là “điều khoản dự phòng” hay còn gọi là “điều khoản giải thoát” (escape clause). Điều khoản dự phòng đối với thương mại hàng hoá được quy định tại Điều XIX GATT và được cụ thể hoá bằng Hiệp định về các biện pháp tự vệ. 241
  7. “Điều khoản dự phòng” là một điều khoản trong Hiệp định Thương mại cho phép các Thành viên đình chỉ việc thực hiện ưu đãi thuế và các ưu đãi khác nếu hàng nhập khẩu đe doạ hoặc làm tổn hại nghiêm trọng đến các nhà sản xuất tương tự trong nước. Về mặt lịch sử, điều khoản này được xuất hiện lần đầu tiên trong một Hiệp định Thương mại qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico vào năm 1943. Năm 1947, khi Hoa Kỳ cùng 21 quốc gia khác bắt đầu đàm phán soạn thảo các văn kiện của GATT và ITO, Tổng thống Hoa Kỳ (lúc đó là Truman) đã ban hành Lệnh 9832 (tháng 2 năm 1947) trong đó quy định rằng “điều khoản dự phòng” phải được đưa vào mọi Hiệp định Thương mại theo chương trình Hiệp định Thương mại qua lại Hoa Kỳ. Lệnh này đã được sửa đổi bởi một vài lệnh khác cho tới năm 1951, khi “điều khoản dự phòng” được Nghị viện đưa vào Đạo luật mở rộng các hiệp định Thương mại (Trade Agreements Extension Act) và nó vẫn giữ vai trò quan trọng ngày nay. Điều khoản dự phòng tại Điều XIX của GATT chính là một “hậu duệ” trực tiếp của điều khoản đã xuất hiện trong Hiệp định Thương mại Hoa Kỳ - Mexico và hai điều khoản này mang cùng bản chất.50 Việc áp dụng điều khoản dự phòng có những ý nghĩa to lớn trong việc phát triển thương mại quốc tế. Bởi vì biện pháp này khuyến khích các nước tham gia sâu rộng hơn trong lĩnh vực thương mại khi không bị ràng buộc quá cứng nhắc đối với cam kết của mình. Theo đó các nước có cơ hội rút bỏ cam kết nếu trong những hoàn cảnh mà cam kết đó ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trong nước. Hơn nữa, việc áp dụng điều khoản dự phòng còn tăng cường tính năng động của hệ thống thương mại đa phươngbằng cách thúc đẩy sự ổn định lâu dài của cả hệ thống. Điều kiện áp dụng biện pháp bảo hộ khẩn cấp được quy định tại Điều XIX GATT như sau: (1) Có sự gia tăng của hàng hoá nhập khẩu; (2) Sự gia tăng này mang tính đột biến, không lường trước được và do kết quả của những nghĩa vụ; 50 John H. Jackson. Hệ thống thương mại Thế giới, Luật và Chính sách của Quan hệ Kinh tế quốc tế. The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, London, Tái bản lần II, Tr. 183. 242
  8. (3) Tồn tại mối liên hệ nhân quả giữa sự gia tăng đột biến của hàng hoá nhập khẩu và thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Để có thể áp dụng biện pháp bảo hộ khẩn cấp thì cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu phải tiến hành điều tra. Điều III Hiệp định về các biện pháp tự vệ quy định rằng một Thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ chỉ sau khi cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó tiến hành điều tra theo thủ tục phù hợp với Điều X “Công bố và quản lý các quy tắc thương mại” của GATT 1994. Việc điều tra bao gồm: thông báo công khai cho tất cả các bên liên quan, thẩm vấn công khai, các biện pháp thích hợp khác, để nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các bên có liên quan có thể đưa ra chứng cứ, quan điểm của họ. Cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố báo cáo kết quả điều tra của mình và các kết luận thoả đáng trên cơ sở các vấn đề thực tế và pháp lý. Một trong những mục đích của quá trình điều tra là nhằm xác định tổn hại nghiêm trọng và đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng. Vấn đề này được quy định tại Điều IV Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Các thuật ngữ được chú trọng giải thích gồm: “tổn hại nghiêm trọng” là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp nội