HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION)
lượt xem 16
download
1/ HỒI SỨC TIM-PHỔI (CPR : CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) NGHĨA LÀ GÌ ? Đối với hầu hết mọi người, hồi sức tim-phổi (CPR) để chỉ BLS (basic life support, hồi sức tim-phổi cơ bản), bao gồm hô hấp cấp cứu (rescue breathing) và xoa bóp lồng ngực kín (closed-chest compressions). Đối với nhân viên y tế, thuật ngữ chỉ rộng rãi hơn và bao gồm ACLS (advanced cardiac life support, hồi sức tim-phổi cao cấp), PALS (pediatric life support), và ATLS (advanced trauma life support)....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION)
- HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) 1/ HỒI SỨC TIM-PHỔI (CPR : CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) NGHĨA LÀ GÌ ? Đối với hầu hết mọi người, hồi sức tim -phổi (CPR) để chỉ BLS (basic life support, hồi sức tim-phổi cơ bản), bao gồm hô hấp cấp cứu (rescue breathing) và xoa bóp lồng ngực kín (closed-chest compressions). Đối với nhân viên y tế, thuật ngữ chỉ rộng rãi hơn và bao gồm ACLS (advanced cardiac life support, hồi sức tim -phổi cao cấp), PALS (pediatric life support), và ATLS (advanced trauma life support). 2/ KHI NÀO THÌ H ỒI SỨC TIM-PHỔI (CPR) ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH ? Hồi sức tim-phổi nên đư ợc thực hiện cho những ai muốn được hồi sức, miễn là có một cơ may đáng kể hồi phục có ý nghĩa. Khi ước muốn của bệnh nhân không rõ ràng, hồi sức tim -phổi cần được phát kh ởi ; sự hổ trợ có thể được rút đi vào một thời điểm sau đó. Dĩ nhiên không nên bắt đầu hồi sức tim-phổi nơi b ệnh nhân NTBR (“ not to be resuscitated ”, không phải hồi sức) hay DNR (“ do not resuscitate ”, đừng hồi sức). Điều chủ yếu là b ắt đầu CPR càng nhanh càng tốt, vì lẽ mỗi giây trôi qua đều là quan trọng. 3/ TỶ LỆ NGỪNG TIM-PHỔI DO ĐIỀU TRỊ (IATROGENIC
- CARDIOPULMONARY ARREST) ? Ng ừng tim do điều trị có lẽ xảy ra quá thường hơn điều ta nghĩ. Không nghi ngờ gì, những sai lầm do bỏ sót hay ủy thác góp phần vào tỷ lệ và tiên lượng xấu của ngừng tim-phổi trong bệnh viện (in-hospital cardiopulmonary arrests). Trong một công trình nghiên cứu của Bedell và Fulton trên 562 trường hợp ngừng tim-hô h ấp trong bệnh viện, một chẩn đoán quan trọng không được ngh ỉ ngờ hiện diện (và không được chứng tỏ bởi giải phẫu tử thi) trong 14% các trư ờng hợp. Hai ch ẩn đoán bỏ sót thông thường nhất là nghẽn mạch phổi (pulmonary embolus) và nhồi máu ruột (bowel infarction), hai bệnh lý n ày hợp lại chịu trách nhiệm 89% tất cả các tình trạng bệnh lý bị bỏ sót. Những xem xét lại cho thấy rằng, có lẽ có đến 15% các trường hợp ngừng tim trong bệnh viện (in-hospital arrests) là có th ể tránh đư ợc. Những trường hợp này có thể được quy cho suy hô hấp và xuất huyết, thường không được phát hiện hay được chẩn đoán quá muộn ; những khác thường trong các dấu hiệu sinh tồn và nh ững kêu ca của bệnh nhân (đặc biệt là khó th ở) th ường bị phớt lờ. Hầu như mọi thủ thuật, bao gồm soi thực quản-dạ dày-tá tràng (EGD : esophagogastroduodenoscopy), soi phế quản (bronchoscopy), thiết đặt đường tĩnh mạch trung ương, và CT scan bụng với chất cản quang, đôi khi đã được liên kết với một ngừng tim. Sự sử dụng thiếu cân nhắc lidocaine, các thuốc ngủ -an thần (sedative-hypnotics), và các chất nha phiến (opiates) chủ yếu chịu trách nhiệm những ngừng tim -hô hấp như th ế khắp bệnh viện. Monitoring huyết động cẩn thận, đặc biệt là puse oxymetry, với một người theo dõi tận tụy có thể làm giảm sự xảy ra biến chứng dễ tránh được này. 4/ ABC CỦA HỒI SINH Airway (đường dẫn khí), Breathing (thông khí) Circulation (tuần hoàn).
- 5/ HỒI SỨC TÌM-HÔ HẤP CƠ BẢN (BLS) ĐƯỢC THỰC HIỆN NHƯ TH Ể NÀO ? ABC hư ớng dẫn, streamline, và tổ chức sự hồi sinh của tất cả bệnh nhân bất tỉnh hay trong tình trạng cực kỳ tim-phổi : Airway (đường dẫn khí). Đường hô hấp của bệnh được mở ra bằng cách thực hiện thủ thuật nghiêng đ ầu - nâng cằm (head tilt-chin lift) hay đẩy hàm (jaw thrust). Những thủ thuật này làm xê dịch h àm dưới ra phía trước, do nâng lưỡi và nắp thanh quản ra khỏi lỗ thành môn (glottic opening). Để giúp cải thiện sự thông thương đường dẫn khí, miệng và khẩu hầu được hút (nếu có sẵn máy hút), tiếp đến là đ ặt một canun bằng plastic vào khẩu hầu hay tỵ hầu (oropharyngeal or nasopharyngeal airway). Breathing (thông khí). Một khi đường dẫn khí đã được mở, sự thích đáng của hô hấp cần được xác định. Nếu cần thiết, hỗ trợ hô hấp bằng cách thực hiện thông khí miệng-miệng (mouth-to-mouth), miệng-m ặt nạ (mouth-to-mask), hay túi-van-m ặt nạ (bag-valve-mask). Đối với bệnh nhân ngừng thở, h ãy cho hai thông khí (rescue breathing). K ỹ thuật tùy thuộc bối cảnh lâm sàng, dụng cụ có sẵn, và k ỹ năng và đào tạo của người sơ cứu. Ngoài ra, để tránh thổi vào dạ d ày, với hậu quả là mửa và hít d ịch, ta nên cho nh ững thông khí hô hấp chậm, đều, cho phép khí được thở ra hoàn toàn. Hơn nữa, việc giữ ở mức thấp những áp lực cao điểm lúc thở vào (peak inspiratory pressures) và sử dụng thủ thuật Sellick (dùng ngón tay đè vào sụn nhẫn) có thể làm giảm nguy cơ b ị rủi ro này. Circulation (tuần hoàn). Sau khi m ở đường dẫn khí và đánh giá hô hấp, kiểm tra tuần hoàn tự phát (spontaneous circulation) bằng cách ấn
- chẩn mạch cảnh (carotid pulse). Nếu bệnh nhân vô mạch, hãy bắt đầu xoa bóp lồng ngực. Đặt các gót của các bàn tay, gót này trên gót kia, trên nửa dư ới của xương ức, khoảng hai khoát ngón tay trên mũi ức (xiphoid process). Cẩn thận tránh các xương sườn và mũi ức, bởi vì gãy một trong hai có thể rất tai hại. Đè ép lồng ngực nhịp nhàng và m ạnh, kho ảng 100 lần mỗi phút. Sức đè đủ để ấn ngực xuống 4-5 cm. Nếu ch ỉ có một ngư ời sơ cứu, chuỗi hồi sức được khuyến nghị là 32 bóp tim, theo sau bởi hai thông khí, được lập lại liên tục cho đến khi cứu giúp đến. Nếu có hai người sơ cứu, một thông khí được cho sau mỗi 5 xoa bóp ngực, được lập lại liên tục cho đến khi có nhiều cứu giúp hơn đ ến. Một khi đ ã xác lập rằng một bệnh nhân trưởng th ành trong tình trạng bất tỉnh, nên báo cho EMS (emergency medical service) trước khi tiếp tục với ABC nếu chỉ có một mình trong môi trường ngoài b ệnh viện. Trong môi trư ờng bệnh viện, n ên gọi cứu giúp ngay. Cần ghi nhận là CPR lý tưởng nên được thực hiện bởi những người có giấy chứng nhận của AHA (American Heart Association). Để đư ợc giấy chứng nhận n ày phải tham gia 1 hay 2 buổi đ ào tạo bởi các huấn luyện viên lành ngh ề. 6/ CÓ NHỮNG NGOẠI LỆ CHO QUY TẮC ABC KHÔNG ? Không. Tùy theo tình huống lâm sàng, phương cách xử trí có thể thận trọng hơn hay các phương pháp có th ể bị giới hạn hơn, nhưng ABC là cơ b ản của hồi sức tim -phổi (CPR). Thí dụ, khi một bệnh nhân, đang đư ợc monitoring, đột ngột bị tim nhịp nhanh thất vô mạch (pulseless ventricular tachycardia) hay rung thất (ventricular tachycardia), thì ưu tiên trước tiên là khử rung (electrical defibrillation). Trong khi chờ đợi máy khử rung (defibrillator), thông khí túi- van -mặt nạ (bag-valve-mask ventilation) (airway, breathing) và xoa bóp ngực (tuần ho àn) phải được khởi động và thực hiện. Tuy nhiên không bao giờ được trì hoãn khử rung để thực hiện nội thông khí quản hay thiết đặt đường tĩnh mạch. Ngay cả trong ATLS, airway và breathing được đánh giá và đảm bảo bởi
- bất cứ kỹ thuật n ào (không nhất thiết nội thông khí quản) trước khi những vấn đề tuần hoàn được xử lý. Như thế, trong trường hợp ngừng tim do chấn thương (traumatic cardiac arrest), hồi sức tim -phổi ngực đóng (closed-chest CPR) và ACLS được thực hiện trong khi nguyên nhân của ngừng tim nhanh chóng được xác đ ịnh và điều trị. 7/ MÁU CH ẢY NHƯ THỂ NÀO TRONG ĐÈ ÉP NGỰC NGỰC KÍN (CLOSED-CHEST COMPRESSIONS) ? Hai mô hình cơ b ản phát xuất từ các nghiên cứu động vật giải thích chuyển động của máu trong lúc xoa bóp ngực kín (close-chest compression). Trong mô hình bơm tim (cardiac pump model), tim được đ è ép giữa xương ức và xương sống. Kỳ thu tâm xảy ra khi tim bị đè ép ; các van nh ĩ-thất đóng lại và các van phổi và động mạch chủ mở ra, đ ảm bảo sự phóng máu với luồng máu chảy theo một chiều hướng về phía trư ớc (unidirectional, antegrade flow). Kỳ trương tâm xảy ra với sự thả ra của trái tim bị đè ép, đưa đến một sự sụt giảm các áp lực trong tim ; các van nhĩ-th ất mở ra, trong khi các van ph ổi và động mạch chủ đóng lại. Máu sau đó đ ược kéo vào tim từ các tĩnh mạch chủ và hai lá phổi. Trong mô hình bơm ngực (thoracic pump model), tim được xem như là một ống dẫn thụ động (a passive conduit). Xoa bóp tim ngực kín đưa đến sự gia tăng đồng bộ các áp su ất trong toàn bộ xoang ngực. Luồng máu chảy về phía trước xảy ra với mỗi đè ép tim và ngực, do hệ động mạch tương đối không có tính ch ất dẻo (compliant) (nghĩa là các động mạch khang lai không để cho bị xẹp) và các van một chiều (one-way valves) n găn cản sự hồi lưu của luồng máu vào trong h ệ tĩnh mạch. Có lẽ cả hai mô hình góp phần giải thích luồng máu chảy trong lúc hồi sức tim -phổi (CPR). 8/ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH QUAN TRỌNG CỦA MỘT HỒI SỨC THÀNH CÔNG ?
- Hai yếu tố chính có thể ảnh hưởng lớn lên tiên lượng của một hồi sức. Yếu tố thứ nhất là kh ả năng được tiếp cận với khử rung (access to defibrillation). Đối với hầu hết những người trưởng th ành, nguyên nhân nguyên phát của ngừng tim đột ngột, không do chấn th ương là tim nhịp nhanh thất (ventricular tachycardia) hay rung th ất (ventricular fibrillation), mà điều trị là kh ử rung điện (electrical defibrillation). Yếu tố thứ hai là thời gian, hay chính xác h ơn, thời gian cho đến khi bắt đầu khử rung. Tỷ lệ sống sót sau một ngừng tim do rung thất giảm 7-10 % đối với mỗi phút bị trì hoãn. Sự khử rung vào thời điểm sớm nhất là yếu tố quan trọng trong việc làm dễ một hồi sức thành công. Đáng lưu ý, chỉ 15% những bệnh nhân bị ngừng tim ngoài bệnh viện là sống sót đến lúc xuất viện ; tỷ lệ thấp hơn nhiều đối với những bệnh nhân bị ngừng tim trong bệnh viện. 9/ VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP DƯỢC HỌC TRONG HỒI SỨC TIM-HÔ HẤP CAO CẤP (ACLS) ? Nh ững mục đích tức thời của liệu pháp dược lý là cải thiện lưu lượng máu đến cơ tim, gia tăng inotropy tâm thất, và làm ch ấm dứt những loạn nhịp đe dọa tính mạng, do đó phục hồi hay duy trì tuần hoàn tự nhiên. Các chất chủ vận phối hợp alpha- và beta-adrenergic, như epinephrine, và các ch ất chủ vận V1 cơ trơn, như vasopressin, làm gia tăng gradient áp lực trung bình động mạch chủ -tâm thất (aortic-ventricular) cuối kỳ trương tâm (áp suất tưới máu động mạch vành) b ằng cách làm gia tăng trương lực mạch máu động mạch. Mặc dầu chủ yếu là các chất chủ vận alpha-adrenergic, phenylephrine và norepinphrine cũng làm gia tăng áp suất động mạch và lưu lượng máu cơ tim, nhưng cả hai không cho thấy ưu việt hơn epinephrine. Điều đáng ghi nhận, những dữ kiện mới đây (cả động vật và người) chứng tỏ rằng vasopressin có thể ưu th ế h ơn epinephrine khi tỷ lệ sinh tồn lúc xuất viện và các di ch ứng bại liệt th ần kinh được so sánh. Ngoài việc cải thiện hay duy trì lưu lượng máu cơ tim, liệu pháp dư ợc học
- trong ACLS cũng nhằm vào việc làm chấm dứt hay ngăn ngừa các loạn nhịp, có thể làm thương tổn thêm một trái tim vốn đã bị thiếu máu cục bộ trầm trọng. Tim nhịp nhanh thất (VT) và rung th ất (VF) làm gia tăng rõ rệt sự tiêu thụ oxy của cơ tim vào một lúc mà sự cung cấp oxy trở nên tinh tế do sự phân phát oxy bị kém đi. Nhiễm toan trong tế bào chỉ khiến cho cơ tim trở n ên loạn năng hơn và d ễ bị kích thích hơn, làm cho tim dễ bị loạn nhịp. Amiodarone, một thuốc chống loạn nhịp lớp III, đã trở nên thuốc đư ợc chọn lựa để điều trị hầu hết các loạn nhịp đe dọa tính mạng. 10/ SODIUM BICARBONATE CÓ ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH TRONG XỬ TRÍ THƯỜNG QUY NGỪNG TIM HÔ HẤP KHÔNG ? Không. Điều trị chủ yếu của nhiễm toan chuyển hóa (metabolic acidosis) do giảm thông máu (hypoperfusion) và giảm oxy (hypoxia) mô trong ngừng tim là sự thông khí thích đáng hay ngay cả sự tăng thông khí (hyperventilation). Nhiễm toan chuyển hóa thường không quan trọng trong 15-18 phút đ ầu của hồi sức. Nếu sự thông khí thích đáng có thể đư ợc duy trì, pH động mạch thường vẫn trên 7,2. Tuy nhiên, vài chuyên gia lý luận rằng trong khi hồi sức tim-phổi (CPR), sự thông khí tốt nhất vẫn d ưới tối ưu (suboptimal), dẫn đến nhiễm toan chuyển hóa và hô hấp kết hợp và do đó làm trụt pH xuống dưới 7,2. Các công trình nghiên cứu đ ã cho thấy rằng nhiễm toan nghiêm trọng dẫn đến suy giảm chức năng co của cơ tim, tâm thất dễ bị kích thích, và d ễ bị rung thất. Ngoài ra, một pH thấp rõ rệt ngăn cản các đáp ứng huyết quản và cơ tim đối với các thuốc adrenergic và các catecholamine nội tại, làm giảm chonotropy và inotropy của tim. Mặc dầu việc cho sodium bicarbonate dễ bị lôi cuốn trong bối cảnh này, nhưng nhà lâm sàng phải ghi nhớ rằng ion bicarbonate, sau khi kết hợp với một ion hydrogen, sinh ra một CO2 mới. Các màng tế bào rất thẩm thấu với CO2 (hơn nhiều so với bicarbonate) ; do đó , việc cho sodium bicarbonate gây m ột tình trạng nhiễm toan nghịch lý trong tế bào. Sự tăng thán
- huyết (hypercapnia) trong cơ tim do đó dẫn đến một sự giảm nghiêm trọng chức năng co bóp của tim và làm thất bại sự hồi sức. CO2 được sinh ra cũng cần được loại bỏ để ngăn ngừa sự trầm trọng của một tình trạng nhiễm toan hô hấp vốn đ ã hiện diện. Xét vì lưu lượn g tim kém trong hồi sức tim -phổi và có lẽ sự thông khí dưới tối ưu, nên mục tiêu này có thể rất khó khăn. Bởi vì tình trạng toan -kiềm tối ưu đối với một hồi sức đã không được xác lập, và không có liệu pháp chất đệm (buffer therapy) nào cần đến trong 15 phút đ ầu, nên việc cho th ường quy sodium bicarbonate đối với nhiễm toan thứ phát ngừng tim không được khuyến nghị. Chỉ có sự tái lập tuần hoàn tự nhiên với sự thông máu mô (tissue perfusion) và phân phát oxy (oxygen delivery) thích đáng mới có thể đảo ngược quá trình tiếp tục này. 11/ NHỮNG LOẠN NHỊP TIM NÀO LIÊN K ẾT VỚI HẦU HẾT CÁC NGỪNG TIM-PHỔI ? Hầu hết các ngừng tim -phổi đột ngột, không do chấn thương, nơi người trưởng thành, được gây nên bởi rung thất (ventricular fibrillation) hay tim nhịp nhanh thất (ventricular tachycardia), do thiếu máu cục bộ hay nhồi máu cơ tim, thứ phát bệnh động mạch vành. Các rối loạn điện giải (giảm kali-huyết hay giảm magnesium-huyết), giảm oxy-huyết kéo dài, và n gộ độc thuốc cũng có thể là những yếu tố phát khởi quan trọng nơi những bệnh nhân với nhiều vấn đề y khoa. Những ngừng tim do tim nhịp chậm -vô tâm thu (bradyasystolic arrests) (chiếm đến 50% các ngừng tim trong bệnh viện), cũng không phải là không thông thường. Một nguyên nhân của loạn nhịp n ày là tình trạng giảm oxy-huyết (hypoxemia) hay nhiễm axit-huyết (acidemia) không đư ợc nhận biết. Những nguyên nhân khác gồm có trương lực phế vị (vagal tone), được làm gia tăng bởi thuốc, nhồi máu cơ tim thành dưới-sau (Bezold- Jarish reflex), hay những thủ thuật xâm nhập. Một nhịp ngừng tim thứ ba được thấy là ho ạt động điện vô mạch (PEA : pulseless electrical activity). Một nguyên nhân thông thường của loạn nhip này là ngừng tim kéo dài. Trong trường hợp điển hình, sau khi bị
- rung thất kéo dài 8 phút hoặc hơn, khử rung điện gây nên một hoạt động điện vô m ạch (PEA) chậm, phức hợp rộng. Hoạt động điện vô mạch (PEA) n ày có khuynh hướng là một nhịp tận cùng (a terminal rythm) và được gọi là nhịp thất tự phát vô mạch (pulseless idioventricular rythm) (thuật ngữ rythme idioventriculaire thường đ ược dùng để mô tả nhịp thoát, rythme d’échappement, phát xuất từ co tim của tâm thất). Trong hầu hết các trường hợp hồi sức không thành công, rung thất thoái biến th ành nhịp thất tự phát vô mạch (pulseless idioventricular rhythm) trước khi bệnh nhân trở th ành vô tâm thu (asystolie). Nhịp của toạt động điện vô mạch (PEA) có thể hẹp và nhanh. Nh ịp n ày đi kèm nh ững tình trạng đe dọa mạng sống có thể đảo ngược được khác, hơn là ch ỉ biểu hiện một nhịp tận cùng (a terminal rythm). Những thí dụ là chèn ép tim (cardiac tamponade), giảm thể tích máu (hypovolemia), nghẽn mạch phổi (pulmonary embolus), hay tràn khí màng phổi tăng áp (tension pneumothorax). 12/NHỮNG NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ ĐẢO NGƯỢC TỨC THỜI THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA NGỪNG TIM-HÔ HẤP ? Các nguyên nhân của ngừng tim-phổi có thể chữa trị được được thể hiện bởi 5 H và 5 T. 13/ LIỆT KÊ 5 H. Hypovolemia (giảm thể tích máu) n ên được nghi ngờ trong tất cả các trường hợp ngừng tim -hô hấp được liên kết với mất máu xảy ra nhanh chóng. Giảm thể tích máu “ tuyệt đối ” xảy ra trong những bối cảnh như chấn thương (gãy xương ch ậu), xuất huyết dạ dày-ruột, hay vỡ phình động mạch chủ bụng. Giảm thể tích máu “ tương đối ” có thể xảy ra với sepsis hay phản vệ (anaphylaxis), thứ phát tinh trạng rò mao m ạch (capillary leak) lan rộng. Dầu đó là lo ại gì, một lượng lớn chất dịch
- (crystalloid, colloid, máu) nên được tiêm truyền nhanh chóng và nguyên nhân của giảm thể tích máu phải được điều chỉnh (ví dụ chuyển bệnh nhân đ ến phòng mổ, cho các kháng sinh). Hypoxia (giảm oxy-mô), do nhiều nguyên nhân, có thể dẫn đến ngừng tim. Nội thông khí quản và cung cấp oxy nồng độ cao là điều trị chọn lựa, trong khi đó nguyên nhân của giảm oxy đ ược xác định và điều trị quyết định được thực hiện. Hydrogen ions (nhiễm toan) có thể dẫn đến suy cơ tim, đưa đ ến choáng do tim (cardiogenic shock) và ngừng tim. Nồng độ ion hydrogen cao cũng làm gia tăng tính kích thích của cơ tim và gây nên lo ạn nhịp tim. Nhiễm toan nghiêm trọng có th ể được bù một phần bởi sự tăng thông khí, nhưng có thể vẫn còn cần cho sodium bicarbonate. Nguyên nhân của nhiễm toan nên được chẩn đoán và điều chỉnh. Hyperkalemia (tăng kali-huyết) được gặp nơi những bệnh nhân với suy th ận, đái đường, và nhiễm toan nặng. Các sóng T đ ỉnh nhọn và sự giãn rộng phức hợp QRS báo trước tăng kali-huyết, hoạt động điện có thể thoái biến thành một kiểu sóng (sinus-wave pattern). Điều trị gồm có calcium chloride, sodium bicarbonate, insulin, và glucose. Hypokalemia (giảm kali-hu yết) và những rối loạn điện giải khác dẫn đến ngừng tim ít xảy ra hơn nhiều. Điều trị các bất thường sẽ giúp phục hồi tuần hoàn tự nhiên. Hypothermia (giảm thân nhiệt)) đ ược phát hiện dễ dàng lúc thăm khám b ệnh nhân. Điện tâm đồ có thể phát hiện sóng Osborne, d ấu hiệu đặc hiệu. Tất cả các cố gắng hồi sức nên được thực hiện cho đến khi bệnh nhân b ình nhiệt (euthermic).
- 14/ LIỆT KÊ 5 T. Tablets or Toxins (các viên thuốc hay độc chất) n ên được xét đến nơi những bệnh nhân với ngừng tim ngoài bệnh viện. Vài trong số những ngộ độc thông thường hơn gồm có ngộ độc CO sau khi tiếp xúc lâu dài với khói thuốc hay khói chất phế thải do sự đốt cháy không hoàn toàn, ngộ độc cyanide trong hỏa hoạn làm cháy các chất tổng hợp, hay ngộ độc thuốc (cố ý hay vô ý). Oxy lưu lượng cao, nồng độ cao, và n ếu có thể, tăng áp (hyperbaric), cùng với điều trị nhiễm toan, là trụ cột của điều trị các ngộ độc CO và cyanide. Ngoài ra có th ể tiêm tĩnh mạch sodium nitrite và sodium thiosulfate để giúp loại bỏ cyanide khỏi tuần hoàn. Các thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressants) tác dụng như một tác nhân chống loạn nhịp loại IA và làm chậm sự dẫn truyền trong tim, gây n ên loạn nhịp thất, hạ huyết áp, và co giật. Kiềm hóa tích cực máu và nước tiểu, ngo ài điều trị co giật, góp phần vào sự chế ngự độc tính. Ngộ độc nha phiến (opiate overdose) gây nên giảm oxy mô do làm giảm sự thông khí, và một ngộ độc cocaine có thể dẫn đến thiếu máu cục bộ cơ tim. Naloxone làm đảo ngược những tác dụng của thuốc nha phiến và nên được cho ngay nếu nghi ngờ ngộ độc nha phiến. Cardiac Tamponade (chèn ép tim) với các dấu hiệu hạ huyết áp, pulse pressure hẹp, áp lực tĩnh mạch cổ tăng cao, tiếng tim mờ và xa xăm, và các phức hợp QRS có điện thế thấp trên điện tâm đồ. Những nạn nhân bị chấn thương và những bệnh nhân với ung thư có nguy cơ cao nh ất. Chọc dò màng ngoài tim (pericardiocentesis) hay khâu màng ngoài tim (pericardiorrhaphy) dưới mũi ức có thể cứu sống.
- Tension pneumothorax (tràn khi màng phổi dưới áp lực) ph ải được nhận biết tức thời. Thư ờng nh ất xảy ra nơi những bệnh nhân bị chấn thương hay những bệnh nhân được thông khí áp lực dương. Những dấu hiệu của tràn khi màng phổi dưới áp lực là h ạ huyết áp khởi phát nhanh, giảm oxy mô, và gia tăng áp lực đường khí. Khí phế thủng dưới da (subcutaneous emphysema) và tiếng thở giảm phía bị tràn khí với lệch khí quản (tracheal deviation) về phía không bị tràn khí, thường đư ợc ghi nhận. Việc đặt một catheter tĩnh mạch cỡ 14 hay 16 vào khoang liên sườn thứ hai trên đường giữa đòn (midclavicular line) hay vào khoang liên sườn thứ 5 trên đường nách trước (anterior axillary line) để làm giảm áp tức thời là bức thiết để tái lập tuần ho àn. Một ống dẫn lưu ngực có thể được đặt sau khi tràn khí màng phổi dưới áp lực được biến đổi thành tràn khí màng phổi đơn thuần (simple pneumothorax). Thrombosis of a coronary artery (huyết khối động mạch vành) có thể dẫn đến thiếu máu cục bộ cơ tim (myocardial ischemia) và nhồi máu cơ tim. Sự tái thông máu (reperfusion) là một yếu tố quyết định sinh tử cho tiên lượng. Thông tim (cardiac catherization) là lựa chọn nguyên phát, n ếu có sẵn tức thời ; liệu pháp tan huyết khối (thrombolysis) là một phương pháp thay th ế tốt. Thrombosis of a pulmonary artery (huyết khối động mạch phổi) có thể gây tai hại. Vài bệnh nhân có thể có khó thở và đau ngực, tương tự với các hội chứng động mạch vành, những bệnh nhân với ngừng tim có cơ may sống sót rất ít ỏi. Liệu pháp bao gồm cho thuốc làm tan huyết khối tức thời để giảm gánh tâm thất phải trong khi hồi phục luồng máu qua phổi. 15/ RUNG THẤT NÊN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THỂ NÀO ?
- Kh ử rung sớm với một năng lượng ban đầu 200J đối với một máy khử rung dạng sóng một pha (monophasic waveform defibrillator), được khuyến nghị để làm giảm thiểu thương tổn cơ tim và đ ể ngăn ngừa sự phát triển những loạn nhịp ch ậm hay nhanh vô mạch sau sốc điện (postcountershock pulseless brady- or tachyarrhythmias). Năng lượng đ ược phát ra gia tăng lên 300 joules, sau đó lên 360 joules nếu bệnh nhân vẫn còn rung thất. Nếu máy khử rung dạng sóng 2 pha được sử dụng, 150 joules thường là mức năng lượng được khuyến nghị Nếu 3 sốc điện không th ành công đ ể làm ch ấm dứt rung thất, epinephrine hay vasopressin nên được cho, trong khi đường dẫn khí và sự thông khí được đảm bảo hơn b ằng nội thông khí quản. Nếu chưa có sẵn đường tĩnh mạch, hồi sức tim phổi cơ bản (BLS) n ên được tiếp tục cho đến khi ống thông nội khí quản được thiết đặt, khi đó epinephrine có thể đư ợc cho qua đường khí quản. Giai đoạn tiếp theo là thực hiện một khử rung khác với 360 J (dạng sóng một pha) hay 150 J (d ạng sóng hai pha). Nếu sự khử rung vẫn không thành công, một thuốc chống loạn nhịp khác (amiodarone, lidocaine, magnesium, hay procainamide), nên được cho qua đường tĩnh mạch. Chuỗi hồi sức còn lại luôn luôn bao gồm sự tiêm thuốc, rồi tiếp theo sau do bởi khử rung (nếu bệnh nhân vẫn ở trong nhịp có thể sốc điện đư ợc). Tuy nhiên cần ghi nhận rằng amiodarone lẫn các thuốc khác (gồm cả magnesium) đ ã được chứng tỏ là có hiệu quả trong việc cải thiện tỷ lệ sinh tồn lúc xuất viện.Tuy nhiên cần ghi nhận rằng amiodarone lẫn các thuốc khác (gồm cả magnesium) đã được chứng tỏ là có hiệu quả trong việc cải thiện tỷ lệ sinh tồn lúc xuất viện. 16/ NH ỊP THẤT TỰ PHÁT VÔ MẠCH (PULSELESS IDIOVENTRICULAR RHYTHM) CÓ THỂ ĐIỀU TRỊ ĐƯỢC KHÔNG ? Sốc điện bị trì hoãn hay rung thất kéo dài thư ờng đưa đ ến nhịp thất tự phát vô mạch (idioventricular rhythm) hay vô tâm thu. Trong hầu hết các trường hợp, nhịp thất tự phát vô mạch (idioventricular rhythm) không đáp ứng với điều trị và đưa đến tử vong.
- 17/ VÔ TÂM THU (ASYSTOLE) ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THỂ NÀO ? Nhanh chóng xác định xem có bằng cớ nào cho thấy sự hồi sức không nên đư ợc thực hiện. Thực hiện sự đánh giá ABCD sơ cấp và thứ cấp, bao gồm việc xác nhận sự vắng mặt của hoạt động điện tim (một đ ường phẳng trên điện tâm đồ có thể là do những sai lầm kỹ thuật). Quay những chuyển đạo monitoring 90 độ, và đ ạt biên độ tối đa để phát hiện rung thất mảnh (fine VF) (trong trường hợp n ày kh ử rung n ên được thực hiện tức thời). Kiểm tra sự vắng mặt của mạch ở động mạch cảnh và đùi. Nếu sự tạo nhịp qua da (transcutaneous pacing) được xét đến, nên bắt đầu không trì hoãn. Mỗi 5 phút, tiêm atropine, 1mg (cho đ ến 0,04 mg/kg), để chống lại hoạt động phế vị và epinephrine, 1mg, để gia tăng sự thông máu cơ tim. Luôn luôn xét đến việc ngừng các cố gắng hồi sức. 18/ NHỮNG ĐƯỜNG CHO THUỐC THÍCH HỢP LÀ NHỮNG ĐƯỜNG NÀO ? Đường tĩnh mạch là đường cho thuốc được ưa thích trong khi ngừng tim- hô hấp (cardiopulmonary arrest). Nếu một catheter tĩnh mạch trung ương đã được thiết đặt, th ì đường trung ương được ưa thích hơn đường ngoại biên. Sự cho thuốc qua đư ờng ngoại biên đưa đến một khởi đầu tác dụng h ơi bị trì hoãn lại, mặc dầu tác dụng cao điểm của thuốc vẫn tương tự như đường trung ương. Nhiều loại thuốc (epinephrine, atropine, lidocaine) được hấp thụ toàn thân sau khi được cho bằng đường nội khí quản. Mặc dầu lưu lư ợng máu qua phổi và do đó sự hấp thụ to àn thân là tối thiểu trong hồi sức tim-phổi (CPR), nhưng những nghiên cứu trên động vật mới đây gợi ý rằng những đáp ứng huyết động giống
- nhau có thể xảy ra. Hầu như mọi thứ thuốc được dùng để hồi sức đều có thể được cho với liều lượng quy ư ớc qua đường trong xương (intraosseous route). Phương pháp này có thể hữu ích n ơi các bệnh nhi khi đường tĩnh mạch không thể được thiết lập một cách nhanh chóng. 19/ TIỀN LƯỢNG THÔNG THƯỜNG CỦA HỒI SỨC TIM-HÔ H ẤP TRONG BỆNH VIỆN (IN-HOSPITAL CPR) ? Hầu hết các bệnh nhân nhận hồi sức tim-phổi trong bệnh viện (in-hospital CPR) đ ều không sống sót. Thật vậy, chỉ 5-20 % những bệnh nhân sống đ ược xuất viện về nh à. Ngoài ra, nhiều bệnh nhân tuy còn sống nh ưng có nh ững ảnh hưởng nghiêm trọng lên sự độc lập và nhận thức. Tiếc thay, chưa thể tiên đoán được một cách đáng tin cậy tiên lượng của hồi sức trong bệnh viện (in-hospital resuscitation). 20/ LỆNH ĐỪNG HỒI SỨC (DO-NOT-RESUSCITATE ORDER) LÀ GÌ ? Lệnh đừng hồi sức (DNR order), đư ợc ký bởi một thầy thuốc, là một lý do được chấp nhận để đ ình chỉ tất cả các cố gắng hay giới hạn mức độ hồi sức trong biến cố ngừng tim-phổi (cardiopulmonary arrest) hay gần như ngừng tim- phổi (near arrest). 21/ NHIÊN HẬU AI CHỊU TRÁCH NHIỆM XÁC ĐỊNH LỆNH ĐỪNG HỒI SỨC CỦA MỘT BỆNH NHÂN ? Quyết định ngừng những cố gắng hồi sức (resuscitation attempts) nơi một bệnh nhân ngừng tim-ph ổi, lý tưởng là một quyết định hợp tác (a collarorative decision), đư ợc xác đ ịnh bởi bệnh nhân, gia đình bệnh nhân, và th ầy thuốc gia
- đình. Tuy nhiên thầy thuốc tham gia hồi sức có thể làm một quyết định đơn phương để đình chỉ các cố gắng hồi sức nếu ông hay b à ta xét thấy điều đó không thích đáng, như khi không có hy vọng một hồi sức th ành công. Nếu người thầy thuốc đơn phương quyết định, thì ông hay bà nên gặp ngay bệnh nhân và gia đình để b àn bạc tất cả vấn đề, bao gồm những giải pháp thay thế, và thông báo cho họ quyết định này. Trong hầu hết các trường hợp, ý kiến y khoa khách quan của người thầy thuốc tham gia hồi sức là yếu tố xác định trong quyết định của một bệnh nhân và gia đình không mong muốn đ ược hồi sức. Một lệnh đừng hồi sức (DNR order) phải được ký bởi một thầy thuốc ; tất cả những chữ ký khác, nếu được yêu cầu, không thích hợp về mặt pháp lý. Một lệnh đừng hồi sức không đồng nghĩa với một lệnh đình chỉ sự điều trị y khoa chu ẩn (standard medical care).
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thở máy trong hồi sinh tim - phổi và vận chuyển bệnh nhân nặng (Phần 1)
6 p | 290 | 85
-
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ NGƯNG TUẦN HOÀN HÔ HẤP
5 p | 196 | 37
-
Thông khí cơ học trong hồi sinh tim - phổi và vận chuyển bệnh nhân nặng - TS.BS Đỗ Quốc Huy
36 p | 102 | 20
-
HỒI SỨC NHI ĐỒNG (CHILDHOOD RESUSCITATION)
19 p | 79 | 11
-
HỒI SỨC TIM-PHỔI SỐ 1
18 p | 128 | 7
-
HỒI SỨC TIM - PHỔI SỐ 2 - Phần 1
13 p | 96 | 6
-
HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) - PHẦN 1
10 p | 69 | 5
-
XỬ TRÍ NGỪNG TIM VÀ HỒI SỨC - Phần 1
15 p | 109 | 4
-
HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) PHẦN 2
11 p | 75 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn