intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng - Kỷ yếu: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:556

9
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Kỷ yếu Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Tham luận của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng - Kỷ yếu: Phần 2

  1. 695 PHẦN THỨ BA THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
  2. 696
  3. 697 MỘT SỐ KẾT QUẢ V B I HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở H GIANG TỈNH ỦY HÀ GIANG T rong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đặc biệt đối với lĩnh vực văn hóa. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”1 và luận điểm này đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, là cơ sở để Đảng ta xác định xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là nền tảng tinh thần, là động lực phát triển của xã hội, gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó đến nay, văn hóa luôn được xác định là một trong những nội dung cơ bản xuyên suốt trong công tác lãnh đạo của Đảng. Hà Giang là tỉnh khó khăn, vùng cao, biên giới, có 19 dân tộc sinh sống tại 11 huyện, thành phố; 193 xã, phường, thị trấn và 2.071 thôn, tổ dân phố (trong đó dân tộc Mông chiếm trên 32%); có trên 277,56 km đường biên giới tiếp giáp với 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Trung Quốc; trình độ dân trí thấp so với các tỉnh miền xuôi; khí hậu khắc nghiệt, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt; giao thông đi lại khó khăn; kinh tế phát triển chậm;... Nhưng với truyền thống đoàn kết, phát huy ý chí tự lực, tự cường, thống nhất cao trong Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Hà Giang đã đồng lòng khắc phục khó khăn, từng bước vươn lên thoát nghèo. Quán triệt sâu sắc luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về văn hóa như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 51-KL/TW ngày 22/7/2009 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục _______________ 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.XXV.
  4. 698 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư (khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 5/2/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội”; Quyết định số 1610/QĐ-TTg ngày 16/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chương trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020”;... Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Giang đã cụ thể hóa thành chương trình hành động nhằm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, đồng bộ trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào văn hóa, quan tâm công tác cải cách hành chính. Cụ thể, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo như: Chương trình số 117-CTr/TU ngày 6/10/2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 2/2/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”; Quyết định số 553/QĐ-UBND ngày 21/4/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc “Phê duyệt Đề án Phát triển văn học nghệ thuật Hà Giang giai đoạn 2010-2015 định hướng đến năm 2020”; Quyết định số 1244/QĐ-UBND ngày 4/7/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về “Phê duyệt Dự án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia” và “Phục dựng, bảo tồn một số lễ hội dân gian truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang” giai đoạn 2017-2020”; Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 6/1/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (khóa XVI) về “Đưa kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vào giảng dạy trong các trường học trên địa bàn tỉnh”; Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 6/10/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Hà Giang giai đoạn 2021-2025”,... Cùng với đó, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng nguồn lực, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, vừa phát huy vừa bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương. Với quyết tâm vượt khó đi lên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đã đạt được những kết quả quan trọng, nổi bật như sau: - Về kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 6,8%; tổng thu ngân sách giai đoạn 2016-2020 đạt 10.665 tỷ đồng, trong đó năm 2020 đạt 2.500 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 30 triệu đồng/năm, huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt trên 44.694 tỷ đồng, tăng 71,3% so với
  5. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 699 giai đoạn 2010-2015; 92% dân cư thành thị, 86% dân cư nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh; 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm, 100% các thôn bản có đường đi được xe cơ giới đến trung tâm; 100% dân số đô thị, 94,4% hộ dân ở nông thôn được sử dụng điện; 44/174 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 143% chỉ tiêu đề ra; thành phố Hà Giang hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Quy tụ, sắp xếp 4.777 hộ sống rải rác ở các sườn núi cao, vùng thiên tai về sống tập trung tại các thôn, bản. - Tăng trưởng du lịch bình quân đạt 16%/năm, năm 2020 đạt 1,5 triệu lượt khách; thường xuyên triển khai tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Tỷ lệ xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế là 100%, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 98,5%. Tỷ lệ tăng dân số được kiểm soát, mức tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,4%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 54%. An sinh xã hội được bảo đảm, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm là 4,22%; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ tháng 7/2019 đến ngày 30/6/2021, huy động nguồn lực xã hội hỗ trợ xây dựng được trên 4.780 nhà ở cho người có công, cựu chiến binh nghèo, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở. Công tác dân tộc, tôn giáo được chú trọng, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn luôn được quan tâm thực hiện. - Đẩy mạnh việc lồng ghép triển khai một số giải pháp của Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang khi Người đến thăm Hà Giang năm 1961. Hằng năm, các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương đều tổ chức các cuộc phát động phong trào “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao được các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp quan tâm, phát triển; nhiều mô hình tiêu biểu được thực hiện có hiệu quả như: Giới thiệu các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, các phong tục tập quán, lễ hội, trò chơi dân gian ở địa phương; truyền dạy một số làn điệu dân ca, các điệu múa, sử dụng một số nhạc cụ dân tộc; chú trọng truyền dạy văn hóa truyền thống, giúp các em học sinh hình thành nhân cách, có kiến thức về lịch sử, văn hóa, lễ hội, các trò chơi dân gian, các phong tục tập quán của dân tộc mình và địa phương. - Về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, tập trung chỉ đạo, hướng dẫn đến các thôn, bản, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân; nhiều phong trào thi đua, xây dựng gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; tổ dân phố, thôn bản văn hóa được triển khai toàn diện, sâu rộng. Nâng cao chất lượng và hiệu quả các phong trào “Toàn dân
  6. 700 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Chung tay xây dựng nông thôn mới”. Kết quả, toàn tỉnh có 62,7% số làng, thôn, tổ dân phố văn hóa, 71% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Việc thực hiện nếp sống văn minh đã trở thành một cuộc vận động lớn trong các tầng lớp nhân dân, có tác động tích cực, mạnh mẽ đến nhiều mặt trong đời sống xã hội. Các phong tục tập quán trong đám cưới của các dân tộc đã được đơn giản hóa, gọn nhẹ, tiết kiệm, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của người dân; nghi lễ trong đám tang có nhiều thay đổi, được tổ chức tiết kiệm và bảo đảm đúng quy ước văn hóa của địa phương. - Tỉnh đã triển khai có hiệu quả các chương trình, kế hoạch, đề án về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện có hiệu quả việc đưa kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vào giảng dạy trong các trường học; bảo tồn, khôi phục, phát huy giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc Mông và tích cực nhân rộng trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Quan tâm công tác sưu tầm, nghiên cứu bảo tồn, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể1. Phong trào văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao từng bước phát triển. Hoạt động quảng bá về văn hóa truyền thống, hình ảnh con người Hà Giang được quan tâm đẩy mạnh, góp phần mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh. - Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật, định hướng chính trị, tư tưởng trong các hoạt động văn hóa, văn học và nghệ thuật và báo chí, bảo đảm theo định hướng của Đảng. Công tác quản lý về văn học, nghệ thuật được chú trọng triển khai nghiêm túc, tỉnh ban hành Đề án phát triển văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang, trong đó chú trọng xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học, nghệ thuật; ban hành các quy định về chế độ thù lao, cơ chế, chính sách đãi ngộ cho văn nghệ sĩ, nghệ nhân, chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao, công tác đào tạo, bồi dưỡng, kết nạp hội viên, mở trại sáng tác, thành lập các câu lạc bộ. Nhiều cuộc triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, nhiều tiết mục văn hóa, văn nghệ được công chúng đón nhận, đánh giá cao. - Về việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa. Các cấp ủy, tổ chức đảng trong tỉnh có nhiều đổi mới về phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực văn hóa; tăng cường chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng trong các hoạt động văn hóa ở cơ sở, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa _______________ 1. Toàn tỉnh hiện có 79 di sản được xếp hạng, trong đó có 3 bảo vật quốc gia, 56 di tích danh thắng, 22 di sản văn hóa phi vật thể, 18 cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”,...
  7. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 701 trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, tạo cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện tốt cho việc phát triển văn hóa của tỉnh; Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý văn hóa của tỉnh, nhờ đó sự nghiệp văn hóa của tỉnh đã có những bước phát triển tương đối toàn diện, công tác quản lý nhà nước từng bước được nâng cao, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao đã bám sát nhiệm vụ chính trị, được tổ chức thường xuyên, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Hà Giang có 3 bảo vật quốc gia; 31 di tích, danh thắng cấp quốc gia, 30 di tích, danh thắng cấp tỉnh; 22 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhận diện được 370 di sản phi vật thể gồm tiếng nói chữ viết, ngữ văn dân gian, trình diễn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống, nhóm tri thức dân gian,...; đây là niềm vinh dự và tự hào đối với đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang, đồng thời khích lệ đồng bào tích cực gìn giữ và bảo vệ giá trị di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình. Việc thực hiện dự án khôi phục, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đã góp phần quan trọng nhằm giới thiệu, quảng bá nét độc đáo, truyền thống văn hóa của các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang đến với bạn bè trong và ngoài nước. - Về công tác đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hóa, tỉnh chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp. Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và sau đại học có xu hướng tăng cao hơn so với giai đoạn trước. Hầu hết cán bộ lãnh đạo đứng đầu các đơn vị, phòng, ban, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh, cấp huyện có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên; tỷ lệ cán bộ, công chức chuyên trách văn hóa - xã hội cấp xã có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm phần lớn trong cơ cấu cán bộ, trong đó số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học có xu hướng tăng nhanh. Đến nay, toàn tỉnh có 736 cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách làm công tác văn hóa, trong đó cấp tỉnh là 257 người, cấp huyện là 284 người và cấp xã là 195 người. Hằng năm, tỉnh đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ từ 1 đến 2 lớp với gần 200 học viên/lớp; liên kết với các cơ sở, trung tâm đào tạo các cấp để cử hàng trăm cán bộ đi tập huấn, nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa. - Việc đầu tư, phát huy các nguồn lực văn hóa của địa phương được tỉnh quan tâm chú trọng, tập trung đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa từ tỉnh, huyện, xã đến thôn, bản, tổ dân phố. Nhiều trung tâm văn hóa thể thao và du lịch, các câu lạc bộ, khu di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách, báo, khu vui chơi giải trí... được đầu tư, hoạt động có nhiều đổi mới, chất lượng phục vụ được tốt hơn. Đến nay,
