Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
KHẢO SÁT ẢNH HƯỞNG CỦA THÀNH PHẦN CHẤT ĐÓNG RẮN<br />
VÀ TỈ LỆ NCO/OH ĐẾN ĐỘ TRONG SUỐT ĐIỆN TỪ CỦA LỚP<br />
PHỦ POLYURETHANE HAI THÀNH PHẦN<br />
Phạm Thanh Hải1*, Lê Văn Tâm1, Trần Phương Chiến1, Nguyễn Đình Chinh1,<br />
Phạm Hồng Thạch1 , Ngô Văn Hoành2<br />
Tóm tắt: Lớp phủ polyurethane đã được các nước trên thế giới nghiên cứu ứng<br />
dụng làm lớp phủ trong suốt điện từ. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có công trình<br />
nghiên cứu nào được công bố trong lĩnh vực này. Trong bài báo này, chúng tôi<br />
khảo sát ảnh hưởng của thành phần chất đóng rắn và tỉ lệ NCO/OH đến độ trong<br />
suốt điện từ của lớp phủ polyurethane hai thành phần. Kết quả cho thấy, độ trong<br />
suốt điện từ của thành phần chất đóng rắn và tỉ lệ NCO/OH đều ảnh hưởng đến độ<br />
trong suốt điện từ của lớp phủ. Khi thay đổi chất đóng rắn, độ trong suốt điện từ<br />
nhìn chung giảm dần theo thứ tự Desmodur N-3390 > Desmodur L-75 > Desmodur<br />
N-75. Khi thay đổi tỉ lệ NCO/OH từ 0,8 đến 1,2, các lớp phủ đóng rắn từ 3 loại trên<br />
đạt độ trong suốt điện từ cao nhất ở các tỉ lệ lần lượt là 1,2, 0,8 và 0,9. Kết quả này<br />
là cơ sở để nghiên cứu chế tạo lớp phủ trong suốt điện từ có tính năng tốt ứng dụng<br />
cho các khí tài quân sự.<br />
Từ khóa: Polyurethane; Sơn trong suốt điện từ; Tỉ lệ NCO/OH.<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Sơn trong suốt điện từ là loại sơn phủ chuyên dụng trong bảo quản anten của các thiết<br />
bị thu và phát sóng vô tuyến, ngoài khả năng bảo quản, sơn trong suốt điện từ còn phải ít<br />
ảnh hưởng đến chất lượng thu và phát sóng của thiết bị. Trong lĩnh vực quân sự, sơn trong<br />
suốt điện từ thường được dùng để sơn phủ các khí tài như: Các loại máy thu phát sóng vô<br />
tuyến, anten thu phát của ngòi nổ vô tuyến trên đầu đạn tên lửa, vòm che (randome) của<br />
radar, ... Đây là các khí tài rất quan trọng, đặc biệt là trong thời đại của chiến tranh công<br />
nghệ cao hiện nay, độ chính xác của các thiết bị này có ý nghĩa rất lớn trong tác chiến.<br />
Chính vì vậy quân đội các nước trên thế giới đã và đang tiến hành nghiên cứu phát triển<br />
các loại sơn trong suốt điện từ có tính năng tốt, ứng dụng trên các loại khí tài quân sự trên.<br />
Trên thế giới việc nghiên cứu chế tạo sơn trong suốt điện từ bắt đầu từ những năm 50<br />
của thế kỷ 20. Một số nước phát triển mạnh trong lĩnh vực này như Mỹ, Nga đã nghiên<br />
cứu chế tạo ra nhiều loại sơn cho các loại radome của radar mặt đất, trên không, trên biển,<br />
... Ở Mỹ, ban đầu họ sử dụng lớp phủ cao su neoprene, đến thập kỷ 60 bắt đầu sử dụng lớp<br />
phủ polyurethane và sau đó đã phát triển đến lớp phủ fluorocarbon. Nga cũng đã phát triển<br />
một số hệ sơn trên cơ sở cao su chứa chlorine, epoxy, ... Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã<br />
nghiên cứu chế tạo được sơn trong suốt điện từ để bảo vệ radome dựa trên cơ sở mô phỏng<br />
theo các hệ sơn của Mỹ và Nga [1-4].<br />
Ở nước ta các công trình nghiên cứu về sơn trong suốt điện từ còn ít. Năm 1996, tiến sĩ<br />
Phạm Huy Quỳnh thuộc Viện Kỹ thuật PK-KQ đã chế tạo ra hệ sơn Epoxy-Cardanol-<br />
Hexamine và được ứng dụng trên một số trang thiết bị quân sự [4]. Đề tài này đã chế tạo<br />
được hệ sơn với độ trong suốt điện từ khá cao và các tính năng cơ lý tốt. Tuy nhiên, loại<br />
sơn trên chỉ có độ trong suốt điện từ cao khi có độ dày thấp, nếu độ dày tăng lên 200 m<br />
thì độ trong suốt điện từ sẽ giảm xuống dưới 90%. Mặt khác, qua khảo sát thực tế tại một<br />
số đơn vị thuộc Quân chủng PK-KQ cho thấy, hiện nay các đơn vị đã không còn được<br />
cung cấp loại sơn chuyên dụng này để bảo quản các loại khí tài có thu và phát sóng vô<br />
tuyến. Khi lớp sơn phủ bảo vệ của các khí tài trên bị xuống cấp, việc khắc phục gặp rất<br />
nhiều khó khăn, bởi đa phần các khí tài của quân đội được nhập từ các nước phát triển, các<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 135<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
loại sơn chuyên dụng lại không được nhà sản xuất cung cấp. Vì vậy, việc tiếp tục tự chủ<br />
nghiên cứu chế tạo sơn trong suốt điện từ là hết sức cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao.<br />
Sơn polyurethane (PU) với nhiều tính năng ưu việt như độ trong suốt điện từ cao, độ<br />
bền thời tiết tốt, ... đã được các nước nghiên cứu ứng dụng làm sơn trong suốt điện từ [1-<br />
3]. Tuy nhiên ở nước ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào được công bố. Mặt<br />
khác, sơn PU có rất nhiều chủng loại, yếu tố ảnh hưởng đến tính năng của sơn rất đa dạng<br />
và phức tạp. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của 2 yếu tố quan<br />
trọng là thành phần chất đóng rắn và tỉ lệ NCO/OH đến độ trong suốt điện từ của lớp phủ<br />
PU hai thành phần. Từ đó làm tiền đề cho việc nghiên cứu chế tạo sơn trong suốt điện từ<br />
trên cơ sở polyurethane hai thành phần.<br />
2. THỰC NGHIỆM<br />
2.1. Hóa chất thí nghiệm<br />
Các hóa chất sử dụng trong thí nghiệm được liệt kê ở bảng 1:<br />
Bảng 1. Các hóa chất sử dụng để thí nghiệm.<br />
STT Tên hóa chất Xuất sứ Tính chất<br />
1 Desmophen A 160X Bayer - Đức + 60% trong xylene<br />
+ %OH=1,6±0,3<br />
+ %H2O < 0,1<br />
2 Desmodur L-75 Bayer - Đức + 75% trong EA<br />
+ %OH=13,3±0,4<br />
+ %HDI < 0,5<br />
3 Desmodur N-75 Bayer - Đức + 75% trong n-BA<br />
+ %OH=16,5±0,3<br />
+ %HDI < 0,38<br />
4 Desmodur N-3390 Bayer - Đức + 90% trong BA+SN tỉ lệ<br />
1:1<br />
+ %NCO=19,6 ±0,3<br />
+ %HDI ≤ 0,15<br />
5 Butyl Acetate Trung Quốc Độ tinh khiết: AR<br />
6 Xylene Trung Quốc Độ tinh khiết: AR<br />
7 Phụ gia hóa dẻo Trung Quốc Độ tinh khiết: AR<br />
2.2. Quy trình chế tạo mẫu<br />
Các mẫu lớp phủ được chế tạo tại phòng thí nghiệm Viện Nhiệt đới môi trường. Lớp<br />
phủ PU được tổng hợp từ hai thành phần: Thành phần 1 bao gồm nhựa acrylic polyol với<br />
tên thương mại là Desmophen A 160X của hãng Bayer, dung môi hỗn hợp Butyl Acetate<br />
và Xylene với tỉ lệ 1:1, phụ gia hóa dẻo. Thành phần 2 là chất đóng rắn polyisocyanate.<br />
Chúng tôi lựa chọn 3 loại chất đóng rắn có tên thương mại là Desmodur L-75, Desmodur<br />
N-75 và Desmodur N-3390. Cấu trúc của 3 loại chất đóng rắn trên như sau:<br />
NCO<br />
O H NCO<br />
CH2 O C N CH3 O H (CH2)n<br />
NCO C N CH2 NCO<br />
O H 6 O N O<br />
CH3 CH2 C CH2 O C N CH3 C C<br />
OCN CH2 N<br />
6 N N<br />
NCO<br />
O H C N CH2 NCO OCN (CH2)n C (CH 2)n NCO<br />
6<br />
CH2 O C N CH3<br />
O H O<br />
<br />
Desmodur L-75 Desmodur N-75 Desmodur N-3390<br />
Hình 1. Cấu trúc phân tử của 3 loại chất đóng rắn.<br />
<br />
<br />
136 P. T. Hải, …, N. V. Hoành, “Khảo sát ảnh hưởng … phủ polyurethane hai thành phần.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
Desmodur L-75 được tổng hợp từ Toluene Diisocyanate (TDI), đây là loại<br />
Diisocyanate có cấu trúc vòng benzen. Desmodur N-75 và N-3390 được tổng hợp từ<br />
Hexamethylene Diisocyanate (HDI), đây là loại Diisocyanate có cấu trúc mạch thẳng.<br />
Trong đó Desmodur N-3390 có cấu trúc đối xứng. Sự khác biệt về cấu trúc sẽ ảnh hưởng<br />
đến tính năng của lớp phủ.<br />
Quy trình chế tạo mẫu được thể hiện trong sơ đồ hình 2.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Sơ đồ quy trình tổng hợp lớp phủ PU hai thành phần.<br />
2.3. Phương pháp đo độ trong suốt điện từ<br />
Độ trong suốt điện từ được xác định dựa trên tiêu chuẩn TCQS 71:2016/VKHCNQS<br />
do Viện Ra đa - Viện KHCN QS ban hành. Thử nghiệm được tiến hành ở dải tần X (8-12<br />
GHz), trên máy phân tích mạng véc tơ N9918A của hãng Keysight Technologies tại Phòng<br />
thí nghiệm Radar - Viện Radar, với sơ đồ đo như hình 3.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Sơ đồ và hình ảnh thực tế của hệ đo độ trong suốt điện từ.<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 137<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Với 3 loại chất đóng rắn và 5 tỉ lệ NCO/OH (0,8-1,2), chúng tôi tổng hợp được 15 mẫu<br />
chất phủ khác nhau. Các mẫu chất phủ này được phủ lên tấm nền mica (nhựa Poly(methyl<br />
methacrylate)) trong suốt với kích thước 1001001,310 (dàirộngdày, mm). Độ trong<br />
suốt điện từ được đo ở dải tần X (8-12 GHz), sau đó tính giá trị trung bình. Độ trong suốt<br />
điện từ của mẫu lớp phủ bằng độ trong suốt điện từ của mẫu lớp phủ trên nền mica chia<br />
cho độ trong suốt điện từ của nền mica. Độ trong suốt điện từ của tấm nền mica là 94,16%.<br />
Kết quả đo độ dày, tổn hao điện từ và độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ được<br />
trình bày trong bảng 2.<br />
Độ trong suốt điện từ được tính từ tổn hao điện từ theo công thức:<br />
Δ = 10log = 10log( )<br />
Trong đó, Δ là tổn hao điện từ (số liệu thu được từ máy đo); P1, P2 lần lượt là công<br />
suất sóng điện từ truyền qua và công suất sóng điện từ tới, T là độ trong suốt điện từ.<br />
Mặt khác, theo [4] tổn hao điện từ và độ dày có mối liên hệ theo công thức:<br />
Δ=8,686.K.d<br />
Đối với mỗi loại vật liệu đồng nhất, K là hằng số, vì vậy tổn hao điện từ (Δ) phụ thuộc<br />
tuyến tính với độ dày (d) [4].<br />
Để có sự so sánh tương đồng, chúng tôi tính toán tổn hao điện từ và độ trong suốt điện<br />
từ của các mẫu lớp phủ với độ dày 200 m. Kết quả được thể hiện trong bảng 2.<br />
Bảng 2. Kết quả đo độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ.<br />
Mẫu Thành Tỉ lệ Độ Tổn Độ trong Tổn hao Độ trong<br />
phần NCO/OH dày hao suốt điện điện từ suốt điện<br />
chất (m) điện từ từ trung trung từ trung<br />
đóng trung bình (%) bình ở bình ở<br />
rắn bình 200 m 200 m<br />
(dB) (dB) (%)<br />
M1 0,8 170 -0,0365 99,16 -0,0429 99,02<br />
M2 0,9 161 -0,0594 98,64 -0,0738 98,32<br />
M3 N-3390 1,0 135 -0,2208 95,04 -0,3271 92,74<br />
M4 1,1 196 -0,1149 97,39 -0,1172 97,34<br />
M5 1,2 155 -0,0038 99,91 -0,0049 99,89<br />
M6 0,8 193 -0,0944 97,85 -0,0978 97,77<br />
M7 0,9 131 -0,0873 98,01 -0,1333 96,98<br />
M8 L-75 1,0 169 -0,1436 96,75 -0,1699 96,16<br />
M9 1,1 131 -0,0836 98,09 -0,1276 97,10<br />
M10 1,2 166 -0,1246 97,17 -0,1501 96,60<br />
M11 0,8 136 -0,1452 96,71 -0,2135 95,20<br />
M12 0,9 179 -0,1646 96,28 -0,1839 95,85<br />
M13 N-75 1,0 113 -0,2098 95,28 -0,3713 91,81<br />
M14 1,1 153 -0,1807 95,93 -0,2362 94,71<br />
M15 1,2 127 -0,2763 93,84 -0,4351 90,47<br />
Kết quả cho thấy độ trong suốt điện từ của các mẫu đều khá cao, mẫu thấp nhất đạt<br />
90,47% (mẫu M15), mẫu cao nhất đạt 99,89% (mẫu M5). Mặt khác, từ kết quả cũng có thể<br />
thấy được, thành phần chất đóng rắn và tỉ lệ NCO/OH đều ảnh hưởng đến độ trong suốt<br />
điện từ của lớp phủ.<br />
<br />
<br />
138 P. T. Hải, …, N. V. Hoành, “Khảo sát ảnh hưởng … phủ polyurethane hai thành phần.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
3.1. Ảnh hưởng của thành phần chất đóng rắn đến độ trong suốt điện từ của lớp phủ<br />
Chất đóng rắn là một trong hai thành phần chính của sơn PU hai thành phần. Nhiều<br />
nghiên cứu cho thấy thành phần chất đóng rắn ảnh hưởng đến tính năng của lớp phủ PU<br />
[5-6].<br />
Hình 4 so sánh độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ từ 3 loại chất đóng rắn với<br />
từng loại tỉ lệ NCO/OH.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4. Độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ.<br />
Từ hình 4 có thể thấy được, đối với hầu hết các tỉ lệ NCO/OH thì độ trong suốt điện từ<br />
của các mẫu lớp phủ giảm dần theo thứ tự N-3390>L-75>N-75. Chỉ duy nhất khi tỉ lệ<br />
NCO/OH=1 thì độ trong suốt điện từ của mẫu M3 (92,74%, chất đóng rắn là N-3390) lại<br />
nhỏ hơn độ trong suốt điện từ của mẫu M8 (96,16%, chất đóng rắn là L-75).<br />
Độ trong suốt điện từ của vật liệu phụ thuộc vào tính chất điện môi của vật liệu, mà cụ<br />
thể là hằng số điện môi và tổn hao điện môi của vật liệu càng nhỏ thì độ trong suốt điện từ<br />
càng cao. Hai chỉ số trên lại phụ thuộc vào cấu trúc của vật liệu. Vật liệu có độ phân cực<br />
và mật độ phân tử (độ sít chặt) càng nhỏ thì hằng số điện môi và tổn hao điện môi của vật<br />
liệu càng nhỏ [4,7-9].<br />
Độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ đóng rắn bằng N-3390 có độ trong suốt<br />
điện từ cao bởi phân tử N-3390 có cấu trúc đối xứng, từ đó dẫn đến độ phân cực của phân<br />
tử polymer sau khi đóng rắn thấp.<br />
3.2. Ảnh hưởng của tỉ lệ NCO/OH đến độ trong suốt điện từ của lớp phủ<br />
Hình 5 thể hiện sự thay đổi của độ trong suốt điện từ khi thay đổi tỉ lệ NCO/OH từ 0,8<br />
đến 1,2 đối với từng loại chất đóng rắn.<br />
Đối với các mẫu lớp phủ đóng rắn bằng N-3390, khi NCO/OH1 thì độ trong suốt<br />
điện từ tăng dần khi tỉ lệ NCO/OH tăng từ 1,0 đến 1,2, và độ trong suốt điện từ đạt giá trị<br />
cao nhất khi tỉ lệ NCO/OH=1,2 (99,89%, mẫu M5).<br />
Các mẫu lớp phủ đóng rắn bằng L-75 có độ trong suốt điện từ thay đổi không nhiều<br />
(96,16% - 97,77%) và đạt giá trị cao nhất khi tỉ lệ NCO/OH=0,8 (97,77%, mẫu M6)<br />
Độ trong suốt điện từ của mẫu lớp phủ đóng rắn bằng N-75 đạt giá trị cao nhất khi tỉ lệ<br />
NCO/OH=0,9 (95,85%, mẫu M12).<br />
Một đặc điểm đáng lưu ý khi thay đổi tỉ lệ NCO/OH đó là độ trong suốt điện từ của<br />
các mẫu lớp phủ ở tỉ lệ NCO/OH=1 khá thấp, đây có thể là do độ sít chặt của phân tử<br />
polymer ở tỉ lệ NCO/OH=1 khá cao, vì ở tỉ lệ này tất cả các nhóm chức -NCO và -OH<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 139<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
được phản ứng hoàn toàn với nhau. Mà khi độ sít chặt càng cao thì hằng số điện môi và<br />
tổn hao điện môi của vật liệu càng cao, độ trong suốt điện từ càng thấp [4,7-9].<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 5. Độ trong suốt điện từ của các mẫu lớp phủ.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
Đã chế tạo và khảo sát độ trong suốt điện từ của lớp phủ PU hai thành phần trên cơ sở<br />
nhựa polyacrylic polyol và ba loại chất đóng rắn khác nhau.<br />
Các mẫu lớp phủ đều có độ trong suốt điện từ khá cao. Thành phần chất đóng rắn và tỉ<br />
lệ NCO/OH đều ảnh hưởng đến độ trong suốt điện từ của lớp phủ PU hai thành phần.<br />
Khi thay đổi chất đóng rắn, độ trong suốt điện từ nhìn chung giảm dần theo thứ tự<br />
Desmodur N-3390 > Desmodur L-75 > Desmodur N-75.<br />
Khi thay đổi tỉ lệ NCO/OH từ 0,8 đến 1,2, các mẫu lớp phủ đóng rắn từ Desmodur N-<br />
3390, Desmodur L-75 và Desmodur N-75 đạt độ trong suốt điện từ cao nhất ở các tỉ lệ lần<br />
lượt là 1,2, 0,8 và 0,9.<br />
Mẫu lớp phủ đóng rắng bằng Desmodur N-3390 với tỉ lệ NCO/OH=1,2 đạt độ trong<br />
suốt điện từ cao nhất 99,89%.<br />
Các kết luận trên là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu chế tạo lớp phủ trong suốt điện từ có<br />
tính năng tốt ứng dụng cho các khí tài quân sự<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. J. F. Moraveck and P. W. Sherwood, New polyurethane coatings for radome<br />
applications, Proceedings of the 14th Symposium on Electromagnetic Windows,<br />
Georgia Institute of Technology, Atlanta (1978), pp. 147-152.<br />
[2]. MIL-C-83231A, Coating, Polyurethane, Rain Erosion Resistant For Exterior Aircraft<br />
And Missile Plastic Parts, (1981).<br />
[3]. L. D. Yang, et al, “The New Protective Coating System Applied Technology for<br />
Radome”, Modern Paint and Finishing, Vol. 18 (2015), pp. 18-22.<br />
[4]. Phạm Huy Quỳnh, “Nghiên cứu chế tạo sơn trong suốt điện từ trên cơ sở nhựa Epoxy<br />
- Cadanol - Hecxamin dùng trong bảo quản vũ khí trang bị quân sự”, Luận án tiến sĩ<br />
Viện KH-CN Quân sự (1996).<br />
[5]. Q. J. Zhou, “Study on Preparation and Performances of two-component elastic<br />
polyurethane coatings”, MSc thesis (2014).<br />
[6] S. Desai, et al, “Effect of polyols and diisocyanates on thermo-mechanical and<br />
morphological properties of polyurethanes”. European Polymer Journal, Vol. 36, No.<br />
4 (2000), pp. 711-725.<br />
<br />
<br />
140 P. T. Hải, …, N. V. Hoành, “Khảo sát ảnh hưởng … phủ polyurethane hai thành phần.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
[7]. Ahmad, Zulkifli, “Polymeric dielectric materials”, Dielectric Material (2012), pp. 3-26.<br />
[8]. Kozakoff, J. Dennis, “Analysis of radome-enclosed antennas”, Artech House (2010).<br />
[9]. H. S. Lee, et al, “Low dielectric materials for microelectronics”, INTECH Open<br />
Access Publisher (2012).<br />
ABSTRACT<br />
EFFECT OF CURING AGENT AND NCO/OH RATIO<br />
ON THE ELECTROMAGNETIC TRANSMITTANCE<br />
OF TWO-COMPONENT POLYURETHANE COATING<br />
Polyurethane coatings have been studied and used as the electromagnetic<br />
transparent coating in the world. However, there are no publications in this area in<br />
Vietnam. In this paper, we investigated the effect of curing agent and NCO/OH ratio<br />
on the electromagnetic transmittance of two-component polyurethane coating. The<br />
results show that the curing agent and NCO/OH ratio both affect the<br />
electromagnetic transmittance of the coating. When changing curing agent,<br />
electromagnetic transmittance generally decreases in Desmodur N-3390><br />
Desmodur L-75> Desmodur N-75. When changing the NCO/OH ratio from 0.8 to<br />
1.2, the coating samples of above three curing agent types achieved the highest<br />
electromagnetic transmittance at the rates of 1.2, 0.8, and 0.9 respectively. These<br />
results make the basis on preparing good-quality electromagnetic transparent<br />
coatings for military application.<br />
Keywords: Polyurethane; Electromagnetic transparent coating; NCO/OH ratio.<br />
<br />
Nhận bài ngày 01 tháng 5 năm 2018<br />
Hoàn thiện ngày 09 tháng 7 năm 2018<br />
Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 02 năm 2019<br />
1<br />
Địa chỉ: Viện Nhiệt đới môi trường;<br />
2<br />
Viện Hóa học Vật liệu.<br />
*<br />
Email: thanhhaipham.vn@gmail.com.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 59, 02 - 2019 141<br />