Khảo sát kết cục và một số yếu tố liên quan của các thai phụ muốn sanh mổ tại khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
lượt xem 2
download
Bài viết trình bày xác định một số yếu tố liên quan, các nguyên nhân và kết cục thai kỳ ở thai phụ muốn sanh mổ. Đối tượng nghiên cứu: Phỏng vấn ngẫu nhiên 225 thai phụ, đi khám thai định kỳ, có tuổi thai > = 37 tuần, không kèm bệnh lý nội khoa và không có chỉ định mổ lấy thai (từ 01/02/2020 đến 31/07/2020).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khảo sát kết cục và một số yếu tố liên quan của các thai phụ muốn sanh mổ tại khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 KHẢO SÁT KẾT CỤC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA CÁC THAI PHỤ MUỐN SANH MỔ TẠI KHOA PHỤ SẢN BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG Phạm Phước Vinh, Nguyễn Thị Bích Liên, Trương Ngọc Tú Trinh, Lê Tuấn Trung TÓM TẮT: Mục tiêu: xác định một số yếu tố liên quan, các nguyên nhân và kết cục thai kỳ ở thai phụ muốn sanh mổ. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Địa điểm: Phòng khám thai - Khoa Phụ Sản, Bệnh Viện ĐKKV tỉnh An Giang. Đối tượng nghiên cứu: Phỏng vấn ngẫu nhiên 225 thai phụ, đi khám thai định kỳ, có tuổi thai > = 37 tuần, không kèm bệnh lý nội khoa và không có chỉ định mổ lấy thai (từ 01/02/2020 đến 31/07/2020). Kết quả: Nghiên cứu trên 225 thai phụ thì có đến 40 thai phụ mong muốn mổ lấy thai, trong đó có đến 38 thai phụ kết thúc thai kỳ bằng phương pháp mổ lấy thai, chiếm 95%. Phần lớn tập trung ở các sản phụ từ 16 đến 35 tuổi (76%), nội trợ (38%), trải đều ở nông thôn và thành thị, về tôn giáo và dân tộc chưa ghi nhận có ý nghĩa thống kê. Nguyên nhân mong muốn mổ lấy thai sợ đau đẻ chiếm tỷ lệ cao nhất, đến 50%, các nguyên nhân còn lại bao gồm an toàn cho mẹ và bé (27%), chọn theo mong muốn của người thân (13%), chọn ngày giờ tốt (2%), và sợ tổn thương âm đạo khi sinh (2%). Từ khóa: Sanh mổ, Khoa Phụ Sản BVĐKKVTAG. ĐẶT VẤN ĐỀ: Tỉ lệ mổ lấy thai đang ngày một gia tăng trên khắp thế giới trong vài thập kỷ qua ở cả nước đã và đang phát triển [2,3,4]. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo rằng tỷ lệ mổ lấy thai không được cao hơn 10% - 15 % [3] . Khi tỷ lệ này cao hơn 15 % có một số nghiên cứu cho thấy hậu quả của nó hại nhiều hơn lợi [5]. Hiện tại không có một vùng nào trên thế giới có tỉ lệ mổ lấy thai dưới 15% (Sara et all, Study in family planning 2007). Ở Việt Nam, hiện tỷ lệ mổ lấy thai tăng gấp 2,5 lần so với tỷ lệ trung bình do tổ chức y tế thế giới đưa ra [1]. Một trong những lý do làm tăng tỉ lệ sanh mổ ở nước ta hiện nay là do sanh mổ theo yêu cầu . Thực tế này đang làm đau đầu các bác sỹ sản khoa. Bác sỹ Nguyễn Mạnh Hoan, Trưởng Khoa sản Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai cho biết: từ đầu năm 2012 đến nay, trong hơn 50% số ca sinh mổ tại bệnh viện, chỉ 15% là do bệnh viện chỉ định, số còn lại là do yêu cầu từ phía gia đình. Tại Khoa Sản, BV Phụ sản – Nhi Đà Nẵng, 25- 30% số sản phụ sanh mổ là do người nhà yêu cầu.Mổ lấy thai không phải là cách đẻ an toàn nhất. Đó là lời khẳng định của nhiều bác sĩ sản khoa. GS-TS Vũ Thị Nhung: thực tế cho thấy, tỉ lệ tử vong mẹ và tử vong chu sinh ở các ca mổ lấy thai cao hơn so với các ca sanh thường [1]. Tỉ lệ tử vong mẹ tăng gấp 4 lần nếu mổ lấy thai so với sanh thường; ngay cả mổ chủ động, tỉ lệ tử vong mẹ cũng tăng 2,84 lần so với sinh thường. Đối với trẻ, mổ lấy thai chủ động không qua chuyển dạ thì nguy cơ hội chứng suy hô Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 236
