Khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến Luật Phá sản năm 2014
lượt xem 9
download
Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận và nêu thực trạng bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật trong g tố tụng hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến Luật Phá sản năm 2014
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT KHAÁI NIÏåM PHAÁ SAÃN, THUÃ TUÅC PHAÁ SAÃN VAÂ NHÛÄNG LIÏN HÏå ÀÏËN LUÊÅT PHAÁ SAÃN NÙM 2014 Dương KiM Thế nguyên* Trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) thời gian gần đây xảy ra một số vụ án oan, sai nhưng quyền được bồi thường thiệt hại (BTTH) cho người bị buộc tội trái pháp luật chưa được bảo đảm. Trong khi đó, pháp luật đã có quy định về người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS có quyền được BTTH về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để đền bù, hoặc khôi phục lại những giá trị về vật chất, tinh thần bị tổn thất cho người bị buộc tội do hành vi trái pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng gây ra. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận và nêu thực trạng bảo đảm quyền được BTTH về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS. 1. Khái niệm phá sản và phá sản có thể là một giai đoạn sẽ xảy ra Cũng giống như một thực thể sống “có với bất cứ một doanh nghiệp nào1. sinh, có tử”, doanh nghiệp cũng có chu kỳ Về nguồn gốc, thuật ngữ phá sản sống của nó. Theo các nhà kinh tế, chu kỳ được diễn đạt bằng từ “bankruptcy” hoặc sống của doanh nghiệp trải qua bốn giai “banqueroute” mà nhiều người cho rằng từ đoạn tiêu biểu là: khởi nghiệp, tăng trưởng, này bắt nguồn từ chữ “Banca Rotta” trong bão hòa và suy thoái. Nếu bước qua giai tiếng La Mã cổ, trong đó banca có nghĩa là đoạn tăng trưởng, nhà quản trị không biết chiếc ghế dài, còn rotta có nghĩa là bị gãy. “nhìn xa trông rộng” và dự liệu những tình Banca rotta có nghĩa là “băng ghế bị gãy”2. huống xấu xảy ra để kịp thời đối phó thì Cũng có ý kiến cho rằng, từ phá sản bắt doanh nghiệp sẽ bước vào thời kỳ suy thoái. nguồn từ chữ ruin trong tiếng La tinh, có Tính chu kỳ này cũng cho thấy sự suy vong nghĩa là sự “khánh tận”3. * TS, Khoa Luật Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. 1 Nguyễn Văn Thuận, Quản trị tài chính, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1995 (dẫn theo Báo cáo đề tài nghiên cứu do Viện kinh tế TP. Hồ Chí Minh thực hiện năm 2001: Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, tr. 6). 2 Nguyễn Tấn Hơn, Phá sản doanh nghiệp - một số vấn đề thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Từ điển trực tuyến Oxford (Oxford Dictionaries) cho rằng từ bankruptcy có nguồn gốc từ giữa thế kỷ thứ 16 với nghĩa là “băng ghế bị gãy” có gốc từ tiếng La Mã là Banca Rotta, từ Banca là chiếc ghế và rompere “bị phá gãy”. Sự thay đổi trong từ kết thúc là do kết hợp với tiếng Latin rupt - có nghĩa là “gãy”. Xem http://www.oxforddictionaries.com/us/definition/english/bankrupt (truy cập ngày 14/2/2015). 3 Dương Đăng Huệ, Nguyễn Minh Mẫn, Giáo trình Luật kinh tế, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 337. NGHIÏN CÛÁU 34 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Ở Việt Nam, có nhiều thuật ngữ được sử “mất khả năng thanh toán”. Trong khi đó, dụng như: phá sản, vỡ nợ, khánh tận… Từ khái niệm “phá sản” được dùng “cho những điển tiếng Việt định nghĩa từ “phá sản” là trường hợp thương gia phạm vào những lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và hình tội được luật dự liệu trong sự diễn tiến thường là vỡ nợ do kinh doanh bị thua lỗ, thủ tục khánh tận” và từ này (phá sản) là để thất bại; “vỡ nợ” là lâm vào tình trạng bị chỉ cho một loại tội phạm. thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, Trong tiếng Anh, khái niệm phá sản và phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả mất khả năng thanh toán được diễn đạt dưới nợ4. Như vậy, trong cách hiểu thông thường, những thuật ngữ bankruptcy, insolvency. Hai khái niệm phá sản là để chỉ cho một sự việc thuật ngữ này có khi được sử dụng như là đã rồi, sự việc “phải bán hết tài sản mà vẫn những từ đồng nghĩa. Tuy vậy, có tác giả cho không đủ trả nợ”. rằng, insolvency là khái niệm liên quan đến Từ điển Luật học định nghĩa phá sản là tình trạng tài chính, trong khi đó bankruptcy tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp nhân) lại là khái niệm thuần tuý pháp lý6. mất khả năng thanh toán nợ đến hạn 5. Theo Cụ thể, từ insolvency (được dịch sát quan điểm này, khái niệm phá sản chỉ mới nghĩa tương đương trong tiếng Việt là mất khả xác định được một tình trạng có thể xảy ra năng thanh toán) là để chỉ một tình trạng tài đối với các chủ thể bị lâm vào tình trạng mất chính của doanh nghiệp. Tình trạng này có thể khả năng thanh toán. Nói cách khác, “phá xác định theo phương thức dựa trên cân đối sản” được hiểu tương đương với “mất khả tài sản - nợ cho thấy tài sản còn lại không đủ năng thanh toán”. để thanh toán nợ (được gọi là “balance-sheet” Trong Bộ luật Thương mại năm 1972 insolvency) hoặc dựa vào việc doanh nghiệp của Việt Nam Cộng hòa có hai khái niệm không còn khả năng thanh toán nợ đã đến được sử dụng là khánh tận và phá sản. Theo hạn khi chủ nợ có yêu cầu (được gọi là Điều 864 của Bộ luật này “Thương gia “cash-flow” insolvency)7. Khi một doanh ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo nghiệp bị mất khả năng thanh toán đơn xin của trái chủ, bị toà tuyên án khánh (insolvency) thì nó có thể được thực hiện các tận”. Điều 1008 Bộ luật Thương mại năm thủ tục phục hồi (reorganazation) hoặc bị 1972 quy định “những thương gia ở trong thanh lý (liquidation, winding-up)8. tình trạng khánh tận hay thanh toán tư pháp Từ bankruptcy thì được hiểu như là thủ sẽ bị truy tố về tội phá sản đơn thường hay tục pháp lý để giải quyết tình trạng mất khả phá sản gian trá tùy theo các trường hợp năng thanh toán. được dự liệu tại các điều kế tiếp”. Như vậy Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ bankruptcy được “khánh tận là tình trạng một thương gia đã sử dụng cho cả thủ tục phá sản áp dụng cho ngưng trả nợ” hay nói cách khác, khái niệm cá nhân hoặc doanh nghiệp9. Tuy vậy, trong “khánh tận” trong Bộ luật Thương mại năm pháp luật của Anh, bankruptcy là để chỉ cho 1972 được hiểu tương đương như khái niệm thủ tục phá sản cá nhân còn đối với phá sản 4 Hoàng Phê (2010), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, (in lần thứ 3), Nxb. Đà Nẵng, tr.1437. 5 Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 597-599. 6 Rohan Lamprecht, Definition Insolvency vs Bankruptcy, xem trực tuyến tạihttp://www.bankruptcy24.co.za/index.php?op- tion=com_content&view=article&id=63:definition-insolvency-vs-bankruptcy&catid=48:general-articles&Itemid=65 (truy cập ngày 14/2/2015). 7 Rohan Lamprecht, Definition Insolvency vs Bankruptcy, xem trực tuyến tại http://www.bankruptcy24.co.za/index.php?op- tion=com_content&view=article&id=63:definition-insolvency-vs-bankruptcy&catid=48:general-articles&Itemid=65 (truy cập ngày 14/6/2014). 8 Trong tiếng Anh, từ liquidation và từ winding-up được sử dụng như những từ đồng nghĩa. Xem Roy Goode (1997), Prin- ciples of Corporate Insolvency Law, Sweet and Maxwell, London, p.1. 9 Roy Goode (1997), Principles of Corporate Insolvency Law, Sweet and Maxwell, London, p.1. NGHIÏN CÛÁU Söë 24 (328) T12/2016 LÊÅP PHAÁP 35
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT các công ty thì thuật ngữ được sử dụng là Khác với các văn bản luật phá sản trước insolvency10. đây của Việt Nam đều không đưa ra định Như vậy, từ các phân tích trên đây có nghĩa cho khái niệm phá sản, Luật Phá sản thể thấy về mặt pháp lý, khái niệm “phá sản” năm 2014 đã đưa ra một định nghĩa pháp lý có thể được hiểu theo hai khía cạnh sau đây: về phá sản, theo đó, “Phá sản là tình trạng Một là, phá sản là tình trạng một tổ chức của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng kinh doanh bị mất khả năng thanh toán và thanh toán và bị tòa án nhân dân ra quyết bị cơ quan nhà nước (thông thường là tòa định tuyên bố phá sản”12. Khái niệm này đã án) ra quyết định tuyên bố phá sản. Hậu quả tiếp cận phá sản dưới góc độ là một quyết của quyết định này là sự chấm dứt hoạt động định của tòa án chứ không phải là quá trình của doanh nghiệp. ban hành ra quyết định đó (thủ tục phá sản). Hai là, phá sản là thủ tục pháp lý liên Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung thêm quan đến một tổ chức kinh doanh để giải khái niệm thủ tục phá sản trong Luật Phá sản quyết tình trạng mất khả năng thanh toán năm 2014 vì về mặt pháp lý, để có quyết của tổ chức đó. Thủ tục pháp lý này được định phá sản cần phải có thủ tục phá sản. quy định bởi Luật phá sản và pháp luật có 2. Mất khả năng thanh toán và phá sản liên quan, được tiến hành từ khi có dấu hiệu Về mặt pháp lý, một doanh nghiệp sau tổ chức kinh doanh đó lâm vào tình trạng khi được đăng ký kinh doanh là có tư cách mất khả năng thanh toán (insolvency) và của một chủ thể kinh doanh để thực hiện các quá trình giải quyết tình trạng mất khả năng hoạt động kinh doanh trên thị trường. Tư thanh toán được thực hiện có thể đưa đến cách chủ thể kinh doanh chỉ có thể chấm dứt những hệ quả khác nhau là phục hồi tổ chức khi doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản. kinh doanh (reorganization) hoặc thanh lý Nếu giải thể là một thủ tục hành chính do cơ tài sản và chấm dứt hoạt động của tổ chức quan hành chính thực hiện hoặc chấp thuận kinh doanh (liquidation hoặc winding-up). trong quá trình giám sát việc giải thể, thì thủ Trong pháp luật Việt Nam, cả Luật Phá tục phá sản lại là một thủ tục “đặc biệt”. Tuy sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản nhiên, thủ tục này với kết quả là ra quyết năm 2004 đều không đưa ra định nghĩa về định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản chỉ phá sản mà sử dụng khái niệm “tình trạng có nghĩa là xác nhận một tình trạng đã sẵn phá sản”. Nếu áp dụng vào quan niệm của có từ trước. Theo Lê Tài Triển, về bản chất phần đông người dân, khái niệm lâm vào pháp lý “Bản án khánh tận13 không tạo ra tình trạng phá sản dễ gây ra sự “hiểu nhầm” một tình trạng pháp lý mới nào hết, chỉ là doanh nghiệp “lâm vào tình trạng tài sản chính thức công nhận một tình trạng cũ mà chẳng còn gì”11. Tuy vậy, các luật phá sản thôi”14. Chính vì vậy, doanh nghiệp mất khả của Việt Nam vừa nêu đều có các quy định năng thanh toán là căn cứ để tòa án ra quyết nhằm phục hồi doanh nghiệp chứ không chỉ định mở thủ tục phá sản. Quyết định này của có các quy định về tuyên bố phá sản và tòa án gây hậu quả xấu về nhiều mặt cho thanh lý doanh nghiệp. Do vậy, khái niệm nhiều đối tượng, nhất là cho con nợ, ảnh tình trạng phá sản chưa phản ánh đầy đủ nội hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nhà kinh hàm như được quy định trong các luật này. doanh trên thương trường, đồng thời hạn chế 10 Bethany Blowers (2000), The economics of insolvency law: conference summary – Financial Stability Review: December 2002, p.153. 11 Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học,(in lần thứ 3), Nxb. Đà Nẵng, 2010, tr.1437. 12 Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014. 13 Tương đương như Quyết định tuyên bố phá sản trong ngôn ngữ pháp luật hiện nay (Luật Phá sản năm 2014). 14 Lê Tài Triển, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải (quyển II), Kim Lai ấn quán, Sài Gòn, 1973. NGHIÏN CÛÁU 36 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT quyền quản lý tài sản và quyền tự chủ trong năm 2005 là 10.000 đô la)17. Theo Luật mất hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. khả năng thanh toán của Liên bang Nga năm Chính vì vậy, xác định “mất khả năng thanh 2002 thì số tiền đó đối với pháp nhân là toán” có ý nghĩa quan trọng bởi nếu nhà lập không dưới 100.000 rúp và đối với cá nhân pháp đưa căn cứ xác định không hợp lý sẽ là không dưới 10.000 rúp18. Có thể nói việc gây hại không những cho từng thương nhân sử dụng tiêu chí định lượng để xác định tình cụ thể, cho các chủ nợ mà còn cho cả nền trạng “mất khả năng thanh toán” có tác dụng kinh tế nói chung. giảm các đối tượng cần áp dụng các quy Về cơ bản, cả trong học thuật lẫn trong định của luật phá sản. Bởi vì nếu các khoản pháp luậtnhiều nước đều xác định tình trạng nợ của doanh nghiệp bị mất khả năng thanh mất khả năng thanh toán là tình trạng con nợ toán là quá nhỏ thì không cần thiết phải tiến không trả được các khoản nợ15. Tuy nhiên, hành thủ tục phá sản phức tạp, mất nhiều thế nào là “không có khả năng thanh toán thời gian và tốn kém. Cơ quan giải quyết được các khoản nợ” là nội dung không chỉ phá sản chỉ mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp có khoản nợ đạt ngưỡng áp gây tranh luận trong giới học thuật mà còn dụng luật phá sản. Tuy nhiên, nếu chỉ quan được ghi nhận có ít nhiều sự khác biệt trong tâm tới yếu tố định lượng sẽ bộc lộ hạn chế pháp luật ở các nước khác nhau. Thậm chí, khi không đánh giá được chính xác tình trong cùng một nước, nội dung này ở mỗi trạng tài chính của doanh nghiệp mắc nợ vì thời kỳ khác nhau cũng có cách hiểu khác doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh nhau16. Về lý thuyết có thể sử dụng một, toán nhất thời do những nguyên nhân khác hoặc phối hợp một số tiêu chí khác nhau để nhau. Việc bị mở thủ tục phá sản có thể tạo xác định tình trạng phá sản. Các tiêu chí ra sức ép doanh nghiệp buộc phải bán tài sản thông thường có thể được sử dụng là: của mình với mức giá quá thấp hoặc buộc - Xác định tình trạng phá sản theo tiêu phải tham gia vào những thỏa hiệp có tính chí định lượng: theo tiêu chí này, một doanh chất bất bình đẳng trước sức ép của chủ nợ. nghiệp bị coi là mất khả năng thanh toán khi Chính vì vậy, nếu chỉ đơn thuần dựa vào tiêu không thanh toán được một món nợ đến hạn chí này thì việc xác định mức nợ đến bao có giá trị tối thiểu được luật phá sản ấn định. nhiêu mới bị mở thủ tục phá sản thật sự khó Ví dụ Luật phá sản Singapore năm 1999 quy đạt được sự thuyết phục. Điều này cũng xảy định con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản ra tại Việt Nam trong quá trình dự thảo và khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất là góp ý cho Luật Phá sản (sửa đổi) thay thế 5.000 đô la Singapore (Theo Luật sửa đổi cho Luật Phá sản năm 200419. 15 Theo định nghĩa tại Điều 2 Luật mất khả năng thanh toán (phá sản) của Liên bang Nga năm 2002 thì: “Tình trạng phá sản là tình trạng con nợ không có khả năng thỏa mãn một cách đầy đủ các yêu cầu của chủ nợ đối với các nghĩa vụ trả tiền hoặc các món nợ phải trả khác”. Luật phá sản của Nhật Bản ban hành ngày 25/4/1922 không đưa ra khái niệm chung về tình trạng phá sản mà chỉ đưa ra cơ sở của việc phá sản nói chung và cơ sở của việc phá sản công ty nói riêng. Điều 126 Luật phá sản Nhật Bản quy định: “1. Khi một người mắc nợ không thể trả được nợ thì tòa sẽ ra quyết định tuyên bố người đó phá sản theo đơn đề nghị. 2. Khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì người đó được coi là không thể trả được nợ”. Như vậy, ở Nhật Bản, cơ sở để nhận định việc con nợ đã lâm vào tình trạng phá sản, có thể bị tòa án tuyên bố phá sản là việc con nợ đã không thanh toán được các món nợ đến hạn của mình”. 16 Bùi Nguyên Khánh, Pháp luật phá sản Hoa Kỳ, viết trong Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ, Đào Trí Úc (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. 17 Xem Điều 61 Luật phá sản của Singapore (Bankruptcy act) năm 1995, sửa đổi năm 2005, có tại http://statutes.agc.gov.sg/aol/search/display/view.w3p;page=0;query=DocId%3A%22c342424a-8867-494a-bbab- 91b696d12bdc%22%20Status%3Ainforce%20Depth%3A0;rec=0;whole=yes (truy cập ngày 14/2/2015). 18 Điều 6 Luật Phá sản Liên bang Nga năm 2002. 19 Thu Hằng, Sửa đổi Luật Phá sản: Nợ 200 triệu là… phá sản, xem tại http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/thong-tin- khac.aspx?ItemID=5464 (truy cập ngày 14/2/2015). NGHIÏN CÛÁU Söë 24 (328) T12/2016 LÊÅP PHAÁP 37
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT - Xác định tình trạng phá sản theo tiêu không thể trả nợ do chưa thể “hiện kim” số chí kế toán: Theo tiêu chí này thì việc xác tài sản của mình. định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng So với hai tiêu chí định lượng và kế toán phá sản được thực hiện thông qua sổ sách kế đã nêu ở trên, tiêu chí “định tính” cho phép toán của doanh nghiệp mắc nợ. Doanh một thủ tục phá sản có thể được mở ra sớm nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản hơn. Điều này phù hợp với quan niệm hiện nếu như số liệu kế toán của doanh nghiệp đại của luật phá sản là ngày càng có xu cho thấy tổng giá trị tài sản nợ lớn hơn tổng hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp được giá trị tài sản có. So với tiêu chí định lượng phục hồi thay vì tuyên bố phá sản. Vì vậy, thì tiêu chí kế toán dường như đánh giá muốn tạo điều kiện phục hồi doanh nghiệp chính xác hơn tình trạng tài chính thực tế bị khó khăn thì cần “định bệnh” từ sớm. Đây của doanh nghiệp, đồng thời, dựa vào tiêu cũng là giải pháp tốt hơn cho việc bảo vệ chí này có thể thu hẹp hơn phạm vi những quyền lợi của các chủ nợ, bản thân doanh đối tượng có thể bị áp dụng luật phá sản. nghiệp mắc nợ, người lao động và cả xã hội, Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào tiêu chí kế toán tránh nguy cơ phải tuyên bố phá sản doanh cũng bộc lộ hạn chế là việc mở thủ tục phá nghiệp, từ đó tránh đi những hậu quả không sản doanh nghiệp chỉ đặt ra khi tổng giá trị mong muốn trong vụ phá sản như thất tài sản còn lại của doanh nghiệp nhỏ hơn nghiệp, phá sản dây chuyền... khoản nợ. Điều này cũng đòi hỏi trước khi Ở Việt Nam, việc xác định tình trạng mở thủ tục phá sản, tòa án phải có kết quả “mất khả năng thanh toán” đã được pháp kiểm toán và thực hiện phép thử về khả năng luật quy định khá khác biệt nhau trong các thanh toán. Trên thực tế, có những doanh văn bản pháp luật về phá sản. Ở những giai nghiệp do sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đoạn khác nhau, pháp luật Việt Nam có khi tài sản cố định và tài sản lưu động làm cho chỉ sử dụng một tiêu chí để xác định tình xét về mặt kế toán thì tài sản còn lại đủ, trạng phá sản hoặc có khi lại phối hợp nhiều thậm chí thừa để trả nợ, nhưng xét về mặt tiêu chí. thực tế họ lại khó có thể thanh toán nợ do Đối với quan điểm chỉ sử dụng một tiêu những tài sản cố định của họ thiếu tính thanh chí thì tiêu chí dòng tiền được sử dụng khoản, không thể dễ dàng chuyển đổi thành thường xuyên hơn. Điều này thấy xuất hiện tiền mặt. Nếu không có giải pháp cứu chữa trong quy định của Luật Phá sản năm 2004. kịp thời thì khả năng doanh nghiệp bị phá Điều 3 của Luật xác định “Doanh nghiệp, sản có thể xảy ra. Đây là hạn chế lớn nếu chỉ hợp tác xã không có khả năng thanh toán áp dụng theo tiêu chí này. được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có - Xác định tình trạng phá sản theo tiêu yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng chí “dòng tiền”: Tiêu chí này quan tâm đến phá sản”. Như vậy, Luật Phá sản năm 2004 tính tức thời của việc trả nợ, quan tâm đến đã không quan tâm đến giá trị khoản nợ là dòng tiền (cash flow) của doanh nghiệp khi bao nhiêu, việc ngừng trả nợ là bao lâu và đánh giá khả năng thanh toán. Với cách xác liệu giá trị tài sản còn lại có đủ để thanh toán định dựa trên tính tức thời của việc trả nợ, nợ hay không để xác định tình trạng mất khả tiêu chí này không quan tâm đến tài sản hiện năng thanh toán. Quy định này của Luật Phá có của doanh nghiệp có đủ để trả nợ hay sản năm 2004 về cơ bản là tương đồng với không. Việc quy định về tình trạng phá sản quy định tại Bộ luật Thương mại năm 1972, như vậy dựa trên triết lý có nợ thì phải thanh theo đó: “Thương gia ngưng trả nợ có thể toán. Việc doanh nghiệp bị ngưng trả nợ có đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, thể bị suy đoán là bị lâm vào tình trạng phá bị tòa án tuyên án khánh tận” (Điều 864). sản. Căn cứ vào tiêu chí này thì luật phá sản Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 có thể áp dụng cho cả đối với các doanh của Việt Nam cũng đã khẳng định bản chất nghiệp có thể còn nhiều tài sản có nhưng của phá sản là tình trạng con nợ không trả NGHIÏN CÛÁU 38 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT được nợ đến hạn khi ghi nhận tại Điều 2 thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã rằng: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi hạn thanh toán”. Tuy nhiên, việc định lượng đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết ở đây chỉ dừng lại thời gian trễ hạn thanh mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến toán mà không quan tâm đến giá trị của các hạn”. Tuy nhiên, Nghị định số 189/CP ngày khoản nợ. Điều này cho thấy Luật Phá sản 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi năm 2004 và Luật Phá sản năm 2014 của hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 Việt Nam đều đã quan tâm đến bản chất của lại bổ sung thêm tiêu chí có tính chất “định tình trạng mất khả năng thanh toán. lượng” để xác định tình trạng phá sản. Điều Như vậy, bản chất của “tình trạng mất 3 Nghị định số 189/CP đưa ra 3 điều kiện để khả năng thanh toán” là việc con nợ không xác định tình trạng phá sản là: có khả năng thanh toán các khoản nợ đến - Kinh doanh bị thua lỗ trong hai năm hạn của mình. Về cơ bản, khi con nợ ngừng liên tiếp đến mức không trả được các khoản trả nợ thì coi như là đã lâm vào tình trạng nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người mất khả năng thanh toán và lúc đó, các chủ lao động theo thoả ước lao động và hợp nợ đã có cơ sở pháp lý để làm đơn yêu cầu đồng lao động trong ba tháng liên tiếp. tòa án thụ lý và giải quyết vụ việc phá sản. - Doanh nghiệp phải áp dụng các biện Tuy nhiên, tùy quan điểm của mỗi quốc gia pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình và ở mỗi thời kỳ khác nhau, đặc biệt là tùy trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. thuộc vào mục tiêu của luật phá sản là bảo - Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài vệ chủ nợ hay con nợ, có đặt mục tiêu phục chính cần thiết mà vẫn gặp khó khăn, không hồi doanh nghiệp hay không mà luật pháp khắc phục được tình trạng mất khả năng các nước, trong những giai đoạn khác nhau thanh toán nợ đến hạn. có thể đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định tình Thực tế thi hành Luật Phá sản doanh trạng phá sản là khác nhau. nghiệp năm 1993 cho thấy việc quy định Theo chúng tôi, để hiểu được khái niệm tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình phá sản cần hiểu được bản chất của quá trạng phá sản như nêu trên là quá muộn vì trình, “mất khả năng thanh toán” là chỉ một khi đã thua lỗ không thanh toán được nợ đến tình trạng xảy ra đối với doanh nghiệp. Khi hạn sau khi đã áp dụng các biện pháp tài doanh nghiệp rơi vào tình trạng này thì thủ chính cần thiết, thì lúc đó doanh nghiệp hầu tục phá sản có thể sẽ được tiến hành. Thủ như không còn tài sản gì, thậm chí còn tục phá sản là một thủ tục về pháp lý nhằm không đủ để trang trải chi phí phá sản20 nên giải quyết tình trạng mất khả năng thanh Luật Phá sản đã được sửa đổi theo hướng có toán. Nếu kết quả giải quyết không thể đưa thể mở thủ tục phá sản sớm hơn bằng cách doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả sử dụng yếu tố “dòng tiền”, quan tâm đến năng thanh toán thì cơ quan nhà nước có tính tức thời của việc trả nợ như vừa phân thẩm quyền (tòa án) sẽ ra quyết định tuyên tích ở trên. bố phá sản doanh nghiệp. Việc sử dụng phối hợp nhiều tiêu chí để Tuy nhiên, quy định về căn cứ xác định xác định tình trạng mất khả năng thanh toán tình trạng mất khả năng thanh toán trong không chỉ có ở Luật Phá sản doanh nghiệp Luật Phá sản năm 2014 còn cứng nhắc. Bởi năm 1993 mà còn thấy quy định tại Luật Phá lẽ, để xác định tình trạng mất khả năng sản năm 2014. Theo quy định của Luật này, thanh toán, doanh nghiệp phải thỏa mãn đầy “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng đủ các dấu hiệu mà pháp luật nêu bao gồm: 20 Tờ trình Quốc hội số 123/2003/TANDTC ngày 10/10/2003 của Tòa án nhân dân tối cao. NGHIÏN CÛÁU Söë 24 (328) T12/2016 LÊÅP PHAÁP 39
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT (1) doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ của tòa án hoặc buộc thanh toán trái phiếu thanh toán, (2) trong thời hạn ba tháng. Luật hoặc chứng nhận không trả nợ đã hết mà con nhiều nước thường đưa ra nhiều trường hợp nợ không thực hiện việc thanh toán khác nhau để xác định tình trạng mất khả (d) đối với Bắc Ai len, bằng chứng xác năng thanh toán. Ví dụ, Điều 2 Luật Phá sản nhận không tuân thủ phán quyết buộc công Trung Quốc năm 200721 quy định: Trong ty phải trả nợ, hoặc trường hợp doanh nghiệp là pháp nhân (e) nếu chứng minh cho tòa án thấy rằng không thể trả hết các khoản nợ và tài sản công ty không có khả năng thanh toán khi củadoanh nghiệp đó không đủ để trả hết các các khoản nợ đến hạn. khoản nợ, hoặc rõ ràng doanh nghiệp không (2) một công ty cũng được xem như có khả năng trả nợ, các khoản nợ sẽ được không có khả năng thanh toán nợ nếu chứng thanh lý theo quy định của Luật này. minh được với tòa án rằng giá trị tài sản của Trường hợp doanh nghiệp thuộc trong công ty ít hơn tổng số nợ của công ty có tính các trường hợp quy định tại các khoản trên đến các khoản nợ chưa đến hạn”. hoặc doanh nghiệp rõ ràng đã đánh mất khả Như vậy, Luật của Anh xác định một năng trả nợ, có thể trải qua tổ chức lại theo doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo quy định của Luật này”. một trong hai trường hợp: Như vậy, Luật Phá sản Trung Quốc xác - Không thanh toán được nợ đến hạn định tình trạng phá sản khi thuộc vào các như quy định tại khoản 1 Điều 123. trường hợp sau đây: - Giá trị tài sản nhỏ hơn khoản nợ. - Doanh nghiệp không trả hết nợ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ Trong khi đó, Luật Phá sản năm 2014 - Doanh nghiệp không trả hết nợ và của Việt Nam mới chỉ quan tâm đến “không doanh nghiệp rõ ràng không trả được nợ. có khả năng thanh toán được nợ” mà chưa Luật mất khả năng thanh toán năm 1986 quy định việc mất khả năng thanh toán do của Vương quốc Anh cũng có quy định mất cân đối về tài chính (giá trị tài sản nhỏ tương tự. Theo Điều 123 Luật mất khả năng hơn khoản nợ). thanh toán 198622 quy định “(1) một công ty Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ khi: rơi vào tình trạng “không có khả năng thanh (a) nợ của chủ nợ số tiền vượt quá 750 toán nợ” do mất cân đối về tài chính. bảng23, đến hạn thanh toán và chủ nợ đã gửi Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của văn bản đòi nợ đến công ty yêu cầu công ty các nước, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ thanh toán số nợ đến hạn, nhưng công ty sung quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá không thanh toán được hoặc không thỏa sản năm 2014 như sau: thuận được với chủ nợ trong thời hạn 3 tuần, “1. Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả hoặc năng thanh toán là: (b) đối với Anh và xứ Wale, nếu không a. Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực trả nợ một phần hoặc toàn bộ cho chủ nợ hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong theo phán quyết, quyết định hoặc chỉ thị của thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh bất kỳ tòa án nào, hoặc toán. (c) đối với Scotland, nếu thời hạn để b. Doanh nghiệp, hợp tác xã có giá trị thanh toán nợ theo quyết định buộc trả nợ tài sản nhỏ hơn tổng số nợ đến hạn”. 21 Enterprise Bankruptcy Law of the People’s Republic of China (Adopted at the 23rd Meeting of the Standing Committee of the Tenth National People’s Congress on August 27, 2006), http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2008- 01/02/content_1388019.htm 22 Insolvency Act 1986 http://www.legislation.gov.uk/ukpga/1986/45/pdfs/ukpga_19860045_en.pdf 23 Theo quy định của khoản 3 Điều 123 Luật mất khả năng thanh toán Vương quốc Anh thì số tiền này có thể tăng hoặc giảm theo quy định tại Chương 15 Điều 416; Bộ trưởng Bộ Kinh doanh, đổi mới và kỹ năng (Secretary of State for business, innovation and skills) có thể ra quyết định tăng hoặc giảm số tiền tùy theo thời điểm được cụ thể. NGHIÏN CÛÁU 40 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 3. Khái niệm thủ tục phá sản phá sản là thủ tục tư pháp bởi vì nó được tiến Trong tiếng Việt, thủ tục là những việc hành bởi tòa án. Theo giáo trình Luật Kinh cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tế của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản tiến hành một công việc có tính chất chính năm 2000 thì thủ tục phá sản là “một thủ tục thức24. Theo Nguyễn Văn Thâm và Võ Kim thuần túy tư pháp, do tòa án có thẩm quyền Sơn, thủ tục có nghĩa là phương thức hay tiến hành theo những quy định chặt chẽ của cách thức giải quyết công việc theo một pháp luật phá sản”27. trình tự nhất định25. Như vậy, thủ tục phá sản Quan niệm thủ tục phá sản là thủ tục được hiểu là trình tự từng bước tiến hành thuần túy tư pháp là không hoàn toàn chính giải quyết việc phá sản theo quy định của xác, bởi lẽ thủ tục tư pháp chính là thủ tục pháp luật. thực hiện quyền tư pháp, một trong ba nhánh Thừa nhận hoạt động của Nhà nước diễn quyền lực. Quyền tư pháp là quyền xét xử ra theo ba hoạt động chính là lập pháp, hành và vì vậy, thủ tục tư pháp thuần túy là thủ pháp và tư pháp thì tương ứng với nó là ba tục xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hành loại thủ tục cho các hoạt động của Nhà nước chính. Có lẽ vì lý do này mà trong giáo trình là thủ tục lập pháp, thủ tục hành chính và thủ Luật Thương mại cũng của chính Trường tục tư pháp. Thủ tục lập pháp là thủ tục xây Đại học Luật Hà Nội xuất bản sáu năm sau dựng Hiến pháp, luật và các văn bản quy chỉ giữ lại quan điểm là thủ tục phá sản là phạm pháp luật khác. Thủ tục hành chính là thủ tục tư pháp mà không còn cụm từ thuần thủ tục giải quyết các công việc mang tính túy nữa và hướng lý giải cho quan điểm thủ chất chấp hành và điều hành, còn thủ tục tư tục phá sản là thủ tục tư pháp của các tác giả pháp là thủ tục xét xử các vụ án hình sự, dân giáo trình này “là hoạt động do cơ quan nhà sự, hành chính do tòa án tiến hành. nước duy nhất là tòa án có thẩm quyền tiến Đối với vấn đề phá sản, trong bối cảnh hành theo những quy định chặt chẽ của pháp cạnh tranh thì hiện tượng phá sản là một luật phá sản”28. Cũng theo cách lý giải tương hiện tượng có tính khách quan, mang tính tự, sách Luật Kinh tế Việt Nam do Lê Minh quy luật “có cạnh tranh thì sẽ có phá sản”. Toàn chủ biên cũng cho rằng “thủ tục phá Một khi xảy ra tình trạng phá sản, Nhà nước sản một doanh nghiệp do cơ quan có thẩm phải tham gia giải quyết việc phá sản. Việc quyền duy nhất là tòa án và vì vậy về cơ bản Nhà nước giao cho cơ quan nào trong bộ thủ tục phá sản là một thủ tục được diễn ra máy nhà nước để thực hiện nhiệm vụ giải theo một trình tự tư pháp”29. Tác giả này quyết việc phá sản chỉ là sự phân công trong nhấn mạnh rằng “đáng lưu ý là thủ tục phá bộ máy nhà nước. sản là thủ tục tư pháp đặc biệt vì phá sản Tại đa số các nước có luật phá sản, thủ doanh nghiệp về bản chất không phải là một tục phá sản đối với các doanh nghiệp được vụ án và do đó nó không được thụ lý để xét tiến hành bởi tòa án26. Chính vì thế, trong xử như một vụ án thông thường”30. các tài liệu khoa học pháp lý hiện nay của Như vậy, có thể nhận thấy lý do mà đại Việt Nam phổ biến quan niệm rằng, thủ tục đa số các tài liệu, giáo trình viết về thủ tục 24 Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, 2010, tr. 1234. 25 Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn, Thủ tục hành chính, lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 11. 26 Dự án VIE/98/001, Báo cáo chuyên đề một số lĩnh vực của khung pháp luật tại Việt Nam – Phần 2: Đánh giá thực trạng, khuyến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp, Hà Nội, 2002, tr. 142. 27 Dương Đăng Huệ & Nguyễn Minh Mẫn, Chương VIII Phá sản và pháp luật về phá sản, trong Giáo trình Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 342. 28 Nguyễn Viết Tý, Chương XV: Khái quát về phá sản và pháp luật phá sản, trong Giáo trình Luật Thương mại, tập II, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an Nhân dân, H., 2006, tr. 350. 29 Bùi Nguyên Khánh (2002), Chương VIII Pháp luật về phá sản doanh nghiệp, trong Lê Minh Toàn (2002), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 542. 30 Bùi Nguyên Khánh (2002), tlđd. NGHIÏN CÛÁU Söë 24 (328) T12/2016 LÊÅP PHAÁP 41
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT phá sản tại Việt Nam cho rằng thủ tục phá nhiều trường hợp đặc biệt, ví dụ đối với sản là thủ tục tư pháp chỉ bởi vì đây là thủ ngân hàng thương mại, công ty chứng tục được tiến hành bởi tòa án. Song cũng đã khoán, công ty bảo hiểm... việc giải quyết có ít nhiều sự nhận xét rằng đây là một thủ phá sản có thể bao gồm nhiều thủ tục hành tục tư pháp đặc biệt vì nó không phải là một chính. Việc lựa chọn giải quyết phá sản theo vụ án và không tiến hành thủ tục giống như thủ tục nào tùy thuộc vào điều kiện và giải quyết một vụ án. truyền thống của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp phá sản 4. Bản chất của thủ tục phá sản một số tổ chức đặc biệt, trong đó có tổ chức Thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tín dụng, thì tại một số nước, tòa án không tập thể được giao để giải quyết vụ việc phá sản. Vậy Trong quá trình thực hiện hoạt động liệu rằng thủ tục phá sản có còn là thủ tục tư kinh doanh, các doanh nghiệp tiến hành các pháp hay không? Chúng tôi cho rằng, không hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, cung thể xem thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp ứng dịch vụ đã xuất hiện các hình thức mua nếu cơ quan tiến hành thủ tục này không chậm, trả dần hoặc vay mượn với những phải là tòa án. Điển hình cho quốc gia không cam kết sẽ hoàn trả theo thời gian. Các thực hiện việc phá sản ngân hàng thương khoản vay mượn này có thể được đảm bảo mại theo thủ tục tư pháp là Hoa Kỳ và hoặc không được bảo đảm bằng tài sản của Canada31. Tại các quốc gia này, thủ tục phá doanh nghiệp mắc nợ. Những rủi ro trong sản ngân hàng thương mại được tiến hành kinh doanh có thể đưa đến doanh nghiệp bởi cơ quan bảo hiểm tiền gửi và là thủ tục không thanh toán được các khoản nợ. Trong hành chính32. tình huống này, đối với các khoản nợ có bảo Một quốc gia điển hình cho việc hành đảm thì chủ nợ có quyền yêu cầu xử lý tài chính hóa thủ tục phá sản ngân hàng thương sản bảo đảm để thu hồi nợ. Trường hợp mại là Anh. Cho đến trước năm 2009, việc khoản nợ không có bảo đảm, chủ nợ có thể giải quyết phá sản các ngân hàng ở Anh đều yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ tuân thủ theo Luật Phá sản năm 1986 vì (tòa án, cơ quan thi hành án) ban hành các người Anh quan niệm rằng phá sản là thủ tục quyết định cưỡng chế bán tài sản của doanh tư pháp nhằm xét xử hành vi của người bị nghiệp để thu hồi nợ. Đây chính là cách đòi phá sản. Tuy vậy, sau cuộc khủng hoảng tài nợ thông thường và được tiến hành một cách chính ở Hoa Kỳ và châu Âu năm 2008, nước trực tiếp giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc Anh đã bổ sung chế độ giải quyết đặc biệt nợ. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp mắc nợ có đối với các ngân hàng mất khả năng thanh nhiều chủ nợ và tài sản còn lại của doanh toán. Chế độ này được thực hiện với vai trò nghiệp mắc nợ không đủ thanh toán cho tất quan trọng của cơ quan quản lý ngành ngân cả các chủ nợ này thì việc đòi nợ một cách hàng và thực hiện theo thủ tục hành chính. trực tiếp theo cách thức vừa nêu trở nên kém Chỉ khi thủ tục áp dụng chế độ đặc biệt hiệu quả. Sự kém hiệu quả này thể hiện ở (SRR) không thành công thì mới chuyển hai khía cạnh. Thứ nhất, việc tranh đua đòi sang thủ tục thanh lý tại tòa án. nợ giữa các chủ nợ có thể dẫn đến phá hủy Như vậy, có thể khẳng định, thủ tục phá tài sản của doanh nghiệp, làm giảm sút giá sản không nhất thiết buộc phải giao cho tòa trị tài sản của doanh nghiệp mắc nợ và từ án phụ trách, bởi vậy, ngoài nguyên tắc đó ảnh hưởng xấu đến khả năng thu hồi nợ chung phá sản là một thủ tục tư pháp, trong của các chủ nợ33. Thứ hai, nếu không có thủ 31 Về thủ tục phá sản các ngân hàng theo pháp luật Hoa Kỳ, xem thêm Dương Kim Thế Nguyên (2014), Giải quyết phá sản ngân hàng thương mại theo pháp luật một số nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/2014, tr. 60-66. 32 Bliss, Robert R. and Kaufman George G. (2006), A Comparion of U.S Corporate and Bank Insolvency Reluation, Economic Perspective, FRB of Chicago Working Paper. 33 Rowat, M., and J. Astigarraga. (1999) Latin American Insolvency Systems: A comparative Assessment, World Bank Tech- nical Paper No. 433. NGHIÏN CÛÁU 42 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT tục phá sản thì các chủ nợ chỉ có thể đòi nợ trong những mục tiêu chính. Tuy vậy, việc theo cách riêng lẻ giữa các chủ nợ với con định giá các tài sản phá sản trong bối cảnh nợ. Việc đòi nợ riêng lẻ (có thể tự mình đòi của vụ việc phá sản đang diễn ra có thể thấp nợ trực tiếp hoặc đòi nợ thông qua các vụ hơn so với giá trị thực do các tâm lý e ngại việc kiện tại tòa án) làm phát sinh chi phí việc thu mua tài sản phá sản (ví dụ: xem việc đòi nợ cao (ví dụ các loại chi phí như theo mua tài sản phá sản là xui xẻo). Việc thanh dõi việc đòi nợ của các chủ nợ khác với con lý hàng loạt các tài sản phá sản cùng lúc dẫn nợ, chi phí cho việc giám sát thận trọng về đến giá bán thấp hơn so với giá mà những tình trạng tài chính của người đi vay và khả người mua thông thường có nhu cầu mua năng thanh toán, chi phí cạnh tranh với các đưa ra. Điều này có thể là do “không có hoặc chủ nợ khác để cố gắng có được các thông có rất ít người mua tiềm năng bên ngoài với tin cần thiết phục vụ cho việc đòi nợ thành thông tin kịp thời và chính xác về tình trạng công…). Các chi phí này có thể được giảm thực sự của vấn đề và triển vọng tương lai thiểu bởi việc có luật về phá sản như là một của doanh nghiệp hoặc khi quá trình tìm kiếm sự thỏa thuận thống nhất từ trước về việc đòi và phát triển người mua bên ngoài, bản thân nợ tập thể34. nó sẽ rất tốn kém”35. Trong những trường hợp Như vậy, dưới áp lực của việc hiệu quả như vậy, tổ chức lại doanh nghiệp thay vì kinh tế, luật phá sản hình thành như là một thanh lý doanh nghiệp mất khả năng thanh phương thức để các chủ nợ có thể đòi nợ theo toán là cần thiết để giúp các chủ nợ thu được một trật tự với chi phí xã hội thấp nhất, hiệu giá trị cao nhất từ các tài sản phá sản. Đối với quả nhất. Với mục tiêu tối đa hóa giá trị tài các chủ nợ, mở thủ tục phá sản vẫn giữ sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ và nguyên giá trị là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. thanh toán tài sản công bằng giữa các chủ nợ, Chỉ có điều để đòi được nợ, người ta không luật phá sản được hình thành nhằm mục đích nhất thiết phải thanh lý tài sản của doanh giúp cho các chủ nợ đòi nợ từ doanh nghiệp nghiệp mắc nợ, mà trong rất nhiều trường mắc nợ, thông qua vai trò của một thiết chế hợp, việc tái phục hồi doanh nghiệp mắc nợ nhà nước có thẩm quyền (có thể là tòa án mà thành công sẽ đạt được hiệu quả đòi nợ hoặc một cơ quan nhà nước đặc biệt) để đòi tối ưu hơn cho các chủ nợ. Chính vì thế, luật nợ tập thể. Chính vì vậy, thủ tục phá sản có phá sản, đứng ở góc độ của doanh nghiệp bản chất là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. mắc nợ đã phát triển theo hướng là luật về Thủ tục phá sản là một thủ tục giải giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán quyết tình trạng mất khả năng thanh toán cho doanh nghiệp mắc nợ. Ban đầu, luật phá sản đặt mục tiêu đáp Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện ứng nhu cầu đòi nợ của các chủ nợ với chi đại, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh phí thấp nhất. Vì vậy thủ tục phá sản theo nghiệp, vai trò của doanh nghiệp đối với nền luật phá sản được xem như là một thủ tục kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt đòi nợ đặc biệt. Tương ứng với nó, xét ở động trong các ngành nghề kinh doanh đặc khía cạnh các chủ nợ thì đây cũng là cách biệt, sự chấm dứt hoạt động của các doanh thanh toán nợ đặc biệt. Tuy nhiên, trong quá nghiệp này gây ra những hậu quả lớn cho xã tìm kiếm giải pháp tối đa hóa giá trị tài sản hội. Luật phá sản hiện đại hướng có xu thế phá sản và tối ưu hóa khả năng thu hồi nợ vượt trội là hướng đến việc tái tổ chức các cho các chủ nợ, các cuộc đàm phán giữa chủ doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ và các con nợ đã diễn ra. Trong quá trình hơn là tuyên bố phá sản.Việc tuyên bố phá đó, vấn đề tối đa hóa giá trị kinh tế của các sản đối với các doanh nghiệp chỉ đặt ra khi tài sản phá sản đã được đặt ra như là một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán 34 Thomas H. Jackson (1982), Bankruptcy, Non-Bankruptcy Entitlement, and the Creditors’ Bargain, 91 Yale L. J. Trang 866-4 35 Robert Clark (1981), The Interdisciplinary Study of Legal Evolution, 90 Yale. L. J. 1238, p. 1250-1254. NGHIÏN CÛÁU Söë 24 (328) T12/2016 LÊÅP PHAÁP 43
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT thuộc vào trường hợp không thể thực hiện năng thanh toán, sự can thiệp của Nhà nước phục hồi hoặc đã tiến hành thủ tục phục hồi có thể bằng các biện pháp hành chính hoặc nhưng không thành công. Vì lý do này mà tư pháp chứ không nhất thiết chỉ bằng biện ngày nay, ở một số nước, luật phá sản đã pháp tư pháp, do vậy thủ tục phá sản không được đổi tên gọi thành Luật về giải quyết nhất thiết phải là biện pháp tư pháp. tình trạng mất khả năng thanh toán36. Ba là, đối với việc phá sản một số tổ Thực trạng của việc Luật Phá sản hiện chức kinh tế đặc biệt như các công ty chứng đang thực thi kém tại Việt Nam, có thể nói khoán, các tổ chức tài chính, ngân hàng thì cũng một phần do nhận thức chưa chính xác cần sự can thiệp bằng biện pháp hành chính về Luật Phá sản. Trong một cuộc khảo sát sớm để hạn chế những tác động xấu đến nền nhanh của chúng tôi nhận thức về phá sản kinh tế, ngăn chặn phá sản dây chuyền và được thực hiện đối với 300 sinh viên năm khủng hoảng hệ thống. Những biện pháp thứ nhất thuộc khóa 41 của Trường Đại học can thiệp sớm này được thực hiện bởi các cơ kinh tế TP. Hồ Chí Minh cho thấy, có đến quan quản lý nhà nước chuyên ngành với 77% sinh viên được khảo sát cho rằng doanh năng lực chuyên môn và kinh nghiệp xử lý nghiệp phá sản là doanh nghiệp có tài sản chuyên nghiệp là cần thiết và hiệu quả hơn không đủ để trả nợ và đến 96% sinh viên so với việc sử dụng biện pháp tư pháp. cho rằng thủ tục phá sản là thủ tục kết thúc Bốn là, tại Việt Nam, Luật Phá sản năm một doanh nghiệp. Điều này cho thấy nhận 2014 đã thừa nhận những biện pháp xử lý thức của người dân nói chung không coi phá hành chính trước khi xử lý tại tòa án thể hiện sản là một sự “hủy diệt có tính sáng tạo” mà rất rõ trong thủ tục phá sản các tổ chức tín đồng nghĩa phá sản với chấm dứt hoạt động dụng với việc ghi nhận thủ tục kiểm soát đặc của một doanh nghiệp. Pháp luật phá sản là biệt và các biện pháp được tiến hành trong thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng giai đoạn kiểm soát đặc biệt như cho vay đặc thanh toán với những sự ưu tiên phục hồi biệt; góp vốn, mua cổ phần bắt buộc; sáp doanh nghiệp đã được ghi nhận trong các nhập, hợp nhất;… đã góp phần xử lý hiệu văn bản pháp luật của Việt Nam - vẫn là điều quả tình trạng mất khả năng thanh toán của khá xa lạ đối với người dân. các tổ chức tín dụng trước khi đưa đến xử lý Do đó, theo chúng tôi, ngoài việc tăng tại tòa án. Chính vì thế, thủ tục phá sản các cường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức tổ chức tín dụng (nếu có) được thực hiện tại đúng và đầy đủ về phá sản và thủ tục phá tòa án chỉ là giai đoạn sau cùng của thủ tục sản, tên văn bản luật cần được sửa đổi thành giải quyết tình trạng mất khả năng thanh Luật Giải quyết tình trạng mất khả năng toán của các tổ chức kinh doanh đặc biệt thanh toán thay cho Luật Phá sản để tránh như tổ chức tín dụng. cái nhìn sai lệch về Luật Phá sản do giới hạn Năm là, đã đến lúc tên của đạo luật về ngôn ngữ gây ra những hiểu lầm không đáng phá sản ở Việt Nam nên được đổi tên là Luật có đối với đạo luật này. về Giải quyết tình trạng mất khả năng thanh 5. Kết luận toán (hoặc gọn hơn là Luật Mất khả năng Một là, về triết lý lập pháp về phá sản thanh toán - insolvency law) thay cho Luật hiện đại, cần nhìn nhận Luật Phá sản như là Phá sản như đã gọi lâu nay. thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng Sáu là, bổ sung dấu hiệu mất cân đối tài thanh toán, quá trình tiến hành thủ tục phá chính (các khoản nợ lớn hơn giá trị tài sản) sản chỉ có thể tiến hành khi doanh nghiệp như là một dấu hiệu rõ ràng không thể chối mất khả năng thanh toán. cãi của tình trạng mất khả năng thanh toán Hai là, cần có nhận thức đầy đủ rằng khi trong Luật Giải quyết tình trạng mất khả một doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán ■ 36 Ví dụ : Insolvency Act 1986 của Anh, Insolvency Act 2006 của New Zealand, Bankruptcy and Insolvency Act 1985 của Canada… NGHIÏN CÛÁU 44 LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Luật kinh tế - Chương 5: Phá sản doanh nghiệp
57 p | 451 | 64
-
Bài giảng Luật phá sản
28 p | 274 | 53
-
Bài giảng Luật Kinh tế (Economic Law) - Chương 8: Pháp luật về phá sản
54 p | 16 | 12
-
Bài giảng Luật Thương mại: Bài 2 - ThS. Hoàng Văn Thành
37 p | 82 | 9
-
Bài giảng Luật phá sản - Bài 1: Khái quát chung về phá sản
16 p | 23 | 6
-
Bài giảng Luật kinh tế 1 - Chương 6: Phá sản doanh nghiệp
17 p | 35 | 6
-
Bàn về tác động của thủ tục phá sản doanh nghiệp đối với hợp đồng khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
6 p | 33 | 4
-
Bài giảng Luật kinh tế: Chương 7 - Pháp luật về phá sản
11 p | 5 | 2
-
Bài giảng Pháp luật phá sản
28 p | 8 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Pháp luật kinh tế (Hệ đào tạo Đại học – Ngành: Tài chính - Ngân hàng) - Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
18 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn