intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khảo sát mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và vùng quanh gai giữa Glôcôm góc mở nguyên phát và Glôcôm giả tróc bao

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Khảo sát mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và vùng quanh gai giữa Glôcôm góc mở nguyên phát và Glôcôm giả tróc bao trình bày đánh giá mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và quanh gai thị (mVD và pVD) bằng máy chụp cắt lớp cố kết quang học mạch máu (OCTA) ở bệnh nhân glôcôm giả tróc bao (PXG) và bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khảo sát mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và vùng quanh gai giữa Glôcôm góc mở nguyên phát và Glôcôm giả tróc bao

  1. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 Nghiên cứu Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch Khảo sát mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và vùng quanh gai giữa Glôcôm góc mở nguyên phát và Glôcôm giả tróc bao Đoàn Kim Thành1, Bùi Lê Đan Thanh1 1 Bộ môn Mắt, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá mật độ mạch máu vùng hoàng điểm và quanh gai thị (mVD và pVD) bằng máy chụp cắt lớp cố kết quang học mạch máu (OCTA) ở bệnh nhân glôcôm giả tróc bao (PXG) và bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát (POAG). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích với 61 mắt (40 bệnh nhân), 28 mắt PXG, 33 mắt POAG được chụp OCTA đánh giá mật độ mạch máu vùng hoàng điểm (mVD) quét khối 3*3 mm và mật độ mạch máu quanh gai (pVD) quét khối 4,5*4,5 mm. Bề dày lớp sợi thần kinh võng mạc quanh gai (pRNFL) và bề dày phức hợp tế bào hạch (GCC) được đánh giá bằng máy Spectral domain - OCT. Tương quan giữa các chỉ số mạch máu, cấu trúc và chỉ số trên thị trường Humphrey được kiểm định bằng hệ số tương quan Pearson. Kết quả: Chỉ số mật độ mạch máu vùng hoàng điểm (mVD) trung bình ở mắt glôcôm giả tróc bao thấp hơn mắt glôcôm góc mở nguyên phát (24,37% so với 28,34% với p < 0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số mật độ mạch máu quanh gai ở nhóm PXG và nhóm POAG (42,62% so với 41,05% với p > 0,05). Mật độ mạch máu vùng hoàng điểm có mối tương quan mức độ trung bình có ý nghĩa thống kê với các chỉ số cấu trúc (RNFL, GCC) (r = 0,52 và 0,49, p < 0,01). Trong khi đó mật độ mạch máu quanh gai có tương quan với chỉ số MD trên thị trường (r = 0,55; p < 0,001). Kết luận: OCTA cho thấy tưới máu vùng hoàng điểm ở bệnh nhân PXG giảm so với bệnh nhân POAG (24,37% so với 28,34% với p < 0,05) giúp chứng minh cơ chế tổn thương mạch máu gây suy giảm tưới máu mô sợi thần kinh võng mạch trong cơ chế bệnh sinh của PXG có sự khác biệt so với glôcôm góc mở đơn thuần. Từ khóa: Glôcôm giả tróc bao, máy chụp cắt lớp cố kết quang học mạch máu, glôcôm góc mở nguyên phát, mật độ mạch máu quanh gai, mật độ mạch máu vùng hoàng điểm. Abstract Ngày nhận bài: Evaluation of the macular and optic nerve head vessel density 20/11/2022 in the patients with primary open - angle glaucoma and Ngày phản biện: pseudoexfoliation glaucoma: an oct angiography study 20/12/2022 Ngày đăng bài: Purpose: The purpose of this study was to explore macula vessel density 20/01/2023 (mVD) and peripapillary vessel density (pVD) parameters in exfoliation Tác giả liên hệ: Đoàn Kim Thành glaucoma (PXG) compared to primary open - angle glaucoma (POAG) using Email: dkthanh1605@ optical coherence tomography angiography (OCTA). gmail.com Methods: This was a cross - sectional observational study. Twenty - eight ĐT: 0919239204 PXG and 33 POAG patients with comparable visual field defects on Humphrey 115
  2. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 24 - 2 were recruited. Macular superficial vessel density (msVD) in the superficial macular layer was assessed with (3*3 mm) and and peripapillary vessel density (ppVD) with (4.5*4.5 mm) OCTA scans. Area under the receiver operating curve was used for assessing diagnostic capability. Results: In PXG group, all msVD parameters had lesser values, and especially in parafoveal region, statistically significant decrease was shown in all subdivisions except temporal (p = 0.056). In the peripapillary region, none of the ppVD differed between groups. The msVD in PXG eyes significantly correlated with GCC and RNFL thickness, whereas visual field MD affected ppVD in PXG. Conclusions: OCT-A manifests reduced macular perfusion in PXG patients compared with POAG patients (24.37% vs 28.34% with p < 0.05) helping to demonstrate the mechanism of impaired vascular injury The perfusion of retinal nerve fiber tissue in the pathogenesis of PXG is different from that of open - angle glaucoma alone. Keywords: OCT - angiography; Pseudo - exfoliation glaucoma; Open - angleglaucoma; Optical coherence tomography angiography; macular vessel density; peripapillary vessel density 1. ĐẶT VẤN ĐỀ lượng độ nặng và lập kế hoạch theo dõi điều trị Bệnh glôcôm là một bệnh lý của thần kinh phù hợp cho bệnh nhân PXG. Đồng thời giúp thị đặc trưng bởi tổn thương tiến triển của thị đánh giá khả năng của OCTA trong vai trò một trường và của các tế bào hạch võng mạc. Rối xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán độ nặng, loạn chức năng mạch máu là một trong những theo dõi điều trị và tiên lượng PXG. yếu tố quan trọng bên cạnh sự gia tăng nhãn áp (IOP), vốn được coi là yếu tố nguy cơ quan 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN trọng nhất trong quá trình tiến triển của bệnh CỨU glôcôm [3]. Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả có Hội chứng giả tróc bao cũng được báo cáo phân tích được thực hiện từ tháng 04/2022 đến là có liên quan với các tổn thương mạch máu tháng 08/2022, khảo sát 61 mắt (28 mắt PXG và trong các bệnh lý toàn thân [1] gợi ý rằng: hội 33 mắt POAG) của 40 bệnh nhân, thỏa các tiêu chứng giả tróc bao gây ra bệnh lý glôcôm giả chuẩn chọn mẫu tại Bệnh viện Mắt TPHCM. tróc bao (PXG) có liên quan đến các tình trạng Trong đó, 21 bệnh nhân được khảo sát 2 mắt và mạch máu toàn thân và mạch máu ở mắt dẫn 19 bệnh nhân được khảo sát 1 mắt do mắt còn tới tiên lượng xấu hơn của PXG so với POAG lại không thoả tiêu chuẩn chọn mẫu. [2, 6]. Tiêu chuẩn chọn vào: Một số nghiên cứu đã sử dụng OCTA để Bệnh nhân PXG: Quan sát thấy vật liệu giả đánh giá và phát hiện sự giảm mật độ vi mạch tróc bao ở bao trước thể thủy tinh hoặc bờ đồng quanh gai ở mắt PXG so với mắt bình thường tử hoặc cả hai trên thăm khám bằng đèn khe [12] cũng như so sánh giữa PXG và POAG [7, nhỏ dãn đồng tử. Tổn thương đĩa thị, viền thần 9, 13], tuy nhiên nghiên cứu về mật độ vi mạch kinh thị dạng glôcôm. Tổn thương chiều dày vùng hoàng điểm chưa được quan tâm nhiều. lớp sợi thần kinh. Tổn thương thị trường dạng Mục đích của các nghiên cứu này là xác định glôcôm (PSD < 5% và GHT ngoài giới hạn bình các đặc tính vi mạch ở vùng quanh gai và hoàng thường). Bệnh nhân PXG được phân loại theo điểm giữa mắt POAG và PXG, phân tích mối thang đo Hoddap - Anderson - Parrish [4]. tương quan giữa các đặc điểm chức năng, cấu Bệnh nhân POAG được chọn vào với tiêu trúc và mạch máu. Nhằm tìm mối tương quan chuẩn tương tự và không kèm quan sát trên giữa tổn thương mạch máu, giải phẫu và chức khám lâm sàng thấy vật liệu giả tróc bao ở bao năng giải thích cho diễn tiến tự nhiên nhanh và trước thể thủy tinh hoặc bờ đồng tử khi thăm nặng hơn của PXG so với POAG. Từ đó tiên khám bằng slitlamp nhỏ dãn đồng tử. 116
  3. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 Tiêu chuẩn loại trừ: Độ tuổi nhỏ hơn 18 và 3. KẾT QUẢ cao hơn 80 tuổi, thị lực tối đa < 20/40, có tật Có 61 mắt tham gia nghiên cứu trong đó 28 khúc xạ lớn hơn +3.00 Diopter (D) hoặc bé hơn mắt thuộc nhóm bệnh PXG và 33 mắt trong -6.00D. Soi góc thấy góc đóng. Bệnh lý tại nhãn nhón POAG. Độ tuổi trung bình của nhóm cầu hoặc bệnh lý toàn thân gây tổn thương thần PXG là 72,82 ± 7,49 cao hơn có ý nghĩa thống kinh thị. Bất kì bệnh lý gây giảm, mất thị lực kê so với tuổi trung bình nhóm POAG là 63,7 hoặc không tin cậy khi đo thị trường. Hình ảnh ± 7,79. Tỉ lệ nam lớn hơn nữ ở cả 2 nhóm chụp OCT hoặc chụp OCT-A kém chất lượng: bệnh. Đồng thời đa số bệnh nhân có thị lực ở cường độ tín hiệu < 7. Bệnh nhân không đồng ý, mức dưới < 4/10. Nhãn áp trung bình của các không hợp tác tham gia nghiên cứu. bệnh nhân tham gia nghiên cứu ở nhóm PXG Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được là 19,94 ± 8,29 mmHg còn ở nhóm POAG khai thác bệnh sử, đo thị lực bằng bảng Snellen, nhãn áp là 18,97 ± 7,59 mmHg. Trong khi đó điều chỉnh tật khúc xạ, thăm khám qua máy sinh số lượng thuốc hạ nhãn áp trung bình được sử hiển vi, soi đáy mắt bằng kính VolkWide field dụng ở nhóm bệnh nhân PXG nhiều hơn có ý đánh giá võng mạc và đầu thị thần kinh. Sau đó, nghĩa thống kê so với POAG (p < 0,05). Về bệnh nhân sẽ được chụp cắt lớp cấu kết quang học phân bố tỷ lệ bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu, (OCT) gai thị và hoàng điểm; đo thị trường 24 - 2, tỷ lệ ở bệnh nhân ở giai đoạn nhẹ - trung bình sử dụng thuật toán phân tích SITA, ghi nhận chỉ ở nhóm PXG là 7/28 bệnh nhân mắt chiếm số độ lệch trung bình (MD) và chỉ số độ lệch riêng 33,3%. Ở nhóm POAG, tỷ lệ này là 57,1% với biệt (PSD). Khảo sát mạch máu trên OCT-A: đo 12/31 bệnh nhân ở nhóm nhẹ - trung bình và mật độ mạch máu quanh gai (pVD) bằng cách 19 bệnh nhân ở giai đoạn nặng. Như vậy trong quét khối 4,5 mm x 4,5 mm và mật độ mạch máu số bệnh nhân đến khám bệnh nhóm bệnh nặng vùng hoàng điểm (mVD) 3mm x 3mm. chiếm đa số. Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng giữa nhóm PXG và nhóm POAG Đặc điểm dịch tễ PXG POAG Tuổi (năm) * 72,82 ± 7,49 63,7 ± 7,79 Nam 85,7% Nam 54,5% Giới tính Nữ 14,3% Nữ 45,5% Thị lực (LogMAR) * 0,53 ± 0,30 0,42 ± 0,30 Nhãn áp (mmHg)* 19,94 ± 8,29 18,97 ± 7,59 Số nhóm thuốc hạ áp đang sử dụng* 2,11 ± 1,2 1,42 ± 1,2 *: được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn Cấu trúc giải phẫu trên OCT và chức năng võng mạc trên đo thị trường Ở nhóm POAG, trung vị của chỉ số MD là -17,46 (-27,3-8,62). Với nhóm PXG, trung vị MD là -19,18 (-28,27- -11,45). Các kết quả thị trường khác như độ nhạy võng mạc riêng biệt và chỉ số thị trường giữa nhóm POAG và nhóm PXG cũng không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ tổn thương thị trường ở 2 nhóm (p > 0,05). Các chỉ số đánh giá cấu trúc võng mạc như bề dày lớp sợi thần kinh trung bình, phía trên, phía mũi và phía dưới của nhóm PXG lớn hơn POAG. Trong khi đó bề dày lớp sợi thần kinh phía thái dương ở nhóm POAG cao hơn PXG. Tuy nhiên qua phép kiểm định t và kiểm định t hiệu chỉnh tuổi và giới tính; chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa độ dày lớp sợi thần kinh ở 2 nhóm bệnh với p > 0,05 cả trước và sau khi hiệu chỉnh. Độ dày trung bình lớp tế bào hạch không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. 117
  4. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 Bảng 2. Giá trị khảo sát bằng OCT và thị trường giữa hai nhóm PXG và POAG Đặc điểm cận lâm sàng PXG POAG p C/D trung bình 0,79 ± 0,11 0,83 ± 0,09 > 0,05 -19,18 -17,46 MD (dB) > 0,05 (-28,27- -11,45) (-27,3-8,62) PSD (dB) 6,43 ± 3,31 6,53 ± 3,31 > 0,05 RNFL trungbình(µm) 66,29 ± 14,30 63,03 ± 11,25 > 0,05 GCC trungbình (µm) 59,04 ± 15,31 60,39 ± 10,67 > 0,05 Mật độ mạch máu quanh gai thị trung bình và mật độ mạch máu khảo sát riêng biệt ở bốn góc phần tư giữa nhóm PXG (42,62 ± 4,61%) và POAG (41,05 ± 3,98%) không có sự khác biệt với p > 0,2. Bảng 3. Mật độ mạch máu quanh gai Mật độ mạch máu (%) PXG POAG P* Quanh gai thị trung bình 42,62 ± 4,61 41,05 ± 3,98 0,410 Phía trên 39,49 ± 5,30 37,49 ± 5,39 0,388 Phía thái dương 45,10 ± 4,13 44,01 ± 4,29 0,711 Phía dưới 40,21 ± 6,61 37,38 ± 5,91 0,122 Phía mũi 45,33 ± 5,24 43,52 ± 4,12 0,462 P*: kết quả P của kiểm định t sau khi hiệu chỉnh tuổi, giới tính Trong nghiên cứu của chúng tôi, máy OCTA được điều chỉnh để đo lường lớp mạch máu nông, bao gồm mạch máu ở 2 lớp là lớp sợi thần kinh và lớp tế bào hạch. Hình 1. Mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm (Bùi Lê Đan Thanh, 2022) Bảng 4. Mật độ mạch máu vùng hoàng điểm Mật độ mạch máu PXG POAG P* vùng hoàng điểm (%) (n = 28) (n = 33) Trung tâm hoàng điểm 9,17 ± 4,99 11,62 ± 7,04 0,311 Trung bình 24,37 ± 7,04 28,34 ± 6,77 0,018 Phía trên 25,39 ± 9,06 30,60 ± 7,61 0,029 Vùng cạnh Phía thái dương 26,70 ± 9,13 31,89 ± 7,01 0,056 hoàng điểm Phía dưới 27,04 ± 9,36 30,70 ± 8,20 0,015 Phía mũi 24,07 ± 5,03 29,18 ± 7,03 0,014 118
  5. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 Khi khảo sát lớp mạch máu nông khu trú ở lớp sợi thần kinh và lớp tế bào hạch vùng võng mạc hoàng điểm, có sự khác biệt mật độ mạch máu trung bình vùng cạnh hoàng điểm, phía trên và phía dưới ở nhóm PXG thấp hơn nhóm POAG. Có tương quan tuyến tính thuận giữa mật độ mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm và độ dày lớp sợi thần kinh RNFL đo được trên OCT ở mức độ trung bình với r = 0,52. Mối tương quan có độ mạnh gần tương tự cũng được tìm thấy ở chỉ số mật độ mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm và độ dày lớp tế bào hạch GCC với r = 0,49 Biểu đồ 1. Tương quan giữa mật độ mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm và độ dày lớp phức hợp tế bào hạch Biểu đồ 2. Tương quan giữa mật độ mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm và độ dày lớp sợi thần kinh Ngưỡng phân biệt PXG và POAG của chỉ số mật độ mạch máu lớp nông vùng hoàng điểm Biểu đồ 3. Đường cong ROC chẩn đoán của mật độ võng mạc lớp nông vùng hoàng điểm 119
  6. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 Diện tích dưới đường cong ROC = 66,6% bình thường [9, 10]. Những tổn thương ở vùng với p = 0,027 như vậy mật độ mạch máu lớp hoàng điểm đã xuất hiện trong giai đoạn đầu nông vùng hoàng điểm cao hay thấp có khả của glôcôm và bệnh glôcôm được cho là có liên năng giúp phân biệt giữa POAG và PXG với quan đến giảm tưới máu ở vùng hoàng điểm [8]. tính chính xác ở mức độ trung bình. Diện tích dưới đường cong ROC = 66% để phân biệt giữa nhóm PXG và POAG có giá 4. BÀN LUẬN trị chẩn đoán với mức mật độ mạch máu lớp Kết quả của chúng tôi tương đồng với đa nông vùng hoàng điểm là < 28,3% với độ nhạy số nghiên cứu khảo sát mật động tưới máu lớp 60,61% và độ đặc hiệu 71,73%. Trong khi đó, nông cùng cạnh hoàng điểm cho thấy nhóm các chỉ số độ dày lớp sợi thần kinh và độ dày lớp PXG có các chỉ số mật độ tưới máu thấp hơn có tế bào hạch không khác biệt có ý nghĩa thống kê ý nghĩa thống kê so với nhóm POAG. Cụ thể là và không có giá trị để phân biệt PXG với POAG vùng cạnh hoàng điểm ở 2 nhóm trong nghiên cho thấy bản chất của tổn thương trong PXG cứu của S. Subasi cho thấy sự khác biệt mật độ có sự khác biệt với tổn thương do POAG ở tổn mạch máu trung bình và phía trên, dưới, thái thương suy giảm tưới máu các tổ chức thần kinh. dương [13] còn A. Cornelius phát hiện sự khác biệt mật độ trung bình và phía trên [7]. Tác giả 5. KẾT LUẬN H.C. Kose và cộng sự phát hiện sự giảm mật OCTA cho thấy tưới máu vùng hoàng điểm độ mạch máu trung bình và phía thái dương ở ở bệnh nhân PXG giảm so với bệnh nhân vị trí khảo sát tương tự [9]. Khi xét về mật độ POAG (24,37% so với 28,34% với p < 0,05) tưới máu của nghiên cứu chúng tôi, các chỉ số giúp chứng minh cơ chế tổn thương mạch máu thu được đều thấp hơn so với các tác giả khác gây suy giảm tưới máu mô sợi thần kinh võng [5, 11]. Nguyên nhân có thể do nghiên cứu của mạch trong cơ chế bệnh sinh của PXG có sự chúng tôi có bệnh nhân ở giai đoạn nặng chiếm khác biệt so với glôcôm góc mở đơn thuần. Xác đa số (60 - 70%) so với giai đoạn nhẹ và trung định các đặc tính vi mạch ở vùng quanh gai và bình dẫn đến tổn thương suy giảm mật độ mạch hoàng điểm giữa mắt POAG và PXG, phân tích máu thấp hơn so với các nghiên cứu khác. mối tương quan giữa các đặc điểm chức năng, Các số liệu của chúng tôi không phát hiện cấu trúc và mạch máu giúp tìm mối tương quan sự khác biệt trong mật độ mạch máu quanh gai, giữa tổn thương mạch máu, giải phẫu và chức kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của năng giải thích cho diễn tiến tự nhiên nhanh và các tác giả Sevgi Subasi [13] và Anna Cornelius nặng hơn của PXG so với POAG. Từ đó tiên [7] quan sát thấy không có sự giảm đáng kể mật lượng độ nặng và lập kế hoạch theo dõi điều trị độ mạch máu vùng quanh gai ở nhóm PXG so phù hợp cho bệnh nhân PXG. Đồng thời giúp với nhóm POAG, sự khác biệt này không có ý đánh giá khả năng của OCTA trong vai trò một nghĩa thống kê với p > 0,05. xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán độ nặng, Theo kết quả của chúng tôi, có sự tương theo dõi điều trị và tiên lượng PXG. quan giữa cấu trúc giải phẫu mật độ tưới máu   với độ dày lớp sợi thần và tương quan chức TÀI LIỆU THAM KHẢO năng với kết quả tổn thương thị trường. Mật độ 1. Anastasopoulos E., Founti P., Topouzis mạch máu vùng hoàng điểm thể hiện mối tương F. (2015) “Update on pseudoexfoliation quan mạnh hơn và có ý nghĩa thống kê trong khi syndrome pathogenesis and associations đó mạch máu quanh gai không có khác biệt có with intraocular pressure, glaucoma and ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân POAG systemic diseases”. Curr Opin Ophthalmol, và PXG. Đồng thời, mật độ tưới máu quanh gai 26 (2), 82-9. không biểu hiện tương quan với các cấu trúc 2. De Moraes C. G., Liebmann J. M., Liebmann giải phẫu khảo sát được trên OCT như độ dày C. A., Susanna R., Jr., Tello C., Ritch R. lớp sợi thần kinh hay phức hợp tế bào hạch. Các (2013) “Visual field progression outcomes nghiên cứu trước đây đã báo cáo giảm VD trong in glaucoma subtypes”. Acta Ophthalmol, mạch máu lớp nông ở mắt glôcôm so với mắt 91 (3), 288-93. 120
  7. Đoàn Kim Thành. Tạp chí Y Dược học Phạm Ngọc Thạch. 2023; 2(1): 115-121 3. Flammer J. (1994) “The vascular concept angiography of the peripapillary region of glaucoma”. Surv Ophthalmol, 38 Suppl, and macula in normal, primary open angle S3-6. glaucoma, pseudoexfoliation glaucoma and 4. Hodapp E., Parrish R., Anderson Douglas R. ocular hypertension eyes”. International (1993) Clinical Decisions In Glaucoma. Journal of Ophthalmology, 13 (5), 744. 5. Jo Y. H., Sung K. R., Shin J. W. (2020) 10. Lommatzsch C, Rothaus K, Koch JM, “S, D, ONH-Peripapillary and Macular Heinz C, Grisanti S (2019) “S, D, ONH- Vessel Density Measurement by Optical Vessel density in glaucoma of different Coherence Tomography Angiography in entities as measured with optical coherence Pseudoexfoliation and Primary Open-angle tomography angiography”. Clinical Glaucoma”. J Glaucoma, 29 (5), 381-385. Ophthalmology (Auckland, NZ), 13, 2527. 6. Martinez A., Sanchez M. (2008) “Ocular 11. Park Ji-Hye, Yoo Chungkwon, Girard haemodynamics in pseudoexfoliative and Michael JA, Mari Jean-Martial, Kim Yong primary open-angle glaucoma”. Eye (Lond), Yeon (2018) “ONH-Peripapillary vessel 22 (4), 515-20. density in glaucomatous eyes: comparison 7. Cornelius Anna, Pilger Daniel, Riechardt between pseudoexfoliation glaucoma and Aline, Reitemeyer Emanuel, Rübsam primary open-angle glaucoma”. Journal of Anne, Winterhalter Sibylle, et al. (2022) “S, Glaucoma, 27 (11), 1009-1016. ONH-Macular, papillary and peripapillary 12. Simsek Mert, Kocer Ali Mert, Cevik Seda, perfusion densities measured with optical Sen Emine, Elgin Ufuk (2020) “ONH, PXG, coherence tomography angiography fellow eye, ko POAG -Evaluation of the optic in primary open angle glaucoma and nerve head vessel density in the patients with pseudoexfoliation glaucoma”. Graefe’s asymmetric pseudoexfoliative glaucoma: Archive for Clinical and Experimental an OCT angiography study”. Graefe’s Ophthalmology, 260 (3), 957-965. Archive for Clinical and Experimental 8. Kocaturk Tolga, Isikligil Isil, Uz Burcin, Ophthalmology, 258 (7), 1493-1501. Dayanir Volkan, Dayanir Yelda O (2016) 13. Subasi Sevgi, Yuksel Nursen, Basaran “Ophthalmic artery blood flow parameters Ece, Pirhan Dilara (2021) “S, ONH, AUC - in pseudoexfoliation glaucoma”. European Comparison of vessel density in macular and Journal of Ophthalmology, 26 (2), 124- peripapillary regions between primary open 127. - angle glaucoma and pseudoexfoliation 9. Köse Helin Ceren, Tekeli Oya (2020) “S,D, glaucoma using OCTA”. International ONH, AUC-Optical coherence tomography Ophthalmology, 41 (1), 173-184. 121
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2