
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp chính là tác động
của con người lên đất đai để tạo ra của cải vật chất. Xã hội càng tiến bước mạnh mẽ vào
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mức độ cạnh tranh trong tiêu thụ hàng hóa sản
xuất ra càng gay gắt thì người sản xuất nông nghiệp càng yếu thế và dễ bị tổn thương
hơn. Để chống lại tình cảnh đó, họ cần được hợp tác, liên kết lại trong những tổ chức
khác nhau nhằm tạo nên sức mạnh cần thiết (Nguyễn Mạnh Dũng, 2015).
Phát triển kinh tế hợp tác là một chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta. Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã
hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; dựa trên
tinh thần hợp tác, chia sẻ, mang lại lợi ích cho các thành viên và xã hội; không chỉ đóng
góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có đóng góp quan trọng trong phát triển văn hóa, xã
hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Trong thực tế sản xuất
lâm nghiệp thời gian qua đã xuất hiện các mô hình hợp tác và liên kết theo chuỗi hiệu quả
tại các vùng sản xuất nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ. Tuy vậy, việc hợp tác kinh
tế còn nhiều tồn tại làm hạn chế hiệu quả của việc nâng cao giá trị gia tăng, thu nhập của
các cá nhân và thành phần tham gia, làm giảm động lực hợp tác, liên kết, đó là: Các hộ gia
đình, cá nhân chưa được hợp tác với nhau để tạo ra sức mạnh về đầu tư, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm với số lượng lớn, chất lượng cao và ổn định
cung cấp theo hợp đồng (liên kết ngang) (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn, 2014).
Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (2020), các tỉnh thuộc vùng Trung du miền
núi phía bắc (gồm 17 tỉnh) có tổng diện tích rừng là trên 5,731 triệu ha, chiếm 39,6%
tổng diện tích rừng toàn quốc; trong đó, rừng tự nhiên khoảng 3,962 triệu ha, diện tích
rừng trồng là 1,796 triệu ha. Các loài cây trồng chủ yếu là keo, bạch đàn, thông, mỡ,
quế,… Tính đến năm 2020, tỉ lệ che phủ rừng vùng trung du, miền núi phía bắc khoảng
52,6%. Chủ thể tham gia hoạt động trồng rừng sản xuất tham gia chuỗi cung ứng cũng
như chuỗi giá trị gỗ rừng trồng chiếm tỉ trọng khá cao. Bên cạnh đó, các hộ trồng rừng
tham gia hợp tác kinh tế khá đa dạng về hình thức cũng như các mô hình hợp tác kinh tế
nhằm nâng cao giá trị rừng trồng sản xuất của mình
Với những lý do nêu trên việc lựa chọn nghiên cứu “Hợp tác kinh tế của các hộ
trồng rừng sản xuất ở vùng Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam” là cần thiết nhằm
góp phần giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Trên cơ sở tổng hợp cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, phân
tích vai trò của hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất, các yếu tố ảnh hưởng đến
hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng; từ đó đề xuất các giải pháp và chính sách nhằm