địa; “đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng” là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ xảy ra và việc xác định nguy cơ tổn hại nghiêm trọng phải dựa trên cơ sở thực tế chứ không phải phỏng đoán, viện dẫn hoặc khả năng xa. Cơ sở quan trọng để tiến hành đánh giá là có bằng chứng về mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu một loại hàng hoá có liên quan với tổn hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố ngay lập tức một bản đánh giá chi tiết về vụ việc được điều tra cũng như trình bày các nhân tố liên quan được xem xét. Việc áp dụng biện pháp tự vệ được quy định tại khoản 1 Điều V Hiệp định về các biện pháp tự vệ, theo đó, một Thành viên chỉ được áp dụng biện pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản hay khắc phục tổn hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho các điều chỉnh cần thiết. 243
  9. Các Thành viên đang phát triển được hưởng chế độ ưu đãi hơn so với các Thành viên phát triển khi Thành viên nhập khẩu thực hiện biện pháp tự vệ thương mại. Theo quy định tại khoản 1 Điều IX thì “các biện pháp tự vệ không được áp dụng để chống lại hàng hoá có xuất xứ từ một Thành viên đang phát triển, nếu thị phần hàng hoá có liên quan được nhập khẩu từ Thành viên này không vượt quá 3%, với điều kiện là tổng số thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển (có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%) không vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập khẩu của hàng hoá liên quan”. Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ được quy định chung tại Điều VII. Theo đó, thời hạn tối đa để áp dụng các biện pháp tự vệ là 4 năm (khoản 1). Tuy nhiên, khi thoả mãn một số điều kiện cụ thể theo khoản 2 thì quốc gia nhập khẩu có thể quyết định gia hạn, nhưng toàn bộ thời gian áp dụng biện pháp tự vệ kể cả thời gian áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời không được vượt quá 8 năm. Đặc biệt, Thành viên đang phát triển được ưu đãi hơn với quy định về quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong thời hạn tối đa là 2 năm sau năm thứ 8 (Khoản 2 Điều IX). Vấn đề rà soát các biện pháp tự vệ được quy định tại khoản 4 đến khoản 6 Điều VII. Nếu thời hạn áp dụng một biện pháp tự vệ vượt quá 1 năm, Thành viên áp dụng sẽ từng bước nới lỏng biện pháp này trong khoảng thời gian áp dụng. Nếu thời hạn áp dụng vượt quá 3 năm, Thành viên áp dụng biện pháp này sẽ phải rà soát thực tế trong thời hạn không muộn hơn trung kỳ của biện pháp, và nếu thích hợp thì có thể loại bỏ biện pháp đó hoặc đẩy nhanh tốc độ tự do hoá. Khoản 5 Điều VII quy định: không biện pháp tự vệ nào được áp dụng lại đối với việc nhập khẩu một sản phẩm đã bị áp dụng biện pháp này sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực trong thời hạn bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng trước đây, với điều kiện thời hạn không áp dụng phải ít nhất là 2 năm. Ngoại lệ cho trường hợp trên đây là khi một biện pháp tự vệ được áp dụng lại đối với việc nhập khẩu một sản phẩm trong thời hạn 180 ngày hay ít hơn, nếu: (a) ít nhất 1 năm sau ngày biện pháp tự vệ này đã được áp dụng đối với việc nhập khẩu của sản phẩm đó, và (b) biện pháp 244