  8. 702 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... toàn tỉnh có 1 nhà văn hóa tỉnh, 1 nhà thi đấu thể dục, thể thao; 1 thư viện tỉnh; 1 bảo tàng, 11 Trung tâm Văn hóa, thông tin và du lịch; 11 thư viện cấp huyện, thành phố do Trung tâm Văn hóa, thông tin và du lịch quản lý, 143/193 nhà văn hóa xã và 1.289/2.071 thôn, tổ dân phố; 740 sân cầu lông, đá cầu; 3 sân điền kinh và 777 sân bóng chuyền, 3 nhà thi đấu thể thao, 23 nhà tập luyện, 295 sân bóng đá mini, 15 sân cỏ nhân tạo. Các công trình văn hóa được đầu tư trang thiết bị cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao của các tầng lớp nhân dân. Các thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở đã từng bước phát huy hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và tạo ra các điểm vui chơi, giải trí phục vụ nhân dân, xây dựng cuộc sống mới, con người mới trong sáng, lành mạnh, nhân văn và tiến bộ. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa trên địa bàn tỉnh còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như sau: - Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, văn nghệ, báo chí chưa tương xứng trước yêu cầu của thời kỳ công nghệ 4.0, nhất là ở cơ sở. Công tác sưu tầm, bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể đã được triển khai nhưng hiệu quả chưa cao. - Ngân sách đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hóa còn hạn chế, chưa bảo đảm để thực hiện công tác tuyên truyền cũng như tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí phục vụ nhu cầu hưởng thụ của người dân; hiệu quả hoạt động của hệ thống thư viện, nhà văn hóa cấp huyện chưa cao. - Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn, tổ dân phố văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa ở một số địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, nhất là tại các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa. - Một bộ phận nhân dân chưa phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình, mà những giá trị văn hóa này còn có nguy cơ bị mất dần. Một số phong tục lạc hậu còn tái diễn, việc tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại trong cộng đồng dân cư, thiếu các biện pháp hữu hiệu ngăn chặn kịp thời. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do một số cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu chưa nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí, vai trò của văn hóa đối với đời sống con người và những tác động của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, còn coi nhẹ việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Sự phối hợp giữa các cấp, ngành trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân còn thiếu đồng bộ. Ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực văn hóa còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển văn hóa trong tình hình mới; một số cán bộ làm công tác văn hóa tại cơ sở còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực thực tiễn. Cùng với đó là sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ, sự xâm nhập của những văn hóa
  9. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 703 phẩm không lành mạnh, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước để tuyên truyền chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người trên địa bàn tỉnh. Từ tổng kết thực tiễn trên, tỉnh Hà Giang rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: Một là, tăng cường tuyên truyền đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, phát triển con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Chú trọng việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước bằng những cơ chế, chính sách phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn ở địa phương. Ưu tiên đầu tư nguồn lực cho phát triển văn hóa, phát triển con người tương xứng với đầu tư cho phát triển kinh tế. Hai là, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là lãnh đạo quản lý các cấp phải thật sự nêu gương trong việc xây dựng và thực hiện đời sống văn hóa. Coi trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt, thực hiện phương châm “Lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “Lấy cái tích cực, đẩy lùi cái tiêu cực”. Ba là, tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật. Làm tốt việc rà soát, điều chỉnh và ban hành kịp thời các cơ chế, chính sách đặc thù về văn hóa, văn học, nghệ thuật; khuyến khích, động viên kịp thời đối với các hoạt động văn nghệ quần chúng ở cơ sở. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật. Bốn là, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, người đứng đầu có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, tâm huyết và sáng tạo, tích cực tham mưu và triển khai thực hiện nhiệm vụ. Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng, hiệu quả việc thực hiện nghị quyết; nâng cao chất lượng sơ kết, tổng kết công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật theo từng chuyên đề. Trong thời gian tới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng hơn, cuốn hút tất cả các quốc gia, dân tộc tham gia trong tâm thế vừa hợp tác vừa phải cạnh tranh, vừa tạo ra cơ hội vừa đưa lại nhiều thách thức đối với sự phát triển văn hóa và gia đình. Là một tỉnh đa dân tộc, có nhiều nét văn hóa phong phú và độc đáo, đan xen với nhiều khó khăn, thử thách, Hà Giang cần làm tốt việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, đặc sắc, vừa phải ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế, nhất là trong tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn diễn biến rất phức tạp.
  10. 704 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... Để triển khai, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tỉnh Hà Giang đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây: Thứ nhất, Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, các chương trình, đề án, kế hoạch của tỉnh về văn hóa, giáo dục - đào tạo, an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới,... bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng của Đảng, gắn phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật với phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung vào các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chương trình số 8-CT/TU ngày 2/8/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 6/9/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chương trình số 117-CT/TU ngày 7/10/2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và các văn bản có liên quan của Trung ương, của tỉnh về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa. Các cấp ủy, tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Thứ ba, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang, gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về”Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thứ tư, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị làm công tác văn hóa từ tỉnh tới cơ sở theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa đúng năng lực; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
  11. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 705 Thứ năm, tập trung nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và văn hóa phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hóa dân gian của từng địa phương. Quan tâm, động viên, khuyến khích, tôn vinh các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu bằng cơ chế chính sách để các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy cho thế hệ trẻ. Thứ sáu, đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa và phát triển con người. Tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người Hà Giang phát triển toàn diện. Thứ bảy, tăng cường quản lý hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh; thường xuyên kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của Nhà nước, bảo đảm các hoạt động văn hóa đi đúng định hướng, phát huy những mặt tích cực, hạn chế tối đa những tiêu cực của kinh tế thị trường, mặt trái của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thứ tám, tập trung nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa, hằng năm bố trí nguồn ngân sách đầu tư cho xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống thiết chế văn hóa theo quy chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, gắn với tiêu chí nông thôn mới. Đầu tư xây dựng, hoàn thiện các thiết chế văn hóa cấp huyện, nhà văn hóa, khu thể thao các xã, phường, thị trấn, thôn, tổ dân phố. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò, sức mạnh của văn hóa, sự đoàn kết, tương thân, tương ái, những nét đẹp của truyền thống văn hóa các dân tộc Hà Giang trong công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 một cách hiệu quả, thiết thực; có giải pháp đồng bộ trong việc thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế vừa phòng, chống dịch bệnh linh hoạt, thích ứng trong điều kiện mới. Về kiến nghị, đề xuất: 1. Đề nghị Trung ương hỗ trợ nguồn vốn ngân sách đầu tư phát triển hạ tầng kết nối đến Hà Giang và hạ tầng khu du lịch quốc gia Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Nâng cấp hệ thống giao thông và các công trình dừng chân, đặc biệt là các tuyến tỉnh lộ, tuyến giao thông nông thôn đến các bản làng có thể phát triển du lịch để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đón khách du lịch trong nước và quốc tế. 2. Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: - Nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành chính sách đối với văn nghệ sĩ như: Chế độ ưu đãi nghề, chế độ đặc thù khuyến khích các nghệ sĩ, học sinh, sinh viên theo học các loại hình nghệ thuật; tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật, khuyến khích, thu hút văn nghệ sĩ phát huy tài năng, cống hiến cho đất nước.
  12. 706 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... - Hỗ trợ đầu tư kinh phí cho tỉnh Hà Giang xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa (như nhà hát, khu liên hợp thể thao,...) để hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa cấp tỉnh. Nâng cấp các di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh. - Xây dựng những chính sách cụ thể và thiết thực đầu tư cho các chương trình mục tiêu về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, chú trọng đầu tư trực tiếp cho chủ thể di sản văn hóa bằng chính sách cụ thể, thiết thực, hiệu quả. - Định hướng, tổ chức các hoạt động nhằm nhận diện, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể của các tộc người, đặc biệt chú ý đến các biện pháp có tính khả thi để lưu giữ, trao truyền những di sản văn hóa phi vật thể đang có nguy cơ bị mai một. 3. Đề nghị các bộ, ngành Trung ương có những biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý các blog, ngăn chặn các website có nội dung xấu, độc hại, chống phá Đảng, Nhà nước, địa phương và chấn chỉnh việc phát các chương trình giải trí, quảng cáo trên mạng Intenet có nội dung tư tưởng không phù hợp với thuần phong mỹ tục và tập quán của người Việt Nam. T I LIỆU THAM KHẢO [1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I. [2] Báo cáo của Tỉnh ủy Hà Giang về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cấu phát triển bền vững đất nước”. [3] Báo cáo của Tỉnh ủy Hà Giang về sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 30- CT/TU, ngày 02/02/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”. [4] Báo cáo của Tỉnh ủy Hà Giang tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. [5] Phương án phát triển ngành Văn hóa, thể thao, du lịch tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050. [6] Báo cáo số 101/BC-UBND ngày 20/3/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. [7] Các báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch về lĩnh vực văn hóa.
  13. 707 NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA CÁC DÂN TỘC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA B N TỈNH LAI CHÂU TỈNH ỦY LAI CHÂU L ai Châu là tỉnh miền núi biên giới, nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của quốc gia, có diện tích tự nhiên trên 9.000km2 với 265,165km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Toàn tỉnh có 8 huyện, thành phố, gồm 106 xã, phường và thị trấn; dân số trên 470.000 người, với 20 dân tộc sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 84,6% dân số toàn tỉnh; 956 thôn, bản, tổ dân phố trên toàn tỉnh đều có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó có nhiều thôn, bản chỉ có 1 dân tộc thiểu số sinh sống đã lâu đời, tạo nên những nét văn hóa riêng rất đặc sắc (tiêu biểu là: 9 bản thuộc xã San Thàng, thành phố Lai Châu là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Giáy, đến nay vẫn giữ gìn đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa chợ phiên - nơi lưu giữ, phô diễn vẻ đẹp độc đáo, giá trị nghệ thuật của các làn điệu dân ca, dân vũ, của nghề thủ công truyền thống như nghề đan mây tre, nghề thêu, của văn hóa ẩm thực độc đáo với các món bánh giản dị mà hấp dẫn (bánh phở, bánh bỏng, bánh chít,...). Hay như 21 bản thuộc xã Mường So, xã Khổng Lào (huyện Phong Thổ) là nơi cư trú của đông đảo đồng bào dân tộc Thái - nơi được mệnh danh là “cái nôi văn hóa Thái”, được tỉnh chọn lựa, xây dựng hồ sơ khoa học cùng với các tỉnh trong khu vực Tây Bắc về “Nghệ thuật Xòe Thái” để đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hơn 80 bản thuộc các xã dọc tuyến biên giới huyện Phong Thổ và trên 20 bản có cộng đồng dân tộc Dao sinh sống tại các xã vùng cao huyện Sìn Hồ hiện nay vẫn lưu giữ và truyền dạy chữ viết, các nghi lễ thờ cúng, các tri thức dân gian về thiên nhiên, y dược cổ truyền, trang phục truyền thống,...). Nhìn chung, đồng bào các dân tộc trong tỉnh có văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng, độc đáo, giàu bản sắc, tạo thành những giá trị văn hóa tinh thần cốt lõi, trao truyền, nối tiếp qua nhiều thế hệ. Những giá trị đó có vai trò quyết định trong “xây dựng con người”, hình thành các phẩm chất, nhân cách, nuôi dưỡng và
  14. 708 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... phát triển các khả năng của con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, xác định rõ vai trò của văn hóa nói chung và vai trò của việc bảo tồn, phát huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc nói riêng trong xây dựng nền tảng vững chắc của xã hội, trong thời gian qua tỉnh Lai Châu đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng quan trọng về công tác văn hóa, văn nghệ (từ năm 2015 đến nay, Đảng bộ tỉnh đã ban hành 26 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo về công tác văn hóa, văn nghệ; Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành 4 nghị quyết chuyên đề về cơ chế, chính sách, nguồn lực để triển khai thực hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa nhiệm vụ, giải pháp về lĩnh vực văn hóa vào 30 kế hoạch, đề án; trong giai đoạn 2010-2020, tỉnh Lai Châu thực hiện 22 đề tài, dự án thuộc lĩnh vực xã hội - nhân văn liên quan đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc), trong đó tập trung chủ yếu vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc. Với những chủ trương kịp thời, đúng hướng, Đảng bộ tỉnh đã nhận được sự đồng thuận, thống nhất cao của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ, tin tưởng, chung tay của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đặc biệt là của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân của tỉnh, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh đã đạt được một số kết quả nổi bật: Toàn tỉnh hiện có 1.199 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể (trong đó 1 di sản được UNESCO vinh danh và 1 di sản đang trình UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 5 di sản đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia); 28 di tích được xếp hạng (trong đó có 5 di tích cấp quốc gia, 23 di tích cấp tỉnh và 1 bảo vật quốc gia); sưu tầm, bảo tồn và phục dựng 16 lễ hội tiêu biểu của các dân tộc; hằng năm duy trì tổ chức 40 lễ, lễ hội; có 858 đội văn nghệ ở thôn bản, tổ dân phố được duy trì hoạt động. Cùng với đó, các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tiêu biểu như trang phục, kiến trúc nhà ở, dân ca, dân vũ, kỹ thuật chế tác và sử dụng nhạc cụ, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, tri thức dân gian, các môn thể thao truyền thống cũng từng bước được khôi phục và phát triển,... Trong 5 năm qua, tỉnh đã tổ chức mở 31 lớp bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, truyền dạy văn hóa phi vật thể, sưu tầm, bảo tồn tri thức dân gian tại cộng đồng. Vai trò của các nghệ nhân và nghệ thuật dân gian của các dân tộc ngày càng được nâng lên, đến nay tỉnh có 13 nghệ nhân được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, góp phần bảo tồn văn hóa các dân tộc, giữ gìn và truyền dạy những cái hay, cái đẹp của văn hóa các dân tộc cho thế hệ trẻ. Xác định bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh là “nguồn tài nguyên” dồi dào, có giá trị lớn, là nguồn lực để phát triển du lịch, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương, tỉnh Lai Châu đã bước đầu khai thác có hiệu quả
  15. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 709 bản sắc văn hóa đặc sắc của các dân tộc và cộng đồng dân cư để phát triển du lịch gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống, tạo hình ảnh đặc trưng và trở thành điểm sáng, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế đến tham quan như: Du lịch cộng đồng bản Thẳm gắn với văn hóa dân tộc Lự; bản Sin Suối Hồ, bản Lao Chải 1 gắn với văn hóa dân tộc Mông; bản Sì Thâu Chải gắn với văn hóa dân tộc Dao, bản Vàng Pheo gắn với văn hóa dân tộc Thái,... Đồng thời, phát triển hoạt động chợ phiên: Chợ đêm San Thàng (thành phố Lai Châu), chợ phiên Sìn Hồ; chợ phiên Dào San, Sin Suối Hồ (huyện Phong Thổ);... Trong đó, nổi bật là bản Sin Suối Hồ (huyện Phong Thổ) đã được Hội đồng thi đua của Hiệp hội Du lịch Việt Nam lựa chọn là Làng du lịch cộng đồng tiêu biểu của Việt Nam, được Đài Truyền hình Việt Nam, một số đài địa phương khác giới thiệu là một trong những làng du lịch cộng đồng hấp dẫn của Việt Nam. Ở đây, bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc thì các nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Mông như: nhà ở, trang phục, các làn điệu dân ca, dân vũ, các nghề thủ công truyền thống (dệt, rèn, chế tác các sản phẩm trang sức,...), các hoạt động tái hiện lao động, sản xuất và đời sống được tổ chức bài bản, hấp dẫn, tạo sức thu hút rất lớn đối với du khách. Bên cạnh đó, việc tổ chức hoạt động du lịch cộng đồng một cách chuyên nghiệp đã làm nên thương hiệu du lịch của Sin Suối Hồ. Mỗi năm, tại đây đón trung bình khoảng 20 nghìn lượt du khách, doanh thu từ du lịch đạt khoảng 1,2 tỷ đồng, các gia đình tham gia kinh doanh chính về du lịch đạt thu nhập từ 100 đến 130 triệu đồng/năm. Đối với một địa bàn vùng khó khăn như Lai Châu thì đây thực sự là điểm sáng, là niềm mơ ước của đồng bào các dân tộc nơi đây. Và điều vui mừng hơn cả là từ việc khai thác các giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào phục vụ du lịch thì các giá trị văn hóa đã thấm sâu vào đời sống nhân dân một cách tự nhiên, không khiên cưỡng; nhân dân tự thấy mình phải có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ và phát triển để làm phong phú thêm kho tàng văn hóa quý giá này của dân tộc mình. Nhưng mô hình kiểu này ở Lai Châu chưa có nhiều, đến nay toàn tỉnh mới có 11 bản được công nhận bản du lịch cộng đồng (3 bản dân tộc Mông, 2 bản dân tộc Dao, 2 bản dân tộc Lự, 2 bản dân tộc Lào, 1 bản dân tộc Thái, 1 bản dân tộc Giáy). Để góp phần quảng bá các giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc, xúc tiến phát triển du lịch, các cơ quan chuyên môn của tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động như: tổ chức nhiều sự kiện văn hóa quan trọng của tỉnh; xây dựng các tin, bài, video quảng bá về văn hóa, du lịch Lai Châu trong các chương trình trải nghiệm thực tế như: “Nét đẹp dân gian”, “Nét ẩm thực Việt”, “S Việt Nam - Hương vị cuộc sống”, “Phong tục Việt”; “Đi đâu? Ăn gì?”, chuyên mục “Khám phá Lai Châu”, “Sắc màu văn hóa các dân tộc” trên Đài Truyền hình Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam và Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Lai Châu, cùng nhiều báo khác ở Trung ương và các trang điện tử, fanpage.
  16. 710 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... Với những cố gắng đó, ngành du lịch của tỉnh đã có những bước phát triển, giai đoạn 2016-2020 tổng lượt khách du lịch đến tỉnh đạt gần 1,5 triệu người, tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 2010-2015, tổng doanh thu đạt gần 2.300 tỷ đồng, trong đó du lịch cộng đồng là lĩnh vực được du khách ưa thích nhất tại Lai Châu, chiếm khoảng 85% tổng lượng du khách. Tuy nhiên, công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc vẫn còn những hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Vẫn còn nhiều giá trị văn hóa của các dân tộc chưa được nghiên cứu, bảo tồn, giữ gìn, trong đó một số giá trị văn hóa có nguy cơ mai một, đáng chú ý như chữ viết của người Dao, người Thái, người Lào, người Hà Nhì; một số nghi lễ, tập tục của các dân tộc thiểu số bị giao thoa bởi các dân tộc có dân số đông hơn trong cùng khu vực như tiếng nói, trang phục, các loại hình kiến trúc,... có một số người dân tộc thiểu số nhưng không nói được tiếng, không viết được chữ của dân tộc mình, nhất là thế hệ trẻ. Trang phục truyền thống ít được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày, chỉ sử dụng trong lễ hội và nghi thức của dân tộc. Việc dệt vải, thêu thùa, đan lát, chế tạo đồ dùng sinh hoạt cũng giảm do người dân sử dụng đồ làm sẵn, công nghiệp. Nhiều giá trị văn hóa đã có kết quả nghiên cứu nhưng chưa được đưa vào sử dụng. Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống với phát triển trong quản lý văn hóa; giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa với khai thác phục vụ phát triển du lịch chưa được giải quyết hài hòa. Hoạt động của nhiều câu lạc bộ, đội văn nghệ ở thôn bản mang lại hiệu quả chưa cao; vai trò của các nghệ nhân dân gian chưa được khai thác và phát huy tối đa. Hoạt động “du lịch di sản” còn có một số tác động tiêu cực đến hệ thống các di sản văn hóa của địa phương như một số nghi lễ truyền thống của đồng bào các dân tộc được sân khấu hóa, cắt gọt, bỏ không gian thiêng, tách phần nghi lễ khỏi tổng thể tín ngưỡng, chỉ còn phần hội để phù hợp với “sản phẩm du lịch”,... Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do nhận thức chưa đầy đủ của một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân về vị trí, vai trò của việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đối với phát triển bền vững đất nước và địa phương. Điều kiện tự nhiên, địa hình, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số của tỉnh còn nhiều khó khăn; đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa còn thiếu, năng lực còn hạn chế. Hơn nữa, tỉnh chưa có một kế hoạch tổng thể, bài bản, dài hạn; chưa có chính sách đủ mạnh hỗ trợ cho việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc; chưa huy động được nhiều tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư tham gia khai thác các nguồn lực để phát triển du lịch, nhất là nguồn lực về văn hóa trong nhân dân. Từ thực tiễn trên, tỉnh đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch của tỉnh như sau:
  17. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 711 Thứ nhất, phải có kế hoạch bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc gắn với phát triển du lịch một cách tổng thể, khoa học. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, của các tổ chức và người dân để việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc song song với phát triển kinh tế luôn đúng hướng, vừa bảo tồn, vừa bỏ dần hủ tục lạc hậu và tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cần phải khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, người dân khai thác các giá trị văn hóa của các dân tộc phục vụ phát triển du lịch. Thứ hai, phát huy vai trò chủ thể, năng lực sáng tạo và sự tham gia tích cực của nhân dân, vai trò của các nghệ nhân dân gian trong công tác giáo dục, trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống và tổ chức các hoạt động du lịch. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa và du lịch các cấp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy sự sáng tạo, chủ động trong công việc. Duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ, các đội văn nghệ ở thôn, bản, cộng đồng dân cư. Thứ ba, tăng cường đầu tư nguồn lực cho các chương trình, dự án, đề án về công tác văn hóa, du lịch, nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa nguồn vốn. Giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích của các bên tham gia, từ đó nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, truyền thông về giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên nhằm phát triển du lịch theo hướng bền vững; thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến khám phá bản sắc văn hóa, con người Lai Châu. Trong thời gian tới, việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch trên cả nước nói chung và tỉnh Lai Châu nói riêng có nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng nhiều thách thức đan xen. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mở ra cơ hội quảng bá nét đẹp văn hóa của các dân tộc đến với các địa phương trong nước và toàn thế giới. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; văn hóa, xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực; điều kiện tự nhiên hấp dẫn, bản sắc văn hóa độc đáo của 20 dân tộc sẽ là những lợi thế để thu hút du khách. Tuy nhiên, bên cạnh đó tỉnh cũng có không ít thách thức, khó khăn, đó là: Việc các thôn bản cách xa các trung tâm lớn, giao thông chưa thực sự thuận tiện; đời sống của nhân dân còn rất khó khăn, hạ tầng cho du lịch còn thiếu; trong khi đó việc khai thác các giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc phục vụ cho du lịch ở Lai Châu mới chỉ ở những bước khởi đầu, còn nhiều lúng túng. Những vấn đề đặt ra đối với tỉnh Lai Châu trong thời gian tới đó là: Cần phải tiếp tục duy trì, phát triển nguồn tài nguyên văn hóa phong phú, đặc sắc của
  18. 712 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... đồng bào các dân như thế nào? Khai thác, sử dụng ra sao để vừa phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân vừa là nguồn lực để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân? Tại Nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh Lai Châu đã xác định mục tiêu trong nhiệm kỳ 2020-2025: “... đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế...; phát triển mạnh thương mại, dịch vụ, du lịch”, đồng thời cũng xác định việc “bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch” là một trong 4 chương trình trọng điểm trong giai đoạn 2021-2025, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 17/2/2021 về “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 14/5/2021 về “Triển khai thực hiện Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” để chỉ đạo, triển khai thực hiện với mong muốn lấy bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc làm điều kiện cốt lõi để xây dựng môi trường du lịch bền vững, tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, trở thành nguồn thu nhập tốt để nhân dân các dân tộc - chủ thể của việc bảo tồn, chú trọng việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mình, từ đó nâng cao đời sống cho nhân dân. Để tận dụng tốt thời cơ, khắc phục các khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh đã đề ra trên lĩnh vực văn hóa gắn với phát triển du lịch, trong thời gian tới tỉnh Lai Châu tập trung lãnh đạo chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau: Một là, triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các chủ trương của tỉnh về phát triển văn hóa, con người, về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch. Trong đó, cần quan tâm xây dựng chiến lược dài hạn về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; có lộ trình khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc phục vụ phát triển du lịch một cách hợp lý, hiệu quả. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch; tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, khai thác, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống. Thực hiện hiệu quả phân cấp quản lý di tích, danh lam, thắng cảnh; xây dựng mô hình tổ chức, hoạt động của các ban quản lý di tích, điểm du lịch phù hợp với quy mô, tính chất, loại hình, tình hình và điều kiện thực tế ở địa phương. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng, lưu giữ, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Ưu tiên triển khai các đề tài khoa học
  19. Phần thứ ba: THAM LUẬN CỦA CÁC TỈNH, TH NH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG 713 nghiên cứu, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Quan tâm ứng dụng khoa học, công nghệ để nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là các loại hình có nguy cơ mai một, trong đó ưu tiên lễ hội, nghệ thuật trình diễn dân gian, tiếng nói, chữ viết, ẩm thực, trang phục, nghề thủ công truyền thống tiêu biểu. Nghiên cứu, biên soạn, giới thiệu các loại hình di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của tỉnh; xây dựng hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Thực hành bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời sống cộng đồng; phát huy vai trò của các quy ước, hương ước trong bảo tồn các giá trị văn hóa. Tổ chức phục dựng, trình diễn, truyền dạy, sáng tạo, phổ biến văn hóa truyền thống trong cộng đồng, gia đình, trường học. Phục hồi và nâng cao một số lễ hội tiêu biểu có thể tổ chức định kỳ hằng năm. Nâng cao hơn nữa số lượng, chất lượng hoạt động của các đội văn nghệ truyền thống thôn bản, câu lạc bộ văn nghệ dân gian cấp xã. Lựa chọn phục dựng không gian văn hóa dân tộc tiêu biểu ở các bản, các chợ phiên nhằm bảo lưu, trao truyền các loại hình văn hóa truyền thống như: nhà ở, nghề thủ công, ẩm thực, các loại hình dân ca, dân vũ, lễ hội,... tạo ra các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa. Khuyến khích đội ngũ nghệ nhân trao truyền bí quyết, kiến thức di sản văn hóa phi vật thể cho thế hệ trẻ; quan tâm việc truyền dạy các giá trị văn hóa đặc sắc trong các nhà trường. Khuyến khích các tầng lớp nhân dân sáng tạo và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp; đấu tranh phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa phẩm độc hại, mê tín dị đoan, bài trừ các hủ tục lạc hậu. Ba là, sử dụng các giá trị văn hóa đặc sắc để phát triển du lịch. Lựa chọn, có định hướng cụ thể đối với việc sử dụng giá trị văn hóa đặc sắc, tốt đẹp của các dân tộc trong phát triển du lịch, bảo đảm phù hợp với thực tiễn địa phương. Tiếp tục tổ chức các hoạt động lớn như ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc, liên hoan ca múa nhạc dân gian, triển lãm văn hóa dân tộc tại các địa phương trong tỉnh. Xây dựng phương án sắp xếp không gian các điểm du lịch cộng đồng; lựa chọn các bản, các điểm cộng đồng dân cư có các sản phẩm văn hóa truyền thống đặc sắc để phát triển du lịch. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch, các hộ gia đình phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái; sử dụng các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc để phát triển du lịch. Bốn là, ngoài các chương trình, chính sách của Trung ương, tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách riêng, trong đó tập trung vào hỗ trợ đầu tư, nâng cấp các thiết chế văn hóa ở cơ sở, thiết chế du lịch; chính sách hỗ trợ, đãi ngộ các nghệ nhân, người nắm giữ và thực hành di sản trong nghiên cứu, sưu tầm, thực hành truyền dạy; hỗ
  20. 714 KỶ YẾU HỘI NGHỊ VĂN HÓA TO N QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT... trợ hoạt động đội văn nghệ quần chúng; chính sách khuyến khích các hoạt động hợp tác, liên kết trong bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc tốt đẹp của các dân tộc; phát triển du lịch cộng đồng, tạo thành các sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc; ưu tiên thực hiện đối với một số điểm du lịch cộng đồng có điều kiện, lợi thế, tiêu biểu của tỉnh. Huy động mọi nguồn lực cho việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch. Ưu tiên bố trí vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng địa phương; đồng thời, lồng ghép phù hợp với các nguồn vốn thực hiện các chương trình, dự án, các cuộc vận động khác. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực hỗ trợ cho sưu tầm, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Năm là, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực. Củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa, du lịch phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh; ưu tiên đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở, đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, sưu tầm về giá trị văn hóa của các dân tộc. Xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch văn hóa, cộng đồng; tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn cách làm du lịch văn hóa cho người dân bản địa ở các điểm du lịch. Chú trọng phát hiện, xét duyệt, đề nghị Nhà nước công nhận danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân nhân dân trong lĩnh vực văn hóa dân gian; phát huy vai trò các nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng. Sáu là, đẩy mạnh liên kết, hợp tác trong bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc và phát triển du lịch. Xây dựng nội dung hợp tác và phối hợp để triển khai hoạt động ngoại giao, trao đổi và phổ biến sâu rộng giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn cũng như các hoạt động văn hóa, nghệ thuật gắn với quảng bá du lịch và xúc tiến thương mại, hợp tác đầu tư,... Tạo mọi điều kiện để các nghệ nhân, chủ thể văn hóa, các cơ quan, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có nhiều cơ hội giao lưu, quảng bá văn hóa truyền thống. Tăng cường sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và các cơ quan thông tấn, báo chí của Trung ương và các địa phương trong việc tuyên truyền, quảng bá về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch của tỉnh. Tiếp tục tổ chức các sự kiện văn hóa, du lịch, các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc trong tỉnh Lai Châu, các sản phẩm du lịch văn hóa ở trong và ngoài tỉnh, nhất là tại các trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch lớn. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng bá và xúc tiến du lịch như sử dụng mạng xã hội facebook, youtube, twitter, zalo, fanpage và các trang thông tin
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1