Đoàn Thị Thanh Thảo và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
86(10): 27 - 32<br />
<br />
KHẢ NĂNG SỬ DỤNG ĐỘ THIỆT HẠI KHOẢNG CÁCH DD ĐỂ ĐÁNH GIÁ<br />
TÁC ĐỘNG CỦA MÉO PHI TUYẾN GÂY BỞI BỘ KHUẾCH ĐẠI CÔNG SUẤT PHÁT<br />
TRONG CÁC HỆ THỐNG 256-QAM<br />
Đoàn Thị Thanh Thảo1*, Đoàn Thanh Hải2, Đỗ Huy Khôi1<br />
1<br />
<br />
Trường ĐH CNTT&TT - ĐHTN, 2Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp - ĐHTN<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo giới thiệu cách xác định tham số độ thiệt hại khoảng cách dd (distance degradation) để<br />
đánh giá độ phi tuyến của các bộ khuếch đại công suất và khảo sát sự phụ thuộc của lượng thiệt hại<br />
tỷ số tín trên tạp SNRD (Signal-to-Noise Ratio Degradation) vào thông số dd trong hệ thống điều<br />
chế 256-MQAM đơn sóng mang. Đồng thời bài báo cũng gợi mở ra một hướng nghiên cứu mới<br />
cho việc tính toán một cách giải tích xác suất lỗi bit, nhằm đánh giá tác động của méo phi tuyến<br />
được gây ra bởi các bộ khuếch đại công suất trong hệ thống điều chế đa sóng mang.<br />
Từ khóa: MQAM, méo phi tuyến, độ thiệt hại khoảng cách, lượng thiệt hại tỉ số tín trên tạp.<br />
<br />
<br />
GIỚI THIỆU CHUNG<br />
Các tác động của méo phi tuyến gây bởi<br />
các bộ khuếch đại công suất phát<br />
Các tác động của méo phi tuyến gây ra bởi bộ<br />
KĐCS trong các hệ thống vô tuyến số MQAM gồm: Trải rộng phổ và gây tạp âm phi<br />
tuyến, tác động dịch chuyển vị trí các tín hiệu<br />
trên mặt phẳng pha, tác động gây ISI phi tuyến<br />
Cách đánh giá tác động của méo phi tuyến<br />
gây bởi bộ khuếch đại công suất phát<br />
Méo phi tuyến gây bởi KĐCS trong các hệ<br />
thống M-QAM có thể làm giảm một cách<br />
nghiêm trọng chất lượng có thể đạt tới được<br />
của hệ thống. Các nghiên cứu chi tiết trong<br />
[5], [7] cho thấy rằng các méo AM/AM và<br />
AM/PM tác động tới chất lượng hệ thống theo<br />
lối tăng cường lẫn nhau (synergistic), tức là<br />
suy giảm chất lượng hệ thống khi tính tới cả<br />
méo AM/AM lẫn AM/PM thì lớn hơn tổng<br />
suy giảm chất lượng của hệ thống khi tính tới<br />
hoặc chỉ méo AM/AM hoặc chỉ méo AM/PM.<br />
Tác động tới chất lượng hệ thống của méo phi<br />
tuyến được đánh giá qua thiệt hại tỷ số tín/tạp<br />
(SNRD Signal-to-Noise Ratio Degradation)<br />
tính tại một giá trị nào đó của xác suất lỗi bít<br />
của hệ thống. Tính tăng cường tác động nói<br />
trên có thể diễn đạt bởi:<br />
<br />
<br />
<br />
Tel: 0984 984199, Email: thaonguyen@yahoo.com<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
SNRD(AM/AM và AM/PM) > SNRDAM/AM + SNRDAM/PM<br />
<br />
(1)<br />
Đánh giá ảnh hưởng của méo phi tuyến gây<br />
bởi KĐCS tới chất lượng hệ thống trong các<br />
hệ thống vô tuyến số M-QAM là một vấn đề<br />
nan giải. Do tính chất phức tạp của hệ thống,<br />
việc tính toán một cách giải tích là một nhiệm<br />
vụ không thể thực hiện được và nói chung,<br />
mô phỏng máy tính thường được xem là giải<br />
pháp hiệu quả nhất trong việc khảo sát các hệ<br />
thống có các phần tử phi tuyến.<br />
Trong công trình của Amadesi [8], bên cạnh<br />
việc đề xuất sử dụng BO (Back-Off) như một<br />
thông số méo phi tuyến, Amadesi P. và các<br />
cộng sự đã tiến hành mô phỏng hệ thống 16QAM với một số bộ khuếch đại TWT và đã<br />
tìm được công thức gần đúng kinh nghiệm để<br />
tính toán SNRD tại BER = 5.10-4:<br />
<br />
SNRD A.e K .BO [dB]<br />
<br />
(2)<br />
<br />
trong đó:<br />
A = 3,25.sin(2S/9,5 + 5/36) + 5,75 [dB];<br />
K = 2,024 0,05ln(1+e5,416(S-2,6)) [dB-1];<br />
= 1,1 [dB];<br />
BO [dB] là độ lùi công suất lối ra (Back-Off)<br />
và S [dB] là độ chênh lệch giữa công suất ra<br />
trong điều kiện hoàn toàn tuyến tính và công<br />
suất bão hoà của bộ KĐCS (với cùng công suất<br />
lối vào ứng với giá trị công suất ra bão hoà).<br />
Mặc dầu công thức đã tìm được tỏ ra tương<br />
đối khớp với kiểm tra thực tế (sai số của việc<br />
27<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Thị Thanh Thảo và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
làm gần đúng SNRD nhỏ hơn 0,25 dB), công<br />
trình này tỏ ra ít hiệu quả do công thức thiết<br />
lập được chỉ là với SNRD tính tại một giá trị<br />
khá lớn của BER là 5.10-4, trong khi thực tế<br />
tính toán thiết kế đòi hỏi phải có khả năng<br />
tính SNRD tại BER tới tận các giá trị 10-6,<br />
thậm chí tới 10-9 hoặc nhỏ hơn. Hơn thế nữa,<br />
giả thiết méo AM/PM là 30/dB được sử dụng<br />
trong mô phỏng máy tính của Amadesi chỉ<br />
gần đúng với các TWT và hoàn toàn không<br />
phù hợp với các SSPA. Cuối cùng, sơ đồ<br />
điều chế thích hợp với công thức tìm được<br />
chỉ là 16-QAM và không có khả năng mở<br />
rộng công thức cho các hệ thống 64-QAM<br />
hay 256-QAM.<br />
Trong [11], S. Pupolin và L. J. Greenstein đã<br />
giả thiết một cách võ đoán rằng các cụm điểm<br />
xuất hiện trên chòm sao tín hiệu thu dưới tác<br />
động của méo phi tuyến gây bởi KĐCS (thể<br />
hiện ISI phi tuyến) có phân bố chuẩn. Dựa<br />
trên giả thiết này và sử dụng khai triển chuỗi<br />
Volterra, S. Pupolin và L. J. Greenstein đã<br />
thiết lập các công thức xác định các tham số<br />
thống kê của tín hiệu thu, trên cơ sở đó có thể<br />
tính toán một cách giải tích xác suất lỗi bit<br />
của hệ thống. Giải pháp này, như đã thấy,<br />
thuộc vào lớp giải pháp tựa giải tích (do dựa<br />
trên giả thiết về phân bố của ISI) và kết quả<br />
tính toán chỉ là kết quả gần đúng. Điều này<br />
giải thích cho việc kết quả tính toán của S.<br />
Pupolin và L. J. Greenstein đã trình bày trong<br />
[11] chỉ sát với kết quả mô phỏng MonteCarlo ở những giá trị khá lớn của BER. Một<br />
hạn chế nữa của phương pháp đã được đề<br />
xuất bởi S. Pupolin và L. J. Greenstein là khai<br />
triển chuỗi Volterra chỉ có thể tính bằng<br />
phương pháp số đối với các méo phi tuyến tới<br />
bậc ba mà thôi, việc tính toán đối với các méo<br />
phi tuyến tới bậc 5 hay hơn nữa sẽ đòi hỏi bộ<br />