  10. tự vệ này chưa được áp dụng hơn 2 lần cho cùng một sản phẩm trong vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này. Đối với các Thành viên đang phát triển, cho dù có các quy định tại Điều VII khoản 5, một Thành viên đang phát triển có quyền áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu hàng hoá đã chịu sự áp dụng của biện pháp này, sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực, sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm (khoản 2 Điều IX). 7.3.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints – VERS) là thoả thuận giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, trong đó nước xuất khẩu cam kết sẽ hạn chế mức xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nội dung cơ bản của vấn đề hạn chế xuất khẩu tự nguyện là “Thoả thuận hạn chế tự nguyện” (Voluntary Restraint Arrangement - VRA), theo đó một nước đồng ý hạn chế xuất khẩu của mình sang một nước khác đối với một mặt hàng xác định trong một mức tối đa trong một khoảng thời gian nào đó.51 Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO coi VRA là bất hợp pháp. Điều XI “Cấm và hạn chế một số biện pháp cụ thể” quy định tại khoản 1b: một Thành viên sẽ không tìm kiếm, áp dụng hay duy trì bất cứ một hạn chế xuất khẩu tự nguyện nào... Những biện pháp này bao gồm các hành động do một Thành viên đơn phương áp dụng cũng như các hành động theo các hiệp định, thoả thuận giữa hai hay nhiều Thành viên. Các biện pháp này nếu được áp dụng vào thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực thì phải được thực hiện phù hợp với Hiệp định về các biện pháp tự vệ, hoặc từng bước được loại bỏ. Khoản 2 quy định cụ thể về việc từng bước loại bỏ các biện pháp này sẽ được thực hiện theo lịch trình do Thành viên có liên quan đệ trình cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ không muộn hơn 180 ngày sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực. Lịch trình này sẽ thể hiện tất cả các biện pháp được loại bỏ từng bước, hay 51 MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005, tr. 237. 245
  11. được thực hiện phù hợp với Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong thời hạn không quá 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. VRA được áp dụng giữa nước xuất khẩu (thường là nước đang phát triển) và nước nhập khẩu (thường là nước phát triển). Mặc dù gọi là “tự nguyện”, nhưng thực tế không nước nào lại chịu hạn chế xuất khẩu của mình nếu không vì những lý do khác, ví dụ như để đổi lấy một khoản viện trợ phát triển.52 Điều này làm mất lợi thế cạnh tranh của các nhà cung cấp có hiệu quả dẫn tới bất bình đẳng trong thương mại quốc tế. Do đó, WTO yêu cầu loại bỏ các VRA vì các thoả thuận này là một hình thức đi chệch khỏi mục tiêu thương mại tự do của GATT. 7.4. CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 7.4.1. Giới thiệu Bán phá giá là hiện tượng hàng hoá được bán ra nước ngoài thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm. Hành vi bán phá giá được quy định tại Điều VI của GATT và cụ thể hoá tại “Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại 1994”, hay còn gọi là “Hiệp định Chống bán phá giá”. Theo đó, một sản phẩm được coi là được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó, nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác thấp hơn một trong ba mức sau: (1) Giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự53 nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu; 52 MUTRAP II. Hỏi đáp về WTO. Hà Nội năm 2006, tr. 47. Theo Hiệp định về chống bán phá giá, Điều II: 6, khái niệm “sản phẩm tương tự” được 53 hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc ở trong trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét. 246
  12. (2) Giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương mại thông thường; (3) Giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận. 7.4.2. Tác động tiêu cực của bán phá giá Hành vi bán phá giá của doanh nghiệp có mục đích cơ bản là nhằm loại trừ doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh tại quốc gia nhập khẩu. Với mức giá ưu đãi hơn, doanh nghiệp bán phá giá dễ dàng thu hút phần lớn khách hàng, do đó chiếm thị phần đáng kể tại quốc gia nhập khẩu. Các doanh nghiệp nội địa kinh doanh các hàng hoá tương tự, nếu không có sự dự đoán và ứng phó nhanh với biến đổi thị trường thường rơi vào hoàn cảnh lúng túng không thể tháo gỡ, thị phần cùng doanh thu giảm mạnh và dễ lâm vào tình trạng phá sản. Đây là những điều kiện có thể tạo ra một thị trường độc quyền trong thương mại không có lợi cho người tiêu dùng. Việc bán phá giá sẽ bóp méo bản chất của thị trường vì hàng hoá khi đưa vào lưu thông đã không đúng với giá thực của hàng hoá. Bán phá giá có thể ảnh hưởng tới lợi ích của quốc gia thứ ba do mất thị trường. 7.4.3. Thuế chống bán phá giá - biện pháp hạn chế Điều VI GATT quy định rằng việc bán phá giá “phải bị xử phạt nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một Bên ký kết hay thực sự làm chậm trễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước”. Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hoặc ngăn ngừa việc bán phá giá, một Bên ký kết có thể đánh vào bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá. Khoản thuế này không được lớn hơn biên độ bán phá giá của sản phẩm đó. Trong đó, biên độ bán phá giá là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu một hàng hoá với giá trị thông thường của hàng hoá đó. Như vậy, bản chất của thuế chống bán phá giá là nhằm bù đắp hoặc hạn chế các thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra. Biện pháp đánh thuế chống 247
  13. phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi kết quả của quá trình điều tra xác định tồn tại các điều kiện: (i) hàng hoá đó được đưa vào kinh doanh trên thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá trị thông thường của nó; (ii) ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu bị thiệt hại về mặt vật chất; (iii) tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá với thiệt hại vật chất đó. Để tiến hành đánh thuế chống bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành điều tra. Thủ tục và điều kiện điều tra phải tuân thủ quy định của Hiệp định về chống bán phá giá. Những nội dung này được ghi nhận tại các Điều II, III, V, VI của Hiệp định. Hộp 7.1. Vụ anh đào đông lạnh Một trường hợp do Cộng đồng châu Âu đưa ra GATT vào năm 1992 chống lại Australia. Cơ quan chống phá giá của Australia (ADA) đã áp dụng thuế đối kháng với anh đào đông lạnh nhập khẩu từ Pháp và Italia. Để đi đến kết luận về sự thiệt hại vật chất đối với ngành công nghiệp Australia, ADA đã định nghĩa ngành công nghiệp bao gồm việc trồng anh đào trắng, người ngâm muối và người sản xuất anh đào đông lạnh. Cộng đồng châu Âu khẳng định rằng điều đó mâu thuẫn với khoản 5 Điều 6 của Bộ luật Trợ cấp, một trong các hiệp định Vòng Tokyo, trong đó yêu cầu rằng “công nghiệp nội địa” phải được giải thích là các nhà sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự nói chung. Cộng đồng Châu Âu cũng khẳng định rằng vì ngành công nghiệp Australia sản xuất anh đào đông lạnh lợi nhuận đã tăng lên 8% so với 2 năm trước đó, do vậy không thể nói là họ đang phải chịu thiệt hại vật chất. Ban hội thẩm đã họp 2 lần để xem xét trường hợp này, nhưng trước khi họ đưa ra quyết định thì Cộng đồng Châu Âu đã thông báo cho Trưởng Ban hội thẩm rằng họ không muốn theo đuổi vụ này nữa. (Nguồn: MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005, tr. 99.) 7.5. THỰC TẾ VIỆC BÁN PHÁ GIÁ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆT NAM VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BÁN PHÁ GIÁ 7.5.1. Thực tế việc bán phá giá liên quan đến Việt Nam Trong hoạt động thương mại quốc tế, hàng hoá của Việt Nam đã từng bị coi là bán phá giá ở nước ngoài. Một trong những ví dụ điển hình 248
  14. là cá basa của Việt Nam bán trên thị trường Hoa Kỳ. Qua những thực tế này Việt Nam đã rút ra được cho mình nhiều bài học quý báu. Trên thị trường Việt Nam đã từng xuất hiện hàng hoá nhập từ nước ngoài được bán với giá rất thấp. Hiện tượng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới những nhà sản xuất hàng hoá cùng loại của Việt Nam. Tuy nhiên, tiến hành kiện bán phá giá hàng hoá của nước ngoài trên thị trường Việt Nam là vấn đề phức tạp. Để thực hiện có hiệu quả việc chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam thì cần phải hoàn thiện và cụ thể hoá các quy định của Việt Nam về chống bán phá giá hàng nhập khẩu và có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, các hiệp hội nhà sản xuất trong nước trong việc thực hiện quyền của mình khi có hiện tượng bán phá giá. 7.5.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam về bán phá giá Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Pháp lệnh quy định về thủ tục, nội dung điều tra và việc áp dụng các biện pháp đối với hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam. Điều 6 Pháp lệnh quy định các điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo đó biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam khi có hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là khi hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam đồng thời biên độ bán phá giá phải được xác định cụ thể và điều kiện thứ hai là việc bán phá giá hàng hoá là nguyên nhân gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Để xác định điều kiện trên đây, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành điều tra. Nội dung điều tra phải tập trung vào việc: (a) xác định hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam và biên độ phá giá; (b) xác định thiệt hại đáng kể hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước; (c) quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng hoá vào Việt Nam với thiệt hại đáng kể hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước (Điều 12 Pháp lệnh). 249
  15. 7.6. CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG ĐỐI VỚI HÀNG NHẬP KHẨU ĐƯỢC TRỢ CẤP 7.6.1. Trợ cấp chính phủ Vấn đề trợ cấp chính phủ được quy định tại Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Coutervailing Measures - SCM). Điều 1 của Hiệp định này đưa ra định nghĩa về trợ cấp, theo đó trợ cấp được coi là tồn tại ở một trong các trường hợp: (1) Có sự đóng góp về tài chính của Chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên lãnh thổ của một Thành viên (theo Hiệp định này được gọi chung là “chính phủ”) và một lợi ích đạt được nhờ sự đóng góp đó; (2) Có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều XVI54 của Hiệp định GATT 1994 và một lợi ích đạt được nhờ sự hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá đó. Trợ cấp của Chính phủ cho các doanh nghiệp nội địa có ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại quốc tế. Bởi vì hành động trợ cấp của Chính phủ sẽ bóp méo môi trường cạnh tranh tự nhiên và triệt tiêu ý nghĩa của chính sách tự do hoá mậu dịch. Các doanh nghiệp được nhận trợ cấp sẽ có những lợi thế trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh không được trợ cấp, đặc biệt là về mặt giá cả. Hàng hoá được trợ cấp đưa vào lưu thông sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại nội địa (khi lưu thông tại thị trường trong nước) cũng như thương mại quốc tế (khi được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài). Cơ chế trợ cấp của Chính phủ còn thường tạo ra tâm lý “ỷ lại” của doanh nghiệp được trợ cấp, từ đó có thể dẫn tới hiệu quả hoạt động giảm sút và những quyết sách không cẩn trọng của chủ doanh nghiệp, gây thiệt hại lớn về kinh tế. 54 Tóm tắt nội dung Điều XVI: Trợ cấp: Mọi trợ cấp phải được thông báo rõ. Các Bên ký kết cần tránh việc sử dụng trợ cấp trong xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Các Bên ký kết công nhận rằng trợ cấp có thể gây phương hại cho các Bên khác và sẽ tránh việc sử dụng trợ cấp trong xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Từ 1/1/1958, các Bên ký kết nhất trí không sử dụng trợ cấp đối với các hàng hoá ngoài các sản phẩm sơ cấp nếu việc này gây ra việc giảm giá tại thị trường nhập khẩu. (Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, MUTRAP II, Hà Nội 2005, tr. 248) 250
  16. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì việc duy trì cơ chế trợ cấp của Chính phủ đối với một số ngành kinh tế trọng yếu (ví dụ các ngành công nghiệp non trẻ, các ngành thiết yếu cho an ninh quốc gia, nông nghiệp...) là cần thiết cho việc ổn định và đảm bảo cho nền kinh tế vĩ mô của quốc gia. Vì vậy mà hiện nay các thiết chế thương mại quốc tế như WTO chỉ đưa ra yêu cầu giới hạn và giảm dần việc áp dụng biện pháp trợ cấp trong thương mại quốc tế mà không cấm hoàn toàn. Điều XVI Hiệp định GATT 1994 của WTO nêu yêu cầu các Thành viên tránh áp dụng trợ cấp đối với hàng hoá xuất khẩu. Hộp 7.2 Vụ mì sợi Tranh chấp này được bắt đầu khi Hoa Kỳ kiện Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) năm 1982 dựa trên cơ sở những trợ cấp xuất khẩu cho các sản phẩm mì sợi (mì ống, mì spaghetti, và các sản phẩm tương tự) được sản xuất từ bột ngũ cốc không phù hợp với Điều 9 Bộ luật trợ cấp của Vòng Tokyo. Điều này quy định rằng các Bên ký kết không được trợ cấp xuất khẩu cho những sản phẩm ngoài các sản phẩm sơ cấp nhất định. EEC đã lý giải rằng các sản phẩm mì sợi là một loại sản phẩm sơ cấp. Thực tế là EEC đã điều hành một hệ thống chung đối với thị trường nội địa của sản phẩm ngũ cốc và sản phẩm từ ngũ cốc. EEC đã đưa ra một hệ thống giá nội địa cho cả Cộng đồng và một hệ thống thương mại chung với các nước thứ ba nhằm tránh những dao động về giá của thị trường thế giới ảnh hưởng đến giá ngũ cốc trong nước. Hệ thống này quy định giấy phép xuất khẩu và hoàn giá xuất khẩu. Hoàn giá xuất khẩu được dành để trang trải cho sự chênh lệch giữa giá nội địa và giá trên thị trường thứ 3 đối với các sản phẩm ngũ cốc được xuất khẩu theo dạng tự nhiên hoặc theo hình thức hàng hoá xác định. Các sản phẩm mì sợi nằm trong danh mục các hàng hoá xác định. Việc thanh toán hoàn giá xuất khẩu cho bột ngũ cốc dưới dạng mì sợi được thực hiện từ ngân sách EEC, và cũng áp dụng đối với hoàn giá xuất khẩu cho sản phẩm ngũ cốc. Trong những phát hiện và kết luận của mình, Ban hội thẩm cho rằng mì sợi không phải là một sản phẩm sơ cấp mà là sản phẩm nông sản chế biến. Ban hội thẩm cũng đã kết luận rằng hệ thống hoàn giá của EEC phải được xem là một hình thức trợ cấp theo Điều XVI GATT (Trợ cấp). Ban hội thẩm cho rằng Điều XVI như giải thích trong Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật Trợ cấp đã loại trừ khả năng việc xem xét xuất khẩu một sản phẩm chế biến theo những điều kiện giống như xuất khẩu các bộ phận hợp thành. Theo đó, Ban hội thẩm đã tổng kết rằng hoàn giá xuất khẩu 251
  17. của EEC là dành cho xuất khẩu các sản phẩm mì sợi và được tiến hành nhằm tăng xuất khẩu các sản phẩm này, và trợ cấp của EEC cho xuất khẩu các sản phẩm mì sợi được đưa ra không phù hợp với Điều 9 của Bộ luật Trợ cấp. (Nguồn: MUTRAP II. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Hà Nội năm 2005, tr.164.) Hiệp định SCM quy định ba loại trợ cấp: Trợ cấp bị cấm, hay còn gọi là trợ cấp đèn đỏ; Trợ cấp có thể bị đối kháng, hay còn gọi là trợ cấp đèn vàng; Trợ cấp không thể đối kháng, hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh. - Trợ cấp đèn đỏ Điều 3 Hiệp định SCM nêu các loại trợ cấp đèn đỏ: (i) Quy định về khối lượng trợ cấp, theo luật hay thực tế, dù là một điều kiện riêng hoặc kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả thực hiện xuất khẩu, bao gồm cả những khoản trợ cấp minh hoạ tại Phụ lục 1 của Hiệp định; (ii) Quy định khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng hoặc kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hang nội địa hơn hàng ngoại. Mỗi Thành viên sẽ không được phép duy trì những khoản trợ cấp trên. Tuy nhiên, tồn tại một số ngoại lệ như: Hiệp định Nông nghiệp có quy định khác; quy định dành riêng cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi (Điều 27, Điều 29 Hiệp định SCM). Quy chế đối xử ưu đãi và thuận lợi hơn cho các Thành viên đang phát triển cho phép các Thành viên này được từng bước loại bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu với thời hạn khác nhau theo các trường hợp cụ thể từ 5 năm đến 8 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Các Thành viên đang trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh có thể áp dụng những chương trình và biện pháp cần thiết cho quá trình chuyển đổi; và các chương trình trợ cấp xuất khẩu cũng như trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu sẽ được loại bỏ dần và điều chỉnh cho phù hợp với Hiệp định SCM trong vòng 7 năm, kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực. 252
  18. Thành viên vi phạm quy định về trợ cấp bị cấm sẽ có thể bị áp dụng các biện pháp đối kháng và còn có thể phải thực hiện các chế tài theo Điều 4 Hiệp định SCM. Theo Điều này, thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định cụ thể theo các bước từ tham vấn đến việc đưa vấn đề ra Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Thời hạn để giải quyết tranh chấp đối với vấn đề trợ cấp đèn đỏ chỉ bằng một nửa so với thời hạn thông thường được quy định trong Thoả thuận về giải quyết tranh chấp (DSU). - Trợ cấp đèn vàng Điều 5 Hiệp định SCM quy định các trợ cấp được coi là trợ cấp đèn vàng. Đó là các khoản trợ cấp (i) thoả mãn điều kiện đã nêu trong định nghĩa tại Điều 1 cùng Hiệp định; (ii) không thuộc nhóm các khoản trợ cấp đèn đỏ (trợ cấp bị cấm) hay trợ cấp đèn xanh (trợ cấp không thể đối kháng); và (iii) gây tác động tiêu cực tới quyền lợi của Thành viên khác. Các trường hợp cụ thể của “tác động tiêu cực” là: (a) gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một Thành viên khác; (b) làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994, đặc biệt là những quyền lợi có được từ những nhân nhượng đã cam kết theo Điều 255 của Hiệp định GATT 1994; (c) gây tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một Thành viên khác. Trợ cấp đèn vàng có thể bị kiện và có thể bị áp dụng các biện pháp đối kháng theo quy định về các chế tài tại Điều 7 của Hiệp định. - Trợ cấp đèn xanh Đây là những trợ cấp không thể đối kháng, hay không phải chịu các biện pháp đối kháng. Điều 8 Hiệp định SCM xác định những khoản trợ cấp không thể đối kháng: 55 Tóm tắt Điều 2: Danh mục ưu đãi: Mỗi Bên ký kết phải có một danh mục nêu ra các điều khoản và điều kiện để một sản phẩm có thể được nhập khẩu. Danh mục này thường được gọi là danh mục thuế quan. Không một khoản phí nào khác được đánh vào hàng hoá nhập khẩu. Các phương pháp xác định số thuế phải trả hoặc chuyển đổi đồng tiền không được dùng làm giảm giá trị của ưu đãi thuế. Các Bên có thể yêu cầu tham vấn nếu họ cho rằng những điều Bên kia cam kết không đạt được. (Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, MUTRAP II, Hà Nội 2005, tr. 246) 253
  19. (i) trợ cấp không mang “tính riêng biệt” như nêu tại Điều 2 của Hiệp định SCM; (ii) trợ cấp mang “tính riêng biệt” nhưng thoả mãn mọi điều kiện sau: (a) Nhằm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu được thực hiện bởi các hãng hay các cơ sở đào tạo cao học hoặc cơ sở nghiên cứu, thông qua ký hợp đồng với các hãng; (b) Nhằm trợ giúp cho các vùng khó khăn trên lãnh thổ của một Thành viên theo chương trình chung phát triển vùng và không mang “tính riêng biệt” trong phạm vi vùng đủ điều kiện hưởng trợ cấp; (c) Nhằm hỗ trợ xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp hay các quy định đặt ra, khi các yêu cầu này đã làm cho các hãng phải chịu khó khăn hoặc gánh nặng tài chính lớn hơn. Mỗi khoản trợ cấp thuộc loại (ii) đều phải thoả mãn những điều kiện nhất định mới được coi là trợ cấp không thể đối kháng. Tuy nhiên, quy định về trợ cấp đèn xanh đã hết hiệu lực từ năm 2000, tức là 5 năm sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực56. Như vậy hiện nay không còn tồn tại “trợ cấp không thể đối kháng”, nghĩa là mọi khoản trợ cấp của Chính phủ từ năm 2000 đều có thể bị áp dụng các biện pháp đối kháng nếu thoả mãn quy định tại Điều 1 và Điều 2 Hiệp định SCM. 7.6.2. Biện pháp đối kháng trợ cấp (SCM) Các biện pháp đối kháng trợ cấp được cụ thể hoá tại Phần V Hiệp định SCM. Theo đó, các biện pháp này được thực hiện thông qua thuế đối kháng. - Khái niệm về thuế đối kháng Thuế đối kháng là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu, nhằm bù lại thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu do việc các nhà sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng trợ cấp chính phủ. Thuế đối kháng không phải nhằm trả đũa thương mại mà ý nghĩa căn bản 56 Điều 31 Hiệp định SCM. 254
  20. của biện pháp này là bù đắp thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa tại quốc gia nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp. Vì vậy mà không đánh thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu vượt quá số tiền trợ cấp chính phủ, tính theo đơn vị của sản phẩm được trợ cấp và xuất khẩu57; và thuế đối kháng sẽ có hiệu lực chỉ khi và ở chừng mực cần thiết để đối kháng lại việc trợ cấp đang gây ra thiệt hại58. Để đảm bảo tính công bằng và hợp lý, các loại thuế đối kháng sẽ chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được khởi tố và thực hiện phù hợp với quy định thủ tục nêu tại Phần V Hiệp định SCM và quy định tại Hiệp định Nông nghiệp. Nguyên tắc chung để áp thuế và thu thuế đối kháng là không đánh thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu vượt quá số tiền trợ cấp đã được kết luận là có tồn tại, tính theo đơn vị của sản phẩm được trợ cấp và xuất khẩu59. - Thủ tục thực hiện thuế đối kháng Thủ tục thực hiện thuế đối kháng được thông qua việc khởi tố và tiến hành điều tra. Việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của hành động được coi là trợ cấp sẽ được khởi xướng trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của hoặc thay mặt cho một ngành sản xuất trong nước. Đơn đề nghị phải bao gồm những bằng chứng về sự tồn tại của: (a) khoản trợ cấp, và nếu có thể, nêu rõ cả giá trị trợ cấp; (b) “thiệt hại” theo nghĩa của Điều VI GATT 1994 (thiệt hại vật chất); (c) mối quan hệ nhân quả giữa nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại được cho là đã xảy ra. Một sự khẳng định giản đơn, không có đủ bằng chứng thì sẽ không thể được coi là đủ để đáp ứng yêu cầu60. Trong trường hợp đặc biệt, khi cơ quan có thẩm quyền quyết định điều tra mà không nhận được đơn của và nhân danh một ngành sản xuất trong nước yêu cầu tiến hành điều tra thì việc điều tra chỉ được bắt đầu nếu đã có đủ bằng chứng về một trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả để chứng minh rằng việc bắt đầu tiến hành điều tra là cần thiết61. 57 Khoản 19.4 Hiệp định SCM. 58 Khoản 21.1, Hiệp định SCM. 59 Khoản 19.4 Hiệp định SCM. 60 Khoản 1 Điều 11; Khoản 2 Điều 11 Hiệp định SCM. 61 Khoản 6 Điều 11 Hiệp định SCM. 255
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2