HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 4
lượt xem 8
download
Các nước đang phát triển không chống lại môi trường mà chỉ đơn giản là họ có một số những ưu tiên khác, tập trung nhiều hơn vào những vấn đề liên quan đến luật pháp môi trường, sinh kế và phát triển bền vững (xem Najam và Robins 2001). 9.6. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CÁC CHUẨN MỰC LAO ĐỘNG 9.6.1. Chính sách xã hội: lịch sử và bản chất Thuật ngữ “Điều khoản xã hội” – điều ghi vắn tắt chỉ sự liên kết các thoả thuận thương mại với nhượng bộ về các tiêu chuẩn lao động...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 4
- Các nước đang phát triển không chống lại môi trường mà chỉ đơn giản là họ có một số những ưu tiên khác, tập trung nhiều hơn vào những vấn đề liên quan đến luật pháp môi trường, sinh kế và phát triển bền vững (xem Najam và Robins 2001). 9.6. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CÁC CHUẨN MỰC LAO ĐỘNG 9.6.1. Chính sách xã hội: lịch sử và bản chất Thuật ngữ “Điều khoản xã hội” – điều ghi vắn tắt chỉ sự liên kết các thoả thuận thương mại với nhượng bộ về các tiêu chuẩn lao động trong các Hiệp ước thương mại đa phương– bắt đầu được quan tâm từ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất và được ghi trong quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Điều khoản xã hội được tranh cãi gay gắt trong WTO. Trước Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Singapo năm 1996, Mỹ và EU ủng hộ việc bổ sung “điều khoản xã hội” vào khung khổ WTO, cho phép các nước áp dụng các biện pháp thương mại nhằm buộc đối tác thương mại đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu về lao động. Đến nay, những cố gắng nhằm gắn quyền lao động với thương mại trong phạm vi WTO đang gặp khó khăn. Tuy nhiên, ý tưởng sử dụng các biện pháp thương mại và các hình thức xử phạt để thúc đẩy và bảo vệ quyền lao động lại thường xuyên được nêu ra, cả ở trong và ngoài WTO. ILO đã có nhiều cố gắng nhằm hạn chế lao động trẻ em và những hình thức lạm dụng khác bằng các biện pháp thương mại. Các nỗ lực đơn phương của các thành phố và các bang nhằm gắn kết các biện pháp kinh tế và thương mại với các quyền lao động và quyền con người cũng đang tăng lên. Năm 1999, ILO đã xây dựng Công ước chống lại các hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em có ảnh hưởng tiềm tàng tới thương mại. Công ước này nêu bật khả năng thực tế là có thể có sự xung đột với WTO trong lĩnh vực này. Trước Hội nghị Bộ trưởng Seattle 1999, có những dấu hiệu cho thấy WTO có thể không tiếp tục bỏ qua các tiêu chuẩn về lao động. Các vấn đề về lao động có nội dung nổi bật hàng đầu trong Chương trình nghị sự của Mỹ. Tại châu Âu, bảo vệ lao động, đặc biệt là lao động trẻ em, là một vấn đề quan tâm của nhiều nước. Có nhiều cuộc thảo luận sôi 317
- nổi, chủ yếu theo trục Bắc – Nam, với nhiều tổ chức phi chính phủ và liên đoàn lao động để ủng hộ cho việc áp dụng một điều khoản xã hội như vậy. Tuyên bố Singapore đã thừa nhận thực trạng chi phí lao động thấp hơn ở các nước đang phát triển là một lợi thế hợp pháp vào giao cho ILO là “cơ quan có thẩm quyền quy định và xử lý các vấn đề về tiêu chuẩn lao động” (WTO 1996: 4). Tuyên bố này được khẳng định lại tại Hội nghị Bộ trưởng Doha năm 2001: “Chúng tôi nhắc lại cam kết của mình xem xét các tiêu chuẩn cơ bản về lao động được công nhận rộng rãi trên thế giới. Tổ chức Lao động quốc tế là cơ quan có thẩm quyền xây dựng các tiêu chuẩn đó và có trách nhiệm làm điều đó, và chúng tôi khẳng định ủng hộ hoạt động của tổ chức này nhằm khuyến khích xây dựng các tiêu chuẩn lao động. Chúng tôi cho rằng tăng trưởng kinh tế và phát triển nhờ gia tăng trao đổi thương mại và đẩy mạnh tự do hoá góp phần khuyến khích việc hình thành những tiêu chuẩn nói trên. Chúng tôi phản đối việc sử dụng các tiêu chuẩn lao động nhằm mục tiêu bảo hộ và chúng tôi nhất trí rằng lợi thế tương đối của các nước, đặc biệt là của các nước đang phát triển có chi phí lương thấp, không thể bị đưa ra xem xét dưới bất cứ hình thức nào. Về việc này, chúng tôi ghi nhận rằng các ban thư ký WTO và ILO cần tiếp tục sự hợp tác như hiện nay”. 9.6.2. Thương mại, việc làm và tiêu chuẩn lao động Tiêu chuẩn lao động được sử dụng để chỉ những tiêu chuẩn chủ yếu chi phối điều kiện đối xử đối với nhân công. Khái niệm này liên quan đến nhiều vấn đề rất đa dạng như lao động trẻ em, lao động cưỡng bức hay quyền được thành lập công đoàn, quyền đình công. Thuật ngữ “tiêu chuẩn lao động” bao hàm một phạm vi rộng của các quyền và yêu cầu. Maskus (1997) đã đưa ra các phân loại theo bốn nhóm quyền chính như sau: - Các quyền cơ bản, bao gồm cấm lao động nô lệ, cưỡng bức thân thể, phân biệt đối xử và bóc lột lao động trẻ em. 318