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 hấp cấp cao gấp 2,6 lần, có chuyển dạ rồi mới mổ lấy thai nguy cơ này cao gấp 1,9 lần so với sinh thường; trong khi hội chứng suy hô hấp cấp và sanh non là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra, trẻ sanh mổ còn bị suy giảm khả năng miễn dịch hơn trẻ sinh thường. Tại Khoa Phụ Sản Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang, tỉ lệ mổ lấy thai năm 2017 là 43,04%; năm 2018 là 44,91% và năm 2019 là 47,30%. Mặc dù không được phép mổ lấy thai theo yêu cầu, nhưng các BS khoa Phụ Sản hiện đang chịu rất nhiều áp lực từ các thai phụ yêu cầu được mổ lấy thai mà không có chỉ định sản khoa rõ ràng, đôi khi họ cũng phải nhượng bộ vì sợ thưa kiện, nhất là gần đây xảy ra một số trường hợp tai biến trong khi sinh khiến người mẹ tử vong, gây bức xúc nhiều trong xã hội, tạo áp lực không nhỏ cho cả sản phụ và nhân viên y tế. Mặt khác, khi thai phụ muốn mổ lấy thai mà không được BS đồng ý, thường họ sẽ có thái độ không hợp tác lúc rặn đẻ làm tăng tỉ lệ mổ lấy thai vì lý do “ rặn không chuyển”. Vì vậy, việc tìm hiểu các yếu tố có liên quan cũng như các nguyên nhân thai phụ muốn sanh mổ là điều cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu: xác định các yếu tố có liên quan, các nguyên nhân và kết cục thai kỳ ở thai phụ muốn sanh mổ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích. Địa điểm nghiên cứu: Phòng Khám thai - Khoa Phụ Sản, Bệnh Viện Đa Khoa khu vực tỉnh An Giang. Thời gian: 01/02/2020 đến 01/08/2020 Đối tượng tham gia: Tiêu chuẩn chọn mẫu: thai phụ đến khám tại phòng khám thai Khoa Phụ Sản BV ĐKKVT AG, chưa sinh lần nào, thai > = 37 tuần, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: - Thai phụ có bệnh lý nội khoa: tim, phổi, hen, suyễn, bướu cổ, suy thận, đái tháo đường - Thai kỳ có chỉ định: vết mổ cũ nhau tiền đạo, khung chậu hẹp, ngôi ngang, ngôi mông, đa thai, cạn ối, thiểu ối, thai to, con quí (điều trị vô sinh, hư thai nhiều lần)… KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Trong 225 thai phụ tham gia vào nghiên cứu, có 40 thai phụ muốn mổ lấy thai (chiếm tỷ lệ 17,8%). Gần 17 % thai phụ tham gia nghiên cứu muốn mổ lấy thai, thực sự đây là một tỉ lệ khá cao, tương đương bệnh viện sản Nhi An Giang khoảng 18.8%. [1] Bởi vì khoa chúng tôi không được phép mổ lấy thai theo yêu cầu nên qua tìm hiểu chúng tôi ghi nhận: Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 237
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu: Nhóm mong muốn Nhóm mong muốn Đặc điểm sanh thường mổ lấy thai p chung Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Tuổi: 0.00043 - 35 36 20% 5 12% Nghề nghiệp: 0.002 - Nông dân 55 30% 8 20% - Công nhân 25 14% 7 18% - Công nhân 10 5% 3 8% viên - Buôn bán 11 6% 6 15% - Nội trợ 63 34% 15 38% - Khác 21 11% 1 1% Nơi sinh sống: 0.001 -Nông thôn 105 57% 22 55% -Thành thị 80 43% 18 45% Tôn giáo: 0.015 -Có 145 78% 32 80% -Không 40 22% 8 20% Dân tộc: 0.002 -Kinh 165 89% 38 95% -Thiểu số 20 11% 2 5% Kinh tế gia 0.0015 đình: - Hộ nghèo, 85 46% 18 45% cận nghèo 100 54% 22 55% -Khác Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 238
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Trong nghiên cứu của chúng tôi lứa tuổi mong muốn mổ lấy thai nhiều nhất là ở độ tuổi từ 16 đến 35 tuổi chiếm 76%. So sánh với các nghiên cứu khác như: Nghiên cứu Nigeria, tuổi của người mẹ khi mang thai lần đầu tiên là lý do phổ biến nhất cho yêu cầu sinh mổ [13]. Nghiên cứu ở Santiago - Chile (2006), 180 phụ nữ mang thai, tuổi trung bình ở nhóm mong muốn mổ lấy thai là 31,6 so với 28,4 ở nhóm mong muốn sanh ngã âm đạo ( p=0,05)[11]. Nghiên cứu Đài Loan (2010) các yếu tố có liên quan đến sở thích sanh mổ của phụ nữ mang thai gồm: lớn tuổi ( > 35 tuổi), có vấn đề về sức khỏe, có tiền sử mố lấy thai trước đó[5].Những thai phụ > 35 tuổi, mong muốn mổ nhiều hơn những thai phụ < 16 tuổi. Những người phụ nữ lớn tuổi khi sanh con thường có rất nhiều lo lắng: không có đủ sức để rặn sanh, không đủ sức để chịu đựng cuộc chuyển dạ, cơ hội có thai sanh con thấp nên muốn chọn mổ lấy thai đảm bảo tính an toàn cho cả mẹ và con. Về nghề nghiệp, những phụ nữ nội trợ mong muốn mổ lấy thai chỉ chiếm cao nhất tỷ lệ 38 %. Liên quan đến yếu tố nghề nghiệp, những phụ nữ phải làm những việc nặng nhọc như buôn bán, nông dân, công nhân, muốn mổ lấy thai ít hơn vì sợ sức khỏe suy giảm sau cuộc phẫu thuật sẽ ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của họ. Một lý do khác có thể lý giải cho điều này, theo kinh nghiệm ông bà để lại, những phụ nữ đi đứng nhiều trong lúc mang thai sẽ sanh đẻ dễ dàng. Có lẽ vì vậy mà những thai phụ thuộc nhóm nghề này ít chọn mổ lấy thai. Những thai phụ ở nông thôn và thành thị mong muốn mổ lấy thai sấp sỉ nhau, trong nghiên cứu của chúng tôi. Một nghiên cứu trên 1156 thai phụ ở Osasco - Brazil (2001) vào tuần thứ 28 của thai kỳ: những thai phụ ở thành thị mong muốn mổ lấy thai nhiều hơn (OR = 3,4 ; KTC 95%: 1,4 – 8,3 ; p=0.006) [7].Có sự khác biệt này có lẽ do cở mẩu và thời gian nghiên cứu của chúng tôi ít hơn nhiều so với nghiên cứu bạn. Một vấn đề rất phổ biến hiện nay ở nước ta là tình trạng muốn mổ lấy thai để chủ động chọn ngày, giờ tốt. Đây thuộc về yếu tố tâm linh, nhất là những người theo đạo Phật hay dân tộc Chăm (đạo Hồi), thường xem trọng tử vi, số mệnh. Châu Đốc nói riêng An Giang nói chung là nơi có dân tộc và tôn giáo đa dạng. Trong 225 thai phụ tham gia nghiên cứu, các thai phụ mong muốn mổ lấy thai có tôn giáo chiếm 80% và dân tộc Kinh chiếm 95%. Không tìm thấy bài báo cáo nào trên thế giới nói về ảnh hưởng của tôn giáo, dân tộc đến sở thích mổ lấy thai của phụ nữ mang thai. Về kinh tế, đánh giá của chúng tôi dựa trên bảo hiểm y tế. Có thể vì giá viện phí cho cuộc mổ lấy thai ở bệnh viện chúng tôi hiện tại không cao, và số thai phụ có bảo hiểm y tế chiếm khoảng 90 %, do đó tình trạng thu nhập thấp hay cao không liên quan đến việc thai phụ có thích mổ lấy thai hay không. 2. Mong muốn và kết cục: Trong các sản phụ mong muốn mổ lấy thai: có 2 thai phụ sanh thường (chiếm tỷ lệ 5%), 38 thai phụ mổ lấy thai (chiếm tỷ lệ 95%). 3. Lý do mong muốn mổ lấy thai: Lý do Số lượng Tỷ lệ P An toàn cho mẹ và 11 27% 0.015 bé Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 239
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Sợ đau đẻ 20 50% Mong muốn của 5 13% người thân Chọn ngày giờ 2 5% Sợ tổn thương âm 2 5% đạo khi sanh Những thai phụ mong muốn mổ lấy thai hầu hết kết cục của họ đều là mổ lấy thai (chiếm 95%), tâm lý phủ nhận sanh ngã âm đạo dường như đã khẳng định được họ sẽ mổ lấy thai. Có nhiều nguyên nhân khiến thai phụ chọn mổ lấy thai. Phỏng vấn 40 thai phụ muốn mổ lấy thai, các nguyên nhân tìm thấy: an toàn cho mẹ và bé (27%), sợ đau đẻ (50%), chọn theo mong muốn của người thân (13%), chọn ngày giờ tốt (2%), sợ tổn thương âm đạo khi sinh (2%). Đa số các báo cáo trên thế giới cho thấy, phụ nữ mang thai chọn mổ lấy thai vì cảm thấy sợ hãi khi sanh con ngã âm đạo, sợ đau và nghĩ rằng trẻ sanh mổ tốt hơn. Điều này cần được các bác sĩ sản khoa và các nữ hộ sinh quan tâm trong chăm sóc tiền sản. Thông tin và tư vấn nên được thường xuyên và toàn diện khi một thai phụ đề cập đến mổ lấy thai mà không có chỉ định sản khoa. Cần giúp cho thai phụ hiểu rằng, chọn mổ lấy thai để có một đứa con khỏe mạnh và bản thân không phải bị đau đẻ là một quan niệm sai lầm. Khi mổ lấy thai họ sẽ mang một vết mổ trên thành bụng và trên tử cung và chúng sẽ gây đau trong 24 giờ đầu không kém gì đau sanh thường. Và thực tế những đứa trẻ ssnh mổ gặp rất nhiều nguy cơ so với trẻ ssnh thường. Trước đây, không có tài liệu ghi nhận về sự khác biệt rõ ràng giữa trẻ ssnh thường và ssnh mổ. Tuy nhiên, nguyên cứu gần đây ở Phần Lan cho thấy các phản ứng bảo vệ miễn dịch của trẻ ssnh mổ không nhanh nhạy và hiệu quả bằng ở những trẻ ssnh thường. Trẻ sanh mổ dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn và dị ứng hơn trẻ sanh thường. Ngoài ra,trẻ sanh mổ còn dễ bị phát sinh hội chứng suy hô hấp hơn. Nguyên nhân là do việc ssnh thường sẽ thúc đẩy nang phổi mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hô hấp tự động của thai nhi sau khi sinh ra. Trẻ được ssnh ra bằng thủ thuật mổ lấy thai không qua giai đoạn chuyển dạ có nguy cơ gặp các rắc rối về đường hô hấp cao gần gấp 4 lần so với trẻ được sinh thường. Đây là kết luận của các nhà khoa học thuộc ĐH Aarhus (Đan Mạch) sau khi khảo sát trên 34.000 trẻ chào đời ở tuần thai 37- 41[12]. Các nhà chuyên môn khuyến cáo, chuyển dạ và sinh con theo cách tự nhiên là phương pháp tốt nhất cho sức khoẻ của sản phụ và đứa trẻ. Sản phụ chỉ nên mổ lấy thai trong những trường hợp do bác sĩ chuyên khoa chỉ định [8]. Và tâm lý mong muốn mổ lấy thai sẽ dẩn đến kết cục là mổ lấy thai. Vì thế vấn đề tư vấn cũng như trấn an những lo lắng trong cuộc chuyển dạ đến những thai phụ này là cực kỳ cần thiết trong quá trình quản lý thai cũng như khi chuyển dạ. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận: Từ tháng 2 đến tháng 8, nghiên cứu trên 225 thai phụ thì có đến 40 thai phụ mong muốn mổ lấy thai, trong đó có đến 38 thai phụ kết thúc thai kỳ bằng phương pháp mổ lấy thai, chiếm 95%. Phần lớn tập trung ở các sản phụ từ 16 đến 35 tuổi (76%), nội trợ (38%), trải đều ở nông thôn và thành thị, về tôn giáo và dân tộc chưa ghi nhận có ý nghĩa thống kê. Nguyên nhân mong muốn mổ lấy thai sợ đau đẻ chiếm Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 240
- Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 tỷ lệ cao nhất, đến 50%, các nguyên nhân còn lại bao gồm an toàn cho mẹ và bé (27%), chọn theo mong muốn của người thân (13%), chọn ngày giờ tốt (2%), và sợ tổn thương âm đạo khi sinh (2%). Hạn chế đề tài: Chúng tôi chưa đi sâu khai thác hoàn cảnh sống của các thai phụ: sống riêng hay sống chung gia đình, gia đình hay bạn bè có ai trãi qua một cuộc sanh mà kết quả không tốt hay không vì điều này tác động rất lớn đến quyết định chọn phương thức sanh của thai phụ. Không khai thác nguyên nhân nhóm thai phụ không chọn mổ lấy thai để so sánh. Chưa có tác động đến các sản phụ tư tưởng mổ lấy thai để có sự đối chiếu về kết quả thay đổi tâm lý ở họ. Kiến nghị: - Tăng cường công tác tiền sản, đặc biệt là đối với các thai phụ có tâm lý mong muốn mổ lấy thai - Cần nhiều nghiên cứu nhiều hơn các phương pháp tác động để giảm thiểu tình trạng mổ lấy thai, đặc biệt cần triển khai sanh không đau để giúp các thai phụ vược qua được nổi sợ hãi đau đẻ. - Nữ hộ sinh nắm được vai trò của mình để luôn là người bạn đồng hành tuyệt vời trong cuộc vượt cạn với các thai phụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sanh mổ-thực trạng và các yếu tố liên quan. (TS-BS-Huỳnh Thị Thu thủy, Phó GĐ – BV Từ Dũ) 2. Sandmire HF. A guest editorial: every obstetric department should have a caesarean birth monitor. Obstetrical and gynecological survey 1996;51:703-704. 3. Martin JA, Hamilton BE, Ventura SJ, Menacker F, Park M, Sutton PD. Births: final data for 2001. National Vital Statistics Reports 2002;51:1-102. 4. Notzon FC. International differences in the use of obstetric interventions. JAMA 1990; 263:3286- 3291. 5. Department of Health Management and Health Economics, University of Oslo, Oslo, Norway (2011). 6. Attitudes of Singapore women for vaginal and cesarean deliveries. 7. Research on women's priorities concerning delivery method. [Article in Bulgarian]. Dimitrov A, Tsankova M, Krusteva K, Nikolov A. 8. Risks and complications for the mother. 9. Caesarean section - what to know. Karlstrom A, Nystedt A, Johansson M, Hildingsson I. 10. Between Swedish research and development center, Västernorrland County Council, SE- 851 86 Sundsvall, Sweden. annika.karlstrom @ miun.se – 2011, Chigbu CO, Ezeome IV, Iloabachie GC.Department of Obstetrics and Gynecology, University Hospital Teaching Nigeria, Enugu, Nigeria. 11. To study factors related to preference for cesarean delivery, among pregnant women without medical complications. 12. What characterizes women in Norway who wish to have a caesarean section? Kringeland T, Daltveit AK, Møller A. Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 241
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
PHƯƠNG PHÁP CHUẨN ĐỘ ĐO AMPE
4 p | 281 | 19
-
Nghiên cứu tỷ lệ suy yếu và một số yếu tố liên quan ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
8 p | 13 | 6
-
Ẩn họa từ thực phẩm ăn sẵn
5 p | 72 | 5
-
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả xử trí ở sản phụ mang thai đa ối ba tháng cuối
7 p | 30 | 4
-
Kết quả khảo sát ngừng tuần hoàn ngoại viện không do chấn thương tại bốn bệnh viện ở Hà Nội theo mẫu Utstein
8 p | 43 | 4
-
Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và kết cục thai kỳ tại Bệnh viện Chuyên khoa Sản Nhi Sóc Trăng
7 p | 10 | 3
-
Khảo sát tình trạng hội chứng dễ bị tổn thương và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại khoa Lão khoa Bệnh viện E
10 p | 6 | 3
-
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, một số yếu tố khởi phát và kết quả điều trị của bệnh nhân đau đầu dạng căng thẳng tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ
7 p | 6 | 3
-
Báo cáo một trường hợp u cơ trơn nguyên phát ở thận và hồi cứu y văn
5 p | 38 | 2
-
Tiên lượng tử vong và kết cục chức năng thần kinh ở bệnh nhân hôn mê bằng thang điểm INCNS
7 p | 6 | 2
-
Khảo sát tình hình bệnh nhân và kết quả một số hoạt động chuyên môn tại đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực tim mạch, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai năm 2021
7 p | 11 | 2
-
Đặc điểm tăng huyết áp thai kỳ và mối liên quan đến kết cục thai kỳ của bà mẹ người dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh
5 p | 34 | 2
-
Mối liên hệ giữa nồng độ magie máu và kết cục lâm sàng ở bệnh nhân điều trị tại ICU
9 p | 36 | 2
-
Đặc điểm và kết cục lâm sàng nội viện bệnh nhân ≥70 tuổi nhồi máu cơ tim ST chênh lên có can thiệp mạch vành tiên phát
7 p | 8 | 1
-
Khảo sát tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến hạ tiểu cầu máu ở bệnh nhân điều trị tại khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa khu vực An Giang
8 p | 15 | 1
-
Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhi suy thận mạn được điều trị bằng phương pháp thay thế thận tại Bệnh viện Nhi Đồng 2
7 p | 6 | 1
-
Tụt huyết áp sau đặt nội khí quản ở bệnh nhân hồi sức tích cực
5 p | 19 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn