TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
HỢP TÁC VIỆT NAM – ASEAN TRONG GIẢI QUYẾT<br />
“VẤN ĐỀ CAMPUCHIA” (1986-1991)<br />
Vietnam – Asean cooperation in resolving “Cambodian problem” (1986-1991)<br />
<br />
ThS.NCS. Trần Hùng Minh Phương<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Quan hệ Việt Nam và ASEAN là mối quan hệ có ý nghĩa vô cùng cần thiết, quan trọng trong việc phát<br />
triển kinh tế cũng như ổn định an ninh chính trị trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã gia nhập<br />
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với tư cách là thành viên chính thức vào ngày 28 tháng 7 năm 1995.<br />
Đây là sự phát triển mang ý nghĩa lớn đối với ASEAN và là minh họa cho sự thay đổi diễn ra ở khu vực<br />
châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Bài viết nêu lên những điểm nổi bật<br />
trong hợp tác giải quyết “vấn đề Campuchia” giữa Việt Nam và ASEAN (1986-1991), qua đó khẳng<br />
định vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và trên trường quốc tế. Việt Nam và ASEAN cùng<br />
tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, hợp tác, phát<br />
triển và cùng tồn tại hoà bình.<br />
Từ khóa: Đông Nam Á, giải quyết, sự hợp tác, “Vấn đề Campuchia”, Việt Nam – ASEAN.<br />
Abstract<br />
Vietnam and ASEAN relations are essential and important in developing economy as well as stabilizing<br />
political security in the region and the world. Vietnam joined the Association of Southeast Asian<br />
Nations as a full member on 28 July 1995. This is both a highly significant development for ASEAN<br />
and an illustration of the extent of change underway in the Asia-Pacific region in the post Cold War era.<br />
This article presents the highlights of cooperation in resolving“Cambodian Problem” between Vietnam<br />
and ASEAN (1986-1991), affirming Vietnam's position in Southeast Asia and the world. Vietnam and<br />
ASEAN together find a synchronous solution to this problem, moving from confrontational state to<br />
dialogue, cooperation, development and peaceful coexistence.<br />
Keywords: Southeast Asia, resolve, cooperation, “Cambodian Problem”, Vietnam– ASEAN.<br />
<br />
<br />
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và 12 năm 1978) và nước Cộng hoà Nhân dân<br />
Việt Nam nửa sau thập niên 1980 Campuchia được thành lập (ngày 07 tháng<br />
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực 1 năm 1979) và cũng từ lúc này quan hệ<br />
Đông Nam Á đối ngoại của Việt Nam ngày càng xấu đi<br />
Theo lời yêu cầu và nguyện vọng của [2, tr.351]. Sự kiện này đã làm nảy sinh sự<br />
những người yêu nước Campuchia, Việt bất đồng giữa hai nhóm nước, trong đó các<br />
Nam đưa quân tình nguyện sang giúp nhân quốc gia ASEAN đã thực hiện chính sách<br />
dân Campuchia lật đổ chế độ PolPot (tháng đối đầu với Việt Nam và các nước Đông<br />
Email: tranhungminhphuong@gmail.com<br />
83<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
Dương với cái gọi là “vấn đề Campuchia”. chủ trương đa dạng – đa phương hoá quan<br />
Đó cũng chính là âm mưu của các nước hệ quốc tế và chú trọng hợp tác – liên kết<br />
lớn, chính là sự tác động từ bên ngoài khu khu vực.<br />
vực. Trong tháng 1 năm 1979, Hội đồng Tháng 3 năm 1985, M.Gorbachov<br />
Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua hai được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản<br />
nghị quyết về Campuchia tại phiên họp lần Liên Xô, đồng thời Liên Xô thay đổi chính<br />
thứ 2108 [13, tr.104]: Nghị quyết thứ nhất: sách đối ngoại với Mỹ và Trung Quốc, vấn<br />
Tiếp tục công nhận Pol Pot là đại diện hợp đề này đã ảnh hưởng rất lớn đến Việt<br />
pháp của Campuchia; Nghị quyết thứ hai: Nam. Ngày 02 tháng 12 năm 1989, tại<br />
Đòi quân đội Việt Nam rút ngay ra khỏi Malta (quốc gia ở Nam Âu), Gorbachov<br />
Campuchia. Cơ hội thúc đẩy hoà bình, hợp gặp gỡ không chính thức Tổng thống Mỹ<br />
tác hữu nghị ở khu vực Đông Nam Á lại Bush, hai bên đã đạt được một số thoả<br />
thêm một lần nữa bị bỏ qua. thuận về giải trừ quân bị, trao đổi ý kiến về<br />
Đến giữa những năm 80, các nước lớn tình hình nhiều điểm nóng trên thế giới và<br />
đi vào hoà hoãn, hợp tác giải quyết các tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh<br />
vấn đề khu vực, trong đó có “vấn đề lạnh giữa hai nước. Sau Malta, quan hệ<br />
Campuchia”. Các quốc gia trong tổ chức Mỹ và Liên Xô bước vào giai đoạn giảm<br />
ASEAN cũng từng bước điều chỉnh quan dần xu thế đối kháng, thoả hiệp và hợp tác<br />
hệ với Việt Nam, hợp tác tìm giải pháp cho cùng phát triển.<br />
vấn đề Campuchia có lợi cho hoà bình, ổn Trong thời gian này, Trung Quốc tiếp<br />
định trong khu vực và nâng cao vai trò của tục dùng “vấn đề Campuchia” tạo khó<br />
ASEAN. khăn cho Việt Nam, làm con bài mặc cả<br />
Bước vào thập kỷ 90, vị thế của với Liên Xô, gây ảnh hưởng với ASEAN,<br />
ASEAN đã dần thay đổi diễn ra trên hai tạo thuận lợi thu hút vốn và kỹ thuật của<br />
lĩnh vực: Tính liên kết khu vực bước vào Mỹ và phương Tây phục vụ cho chiến lược<br />
thập kỷ 90 và vai trò độc đáo của ASEAN vươn lên cường quốc của mình [5, tr.71].<br />
tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương Chiến tranh lạnh kết thúc tạo điều kiện cho<br />
dưới hình thức tổ chức quốc tế có tính Trung Quốc gây ảnh hưởng của mình ở<br />
khu vực. Bối cảnh địa – chính trị khu vực Đông Nam Á. Những điều kiện đó chính<br />
đầu thập niên 1990 cũng không có nhiều là: Ảnh hưởng của Mỹ và Nga đang giảm<br />
khác biệt so với năm 1967. Năm quốc gia xuống trong khu vực; các quốc gia ASEAN<br />
thành lập ASEAN là Indonesia, Malaysia, cần mở rộng quan hệ hợp tác với Trung<br />
Philippines, Singapore và Thái Lan nhận Quốc cả về chính trị lẫn kinh tế [14, tr.87].<br />
thấy phải đưa khu vực Đông Nam Á tránh Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại<br />
xa những hệ quả mà chiến tranh lạnh gây giao giữa hai nước Việt Nam và Trung<br />
ra, cần phải đoàn kết ASEAN chặt chẽ, Quốc, cả hai nước đều muốn bình thường<br />
gắn bó hơn bao giờ hết. Mục đích của các hóa quan hệ với nhau, gác lại những xung<br />
quốc gia ASEAN là cần gắn bó với phần đột trong quá khứ, mặc dù hai bên đã có<br />
còn lại của khu vực, nghĩa là phải hoà giải xung đột trong thời gian dài trong<br />
với Việt Nam. Sự điều chỉnh chính sách cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung<br />
đối ngoại của ASEAN đều nhấn mạnh năm 1979 và xung đột trên biển Đông năm<br />
<br />
<br />
84<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
1988. Từ năm 1989, nhằm tạo điều kiện xã hội trên phạm vi cả nước (1975-1986),<br />
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân –<br />
Tổ quốc, quan hệ Việt Nam với Trung nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá<br />
Quốc và Mỹ cùng một số nước được cải nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế<br />
thiện, Năm 1990, tổ chức ba vòng đàm kế hoạch hoá tập trung có những khiếm<br />
phán cấp thứ trưởng ngoại giao Việt Nam – khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm<br />
Trung Quốc, thảo luận việc bình thường vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.<br />
hoá quan hệ Việt – Trung. Kế hoạch kinh tế 5 năm (1976 – 1980) của<br />
Từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9 năm đất nước chưa thu hẹp được những mất cân<br />
1990, các nhà lãnh đạo hai nước Việt Nam đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc<br />
và Trung Quốc đã gặp nhau không chính dân. Sản xuất phát triển chậm, thu nhập<br />
thức tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên chưa bảo đảm tiêu dùng xã hội; nền kinh tế<br />
(Trung Quốc) [5, tr.72]. Cuộc gặp này, về chưa có tích luỹ từ bên trong. Đời sống<br />
thực chất đã là bình thường hoá quan hệ nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Đại hội<br />
giữa Việt Nam – Trung Quốc và khôi phục VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là<br />
tình hữu nghị truyền thống lâu đời giữa sự đổi mới tư duy về tất cả các mặt an ninh<br />
nhân dân hai nước. Kết quả của hội nghị là – phát triển, lợi ích quốc gia – nghĩa vụ<br />
một loạt các thay đổi trong chính sách đối quốc tế, hợp tác – đấu tranh. Đồng thời,<br />
nội và đối ngoại giữa Việt Nam – Trung Việt Nam xác định những nhiệm vụ chiến<br />
Quốc, Việt Nam – Mỹ và Việt Nam với lược: hoà bình và phát triển, thoát khỏi<br />
ASEAN. khủng hoảng kinh tế - xã hội, thoát khỏi<br />
Tháng 3 năm 1991, Thủ tướng Trung bao vây và cấm vận.<br />
Quốc Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt – Tháng 12 năm 1986, đường lối “đổi<br />
Trung tan băng”. Tháng 9 năm 1991 Bộ mới” do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng<br />
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn sản Việt Nam phát khởi đã tạo ra một bước<br />
Mạnh Cầm đến Bắc Kinh, ra thông cáo ngoặt mà ba năm sau đó (Hội nghị Trung<br />
khôi phục trao đổi và hợp tác về kinh tế, ương 6, khóa VI, tháng 9 năm 1989) đã<br />
thương mại, khoa học và công nghệ, giao chuyển hẳn nền kinh tế Việt Nam sang cơ<br />
thông vận tải và văn hoá, bình thường hóa chế thị trường định hướng XHCN, và<br />
quan hệ Trung - Việt. Từ ngày 1 đến 4 đường lối đó vẫn được tiếp tục duy trì đến<br />
tháng 12 năm 1991, đoàn đại biểu cấp cao nay. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn<br />
Đảng và Chính phủ Việt Nam sang thăm ra từ hai chiều: “từ dưới lên” tức là ở các<br />
chính thức Trung Quốc. Hai bên đã ra hợp tác xã, doanh nghiệp và “từ trên<br />
thông cáo chung và ký kết một số hiệp xuống” tức là các quyết định của Đảng và<br />
định. Thông cáo chung giữa Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt<br />
Trung Quốc khẳng định quan hệ hai nước Nam. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho<br />
đã được bình thường hoá và sẽ phát triển công cuộc đổi mới ở Việt Nam thành công.<br />
trên cơ sở nguyên tắc chung sống hoà bình. Cũng từ sau Đại hội VI, Đảng Cộng sản<br />
1.2. Tình hình trong nước Việt Nam đã từng bước thực hiện mục tiêu<br />
Trước thời kỳ đổi mới, nhất là trong của hoạt động đối ngoại là giữ vững hoà<br />
hơn 10 năm tiến hành xây dựng chủ nghĩa bình, tranh trủ các điều kiện quốc tế thuận<br />
<br />
<br />
85<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ Campuchia, đã làm cho các quốc gia<br />
nghĩa xã hội. ASEAN lo ngại. Trong cuộc họp với các<br />
Từ năm 1986 đến 1990, là giai đoạn nước ASEAN từ ngày 12 đến 13 tháng 1<br />
đầu của công cuộc đổi mới. Kết thúc kế năm 1979, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia<br />
hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi cùng với các Bộ trưởng Ngoại giao các<br />
mới đã đạt được những thành tựu bước đầu nước ASEAN ra tuyên bố chung lên án sự<br />
rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng “xâm lược của nước ngoài” ám chỉ Việt<br />
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân Nam tại Campuchia. Cũng trong tháng 9<br />
3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân năm 1979, Indonesia cùng với các quốc gia<br />
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu ASEAN chống lại đề nghị của Việt Nam<br />
dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch dành chiếc ghế của Khmer Đỏ tại Liên hợp<br />