nhớ máy tính quá lớn đến mức không thực tế<br />
trong điều kiện công nghệ như hiện nay.<br />
Trong khi đó, với việc áp dụng các phương<br />
pháp tuyến tính hoá bộ KĐCS thì méo bậc 3<br />
thường giảm nhỏ tới mức các thành phần méo<br />
bậc 5 hay hơn nữa không thể bỏ qua được.<br />
Các nghiên cứu chi tiết hơn nữa [2, 10] đã chỉ<br />
ra rằng hàm mật độ xác suất pdf (probability<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
86(10): 27 - 32<br />
<br />
density function) của ISI phi tuyến không phải<br />
chuẩn một cách tự nhiên. Pdf của ISI phi<br />
tuyến vẫn có thể làm gần đúng bằng một phân<br />
bố chuẩn, tuy nhiên với kỳ vọng và phương<br />
sai khác với kỳ vọng và phương sai thực sự<br />
của ISI xác định bằng định nghĩa. Điều này<br />
cũng góp phần lý giải sự sai khác tương đối<br />
lớn giữa kết quả tính toán được của S.<br />
Pupolin và L. J. Greenstein và kết quả mô<br />
phỏng Monte-Carlo tại những giá trị thấp của<br />
BER. Các nghiên cứu hiện vẫn đang được<br />
tiến hành nhằm tìm cách xác định các tham số<br />
thống kê này (kỳ vọng và phương sai) một<br />
cách trực tiếp từ các tham số phi tuyến của bộ<br />
khuếch đại, hoặc nhằm tìm kiếm một phân bố<br />
xác suất mới cho ISI phi tuyến trong các hệ<br />
thống M-QAM với bộ KĐCS phi tuyến.<br />
Trong khi còn chưa xác định được cách tính<br />
xác suất lỗi bít của hệ thống một cách giải<br />
tích với một độ méo phi tuyến nào đó, thì ảnh<br />
hưởng của méo phi tuyến gây bởi bộ khuếch<br />
đại công suất vẫn có thể tính một cách gần<br />
đúng theo các công thức thực nghiệm đã được<br />
tìm ra trong [9, 10]. Tác động của méo phi<br />
tuyến có thể đánh giá qua SNRD gây bởi méo<br />
phi tuyến, xác định tại một số giá trị thường<br />
quan tâm của BER (10-3, 10-6, 10-8). Theo<br />
[9,10], các công thức đối với hệ thống 16- và<br />
64-QAM có dạng sau:<br />
SNRD a.dd2 + b.dd<br />
<br />
[dB]<br />
<br />
(3)<br />
<br />
trong đó a, b là các hằng số đã tìm ra qua<br />
mô phỏng hệ thống với một loạt bộ KĐCS<br />
thực tế và được cho trong các bảng 1 và 2,<br />
dd là tham số thiệt hại khoảng cách gây bởi<br />
méo phi tuyến của bộ KĐCS [6] sẽ được<br />
giải thích chi tiết trong mục 2.<br />
Sai số của SNRD tính theo (3) là khá nhỏ, sai<br />
số trong mọi trường hợp đã kiểm tra đều nhỏ<br />
hơn 0.2 dB tại mức BER = 10-6 và tại mức<br />
BER = 10-3 (tương đương với mức BER mà<br />
Amadesi P. đã sử dụng) sai số này còn nhỏ<br />
hơn nữa, dưới 0.1 dB.<br />
Bảng 1. Các giá trị của a và b tại các giá trị khác<br />
nhau của BER với 64-QAM [6]<br />
<br />
28<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Thị Thanh Thảo và Đtg<br />
Mức BER<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
a<br />
<br />
b<br />
<br />
10<br />
<br />
-3<br />
<br />
25.3<br />
<br />
0.47<br />
<br />
10<br />
<br />
-6<br />
<br />
45<br />
<br />
2<br />
<br />
10<br />
<br />
-8<br />
<br />
55<br />
<br />
2.46<br />
<br />
86(10): 27 - 32<br />
<br />
Bảng 2. Các giá trị của a và b tại các giá trị khác<br />
nhau của BER với 16-QAM [5]<br />
Mức BER<br />
<br />
a<br />
<br />
b<br />
<br />
10-3<br />
<br />
0.3<br />
<br />
5.5<br />
<br />
10<br />
<br />
-6<br />
<br />
0.6<br />
<br />
10.2<br />
<br />
10<br />
<br />
-8<br />
<br />
1.325<br />
<br />
10.875<br />
<br />
ĐỘ THIỆT HẠI KHOẢNG CÁCH DD<br />
Trong trường hợp chỉ đánh giá riêng tác động<br />
của méo phi tuyến gây bởi bộ KĐCS máy<br />
phát (chất lượng tỷ lệ lỗi bít khi đó có thể sử<br />
dụng như là một đường bao dưới – lower<br />
bound – của chất lượng hệ thống thực, nhất là<br />
khi méo phi tuyến trội hơn), các bộ phận khác<br />
của hệ thống xem như được thiết kế hoàn hảo,<br />
do vậy mọi tác động khác xem như không có:<br />
a) Đồng bộ sóng mang và đồng bộ đồng hồ<br />
hoàn hảo; b) Các mạch lọc phát và thu có đáp<br />
ứng tổng cộng thỏa mãn tiêu chuẩn Nyquist<br />
thứ nhất (bộ lọc phát là bộ lọc căn bậc hai<br />
cosine nâng nối tiếp sau một mạch sửa dạng<br />
xung x/sinx nhằm biến tín hiệu NRZ ở lối ra<br />
bộ điều chế thành các xung Dirac có biên độ<br />
được điều chế, mạch lọc thu là một bộ lọc căn<br />
bậc hai cosine nâng), môi trường truyền được<br />
giả thiết là lý tưởng, nghĩa là có hàm truyền<br />
bằng 1 với mọi tần số và do vậy không gây ra<br />
ISI tuyến tính; c) Hệ thống không bị nhiễu.<br />
Tác động gây trở ngại việc truyền dẫn tín hiệu<br />
chỉ còn lại: a) Méo phi tuyến gây bởi bộ<br />
KĐCS máy phát; b) Tạp âm nhiệt của máy<br />
thu quy ra đầu vào máy thu và được mô hình<br />
hóa bởi một nguồn tạp âm cộng trắng chuẩn<br />
(AWGN – Additive White Gaussian Noise).<br />
Sơ đồ khối của một hệ thống như vậy được<br />
trình bày trên hình vẽ 1.<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ khối hệ thống M-QAM chỉ tính đến<br />
tác động méo phi tuyến<br />
<br />
Như đã trình bày trong mục 1, việc đánh giá<br />
chỉ riêng ảnh hưởng của méo phi tuyến gây<br />
bởi bộ khuếch đại công suất máy phát đối với<br />
các hệ thống vô tuyến số sử dụng điều chế MQAM cũng đã rất nan giải. Trong [7], tác giả<br />
đã đề xuất một thông số về độ phi tuyến của<br />
các bộ KĐCS máy phát (bất luận bộ KĐCS là<br />
TWT hay SSPA) trong các hệ thống M-QAM.<br />
Thông số này được gọi là độ thiệt hại khoảng<br />
cách dd (distance degradation), là lượng thiệt<br />
hại tính trung bình trên toàn tập tín hiệu của<br />
khoảng cách từ điểm tín hiệu tới biên quyết<br />
định gần nhất gây bởi tác động dịch chuyển<br />
các điểm tín hiệu trên biểu đồ chòm sao. Với<br />
một bộ KĐCS và với một độ lùi công suất<br />
đỉnh BOP (Peak Back-Off) đã cho, dd có thể<br />
xác định dễ dàng được như sau:<br />
+ Từ các đặc tuyến G(Pout) và (Pout) của<br />
bộ khuếch đại cho bởi các nhà sản xuất và từ<br />
giá trị độ lùi công suất đỉnh BOP, xác định các<br />
giá trị Gi,j và i,j đối với từng vị trí tín hiệu<br />
[i,j] trên chòm sao tín hiệu (i, j = 1, 2,...,<br />
<br />
M / 2 ). Nhờ vậy xác định được chòm sao<br />
bị méo gồm các điểm tín hiệu mới, bị dịch<br />
khỏi vị trí tiêu chuẩn do tác động của Gi,j và<br />
i,j. Cần lưu ý ở đây rằng: a) Do tính đối<br />
xứng của chòm sao tín hiệu M-QAM, chỉ một<br />
góc phần tư cần tính đến; b) Công suất của tín<br />
hiệu QAM có công suất lớn nhất, tức là công<br />
suất đỉnh của tín hiệu QAM, được xác định<br />
theo P M / 2, M / 2 = Ppeak = PS BOP trong đó<br />
PS là công suất bão hoà của bộ KĐCS, xác<br />
định được tại điểm gục của đặc tuyến<br />
AM/AM. Từ đây có thể xác định dễ dàng công<br />
suất tương ứng của các tín hiệu Pi,j còn lại;<br />
+ Đối với từng tín hiệu [i,j] trên chòm sao tín<br />
hiệu bị méo, xác định bằng hình học khoảng<br />
29<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Thị Thanh Thảo và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cách nhỏ nhất di,j từ điểm tín hiệu tới biên<br />
quyết định gần nhất. Thiệt hại khoảng cách<br />
đối với tín hiệu [i,j] là ddi,j = 1 di,j;<br />
+ Tham số thiệt hại khoảng cách của bộ<br />
khuếch đại là giá trị trung bình của thiệt hại<br />
khoảng cách tính trên toàn tập tín hiệu, tức là:<br />
<br />
dd <br />
<br />
4<br />
M<br />
<br />
86(10): 27 - 32<br />
<br />
sẽ còn cần phải kiểm chứng lại với số lượng<br />
lớn hơn các bộ KĐCS thực tế.<br />
<br />
M /2<br />
<br />
dd<br />
<br />
i, j<br />
<br />
(4)<br />
<br />
i , j 1<br />
<br />
Việc sử dụng tham số dd cho phép so sánh<br />
các bộ khuếch đại khác nhau thuộc các chủng<br />
loại khác nhau, bất luận là các bộ khuếch đại<br />
đó có hay không có méo trước. Sử dụng tham<br />
số này, theo các công thức gần đúng xác định<br />
theo lối kinh nghiệm thông qua mô phỏng<br />
nhiều bộ khuếch đại khác nhau, với nhiều giá<br />
trị BO khác nhau, người ta có thể tính trực<br />
tiếp ảnh hưởng của méo phi tuyến gây bởi bộ<br />
khuếch đại công suất tới chất lượng hệ thống.<br />
Một điều quan trọng nữa là với cách xác định<br />
dd như đã nêu, tham số đó có thể mở rộng và<br />
sử dụng được cho các giá trị M khác nhau.<br />
SỬ DỤNG ĐỘ THIỆT HẠI KHOẢNG<br />
CÁCH DD ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG<br />
CỦA MÉO PHI TUYẾN GÂY BỞI BỘ<br />
KHUẾCH ĐẠI CÔNG SUẤT PHÁT<br />
TRONG CÁC HỆ THỐNG 256-QAM<br />
Sử dụng thông số dd, chúng tôi đã tiến hành<br />
mô phỏng bằng phần mềm ASTRAS với 3 bộ<br />
KĐCS khác nhau được chọn một cách không<br />
có chủ ý, với mô phỏng tựa giải tích để đạt<br />
được kết quả chính xác mà thời gian mô phỏng<br />
chấp nhận được [1, 3, 4]. Các kết quả mô<br />
phỏng được trình bày trên các hình vẽ 2 và 3.<br />
Từ các kết quả mô phỏng nhận được trên các<br />
hình vẽ 2 và 3, chúng ta có thể có các nhận<br />
xét sau:<br />
1. Khác với các hệ thống 16- và 64-QAM,<br />
trong đó SNRD theo dd bám khá chặt theo<br />
một đường cong duy nhất trong hệ thống 256QAM với các bộ KĐCS khác nhau, các<br />
đường cong SNRD theo dd không như nhau.<br />
Đó có thể do đặc tính của bộ KĐCS đã không<br />
được làm gần đúng theo mô hình 4 tham số<br />
của Saleh một cách cẩn thận, dẫn đến sự sai<br />
khác quá lớn, cái mà với các giá trị nhỏ hơn<br />
của M (16 hay 64) bộc lộ ít hơn. Vấn đề này<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
Hình 2. SNRD tại BER = 10-3 theo dd<br />
<br />
Hình 3. SNRD tại BER = 10-6 theo dd<br />
<br />
2. Mặc dầu vậy, có thể thấy rất rõ rằng SNRD<br />
với mọi bộ KĐCS đã kiểm tra đều có thể làm<br />
gần đúng rất tốt bằng một đa thức bậc hai<br />
không có số hạng bậc 0 theo dd.<br />
SỰ PHỤ THUỘC CỦA SNRD GÂY BỞI<br />
KĐCS PHÁT VÀO HỆ SỐ UỐN LỌC<br />
Một vấn đề cần nói rõ thêm ở đây là từ hình 1<br />
ta có thể thấy rằng tín hiệu đầu vào bộ KĐCS<br />
phát là một tổng các đáp ứng xung của mạch<br />
lọc phát gây bởi chuỗi symbol đầu ra bộ điều<br />
chế, chứ không thuần túy là tín hiệu NRZ như<br />
đã giả định trong cách tính dd. Như vậy, tham<br />
số dd chỉ là một tham số danh định (nominal<br />
parameter) mà thôi. Tác động của méo phi<br />
tuyến gây bởi bộ KĐCS lại phụ thuộc vào mức<br />
tín hiệu lối vào thực tế, tức là có lẽ phải phụ<br />
thuộc vào hệ số uốn lọc của mạch lọc phát.<br />
<br />
30<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đoàn Thị Thanh Thảo và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Một vấn đề khá lý thú là, mặc dù gây ra chênh<br />
lệch khác nhau giữa công suất đỉnh và công<br />
suất trung bình, mạch lọc ở phần phát với các<br />
hệ số uốn lọc khác nhau lại hầu như không ảnh<br />
hưởng gì tới SNRD gây bởi méo phi tuyến của<br />
bộ khuếch đại [9, 10]. Tức là, mặc dù trong<br />
thực tế các bộ lọc có thể được thiết kế với <br />
thay đổi trong giải từ 0.2 tới 0.75, sự thay đổi<br />
hệ số uốn lọc như thế không ảnh hưởng gì lắm<br />
tới SNRD xác định theo biểu thức (3).<br />
Kết quả mô phỏng máy tính nhằm kiểm tra sự<br />
phụ thuộc giữa SNRD gây bởi méo phi<br />
tuyến của bộ KĐCS phát với trong hệ<br />
thống 256-QAM được trình bày trong bảng<br />
3. Từ kết quả trong bảng 3 ta có thể thấy,<br />
khi thay đổi từ đầu tới cuối dải giá trị<br />
thực tế (0,25 0,75), SNRD thay đổi rất ít,<br />
thường không quá 0,25 dB.<br />
Từ kết quả mô phỏng, chúng ta có thể kết<br />
luận được rằng [6]: Đối với hệ thống 256QAM, SNRD gây bởi méo phi tuyến của bộ<br />
KĐCS phát cũng hầu như không phụ thuộc<br />
vào hệ số uốn của bộ lọc phát.<br />
Bảng 3. Sự phụ thuộc của SNRD tính tại BER =<br />
10-6 vào [9]<br />
HPA1<br />
given in<br />
<br />
[Pupolin –<br />
Greenstein]<br />
<br />
BO<br />
[dB]<br />
<br />
= 0.25<br />
<br />
= 0.5<br />
<br />
= 0.75<br />
<br />
7.0<br />
<br />
25.64<br />
<br />
25.57<br />
<br />
25.82<br />
<br />
7.5<br />
<br />
25.14<br />
<br />
25.09<br />
<br />
25.33<br />
<br />
8.0<br />
<br />
24.69<br />
<br />
24.73<br />
<br />
24.97<br />
<br />
HPA2<br />
given in<br />
<br />
[Berman-Maleh]<br />
<br />
BO<br />
[dB]<br />
<br />
= 0.25<br />
<br />
= 0.5<br />
<br />
= 0.75<br />
<br />
8.5<br />
<br />
26.46<br />
<br />
26.22<br />
<br />
26.53<br />
<br />
9.0<br />
<br />
25.71<br />
<br />
25.62<br />
<br />
26.22<br />
<br />
9.5<br />
<br />
25.18<br />
<br />
25.17<br />
<br />
25.44<br />
<br />
HPA3 given in [Keye-George-Eric]<br />
BO<br />
<br />
= 0.25<br />
<br />
= 0.5<br />
<br />
= 0.75<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
86(10): 27 - 32<br />
<br />
[dB]<br />
8.0<br />
<br />
28.17<br />
<br />
27.69<br />
<br />
27.99<br />
<br />
8.5<br />
<br />
27.20<br />
<br />
26.88<br />
<br />
27.19<br />
<br />
9.0<br />
<br />
26.40<br />
<br />
26.21<br />
<br />
26.53<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Như vậy, cùng với các hệ thống 16, 64-QAM,<br />
dd vẫn có thể sử dụng như một thông số để<br />
đánh giá tác động của méo phi tuyến gây bởi<br />
bộ KĐCS phát phi tuyến trong hệ thống 256QAM. Việc xác định các hệ số của đa thức<br />
mô tả quan hệ giữa SNRD và dd tại các giá trị<br />
khác nhau của BER sẽ là nhiệm vụ của nhà<br />
sản xuất các bộ KĐCS. Qua nghiên cứu này<br />
mở ra một hướng mới để phát triển việc đánh<br />
giá tác động của méo phi tuyến gây bởi bộ<br />
khuếch đại công suất trong các hệ thống đa<br />
sóng mang thông qua khả năng sử dụng thông<br />
số dd để tính toán giải tích tỷ lệ lỗi bit.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Nguyễn Thành Biên, Nguyễn Quốc Bình<br />
(2009), “Số symbol cần thiết trong mô phỏng tựa<br />
giải tích các hệ thống 256-QAM có bộ khuếch đại<br />
công suất phát phi tuyến”, Tạp chí Nghiên cứu<br />
khoa học và công nghệ quân sự, Viện khoa học và<br />
công nghệ quân sự, số 26, 2-2009.<br />
[2]. Nguyễn Thành Biên (2009), “Hàm mật độ xác<br />
suất của nhiễu giữa các ký hiệu gây bởi sai lệch<br />
đồng hồ trong các hệ thống M-QAM”, Tạp chí<br />
Nghiên cứu khoa học và công nghệ quân sự, Viện<br />
khoa học và công nghệ quân sự, số 27, 4-2009.<br />
[3]. Nguyễn Quốc Bình, Nguyễn Thành Biên,<br />
Đinh Triều Dương, Nguyễn Thành Hiếu (2003),<br />
“Số symbol dùng trong mô phỏng tựa giải tích các<br />
hệ thống tryuền dẫn số”, Tạp chí Khoa học và kỹ<br />
thuật, Học viện kỹ thuật quân sự, số 104, 2003.<br />
[4]. Nguyễn Quốc Bình, Nguyễn Thị Hằng Nga,<br />
Đinh Tiến Dũng (1997), “Kỹ thuật mô phỏng hệ<br />
thống thông tin và các ứng dụng”, Tạp chí Bưu<br />
chính Viễn thông, Tổng cục Bưu điện, 10/1997.<br />
[5]. Nguyễn Quốc Bình, Nguyễn Thị Hằng Nga<br />
(2004), “Đánh giá tác động đồng thời của méo<br />
tuyến tính và sai lệch đồng hồ trong các hệ thống vi<br />
ba số M-QAM”, Chuyên san Các công trình nghiên<br />
cứu-triển khai viễn thông và công nghệ thông tin Tạp chí Bưu chính viễn thông, số 11, 3-2004.<br />
[6]. Nguyễn Thị Hằng Nga (1997), “Ảnh hưởng<br />
tạo dạng tín hiệu tới quay pha phụ tối ưu trong các<br />
hệ thống vô tuyến tiếp sức M-QAM phi tuyến”,<br />
<br />
31<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />