intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hoạt động tự học của sinh viên khi trường chuyển sang đào tạo tín chỉ

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:13

133
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hoạt động tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy-học đại học nói chung và đặc biệt cần thiết trong phương thức đào tạo theo tín chỉ. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao của mọi người liên quan đến hoạt động tự học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Để hiểu rõ hơn về các nội dung trên mời bạn đọc tham khảo bài viết sau đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hoạt động tự học của sinh viên khi trường chuyển sang đào tạo tín chỉ

Hoạt động tự học của SV khi trường chuyển sang đào tạo tín chỉ<br /> <br /> Đặt vấn đề <br /> <br /> Sinh viên là những người đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng ­  <br /> nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội.  <br /> Thuật ngữ “Sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “Student” ­ có nghiã <br /> là người học tập, nghiên cứu, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Khác <br /> với học sinh phổ thông, bên cạnh hoạt động chủ  đạo là học tập, lĩnh hội  <br /> tri thức của thầy, người sinh viên còn phải có nhiệm vụ tự học, tự nghiên  <br /> cứu trên cơ  sở  tư  duy độc lập. Về  bản chất, quá trình học tập của sinh  <br /> viên ở bậc đại học là quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã  <br /> được thể  chế  hóa trong Luật giáo dục như  sau: “Phương pháp giáo dục  <br /> đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự  học, tự  nghiên cứu, tạo <br /> điều kiện cho người học phát triển tư  duy sáng tạo, rèn luyện kỹ  năng <br /> thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.” <br /> <br /> <br /> <br /> Do vậy, dù ở phương thức đào tạo đại học nào, người sinh viên cũng cần  <br /> phải có năng lực tự học, hay nói cách khác: “tự học là cách học ở bậc đại <br /> học”. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của đổi mới giáo <br /> dục đại học, nhiều trường đại học đã và đang triển khai mô hình đào tạo  <br /> theo học chế  tín chỉ. Phương thức đào tạo này coi trọng vai trò trung tâm <br /> của sinh viên, tạo cho sinh viên năng lực chủ động, sáng tạo trong phương <br /> pháp học của mình. Như vậy, một vấn đề đặt ra là hoạt động tự học của <br /> sinh viên trong phương thức đào tạo theo tín chỉ  có những đặc điểm gì?  <br /> Các yếu tố  nào  ảnh hưởng đến hoạt động tự  học của sinh viên trong  <br /> phương thức đào tạo này? <br /> <br /> <br /> <br /> 1. Khái quát về hoạt động tự học của sinh viên <br /> <br /> <br /> <br /> a) Khái niệm tự học <br /> <br /> Tự  học (self ­ study) là sự  nỗ  lực chiếm lĩnh tri thức, kỹ  năng của bản <br /> thân của người học để hướng tới những mục đích học tập nhất định. Các <br /> nhà khoa học giáo dục đã nghiên cứu vấn đề  tự  học dưới nhiều góc độ <br /> [1], [4] nhưng một cách chung nhất có thể hiểu tự học là quá trình tự giác, <br /> độc lập, tích cực, sử  dụng các năng lực trí tuệ, phẩm chất của bản thân <br /> người học để người học chiếm lĩnh được tri thức của nhân loại và những <br /> kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những tri thức đó thành sở hữu của mình,  <br /> hình thành kỹ  năng, thái độ  và ngày càng hoàn thiện nhân cách của bản <br /> thân. <br /> <br /> <br /> <br /> b) Hoạt động tự học của sinh viên hiện nay <br /> <br /> Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đa số  sinh viên đều hiểu được vai trò <br /> quan trọng của tự học. Tuy nhiên, sức ì và tính thụ động của sinh viên còn <br /> rất lớn. Hoạt động tự  học vẫn còn mang tính hình thức, đối phó với các  <br /> bài kiểm tra. Theo số liệu khảo sát của sinh viên một số  trường đại học,  <br /> hầu hết các sinh viên được hỏi cho rằng tính chủ động trong học tập của  <br /> sinh viên thấp. Có đến 75% ý kiến cho rằng sinh viên không có thói quen  <br /> tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. <br /> Một thực tế hiện nay là sinh viên “rất lười đọc sách”. Mặc dù sách tham <br /> khảo đã được giảng viên hướng dẫn cụ  thể   ở  từng nội dung bài học <br /> nhưng khi được hỏi về  việc này, số  đông sinh viên đều lúng túng. 85% <br /> cho rằng họ “có đọc” nhưng chỉ một số cuốn sách chuyên ngành khi phải <br /> trình bày, báo cáo hay làm bài kiểm tra. 15% còn lại cho rằng họ  không <br /> đọc tài liệu tham khảo, có những sinh viên năm cuối chưa từng một lần <br /> đến thư viện tìm sách. Trong thời đại công nghệ  thông tin phát triển như <br /> hiện nay, nhiều sinh viên lựa chọn kênh thông tin từ  các trang web. Điều <br /> này là tốt nhưng vì quá lạm dụng nên đại đa số sinh viên đã bỏ lỡ một kho <br /> tàng tri thức rất có giá trị  từ sách tham khảo. Ngay cả khi tra cứu tài liệu  <br /> trên Internet, sinh viên cũng chưa biết cách thu thập và xử  lý khối lượng <br /> thông tin đa dạng đó như  thế  nào để  thu được những kiến thức thật sự <br /> cần thiết và có hiệu quả. <br /> <br /> <br /> <br /> Như vậy, một cách khái quát có thể thấy rằng nhiều sinh viên chưa nhận <br /> thức được đúng đắn về  sự  cần thiết của hoạt  động tự  học. Sinh viên <br /> chưa tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức cho mình mà còn thụ <br /> động, phụ thuộc nhiều vào những gì thầy dạy, không có nhu cầu mở rộng  <br /> hiểu biết, phát huy sáng tạo, đào sâu kiến thức. Một số  ít sinh viên có ý <br /> thức tự  học thì kỹ  năng tìm kiếm và xử  lý thông tin phục vụ  nhiệm vụ <br /> học tập còn yếu. Phương pháp tự học theo kiểu đối phó, theo phong trào, <br /> học để thi vẫn là hình thức tự học phổ biến hiện nay. Liệu phương pháp <br /> học tập của sinh viên như  vậy có thể  đáp  ứng với yêu cầu của phương  <br /> thức đào tạo theo tín chỉ   ở  mức độ  nào, đó là câu hỏi đặt ra đối với các <br /> nhà quản lý giáo dục. <br /> <br /> <br /> <br /> 2. Một số đặc điểm của hoạt động tự học trong phương thức đào tạo theo  <br /> tín chỉ <br /> <br /> <br /> <br /> Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động <br /> không thể  thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình <br /> học tập  ở  bậc đại học. Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác  <br /> nhau, hoạt động này lại có những nét đặc thù riêng. Sự  khác biệt giữa <br /> hoạt động tự học trong học chế niên chế so với học chế tín chỉ được thể <br /> hiện ở một số điểm sau: <br /> <br /> <br /> <br /> Trước hết, trong phương thức đào tạo theo niên chế, sinh viên tuân thủ <br /> theo một chương trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm  <br /> học, từng khóa học căn cứ  vào thời khóa biểu. Khi chuyển sang phương  <br /> thức đào tạo theo tín chỉ, kế  hoạch học tập cụ  thể  phụ  thuộc vào chính <br /> bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ và quyền được lựa chọn môn <br /> học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với điều kiện  <br /> của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực chủ  động trong <br /> việc lập kế  hoạch học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện,  <br /> biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi  <br /> đó người sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu  <br /> sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất. <br /> Thứ  hai, hình thức tổ  chức dạy học trong phương thức tín chỉ  qui định <br /> hoạt động tự học của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời  <br /> khóa biểu và là một nội dung quan trọng của đánh giá kết quả  học tập.  <br /> Hoạt động dạy ­ học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, <br /> thực hành và tự  học. Trong ba hình thức tổ  chức dạy học này, hai hình <br /> thức đầu được tổ  chức có sự  tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh <br /> viên (giảng viên giảng bài, hướng dẫn; sinh viên nghe giảng, thực hành, <br /> thực tập dưới sự  hướng dẫn của giảng viên,..), hình thức thứ  ba có thể <br /> không có sự  tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên <br /> giao nội dung để sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành và sẵn sàng <br /> tư  vấn khi được yêu cầu). Ba hình thức tổ  chức dạy học tương  ứng với  <br /> ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ  thực hành và giờ  tín chỉ <br /> tự học. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Lý thuyết<br /> <br /> <br /> <br /> Thực hành, thí nghiệm, xemina<br /> Tự học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tổng<br /> <br /> <br /> <br /> Chuẩn bị<br /> <br /> <br /> <br /> Tự nghiên cứu<br /> <br /> <br /> <br /> Giờ Lý thuyết<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> Giờ Thực hành<br /> 2<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> Giờ Tự học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tùy thuộc tính chất đặc thù của từng môn học (mục tiêu, nội dung môn <br /> học) mà có các hình thức tổ chức dạy ­ học khác nhau. Có những môn học  <br /> chỉ  có một kiểu giờ  tín chỉ, nhưng có những môn học có hai hoặc cả  ba <br /> kiểu giờ tín chỉ. Trong mọi trường hợp, công thức tính cho mỗi môn học <br /> là không đổi:1+0+2 (môn học thuần lý thuyết); 0+2+1 (môn học thuần <br /> thực hành); 0+0+3 (môn học thuần tự học). <br /> <br /> Cách tổ  chức thực hiện một giờ tín chỉ  cho chúng ta thấy một đặc điểm <br /> rất quan trọng góp phần tạo nên sự  khác biệt với phương thức đào tạo <br /> truyền thống. Nếu hoạt động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính <br /> chất tự nguyện thì phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ coi tự học là <br /> một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có trong hoạt động học tập <br /> của sinh viên. Để học được 1 giờ lý thuyết hay 2 giờ thực hành, thực tập <br /> trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ chuẩn bị  ở nhà. Đó là yêu cầu  <br /> bắt buộc trong cơ cấu giờ học của sinh viên. <br /> <br /> Thứ  ba, nội dung một bài giảng trong hệ  thống tín chỉ  thường gồm 3  <br /> thành phần chính: <br /> <br /> ­ Phần nội dung bắt buộc phải biết (N1) được giảng trực tiếp trên lớp. <br /> <br /> ­ Phần nội dung nên biết (N2) có thể không được giảng trực tiếp trên lớp <br /> mà giáo viên có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể sinh viên tự học, tự nghiên  <br /> cứu ở ngoài lớp. <br /> <br /> ­ Phần nội dung có thể biết (N3) dành riêng cho tự học, chuẩn bị bài, làm <br /> bài tập, thảo luận nhóm, xemina, làm thí nghiệm… và các hoạt động khác <br /> có liên quan đến môn học. <br /> <br /> Như  vây, kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những  <br /> tìm tòi của người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ  của giảng viên. Nếu <br /> sinh viên không tự học thì họ  mới chỉ  lĩnh hội được 1/3 khối lượng kiến <br /> thức của môn học và như vậy đồng nghĩa với việc họ không đạt được yêu <br /> cầu của môn học đó. <br /> <br /> Ngoài ra, một điểm rất quan trọng, khác biệt với học chế  niên chế  là  <br /> trong học chế  tín chỉ, hoạt động tự  học được kiểm tra, đánh giá thường  <br /> xuyên thông qua các bài kiểm tra, bài tập, các buổi thảo luận …trong suốt <br /> cả quá trình học. <br /> <br /> Qua các phân tích trên đây, rõ ràng rằng trong phương thức đào tạo theo tín  <br /> chỉ, hoạt động tự học của sinh viên trở thành hoạt động bắt buộc với các  <br /> chế tài cụ thể qui định cho hình thức học tập này. <br /> <br /> 3. Các yếu tố thúc đẩy hoạt động tự  học của sinh viên trong học chế  tín <br /> chỉ <br /> <br /> Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên như đã phân tích trên đây là do <br /> tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ  quan. Nhưng dù là <br /> nguyên nhân gì thì hoạt động tự  học như  vậy không đáp  ứng được với <br /> phương pháp đào tạo theo tín chỉ  mà cần phải có những biện pháp nhằm <br /> tăng cường hoạt động này. <br /> <br /> Chất lượng và hiệu quả  của hoạt động tự  học phụ  thuộc vào rất nhiều <br /> yếu tố trực tiếp và gián tiếp. Trong đó chúng ta phải thừa nhận vai trò đặc  <br /> biệt quan trọng của giảng viên, sinh viên và điều kiện phục vụ  tự  học  <br /> trong việc đẩy mạnh hoạt động tự học của sinh viên <br /> <br /> <br /> <br /> a) Vai trò của giảng viên đối với hoạt động tự  học của sinh viên trong  <br /> phương thức đào tạo theo tín chỉ <br /> Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và  <br /> kích thích  ý thức tự  học cho sinh viên. Không phải giảng viên chỉ  có  <br /> nhiệm vụ  quan trọng trong những giờ  lên lớp còn những giờ  tự  học, tự <br /> nghiên cứu của sinh viên thì không cần can thiệp. Ngược lại, đối với hoạt  <br /> động tự  học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn. Đối với hoạt <br /> động tự học, giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần. <br /> <br /> Một số nhiệm vụ chính của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh <br /> viên như sau: <br /> <br /> * Giúp sinh viên nắm được đề cương môn học <br /> <br /> Khi bắt đầu một môn học, giảng viên cần giới thiệu và cung cấp cho sinh  <br /> viên đề  cương của môn học đó. Nội dung của đề  cương bao gồm: Mục <br /> đích môn học, Mục tiêu môn học, Nội dung chi tiết của môn học, Điều <br /> kiện tiên quyết, Hình thức tổ  chức và phương pháp dạy ­ học cho từng <br /> nội dung của môn học, Hình thức kiểm tra ­ đánh giá của từng hoạt động <br /> học tập…Qua đó, sinh viên chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu  <br /> để  thực hiện được các mục tiêu của môn học. Giảng viên cần phải tuân <br /> thủ  theo đúng kế  hoạch trong đề  cương và yêu cầu sinh viên nghiêm túc <br /> thực hiện đề cương này. <br /> <br /> * Xác định rõ nội dung tự học và phương tiện để thực hiện nội dung đó <br /> <br /> Trong đào tạo theo tín chỉ, nội dung N2, N3 như đã đề cập ở trên là những  <br /> nội dung của hoạt động tự học. Giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự <br /> học cụ  thể  cho sinh viên để  họ  có thể  tự  chiếm lĩnh được các nội dung <br /> này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một khoảng thời  <br /> gian định trước. Để  giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ  tự  học của <br /> mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham <br /> khảo, cách thu thập, tra cứu và xử  lý thông tin trong tài liệu với những  <br /> hướng  dẫn chi  tiết, cụ  thể.  Bên cạnh  đó, giảng viên cần tăng cường <br /> hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng kế hoạch tự học khoa học, hợp lý, <br /> phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới đích một cách hiệu quả nhất. <br /> <br /> * Kiểm tra ­ đánh giá hoạt động tự học của sinh viên <br /> <br /> Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, khi hoạt động tự học là một thành <br /> phần bắt buộc trong cơ cấu thời khóa biểu thì cần phải có các hình thức  <br /> kiểm tra ­ đánh giá hoạt động này. Nếu giảng viên chỉ  giao nhiệm vụ  tự <br /> học mà không tổ  chức kiểm tra, đánh giá thì hoạt động học tập này chỉ <br /> mang tính hình thức, đối phó mà không đem lại kết quả như mong muốn.  <br /> Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh viên trong suốt quá trình của môn <br /> học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng như bài tập cá nhân (tuần); <br /> bài tập nhóm (tháng); bài tập lớn (học kỳ  thông thường là một bài tổng <br /> luận về  môn học) và các bài thi giữa kỳ, cuối kỳ. Qua đó hình thành cho <br /> sinh viên cách làm việc nghiêm túc, tính tích cực và ý chí phấn đấu vươn <br /> lên để đạt kết quả cao trong học tập <br /> <br /> <br /> <br /> b) Vai trò của sinh viên đối với hoạt động tự học trong phương thức đào  <br /> tạo theo tín chỉ <br /> <br /> Bên cạnh sự  hướng dẫn của giảng viên, sự  quản lý của nhà trường thì <br /> hoạt động tự  học chỉ  có thể  thực sự  đem lại hiệu quả  khi có sự  nỗ  lực <br /> của bản thân chủ  thể  tham gia, đó chính là sinh viên. Khi chuyển sang  <br /> phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa <br /> bỏ  sức  ỳ  để  có những phương pháp học tập tích cực, thái độ  tự  chủ­ tự <br /> chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu cầu học tập mới. <br /> <br /> Một số nhiệm vụ chính của sinh viên đối với hoạt động tự học như sau: <br /> <br /> ­ ChuÈn bÞ tèt vÒ ®éng c¬, th¸i ®é häc tËp, tinh thÇn tr¸ch nhiÖm, tự lực <br /> cánh sinh ®Ó "tù chñ, tù chÞu tr¸ch nhiÖm" trong häc tËp mét c¸ch chñ <br /> ®éng vµ hiÖu qu¶.<br /> <br /> ­ Nắm vững mục tiêu của môn học và mục tiêu của từng bài học (mà <br /> thông thường được mô tả khá kỹ trong đề cương môn học được cung cấp <br /> khi bắt đầu học môn học) để  làm cơ  sở  xây dựng kế  hoạch tự  học phù <br /> hợp và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó. <br /> <br /> ­ Đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trước giờ  lên  <br /> lớp: đọc tài liệu, làm các bài tập, bài kiểm tra, thảo luận nhóm theo yêu <br /> cầu của giảng viên. <br /> <br /> ­ Trong quá trình tự  học, sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn  <br /> đưa ra những ý kiến, nhận xét, thắc mắc của mình mà không quá phụ <br /> thuộc vào tài liệu và những bài giảng của giảng viên. <br /> <br /> <br /> <br /> c) Tăng cường các điều kiện phục vụ tự học của sinh viên <br /> <br /> Hoạt động tự  học của sinh viên không thể  thực hiện tốt nếu không đảm  <br /> bảo các điều kiện cần thiết về  cơ  sở  vật chất: phòng học, trang thiết bị <br /> học tập, nguồn học liệu… Trong đó hệ  thống nguồn học liệu đầy đủ  về <br /> số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất lượng là một yêu <br /> cầu không thể  thiếu trong hoạt động tự  học của sinh viên. Nhận thức <br /> được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế  hoạch  <br /> để không ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như: <br /> <br /> ­ Củng cố, nâng cấp, mở  rộng hệ  thống phòng học, phòng thí nghiệm ­ <br /> thực hành ­ thực tập, thư  viện; bám sát yêu cầu cúa các đề  cương môn  <br /> học để  chuẩn bị  các học liệu được coi là bắt buộc ghi trong đề  cương <br /> môn học <br /> <br /> ­ Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng <br /> nguồn tư liệu điện tử, thiết bị  dạy học… bằng cách ứng dụng các thành  <br /> tựu công nghệ thông tin hiện đại. <br /> <br /> Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ <br /> hoạt động tự  học, các nhà quản lý cũng cần quan tâm tới các điều kiện  <br /> phục vụ, thái độ  phục vụ  sinh viên của các bộ  phận chuyên trách, các  <br /> chính sách hỗ  trợ  của nhà trường để  tạo cho sinh viên một môi trường  <br /> học tập tốt nhất. <br /> <br /> Kết luận: Hoạt động tự  học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng <br /> trong quá trình dạy ­học đại học nói chung và đặc biệt cần thiết trong <br /> phương thức đào tạo theo tín chỉ. Để  nâng cao chất lượng và hiệu quả <br /> của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao của mọi người liên  <br /> quan đến hoạt động tự  học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi  <br /> mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu <br /> trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ  học tập của <br /> mình.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2