xuất khẩu tăng 28%/năm [10, tr.141]. quốc cho Cộng hoà nhân dân Campuchia,<br />
Chính “vấn đề Campuchia”đã làm được thành lập tháng 1 năm 1979. Những<br />
cho quan hệ chính trị căng thẳng kéo theo sự kiện này làm quan hệ giữa Việt Nam<br />
quan hệ kinh tế thương mại ngày càng bị và các quốc gia thành viên ASEAN<br />
hạn chế giữa Việt Nam và các quốc gia giảm xuống nhanh chóng. Mặc dù vậy,<br />
trong tổ chức ASEAN. Trong thập niên 80, Indonesia không xem Việt Nam là nguy cơ<br />
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam của sự mất ổn định khu vực [8, tr.107].<br />
và ASEAN chỉ còn tồn tại trên giấy tờ, trừ Indonesia nhìn nhận sự có mặt của quân<br />
Singapore là khách hàng trung gian, là thị tình nguyện Việt Nam ở Campuchia xuất<br />
trường chuyển khẩu của Việt Nam nên phát từ lợi ích của Việt Nam trong hoàn<br />
mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và cảnh quan hệ Việt – Trung có nhiều căng<br />
Singapore vẫn được duy trì và phát triển. thẳng, không tốt đẹp và quan hệ Trung –<br />
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Xô đối đầu trong giai đoạn này.<br />
Việt Nam lần VI (1986) đã nêu rõ: “Chính Tháng 11 năm 1979, Ngoại trưởng các<br />
phủ ta chủ trương tiếp tục rút quân tình nước ASEAN họp tại Bali (Indonesia) bàn<br />
nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng về cuộc khủng hoảng người tị nạn. Trong<br />
thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để cuộc họp này, nhiều nước ASEAN đã lên<br />
đi tới giải pháp chính trị đúng đắn về tiếng chống Việt Nam. Từ năm 1979, các<br />
Campuchia” [4, tr.108]. Đại hội VI của quốc gia trong ASEAN luôn cùng Mỹ,<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trung Quốc và các nước phương Tây mở<br />
“chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng chiến dịch đòi Việt Nam rút quân khỏi<br />
các nước trong khu vực thương lượng để Campuchia. Các hoạt động của ASEAN<br />
giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết trong giai đoạn này hợp tác quân sự song<br />
lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây phương và đa phương trên cơ sở “phi<br />
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ASEAN”, kêu gọi sự trợ giúp của Mỹ và<br />
ổn định và hợp tác” [4, tr.108]. Trung Quốc, nuôi dưỡng các lực lượng<br />
2. Hợp tác Việt Nam – ASEAN trong chống đối tại Campuchia… Các hoạt động<br />
việc giải quyết "vấn đề Campuchia" ngoại giao của ASEAN nhằm mục đích lên<br />
Sau ngày 7 tháng 1 năm 1979, sự có án và cô lập Việt Nam và các nước Đông<br />
mặt của quân đội tình nguyện Việt Nam tại Dương khác chứ không thực chất đề nghị<br />
<br />
<br />
86<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
đối thoại. Song song với các nỗ lực ngoại của việc nếu Đông Nam Á trở thành một<br />
giao vận động tại các tổ chức quốc tế, viện địa bàn của sự thù địch gay gắt Trung –<br />
dẫn luật pháp quốc tế, ASEAN còn phối Xô. ASEAN cho rằng Việt Nam giảm ảnh<br />
hợp với Trung Quốc và Mỹ gây sức ép đối hưởng ở Campuchia thì Trung Quốc sẽ<br />
với Việt Nam bằng cách dựng lên và nuôi tăng vai trò ở khu vực Đông Nam Á và<br />
dưỡng Chính phủ liên hiệp đối lập ở Đông Dương. Ngược lại, thì vai trò và sự<br />
Campuchia. có mặt của Liên Xô ở Đông Dương sẽ tăng<br />
Sự ra đời của Chính phủ liên hiệp lên. Có sự khác nhau trong nhận định của<br />
Campuchia Dân chủ (22-6-1982) đã làm ASEAN giữa một bên là Indonesia,<br />
tăng vị thế quốc tế của ASEAN và đem lại Malaysia và bên kia là Thái Lan, Singapore<br />
sức sống mới cho các phe phái Campuchia về nguy cơ Trung Quốc mở rộng ảnh<br />
chống Việt Nam. Số nước bỏ phiếu ủng hộ hưởng ở Đông Nam Á. Các quốc gia<br />
nghị quyết do ASEAN đưa ra chống Việt ASEAN đều nhất trí cố gắng tạo điều kiện<br />
Nam tăng từ 91 năm 1979 lên con số kỉ lục để quân tình nguyện Việt Nam sớm rút<br />
114 nước vào năm 1985. Cả ASEAN và quân khỏi Campuchia, Việt Nam sớm<br />
Mỹ phát triển một chương trình viện trợ chấm dứt tình trạng bị cô lập trên thế giới<br />
kinh tế, quân sự, và đào tạo cho các phe [11, tr.74].<br />
phái trong Chính phủ liên hiệp. Ngoài hỗ Từ 1979 đến 1985, Việt Nam tiếp tục<br />
trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng<br />
Đỏ, Trung Quốc và Bắc Hàn cũng cung tốt với các quốc gia trong tổ chức ASEAN,<br />
cấp viện trợ cho các phái này. Nhờ đó, lực tôn trọng độc lập chủ quyền của các nước<br />
lượng quân sự của Chính phủ đối lập này trong khu vực Đông Nam Á, góp phần làm<br />
đã phát triển [7, tr.392]. cho khu vực trở thành hoà bình và ổn định.<br />
ASEAN coi việc quân tình nguyện Từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 8 năm<br />
Việt Nam ở Campuchia là trở ngại chính 1986, tại 13 cuộc Hội nghị bộ trưởng<br />
trong việc bình thường hoá quan hệ giữa Ngoại giao ASEAN, Việt Nam đã nhiều<br />
ASEAN với Việt Nam. Hàng năm ASEAN lần đưa ra các đề nghị về hoà bình và hợp<br />
đều bảo trợ nghị quyết của Liên hợp quốc tác ở khu vực Đông Nam Á.<br />
(1979-1989) về Campuchia, cụ thể đòi Ngày 05 tháng 1 năm 1980, tại Hội<br />
quân đội nước ngoài rút và ủng hộ ghế của nghị ba ngoại trưởng Việt Nam, Lào và<br />
phái Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ). Campuchia họp lần đầu tiên ở Phnom<br />
Với mong muốn khu vực Đông Nam Penh, Việt Nam đã đưa ra đề nghị giải<br />
Á là khu vực hoà bình và ổn định để phát quyết hoà bình và ổn định ở Đông Nam Á,<br />
triển và hội nhập, tại kỳ họp Ủy ban bao gồm cả “vấn đề Campuchia” [18,<br />
thường trực ASEAN, Bộ trưởng Ngoại tr.137]. Cũng vào tháng 1 năm 1980, Việt<br />
giao Malaysia đã nói rằng: “Vấn đề Nam đã đề nghị ký Hiệp định không xâm<br />
Campuchia cản trở tiến bộ kinh tế”. Ông lược giữa các nước Đông Nam Á và chủ<br />
đã nhấn mạnh: “ASEAN không nên để vấn trương sẵn sàng thảo luận việc thành lập<br />
đề Campuchia cản trở tiến bộ kinh tế, thay một “khu vực Đông Nam Á hoà bình, độc<br />
vào đó cần hợp tác với nhau hơn nữa” [1]. lập, tự do, trung lập, ổn định và phồn vinh”<br />
Các quốc gia ASEAN nhận thức rõ hậu quả (thực chất là Việt Nam chấp nhận<br />
<br />
<br />
87<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
ZOPFAN) với các nước ASEAN. Từ năm Nam và ASEAN (đại diện là Indonesia)<br />
1981, Việt Nam đã đề nghị ba nước Đông được tiến hành theo đường lối hoà bình,<br />
Dương mở các cuộc đối thoại giữa hai rộng mở đã đạt được một số kết quả khả<br />
nhóm nước Đông Dương và ASEAN nhằm quan và tốt đẹp. Điều này làm dịu bớt thái<br />
tìm ra các giải pháp giải quyết các vấn đề độ căng thẳng của các quốc gia ASEAN về<br />
thuộc lợi ích chung của hai bên [3, tr.225]. vấn đề Campuchia<br />
Tại Hội nghị lần thứ ba Ngoại trưởng Nội dung Nghị quyết 32 của Bộ Chính<br />
Đông Dương tháng 3 năm 1981, Việt Nam trị Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá V,<br />
đề nghị ba nước Đông Dương cùng Trung tháng 7-1986) được xem là chính sách<br />
Quốc ký hiệp định về cùng tồn tại hoà bình xuyên suốt của Việt Nam, giải quyết “vấn<br />
giữa ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam đề Campuchia” chính là điểm mấu chốt<br />
với Trung Quốc, có thể song phương. Tiếp giúp Việt Nam thực hiện được đường lối<br />
theo, tại Hội nghị lần thứ 6 Bộ trưởng chính sách đối ngoại đã đặt ra đồng thời<br />
Ngoại giao ba nước Đông Dương, nhằm đẩy nhanh quá trình hợp tác, đưa chính<br />
góp phần ổn định khu vực Đông Nam Á và sách đối ngoại với ASEAN trở thành hiện<br />
giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã thực cụ thể. Thực hiện Nghị quyết Đại hội<br />
tuyên bố hàng năm rút một bộ phận quân Đảng toàn quốc lần VI, và các Nghị quyết<br />
tình nguyện. Vào ngày 07 tháng 7 năm Hội nghị Trung ương, Nhà nước Việt Nam<br />
1981, một bộ phận quân đội Việt Nam đầu đã có một loạt điều chỉnh về chính sách có<br />
tiên rút về nước [15, tr.175]. ý nghĩa chiến lược nhằm phá thế bao vây,<br />
Tháng 9 năm 1981, tại Liên hợp quốc, cô lập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi<br />
Lào thay mặt ba nước Đông Dương đưa ra cho việc thực hiện công cuộc đổi mới: Thứ<br />
7 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nhất, Việt Nam rút từng phần và rút hết<br />
nhóm nước Đông Dương và ASEAN “vì quân tình nguyện ra khỏi Campuchia; Thứ<br />
một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, hữu hai, Việt Nam đổi mới quan hệ hợp tác với<br />
nghị và hợp tác” [9, tr. 88]. Lào và Campuchia; Thứ ba, Việt Nam thúc<br />
Từ tháng 7 năm 1982, Việt Nam tiếp đẩy từng bước bình thường hoá quan hệ<br />
tục rút một phần quân đội Việt Nam khỏi với Trung Quốc; Thứ tư, Việt Nam từng<br />
Campuchia [5, tr.68] và tuyên bố sẽ rút bước cải thiện với các nước nói chung và<br />
thêm một số lượng quân đội nữa nếu Thái với ASEAN nói riêng.<br />
Lan chấm dứt để cho bọn tàn quân Khmer Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba<br />
Đỏ và các thế lực Khmer phản động khác nước Đông Dương lần thứ 12 (ngày 24-01-<br />
sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ quân 1986) đã làm rõ thêm hai mặt của “vấn đề<br />
sự, yêu cầu Thái Lan phải chấm dứt việc Campuchia”:<br />
cung cấp vũ khí, trang thiết bị quân sự và 1) Về mặt nội bộ Campuchia: Nội bộ<br />
lương thực cho Khmer Đỏ chống lại nhân là phải do các bên Campuchia giải quyết,<br />
dân Campuchia. không có sự can thiệp của bên ngoài;<br />
Từ cuối năm 1983 đến 1984, xu thế 2) Về mặt quốc tế: Thoả thuận về việc<br />
đối thoại giữa ASEAN và các nước Đông rút quân tình nguyện Việt Nam đi đôi với<br />
Dương trong đó có Việt Nam ngày càng việc chấm dứt cung cấp viện trợ, vũ khí và<br />
trở nên rõ rệt. Các cuộc đối thoại giữa Việt cho sử dụng lãnh thổ Thái Lan đối với Pol<br />
<br />
<br />
88<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
Pot, chấm dứt sự can thiệp vào công việc coi Việt Nam là mối đe doạ với Philippines<br />
nội bộ của Campuchia, tiến tới cùng tồn tại và Philippines không phản đối khi Việt<br />
hoà bình giữa các nước trong khu vực để Nam muốn gia nhập ASEAN.<br />
lập khu vực hoà bình, ổn định ở Đông Từ ngày 13 đến 20 tháng 6 năm 1988,<br />
Nam Á. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn<br />
Tháng 8 năm 1986, Hội nghị Bộ Cơ Thạch sang thăm Vương quốc Thái Lan<br />
trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam – giải toả căng thẳng quan hệ giữa hai nước.<br />
Lào – Campuchia lần thứ 13 khẳng định ba Ngày 25 tháng 8 năm 1988, cuộc gặp gỡ<br />
nước sẵn sàng hợp tác với các bên để tìm giữa hai nhóm nước Đông Dương và<br />
một giải pháp trên cơ sở Việt Nam rút hết ASEAN và các phe phái Campuchia đã tổ<br />
quân tình nguyện và loại trừ Pol Pot. chức Hội nghị JIM-I [12, tr.401]. Vào năm<br />
Từ ngày 15 đến 16 tháng 6 năm 1987, 1988, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam<br />
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các quốc Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố ý định của Việt<br />
gia ASEAN lần thứ 20 họp tại Singapore. Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông<br />
Hội nghị bàn về các vấn đề hợp tác kinh tế. Nam Á. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt<br />
“Vấn đề Campuchia” cũng là vấn đề lớn quan trọng đối với sự phát triển của<br />
cũng được thảo luận tại hội nghị này. Bộ ASEAN trong khu vực [6, tr.130].<br />
trưởng Ngoại giao Thái Lan đã báo cáo kết Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư<br />
quả chuyến thăm Liên Xô tháng 5 năm Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn<br />
1987 để bàn với Liên Xô về việc giải quyết Linh tuyên bố: “Cộng hoà xã hội chủ<br />
“vấn đề Campuchia”. nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị<br />
Ngày 29 tháng 7 năm 1987, Ngoại với các nước ASEAN và các nước khác<br />
trưởng Indonesia (với tư cách là nước đại trong khu vực”. Đồng thời, cùng một quan<br />
diện của ASEAN) đã thăm chính thức Việt điểm như trên, Bộ trưởng Ngoại giao Việt<br />
Nam, hai bên đã ra thông cáo chung, đánh Nam Nguyễn Cơ Thạch cũng nhấn mạnh:<br />
dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa “Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các<br />
Việt Nam và ASEAN xung quanh “vấn đề nước Đông Nam Á” [19, tr.351].<br />
Campuchia” và mở ra thời kỳ của những Ngày 9 tháng 1 năm 1989, Việt Nam<br />
cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hunsen và rút hết quân tình nguyện còn lại ở<br />
Sihanouk. Nhằm đẩy nhanh đối thoại với Campuchia về nước và tuyên bố dù tình<br />
ASEAN về “vấn đề Campuchia”, ngày 11- hình xảy ra như thế nào thì quân tình<br />
10-1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra nguyện Việt Nam sẽ không trở lại [12,<br />
Thông cáo chung về việc rút quân tình tr.401]. Việt Nam và Nhà nước Campuchia<br />
nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước đã cùng phối hợp với nhóm P5 (thông qua<br />
vào tháng 11 năm 1987. Liên Xô) để cùng nhau khai thông bế tắc<br />
Trong thời gian này, các quốc gia tại Hội nghị quốc tế về Campuchia. Việt<br />
ASEAN bắt đầu nối lại quan hệ song Nam cũng đã rút toàn bộ chuyên gia quân<br />
phương với Việt Nam. Tháng 12 năm sự về nước, đưa tất cả các học viên<br />
1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần Campuchia đang học tập tại các trường<br />
thứ ba ở Manila, Tổng thống Cộng hoà quân sự của Việt Nam về Campuchia<br />
Philipines Korazon Aquino tuyên bố không trước khi Hiệp định Paris về Campuchia có<br />
<br />
<br />
89<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
hiệu lực. quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với ba<br />
Ngày 21 tháng 1 năm 1989, Bộ trưởng bước chấm dứt viện trợ quân sự của nước<br />
Ngoại giao Malaysia tuyên bố: ngoài cho các bên Campuchia. Sau đó, từ<br />
“Các nước ASEAN đang nghiên cứu ngày 19 đến 21 tháng 2 năm 1989 đã diễn<br />
xem xét việc mở rộng các cuộc hội đàm về ra Hội nghị chính thức JIM-II. Hội nghị<br />
vấn đề Campuchia để gồm cả một số một lần nữa khẳng định lại hai vấn đề mấu<br />
cường quốc tham dự, trong đó có Liên Xô, chốt của giải pháp cho vấn đề Campuchia<br />
Trung Quốc, nhằm chuẩn bị cho cuộc hội là rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một<br />
đàm sắp tới ở Jakarta. Nếu cuộc hội đàm ở giải pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay<br />
Jakarta thành công thì các cuộc đàm phán trở lại chính sách và những hành động diệt<br />
này có thể mở rộng ảnh hưởng của cả chủng của chế độ Pol Pot; chấm dứt mọi sự<br />
Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác can thiệp của nước ngoài và sự giúp đỡ về<br />
nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở quân sự cho các phái đối lập Khmer; đồng<br />
Campuchia” [9, tr.178]. thời xác định việc thực hiện quá trình tổng<br />
Tiếp đó các cuộc gặp giữa đại diện các tuyển cử, cơ chế kiểm soát quốc tế được<br />
nước ASEAN, các nước Đông Dương và trang bị những vũ khí tự vệ với chức năng<br />
các phe phái ở Campuchia mang tên Hội kiểm soát và giám sát. Tại Hội nghị JIM-II,<br />
nghị không chính thức Jakarta JIM-I (tháng Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn<br />
7 năm 1988) và JIM-II (tháng 2 năm 1989) Cơ Thạch phát biểu quan điểm của Việt<br />
và Hội nghị quốc tế về Campuchia IMC Nam: Nếu không đạt được giải pháp chính<br />
(tháng 2 năm 1990) đã diễn ra tại Jakarta, trị thì bộ đội Việt Nam sẽ tiếp tục ở<br />
Indonesia, nhằm tiến tới giải quyết vấn đề Campuchia cho tới cuối năm 1990 và Việt<br />
Campuchia bằng biện pháp chính trị. Nam bác bỏ nói chuyện trực tiếp với<br />
Hội nghị JIM-I tổ chức tại Bogor Sihanouk [9, tr.178].<br />
(Indonesia). Hội nghị tiến hành hai bước: Ngày 05 tháng 4 năm 1989, ba nước<br />
bước đầu chỉ có 4 phái Campuchia; bước Việt Nam, Lào và Campuchia ký Tuyên bố<br />
sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước chung về việc rút toàn bộ quân tình nguyện<br />
ASEAN. Mục đích của JIM-I là tạo một Việt Nam ở Campuchia về nước [17,<br />
khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không tr.263]. Đây là một bước đi trong khuôn<br />
chính thức, giữa các bên liên quan trực khổ thoả thuận của các cuộc gặp gỡ không<br />
tiếp và các nước hữu quan trong việc tìm chính thức giữa các bên hữu quan ở<br />
kiếm một giải pháp toàn diện, đúng đắn và Campuchia tại Jakarta, Indonesia (JIM-I và<br />
lâu dài cho vấn đề Campuchia. Kết quả JIM-II) cũng như trong khuôn khổ cam kết<br />
Hội nghị JIM-I đã khẳng định hai vấn đề của Trung Quốc và các quốc gia có liên<br />
then chốt: việc rút quân Việt Nam trong quan về việc Trung Quốc và các nước đó<br />
khuôn khổ một giải pháp chính trị và việc chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên<br />
ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt chủng Campuchia khi Việt Nam rút quân. Theo<br />
Pol Pot. thoả thuận này, Việt Nam sẽ hoàn thành<br />
Hội nghị trù bị (Working group) JIM- việc rút quân vào cuối tháng 9 năm 1989.<br />
II tổ chức từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 2 Ngày 02 tháng 7 năm 1989, Hội nghị<br />
năm 1989. Việt Nam đưa ra ba bước rút Bộ trưởng Ngoại giao các quốc gia<br />
<br />
<br />
90<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
ASEAN lần thứ 22 tại Brunei đã bàn về Ngày 17 tháng 3 năm 1990, Bộ trưởng<br />
việc ASEAN có nên cử lực lượng vũ trang Ngoại giao Thái Lan Xitthi đã đưa ra đề<br />
tham gia gìn giữ hoà bình và cơ quan giám nghị của Hoàng thân Sihanouk đưa ra đầu<br />
sát quốc tế ở Campuchia hay không. Hội tháng 3 năm đó, về việc Thái Lan đăng cai<br />
nghị cũng bàn về việc tăng cường hợp tác hội nghị quốc tế khác gồm Trung Quốc,<br />
kinh tế trong tổ chức ASEAN, các quốc Việt Nam và các nước ASEAN không phù<br />
gia ASEAN chấp nhận nguyên tắc về hợp với lời kêu gọi của ASEAN về một<br />
thành lập một khối các nước châu Á – giải pháp cho vấn đề Campuchia.<br />
Thái Bình Dương để hợp tác kinh tế do Từ ngày 25 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm<br />
Australia đề xuất. 1990, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sang<br />
Ngày 15 – 16 tháng 1 năm 1990, tại thăm Indonesia. Chuyến thăm của Đại<br />
Paris (Pháp), đại diện của năm nước tướng đánh dấu sự khởi động tốt đẹp trong<br />
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quan hệ Việt Nam –Indonesia nói riêng và<br />
quốc đã tổ chức Hội nghị bàn về việc giải Việt Nam – ASEAN nói chung, góp phần<br />
quyết vấn đề Campuchia. Hội nghị đã nhất làm cho hai bên hiểu rõ hơn về quan điểm<br />
trí chấp nhận vai trò của Liên hợp quốc của nhau đối với việc bảo đảm an ninh và<br />
trong việc giải quyết vấn đề Campuchia; chính trị của khu vực Đông Nam Á.<br />
hoan nghênh việc sớm nhóm lại cuộc đối Từ ngày 16 đến 17 tháng 7 năm 1990,<br />
thoại xây dựng giữa các bên Campuchia; đại diện của năm nước lớn gồm Liên Xô,<br />
thông qua một số nguyên tắc cụ thể trong Mỹ, Trung Quốc, Anh và Pháp gặp nhau<br />
việc giải quyết vấn đề này [17, tr.286]. để bàn về vấn đề Campuchia. Hội nghị đã<br />
Ngày 14 tháng 2 năm 1990, cuộc họp đi đến thoả thuận dự thảo ba văn kiện về<br />
Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN việc tiến hành bầu cử tự do và công bằng;<br />
thống nhất lập trường về vấn đề bảo vệ quyền con người; việc quốc tế bảo<br />
Campuchia trước Hội nghị Jakarta, lần đầu đảm quyền độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh<br />
tiên các quốc gia ASEAN đồng ý đề nghị thổ và trung lập của Campuchia, sau đó<br />
của Australia về lập một chính phủ lâm chuyển cho các bên Campuchia xem xét.<br />
thời dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc ở Hội nghị kêu gọi các bên Campuchia chấm<br />
Campuchia cho đến cuộc bầu cử tự do năm dứt hoạt động quân sự chuyển sang đối<br />
1991. thoại hoà bình vấn đề Campuchia [17,<br />
Hội nghị không chính thức về tr.301]. Cuộc họp vòng năm này cũng<br />
Campuchia (IMC) tổ chức ở Jakarta, thông qua vai trò của Liên hợp quốc ở<br />
Indonesia từ ngày 26 tháng 2 đến 01 tháng Campuchia, tổ chức tuyển cử, kiểm soát<br />
3 năm 1990. Ngoài thành phần như JIM năm bộ, thành lập Hội đồng Dân tộc tối<br />
(Campuchia, Việt nam, Lào và đại diện 6 cao (SNC) ở Campuchia là cơ quan đại<br />
nước ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng diện cho nhân dân Campuchia.<br />
Thư ký Liên hợp quốc, Pháp và Australia. Trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ<br />
Hai đồng chủ tịch của hội nghị là Indonesia trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 23 tại<br />
và Pháp. IMC không đưa ra được tuyên bố Indonesia (24 – 25/7/1990) đã thống nhất<br />
chung nào về vấn đề Campuchia vì Khmer một giải pháp chính trị toàn diện cho<br />
Đỏ dùng quyền phủ quyết. Campuchia cần phải thực hiện bằng Hội<br />
<br />
<br />
91<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
nghị Paris về Campuchia (PICC – Paris Khmer Đỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ<br />
International Conference on Cambodia). quyết định rút bỏ việc công nhận chính<br />
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3<br />
vào thực hiện, Đảng và Nhà nước Việt phái) tại Liên hợp quốc; sẵn sàng thảo luận<br />
Nam đã “đưa vấn đề Campuchia ra để với Việt Nam và Nhà nước Campuchia<br />
giải quyết bằng con đường hoà bình”. (SOC) để thúc đẩy giải pháp cho vấn đề<br />
Những giải pháp đưa ra trong chính sách Campuchia.<br />
để giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác Những nỗ lực của ASEAN và các<br />
động thúc đẩy tác động đến một giải pháp nước Đông Dương đã tiến tới cải thiện<br />
chung trong vấn đề Campuchia đi đến một quan hệ với nhau và phát triển sự hợp tác<br />
giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm về mọi mặt. Điều này thể hiện qua câu nói<br />
1989 thì cơ bản hoàn thành bằng tuyên bố vào năm 1989 của Thủ tướng Thái Lan<br />
về một giải pháp chính trị toàn diện cho Chatichai Choohavan: “Biến Đông Dương<br />
xung đột ở Campuchia. Đây chính là thành từ chiến trường thành thị trường” [15,<br />
công đầu tiên của chính sách đối ngoại đổi tr.184].<br />
mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Tháng 8 năm 1990, năm Uỷ viên<br />
Đông Nam Á được cải thiện từ đối đầu thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp<br />
sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu quốc đã tiến hành cuộc họp lần thứ 6 về<br />
nghị, hợp tác. “vấn đề Campuchia” ở New York (Mỹ) và<br />
Trên thực tế, Việt Nam đã rút hết quân đưa ra giải pháp toàn diện cho “vấn đề<br />
tình nguyện ra khỏi Campuchia ngày 26 Campuchia”, đó là “Văn kiện khung về<br />
tháng 9 năm 1989 trước thời hạn đưa ra. một giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc<br />
Hành động của Việt Nam đã “tước vũ khí” xung đột Campuchia”, thường gọi là giải<br />
của đối phương tập trung chống Việt Nam pháp P5. Giải pháp này thể hiện rõ nét<br />
suốt 10 năm và làm thay đổi tính chất của trong Hiệp định Paris về Campuchia ký<br />
“vấn đề Campuchia”, tạo điều kiện sớm vào tháng 10 năm 1991, chấm dứt cuộc<br />
giải quyết “vấn đề Campuchia”, để có thể xung đột Campuchia kéo dài hơn 10 năm ở<br />
mở rộng quan hệ giữa Việt Nam và các Đông Nam Á. ASEAN đã hài lòng với giải<br />
nước trong khối ASEAN và tập trung vào pháp P5 do giải pháp này phù hợp với lợi<br />
hai nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội đại ích của ASEAN là chấm dứt xung đột tại<br />
biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng sản Campuchia, Campuchia sẽ trở thành một<br />
Việt Nam đề ra. Đặc biệt, việc Việt Nam quốc gia trung lập.<br />
hoàn thành rút quân tình nguyện tạo điều Ngày 20 tháng 10 năm 1990, Hội<br />
kiện đẩy nhanh giải pháp chính trị cho đồng Bảo an Liên hợp quốc ra nghị quyết<br />
“vấn đề Campuchia”. số 668 (1990) thông qua văn kiện khung<br />
Ngày 18 tháng 07 năm 1990, Ngoại của nhóm P5. Ngày 26 tháng 11 năm<br />
trưởng Mỹ Baker tuyên bố chính sách mới 1990, nhóm P5 đề nghị Liên hợp quốc<br />
của Mỹ về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa thông qua cái gọi là Cơ quan quyền lực<br />
nhận Việt Nam đã rút quân khỏi quá độ của Liên hợp quốc tại Campuchia<br />
Campuchia; chính quyền Phnom Penh hiện (UNTAC), xây dựng lại đất nước<br />
là lực lượng chủ yếu có khả năng ngăn Campuchia trong thời gian này.<br />
<br />
<br />
92<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
Tháng 11 năm 1990, Tổng thống Ngoại giao. Ngày 19 tháng 7 năm 1991,<br />
Indonesia Suharto thăm Việt Nam, đánh các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN bắt đầu<br />
dấu một bước tiến quan trọng giữa Việt cuộc họp hàng năm ở Kua Lumpur. Liên<br />
Nam và ASEAN, Việt Nam – Indonesia, Xô và Trung Quốc tham dự với tư cách là<br />
thành công của cuộc viếng thăm của Tổng khách mời.<br />
thống Indonesia đánh dấu một bước phát Ngày 23 tháng 10 năm 1991, tại<br />
triển mới trong quan hệ truyền thống và Trung tâm hội nghị quốc tế Kléber-Paris<br />
hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia, tất cả (Pháp), đại diện các phía của Campuchia<br />
vì lợi ích của hai dân tộc, vì hoà bình, ổn và ngoại trưởng của 18 quốc gia, tổng<br />
định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng cộng là 30 đại biểu và Tổng thư ký Liên<br />
như thế giới. Hợp Quốc Javier Pérez de Cuéllar, ký tên<br />
Từ ngày 21 đến 23 tháng 12 năm vào những văn kiện bằng năm loại ngôn<br />
1990, tại Paris (Pháp), Hội đồng dân tộc tối ngữ Anh, Hoa, Pháp, Nga, Khmer. Hội<br />
cao Campuchia (SNC) đã thông qua bản dự nghị Paris đi đến nhất trí và ký vào 4 văn<br />
thảo Hiệp định hoà bình. Vào tháng 1 năm kiện trong đó Hiệp định về một giải pháp<br />
1991, Liên hợp quốc đã chuyển bản dự chính trị toàn bộ cho cuộc xung đột ở<br />
thảo đó cho hai quốc gia láng giềng của Campuchia là quan trọng nhất. Hiệp định<br />
Campuchia là Việt Nam và Lào. Paris ngày 23 tháng 10 năm 1991 đã mở<br />
Ngày 4 tháng 1 năm 1991, Bộ trưởng ra cơ hội cho nhân dân Campuchia đi đến<br />
Ngoại giao Indonesia Alatat tuyên bố tán một giải pháp hoà bình, hoà hợp dân tộc.<br />
thành việc Việt Nam, Campuchia và Lào Năm 1993, dưới sự giám sát của Liên Hợp<br />
gia nhập ASEAN. Tiếp theo ngày 7 tháng 1 quốc, Campuchia đã tiến hành tổng tuyển<br />
năm 1991, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia cửa bầu quốc hội. Quốc hội Campuchia đã<br />
Abu Hasan Oma tuyên bố ASEAN hoan họp thông qua hiến pháp, tuyên bố thành<br />
nghênh và đồng ý nếu Việt Nam, Lào, lập Vương quốc Campuchia do vua<br />
Campuchia và Myanmar gia nhập tổ chức Norodom Sihanouk lãnh đạo và cử ra một<br />
ASEAN. Ngày 9 tháng 1 năm 1991, tại Chính phủ liên hiệp đoàn kết dân tộc.<br />
Indonesia, Thủ tướng Singapore Goh Chok Khmer Đỏ lúc này bị đặt ra ngoài vòng<br />
Tong tuyên bố rằng, một trong những pháp luật.<br />
thách thức đặt ra cho ASEAN trong thập Tháng 10 năm 1991, trong bài trả lời<br />
kỷ 90 là giúp đỡ Việt Nam, Lào, phỏng vấn Tạp chí Quan hệ quốc tế, Bộ<br />
Campuchia và Myanmar cải tạo nền kinh tế trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn<br />
của quốc gia. Mạnh Cầm đã nêu rõ chính sách đối ngoại<br />
Tháng 3 năm 1991, tại Hội nghị quốc của Việt Nam đối với các quốc gia trong<br />
tế về “Giai đoạn hoà giải thứ hai” giữa khu vực, khẳng định “Khu vực Châu Á –<br />
các nước ASEAN và các nước còn lại ở Thái Bình Dương, mà trước hết là Đông<br />
Đông Nam Á tổ chức tại Bali, Thủ tướng Nam Á và Đông Á, giữ vị trí quan trọng<br />
Malaysia Mahathir Mohamad đã đưa ra ý trong chính sách đối ngoại của Việt<br />
tưởng tổ chức đối thoại giữa các quốc gia Nam…”. Tại Kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá<br />
ASEAN với Việt Nam, Lào, và Myanmar, VII (1987-1991), Chủ tịch Hội đồng Bộ<br />
bắt đầu bằng cuộc họp cấp Bộ trưởng trưởng Võ Văn Kiệt đã nhấn mạnh: “Lợi<br />
<br />
<br />
93<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019)<br />
<br />
<br />
ích của Việt Nam gắn bó chặt chẽ với lợi lôi cuốn các nước lớn tham gia. Việt Nam<br />
ích của khu vực. Do vậy, lợi ích đặc biệt trong thời gian này, công cuộc đổi mới<br />
của chúng ta lúc này là mở rộng quan hệ đất nước đặt ra yêu cầu tạo dựng môi<br />
với các nước láng giềng và các nước trong trường hoà bình, ổn định trong nước và<br />
khu vực, phấn đấu vì một Đông Nam Á hoà khu vực để tập trung vào phát triển kinh<br />
bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác” [16, tế đất nước, cải thiện đời sống nhân dân,<br />
tr.64]. Vào năm 1991, Thủ tướng Việt Nam đưa Việt Nam đi lên hội nhập vào nền<br />
Võ Văn Kiệt đã có chuyến thăm hữu nghị kinh tế khu vực và thế giới. Vì thế, vấn đề<br />
một số quốc gia ASEAN như Malaysia (7- quan hệ giữa Việt Nam với các nước<br />
2-1991), Indonesia, Thái Lan và Singapore ASEAN có tầm quan trọng đặc biệt.<br />
(từ ngày 24-10 đến 01-11-1991). Ngày 16 Việc cùng nhau giải quyết “vấn đề<br />
tháng 11 năm 1991, Singapore bãi bỏ lệnh Campuchia” đã thay đổi quan hệ giữa Việt<br />
cấm đầu tư vào Việt Nam. Nam – ASEAN chuyển từ đối đầu sang đối<br />
Sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và thoại, khẳng định vị trí của Việt Nam trong<br />
ASEAN có thêm những nhân tố mới thúc khu vực. Điều này có ý nghĩa rất to lớn<br />
đẩy sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực trong việc mang lại ổn định an ninh cho<br />
đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo khu vực và làm giảm nguy cơ xung đột tại<br />
Trường Sa của Việt Nam và thái độ phản khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng<br />
ứng của Việt Nam đối với Trung Quốc, sử nhiều mâu thuẫn giữa các nước. Thực hiện<br />
dụng biện pháp đàm phán để giải quyết đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986<br />
tranh chấp về lãnh thổ trên biển Đông [9, đến 1991, Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt<br />
tr.93]. động đối ngoại kinh tế, đối ngoại chính trị,<br />
Năm 1991 và 1992 là các mốc tiền đề đã giải tỏa được tình trạng đối đầu, thù<br />
đánh dấu sự tiến triển trong quan hệ giữa địch, mở cửa giao lưu hợp tác với bên<br />
Việt Nam và ASEAN, quan hệ đối thoại và ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước<br />
hợp tác đã thay cho quan hệ đối đầu, Việt trong quan hệ quốc tế.<br />
Nam nhận được sự đồng tình, ủng hộ của Tháng 7 năm 1992 Việt Nam ký Hiệp<br />
các quốc gia ASEAN, càng làm thúc đẩy ước Bali và trở thành quan sát viên của<br />
quan hệ Việt Nam – ASEAN tiếp tục phát ASEAN. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt<br />
triển thuận lợi hơn. Nam chính thức trở thành thành viên thứ<br />
3. Kết luận 7 của ASEAN. Đây là một sự kiện rất<br />
Quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN quan trọng trong lịch sử Đông Nam Á.<br />
thực sự cải thiện khi “vấn đề Đối với Việt Nam, đây là sự hội nhập khu<br />
Campuchia” được giải quyết vào năm vực theo đúng chính sách truyền thống<br />
1989 dưới sự giám sát của Liên hợp quốc, của Việt Nam và chính sách bốn điểm<br />
quân tình nguyện Việt Nam đã rút khỏi tháng 7 năm 1976. Đối với ASEAN, đây<br />
Campuchia an toàn mở ra một thời kỳ là một sự mở rộng cần thiết để tiếp tục kế<br />
mới cho quan hệ của Việt Nam với tổ hoạch của tổ chức nhằm bao gồm cả 10<br />
chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. quốc gia của khu vực, làm cho Đông Nam<br />
ASEAN đã đi đầu trong việc tìm kiếm Á đóng vai trò to lớn hơn trong khu vực<br />
giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, và trên thế giới.<br />
<br />
<br />
94<br />
TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2005)”, Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb<br />
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.<br />
1. Báo Nhân dân, số ra ngày 28-1-1985. 11. Thông tấn xã Việt Nam (1984), Chiến lược<br />
2. Trần Đức Cường (chủ biên), Lịch sử Việt của Mỹ đối với châu Á, Tài liệu tham khảo<br />
Nam, tập 14, Nxb Khoa học Xã hội, Hà số 6.<br />
Nội, 2017. 12. Trần Nam Tiến (chủ biên), Lịch sử quan hệ<br />
3. Lê Duẩn, Tình hình thế giới và chính sách quốc tế (1945-2000), Nxb Giáo dục, Hà<br />
đối ngoại của chúng ta, Nxb Sự thật, 1981. Nội, 2008.<br />
<br />
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 13. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế<br />
VI, Nxb Chính trị quốc gia, 1987. giới hiện đại từ 1945 đến 1995, quyển A,<br />
Nxb ĐHQG Hà Nội, 1998.<br />
5. Vũ Dương Huân (chủ biên), Ngoại giao<br />
Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 14. Phạm Đức Thành, Liên kết ASEAN trong<br />
(1975-2002), Học viện Quan hệ Quốc tế, thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học Xã<br />
Hà Nội, 2002. hội, Hà Nội, 2006.<br />
<br />
6. Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên), Lịch sử Đông 15. Lê Khương Thuỳ, Chính sách của Hoa Kỳ<br />
Nam Á, tập VI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà đối với ASEAN trong và sau chiến tranh<br />
Nội, 2012. lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.<br />
<br />
7. Nayan Chanda, Brother Enemy: the war 16. M.Rajaretnam –Thái Quang Trung, Một<br />
after the war, Harcourt Brace Jovanovich, Đông Nam Á vận mệnh chung tương lai<br />
the University of Michigan, 1986. chung, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.<br />
<br />
8. Vũ Dương Ninh (chủ biên), Việt Nam – 17. Viện Sử học, Thế giới – Những sự kiện lịch<br />
ASEAN quan hệ đa phương và song phương, sử thế kỷ XX (1946-2000), Nxb Giáo dục,<br />
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Hà Nội, 2001.<br />
<br />
9. Đào Huy Ngọc, ASEAN và sự hội nhập của 18. Nguyễn Khắc Viện, Thế giới ngày nay, Nxb<br />
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Trẻ, 1987.<br />
1997. 19. Trần Thị Vinh (chủ biên), Lịch sử thế giới<br />
10. Võ Hồng Phúc, “Những thành tựu về kinh hiện đại, quyển 2, Nxb Đại học Sư phạm,<br />
tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986- Hà Nội, 2011.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 01/8/2018 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
95<br />