- - Các quyền công dân, bao gồm quyền tự do hiệp hội, thương lượng tập thể, và bộc lộ sự bất bình. - Các quyền sinh tồn, bao gồm các quyền được nhận một mức lương đủ sống, giờ làm việc có giới hạn, thông tin về những rủi ro nghề nghiệp và đền bù tai nạn. - Các quyền về an toàn, bao gồm việc bảo vệ khỏi sự sa thải độc đoán và quyền được nghỉ hưu và bồi thường cho người nghỉ hưu sớm. Một số quyền trong số nói trên được gọi là những tiêu chuẩn lao động cơ bản theo nghĩa là những nguyên tắc mà các quyền này đề cập đến phải được tôn trọng một cách phổ biến, như là sự đối xử nhân đạo với người lao động. Trái lại, một số quyền khác lại phụ thuộc vào mức độ phát triển và sự ưu tiên của mỗi nước. Các tiêu chuẩn lao động ở các nước có mức lương cao thường quan tâm đến tác động của thị trường có tiêu chuẩn lao động thấp ở các nước có tiền lương thấp đến thị trường lao động của họ. Tuy nhiên, sự khác biệt trong tiêu chuẩn lao động có tác động rất nhỏ tới việc làm, tiền lương, và sự bất bình đẳng tiền lương ở các nước có tiền lương cao. Những thay đổi chính sách làm yếu các tiêu chuẩn lao động không nhất thiết có tương quan với tiền lương thấp ở nước nghèo, với hàng xuất khẩu giá thấp từ các nước đó và cuối cùng là gây sức ép giảm tiền lương ở các nước nhập khẩu. 9.6.3. Thương mại và nhân quyền Xét thấy các quốc gia Thành viên WTO thường bỏ qua các cam kết về nhân quyền của mình khi đàm phán các hiệp định thương mại, liệu có phải là tốt hơn nên gắn những quan tâm đến nhân quyền rõ ràng và có hệ thống vào WTO? Trong quá trình chuẩn bị cho Hôi nghị Bộ trưởng Singapo năm 1996, một số công đoàn và các NGO về lao động đã theo đuổi cái gọi là “điều khoản xã hội”, “điều khoản” này đã buộc các nước Thành viên WTO phải xem xét quyền lao động trong các hiệp định Thương mại của mình. Có lẽ lo ngại phải chịu những 319
- hình phạt thương mại mà các nước buộc phải tôn trọng nhân quyền của người lao động. Trong lĩnh vực quyền lao động và con nguời, cộng đồng quốc tế ngày càng tích cực thực hiện các biện pháp chống lại các nước vi phạm. Hơn nữa, rất có thể xảy ra tình trạng là các nước giàu viện cớ là các nước nghèo vi phạm nhân quyền hoặc là tiêu chuẩn nhân quyền thấp để thực hiện những hành động thương mại có tính chất bảo hộ hoặc phân biệt đối xử. Nhìn chung các nước đang phát triển bị cáo buộc vi phạm thường cố gắng biện minh dưới danh nghĩa chủ quyền quốc gia. Họ cho rằng có những điều cốt lõi của quyền con người và lao động cơ bản phải được tôn trọng. Đó là ngăn cấm lao động nô lệ và những hình thức khác của lao động cưỡng bức. Họ cũng đề nghị hỗ trợ và cung cấp nguồn lực để thúc đẩy thực hiện các giải pháp. Ví dụ, cấm sử dụng lao động trẻ em, cấm các nhà máy đóng cửa đuổi lao động trẻ em ra đường làm gái điếm hoặc có những hành vi tội phạm. Dù có điều khoản xã hội hay không, trên thực tế, các quốc gia Thành viên WTO đều có nghĩa vụ nhân quyền theo các hiệp ước nhân quyền. Các tổ chức nhân quyền phản đối điều khoản xã hội thì lại thích nhấn mạnh tới các tiêu chuẩn hiện hành này và tới trách nhiệm giải trình (accountability). Thật tiếc là nhiều cơ quan tương thích của Liên hợp quốc (Uỷ ban về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá [CESCR] và Uỷ ban Nhân quyền [HRC]) lại không có các cơ chế thực thi cần thiết để giám sát có hiệu quả nghĩa vụ thực hiện các hiệp ước của các quốc gia thành viên. 9.6.4. Những vấn đề gây nhiều tranh cãi Vấn đề thương mại và các tiêu chuẩn lao động là những vấn đề gây nhiều tranh cãi. Cuộc tranh luận trong nội bộ WTO xoay quanh ba vấn đề lớn: - Về pháp lý: Có nên hay không nên cho phép áp dụng các biện pháp thương mại như công cụ gây sức ép đối với các nước bị cho rằng đang vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của người lao động? 320
- - Về lý thuyết: Khi một nước áp dụng các tiêu chuẩn lao động không chặt chẽ bằng các nước khác trong lĩnh vực quyền của người lao động, phải chăng hàng hoá của họ có được một lợi thế không lành mạnh? - Về thể chế: WTO có phải là nơi thích hợp nhất để thảo luận các vấn đề liên quan đến lao động? Những vấn đề nêu trên đều chứa đựng một ý nghĩa chính trị duy nhất: liệu đó có phải là các biện pháp thương mại nhằm áp đặt các tiêu chuẩn về lao động hay đơn thuần chỉ là lý do để thực hiện chủ nghĩa bảo hộ? Các hiệp định của WTO không đề cập một tiêu chuẩn nào về lao động. Tuy nhiên, một số nước công nghiệp phát triển cho rằng việc WTO xem xét vấn đề này là một bước tiến để tổ chức này quan tâm đến vấn đề lao động. Với các nước này, các quy định và nội quy của WTO khuyến khích mạnh mẽ các nước Thành viên cải thiện điều kiện làm việc. Nhiều nước đang phát triển và một số nước phát triển lại cho rằng vấn đề này không thuộc thẩm quyền thảo luận của WTO. Họ nhấn mạnh rằng những nỗ lực nhằm đưa tiêu chuẩn lao động vào khuôn khổ đàm phán thương mại chỉ là bức màn che đậy dụng ý bảo hộ mậu dịch. Đại diện của nhiều nước đang phát triển cho rằng chiến dịch nhằm lôi cuốn WTO vào thảo luận chủ đề này trên thực tế là một toan tính của các nước công nghiệp nhằm xem xét lại lợi thế so sánh mà các đối tác thương mại có chi phí lương thấp của họ đang có được hiện nay. Tình trạng này đã dẫn đến một cuộc đấu tranh gay gắt trong nhiều tuần lễ trước khi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Singapo và ngay tại Hội nghị. Cuối cùng, các Thành viên của WTO cam kết công nhận các tiêu chuẩn cơ bản về lao động và chúng không được sử dụng nhằm mục đích bảo hộ mậu dịch. Họ cũng khẳng định không được xem xét lại lợi thế kinh tế của các nước có chi phí lương thấp và các ban thư ký WTO và ILO cần tiếp tục hợp tác với nhau. 321
- 9.6.5. Vấn đề bảo vệ môi trường và lao động trong các thể chế quốc tế Các nguyên tắc cơ bản của GATT/WTO là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia. Những ngoại lệ chung cho các nghĩa vụ này được thấy ở Điều XX của GATT, không có đề cập cụ thể đến "quyền lao động". Hai điểm khác nhau cần chú ý là những cố gắng tìm kiếm các ngoại lệ trong phạm vi hiện tại của GATT. Thứ nhất, quy định của Điều XX có tính chất mở cho các cách giải thích khác nhau. Điều XX nói rằng, các biện pháp không được áp dụng tùy tiện hoặc theo một cách thức phân biệt đối xử không minh bạch. Điều này dẫn đến việc một số ý kiến cho rằng, WTO phải cố gắng phân biệt các vấn đề về lao động với chủ nghĩa bảo hộ trá hình. Những người khác cho rằng WTO có thể và cần đưa ra một hành lang rộng hơn cho các quốc gia hợp pháp hóa các ngoại lệ của họ trong các lĩnh vực liên quan được xác định trong Điều XX, qua đó đem lại một khả năng hạn chế thương mại rộng một khả năng hạn chế thương mại rộng hơn nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Thứ hai, các mối quan ngại về bảo hộ lao động thường gắn liền với các phương pháp sản xuất và xử lý (PPMs), chứ không phải là các sản phẩm. Vấn đề hiện nay là một sản phẩm được sản xuất như thế nào. Những người muốn áp dụng các hình thức xử phạt thương mại để chống lại sự xâm phạm các tiêu chuẩn lao động lại đặt vấn đề về quan điểm thương mại truyền thống trong xử lý các hàng hóa "tương tự". Những người ủng hộ cách giải thích hẹp hơn về Điều XX đã không thành công trong các tranh chấp trước WTO về các biện pháp môi trường. Vấn đề thứ nhất là, một số quyết định giải quyết tranh chấp của WTO cho thấy, ngay cả các hiệp định đa phương về lao động cũng phải mở đường cho các quy định thương mại. Vấn đề thứ hai là, các cách giải thích khác nhau do Uỷ ban Giải quyết Tranh chấp (DSU) đưa ra có thể thay đổi nhu cầu và khả năng của các Thành viên WTO trong việc đàm phán và đạt được các thỏa thuận. Vấn đề thứ ba là, một số vụ kiện về 322
- thương mại và môi trường đã cho thấy các hạn chế trong quá trình giải quyết tranh chấp theo DSU. Ba sự thiếu hụt cơ bản đã bộc lộ ra trong quá trình giải quyết tranh chấp theo DSU trong các vụ kiện về thương mại và môi trường. Thứ nhất, các ban hội thẩm thường chọn cách giải thích hẹp và ủng hộ thương mại của GATT, đặc biệt là của Điều XX. Thứ hai, các căn cứ để ra quyết định thường yếu, một số quyết định tỏ ra thiếu tính chuyên môn và thiếu sự quan tâm tới các vấn đề nằm ngoài lĩnh vực thương mại, và một số quyết định khác thể hiện một tham vọng vượt ra ngoài lĩnh vực luật pháp thương mại, sang lĩnh vực luật pháp quốc tế chung, liên quan đến các vấn đề về lao động và môi trường. Thứ ba, việc tố tụng và tiếp cận của các NGO và các nhóm lợi ích khác đối với các vụ kiện của DSU đang đặt ra những câu hỏi. Điều lệ của WTO cho phép các chuyên gia về môi trường hoặc lao động tham gia vào các ban hội thẩm và đưa ra các thuyết trình trước ban hội thẩm từ các bên liên quan thứ ba, nhưng rất ít trong số các khả năng này được khai thác và thực hiện (Lang 1996). 9.6.6. Phát triển bền vững và nguồn nhân lực Phát triển bền vững đã trở thành một trong những định hướng chiến lược quan trọng nhất của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển, phát triển bền vững được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện nay mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Các nhà nghiên cứu gần đây xác định rõ ba trụ cột phát triển bền vững: bền vững kinh tế; bền vững xã hội và bền vững về môi trường. Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã đi tiên phong trong việc nhận thức và đánh giá phát triển con người, bao gồm các quyền tự do chính trị và dân sự, cũng như các quyền con người về kinh tế và xã hội. Khái niệm này tập trung vào con người trong quá trình phát triển, chứ không phải chỉ nhìn nhận phát triển qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và các siêu dự án. Các khái niệm tương tự khác đang được hình 323
- thành, bao gồm "an ninh con người", một khái niệm về cơ sở phát triển cuộc sống cá nhân và đảm bảo rằng việc tiếp cận tới các cơ sở đó ngày càng được mở rộng. Trong nhóm khái niệm này, sự chú ý tập trung vào nhu cầu và các ưu tiên của các nước đang phát triển. Sự nhấn mạnh này dựa trên các nguyên tắc như "sự công bằng giữa các thế hệ", "trách nhiệm chung nhưng có phân biệt", "quyền phát triển" và sự an ninh "toàn diện". Các ý tưởng như vậy nhằm công nhận sự phụ thuộc lẫn nhau của nhân dân toàn thế giới. 9.7. NHỮNG XUNG ĐỘT TIỀM ẨN GIỮA CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO Các biện pháp xúc tiến thương mại được dùng để bù đắp những méo mó do những chính sách khác gây ra hoặc khắc phục những thất bại của thị trường. Các nước xuất khẩu theo đuổi những chính sách này để đảm bảo rằng những nhà xuất khẩu không phải chịu 2 lần thuế. Các biện pháp này nếu không được quản lý và thực thi tốt sẽ là nguyên nhân tiềm tàng gây mâu thuẫn với các quy định của WTO. Hoàn thuế là việc trả lại khoản thuế đánh vào các yếu tố đầu vào nhập khẩu được dùng để sản xuất hàng xuất khẩu. Vấn đề là việc quản lý chương trình này rất tốn kém và có thể dẫn đến thủ tục hành chính cồng kềnh và trì trệ khi thuế suất cao (hơn 15 hoặc 20% do có sự thất thoát, trì hoãn thanh toán và giấy tờ gian lận). Điều này rất có hại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức nông dân nhỏ. Tạm nhập tái xuất còn gọi là tạm hơn đánh thuế. Khó khăn tiềm tàng của biện pháp này ở các nước có thu nhập thấp với năng lực quản lý kém là việc rò rỉ hàng hoá vào nền kinh tế, nghĩa là các hàng hoá không được dùng để sản xuất hàng xuất khẩu. Việc quản lý cơ chế này còn phức tạp hơn vì chương trình này không tính đến các nhà sản xuất nhỏ và xuất khẩu gián tiếp. Cơ chế hoàn trả này phải được thiết kế phù hợp với WTO để tránh áp dụng thuế bù đắp của đối tác thương mại. Chương trình này không bị coi là trợ cấp xuất khẩu nếu chúng không tạo ra giá trị giảm lớn hơn giá trị thuế thực 324
- đánh vào các yếu tố đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, biện pháp hoàn thuế hay miễn thuế đối với hàng hoá tư bản lại thực sự tạo ra khoản trợ cấp xuất khẩu nếu chúng gắn với kết quả xuất khẩu. Các khu chế xuất là các khu tách biệt được cung cấp một môi trường chính sách và cơ sở hạ tầng thuận tiện cho các nhà đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Theo nghĩa này, khu chế xuất tương tự như cơ chế hoàn thuế và tạm nhập tái xuất, nhưng lại không được đề cập đến trong các hiệp định của TWO. Tuy nhiên, các quy định của Hiệp định về các biện pháp trợ cấp và đền bù cũng áp dụng đối với trợ cấp được thực hiện thông qua khu chế xuất. Những hạn chế về trợ cấp xuất khẩu có thể tác động tới khả năng thành lập các khu chế xuất trong tương lai. Nguồn tài chính cho xuất khẩu là một trong những hạn chế chính cản trở hàng xuất khẩu ở nhiều nước đang phát triển có thu nhập thấp. Vấn đề theo WTO là liệu việc trợ cấp có gắn với xuất khẩu không. Các khoản trợ cấp xuất khẩu về bản chất là chống lại thương mại bình đẳng. Trợ cấp xuất khẩu bị cấm đối với các Thành viên WTO có thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD/năm. Trợ cấp xuất khẩu làm tăng tranh chấp trong WTO, kể cả trường hợp chống lại các nước đang phát triển. Các trường hợp thuế của Mỹ áp dụng đối với các tập đoàn bán hàng ở nước ngoài hay như các khoản vay ưu đãi của Chính phủ Ôxtrâylia đều vi phạm quy chế của WTO. Câu hỏi về các nguyên tắc trợ cấp vẫn chưa được tranh luận và bàn bạc một cách ngang bằng với các cuộc thảo luận về ESM. Vì lý do này, việc quyết định tính cần thiết hay khả thi của việc đưa ra các nguyên tắc sẽ đòi hỏi một giai đoạn xác định kỹ lưỡng hơn nhằm xác định mức độ các khoản trợ cấp cho các ngành dịch vụ và các trường hợp mà các khoản trợ cấp này có thể có tác động xấu đến thương mại hay đầu tư. Khung khổ hiện nay của GATS không phải không có các quy định về áp dụng trợ cấp. Nói chung, các khoản trợ cấp được coi là “các biện pháp” nằm trong ý nghĩa của GATS; do vậy, nghĩa vụ MFN là có hiệu lực. Đối xử quốc gia được áp dụng cho hoạt động trợ cấp của một số Thành viên Hiệp định GATS cho ngành đã được ghi trong lịch trình cam kết của một nước. Chế độ đối xử quốc gia có thể sử dụng một nguyên tắc mạnh đối với việc sử dụng trợ cấp, vì nó yêu cầu các Chính phủ cung cấp trợ cấp 325
- cho các nhà cung ứng dịch vụ trong nước cũng phải cung cấp cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài hoạt động trong nước đó. Sự phức tạp tương tự cũng xảy ra đối với việc sử dụng các biện pháp bù đắp cho các khoản trợ cấp có thể bị kiện. 9.8. SỰ ĐIỀU TIẾT TRONG NƯỚC 9.8.1. Sự điều tiết trong nước: phạm vi và lý do Việc trao đổi trong lĩnh vực dịch vụ khác xa so với thương mại hàng hóa, tác động bởi nhiều quy định pháp lý trong nước. Nhiệm vụ trọng tâm trong đàm phán thương mại đa phương là xây dựng các quy tắc nhằm đảm bảo rằng những quy định pháp luật đó sẽ hỗ trợ chứ không cản trở tự do hóa thương mại. Một nguyên tắc cơ bản, nghĩa vụ đối xử quốc gia đòi hỏi các quy định pháp luật không phân biệt đối xử theo hướng có hại người nước ngoài. Tuy nhiên, thương mại có thể bị ngăn cản thậm chí bởi các quy định không có sự phân biệt đối xử, chẳng hạn như một số yêu cầu về tiêu chuẩn và cấp phép do thiếu các quy định khuyến khích cạnh tranh. Mặc dù gần đây đã có nhiều đề xuất quan trọng nhằm khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực kế toán và viễn thông, các quy tắc chung về quy định pháp luật trong nước trong Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) vẫn còn yếu. Khi tiến tới vòng đàm phán tiếp theo về dịch vụ, câu hỏi đặt ra liệu có phải cách tốt nhất là tiếp tục dựa vào các sáng kiến theo từng ngành hay có thể áp dụng một cách tiếp cận tổng quát hơn. Sự đa dạng của lĩnh vực dịch vụ và khó khăn trong việc đề ra các quy tắc chung thích hợp về mặt chính sách có xu hướng khuyến khích cách tiếp cận theo từng ngành. Tuy nhiên, trong khi lĩnh vực dịch vụ có sự đa dạng lớn, không có sự khác biệt lớn về các lý do kinh tế và xã hội đằng sau việc can thiệp bằng pháp luật và việc tập trung vào những lý do này đem lại các cơ sở kiến tạo nên các quy tắc chung có ý nghĩa. Một nguyên tắc tổng quát như vậy có ưu thế hơn so với cách tiếp cận theo từng ngành bởi ít nhất là 3 lý do: nó tiết kiệm các nỗ lực đàm phán; tạo ra 326
- các quy tắc cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ thay vì chỉ cho các ngành quan trọng về mặt chính trị; và giảm thiểu khả năng các cuộc đàm phán bị chi phối bởi các nhóm lợi ích theo ngành. 9.8.2. Xem xét sự điều tiết ở tầm quốc gia và địa phương Lý do kinh tế của các quy định trong lĩnh vực dịch vụ, cũng như đối với hàng hóa, chủ yếu xuất phát từ sự thất bại của thị trường trong 3 hình thái sau: độc quyền tự nhiên hoặc độc quyền nhóm, thông tin bất đối xứng, và ảnh hưởng ngoại sinh (xem bảng 9.1). Lý do xã hội của các quy định dựa chủ yếu vào vấn đề công bằng. Bảng 9.1. Thất bại thị trường và định hướng khắc phục Thất bại thị Lĩnh vực dịch vụ Cách tiếp cận đa Hành động ở trường phương cấp quốc gia Độc quyền; Các dịch vụ mạng Khái quát hoá các Xây dựng các độc quyền lưới: vận tải (bến quy tắc chủ yếu quy định pháp nhóm cảng và cơ sở hạ đảm bảo khả năng luật khuyến tầng); dịch vụ môi tiếp cận các phương khích cạnh tranh trường (nước thải); tiện cơ bản với mức để bảo vệ lợi ích dịch vụ năng lượng giá dựa trên chi phí người tiêu dùng ở (mạng phân phối (đường bộ, đường những nơi không điện) sắt, cảng, thoát có cơ cấu thị nước, v.v.) trường cạnh tranh. Thông tin bất Dịch vụ trung gian và Thực hành không Tăng cường quy đối xứng các dịch vụ về tri phân biệt việc kiểm định pháp luật thức: tài chính, các định “sự cần thiết”. trong nước để dịch vụ chuyên môn Sử dụng công cụ khắc phục thất v.v… kiểm định để ủng bại thị trường hộ việc lựa chọn một cách có hiệu chính sách khắc quả nhất. phục thất bại thị trường. 327
- Ảnh hưởng Vận tải, dịch vụ, v.v ngoại sinh Các mục đích Vận tải, viễn thông, Đề ra các công xã hội: dịch tài chính, giáo dục, y cụ hiệu quả về vụ công cộng tế. kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu xã hội trong thị trường cạnh tranh Nguồn:Bernard Hoekman, Aaditya Mattoo v à Philip English (2004). Sổ tay về Phát triển thương mại và WTO, Nxb Chính trị Quốc gia. Cho dù các lĩnh vực dịch vụ rất khác nhau, việc tập trung vào các lý do kinh tế và xã hội đằng sau sự can thiệp của pháp luật là cơ sở để đưa ra các quy định chung có ý nghĩa. Thất bại thị trường bởi độc quyền tự nhiên hoặc độc quyền nhóm có thể gây ra các vấn đề về thương mại do các công ty đang có mặt trên thị trường có thể ngăn cản việc tiếp cận thị trường do không có các quy định thích hợp. Do có tác động trực tiếp đến thương mại, đây là hình thức thất bại thị trường duy nhất cần phải khắc phục trực tiếp bằng các quy định đa phương. Quy định về việc này của GATS, Điều VIII (quy định về độc quyền), rất hạn chế. Các nguyên tắc cạnh tranh đã được xây dựng nhằm đảm bảo rằng các nhà cung cấp độc quyền không thể phá bỏ các cam kết về tiếp cận thị trường. Các nguyên tắc này cần được khái quát hóa cho nhiều dịch vụ mạng lưới khác, bao gồm vận tải (cảng/ga và cơ sở hạ tầng), dịch vụ môi trường (nước thải), và dịch vụ năng lượng (mạng phân phối). Cần thực hiện điều này bằng cách đảm bảo rằng bất kỳ nhà cung cấp phương tiện chủ yếu lớn nào cũng phải cung cấp khả năng tiếp cận cho tất cả các nhà cung cấp trong và ngoài nước, với giá cả trên cơ sở chi phí. Cần tăng cường các điều luật song phương để khẳng định với các nước nhỏ có năng lực thực hiện kém rằng lợi ích tự do hóa sẽ không bị 328
- các tập đoàn độc quyền quốc tế thâu tóm. Chẳng hạn, có thể đưa ra hai loại nghĩa vụ. Nghĩa vụ thứ nhất đòi hỏi chấm dứt các trường hợp miễn trừ khỏi luật cạnh tranh quốc gia đối với các thỏa thuận cấu kết có tác động đến các nước khác. (Mỹ và châu Âu hiện loại trừ nội dung vận tải biển ra khỏi phạm vi luật cạnh tranh của họ). Nghĩa vụ thứ hai tạo cho người tiêu dùng nước ngoài quyền kiện hành động phi cạnh tranh của các hãng tàu tại các tòa án quốc gia của các nước có công dân sở hữu hoặc kiểm soát những hãng tàu đó. Nghĩa vụ thứ hai là cần thiết để xử lý vấn đề các cơ quan công quyền thực thi không thích đáng và đã có tiền lệ trong quy định của WTO về quyền sở hữu trí tuệ và chi tiêu chính phủ. Đối với các trường hợp khác về thất bại thị trường, các quy định đa phương không cần giải quyết vấn đề một cách trực tiếp. Thay vào đó, các quy định này cần đảm bảo rằng các biện pháp trong nước nhằm xử lý vấn đề sẽ không hạn chế thương mại một cách quá đáng. Những tác động hạn chế thương mại như vậy có thể nảy sinh từ các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định an toàn, và yêu cầu về trình độ đối với các dịch vụ chuyên nghiệp, tài chính và nhiều dịch vụ khác, cũng như việc trao độc quyền cung cấp dịch vụ bổ trợ trong các ngành như vận tải và viễn thông. Thứ hai là nên giải quyết vấn đề tác động ngăn cản thương mại của các quy định bằng cách bổ sung nội dung kiểm định “tính cần thiết” vào nghĩa vụ đối xử quốc gia. Việc kiểm định này chủ yếu là để chính phủ được tự do giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội, với điều kiện bất kỳ biện pháp nào áp dụng đều không có tác động cản trở thương mại lớn hơn mức cần thiết để đạt được các mục tiêu thoả đáng. Kiểm định là một phần trong các nguyên tắc mới thiết lập trong lĩnh vực kế toán. Tóm lại, công nghệ thông tin và kế toán phát triển và phối hợp hợp lý, có thể cùng bảo đảm cho các quy định pháp luật trong nước đạt được các mục tiêu mà không phải hy sinh hiệu quả kinh tế. Điều này không có nghĩa là không cần các quy định theo ngành. Chẳng hạn, nhiều công trình có giá trị có thể được tiến hành nhằm xác định cách tốt nhất để giải quyết vấn đề thông tin bất đối xứng và sự khác biệt về tiêu chuẩn giữa các quốc gia. 329
- 9.8.3. Giải pháp giải quyết vấn đề độc quyền Sự tồn tại độc quyền nhóm hoặc độc quyền tự nhiên là đặc điểm của dịch vụ theo vị trí (UNCTAD và Ngân hàng Thế giới 1994). Những dịch vụ như vậy đòi hỏi thứ nhất, mạng lưới phân phối chuyên biệt (đường bộ và đường sắt cho vận tải đường bộ, cáp và vệ tinh cho viễn thông, đường ống cho cung cấp nước, dẫn nước thải và cung cấp năng lượng). Các dịch vụ này cũng có thể đòi hỏi các thiết bị chuyên ngành để truyền và nhận dịch vụ: ga, xe lửa và bến xe buýt, cảng biển, sân bay, tổng đài điện thoại. Một lý do của xu hướng độc quyền, độc quyền nhóm là khó khăn trong việc nhân rộng các mạng lưới và cảng do sự hạn chế về mặt bằng. Lý do thứ hai là các rào cản thường gắn liền với đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn. Tuy nhiên, sự phát triển công nghệ mới đây trong các lĩnh vực như viễn thông đang tạo ra cơ hội cho quy mô sản xuất tối ưu và làm thay đổi cách nghĩ truyền thống cho rằng độc quyền là không tránh khỏi. Tự do hóa dịch vụ theo vị trí có thể gồm 2 loại thay đổi. Thứ nhất, cần phải quy định bản thân sự độc quyền càng hẹp càng tốt sao cho cạnh tranh tồn tại ở những nơi có thể. Chẳng hạn, trong đường sắt, chủ độc quyền đường ray có thể bán các dịch vụ thuê ray cho các chủ tàu khác nhau và cạnh tranh nhau. Thứ hai, có thể áp dụng cạnh tranh đối với quyền cung cấp các dịch vụ hiện là độc quyền. Do đó, quyền cung cấp dịch vụ thuê đường ray có thể được đem đấu thầu cho các doanh nghiệp cam kết cung cấp dịch vụ này với mức giá thấp nhất. Về vấn đề này, điều đáng quan tâm là các dịch vụ có thể được cung cấp một cách cạnh tranh phải dựa vào các dịch vụ được chính phủ hoặc tư nhân cung cấp một cách độc quyền. Vấn đề thách thức là phải đảm bảo cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước được tiếp cận các phương tiện thiết yếu hiện bị kiểm soát một cách độc quyền. Các quy định của WTO nói chung là đảm bảo cho việc tiếp cận thị trường hiệu quả. Các cơ quan điều tiết ở các nước đang phát triển, nơi có mức độ cạnh tranh thấp, cần phải trang bị cho mình về mặt pháp luật và kỹ thuật, năng lực quản lý giá cả. 9.8.4. Giải pháp cho vấn đề thông tin bất đối xứng Vấn đề thông tin bất đối xứng xảy ra đối với nhiều lĩnh vực dịch vụ trung gian và trí tuệ (UNCTAD và Ngân hàng Thế giới 1994). Người 330
- mua thường không được thông báo đầy đủ về đặc tính thực sự của người bán. Do vậy, người tiêu dùng không dễ đánh giá trình độ chuyên môn của bác sĩ và luật sư chẳng hạn, sự an toàn của dịch vụ vận tải, hoặc sự lành mạnh của ngân hàng và công ty bảo hiểm. Về nguyên tắc, phổ biến thông tin một cách hợp lý có thể khắc phục được vấn đề này, nhưng việc cung cấp thông tin cần thiết cho người mua lẻ có thể quá tốn kém. Trong trường hợp đó, việc điều tiết người cung cấp có thể dễ làm hơn là đào tạo người mua. Việc áp dụng các quy định tối thiểu đối với người bán phản ánh một mức độ chung nhất định về sở thích của người mua đối với chất lượng dịch vụ. Do vậy, các nhà lập pháp đảm bảo rằng tất cả ngân hàng phải đáp ứng một ngưỡng nhất định về tính lành mạnh tài chính, và các chuyên gia phải đáp ứng một ngưỡng trình độ nhất định. Việc quy định đầu ra của một lĩnh vực dịch vụ, thường là vô hình và đặc thù, thường khó hơn là quy định đầu vào. Tuy nhiên, việc quy định đầu vào như vậy thường dẫn đến việc ngăn cản tham gia thị trường. 9.8.5. Quản lý xung đột giữa hiệu quả và công bằng Chính sách thương mại ảnh hưởng đến người nghèo thông qua ba kênh chính: qua giá cả hàng hoá tiêu dùng; nhu cầu đối với lao động và các tài sản khác của họ, điều này có tác động đến thu nhập của họ; và qua việc tạo ra những thay đổi trong nguồn thu chính phủ và theo đó là khả năng của Chính phủ trong việc tài trợ các chương trình vì người nghèo. Bước đầu tiên đánh giá tác động của sự thay đổi trong chính sách thương mại đối với cuộc sống người nghèo là xác định người nghèo tiêu dùng cái gì và sở hữu cái gì - loại lao động, kỹ năng, và các tài sản khác. Nếu một nước thiếu hiệu quả tương đối về dịch vụ, thì tự do hóa và cạnh tranh nước ngoài do nó đem lại có khả năng làm giảm giá cả trong nước và nâng cao chất lượng. Trong chừng mực người nghèo là người tiêu dùng những dịch vụ này, họ có khả năng hưởng lợi. Nhưng thông thường, trước khi tự do hóa, giá cả không xác định bởi thị trường mà được xác định một cách hành chính và được duy trì một cách cố tình ở mức thấp đối với một số nhóm người sử dụng cuối cùng hoặc đối với 331
- một số loại dịch vụ nhất định. Theo đó, người vay ở nông thôn có thể trả lãi suất thấp hơn người vay ở thành phố, và giá cước điện thoại trong nước và giao thông công cộng có thể được giữ ở mức thấp hơn giá thành. Đôi khi, mục tiêu là đảm bảo sự tiếp cận cho tất cả người tiêu dùng ở cùng mức giá, không tính đến chi phí giá thành (ví dụ, trong dịch vụ vận tải và bưu chính). Hay mục đích có thể là đảm bảo khả năng tiếp cận với giá rẻ đối với dịch vụ tài chính chẳng hạn cho một số nhóm người sử dụng nhất định. Cơ cấu giá thành thường được duy trì thông qua việc trợ cấp chéo trong nội bộ các công ty độc quyền công cộng hoặc thông qua sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ. Trừ khi các biện pháp điều tiết đặc biệt được tiến hành, tự do hóa đe dọa các cơ chế này. Việc xóa bỏ các hạn chế tham gia thị trường có nghĩa là chấm dứt trợ cấp chéo bởi vì các doanh nghiệp không còn có thể tạo ra các khoản lợi nhuận siêu ngạch ở một số đoạn thị trường nhất định. Các công ty mới tham gia có thể tập trung vào những đoạn thị trường có lãi nhất, chẳng hạn như ở khu vực thành thị, nơi có chi phí mạng lưới thấp và thu nhập cao hơn. Tư nhân hóa có thể có nghĩa là chấm dứt sự hỗ trợ của Chính phủ. Kết quả là cho dù ngành có thể hiệu quả hơn và giá trung bình giảm xuống, thì thực tế giá cả đối với một số người sử dụng cuối cùng có thể lại tăng. Mặc dù có những cân nhắc này, nhưng vẫn có bằng chứng về mối quan hệ tích cực giữa cơ cấu thị trường cạnh tranh và việc mở rộng dịch vụ trong các lĩnh vực như điện thoại cơ bản. Việc cho phép thị trường tự hoạt động có thể cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận tại những nơi mà trước đây dịch vụ do các công ty độc quyền nhà nước cung cấp – thậm chí cả ở những nước nghèo nhất và với những người sử dụng có thu nhập thấp. Nếu hiện trạng cho thấy sự tái phân phối có lợi cho các quyền lợi thâm căn – chẳng hạn như cơ cấu giá cước viễn thông và vận tải thường có lợi cho tầng lớp trung lưu thành thị và hình thái các chương trình cho vay trực tiếp có lợi cho nhóm quyền lực – việc chuyển sang thị trường có thể đem lại cả hiệu quả và công bằng. Việc cam kết sớm đối với kinh tế thị trường có thể coi là một cách để ngăn ngừa sự thao túng cá nhân. 332
- 9.8.6. Đảm bảo cung cấp các dịch vụ phổ thông Việc đạt được mục tiêu xã hội của dịch vụ phổ thông một cách hiệu quả là một thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách quốc gia. Cách thức họ theo đuổi mục đích này có khả năng tác động sâu sắc đến thương mại ở một số lĩnh vực, gồm các dịch vụ tài chính, vận tải, viễn thông, y tế, và giáo dục. Chính phủ có thể lựa chọn trong một loạt các chính sách, từ thay thế hoàn toàn thị trường đến việc xây dựng các chính sách hỗ trợ nhằm tác động đến kết quả trên thị trường. Trong lịch sử, Chính phủ thường xuyên dựa vào các công ty độc quyền nhà nước để theo đuổi (thường là không thành công) mục tiêu cung cấp dịch vụ phổ thông, hoặc thông qua trợ cấp chéo giữa các đoạn thị trường hoặc từ các ngân hàng do Chính phủ kiểm soát. Bên cạnh sự không hiệu quả do cơ cấu độc quyền gây ra, tại nhiều nước, gánh nặng mà những nghĩa vụ này đè lên vai các nhà cung cấp quốc gia là một cản trở đáng kể đối với tự do hóa. Ví dụ, các ngân hàng trong nước chịu các khoản nợ xấu do các chương trình tín dụng trực tiếp trước đây, không đủ năng lực đối phó với cạnh tranh nước ngoài. Về nguyên tắc, khó khăn hiện tại của các nghĩa vụ dịch vụ phổ thông cũng có thể được áp dụng cho những ai mới tham gia, một cách không phân biệt. Theo đó, ở một số nước, các nghĩa vụ như vậy là một phần trong điều kiện cấp phép cho những người mới tham gia vào mạng điện thoại cố định và vận tải. Tuy nhiên, việc dựa vào các công cụ ngân sách đã chứng tỏ là thành công hơn so với sự điều tiết trực tiếp. Phương pháp thứ ba là tài trợ cho người tiêu dùng thay vì cho người cung cấp (Cowhey và Klimenko 2001). Các Chính phủ đã thử nghiệm một số hình thức trợ cấp đối với các lĩnh vực như giáo dục và dịch vụ năng lượng. Công cụ cuối cùng này có ít nhất 3 lợi thế: có thể nhằm trực tiếp hơn vào những người cần dịch vụ và không đủ trả cho dịch vụ đó; tránh được những sự méo mó phát sinh bởi việc định giá dịch vụ thấp nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận; và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng. 333
- 9.8.7. Đảm bảo việc làm trong điều kiện tự do hóa thương mại Trong bối cảnh tự do hoá thương mại, các phương thức cung cấp khác nhau tác động khác nhau đến thị trường các yếu tố sản xuất. Trao đổi qua biên giới và tiêu dùng ở nước ngoài cũng giống như trường hợp thương mại hàng hóa. Tác động của việc di chuyển yếu tố sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào việc liệu yếu tố đó là thay thế hay bổ sung cho các dịch vụ đầu vào trong nước. Với cơ cấu giá cả đầu vào ở các nước nghèo, người ta cho rằng tự do hóa thương mại có thể tạo ra dòng vào của vốn và công nhân có kỹ năng. Những dòng vào như vậy có thể có lợi cho những người nghèo không có kỹ năng, tăng cơ hội việc làm và thu nhập. Người ta đã chỉ ra rằng ngay cả khi người nước ngoài cạnh tranh với công nhân có kỹ năng bản địa trong một ngành dịch vụ, thì cú huých năng suất đối với ngành đó từ việc cho phép tiếp cận người nước ngoài có thể làm tăng nhu cầu đối với công nhân có kỹ năng trong nước: hiệu ứng quy mô có thể lớn hơn hiệu ứng thay thế (Markusen, Rutherford, và Tarr 2000). Vấn đề là có khả năng giảm việc làm ở các công ty độc quyền nhà nước cũ, nơi thường có lao động thừa. Nhưng cũng có những bằng chứng chống lại tâm lý bi quan. Ví dụ, nhiều nước đang phát triển đã duy trì hay thậm chí tăng việc làm trong khi tự do hóa dịch vụ viễn thông. Do nhiều nước đang phát triển có mật độ điện thoại thấp (khoảng 5 máy trên 100 dân), gần 70% các khoản đầu tư viễn thông ở các nước đang phát triển được dùng trực tiếp xây dựng đường truyền và mạng di động, đây là những hoạt động sử dụng nhiều lao động và do vậy giúp duy trì hoặc tăng việc làm. Dù sao, nhiều chương trình cải cách sẽ cần các chính sách bổ trợ nhằm loại bỏ các chi phí kinh tế và xã hội của quá trình điều chỉnh thị trường yếu tố đầu vào. 334
- CHƯƠNG X NHỮNG MỐI QUAN TÂM HIỆN TẠI CỦA HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI PGS.TS. Mai Hồng Qùy Trường Đại học Luật T.P Hồ Chí Minh 10.1. VÒNG ĐÀM PHÁN DOHA VÀ CÁC MỐI QUAN TÂM HIỆN TẠI Cả ba Hiệp định quan trọng của WTO, bao gồm GATT, GATS và TRIPs đều được phát triển qua các vòng đàm phán. Thí dụ, Hiệp định GATT có giới thiệu những nguyên tắc chung đối với miễn giảm thuế trong lĩnh vực hàng nông sản. Tuy nhiên, GATT không hiệu quả trong điều chỉnh thương mại nông nghiệp. Lý do là vì sự phản đối của Mỹ, nguyên tắc trợ cấp yếu, và sức ép tự vệ từ phần lớn các nước như Nhật Bản hay Pháp. Thay đổi cơ bản đã diễn ra ở Vòng đàm phán Uruguay. Với mục tiêu thuế hoá, các Thành viên đã thoả thuận chuyển đổi tất cả các biện pháp phi thuế quan thành thuế quan. Kết quả là hàng nông sản được áp dụng mức thuế cao hơn so với trước. Mặt khác, các biện pháp phi thuế quan được phân loại theo khả năng có thể gây bóp méo thương mại bao gồm Hộp Hổ phách (Amber box), Hộp Xanh lơ (Blue box), Hộp Phát triển (Development box) và Hộp Xanh lá cây (Green box). Tiến trình này cần phải được tiếp tục đàm phán để định nghĩa rõ hơn, cùng với lộ trình giảm thuế đôi với các mặt hàng nông sản. Với GATS cũng vậy. Điều XIX của GATS bắt buộc các Thành viên WTO tham gia vào các Vòng Đàm phán liên tục diễn ra 5 năm một lần nhằm đạt được mức độ tự do hóa cao hơn. Tiến trình này sẽ được thực hiện với sự chú ý phù hợp tới mục tiêu chính sách quốc gia và trình độ phát triển của mỗi Thành viên. Cụ thể là, GATS sẽ dành linh hoạt phù hợp cho các Thành viên đang phát triển trong việc mở cửa ít ngành dịch vụ hơn, tự do hóa ít giao 335
- dịch dịch vụ hơn, mở cửa thị trường dần dần theo mức độ phát triển của họ. Vòng đàm phán hiện nay là một phần trong Chương trình Nghị sự Phát triển Doha (Doha Development Agenda, hay DDA). Vòng Đàm phán này bắt đầu từ năm 2000 theo Tuyên bố Doha. Các cuộc đàm phán toàn diện sẽ được diễn ra nhằm mục đích: - Tăng cường đáng kể việc mở cửa thị trường, Cắt giảm hoặc loại bỏ thuế, đề xuất mức trần về cắt giảm hoặc loại bỏ thuế; - Cắt giảm và loại bỏ tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu; - Cắt giảm đáng kể các hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại, cắt giảm hoặc loại bỏ các rào cản phi thuế quan, đặc biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu mà các nước đang phát triển quan tâm; và - Cơ chế đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển, tuy nhiên sẽ không xem xét các vấn đề không liên quan đến thương mại. Ngoài ra, khi Vòng Đàm phán Doha kết thúc, các quy định về thuận lợi hoá thương mại có thể được áp dụng, nhằm làm rõ và điều chỉnh một số khía cạnh của Điều V, VIII, X của GATT 1994 nhằm tạo thuận lợi cho việc vận chuyển, thông quan hàng hoá, bao gồm hàng hoá quá cảnh. Mặc dầu vậy, các nước đang phát triển không bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ thuận lợi hoá thương mại nếu không nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật cần thiết. 10.2. HỘI NGHỊ BỘ TRƯỞNG HỒNG KÔNG VÀ MỤC TIÊU ĐÀM PHÁN 10.2.1. Hội nghị Bộ trưởng Hồng Kông Một trong những bước tiến quan trọng của DDA là Thoả thuận khung về việc xây dựng phương thức mở cửa thị trường hàng công nghiệp đã được thông qua vào ngày 01/04/2004. Các cuộc đàm phán gần đây nhất liên quan đến DDA là Tuyên bố tại Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Hồng Kông (tháng 11 năm 2005). Tại Hội nghị này, vấn đề đặt ra là 336
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tổng quan về bán phá giá
23 p | 494 | 190
-
BÁO CÁO CUỐI CÙNG KHUYẾN NGHỊ THÀNH LẬP ĐIỂM THÔNG BÁO VÀ HỎI ĐÁP GATS CỦA VIỆT NAM
51 p | 256 | 43
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 3
26 p | 124 | 16
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 2
26 p | 121 | 15
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 8
23 p | 107 | 10
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 6
27 p | 93 | 9
-
Thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: Trường hợp nghiên cứu điểm tại một số dự án trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
10 p | 14 | 9
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 8
26 p | 82 | 6
-
Tác động của tự do hóa thương mại đến dịch vụ vận tải và các dịch vụ phụ trợ tại Việt Nam
15 p | 45 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn