KHOA HỌC THÔNG TIN VÀ THƯ VIỆN<br />
(Library and Information Science)<br />
NGUYỄN MINH HIỆP<br />
ThS. Khoa học thông tin và thư viện<br />
GĐ. Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên<br />
ĐHQG TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
Thư viện ra đời như là kho tri thức của xã hội : có người cho rằng thư<br />
viện là đền đài của văn hóa và sự uyên thâm. Được hình thành trong thời kỳ<br />
nông nghiệp thống trị trong tư duy của nhân loại, thư viện đã trải nghiệm qua<br />
một cuộc hồi sinh với việc phát minh ngành in trong thời kỳ Phục hưng, và bắt<br />
đầu thực sự khởi sắc khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng phát với hàng loạt<br />
phát minh cơ giới hóa quy trình in ấn.<br />
Lịch sử thư viện đã trải qua hơn hai mươi lăm thế kỷ. Hình ảnh và nghề<br />
thư viện đã có từ lâu đời, tuy nhiên lần đầu tiên nghiệp vụ thư viện được tổ chức<br />
giảng dạy như một ngành khoa học là vào ngày 01 tháng 01 năm 1887 tại<br />
Trường Kinh tế Thư viện thuộc Đại học Columbia, Hoa Kỳ do nhà thư viện học<br />
Melvil Dewey khởi xướng (Chan, 1994).<br />
Từ đó đến nay ngành thư viện được xem như phát triển qua ba giai đoạn:<br />
Thư viện học;<br />
Khoa học thông tin và thư viện;<br />
Cách mạng hóa quan niệm về thư viện.<br />
1.<br />
<br />
Thư viện học:<br />
<br />
Chúng ta tính mốc từ thế kỷ XIX. Thư viện là đóng – Sách được xếp theo<br />
kích cỡ trong những kho kín của thư viện, độc giả chỉ tiếp cận với thủ thư ở<br />
quầy lưu hành để yêu cầu mượn sách. Tài liệu phục vụ độc giả chủ yếu là sách,<br />
báo, tạp chí in ấn và vi phẩm (vi phim, vi phiếu). Công tác thư viện chủ yếu là tổ<br />
chức, bảo quản kho sách; công tác kỹ thuật bao gồm lập thư mục, phân loại, biên<br />
mục, chỉ mục, tóm tắt nội dung. tổ chức hệ thống mục lục cho độc giả tra tìm tài<br />
liệu. Ngành học bao gồm nghiệp vụ chính của giai đoạn này được mang một<br />
danh xưng là Thư viện học (Library Science) và đây là giai đoạn Quản lý tài<br />
liệu (Material Management), mang ý nghĩa là quản lý vật chất và coi trọng công<br />
tác nghiệp vụ (technical services) hơn công tác phục vụ (public services),<br />
Kể từ giai đoạn này hệ thống thư viện được phân chia thành 5 loại hình<br />
mà có giá trị đến ngày hôm nay, trở thành tiêu chuẩn cho các quốc gia trên thế<br />
giới. Đó là:<br />
1<br />
<br />
(1)<br />
<br />
Thư viện quốc gia (National/State Library)<br />
<br />
(2)<br />
<br />
Thư viện đại học và nghiên cứu (Academic Library)<br />
<br />
(3)<br />
<br />
Thư viện chuyên ngành (Special Library)<br />
<br />
(4)<br />
<br />
Thư viện công cộng (Public Library)<br />
<br />
(5)<br />
<br />
Thư viện trường học (School Library)<br />
<br />
Trong đó loại 1, 2, vả 3 là loại hình thư viện mang tính chất học thuật<br />
(academic) và nghiên cứu (study); trong khi đó loại 4 và 5 mang tính chất phổ<br />
thông (popular) và công cộng (public).<br />
2.<br />
<br />
Khoa học thông tin và thư viện:<br />
<br />
Cho đến một lúc, xuất phát từ ý định thư viện xem người sử dụng là trung<br />
tâm, với việc nhấn mạnh trao đổi thông tin với những cơ quan thông tin khác.<br />
Điều này cũng đồng thời để đáp ứng yêu cầu thông tin ngày càng gia tăng. Giai<br />
đoạn Quản lý thông tin (Information Management) được xem như ra đời với<br />
ngành Thông tin học (Information Science).<br />
Thông tin học là một ngành khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu bản chất,<br />
cấu trúc, và quy luật phát triển của thông tin, cũng như lý thuyết và phương pháp<br />
quản lý các nguồn tài nguyên thông tin (information resources). Về lý thuyết,<br />
Thông tin học có nhiệm vụ tìm ra những quy luật sản sinh, truy hồi, và xử lý<br />
thông tin trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Về ứng dụng , thông tin<br />
học có nhiệm vụ tìm ra những phương tiện và phương thức thực hiện các tiến<br />
trình thông tin một cách có hiệu quả.<br />
Do đó, Thông tin học được xem xét qua ba khía cạnh:<br />
Kỹ thuật;<br />
Ý nghĩa;<br />
Hiệu quả sử dụng.<br />
Đối với ngành thư viện người ta chỉ quan tâm chủ yếu đến khía cạnh thứ<br />
ba. Do đó khi nói đến Thông tin học trong ngành thư viện là việc ứng dụng<br />
Thông tin học để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành thư viện trong giai đoạn<br />
thứ hai – Giai đoạn Quản lý thông tin.<br />
Thông tin học phản ánh bước phát triển thứ hai trong tiến trình phát triển<br />
ngành thông tin - thư viện, có những nét riêng biệt trong chức năng và nhiệm vụ<br />
của mình đối với Thư viện học, tuy nhiên chính sự khác biệt này lại thúc đẩy<br />
quá trình tương tác tự nhiên giữa hai ngành khoa học này như “mình với ta tuy<br />
hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”.<br />
2<br />
<br />
Rõ ràng ngành thư viện khi phát triển đến giai đoạn thứ hai thì không thể<br />
nào chỉ có những công tác thư viện (library tasks) với hình ảnh người thủ thư bổ<br />
sung tài liệu, xử lý kỹ thuật, rồi cất giữ trong kho và thụ động ngồi chờ người ta<br />
đến đọc như ở giai đoạn thứ nhất mà cần có những hoạt động thông tin<br />
(information activities) để chủ động mang thông tin đến người sử dụng. Đó là lý<br />
do từ thập niên 1960, xuất phát từ Hoa Kỳ một thuật ngữ mới ra đời Khoa học<br />
thông tin và thư viện (Library and Information Science) và Ngành thư viện<br />
được gọi là Ngành thông tin- thư viện như cả thế giới đang dùng hiện nay.<br />
Tại giai đoạn này, ảnh hưởng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ<br />
thông tin khiến cho “ngành thông tin - thư viện phát triển với một tốc độ nhanh<br />
chưa từng có” (như được đánh giá tại hai cuộc hội nghị quốc tế tại Đại học<br />
Malaya. Malaysia, 1997 và tại Đại học East Anglia, Norwich, Anh Quốc, 1999).<br />
Ngành thông tin- thư viện được xem như là gắn liền với công nghệ thông<br />
tin. Hầu hết việc đào tạo ngành thông tin- thư viện được chuyển sang các trường<br />
trong khối kỹ thuật và công nghệ thông tin. Chẳng hạn như tại Singapore, ngành<br />
thông tin- thư viện (Master of Library and Information Science) trực thuộc khoa<br />
Thông tin học (Information Study) thuộc trường Truyền thông và Thông tin<br />
(School of Information and Communication) của trường Đại học Kỹ thuật<br />
Nanyang. Tại Anh Quốc, ngành thông tin- thư viện trực thuộc trường Tin học<br />
(Faculty of Computer Science) của trường Đại học Brighton; cách tổ chức cũng<br />
tương tự như tại các trường University College London và trường đào tạo từ xa<br />
Queen Margaret ở Scotland. Tại New Zealand, ngành thông tin - thư viện trực<br />
thuộc trường Thương mại điện tử (School of e-business) của trường ĐH<br />
Victoria, Wellington.<br />
Nói chung, ngành thông tin- thư viện trên thế giới hiện nay được xem như<br />
một ngành thuộc khối công nghệ thậm chí là một ngành công nghệ mới. Nhờ<br />
ứng dụng công nghệ mới và có sự liên thông trên phạm vi toàn cầu, cụ thể là<br />
mạng Internet, công tác nghiệp vụ (technical services) của thư viện được chia sẻ<br />
giữa các thư viện trong những hệ thống thư viện (library systems) và liên hiệp<br />
thư viện (library consortium) nên được xem là nhẹ hơn so với công tác phục vụ<br />
trong mỗi thư viện mà ngày nay mang một tên mới là dịch vụ thông tin<br />
(information services). Nếu có một tỷ lệ 80% cho công tác nghiệp vụ và 20%<br />
cho công tác phục vụ trong một thư viện truyền thống trước đây thì ngày nay tỷ<br />
lệ này hoàn toàn ngược lại. Dịch vụ thông tin là hoạt động chủ yếu trong một<br />
thư viện ngày nay (Rubin, 2004).<br />
Do đó để đánh giá hay xếp loại một thư viện ngày nay người ta không dựa<br />
vào số lượng tài nguyên thông tin hay vốn tài liệu (holdings) thư viện có mà dựa<br />
<br />
3<br />
<br />
vào năng lực đáp ứng nhu cầu thông tin cho người sử dụng từ nhiều nguồn khắp<br />
nơi thông qua việc ứng dụng công nghệ mới (Stueart, 1995).<br />
3.<br />
<br />
Cách mạng hóa quan niệm về thư viện<br />
<br />
Ngày nay, sự bùng phát tài nguyên điện tử, công nghệ web, và năng lực<br />
số hóa thông tin in ấn, âm thanh, và nghe nhìn đã làm cách mạng hóa quan niệm<br />
về thư viện.<br />
Thư viện ngày nay được quan niệm là sự kết hợp những đối tượng vật<br />
chất được tiếp cận trong không gian vật chất, với đối tượng điện tử hiện hữu<br />
trong không gian điện tử và có thể được truy cập hầu như khắp mọi nơi. Cụ thể<br />
hơn, thư viện của hôm nay là sự kết hợp tài nguyên (resources) bao gồm không<br />
những tài liệu in ấn truyền thống, mà còn có cả sách điện tử và tạp chí điện tử,<br />
cơ sở dữ liệu trực tuyến, và những bộ sưu tập điện tử do thư viện xây dựng hay<br />
do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài. Rõ ràng thư viện như thế là bao gồm giữa<br />
thư viện truyền thống dựa trên tài liệu in ấn với thư viện điện tử thuần túy.<br />
Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, quan niệm mang tính “cách mạng<br />
hóa” về thư viện như được trình bày ở trên được mang một thuật ngữ rất quen<br />
thuộc – Thư viện số. Theo Joan M. Reitz (2005), “Thư viện số là một thư viện<br />
trong đó ngoài tài liệu in ấn và tài liệu dạng thu nhỏ (vi phẩm), có phục vụ độc<br />
giả một tỷ lệ quan trọng tài nguyên dạng máy đọc được truy cập qua máy tính<br />
được gọi là tài nguyên số. Tài nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà cũng có<br />
thể được truy cập từ xa qua mạng máy tính. Tiến trình số hóa trong thư viện bắt<br />
đầu từ hệ thống mục lục, chỉ mục tạp chí và dịch vụ tóm tắt tài liệu, đến ấn phẩm<br />
định kỳ và tài liệu tham khảo, và cuối cùng là sách in”.<br />
Trong giai đoạn này, thông tin trở nên quá tải. Người cán bộ thư viện phải<br />
sử dụng kiến thức chuyên ngành và công nghệ mới để chọn lọc những thông tin<br />
có ý nghĩa và hữu ích, được gọi là tri thức (knowledge) để phục vụ người sử<br />
dụng, vì theo Branscomb “Nếu ví thông tin như là bột mì thì tri thức chính là<br />
bánh mì” . Do đó giai đoạn này được gọi là Quản lý tri thức (Knowledge<br />
Management).<br />
Để xây dựng thư viện số, người ta phải tạo nên những bộ sưu tập số<br />
(digital collections) mà chủ yếu là dựa vào những phần mềm nguồn mở (open<br />
source software). Art Rhyno, tác giả cuốn sách “Using open source systems for<br />
digital libraries – Sử dụng hệ thống nguồn mở cho thư viện số” đã viết “Hiện<br />
nay trên thế giới, xu thế xây dựng và phát triển thư viện số đã trở thành phần<br />
chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động thông tin - thư viện, trong khi phần mềm<br />
nguồn mở trở thành hiện tượng toàn cầu. Giống như nhiên liệu trong động cơ kỹ<br />
thuật, nguồn mở và thư viện số là hai yếu tố không tách rời”.<br />
4<br />
<br />
Sưu tầm thông tin và làm cho thông tin đó trở nên phổ biến hơn đối với<br />
người khác là một điều liên quan đến vấn đề xã hội. Những người xây dựng thư<br />
viện số phải am hiểu quyền sở hữu trí tuệ để hành động một cách có trách nhiệm<br />
và đúng luật xung quanh những ứng dụng cụ thể của mình.<br />
Thư viện số có thể làm cho việc truy cập trở nên rộng rãi hơn thư viện<br />
truyền thống. Việc truy cập này mang những đặc trưng:<br />
<br />
Truy cập thông tin trong thư viện số nói chung ít bị kiểm soát hơn<br />
tiếp cận sưu tập in ấn trong thư viện truyền thống;<br />
<br />
Đưa thông tin vào thư viện số là có khả năng làm cho thông tin đó<br />
trở nên phổ biến ngay đối với một số lượng độc giả hầu như vô hạn.<br />
Một phần quan trọng trong việc xây dựng thư viện số là số hóa tài liệu.<br />
Bản quyền đối với tập tin máy tính và tài liệu được xuất bản trên Would-WideWeb chưa rõ ràng. Đối với công tác thư viện, khi số hóa tài liệu cần xem xét:<br />
<br />
Nếu tác phẩm được số hóa ở miền công cộng (public domain) tức là<br />
không có bản quyền thì không cần xin phép ai hết. Dĩ nhiên kết quả số hóa cũng<br />
không được bảo vệ bản quyền, trừ phi kết quả nhiều hơn bản gốc;<br />
<br />
Nếu tài liệu được tặng để số hóa thì có thể tiến hành số hóa với một<br />
sự chứng nhận cho phép của tác giả (giấy cho phép chẳng hạn).<br />
Nếu muốn số hóa tài liệu mà không rơi vào hai trường hợp trên thì ta phải<br />
cân nhắc thử việc số hóa của ta có phải là một việc làm có lợi ích chung mà<br />
không xâm phạm lợi ích người khác. Cuối cùng nếu không chắc chắn với điều<br />
cân nhắc trên thì phải tiến hành xin phép trước khi số hóa tài liệu.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Với quan niệm “cách mạng hóa” về thư viện, ngày nay thư viện được xem<br />
không chỉ là nơi bảo tồn giá trị văn hóa mà còn là nơi tích cực đáp ứng nhu cầu<br />
thông tin cho người sử dụng thông qua công nghệ mới, như lời của Bà Sharon<br />
White “Thư viện có truyền thống là người giữ gìn quá khứ, nhưng ngày nay thư<br />
viện ngày mỗi ngày là người dẫn dắt tương lai” (2006).<br />
Thư viện ngày nay là một cơ quan thông tin (information agency) tiêu<br />
biểu nhất bao gồm công tác thư viện và hoạt động thông tin là hai nghiệp vụ<br />
không thể tách rời, do đó ngành thư viện được gọi là ngành thông tin - thư viện<br />
với lý luận và thực tiễn của Khoa học thông tin và thư viện (Library and<br />
Information Science).<br />
<br />
5<br />
<br />