intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 7

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

99
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có thể nói WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đưa ra các quy định điều tiết thương mại ở phạm vi toàn cầu. Các Thành viên của WTO đến từ mọi châu lục với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội không hoàn toàn giống nhau và với trình độ phát triển không đồng đều. Vì vậy, để có cách nhìn toàn diện và khách quan, để có những quy định phù hợp, WTO đã phân các Thành viên ra thành bốn nhóm nước cơ bản. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 7

  1. Chương XII HỘI NHẬP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI GS.TS. Nguyễn Thị Mơ Trường Đại học Ngoại thương 12.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC THÀNH VIÊN CỦA WTO Tính đến ngày 11/01/2007, WTO có tổng số 150 Thành viên chính thức. Có thể nói WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đưa ra các quy định điều tiết thương mại ở phạm vi toàn cầu. Các Thành viên của WTO đến từ mọi châu lục với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội không hoàn toàn giống nhau và với trình độ phát triển không đồng đều. Vì vậy, để có cách nhìn toàn diện và khách quan, để có những quy định phù hợp, WTO đã phân các Thành viên ra thành bốn nhóm nước cơ bản. Đó là: - Nhóm các nước kém phát triển nhất (Least-developed countries - LDCs) - Nhóm các nước đang phát triển (Developing countries) - Nhóm các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Economies in transition) - Nhóm các nước phát triển (Developed countries) Ngoài ra, tại Hội nghị Bộ trưởng của WTO (họp ở Geneva) năm 1998, lần đầu tiên người ta cũng đã bàn đến “một số nền kinh tế nhỏ bé” trong khuôn khổ của nhóm các nước đang phát triển92. Tuy nhiên, WTO không đưa ra tiêu chí để phân biệt mỗi một trong bốn nhóm nước nói trên. Việc phân loại các Thành viên nói trên được tiến hành như sau: 12.1.1. Các nước kém phát triển nhất Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Geneva năm 1998 92 398
  2. Căn cứ vào những tiêu chí do Liên hiệp quốc đưa ra để xếp hạng các nước kém phát triển nhất, WTO đưa ra quan điểm là những nước nào được Liên hiệp quốc xếp hạng là nước “kém phát triển nhất” cũng được WTO đối xử như các nước kém phát triển nhất trong hệ thống WTO. Theo quy định của Ủy ban kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc (ECOSOC), để xem xét một nước có phải là nước kém phát triển nhất hay không, có thể dựa vào các chỉ số sau: - GNP bình quân đầu người; - Tỷ lệ sống của trẻ sơ sinh; - Tỷ lệ biết chữ của người lớn tuổi; - Tỷ lệ nhập trường tiểu học và trung học; - Tỷ lệ ngành kỹ thuật chế tạo trong GDP; - Tỷ lệ tiêu thụ điện năng bình quân đầu người; - Tỷ lệ tập trung xuất khẩu. Các chỉ số này và danh sách các nước LDCs được ECOSOC xem xét lại 3 năm một lần. Vì vậy, sau mỗi lần xem xét, số các nước LDCs có thể giảm xuống. Hiện nay, các nước thuộc nhóm này chủ yếu là ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ La tinh. Đó là: Angola, Afganistan, Bangladesh, Cộng hòa Trung Phi, Gambia, Guinea, Haiti, Lào, Liberia, Madagascar, Myanmar, Nepal, Somalia, Togo, Tanzania, Zambia v.v… Khi gia nhập WTO, những nước này được hưởng những biện pháp đối xử thuận lợi mà không đòi hỏi phải có đi có lại. Quyết định có lợi cho các nước LDCs, được thông qua tại Marakesh vào năm 1994, cho phép các nước này được quyền cam kết và được hưởng các ưu đãi ở chừng mực phù hợp với nhu cầu phát triển và các điều kiện về tài chính và thương mại của họ. Một số Hiệp định đa phương của WTO cũng đưa ra các quy định dành riêng cho các nước LDCs. Ví dụ, Hiệp định TRIPs cho phép các nuớc LDCs không áp dụng các quy định của Hiệp định này trong vòng 10 năm. Hiệp định GATS yêu cầu các nước tạo điều kiện để các Thành viên LDCs tham gia tích cực hơn nữa vào thương mại dịch vụ toàn cầu. 399
  3. 12.1.2. Các nước đang phát triển Nhóm các nước đang phát triển (Developing countries) cũng không được xếp loại theo các tiêu chí cụ thể. Để xem xét một nước có phải là một nước đang phát triển hay không, WTO dựa trên nguyên tắc “tự nhận”. Điều này có nghĩa là nếu một nước Thành viên của WTO cho rằng mình không phải là nước nằm trong nhóm các nước LDCs thì có thể tự nhận mình là nước đang phát triển. Việt Nam nằm trong nhóm các nước này. 12.1.3. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi Các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Economies in transition) là tên gọi được dùng để chỉ các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nay đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Những nước này còn được các nước phát triển như Mỹ… gọi là những nền kinh tế phi thị trường. Đó là các nước Xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu hoặc Liên Xô (cũ) trước đây. Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác có xuất phát điểm từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (centrally-planned economies – CPE) cũng thuộc nhóm nước này. 12.1.4. Các nước phát triển Nhóm nước phát triển là các Thành viên của WTO còn lại ngoài ba nhóm nước nêu trên. Các nước phát triển hầu hết là Thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). OECD được thành lập năm 1961 như tổ chức kế nhiệm của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Âu (OEEC). Tổ chức OECD còn được gọi là “câu lạc bộ của những nước giàu”. Mục tiêu của OECD nói riêng và của các nước phát triển nói chung là: - Đạt được sự tăng trưởng kinh tế và việc làm ổn định cao nhất, đồng thời tăng mức sống của các nước Thành viên trong đó vẫn phải duy trì sự ổn định về tài chính nhằm góp phần đóng góp vào sự phát triển kinh tế thế giới; 400
  4. - Đóng góp vào sự mở rộng kinh tế vững chắc ở các nước Thành viên cũng như các nước không phải là Thành viên trong tiến trình phát triển kinh tế; - Đóng góp vào sự mở rộng kinh tế thế giới trên cơ sở đa phương, không phân biệt đối xử phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế. Số lượng các nước phát triển (cũng đồng thời là Thành viên của OECD) hiện nay gồm: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Bỉ, Canada, Australia, Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Luxembourg, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào Nha, Ailen, Iceland, Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan. Trong số các nước này, Ba Lan, Cộng hòa Séc và Hungary là những nước có nền kinh tế chuyển đổi mới gia nhập vào OECD: Cộng hòa Séc gia nhập tháng 12/1995 và Hungary gia nhập tháng 03/1995. Mặc dù các Thành viên của WTO được phân loại thành bốn nhóm nước nói trên, nhưng, trong thực tế, dựa vào các quy định của WTO, có thể chia bốn loại Thành viên nêu trên chủ yếu thành hai loại. Thứ nhất là nhóm các Thành viên phát triển. Thứ hai là nhóm các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Phần trình bày dưới đây sẽ phân tích sự hội nhập của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi vào WTO. 12.2. ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI TRONG WTO 12.2.1. Đặc điểm Các nước đang phát triển nói chung và các nước có nền kinh tế chuyển đổi đều có chung những đặc điểm cơ bản sau đây: - Nền kinh tế có cơ cấu lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên. - Năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Thiếu vốn, lạc hậu về công nghệ. 401
  5. - Bộ máy quản lý không hiệu quả. Thủ tục hành chính cồng kềnh, tiêu cực, tham nhũng. - Nguồn nhân lực chưa được đào tạo đầy đủ và chuyên nghiệp. Ở một số nước châu Phi, châu Á, sự thiếu ổn định về chính trị cũng là một đặc điểm của những nước này. Riêng đối với các nền kinh tế chuyển đổi, cơ chế quản lý kinh tế lạc hậu, quan liêu, không thích ứng với tiến trình toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại cũng có những tác động không tốt đến năng lực cạnh tranh quốc gia khi những nước này gia nhập WTO. Nguyên tắc tự do hóa thương mại trên cơ sở không phân biệt đối xử khi vào “sân chơi chung WTO” cũng đang làm cho các nền kinh tế chuyển đổi đã, đang và sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Những đặc điểm nêu trên đã khiến cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ở vào các vị trí không cân bằng với các nước phát triển. Vì vậy, họ phải xem xét cơ chế của WTO một cách cụ thể hơn để đưa ra những yêu cầu của mình. 12.2.2. Vị trí, vai trò WTO được thành lập ngày 01/01/1995 trên cơ sở kế thừa và mở rộng phạm vi điều chỉnh thương mại quốc tế của Hiệp định GATT. Vì vậy khi nói đến vị trí, vai trò của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong WTO không thể không nhắc đến sự tham gia của những Thành viên này trong GATT. GATT được ký kết tại Geneva vào ngày 30/10/1947 và có hiệu lực từ tháng 01/1948. Cho đến khi WTO ra đời để thay thế GATT, GATT đã tồn tại 47 năm (1948 -1995). GATT hoạt động theo hai cơ chế. Theo cơ chế thứ nhất, các nước Thành viên sẽ tiến hành, trên cơ sở hàng ngày, các hoạt động thi hành pháp luật, qui định của GATT về thương mại, thảo luận các vấn đề chung và giải quyết tranh chấp. Với cơ chế thứ hai, các nước Thành viên có nghĩa vụ tham gia các vòng đàm phán để xây dựng các quy tắc, nguyên tắc, các thỏa thuận nhằm mục tiêu thúc đẩy 402
  6. nhanh hơn quá trình tự do hóa thương mại. Trong 47 năm tồn tại, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán và càng ở những vòng đàm phán về sau, sự tham gia của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi càng đông hơn (xem bảng 12.1) Bảng 12.1. Các Vòng đàm phán của GATT và sự tham gia của các nước đang phát triển Số Tên Vòng nước STT Năm Chủ đề đàm phán tham gia 1 Geneva 1947 Thuế quan 23 2 Annecy 1949 Thuế quan 13 3 Torquay 1951 Thuế quan 38 4 Geneva 1956 Thuế quan 26 1960 – Thuế quan 5 Dillon 26 1961 1964 – Thuế quan và các biện pháp chống 6 Kennedy 62 1967 bán phá giá 1973 – Các biện pháp phi thuế, các hiệp 7 Tokyo 102 1979 định khung Thuế quan, phi thuế, thương mại 1986 – 8 Uruguay dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải quyết 123 1994 tranh chấp Nguồn: Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế Quốc tế, Hỏi đáp về WTO, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002, tr.16. Nhìn từ bảng 12.1 ở trên có thể thấy, ở Vòng đàm phán đầu tiên – Vòng Geneva 1947 – mới chỉ có 23 nước Thành viên. Nhưng số các nước đang phát triển cũng chiếm hơn 50%93. Cho đến trước Vòng Kennedy, các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi chỉ 93 23 nước này là: Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Bỉ, Canada, Hà Lan, Luxembourg, Na Uy, New Zealand, Tiệp Khắc, Brazil, Chilê, Ceylon (Sri Lanka), Cuba, Ấn Độ, Libăng, Pakistan, Nam Rhodesia (Zimbabwe), Syria, Nam Phi, Myanma, Trung Quốc. 403
  7. đóng vai trò, vị trí thứ yếu trong các cuộc đàm phán của GATT. Điều này được giải thích ở tiếng nói của họ chưa được chú ý. Trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến trước năm 1963, các phiên đàm phán của GATT chỉ tập trung chủ yếu vào vấn đề thuế quan mà không quan tâm đến vấn đề thể chế, quy tắc và hệ thống. Các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ở thời gian này chưa quan tâm lắm đến vấn đề thuế quan vì hoạt động xuất khẩu của họ còn yếu kém. Hàng hóa của họ chưa phải đối mặt với rào cản khi thâm nhập vào thị trường các nước phát triển vì thị phần còn rất nhỏ bé. Vòng đàm phán Kennedy, bắt đầu năm 1963, là bước đột phá lớn đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi. Với sự tham gia của 62 nước trong đó gần 2/3 là các nước đang phát triển, lần đầu tiên GATT dành hẳn nội dung đàm phán của mình là bàn về các nước đang phát triển. Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng đưa ra trong Vòng đàm phán này là phải “thông qua các biện pháp nhằm mở rộng thương mại của các nước đang phát triển và coi đó là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế của các nước này”. Vòng đàm phán Tokyo với số lượng các nước Thành viên là 102, trong đó 2/3 là các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Sự tham gia ngày càng đông hơn về số lượng của các nước đang phát triển trong vòng đàm phán này đã đưa đến kết quả là các Thành viên của GATT đã thông qua một quyết định liên quan đến các nước đang phát triển. Đó là những quy định của GATT về đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển, các nước kém phát triển nhất và các nền kinh tế chuyển đổi. Đây là thành công của các nước đang phát triển. Điều này cho thấy vị trí của các nước đang phát triển ngày càng được chú ý và các nước phát triển đã không thể bỏ qua các yêu cầu của các nước đang phát triển. Vòng Uruguay với sự tham gia của 123 nước, chủ yếu là các nước đang phát triển. Sự tham gia đông đảo của các nước đang phát triển trong Vòng Uruguay đã có những tác động nhất định khi Vòng này kết thúc sau 8 năm đàm phán, với sự ra đời của WTO. Với sự ra đời của WTO, đến nay, Thành viên của WTO đã là 150, trong đó 3/4 Thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ở mọi châu lục. Điều 404
  8. này cho thấy vị trí, vai trò của các nước đang phát triển trong WTO ngày càng lớn mạnh. Tiếng nói của các nước này cũng như sự ảnh hưởng của họ trong các cuộc đàm phán của WTO ngày càng được khẳng định. Vị trí, vai trò của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thể hiện ở sự tham gia ngày càng đông của những nước này trong WTO: trong tổng số 150 Thành viên thì các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi là 111, chiếm 75,33% (xem bảng 12.2). Trong số đó, các nước đang phát triển ở khu vực tiểu vùng Sahara (châu Phi) là 37 nước, ở Mỹ Latinh và Caribê là 32 nước, ở châu Âu và Trung Á là 17 nước, ở Đông Á và Thái Bình Dương là 12 nước, ở Trung Đông và Bắc Phi là 6 nước và ở Nam Á là 6 nước94. Sự tham gia ngày càng đông của các nước này từ mọi châu lục trong WTO đã làm thay đổi mục tiêu của WTO so với GATT. Đó là mục tiêu WTO phải “nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia đó”95. Bảng 12.2. Các Thành viên của WTO và ngày kết nạp (Đã trở thành Thành viên chính thức của WTO tính đến ngày 30/08/2007, xếp theo thứ tự ABC tiếng Việt) Ngày kết Ngày kết STT Nước STT Nước nạ p nạ p 1 30/06/1995 76 01/01/1995 Ai Cập Italia 2 01/01/1995 77 9/03/1995 Ai-xơ-len Jamaica 3 08/09/2000 78 11/04/ 2000 Albania Jordany 4 01/01/1995 79 01/01/1995 Ấn Độ Kenya 5 23/11/1996 80 01/01/1995 Angola Kuwait Antigua và 6 01/01/1995 81 20/12/1998 Kyrgyz Barbuda 94 www.wto.org và www.worldbank.org 95 Lời nói đầu của Hiệp định Marakesh thành lập WTO. Bộ Thương mại, Kết quả Vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên, NXB Thống kê, Hà Nội 2000, tr.5 405
  9. 7 01/01/1995 82 10/02/1999 Áo Latvia 8 11/12/2005 83 31/05/1995 Ả-rập Xê-út Lesotho 9 01/01/1995 84 01/09/1995 Argentina Liechtenstein 10 05/02/2003 85 31/05/2001 Armenia Lithuania 11 01/01/1995 86 01/01/1995 Australia Luxembourg Macao - Trung 12 01/01/1995 87 01/01/1995 Ba Lan Quốc 13 01/01/1995 88 17/11/1995 Bahrain Madagascar 14 01/01/1995 89 31/05/1995 Bangladesh Malawi 15 01/01/1995 90 01/01/1995 Barbados Malaysia 16 01/01/1995 91 31/05/1995 Belize Maldives 17 22/02/1996 92 31/05/1995 Benin Mali 18 01/01/1995 93 01/01/1995 Bỉ Malta 19 01/01/1995 94 01/01/1995 Bồ Đào Nha Marốc 20 12/09/1995 95 31/05/1995 Bolivia Mauritania 21 31/05/1995 96 01/01/1995 Botswana Mauritius 22 01/01/1995 97 01/01/1995 Brazil Mê - hi -cô Brunei 23 01/01/1995 98 06/07/2001 Moldova Darussalam 24 01/12/1996 99 29/02/1997 Bulgaria Mông Cổ 25 03/06/1995 100 26/08/1995 Burkina Faso Mozambique 26 23/07/1995 101 01/01/1995 Burundi Myanmar Các tiểu vương 27 quốc Ả rập 10/04/1996 102 01/01/1995 Na Uy thống nhất 28 13/10/2004 103 01/01/1995 Cambodia Nam Phi 29 13/12/1995 104 01/01/1995 Cameroon Namibia 30 01/01/1995 105 23/04/2003 Canada Nepal 31 19/10/1996 106 01/01/1995 Chad New Zealand 32 01/01/1995 107 01/01/1995 Chile Nhật Bản 33 30/04/1995 108 03/09/1995 Colombia Nicaragua 34 01/01/1995 109 13/12/1996 Niger Cộng đồng 406
  10. châu Âu Cộng hòa 35 01/01/1997 110 01/01/1995 Dân chủ Nigeria Công gô Cộng hòa 36 09/031995 111 09/11/2000 Oman Dominica Cộng hòa 37 04/04/2003 112 01/01/1995 Pakistan Macedonia 38 01/01/1995 113 06/09/1997 Cộng hòa Séc Panama Cộng hòa Papua New 39 01/01/1995 114 09/06/1996 Slovakia Guinea Cộng hòa 40 31/05/1995 115 01/01/1995 Paraguay Trung Phi 41 27/03/1997 116 01/01/1995 Congo Peru 42 01/01/1995 117 01/01/1995 Costa Rica Phấn Lan 43 01/01/1995 118 01/01/1995 Côte d'Ivoire Pháp 44 30/12/2000 119 01/01/1995 Croatia Philippines 45 20/04/1995 120 13/01/1996 Cuba Qatar 46 30/07/1995 121 01/01/1995 Cyprus Rumani Đài Loan - 47 01/01/2002 122 22/05/1996 Rwanda Trung Quốc Saint Kitts và 48 01/01/1995 123 21/02/1996 Đan Mạch Nevis 49 31/05/1995 124 01/01/1995 Djibouti Saint Lucia Saint Vincent 50 01/01/1995 125 01/01/1995 Dominica và Grenadines 51 01/01/1995 126 01/01/1995 Đức Senegal 52 21/01/1996 127 23/07/1995 Ecuador Sierra Leone 53 07/051995 128 01/01/1995 El Salvador Singapore 54 13/11/1999 129 30/07/1995 Estonia Slovenia 55 14/01/1996 130 26/07/1996 Fiji Solomon 56 01/01/1995 131 01/01/1995 Gabon Sri Lanka 57 23/10/1996 132 01/01/1995 Gambia Suriname 407
  11. 58 14/06/2000 133 01/01/1995 Georgia Swaziland 59 01/01/1995 134 01/01/1995 Ghana Tanzania 60 22/02/1996 135 01/01/1995 Grenada Tây Ban Nha 61 21/07/1995 136 01/01/1995 Guatemala Thái Lan Guinea 62 31/05/1995 137 26/03/1995 Thổ Nhĩ Kỳ Bissau 63 25/10/1995 138 01/01/1995 Guinea Thụy Điển 64 01/01/1995 139 01/071995 Guyana Thụy Sỹ 65 01/01/1995 140 31/05/1995 Hà Lan Togo Trinidad và 66 30/01/1996 141 01/031995 Haiti Tobago 67 01/01/1995 142 11/11/2001 Hàn Quốc Trung Quốc 68 01/01/1995 143 29/03/1995 Honduras Tunisia 69 01/01/1995 144 01/01/1995 Hồng Kông Uganda Hợp chủng 70 01/01/1995 145 01/01/1995 Uruguay quốc Hoa Kỳ 71 01/01/1995 146 01/01/1995 Hungary Venezuela 72 01/01/1995 147 07/11/2006 Hy Lạp Việt Nam Vương quốc 73 01/01/1995 148 01/01/1995 Indonesia Anh 74 01/01/1995 149 01/01/1995 Ireland Zambia 75 21/04/1995 150 05/03/1995 Israel Zimbabwe Nguồn: http://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/org6_e.htm Điều này cho thấy vị trí, vai trò của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ngày càng được chú ý hơn khi WTO ra đời. Và cũng từ khi WTO chính thức hoạt động đến nay, các nước đang phát triển ngày càng có tiếng nói mạnh hơn qua các Vòng Đàm phán để xây dựng các quy tắc điều tiết thương mại toàn cầu. Một trong những kết quả cụ thể là WTO đã phải đưa ra quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt dành riêng cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Đối xử đặc biệt và khác biệt này thường mang tính giảm nhẹ so với những nghĩa vụ, cam kết chung mà WTO quy định. Ví dụ như được miễn không phải thực hiện nghĩa vụ; mức độ cam kết thấp hơn; thời gian thực 408
  12. hiện dài hơn v.v…Dưới đây sẽ phân tích cụ thể các quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt mà WTO đã dành cho các nước LCDs và các nền kinh tế chuyển đổi. 12.3. CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT DÀNH CHO CÁC THÀNH VIÊN ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI. Các quy định của WTO về đối xử đặc biệt và khác biệt (Special and Differential Treatment – S&D) dành cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi được chia thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là những quy định, theo đó các Thành viên của WTO, đặc biệt là các Thành viên phát triển phải áp dụng các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Nhóm thứ hai là các quy định cho phép các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi được hưởng sự linh hoạt trong việc chấp nhận các nghĩa vụ do WTO và các hiệp định của WTO quy định. Nhóm thứ ba là những quy định yêu cầu các Thành viên của WTO phải có sự hỗ trợ kỹ thuật để giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi nâng cao năng lực cạnh tranh. Phần phân tích cụ thể dưới đây sẽ giúp làm rõ ba nhóm quy định nói trên của WTO về S&D dành cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. 12.3.1. Nhóm các biện pháp S&D để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi WTO quy định rằng các Thành viên (gồm các Thành viên là những nước phát triển và cả các nước đang phát triển) phải thực thi các biện pháp S&D để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi có thể có được những lợi ích khi tham gia vào WTO. Các biện pháp này được chia thành: 409
  13. 12.3.1.1. Các biện pháp đơn phương của các nước phát triển cho phép nhập khẩu hàng hóa từ các nước đang phát triển trên cơ sở ưu đãi Các biện pháp đơn phương mà các nước phát triển dành cho hàng hóa của các nước đang phát triển được nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi và các nước phát triển gồm Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (Hệ thống GSP), những đối xử ưu đãi hơn đối với các nước kém phát triển và những thỏa thuận tạo điều kiện tiếp cận thị trường ưu đãi cho một số nước đang phát triển nhất định. - Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) Hệ thống GSP là biện pháp đơn phương do các nước phát triển đưa ra để áp dụng dành riêng cho các nước đang phát triển. Hệ thống GSP quy định rằng, hàng hóa nhập khẩu từ các nước đang phát triển sẽ được hưởng chế độ miễn thuế nhập khẩu (thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0) hoặc hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi. Hệ thống GSP sẽ được áp dụng khi các nước phát triển nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp và một số sản phẩm nông nghiệp từ các nước đang và kém phát triển. Nếu được hưởng Hệ thống GSP, hàng công nghiệp của các nước này sẽ có khả năng cạnh tranh khi thâm nhập vào thị trường các nước phát triển. Tuy nhiên, vì Hệ thống GSP là các biện pháp có tính chất đơn phương do các nước phát triển đưa ra nên cũng chính vì vậy, Hệ thống GSP lại bị chính các nước phát triển đặt ra một số điều kiện hạn chế. Ví dụ, các nước phát triển thường quy định rằng hàng nhập khẩu theo một số lượng nhất định trong hạn ngạch mới được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi của Hệ thống GSP; Số lượng hàng nhập khẩu vượt quá ngạch có thể sẽ bị tính thuế trên cơ sở MFN; Những nước đang phát triển đã trở nên có khả năng cạnh tranh hoặc những nước đang phát triển đã chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn sẽ không được hưởng các ưu đãi này nữa. Bên cạnh đó, một số nước phát triển cũng đã sử dụng Hệ thống GSP như một vũ khí chính trị để đối phó lại các nước có chế độ chính trị - xã hội đối lập với mình. Ví dụ, Hoa Kỳ quy định rằng Hệ thống GSP chỉ dành cho những nước đang và kém phát triển có nền kinh tế thị trường. Như vậy, quy định này đã loại bỏ các nước đang và kém phát 410
  14. triển thuộc các nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa, kế hoạch hóa ra khỏi đối tượng được hưởng Hệ thống GSP. - Những đối xử ưu đãi hơn đối với các Thành viên kém phát triển nhất. Những đối xử ưu đãi hơn đối với các Thành viên kém phát triển nhất cũng là biện pháp S&D của WTO dành cho các Thành viên kém phát triển. Những đối xử ưu đãi này là những sự “đối xử đặc biệt” trên mức dành cho các Thành viên đang phát triển. Quy định này của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng của WTO vào năm 1997 với tên gọi là “Những sáng kiến hội nhập dành cho sự phát triển thương mại của những Thành viên kém phát triển nhất”. Sáng kiến này cho phép tất cả các loại hàng hóa của các Thành viên kém phát triển nhất được nhập khẩu vào các Thành viên WTO trên cơ sở miễn thuế hoặc không bị giới hạn bởi những quy định có tính hạn chế khác. Ví dụ, Hệ thống GSP sẽ phải dành cho các Thành viên kém phát triển nhất những ưu đãi cao hơn mức ưu đãi đã dành cho các Thành viên đang phát triển; Những hạn chế trong Hệ thống GSP về hạn ngạch, về tính cạnh tranh hơn của một nước v.v…sẽ không áp dụng đối với các Thành viên kém phát triển nhất. Các quy định có tính ưu đãi hơn dành riêng cho các Thành viên kém phát triển nhất cho thấy tiếng nói của các Thành viên này trong WTO đã có trọng lượng. Các Thành viên kém phát triển nhất đã lập luận một các có cơ sở rằng chính những quy định thống nhất trong hệ thống WTO dành cho các Thành viên một cách không phân biệt đối xử đã gây nên sự bất bình đẳng, bởi vì mỗi Thành viên có điều kiện và hoàn cảnh kinh tế khác nhau. Để loại bỏ những sự bất bình đẳng như vậy, cần thiết phải có các qui định ưu đãi hơn dành riêng cho các Thành viên kém phát triển nhất. Đây là thắng lợi của các Thành viên kém phát triển nhất khi tham gia vào hệ thống thương mại của WTO. 12.3.1.2. Các biện pháp ưu tiên trong đàm phán thương mại về cắt giảm và loại bỏ thuế MFN WTO cũng đưa ra các quy định kêu gọi các Thành viên phát triển phải dành ưu tiên cao hơn cho các Thành viên đang phát triển và các nền 411
  15. kinh tế chuyển đổi trong đàm phán thương mại về cắt giảm thuế, thậm chí xóa bỏ thuế MFN đối với sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu của các Thành viên này, cũng như xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan cản trở về buôn bán các sản phẩm đó. Các quy định này được nêu rõ trong Phần IV Điều XXXVII của Hiệp định GATT (xem hộp 12.1). Phần IV nêu trên của Hiệp định GATT cũng đưa ra các quy định khuyến khích các Thành viên đang phát triển thực hiện các biện pháp ưu tiên trong đàm phán về cắt giảm và loại bỏ thuế nói trên đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Thành viên đang phát triển khác. Hộp 12.1 Các Thành viên phát triển, trong chừng mực có thể, sẽ làm hết sức mình để thực hiện các quy định sau: a. Dành ưu tiên cao cho việc giảm và triệt tiêu các trở ngại về thương mại đối với các sản phẩm hiện nay, hay có thể sau này, được các Thành viên đang phát triển đặc biệt quan tâm, kể cả các trở ngại về thuế quan hay các trở ngại khác tạo thành sự khác biệt phi lý giữa sản phẩm sơ cấp và các sản phẩm chế biến; b. Tự kiềm chế việc đặt ra thêm hay tăng thêm thuế quan hoặc các biện pháp trở ngại phi thuế quan đối với việc nhập khẩu các sản phẩm, hiện nay hay có thể sau này, là những sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Điều XXXVII khoản 1 Phần IV Hiệp định GATT 12.3.2. Nhóm các qui định S&D dành cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thể hiện ở sự cho phép linh hoạt khi chấp nhận các nghĩa vụ theo các hiệp định của WTO. Nhóm này gồm: 12.3.2.1. Cho phép sự linh hoạt trong việc chấp nhận các nghĩa vụ bắt buộc theo các hiệp định của WTO Ví dụ: - Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, Điều XIX Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) đã cho phép các Thành viên đang phát 412
  16. triển có những linh hoạt nhất định để mở cửa ít ngành dịch vụ hơn hoặc tự do hóa ít loại hình giao dịch hơn trong đàm phán thương mại. Điều XIX cũng thừa nhận rằng khả năng mở cửa thị trường mà các Thành viên đang phát triển đưa ra có thể phải tuân theo những điều kiện nhằm mục đích đẩy mạnh khả năng của các ngành dịch vụ trong nước và khả năng chuyển giao công nghệ thông qua thương mại. - Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) qui định rằng các cuộc đàm phán về cắt giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác phải được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. Tuy nhiên, toàn bộ Phần IV của Hiệp định này đã đưa ra quy định, theo đó các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi không cần thiết phải đóng góp vào các cuộc đàm phán thương mại (dưới hình thức giảm thuế và ràng buộc thuế) nếu những đóng góp như vậy không phù hợp với nhu cầu tài chính, phát triển và thương mại của họ. Những quy tắc trong Phần IV của Hiệp định GATT còn quy định rằng, những đóng góp mà các Thành viên đang phát triển cần phải thực hiện phải phù hợp với giai đoạn phát triển của họ. Do vậy, trong Vòng đàm phán Uruguay, các Thành viên đang phát triển đã giảm thuế thấp hơn mức mà các Thành viên phát triển áp dụng. Ngoài ra, Phần IV này cũng đưa ra các quy định kêu gọi giảm thuế chung trên cả biểu thuế trên cơ sở phần trăm sẽ không áp dụng đối với các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. 12.3.2.2. Cho phép được hưởng một thời gian quá độ để tạo điều kiện cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi chuẩn bị Ví dụ: - Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan (CVA) cho phép các Thành viên đang phát triển có thể hoãn áp dụng Hiệp định này trong 5 năm (nghĩa là chỉ phải thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định này từ 01/01/2000). Ngoài ra, nếu hết thời hạn 5 năm này, các Thành viên đang phát triển có thể yêu cầu thêm 3 năm quá độ nữa đối với nghĩa vụ phải áp dụng phương pháp tính toán như Hiệp định này yêu cầu. 413
  17. - Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) qui định các Thành viên đang phát triển sẽ phải thực thi nghĩa vụ trong Hiệp định này từ ngày 01/01/2000, còn các Thành viên kém phát triển nhất sẽ áp dụng từ 01/01/2016. 12.3.3. Nhóm các quy định về hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong việc thực thi các hiệp định của WTO WTO cũng đưa ra các quy định kêu gọi các Thành viên (kể cả các Thành viên phát triển, đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi), Ban thư ký của WTO, cũng như các tổ chức quốc tế khác phải cố gắng cung cấp trợ giúp kỹ thuật cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế và nâng cao năng lực thực thi các nghĩa vụ, các cam kết của họ trong các hiệp định của WTO (xem hộp 12.2). Ban thư ký WTO cũng thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo và tập huấn cho các cán bộ đàm phán của các Thành viên đang phát triển để giúp họ làm quen với hệ thống WTO và nâng cao kỹ năng đàm phán.Một số khóa học đã được tổ chức tại Geneva và thực tập ngay tại Ban Thư ký. Ban Thư ký WTO cũng đã phối hợp với Chính phủ các nước và các tổ chức khác như UNDP, UNCTAD v.v…trong việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Hộp 12.2 41. Chúng tôi nhận thức rõ đòi hòi của tất cả các dân tộc về lợi ích thu được từ những cơ hội do hệ thống thương mại đa phương đem lại. Đa số các nước Thành viên WTO là các nước đang phát triển. Chúng tôi phải tìm cách để đưa những yêu cầu của những nước này vào trọng tâm của Chương trình Công tác đã được thông qua trong Tuyên bố này. 42. Chúng tôi yêu cầu Ban thư ký WTO dành ưu tiên cho những nước đang và kém phát triển trong kế hoạch thường niên của WTO về trợ giúp kỹ thuật. 43. Chúng tôi thông qua Khuôn khổ hội nhập về trợ giúp kỹ thuật liên quan đến thương mại của các nước kém phát triển nhất (IF). Chúng tôi kêu gọi các nước phát triển cần tăng cường đóng góp cho quỹ tín thác của IF và quỹ tín thác nằm 414
  18. ngoài ngân sách của WTO dành cho các nước kém phát triển nhất. Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 4 tại Doha (Qatar tháng 11/2001) Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cam kết này, nhiều Thành viên đang và kém phát triển đã và đang phê phán các Thành viên phát triển về việc các Thành viên này đã không thực hiện đúng cam kết của mình. Vấn đề này đã được các nước châu Phi nêu ra ngay trước thềm Hội nghị Bộ trưởng của WTO tổ chức tại Seattle năm 1999. Ngoài ra, các Thành viên đang và kém phát triển thường than phiền về một số điều kiện hỗ trợ kỹ thuật còn quá cao đối với khả năng tài chính của họ. Ví dụ, để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các Thành viên đang và kém phát triển trong lĩnh vực sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, Ban Thư ký của WTO đã thành lập một tổ chức gọi là Trung tâm Tư vấn luật của WTO. Trung tâm này có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp luật cho các Thành viên đang và kém phát triển khi họ tham gia vào quá trình tố tụng tại Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO. Tuy nhiên, mức phí tư vấn của Trung tâm này lại quá cao, khiến cho các Thành viên đang và kém phát triển của WTO sẽ rất khó khăn để có được sự hỗ trợ kỹ thuật này (xem hộp 12.3). Hộp 12.3. Phí tư vấn của Trung tâm Tư vấn luật WTO (ACWL) Trung tâm Tư vấn luật WTO (ACWL) là một tổ chức hỗ trợ các nước kém phát triển (LDCs), các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi với tư các về mặt pháp luật, đào tạo và giáo dục về các quy định của WTO. Mục tiêu của Trung tâm là mang lại cho những nước kém phát triển hơn trong WTO cơ hội sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp giống như các nước phát triển trong WTO. Dịch vụ của ACWL là dành cho tất cả các nước đang phát triển là Thành viên của cả WTO và ACWL, và cho tất cả các nước kém phát triển 415
  19. trong WTO. Tổ chức này lấy mức độ phát triển của các nước để xem xét mức phí Thành viên và phí tư vấn. Các Thành viên đầu tiên (kể cả Thụy Điển) đóng góp phần vốn ban đầu 1 triệu USD đối với các nước phát triển, và các mức 50.000 USD, 100.000 USD và 300.000 USD đối với các nước đang phát triển (tùy thuộc vào mức độ phát triển – đánh giá dựa trên tỷ lệ thương mại của nước đó đối với thương mại thế giới và GNP tính theo đầu người của nước đó). Thêm vào đó, 9 nước phát triển là Thành viên đóng 1,25 triệu USD mỗi năm trong 5 năm đầu. Việc tư vấn pháp lý chung là miễn phí trong một số giờ nhất định đối với các nước đang phát triển là Thành viên của ACWL và tất cả các nước kém phát triển (cho dù có là Thành viên hay không). Đối với các nước đang phát triển không phải là Thành viên của ACWL, mức phí lên tới 350 USD/giờ cho dịch vụ tư vấn kiểu này. Hỗ trợ về quy trình tố tụng trong các Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO có chi phí từ 25 USD/giờ đối với các nước kém phát triển, tới 250 USD/giờ hoặc hơn đối với các nước đang phát triển có mức độ phát triển cao hơn. ACWL được thành lập vào tháng 6/2001 và bao gồm 7 luật sư có trình độ cao, mỗi châu lục có ít nhất một người. Trong năm đầu hoạt động, tổ chức này đã hỗ trợ 6 nước về tư vấn luật chung và tham gia vào từng đó quy trình giải quyết tranh chấp trong WTO. Nguồn: Ủy ban Thương mại Quốc gia Thụy Điển. Tác động của các hiệp định của WTO đối với các nước đang phát triển, Hà Nội, năm 2005, tr.225. 12..4. SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI TRONG WTO 12.4.1. Tình hình tham gia của các nước đang phát triển và các vấn đề đặt ra 12.4.1.1. Tình hình tham gia Ngay khi GATT ra đời và hoạt động, mặc dù hết sức nỗ lực nhưng các nước đang phát triển chỉ thực sự tham gia vào hệ thống thương mại thế giới từ sau năm 1957, khi tất cả Thành viên của GATT 416
  20. quyết định xem xét về sự tham gia của các nước này một cách cẩn thận hơn. Năm 1958, bản Báo cáo Haberler được đưa ra, trong đó cũng thừa nhận rằng các nước đang phát triển đã đúng khi cho rằng các quy định của GATT là bất lợi cho các nước đang phát triển. Kết quả sau đó là một ủy ban được thành lập để xem xét theo chiều hướng sẽ đưa các vấn đề cụ thể do các nước đang phát triển nêu ra vào chương trình nghị sự của Vòng Kennedy. Cũng vào thời gian này, tình trạng thuộc địa chấm dứt đã dẫn tới kết quả là có thêm nhiều nước đang phát triển gia nhập GATT. Sự tham gia nhiều hơn của các nước đang phát triển trong GATT đã có tác động tích cực cho các nước này: Vòng đàm phán Kennedy coi vấn đề tham gia của các nước đang phát triển là chủ đề chính. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã khẳng định như vậy về sự tham gia của các nước này trong WTO: “Sự tham gia mạnh mẽ hơn của các nước đang phát triển là một trong những nét nổi bật của quá trình mở rộng thương mại và trao đổi vốn trên thế giới trong 10 năm qua”96. Mục tiêu chính của Vòng Kennedy là phải thông qua được biện pháp nhằm mở rộng thương mại cho các nước đang phát triển và coi đó là phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước này. Vòng Tokyo, cũng với sự tham gia ngày càng đông hơn của các nước đang phát triển, tuy nhiên, kết quả thật là đáng quan ngại vì nó đã tạo ra bất lợi cho các nước đang phát triển: các Thành viên phát triển đã đưa ra lời kêu gọi để thông qua cái gọi là GATT bổ sung. Theo GATT bổ sung, các Thành viên đang phát triển sẽ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi một cách hợp lệ. Vì vậy, để GATT bổ sung không có giá trị, các nước đang phát triển đã phải đưa ra các cam kết theo đó phải chấp nhận nghĩa vụ nhiều hơn trong GATT. Vòng Uruguay kết thúc với sự tham gia của 2/3 các nước đang phát triển cho thấy các nước này đã chấp nhận một thực tế là họ chỉ có sức mạnh trong GATT nếu họ chấp nhận cam kết theo tất cả các kết quả của Vòng đàm phán – chấp nhận cả gói các hiệp định của WTO. Rames, Thế giới toàn cảnh 2001, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr.87 96 417
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0