LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ ĐỒNG

NỘI TỆ: THỰC TIỄN THẾ GIỚI

VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

CHO VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : Ts Từ Thúy Anh

Sinh viên thực hiện :

mục lục

Danh Mục từ viết tắt

Danh mục bảng biểu

Lời mở đầu.............................................................................................................1

Chương I: Tổng quan về chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế.......3

I. Các lý luận chung về chính sách tỷ giá hối đoái.........................................3

1. Tỷ giá hối đoái..................................................................................... 3

1.1. Khái niệm ...................................................................................... 3

1.2. Xác định tỷ giá hối đoái ................................................................. 4

2. Chính sách tỷ giá hối đoái.................................................................... 7

2.1. Khái niệm ...................................................................................... 7

2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái.......................................... 8

II. Mối quan hệ giữa chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế ...11

1. Các tác động của thương mại quốc tế đến tỷ giá hối đoái nhìn từ góc

độ cán cân thanh toán ............................................................................ 11

2. Các tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái đến

thương mại quốc tế, thể hiện ở cán cân thanh toán................................. 12

III. Tổng quan về chính sách nâng giá tiền tệ..............................................14

1. Khái niệm về chính sách nâng giá tiền tệ ........................................... 15

2. Mục tiêu và tác dụng của chính sách nâng giá tiền tệ......................... 16

2.1. Mục tiêu....................................................................................... 16

2.2. Tác dụng...................................................................................... 16

3. Những tác động của việc nâng giá tiền tệ........................................... 18

Chương II: Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của một số quốc

gia trên thế giới....................................................................................................21

I. Nhật Bản ......................................................................................................22

1. Tình hình chung................................................................................. 22

2. Những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái, đặc biệt là chính

sách nâng giá tiền tệ đến thương mại quốc tế......................................... 22

2.1. Giai đoạn 1974 – 1980 - Thời kỳ thành công rực rỡ nhất với

chính sách nâng giá tiền tệ.................................................................. 23

2.2. Giai đoạn 1980 – 1985 - khai thác những mặt tích cực của đồng

JPY giảm giá ...................................................................................... 28

2.3. Giai đoạn 1986 – 1993 - điều chỉnh đồng JPY lên xuống cùng với

đồng USD........................................................................................... 30

2.4. Giai đoạn 1994 – 2007 với hai cuộc khủng hoảng tài chính – tiền

tệ lớn diễn ra vào các năm 1994 và 1997 ............................................ 34

II. Đức thời kỳ sử dụng đồng DM.................................................................38

1. Tình hình chung................................................................................. 38

2. Sự tăng giá của đồng DM và những tác động của nó ......................... 39

2.1. Giai đoạn đầu phát triển 1960 – 1980 .......................................... 39

2.2. Giai đoạn nửa cuối những năm 80 đến thập kỷ 90 ........................ 41

III. Mỹ..............................................................................................................44

1. Tình hình chung................................................................................. 44

2. Chính sách tăng giá đồng USD trong thời kỳ 1980 – 1985 và tác

động của nó ........................................................................................... 45

Chương III: Một số Bài học kinh nghiệm trong điều hành tỷ giá hối đoái cho

Việt Nam ..............................................................................................................48

I. Trung Quốc và chính sách phá giá đồng nội tệ........................................49

1. Những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến ngoại thương và

đầu tư nước ngoài .................................................................................. 49

1.1. Tình hình chung ........................................................................... 49

1.2. Tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Trung

Quốc................................................................................................... 53

1.3. Tác động của thay đổi tỷ giá đồng NDT đến dòng FDI ................. 55

2. Đồng NDT lên giá và những tác động có thể có................................. 57

II. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.............................................60

1. Khái quát về chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam và các tác

động đến thương mại sau đổi mới 1989 đến nay.................................... 60

1.1. Thời kỳ đổi mới từ 1989 cho đến sau cuộc khủng hoảng tài chính

- tiền tệ khu vực Đông Nam á (1997 – 1998) ....................................... 60

1.2. Thời kỳ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông Nam á từ

1999 cho đến những năm gần đây....................................................... 64

2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc điều hành chính sách nâng giá

đồng nội tệ của các nước ....................................................................... 68

2.1. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Mỹ ....... 68

2.2. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Nhật

Bản..................................................................................................... 70

2.3. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Đức...... 71

2.4. Kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của

Trung Quốc trước sức ép nâng giá đồng nội tệ.................................... 72

Kết luận................................................................................................................75

Danh mục tài liệu tham khảo ..............................................................................77

Phụ Lục................................................................................................................79

Danh Mục từ viết tắt

ADB : NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHÂU Á.

ASEAN BOJ CCTM CPI : HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á. : NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NHẬT BẢN. : CÁN CÂN THƯƠNG MẠI. : CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG.

: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỨC. : ĐỒNG DEMARK CỦA ĐỨC. : CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU. : HỆ THỐNG TIỀN TỆ CHÂU ÂU. DBB DM EC EMS

: KHỐI LIÊN MINH CHÂU ÂU. : ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. : CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ. : TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI. : TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN. : QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ. : ĐỒNG YÊN CỦA NHẬT BẢN. : ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ CỦA TRUNG QUỐC. EU FDI FED GDP GNP IMF JPY NDT

NHTW ODA OPEC TGHĐ : NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. : HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC. : TỔ CHỨC CỦA NHỮNG QUỐC GIA XUẤT KHẨU DẦU LỬA. : TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

USD VND WTO : ĐỒNG ĐÔLA MỸ. : VIỆT NAM ĐỒNG. : TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI.

Danh mục bảng biểu

CHƯƠNG I

ĐỒ THỊ 1.1: CUNG – CẦU NGOẠI TỆ VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG. ............ 7

CHƯƠNG II

BIỂU ĐỒ 2.1: TĂNG TRƯỞNG GDP THỰC TẾ VÀ NGOẠI THƯƠNG NHẬT BẢN

THẬP KỶ 70 SO VỚI MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN. ...................27

BẢNG 2.2: MỨC ĐỘ PHỤ THUỘC VÀO NHẬP KHẨU CỦA NHẬT BẢN VỀ

NGUYÊN NHIÊN VẬT LIỆU.............................................................................28

ĐỒ THỊ 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GNP DANH NGHĨA VÀ THỰC TẾ CỦA

NHẬT BẢN NHỮNG NĂM 1970 – 1980..............................................................29 BẢNG 2.4: TÌNH HÌNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA NHẬT BẢN THẬP KỶ 70. 30

BẢNG 2.5: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN

NHỮNG NĂM 1970 – 1980................................................................................31

ĐỒ THỊ 2.6: TÌNH HÌNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI JPY/USD TRONG NHỮNG NĂM

1980 – 1985. ....................................................................................................32

BẢNG 2.7: TÌNH HÌNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI, ODA VÀ FDI CỦA NHẬT BẢN

TRONG THỜI KỲ 1980 – 1985...........................................................................33

ĐỒ THỊ 2.8: TÌNH HÌNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI JPY/USD TRONG NHỮNG NĂM

1986 – 1993. ....................................................................................................34

BẢNG 2.9: SỰ TĂNG GIẢM CỦA DỰ TRỮ QUỐC GIA NHẬT BẢN TRONG QUÁ

TRÌNH ĐIỀU TIẾT CƠ SỐ TIỀN 1980 – 1990.......................................................35

BẢNG 2.10: LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN LÃI SUẤT CÁC LOẠI VÀ LƯỢNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG TRUNG GIAN. .........36

BẢNG 2.11: TÌNH HÌNH TỶ GIÁ, NGOẠI THƯƠNG, ĐẦU TƯ VÀ TĂNG

TRƯỞNG CỦA NHẬT BẢN 1986 – 1993.............................................................37

BẢNG 2.12: DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, NGOẠI THƯƠNG VÀ

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NHẬT BẢN 1994 – 2000. ...........................................40

BẢNG 2.13: DIỄN BIẾN TỶ GIÁ, LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG CỦA NHẬT BẢN TỪ 2001 – 2006. .......................................................................................41

BIỂU ĐỒ 2.14: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA DM SO VỚI USD TRONG NHỮNG NĂM

70...................................................................................................................46 BẢNG 2.15: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CỦA NỀN KINH TẾ ĐỨC 1980 – 1984....47

BẢNG 2.16: DIỄN BIẾN TỶ GIÁ, NGOẠI THƯƠNG, GIÁ CẢ CỦA ĐỨC 1985 –

1995. ..............................................................................................................49 ĐỒ THỊ 2.17: CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA MỸ NHỮNG NĂM 70. ....................53

BẢNG 2.18: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ TÀI KHOẢN VÃNG LAI CỦA MỸ 1982 –

1988. ..............................................................................................................54

CHƯƠNG III

BẢNG 3.1: TỔN THẤT TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU DO TỶ GIÁ Ở TRUNG

QUỐC.............................................................................................................57

BẢNG 3.2: BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ DANH NGHĨA NDT/USD, CÁN CÂN

THƯƠNG MẠI, LẠM PHÁT VÀ DỰ TRỮ NGOẠI TỆ CỦA TRUNG QUỐC GIAI

ĐOẠN 1990 – 1993. ..........................................................................................59

BẢNG 3.3: TÌNH HÌNH TỶ GIÁ, LẠM PHÁT VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG NỀN

KINH TẾ TRUNG QUỐC 1994 – 2006.................................................................60

BẢNG 3.4: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CÁN CÂN THANH TOÁN CỦA

TRUNG QUỐC 1994 – 2004...............................................................................62 BẢNG 3.5: LƯỢNG DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA TRUNG QUỐC 2000 – 2007. .........63

BẢNG 3.6: NHỮNG THAY ĐỔI VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG GIAI ĐOẠN 1989

– 1998.............................................................................................................69

ĐỒ THỊ 3.7: TỐC ĐỘ THAY ĐỔI TỶ GIÁ VÀ TỶ LỆ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN 1990 – 1998.......................................................................71

BẢNG 3.8: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP, DỰ TRỮ NGOẠI TỆ VÀ TÌNH HÌNH

XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 1989 – 1998. .............................................72

BIỂU ĐỒ 3.9: TỶ GIÁ CHÍNH THỨC BÌNH QUÂN VND/USD GIAI ĐOẠN 1999 –

2007. ................................................................................................................. ......................................................................................................................74

BẢNG 3.10: XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VÀ LƯỢNG

KIỀU HỐI CHUYỂN VỀ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999 – 2007...............................76

ĐỒ THỊ 3.11: ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999 – 2007...77

PHỤ LỤC

HÌNH 1.2: TÁC ĐỘNG CỦA MỨC GIÁ THAY ĐỔI ĐẾN TỶ GIÁ HỐI

ĐOÁI……………….93

HÌNH 1.3: TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HỘ ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI……………...94

HÌNH 1.4: TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN NỘI – NGOẠI TỆ ĐẾN TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI…………………………………………………………………………..97

Lời mở đầu

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÀ MỘT TRONG NHỮNG VẤN ĐỀ PHỨC TẠP VÀ

NHẠY CẢM. KHÔNG ÍT NỀN KINH TẾ LÂM VÀO TÌNH TRẠNG KHÓ KHĂN DO

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI GÂY RA. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐANG THU HÚT MỘT SỰ CHÚ Ý

ĐẶC BIỆT CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ, CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ VÀ NÓ ĐÃ TRỞ

THÀNH MỘT CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN SÔI NỔI VÀ KÉO DÀI KHÔNG CHỈ Ở VIỆT

NAM MÀ CẢ TRÊN THẾ GIỚI. TRONG MỘT LOẠT CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH

- TIỀN TỆ, THÌ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI MÀ ĐIỂN HÌNH LÀ CHÍNH SÁCH

NÂNG GIÁ TIỀN TỆ HAY PHÁ GIÁ TIỀN TỆ ĐÓNG MỘT VAI TRÒ HẾT SỨC

QUAN TRỌNG TRONG VIỆC ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ CẢ VỀ ĐỐI NỘI LẪN ĐỐI

NGOẠI. VỚI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, CHÍNH PHỦ CÁC QUỐC GIA CÓ

THỂ ĐƯA NỀN KINH TẾ THOÁT KHỎI NHỮNG CƠN KHỦNG HOẢNG GIÁ DẦU,

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH… VÀ NGƯỢC LẠI CŨNG CÓ THỂ VÌ MỘT CHÍNH

SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI KHÔNG HỢP LÝ ĐƯA NỀN KINH TẾ RƠI VÀO TÌNH

TRẠNG SUY THOÁI NGHIÊM TRỌNG. THÊM VÀO ĐÓ, TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, GIẢM TỶ LỆ THẤT NGHIỆP, CÂN BẰNG CÁN CÂN

THƯƠNG MẠI… LUÔN LÀ NHỮNG MỤC TIÊU KINH TẾ QUAN TRỌNG CỦA

MỌI QUỐC GIA, ĐẶC BIỆT LÀ TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY; ĐỂ

THỰC HIỆN ĐƯỢC NHỮNG MỤC TIÊU ĐÓ, TÙY VÀO TÌNH HÌNH CỤ THỂ CỦA

TỪNG NƯỚC MÀ ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN TỆ HAY PHÁ GIÁ

TIỀN TỆ… CHO PHÙ HỢP.

NHẬN THẤY RÕ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI CŨNG NHƯ TÍNH

CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NÀY, EM ĐÃ CHỌN ĐỀ TÀI: “CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ

ĐỒNG NỘI TỆ: THỰC TIỄN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT

NAM” CHO KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỦA MÌNH. ĐÂY LÀ MỘT TRONG

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LÀ NHẰM HIỂU RÕ HƠN VỀ MẶT NHỮNG BỘ PHẬN QUAN TRỌNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, ĐẶC BIỆT LÀ CỦA

CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ, THỰC TRẠNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA

TRÊN THẾ GIỚI, CỤ THỂ LÀ NHẬT BẢN, ĐỨC VÀ MỸ TRONG NHỮNG THỜI KỲ

1

NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ, TRUNG QUỐC VỚI CHÍNH SÁCH PHÁ GIÁ THÀNH

CÔNG NAY ĐANG CHỊU SỨC ÉP NÂNG GIÁ, TRÊN CƠ SỞ ĐÓ RÚT RA MỘT SỐ

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA KHOÁ LUẬN LÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI VÀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ NÓI CHUNG VÀ CỤ THỂ HƠN LÀ TẬP

TRUNG VÀO NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ, THỰC TIỄN

ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI (CHỦ YẾU LÀ CHÍNH SÁCH NÂNG

PHẠM VI NGHIÊN CỨU LÀ VẤN ĐỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐỐI VỚI THƯƠNG GIÁ TIỀN TỆ) CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.

MẠI QUỐC TẾ (CỤ THỂ HƠN LÀ VẤN ĐỀ NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ). CÁC QUỐC

GIA MÀ KHOÁ LUẬN NÀY TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU LÀ NHẬT BẢN, ĐỨC, MỸ

TRONG NHỮNG THỜI KỲ NÂNG GIÁ ĐỒNG BẢN TỆ VÀ TRUNG QUỐC VỚI

CHÍNH SÁCH PHÁ GIÁ VÀ SỨC ÉP NÂNG GIÁ NỘI TỆ CÙNG NHỮNG ẢNH

Để đạt được mục đích của khóa luận, người viết đã sử dụng kết hợp các

phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh…

HƯỞNG CỦA NÓ.

Ngoài Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Danh mục chữ viết tắt,

Danh mục bảng biểu, nội dung khóa luận được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế.

Chương 2: Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của một số quốc gia

trên thế giới.

Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm trong điều hành tỷ giá hối đoái cho Việt

Do thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những sai

sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo.

Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình quan tâm, giúp đỡ của Tiến sỹ

Từ Thúy Anh, người đã hướng dẫn em viết khoá luận này.

Nam.

2

Chương I

Tổng quan về chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế

I. Các lý luận chung về chính sách tỷ giá hối đoái

1. Tỷ giá hối đoái

1.1. Khái niệm

Tỷ giá hối đoái là một vấn đề phức tạp, là một trong những công cụ cơ bản của Nhà

nước trong quản lý và điều hành vĩ mô, nó đang là một chủ đề được tranh luận nhiều và sôi

nổi vào bậc nhất của kinh tế học. Cho đến nay, đã có rất nhiều lý thuyết giải thích sự hình

thành và dự đoán sự biến động của tỷ giá. Tuy nhiên, trong khi nhiều chủ đề của kinh tế

học vĩ mô đã đạt được sự nhất trí cao của các nhà kinh tế học thì vẫn còn rất nhiều tranh

cãi xung quanh chủ đề tỷ giá hối đoái nhưng chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh về tỷ giá

hối đoái. Sự chưa hoàn chỉnh của lý thuyết về xác định tỷ giá hối đoái là do việc phân tích

xuất phát từ những thị trường đơn lẻ như thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường

vốn… trong xác định tỷ giá hối đoái. Trong khi đó tỷ giá lại chịu tác động qua lại của

nhiều yếu tố với các mức độ khác nhau: từ các yếu tố thực, có thể đo lường được đến các

yếu tố tâm lý, kỳ vọng. Hơn nữa, bản thân các yếu tố này lại có tác động qua lại lẫn nhau

và chịu tác động trở lại của tỷ giá trong một khuôn khổ biến động.

Do vậy, có rất nhiều nhà kinh tế đưa ra những khái niệm khác nhau về tỷ giá hối

 Samuelson – nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi

đoái như:

 Slatyer – nhà kinh tế người úc, trong một cuốn sách thị trường ngoại hối, cho

tiền của một nước lấy tiền của một nước khác.

rằng: một đồng tiền của một nước nào đó thì bằng giá trị của một số lượng đồng

 Christopher Pass và Bryan Lowes, người Anh trong Dictionary of Economics

tiền nước khác.

xuất bản lần thứ hai, cho rằng: tỷ giá hối đoái là giá của một loại tiền tệ được

biểu hiện qua giá một tiền tệ khác.

Các khái niệm trên đây đều phản ánh một số khía cạnh khác nhau của tỷ giá hối

đoái. Để thống nhất với nội dung ở phần sau, chúng ta đưa ra một khái niệm tổng quan

hơn:

3

“Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng số lượng

đơn vị tiền tệ nước khác.”

Về bản chất, tỷ giá hối đoái là một loại giá cả. Do đó, cũng giống như các loại giá

cả khác trong nền kinh tế, tỷ giá được xác định bởi quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị

trường mà ở đó ngoại hối được trao đổi, mua và bán, qua đó tỷ giá hối đoái được xác định

và được gọi là thị trường ngoại hối. Các tác nhân hoạt động chủ yếu trên thị trường ngoại

hối là ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, các định thể tài chính phi ngân

hàng và các công ty. Trên thực tế, với sự phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng của nền

kinh tế toàn cầu, đã hình thành một mạng lưới thị trường ngoại hối trên phạm vi toàn cầu.

1.2. Xác định tỷ giá hối đoái

Trước hết, tỷ giá là một loại giá cả và cũng giống như mọi loại giá khác nó phải do

quan hệ cung cầu xác định, ở đây chính là quan hệ trên thị trường ngoại hối quyết định. Tất

cả những nhân tố có tác động làm thay đổi quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại

 Cung – Cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái cân bằng:

hối đều dẫn đến những thay đổi tỷ giá.

Để thống nhất cách hiểu, chúng ta thống nhất quy ước hiểu tỷ giá như là giá ngoại

tệ tính theo nội tệ. Theo cách quy ước đó những thay đổi tăng lên trong tỷ giá hối đoái sẽ

tương ứng với sự giảm giá của đồng nội tệ, và ngược lại sự suy giảm tỷ giá hối đoái sẽ

được hiểu như sự lên giá của đồng nội tệ. Cũng trong quan hệ tỷ giá, khi nói một đồng tiền

giảm giá thì luôn tương ứng với sự tăng giá của đồng còn lại.

Cung ngoại tệ của một nước phụ thuộc vào nhu cầu từ phía nước ngoài về hàng

hoá, dịch vụ và các tài sản của nước sở tại (nước có đồng nội tệ đang nghiên cứu). Chẳng

hạn như, khi một người nước ngoài du lịch tại một nước nào đó, để chi tiêu và sinh hoạt

người đó không thể sử dụng ngoại tệ trong thanh toán trên thị trường nước sở tại, người đó

phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối và đổi lấy một lượng nội tệ tương ứng để thanh

toán cho nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của mình. Chính hành vi này đã cung cấp cho

nước sở tại một lượng ngoại tệ nhất định. Tương tự như vậy, hành vi mua tài sản (trái

phiếu, cổ phiếu, đầu tư trực tiếp…) của các nhà đầu tư nước ngoài tại một nước nào đó

cũng là hành vi làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối tại nước sở tại. Ngoài ra,

mức cung ngoại tệ của một nước còn bị ảnh hưởng bởi lượng tiền gửi của những người từ

nước ngoài cho người thân của họ ở trong nước (kiều hối) dưới nhiều hình thức khác nhau.

4

Mức cung ngoại tệ ở một thời điểm nhất định luôn được xác định ứng với một tỷ

giá cụ thể. Khi tỷ giá thay đổi mức cung ngoại tệ trên thị trường cũng thay đổi theo. Và khi

cung ngoại tệ thay đổi sẽ làm cho tỷ giá thay đổi. Hướng thay đổi của cung ngoại tệ trên thị

trường ngoại hối có tương quan tỉ lệ thuận với giá, vì cũng như hàng hóa khác, người nắm

giữ ngoại tệ sẵn sàng bán ngoại tệ khi được giá cao. Chính mối quan hệ này có thể nói rằng

đường cung ngoại tệ có dáng hình dốc đi lên. Đường cung ngoại tệ có dạng đi lên thể hiện

rằng: ứng với một tỷ giá cao hơn là một mức cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối cao

hơn và ngược lại.

Cầu ngoại tệ của một nước phụ thuộc vào nhu cầu của nước đó (nhu cầu của chính

phủ, các hãng và các cá nhân) về hàng hóa, dịch vụ và tài sản nước ngoài. Bởi khi muốn

mua hàng hóa nước ngoài, người mua phải cần một lượng ngoại tệ để trả cho số hàng hóa

đó. Do vậy, họ cần đổi đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ, chính những điều này xác định cầu

ngoại tệ của một nước.

Cũng như mức cung về ngoại tệ, mức cầu ngoại tệ cũng luôn được xác định ở một

mức tỷ giá cụ thể vào một thời điểm nhất định. Mối quan hệ giữa cầu ngoại tệ và tỷ giá

được biểu hiện trên đồ thị là đường cầu ngoại tệ. Trong mối quan hệ đó, khi tỷ giá hối đoái

tăng lên giá hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa đắt lên tương đối, do đó nhu cầu về

hàng nhập khẩu của nước đó sẽ giảm, và khi đó mức cầu về ngoại tệ cũng giảm theo.

Ngược lại với mức tỷ giá thấp hơn, giá của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa sẽ

tương đối rẻ hơn làm cho nhu cầu hàng ngoại sẽ có xu hướng tăng lên, kéo theo mức cầu

ngoại tệ tăng. Như vậy, giữa mức cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái có quan hệ tỷ lệ nghịch, đường cầu có hình dốc đi xuống.

ứng với một tỷ giá hối đoái cụ thể trên thị trường ngoại hối là những mức cung cầu

ngoại tệ khác nhau. Giao điểm của đường cung và cầu ngoại tệ chỉ ra mức tỷ giá hối đoái

cân bằng. Tại đó, mức cung ngoại tệ bằng mức cầu ngoại tệ. Đây là kết quả của sự tác

động qua lại giữa hai nhân tố cung – cầu trên thị trường ngoại hối.

Trên đồ thị 1.1, tỷ giá hối đoái cân bằng tại điểm Eo, tại đó cung ngoại tệ bằng cầu

ngoại tệ. Nếu tỷ giá ở phía trên Eo (giả sử tại E1) thì mức cầu ngoại tệ giảm xuống, đồng

thời mức cung ngoại tệ tăng lên, và khi đó sẽ xảy ra dư thừa cung ngoại tệ. Sự cạnh tranh

giữa các nhân tố cung ứng sẽ kéo tỷ giá hối đoái giảm xuống trở về vị trí cân bằng. Ngược

lại, nếu tỷ giá nằm ở phía dưới Eo, (giả sử E2), khi đó E2 < Eo và mức cầu ngoại tệ lớn

hơn mức cung ngoại tệ, xảy ra tình trạng thiếu cung hay dư thừa cầu. Tuy nhiên, do sự

5

tương tác giữa các nhân tố và sự cạnh tranh trên thị trường sẽ dần dần đẩy tỷ giá tăng lên

và hình thành một tỷ giá cân bằng mới trên thị trường hối đoái.

Tương tác cung cầu trên thị trường ngoại hối là nhân tố cơ bản, nhân tố nội sinh

xác định tỷ giá hối đoái cân bằng. Tuy nhiên, điểm cân bằng trên thị trường ngoại hối chỉ

là điểm hướng tới thị trường chứ không phải là điểm luôn luôn đạt được, song tỷ giá hối

đoái luôn xoay quanh điểm tỷ giá hối đoái cân bằng. Bất cứ nhân tố nào làm thay đổi cung

cầu ngoại tệ đều làm thay đổi tỷ giá hối đoái cân bằng. E(usd/vnd)

E1

E0

E2

D(usd)

S(usd)

Đồ thị 1.1: Cung – Cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái cân bằng.

Q(usd)

Nghiên cứu thực tiễn của nhiều công trình cho thấy, xét về dài hạn những biến

động của tỷ giá là tương đối đều đều và có tính chu kỳ, phản ánh tính chu kỳ của quá trình

tăng trưởng (tỷ giá biến động theo hướng tăng giá trị đồng tiền khi nền kinh tế nước đó ở

giai đoạn tăng trưởng và biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ khi nền kinh tế

trong giai đoạn suy thoái). Song về ngắn hạn tỷ giá lại có sự biến động thường xuyên và có

tính đột biến. Có những biến động đó bởi vì, tỷ giá hối đoái còn là một loại giá đặc biệt,

phản ánh tình hình kinh tế của một nước trong tương quan với các nước khác và có liên

quan nhiều đến tình hình kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy bên cạnh những quan hệ về cung cầu

ngoại tệ, tỷ giá hối đoái còn bị chi phối bởi rất nhiều các nhân tố như: mối tương quan kinh

tế giữa các nước, các chính sách kinh tế mà các nước chủ trương lựa chọn, điều kiện kinh

6

tế của mỗi quốc gia, hoạt động của Ngân hàng Trung ương, tình hình lạm phát ở mỗi nước,

sự di chuyển vốn giữa các khu vực và sự vận động của các dòng vốn trên thị trường bất

động sản.

Để làm rõ những điều này, trong phần phụ lục chúng ta đi sâu nghiên cứu, phân

tích cơ chế xác định tỷ giá hối đoái trong dài hạn và trong ngắn hạn.

2. Chính sách tỷ giá hối đoái

2.1. Khái niệm

Mỗi một nước trên thế giới khi bắt đầu mối quan hệ kinh tế và thương mại hoặc các

mối quan hệ khác với một quốc gia nào đó đều phải thiết lập mối quan hệ giữa đồng tiền

của nước mình với đồng tiền của nước đó. Từ đó hình thành nên chính sách tỷ giá hối đoái.

Chính sách tỷ giá hối đoái là một bộ phận hữu cơ và quan trọng đặc biệt trong chính sách quản lý ngoại hối và chính sách quản lý kinh tế vĩ mô.

Chính sách tỷ giá hối đoái là chính sách của mỗi nước lựa chọn loại hình tỷ giá hối

đoái của nước đó, tức là cách tính tỷ giá đồng tiền nước mình so với đồng tiền của nước

khác và các biện pháp quản lý nó. Chính sách tỷ giá hối đoái là những hoạt động của Chính

phủ thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các

công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động

đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Thực tế đã có

nhiều loại hình tỷ giá hối đoái khác nhau như: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái trôi

nổi, tỷ giá hối đoái linh hoạt.

Chính sách tỷ giá hối đoái là một chính sách lớn của hệ thống chính sách trong lĩnh

vực kinh tế đối ngoại nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Chính sách tỷ giá hối

đoái bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành các quan hệ sức mua giữa đồng

tiền của một nước so với sức mua của các ngoại tệ khác, đặc biệt là đối với các loại ngoại

tệ có khả năng chuyển đổi tự do.

Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động vào cung

– cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục

tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai vấn đề lớn:

vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái (cơ chế vận động của tỷ giá hối đoái) và vấn đề điều

chỉnh tỷ giá hối đoái.

Mặc dù có những đặc thù riêng, song chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí như một bộ

phận quan trọng của chính sách tiền tệ và mở rộng hơn nữa là chính sách tài chính Quốc

7

gia. Vì vậy, việc định hướng điều chỉnh của chính sách tỷ giá có ảnh hưởng đến các khía

cạnh kinh tế vĩ mô khác như: ngoại thương, nợ nước ngoài, lạm phát, sản lượng quốc gia,

chiều hướng vận động của các dòng vốn, công ăn việc làm. Do đó, hệ thống mục tiêu và

nội dung của chính sách tỷ giá phải xuất phát từ định hướng phù hợp với các mục tiêu và

nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn.

Đến giai đoạn hiện nay đa số các nước có chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt. Tuy

nhiên việc lựa chọn các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau đều không mất đi sự can thiệp của

Chính phủ trên thị trường ngoại hối. Phần lớn các chính sách của Chính phủ đều tác động

đến tỷ giá hối đoái. Đồng thời thông qua việc tác động đến tỷ giá hối đoái, Chính phủ can

thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ cho nền kinh tế phát triển nhanh và đồng tiền nước

mình được ổn định theo định hướng đề ra.

2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái

Chính sách tỷ giá hối đoái nằm trong hệ thống chính sách tài chính tiền tệ là một

trong những hệ thống chính sách cơ bản để thực hiện các mục tiêu cuối cùng của nền kinh

tế. Trong nền kinh tế mở, động cơ của việc hoạch định chính sách nói chung, chính sách tài

chính, tiền tệ và chính sách tỷ giá nói riêng là nhằm đạt được các cân đối bên trong và cân

đối bên ngoài của nền kinh tế. Các cân đối bên trong và bên ngoài của một nền kinh tế luôn

có mối liên hệ mật thiết với nhau. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay càng làm cho

mối quan hệ này thêm quyện chặt vào nhau. Tỷ giá hối đoái là một biến số có khả năng

ảnh hưởng đến cả hai cân đối đó lẫn mối quan hệ giữa chúng. Vì vậy mục tiêu của chính

sách tỷ giá cũng nhằm phục vụ để đạt được cả hai mục tiêu này. a. Chính sách tỷ giá phục vụ cho mục tiêu cân bằng nội:

Khi các nguồn lực kinh tế của một quốc gia được sử dụng đầy đủ với mức giá được

duy trì ổn định thì quốc gia đó được xem là có tình trạng cân bằng nội. Việc sử dụng không

đầy đủ hay quá mức các nguồn lực đều dẫn đến những hậu quả xấu và lãng phí ở các dạng

khác nhau đối với nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Không những thế nó còn dẫn đến

những biến động về mức giá chung, làm cho giá trị thực tế của các đơn vị tiền tệ kém ổn

định, dẫn đến có tính chất hướng dẫn kém đối với các quyết định kinh tế và sẽ làm giảm

hiệu quả của nền kinh tế. Sự không ổn định của giá cả còn tác động làm thay đổi và tăng

tính rủi ro của các khoản nợ. Lợi ích của chủ nợ và con nợ sẽ bị thay đổi khi giá cả thay đổi

(đặc biệt là giá cả của tiền tệ). Kinh nghiệm thực tế cho thấy, không phải mọi sự biến động

của giá cả nói chung, của tỷ giá nói riêng đều gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Thường

8

chỉ có những biến động không thể đoán trước mới gây ra những hậu quả nguy hại. Còn

những biến động trong giá cả có thể dự kiến được thì có khả năng khắc phục và không gây

nhiều tổn thất.

Vì vậy mục tiêu của chính sách tỷ giá là góp phần tránh tình trạng mất ổn định của

giá cả và ngăn chặn sự dao động lớn trong tổng sản phẩm. Trực tiếp là chính sách tỷ giá

phải góp phần tránh cho nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát hoặc giảm phát kéo dài và

đảm bảo việc cung ứng tiền không tăng lên nhanh quá hoặc chậm quá (không quá mở rộng

cũng như không quá thắt chặt).

b. Chính sách tỷ giá phục vụ cho mục tiêu cân bằng ngoại:

Mục tiêu cân bằng ngoại phụ thuộc vào nhiều biến số phức tạp và khó định lượng

nên rất khó xác định một cách cụ thể. Cách phổ biến hiện nay được dùng để xem xét cân

bằng ngoại là dựa vào trạng thái của cán cân tài khoản vãng lai.

Một sự thâm hụt của cán cân tài khoản vãng lai hàm ý một nước đang đi vay nợ của

nước ngoài sẽ không phải là vấn đề gì nghiêm trọng nếu số tiền đi vay đó được sử dụng để

đầu tư có hiệu quả, đảm bảo trả được nợ trong tương lai và có lãi. Nó chỉ trở nên tồi tệ khi

món nợ đó được dùng phục vụ cho mức tiêu dùng cao không phù hợp với khả năng có thể

trả nợ của nền kinh tế trong tương lai. Tình hình sẽ thực sự nghiêm trọng, nếu một sự thâm

hụt cán cân tài khoản vãng lai lớn, kéo dài là kết quả của chính sách tài chính mở rộng quá

mức nhưng đồng thời không tạo ra những cơ hội đầu tư có hiệu quả. Đây chính là trường

hợp thường thấy ở nhiều nước đang phát triển, trong khi tìm mọi cách tăng khả năng thu

hút đầu tư nước ngoài thì lại để một phần lớn lượng vốn thu hút được sử dụng không hiệu quả.

Ngược lại, một sự dư thừa trong cán cân tài khoản vãng lai nói lên rằng một nước

đang tích tụ tài sản của họ ở nước ngoài. Sự khác nhau về các loại lợi thế và chính sách

giữa các nền kinh tế đảm bảo rằng các tài sản đầu tư ra nước ngoài có thể đem lại lợi ích

cao hơn cho cả nước đầu tư và nhận đầu tư. Nhưng một dư thừa lớn, liên tục trong cán cân

tài khoản vãng lai có thể dẫn đến có ảnh hưởng nghiêm trọng đến những cân đối bên trong

nền kinh tế. Nhiều nguồn lực bị bỏ lãng phí không được sử dụng, sản xuất một số ngành bị

đình trệ, tăng trưởng giảm và thất nghiệp tăng. Sự dư thừa lớn trong cán cân tài khoản vãng

lai còn phản ánh sự vay nợ quá mức của nước ngoài, và nước cho vay có thể không thu hồi

được tài sản của mình nếu các nước đi vay không sử dụng tài sản đó có hiệu quả (rủi ro về

khả năng trả nợ của nước ngoài).

9

Như vậy, mục tiêu cân đối bên ngoài đòi hỏi duy trì một tài khoản vãng lai phải

không thâm hụt hoặc dư thừa quá mức để tránh những hậu quả nghiêm trọng đối với quá

trình phát triển kinh tế của một nước. Và chính sách tỷ giá được lựa chọn phải có khả năng điều chỉnh trạng thái của tài sản vãng lai để không rơi vào tình trạng mất cân bằng ngoại.

10

II. Mối quan hệ giữa chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại quốc tế

1. Các tác động của thương mại quốc tế đến tỷ giá hối đoái nhìn từ góc độ

cán cân thanh toán

Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái nằm trong chính cơ chế xác định tỷ giá và

được phản ánh thông qua những nhân tố làm biến động Cung – Cầu ngoại tệ. Vậy hoạt

động ngoại thương và đầu tư nước ngoài có tác động như thế nào đến các nhân tố đó, hay

cụ thể hơn là có tác động gì đến tỷ giá.

Chúng ta đã biết, cán cân thanh toán là những ghi chép về các giao dịch mà dân cư

và chính phủ một nước thực hiện với thế giới bên ngoài trong một khoảng thời gian nhất

định, thường là một năm. Trong đó ghi chép đầy đủ những khoản thu (có) – chi (nợ) ngoại

tệ của một nước trong quan hệ kinh tế với các nước khác. Một sự tăng lên trong tài sản có

của cán cân thanh toán được ghi với dấu (+), biểu hiện nguồn thu ngoại tệ của một nước

tăng lên. Ngược lại một sự tăng lên trong tài sản nợ của cán cân thanh toán được ghi bằng

dấu (-), biểu hiện sự giảm đi của lượng ngoại tệ của nước đó. Cán cân thanh toán bao gồm

các khoản mục chủ yếu liên quan và tác động đến những thay đổi của tỷ giá. Đó là tài

khoản vãng lai, tài khoản vốn và tài khoản dự trữ chính thức. Chính trạng thái không cân

bằng trong các khoản mục của cán cân thanh toán là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi

trong tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên cần lưu ý một điều là khái niệm không cân bằng trong cán

cân thanh toán sử dụng hiện nay thường được dùng không phải là cán cân thanh toán với

đầy đủ các khoản mục của nó mà chủ yếu chỉ được hiểu bao gồm tổng của tài khoản vãng

lai và tài khoản vốn. Một sự thặng dư trong cán cân thanh toán có nghĩa là cán cân dự trữ

chính thức sẽ giảm, và ngược lại sự thâm hụt của cán cân thanh toán đòi hỏi việc tài trợ

cho nó từ cán cân dự trữ chính thức tăng lên. Trong cấu trúc của cán cân thanh toán, mỗi

 Tác động của tài khoản vãng lai đến tỷ giá hối đoái:

khoản mục chủ yếu của nó có sự tác động khác nhau đến tỷ giá hối đoái.

Tài khoản vãng lai ghi chép các hoạt động mua bán hàng hóa – dịch vụ, thu nhập từ

đầu tư và các khoản chuyển giao có liên quan đến tiền tệ của một nước với nước khác.

Trong đó, cán cân thương mại là nội dung quan trọng nhất của tài khoản vãng lai. Những

thay đổi trong cán cân thương mại có tác động trực tiếp và quan trọng đến tỷ giá hối đoái.

Do vậy, những yếu tố có khả năng tác động làm thay đổi tình hình xuất nhập khẩu đều là

những nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái. Cách tiếp cận xác định tỷ giá hối đoái dài hạn

đã chỉ rõ những nhân tố làm thay đổi cung cầu ngoại tệ có liên quan trực tiếp đến sự thay

11

đổi của cán cân thương mại chính là: mức giá tương đối, chính sách bảo hộ, năng suất lao

động… Mọi sự biến đổi của các nhân tố này đều làm thay đổi về cầu xuất nhập khẩu. Nếu

những nhân tố làm cho cán cân thương mại thặng dư (xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập

khẩu) nước đó có khả năng tăng dự trữ ngoại tệ, giảm tỷ giá hối đoái và tăng giá đồng nội

tệ. Ngược lại, những thay đổi về cầu xuất nhập khẩu làm tăng thâm hụt cán cân thương mại

 Tác động của tài khoản vốn đến tỷ giá hối đoái:

sẽ làm giảm dự trữ ngoại tệ, dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm giá

Tài khoản vốn ghi chép các giao dịch liên quan đến việc mua bán tài sản của một

nước với nước ngoài, bao gồm sự di chuyển của các nguồn vốn vay và các nguồn vốn đầu

tư trực tiếp. Mọi nguồn vốn chảy vào một nước sẽ làm tăng tài sản ngoại tệ của nước đó và

bất cứ lượng vốn nào từ nước đó được chuyển ra nước ngoài cũng đều làm suy giảm tài sản

ngoại tệ của nước đó. Chính vì vậy các nhân tố làm thay đổi luồng di chuyển của dòng

vốn, làm thay đổi cán cân tài khoản vốn đều có tác động làm thay đổi quan hệ cung cầu

trên thị trường tài sản. Tiếp theo, quan hệ cung cầu tài sản đến lượt nó sẽ làm thay đổi tỷ

giá hối đoái và giá trị của các đồng tiền.

Điều kiện cân bằng thị trường tài sản đòi hỏi lợi tức của các đồng tiền phải cân

bằng nhau. Đây chính là cơ sở của cách tiếp cận ngắn hạn mà cơ chế xác định tỷ giá ngắn

hạn và các đặc trưng của nó trên thị trường tài sản (tìm hiểu rõ hơn trong phần phụ lục).

Các nhân tố cơ bản tác động đến tài khoản vốn có liên quan đến biến số có tính nhạy cảm

và rủi ro đã phần nào giải thích vì sao tỷ giá ngắn hạn lại biến đổi linh hoạt và phức tạp

hơn nhiều so với tỷ giá hối đoái dài hạn.

Không giống như tài khoản vãng lai có tác động trực tiếp đến thay đổi của tỷ giá,

tài khoản vốn có cơ chế tác động phức tạp hơn và phải thông qua cơ chế tác động của lý

thuyết lượng cầu tài sản với các nhân tố phức tạp. Bất cứ nhân tố nào có tác động làm thay

đổi lợi tức của tài sản theo hướng làm tăng giá trị của tài sản nội tệ cao hơn tài sản ngoại tệ

thì đều có tác động làm giảm tỷ giá hối đoái, và ngược lại, mọi nhân tố tác động làm tăng

lợi tức tài sản ngoại tệ cao hơn tài sản nội tệ đều có tác động làm tăng tỷ giá hối đoái.

2. Các tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái đến

thương mại quốc tế, thể hiện ở cán cân thanh toán

Chính sách tỷ giá hối đoái tác động làm thay đổi cán cân thanh toán sẽ dẫn tới

những biến động trong ngoại thương. Từ đó sẽ có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát

triển của thương mại quốc tế. Do vậy, cán cân thanh toán thay đổi tốt hay xấu thể hiện rõ

12

nét khi tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái thay đổi, và được biểu hiện tập trung

trước hết là đối với cán cân thương mại – nội dung chủ yếu nhất của tài khoản vãng lai.

Tỷ giá và sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả của hàng

hóa dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi theo hướng giảm sức mua

đồng nội tệ thì giá cả hàng hóa dịch vụ của nước đó sẽ tương đối rẻ so với hàng hóa dịch

vụ của nước ngoài trên thị trường trong nước và quốc tế. Hàng hóa và dịch vụ của nước đó

có khả năng cạnh tranh tốt hơn, dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hóa dịch vụ của nước đó sẽ

tăng, cầu về nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và cán cân

thương mại sẽ chuyển về phía thặng dư. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái thay đổi theo hướng

tăng giá đồng nội tệ sẽ làm cho giá hàng hóa dịch vụ của nước đó tăng tương đối so với

hàng hóa dịch vụ nước ngoài, và khi đó sẽ dẫn tới giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu và cán

cân thương mại chuyển sang phía thâm hụt.

Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái không chỉ tác động trực tiếp đến ngoại

thương thông qua sự tác động của nó đến cầu về nhập xuất khẩu, mà còn tác động một

cách gián tiếp đến ngoại thương của một nước thông qua sự tác động làm thay đổi cán cân

tài khoản vốn. Một sự thay đổi về tỷ giá theo hướng tăng giá đồng nội tệ có tác động thúc

đẩy và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước đó đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi

đó một đồng nội tệ khi tăng giá sẽ đổi được một lượng ngoại tệ nhiều hơn so với trước khi

tăng giá.

Những chế độ và chính sách tỷ giá khác nhau với những đặc điểm và cơ chế xác

định khác nhau có tác động khác nhau đến ngoại thương của một nước. Trong chế độ tỷ giá

cố định trước đây hoặc trong chính sách tỷ giá thiên về cố định hiện nay, tùy mức độ và

cách thức tác động của chúng đến ngoại thương của một nước có khác nhau, nhưng về cơ

bản chúng đều có tác động tích cực đến ngoại thương và thúc đẩy thương mại quốc tế phát

triển. Vì xét ở góc độ là một loại giá, một khi tỷ giá được duy trì ổn định thì nó có thể giảm

thiểu được những rủi ro từ giá cả trên thị trường hàng hóa – dịch vụ và do đó góp phần duy

trì được trạng thái cân bằng tương đối trong cán cân thương mại của một nước thông qua

việc ổn định xuất nhập khẩu. Tuy nhiên sự ổn định của tỷ giá không hàm ý đảm bảo sự

chia sẻ công bằng về lợi ích thương mại giữa các quốc gia (vốn có bản chất là phát triển

không đều), bởi vậy nó không có cơ sở để tồn tại vĩnh viễn (không có ổn định tuyệt đối về

dài hạn). Chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái cố định cũng không cho phép một nước có

thể thông qua cơ chế giá làm tăng lợi ích từ thương mại quốc tế cho mình khi có cơ hội.

13

Hơn nữa, quy luật nội tại thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển vốn không nằm trong

những mối quan hệ công bằng mà nằm trong những mối quan hệ ở ngoài trạng thái cân

bằng và có xu hướng vận động về điểm cân bằng. Sự ổn định tuyệt đối đồng nghĩa với sự

trì trệ và làm mất đi cơ hội tăng trưởng nhanh, đặc biệt là đối với các nước phát triển chậm

đang muốn rút ngắn sự tụt hậu so với các nước phát triển.

Trái ngược với chế độ và chính sách tỷ giá cố định, chế độ và chính sách tỷ giá thả

nổi, biểu hiện ở sự biến đổi thường xuyên theo quan hệ cung cầu trên thị trường, có tác

động làm tăng những rủi ro về yếu tố giá cả đối với các hoạt động ngoại thương và cả hoạt

động tài chính quốc tế. Do đó, xét ở góc độ giá cả, tỷ giá thả nổi sẽ có những tác động tiêu

cực đến ngoại thương nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Nhưng tỷ giá thả nổi

bằng những thay đổi thường xuyên, lại có khả năng phản ánh được tương quan và lợi ích

thương mại luôn thay đổi giữa các nước đã tạo ra động lực để chuyển dịch ngoại thương

đến vị trí cân bằng mới, cao hơn. Chế độ và chính sách tỷ giá thả nổi còn có thể cho phép

một nước tránh được những cú sốc từ bên ngoài hoặc ít ra cũng tạo cho nước đó một cơ hội

để giảm sóc. Tỷ giá thả nổi cũng tạo cơ chế để một nước có thể khai thác tối đa các nguồn lợi của nước đó và thế giới thông qua ngoại thương.

Cả chế độ và chính sách tỷ giá cố định và thả nổi đều có rất nhiều ưu nhược điểm

trái ngược nhau. Chính thực tế này đã gợi ý rằng một chế độ và chính sách tỷ giá kết hợp

hai cực cố định và thả nổi có thể mang lại nhiều lợi ích hơn cho ngoại thương nói riêng và

kinh tế nói chung của một nước, chế độ tỷ giá linh hoạt.

III. Tổng quan về chính sách nâng giá tiền tệ

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TÁC ĐỘNG MỘT CÁCH HẾT SỨC NHẠY BÉN VÀ

MẠNH MẼ ĐẾN SẢN XUẤT, XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ, TÌNH TRẠNG TÀI

CHÍNH, TIỀN TỆ, CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ, THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ

HAY KHẢ NĂNG MỞ RỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI

CỦA QUỐC GIA. VỀ THỰC CHẤT, TỶ GIÁ KHÔNG PHẢI LÀ CÔNG CỤ CỦA

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ BỞI LẼ TỶ GIÁ KHÔNG LÀM TĂNG HAY GIẢM LƯỢNG

TIỀN TRONG LƯU THÔNG. TUY NHIÊN, CÓ NHIỀU QUỐC GIA, ĐẶC BIỆT LÀ

CÁC QUỐC GIA CÓ NỀN KINH TẾ ĐANG PHÁT TRIỂN, ĐANG CHUYỂN ĐỔI, LẠI

COI TỶ GIÁ LÀ CÔNG CỤ BỔ TRỢ QUAN TRỌNG CHO ĐIỀU HÀNH CHÍNH

SÁCH TIỀN TỆ. CÓ 5 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CƠ BẢN:

14

THỨ NHẤT LÀ CHÍNH SÁCH HỐI ĐOÁI, CÒN GỌI LÀ CHÍNH SÁCH HOẠT

ĐỘNG CÔNG KHAI TRÊN THỊ TRƯỜNG, LÀ BIỆN PHÁP TRỰC TIẾP TÁC ĐỘNG

VÀO TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. NHTW HAY CƠ QUAN NGOẠI HỐI CỦA NHÀ NƯỚC

DÙNG NGHIỆP VỤ TRỰC TIẾP MUA BÁN NGOẠI TỆ ĐỂ ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI CHO PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ

MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI.

THỨ HAI LÀ QUỸ DỰ TRỮ BÌNH QUÂN HỐI ĐOÁI, MỘT HÌNH THỨC BIẾN

TƯỚNG CỦA CHÍNH SÁCH HỐI ĐOÁI, MỤC ĐÍCH CỦA NÓ NHẰM TẠO RA MỘT

CÁCH CHỦ ĐỘNG MỘT LƯỢNG DỰ TRỮ NGOẠI HỐI ĐỂ ỨNG PHÓ VỚI SỰ BIẾN

ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, THÔNG QUA CHÍNH SÁCH HOẠT ĐỘNG CÔNG

KHAI TRÊN THỊ TRƯỜNG.

TIẾP THEO, PHÁ GIÁ TIỀN TỆ LÀ VIỆC ĐÁNH TỤT SỨC MUA DANH

NGHĨA CỦA TIỀN TỆ NƯỚC MÌNH SO VỚI NGOẠI TỆ HAY LÀ NÂNG CAO TỶ

GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA MỘT ĐƠN VỊ NGOẠI TỆ. KẾT QUẢ CỦA PHÁ GIÁ ĐỒNG

NỘI TỆ ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP ĐẾN SỰ TĂNG HOẶC GIẢM TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

THỨ TƯ, NÂNG GIÁ TIỀN TỆ LÀ CHỦ ĐỘNG LÀM TĂNG GIÁ TIỀN TỆ SO

VỚI NGOẠI TỆ TỨC LÀ GIẢM TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI DANH NGHĨA

CUỐI CÙNG LÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU, CHÍNH SÁCH CỦA

NHTW TRONG VIỆC THAY ĐỔI LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU CỦA NGÂN HÀNG

MÌNH ĐỂ ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRÊN THỊ TRƯỜNG.

TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ, NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NÀY ĐỀU CÓ

NHỮNG TÁC DỤNG ĐÁNG KỂ. TUY NHIÊN TRONG BÀI KHOÁ LUẬN NÀY, EM

XIN NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ CẬP CHỦ YẾU ĐẾN CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN TỆ,

MỘT TRONG NHỮNG CHÍNH SÁCH TIÊU BIỂU ĐƯỢC NHIỀU NƯỚC ÁP DỤNG

VÀ ÁP DỤNG KHÁ THÀNH CÔNG, ĐIỂN HÌNH LÀ NHẬT BẢN VÀ CỘNG HOÀ

LIÊN BANG ĐỨC.

1. Khái niệm về chính sách nâng giá tiền tệ

Trong những điều kiện của cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị của các nước vì thị

trường nước ngoài, cũng như trong những điều kiện mức độ giảm phát hay lạm phát khác

nhau ở trong nước, đã phát sinh vấn đề cần thiết phải xem xét lại tỷ giá hối đoái của nước

này hoặc nước khác.

15

Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của

đồng tiền nội tệ giảm sút mạnh không thể đại diện cho sức mua danh nghĩa của nó, các

quốc gia thường áp dụng chính sách phá giá tiền tệ. Khác với phá giá tiền tệ, khi nền kinh

tế phát triển quá ‘nóng”, muốn làm “lạnh” nền kinh tế để tránh khủng hoảng cơ cấu, nhiều

quốc gia đã áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ để khắc phục và giải quyết những vấn đề

cần giải quyết do sự phát triển quá nóng của nền kinh tế gây ra.

Nâng giá tiền tệ là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ của nước mình so với ngoại

tệ, tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ giảm, hay là hạ thấp tỷ giá hối đoái xuống.

Đối với một số quốc gia việc nâng giá đồng nội tệ sẽ làm cho đồng nội tệ của quốc

gia mình được đánh giá chính xác hơn trước đây. Do trong thời kỳ trước, các quốc gia này

đã cố tình giảm giá trị thực của đồng nội tệ, hay nói cách khác là đánh tụt sức mua danh

nghĩa của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ giá hối đoái của một đơn vị

ngoại tệ.

Bên cạnh đó, một số quốc gia khác lại áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ nhằm

hướng tới các mục đích khác như: làm nguội nền kinh tế phát triển quá nóng, tăng sức ảnh

hưởng của mình trên trường quốc tế hay tránh phải tiếp cận với đồng USD đang bị mất giá

từ Anh, Mỹ chảy ồ ạt vào. Đôi khi việc nâng giá đồng nội tệ còn do áp lực của một quốc

gia khác. Ví dụ như Trung Quốc đang chịu nhiều sức ép từ phía Mỹ và khối liên minh EU

yêu cầu nâng giá đồng nhân dân tệ

2. Mục tiêu và tác dụng của chính sách nâng giá tiền tệ

2.1. Mục tiêu

Mục tiêu của nâng giá tiền tệ là chống lạm phát (chính sách thu hẹp). Theo ADB

khuyến cáo, khi lạm phát tăng cao, ảnh hưởng của lạm phát sẽ làm giảm sức mua của

người nghèo và làm gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và đặc biệt, nó có ảnh hưởng tiêu

cực đến tăng trưởng kinh tế thực tế và tính cạnh tranh của nền kinh tế đất nước. Hơn nữa,

đôi khi một quốc gia áp dụng chính sách nâng giá còn nhằm mục đích xây dựng sự ảnh

hưởng của mình ra bên ngoài (tăng cường đầu tư và xuất khẩu vốn ra bên ngoài), nhằm hạ

nhiệt nền kinh tế phát triển quá nóng để tránh một cuộc khủng hoảng cơ cấu nghiêm trọng có thể xảy ra.

Nâng giá tiền tệ nhằm mục đích làm tăng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ

hay là điều chỉnh giảm tỷ giá hối đoái của một đơn vị ngoại tệ.

2.2. Tác dụng

16

Một nước áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ nhằm phản ánh đúng hơn giá trị thực

tế của đồng nội tệ. Nếu như phá giá đồng tiền trong nước làm tăng xuất khẩu và giảm nhập

khẩu nhưng cũng đồng nghĩa với việc quốc gia đó đang bán rẻ sản phẩm của mình cho

nước ngoài thì ngược lại nâng giá đồng nội tệ lại làm hàng hoá sản phẩm của quốc gia đó

đắt đỏ hơn tại các thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, nâng giá tiền tệ cũng có tác dụng tốt,

làm hàng hoá của nước đó được bán với mức giá tốt hơn trên thị trường nước ngoài, không

bán rẻ hơn so với mức giá mong đợi các sản phẩm của quốc gia. Đặc biệt là khi hàng hoá

đủ tính cạnh tranh, không cần đến sự phá giá của đồng nội tệ để đạt được nhiều lợi ích hơn.

Ví dụ: khi tỷ giá của đồng VND và USD tăng từ 12000 – 15000 thì giá tôm Việt Nam

là 150.000VND/kg bán cho Mỹ giảm từ 12,5USD/kg xuống còn 10USD/kg. Như vậy, mỗi

kg tôm xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ mất 2,5USD/kg. Trong khi đó, giá máy tính của

Mỹ vẫn là 1000USD/chiếc. Nếu trước đây 80kg tôm mua được 1 máy tính thì bây giờ bán

được 100kg tôm mới mua được 1 chiếc máy tính. Đây là một sự thiệt hại của quốc gia.

Thêm vào đó, khi nâng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ, giá hàng hoá nước ngoài sẽ

trở nên rẻ hơn nên chúng ta sẽ tiêu dùng hàng nước ngoài nhiều hơn. Điều này không có

lợi vì sẽ làm ảnh hưởng đến những hàng hoá sản xuất trong nước và thị trường hướng tới

của những sản phẩm này là thị trường trong nước. Nhưng nếu đó là những hàng hoá không

thể sản xuất trong nước được thì lợi ích tiêu dùng bị mất mát rất lớn.

Hơn thế nữa, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đôi khi quá dựa dẫm vào

chính sách phá giá tiền tệ của chính phủ nhằm hỗ trợ phần nào cho các doanh nghiệp xuất

khẩu. Chính điều này làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp

đó. Chính sách khuyến khích xuất khẩu bằng phá giá tiền tệ khiến họ ỷ lại và không chịu

cố gắng nhiều hơn nữa để hàng hoá của họ có khả năng cạnh tranh cao hơn nữa so với các

sản phẩm xuất khẩu từ các nước khác.Và nếu các doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh

của mình mà không cần đến phá giá tiền tệ, một biện pháp hỗ trợ của ngân hàng trung

ương và chính phủ, thì cùng với việc xuất khẩu tăng, đồng nội tệ của đất nước cũng sẽ tự

động lên giá nhờ vào sức mạnh của nền kinh tế mà không cần chính phủ phải can thiệp.

Với một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp, hàng hoá sản xuất đủ sức cạnh

tranh trên trường quốc tế, làm cho đồng nội tệ có giá là một điều hoàn toàn có lợi.

Tuy nhiên, khi nâng giá đồng tiền nội tệ, nếu các yếu tố khác không thay đổi thì sức

cạnh tranh của hàng hoá trong nước giảm xuống làm cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng.

Xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng, sản lượng trong nước giảm sút, một mặt làm sụt giảm

17

tổng cầu, mặt khác làm cho cán cân thương mại có khuynh hướng nghiêng về phía thâm

hụt, do vậy làm cho nhiều doanh nghiệp trong nước phải cắt giảm sản xuất do giảm cầu.

Lượng xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ mất đi một khoản lợi nhuận thu

được từ nước ngoài. Lượng nhập khẩu tăng dẫn đến việc phải chi nhiều ngoại tệ hơn để trả

cho lợi nhuận của các công ty nước ngoài. Bên cạnh đó, vì muốn nâng giá nên ngân hàng

trung ương phải thu bớt nội tệ vào nên lượng tiền mạnh (H) giảm dẫn đến giảm sút lượng

cung tiền. Điều này làm cho lãi suất tại các ngân hàng tăng lên, không kích thích đầu tư mà

làm cho đầu tư trong nước giảm mạnh, có nghĩa là tổng cầu giảm.

Một điều bất lợi khác của việc áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ là làm mất niềm

tin của người nước ngoài đối với đồng tiền trong nước nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Sự bất ổn định của tỷ giá hối đoái là môi trường cho các nhà đầu cơ nước ngoài thu lợi, các

nhà sản xuất và kinh doanh trong nước khó có được chiến lược lâu dài, luôn phải đứng

trước tình trạng bấp bênh về giá cả và khả năng cạnh tranh của hàng nội địa. Các nhà đầu

tư nước ngoài cũng ngại đầu tư vào một nước mà giá trị đồng tiền không ổn định.

Nói tóm lại, so với phá giá, nâng giá tiền tệ có tác dụng hoàn toàn ngược lại đến

hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước. Nâng giá có tác dụng khuyến khích nhập khẩu,

hạn chế xuất khẩu, cản trở nguồn vốn ngoại tệ chảy vào trong nước. Ngoài ra, một số quốc

gia sử dụng biện pháp này để tránh phải tiếp cận với đồng đô la mất giá đang “chạy trốn”

khỏi Mỹ. Chính phủ Đức và Nhật coi biện pháp nâng giá đồng tiền của mình như là một

biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa đô la mất giá chạy vào nước mình, giữ vững lưu thông

tiền tệ – tín dụng, duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái.

Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” như Nhật Bản, muốn làm “lạnh”

nền kinh tế để tránh khủng hoảng cơ cấu, đã dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm xuất

khẩu hàng hóa, giảm đầu tư trong nước. Việc nâng giá đồng Yên của Nhật Bản cũng tạo

điều kiện để Nhật Bản chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài nhằm xây dựng một nước Nhật

“kinh tế” trong lòng nước khác, nhờ vào đó mà Nhật giữ vững được thị trường bên ngoài,

một vấn đề sống còn đối với Nhật.

3. Những tác động của việc nâng giá tiền tệ

Một trong những tác động của việc nâng giá là làm cho giá cả giảm xuống. Nếu

như phá giá tiền tệ làm cho lạm phát gia tăng thì chính sách nâng giá tiền tệ lại làm cho giá

trị đồng nội tệ tăng lên so với ngoại tệ và giá cả cũng sẽ giảm xuống. Từ đó, tình trạng lạm

phát sẽ được cải thiện, giảm bớt thâm hụt ngân sách nhà nước. Nâng giá đồng nội tệ có ảnh

18

hưởng tích cực đến các chủ thể kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp và công nhân làm việc

trong khu vực xuất khẩu có thể gặp bất lợi từ việc nâng giá trong khi đó nó lại làm lợi cho

người tiêu dùng và các doanh nghiệp nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ có cơ hội được lựa

chọn nhiều sản phẩm hơn trước đây do giá cả hàng hoá trở nên rẻ hơn nhờ vào sự lên giá

của đồng nội tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, họ có thể nhập khẩu hàng hoá

với chất lượng tốt hơn, hoặc cũng có thể nhập khẩu hàng hoá có chất lượng như cũ với giá

rẻ hơn.

Ví dụ: Tỷ giá USD/VND giảm từ 15.000VND đổi 1USD sang còn 12.000VND đổi

được 1USD. Các nhà nhập khẩu laptop trước đây phải dùng 15.000.000VND đổi lấy

1.000USD nếu muốn nhập khẩu 1 chiếc laptop HP. Sau khi tỷ giá giảm có nghĩa là đồng

nội tệ lên giá, chỉ với 12.000.000VND họ đã có thể mua chiếc laptop đó, hoặc với

15.000.000VND sẽ đổi được nhiều ngoại tệ hơn (khoảng gần 1300USD). Do đó, họ có thể

chuyển sang nhập khẩu laptop HP đời mới hơn nữa hoặc nhãn hiệu nổi tiếng hơn, như IBM

Lenovo, Vaio …

Hàng nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất của các quốc gia

đang phát triển. Khi hàng nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất thì

nâng giá sẽ làm giảm giá hàng nhập khẩu và qua đó làm giảm chi phí sản xuất và mặt bằng

giá chung. Sự giảm giá chi phí sản xuất và mặt bằng giá chung sẽ làm tăng sản lượng mà

doanh nghiệp có thể sản xuất. Nếu không có sự thay thế giữa sản phẩm nhập khẩu và sản

phẩm trong nước thì tác động của việc nâng giá sẽ là rất có lợi.

Tuy nhiên, nếu đồng tiền lên giá trong một thời gian dài, cán cân vãng lai có thể bị

thâm hụt dai dẳng. Thâm hụt đó có thể được tài trợ bằng vay nợ nước ngoài hoăc giảm dự

trữ ngoại hối. Nhưng cả hai phương thức tài trợ này đều có những hạn chế nhất định. Vay

mượn làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài trong khi dự trữ ngoại hối chỉ có hạn. Khi không

vay được và dự trữ ngoại hối cạn kiệt, các nước thường áp dụng biện pháp hạn chế nhập

khẩu và đối với dòng vốn chuyển ra ngoài. Khi đó, thị trường ngoại hối tự do phát triển,

trong đó ngoại tệ được bán với giá cao hơn. ảnh hưởng của việc duy trì đánh giá cao tỷ giá

có thể tác động tiêu cực đến việc làm, tiêu dùng, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Điều này có

nghĩa là các nước phải áp dụng nhiều biện pháp đan xen, kết hợp và thay đổi cho phù hợp

với điều kiện kinh tế và thương mại các nước trong những thời điểm khác nhau.

Nâng giá đồng nội tệ cũng khiến có dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tăng

lên nhanh chóng, có nghĩa là xuất khẩu tư bản ồ ạt ra nước ngoài. Nhưng đồng thời với

19

việc đó, đầu tư trong nước sẽ giảm sút nghiêm trọng nếu như chính phủ và ngân hàng trung

ương các nước không có biện pháp khác nhằm thúc đẩy và cải thiện luồng vốn đầu tư trong

nước. Nhật Bản là một kinh nghiệm quý báu về việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài với

đồng JPY mạnh đã mang lại những thành quả tốt đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh đồng JPY

mạnh, Nhật Bản cũng đã phải áp dụng những chính sách phù hợp với từng thời điểm để

hạn chế bớt những tác động xấu do đồng nội tệ lên giá mang lại như nhập khẩu tăng lên,

đầu tư trong nước giảm,…

20

Chương II

Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của một số quốc

gia trên thế giới

CHƯƠNG 1 ĐƯA RA MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUÁT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÙNG VỚI MỤC TIÊU, TÁC ĐỘNG VÀ MỐI QUAN

HỆ VỚI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. VÌ VẬY TRONG CHƯƠNG 2, CHÚNG TA SẼ TÌM

HIỂU THỰC TẾ THẾ GIỚI VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ

TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN THƯƠNG MẠI. ĐIỂM LẠI KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI, MỘT SỐ NƯỚC

THÌ LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH PHÁ GIÁ TIỀN TỆ, NGHĨA LÀ MỘT ĐỒNG NỘI TỆ

YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI; MỘT SỐ NƯỚC KHÁC THÌ LẠI THEO

ĐUỔI CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN

KINH TẾ. ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ, CÓ NƯỚC ĐÃ

GẶT HÁI ĐƯỢC NHỮNG THÀNH CÔNG NHẤT ĐỊNH VÀ CŨNG CÓ NƯỚC KHÔNG

THÀNH CÔNG KHI SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH NÀY ĐỂ NỖ LỰC ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG

MỤC TIÊU KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI CỦA MÌNH. ĐIỂN HÌNH NHẤT LÀ

NHẬT BẢN VỚI VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN TỆ HẾT SỨC

THÀNH CÔNG, ĐÃ ĐEM LẠI CHO NHẬT BẢN NHỮNG THÀNH QUẢ TUYỆT VỜI

TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CẢ VỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI, KHIẾN CHO CHÍNH PHỦ

CÁC QUỐC GIA KHI NHẮC ĐẾN MỘT BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN

TỆ THÌ KHÔNG KHỎI KHÔNG NHẮC ĐẾN NHẬT BẢN. TIẾP ĐÓ LÀ ĐỨC VỚI

CHÍNH SÁCH ĐỒNG NỘI TỆ MẠNH CÙNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH KHÁC ĐÃ

KHIẾN NƯỚC ĐỨC THAY DA ĐỔI THỊT, TRỞ THÀNH MỘT CƯỜNG QUỐC MẠNH

VỀ KINH TẾ. VÀ MỸ LÀ MỘT THỰC TẾ ĐIỂN HÌNH CỦA MỘT SIÊU CƯỜNG QUỐC

VỚI BƯỚC SAI LẦM CÙNG CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ TIỀN TỆ. CHÍNH VÌ NHỮNG

KINH NGHIỆM QUÍ BÁU PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH NÂNG

GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ CỦA CÁC QUỐC GIA NÀY LÀ HẾT SỨC RÕ RÀNG, NÊN TRONG

CHƯƠNG 2, KHOÁ LUẬN NÀY TẬP TRUNG PHÂN TÍCH THỰC TIỄN CỦA CÁC

NƯỚC NHẬT BẢN, ĐỨC VÀ MỸ VỚI ĐỒNG NỘI TỆ MẠNH ĐÃ CÓ NHỮNG TÁC

ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC NÀY. VIỆC NGHIÊN

21

CỨU THỰC TIỄN NÀY SẼ CÓ Ý NGHĨA HẾT SỨC QUAN TRỌNG CHO VIỆT NAM ĐỂ

CÓ THÊM NHIỀU KINH NGHIỆM TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI CỦA MÌNH.

I. Nhật Bản

1. Tình hình chung

Nền kinh tế Nhật Bản cũng như các nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là các

nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển, đã chịu nhiều tác động tiêu cực bởi những

cú sốc từ giá dầu và sự thay đổi của chế độ tỷ giá hối đoái. Sau cú sốc giá dầu lửa và sự

sụp đổ hoàn toàn của chế độ tỷ giá Bretton Woods 1973, từ sau năm 1976 nền kinh tế Nhật

Bản bắt đầu giai đoạn suy giảm tăng trưởng và tiếp tục suy thoái nhiều lần trong suốt mấy

Do vị trí địa lý không thuận lợi, Nhật Bản là một nước phải phát triển kinh tế trong

thập kỷ còn lại của thế kỷ 20.

những điều kiện tự nhiên và nguồn lực đặc biệt khó khăn: đất chật, người đông, hầu như

không có tài nguyên khoáng sản và phải chịu nhiều ảnh hưởng của những hiện tượng địa lý

thiên nhiên, điển hình nhất là động đất thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, Nhật Bản đã tạo

cho mình những lợi thế so sánh về vốn và khả năng chuyển giao, ứng dụng những công

nghệ hiện đại. Để đạt được những thành tựu về kinh tế – chính trị – xã hội, trở thành một

quốc gia hùng mạnh, khắc phục được những khó khăn và bất lợi của mình, Nhật Bản đã có

những chính sách phát triển kinh tế hết sức phù hợp nhằm khai thác triệt để thế mạnh của

đất nước mình. Một trong những chính sách được kể đến trong những bước tiến đem lại

thành công cho xứ sở mặt trời mọc này là chính sách tỷ giá hối đoái. Nhật Bản là một thực

tiễn điển hình cho việc áp dụng khá thành công chính sách tỷ giá hối đoái, trong đó nổi bật

là chính sách nâng giá tiền tệ.

2. Những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái, đặc biệt là chính sách

nâng giá tiền tệ đến thương mại quốc tế

22

Từ sau sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton Woods đến nay, diễn biến tỷ giá của

Nhật Bản có nhiều biến động quan trọng, ta có thể chia ra làm 4 thời kỳ cơ bản, được phân

tích cụ thể ở phần dưới đây.

2.1. Giai đoạn 1974 – 1980 - Thời kỳ thành công rực rỡ nhất với chính sách

nâng giá tiền tệ

Thời kỳ những năm 70 là thời kỳ thể hiện rõ nét nhất sự thành công của Nhật Bản

với chính sách nâng giá đồng nội tệ. Tăng trưởng nhanh và mạnh trong suốt thời gian dài

trước thập kỷ 70 đã tạo tiền đề cho đồng JPY lên giá mạnh. Đặc biệt là sau khi Mỹ tuyên

bố thả nổi đồng USD và chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt thì đồng JPY đã liên

tục lên giá rất mạnh so với USD và các đồng tiền khác. Tính đến cuối những năm 70, đồng

JPY đã lên giá gần 50% so với USD, tỷ giá hối đoái từ 357,60 JPY/1USD năm 1970 giảm

xuống còn 181,80 JPY/1USD vào năm 1979. Đồng JPY lên giá vào giai đoạn này tạo điều

kiện thuận lợi cho Nhật giảm sóc cho nền kinh tế do tác động của các cuộc khủng hoảng,

thay đổi chiến lược phát triển cơ cấu kinh tế và xuất khẩu để khai thác những thế mạnh

hiện có của mình. Đồng JPY lên giá làm cho giá hàng nhập khẩu vào Nhật rẻ hơn đã góp

phần quan trọng vào việc giảm bớt những tác động từ cú sốc giá dầu năm 1973. Vì vậy,

Biểu đồ 2.1 cho thấy từ năm 1970 đến 1976, tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản

kinh tế và ngoại thương Nhật Bản trong giai đoạn này vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao1 hơn nhiều nước công nghiệp phát triển khác.

là 7,0% tăng gần gấp 3 lần các cường quốc Anh, Mỹ và Đức lần lượt là 2,5%, 2,8% và

2,5%. Kể từ sau cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973, tuy tốc độ tăng trưởng GDP có giảm

nhưng tình hình chung là tốc độ tăng trưởng của các nước công nghiệp phát triển khác

cũng giảm đáng kể. Trong giai đoạn 1976 – 1982, Nhật Bản vẫn có xuất nhập khẩu tăng

mạnh và duy trì mức độ tăng trưởng cao hơn các cường quốc như Anh, Mỹ và Đức. Lượng

nhập khẩu của Nhật Bản vẫn ở mức ngang ngửa với các nước đó nhưng xuất khẩu thì tăng

gần gấp đôi với tốc độ 8,0% trong khi đó Anh là 4,3%, Mỹ là 5,4% và Đức là 5,3%. Tốc

độ tăng trưởng trong giai đoạn này giảm xuống còn 3,9% so với giai đoạn trước (7,0%)

nhưng vẫn gấp hơn 2 lần so với các nước công nghiệp phát triển trên.

1 Tuy có giảm hơn giai đoạn trước.

23

BiÓu ®å 2.1: T¨ng tr­ëng GDP thùc tÕ vµ ngo¹i th­¬ng NhËt B¶n thËp kû 70 so víi mét sè n­íc c«ng nghiÖp ph¸t triÓn.

8

7

5,4

5,3

4,3

3,9

m ¨ n %

3

2,8

2,8

2,5

2,5

2,4

2,3

2

1,9

1,4

Tèc ®é t¨ng tr­ëng GDP (1970-1976) Tèc ®é t¨ng tr­ëng GDP (1976-1982) XuÊt khÈu(1976- 1982) NhËp khÈu(1976- 1982)

9 8 7 6 5 4 3 2 1 0

NhËt B¶n

Anh

§øc

Có thể thấy rõ hơn tác động tăng giá của đồng JPY vào thời gian này có tác động

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12 năm 1992.

giảm sóc cho nền kinh tế Nhật thông qua việc xem xét mức độ phụ thuộc của nền kinh tế

Nhật vào bên ngoài. Do đặc điểm về địa lý, đất nước này phải phát triển kinh tế trong điều

kiện phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn lực về nguyên

nhiên vật liệu. Có tới gần 100% các nguyên nhiên vật liệu chủ chốt cho phát triển công

nghiệp Nhật Bản phải nhập khẩu từ nước ngoài (xem bảng 2.2). Nhật Bản nhập khẩu 100%

quặng sắt là nguyên liệu cho các ngành chế tạo máy móc thiết bị, cơ khí…, chủ yếu từ các

nước úc, Braxin và ấn Độ. Đặc biệt là dầu thô, một nhiên liệu quý luôn được mọi quốc gia

quan tâm khai thác và sử dụng rất nhiều, Nhật Bản phải nhập khẩu đến 99,6%. Thêm vào

đó là một số nguyên nhiên liệu khác như quặng đồng nhập khẩu 99,1%, khí đốt 96,0% và

than với 93,4%... Vì vậy, những cú sốc từ bên ngoài, như là những cú sốc từ giá dầu có ảnh

hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản.

Bảng 2.2: Mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu của Nhật Bản về nguyên nhiên vật liệu.

Tỷ lệ phụ

Nguồn nhập từ 3 nước chủ yếu (%)

Hàng nhập

thuộc (%)

1

2

3

24

Than

93,4

úc (51,6)

Canada (17,9)

Mỹ (9,6)

Dầu thô

99,6

Các TVQ ả rập

ả rập Xêút (19,3)

Iran (9,7)

thống nhất (21,6)

Khí đốt

96,0

Indonesia (45,0) Malaysia (18,0)

Quặng sắt

100,0

úc (42,4)

Braxin (27,2)

ấn Độ (12,3)

Quặng đồng

99,1

Chilê (25,2)

Indonesia (18,4)

Canada (14,4)

Nguồn: IMF, International Financial Statistics (IFS).

Chính sự tăng giá của đồng JPY trong thời gian này đã có những tác động quan

trọng giúp Nhật giảm bớt những tác động từ cuộc khủng hoảng giá dầu, nhanh chóng ra

khỏi thời kỳ suy thoái (do tác động của các cú sốc) và tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng

tương đối ổn định. Trong suốt thập kỷ 70, Nhật Bản chỉ có duy nhất một năm (1974, đó là

năm sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng giá dầu lần 1, năm 1973, giá dầu đột ngột tăng lên

gấp 4 lần) là có mức tăng trưởng thực tế âm (-0,7%), còn lại đều có mức tăng trưởng

dương tương đối cao (từ 3,8% đến 9,3% GNP thực tế năm sau so với năm trước (xem đồ

thị 2.3).

§å thÞ 2.3: Tèc ®é t¨ng GNP danh nghÜa vµ thùc tÕ cña NhËt B¶n nh÷ng n¨m 1970 – 1980.

25

20

15

%

10

5

tèc ®é t¨ng GNP danh nghÜa tèc ®é t¨ng GNP thùc tÕ

0

1970 1971 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980

-5

N¨m

Tuy đồng JPY tăng giá có tác động làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Nhật và

Nguồn: IMF International Financial Statistics (IFS).

gây khó khăn cho xuất khẩu, nhưng chính việc lợi dụng sự lên giá đồng JPY phối hợp với

25

những chính sách điều chỉnh thích hợp kịp thời, Nhật đã đưa nền kinh tế nhanh chóng thoát

ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục tăng trưởng (như chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ tốn ít nguyên nhiên vật liệu và các nguyên

nhiên vật liệu mới, phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và cạnh tranh… ,

khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu; và lợi dụng đồng JPY lên giá chuyển hướng

từ xuất khẩu mạnh hàng hoá sang xuất khẩu vốn…). Kết quả là nền kinh tế tiếp tục có tốc

độ tăng trưởng khá cao và đã tác động trở lại thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng nhanh và mở

rộng ra phạm vi toàn thế giới. Nên chính vào thời kỳ này, cán cân thương mại của Nhật đã

chuyển mạnh sang thặng dư vào cuối những năm 70.

Bảng 2.4: Tình hình cán cân thương mại của Nhật Bản thập kỷ 70.

Cán cân

Xuất khẩu

Nhập khẩu

thương mại

Năm

Triệu USD Tỷ lệ tăng (%) Triệu USD Tỷ lệ tăng (%)

Triệu USD

1970

19.318

20,8

25,7

437

18.881

1971

24.019

24,3

4,4

4.307

19.712

1972

28.591

19,0

19,1

5.120

23.471

1973

36.930

29,2

63,2

-1.384

38.314

1974

55.536

50,4

62,1

-6.574

62.110

1975

55.753

0,4

-6,8

-2.110

57.836

1976

67.225

20,6

12,0

2.426

64.799

1977

80.495

19,7

9,3

9.686

70.809

5,6

39,5

-7.640

1979

103.032

110.672

Bảng 2.4 cho thấy sự tác động có tính giảm và tính trễ của những thay đổi trong tỷ

Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3/6 năm 2000.

giá hối đoái và giá trị đồng JPY. Khi chuyển đổi chế độ tỷ giá, đồng JPY lên giá mạnh từ

năm 1971 nhưng sang năm 1973 cán cân thương mại của Nhật mới chuyển sang thâm hụt,

trong 3 năm tiếp sau cán cân thương mại thâm hụt lần lượt từ -1.384 triệu USD vào năm

1973, năm 1974 thâm hụt lớn gấp khoảng 5 lần so với năm 1973 với con số lên tới -6.574

triệu USD; tuy nhiên đến năm 1975 cán cân thương mại vẫn thâm hụt nhưng giảm xuống

26

còn -2.110 triệu USD. Những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, tiền tệ (trong đó có

chính sách hạn chế và kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ), thương mại sau cuộc khủng hoảng

Cú sốc giá dầu lần 2 vào năm 1978 tuy mức độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Nhật Bản

giá dầu 1973 làm giảm tốc độ lên giá của đồng JPY và khuyến khích xuất khẩu cũng chỉ khôi phục lại cán cân thương mại thặng dư bắt đầu vào năm 1976, 1977 sau đó.

không lớn, nhưng cũng đã một lần nữa làm cán cân thương mại Nhật Bản quay lại thâm

hụt khoảng -7.640 triệu USD vào năm 1979.

Bảng 2.5: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản những năm 1970 –

1980.

1970

1975

1976 1977 1978 1979 1980

Năm

904

3.280

3.462 2.806 4.598 4.995 4.693

FDI (Triệu USD)

+262,8 +5,5

-18,9 +63,9 +8,6

-6,0

% thay đổi

Đồng thời với những tác động giảm sóc cho nền kinh tế Nhật Bản, đồng JPY lên

Nguồn: Tạp chí ngoại thương số 17 năm 1995.

giá vào thời kỳ này đã tạo điều kiện cho Nhật xuất khẩu vốn ra nước ngoài. Đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài (FDI) của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng (xem bảng 2.5). Đặc biệt

năm 1975 luồng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật là 3.280 triệu USD, tăng thêm

262,8% so với năm 1970. Năm 1976 tăng thêm 182 triệu USD, tương đương với mức tăng

5,5% so với năm 1975. Năm 1977 là năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần 2

(1978) nên FDI của Nhật là -18,9%, giảm 656 triệu USD so với năm 1976. Tiếp sau đó là

những năm 78 và 79, FDI ra nước ngoài của Nhật Bản luôn đạt khoảng 4,5 tỷ USD cho

đến gần 5 tỷ USD. Điều này góp phần quan trọng thực hiện nhanh chiến lược chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu, khai thác những lợi thế so sánh mới được hình thành

Thời kỳ 1973 – 1980 với 2 cuộc khủng hoảng dầu mỏ xảy ra trên toàn cầu, Nhật

trong giai đoạn trước và chuẩn bị điều kiện để tạo những lợi thế so sánh mới cho Nhật

trong tương lai.

Bản với chính sách nâng giá đồng nội tệ và các biện pháp điều hành nền kinh tế khác,

trong đó chính sách nâng giá là yếu tố quan trọng nhất, đã khiến nền kinh tế Nhật Bản tăng

trưởng mạnh, đó là mục tiêu mà chính phủ Nhật Bản hướng tới và họ đã đạt được mục tiêu

đó.

27

2.2. Giai đoạn 1980 – 1985 - khai thác những mặt tích cực của đồng JPY

giảm giá

Trong thập kỷ 70, đồng JPY lên giá đã có những tác dụng tích cực đến ngoại

thương Nhật Bản, cán cân thương mại thặng dư lớn và đầu tư hay xuất khẩu vốn của Nhật

Bản ra nước ngoài tăng nhanh chóng. Tuy có bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng do

giá dầu tăng mạnh gây nên vào năm 73 và 78 nhưng Nhật Bản là một minh chứng cho việc

áp dụng thành công chính sách nâng giá để cải thiện tình hình kinh tế, thoát khỏi suy thoái

Tuy nhiên, sự lên giá nhanh và liên tục của đồng JPY vào những năm cuối thập kỷ

và tăng trưởng mạnh hơn so với các nước trong khu vực vào cùng thời kỳ.

70 đã khiến việc đi vay bằng đồng JPY trở nên ngày càng đắt, làm giảm sút đầu tư trong

nước và bắt đầu cản trở dòng vốn đầu tư của Nhật Bản ra nước ngoài, năm 1980 FDI của Nhật Bản ra nước ngoài giảm -6,0% so với năm 1979 (xem bảng 2.5).

§å thÞ 2.6: T×nh h×nh tû gi¸ hèi ®o¸i JPY/USD trong nh÷ng n¨m 1980 – 1985.

300

250

251,1

235

232,2

219,9

203

200,5

200

150

100

tû gi¸ JPY/USD

D S U Y/ P J ¸ i g û T

50

0

1980

1981

1982

1983

1984

1985

N¨m

Nguồn: Statiscal Yearbook for Asia and the Pacific 1991.

Chính tác động của những điều chỉnh tỷ giá để tăng giá đồng USD của Mỹ vào thời

điểm đầu những năm 80 với hệ quả là ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) phải thu hẹp

cung ứng cơ số tiền tệ đã phần nào làm cho việc cải tạo cơ cấu đầu tư chậm lại vì tín dụng

khá khan hiếm trong những năm 1981 – 1984, mặc dù lãi suất thị trường đã được BOJ hạ

liên tục để giảm bớt khó khăn cho đầu tư. Hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ này là hậu

quả của một đồng JPY mạnh đã bị suy yêú do chính phủ Mỹ lên giá đồng USD nhằm phục

vụ cho sự cải thiên cán cân thanh toán (Mỹ là bạn hàng số 1 của Nhật Bản và nền kinh tế

28

Mỹ quá lớn, vì vậy ngay khi FED tăng giá USD thì lập tức giá trị đồng JPY giảm). Để bảo

vệ đồng JPY, BOJ đã cố gắng điều tiết thu hẹp cơ số tiền tệ để giảm bớt sự tụt giá này. Từ

Tuy bị ảnh hưởng bởi chính sách và nền kinh tế Mỹ nhưng trong giai đoạn 1980 –

năm 1980 đến năm 1984, đồng JPY chỉ tụt giá 25% (từ 203 xuống 251,1) như đồ thị 2.6 trình bày.

1985, nền kinh tế Nhật Bản vẫn khá phát triển với kim ngạch xuất khẩu tăng đều và cán

cân thương mại nghiêng về phía thặng dư. Đầu tư ra nước ngoài tuy có giảm sút ở một vài

khu vực nhưng vẫn nhìn một cách tổng thể vẫn tăng cao. Bảng 2.7 sẽ thể hiện rõ nét điều

này.

Bảng 2.7: Tình hình cán cân thương mại, ODA và FDI của Nhật Bản trong thời kỳ 1980 – 1985.

Năm Cán cân thương mại (Tr USD) ODA (Tr USD)

FDI (Tr USD)

-10.721

3.304

4.693

1980

8.740

3.171

8.906

1981

6.900

3.023

7.703

1982

20.534

3.761

8.145

1983

33.611

4.319

10.155

1984

46.099

3.797

12.217

1985

Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 11 năm 1993.

Trong nửa đầu những năm 80, cán cân thương mại vẫn tiếp tục thặng dư ngày càng

lớn. Năm 1981, xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và cán cân thương mại đã thặng dư 8.740

triệu USD. Tuy năm 1982 có suy giảm đôi chút đạt 6,9 tỷ USD nhưng 3 năm tiếp theo thì

thặng dư thương mại đạt mức kỷ lục với năm 1983 gấp hơn 3 lần năm trước, là 20.534

triệu USD và 2 năm 84, 85 mức tăng trung bình khoảng 13 triệu USD so với năm trước đó.

Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ Nhật Bản vẫn đều đặn với mức trung bình

khoảng hơn 3 tỷ USD, thấp nhất là 3.023 triệu USD vào năm 1982 và cao nhất là vào năm

1984 với 4.319 triệu USD. Luồng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì tăng lên đáng kể.

Năm 1980 là 4.693 triệu USD, những năm sau đó là 81, 82, 83 đạt gần gấp đôi so với năm

1980. Vào các năm 1984 và 1985, lượng FDI tăng trung bình mỗi năm khoảng 2.000 triệu

USD.

29

2.3. Giai đoạn 1986 – 1993 - điều chỉnh đồng JPY lên xuống cùng với đồng

USD

Cuối năm 1985, chính sách của Hoa Kỳ đột ngột chuyển hướng ngược lại. Để kích

thích kinh tế tăng trưởng nhanh, FED hạ lãi suất chiết khấu và bành trướng cung ứng tiền,

USD tụt giá mạnh từ cuối năm 1985. Đồng JPY lại tiếp tục lên giá một cách nhanh chóng.

Đồng JPY lên giá 20% giữa 2 năm 1984 – 1985, đến năm 1986, nó tiếp tục lên giá 25%

(xem đồ thị 2.8). Kết quả là nhập khẩu từ Mỹ vào Nhật tăng vọt lên 22,8% trong năm 1986

so với mức tăng bình quân 17% đến 18% của các năm trước.

§å thÞ 2.8: T×nh h×nh tû gi¸ hèi ®o¸i JPY/USD trong nh÷ng n¨m 1986 – 1993.

159,1

143,4

134,4 134,71

126,7

125,8

123,5

/

111,2

Tû gi¸ JPY/USD

D S U Y P J ¸ i g û T

180 160 140 120 100 80 60 40 20 0

1986

1987

1988

1989

1990

1991

1992

1993

N¨m

 Ngân hàng BOJ đã có một vài nhận định vào cuối năm 1986 như sau:

Nguồn: Statiscal Yearbook for Asia and the Pacific 1997.

- Thứ nhất, Mỹ sẽ tiếp tục phá giá USD để hỗ trợ cho xuất khẩu và đặc biệt là chính

sách lãi suất thấp để kích thích kinh tế tăng trưởng trong một vài năm tới và sự khuyến

khích điều chỉnh cơ cấu sản xuất của Nhật Bản tiếp tục đòi hỏi phải tăng cung ứng tiền tệ

- Thứ hai, nếu đồng JPY lên giá quá nhanh mà không can thiệp, sẽ phương hại đến đại các loại trong tình hình lạm phát đã ổn định.

bộ phận xuất khẩu hàng hoá hữu hình, mặc dù nó tạo thuận lợi cho Nhật Bản trong việc

xuất khẩu tư bản. Quyền lợi của các ngành xuất khẩu ô tô, máy móc, thiết bị… đòi hỏi phải

giữ đồng JPY lên giá một cách đều đều, không quá nhanh.

30

- Thứ ba, chính sách phá giá đồng USD của Mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi cho Nhật

Bản để tích luỹ ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo cho đồng JPY mạnh hơn

trong tương lai.

Từ những nhận định trên, BOJ quyết định tăng nhanh cung ứng tiền tệ ra thị trường

ngoại hối để mua USD về. Kết quả là dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản (xem bảng 2.9) tăng

gấp đôi trong năm 1987, tăng 20% trong năm 1988 và đồng JPY bắt đầu lên giá chậm

trong 2 năm 1987 – 1988 (xem đồ thị 2.8).

Bảng 2.9: Sự tăng giảm của dự trữ quốc gia Nhật Bản trong quá trình điều tiết cơ số tiền 1980 – 1990.

Đơn vị: tỷ USD.

Chỉ số

1980

1985

1986

1987

1988

1989

1990

1. Ngoại tệ

21,567

22,328 37,675 75,657 90,514 77,992 69,487

2. Vàng

1,802

0,931

1,037

1,203

1,141

1,114

1,206

3. Dự trữ ở IMF

1,331

2,275

2,382

2,853

3,278

3,518

5,971

4. SDRs

1,738

2,116

2,218

2,463

2,936

2,447

3,042

5. Tổng cộng

25,718

27,650 43,294 82,176 97,869 85,071 79,706

Nền kinh tế Nhật Bản được những năm vô cùng hoan hỉ với mức lạm phát thấp, lãi

Nguồn: Statistical Yearbook for Asia and the Pacific 1991.

suất thấp, cơ cấu đầu tư bắt đầu chuyển dần sang những ngành sản xuất đòi hỏi nhiều tư

bản với kỹ thuật cao và xuất khẩu công nghệ ra nước ngoài tăng nhanh với đồng JPY

mạnh. Bằng chứng rõ ràng nhất của những thành công này là sự cải thiện trong cơ cấu cán

cân thanh toán Nhật Bản liên tục từ 1982 – 1988. Ngay từ những năm đầu của thập niên

80, BOJ đã quyết tâm hạn chế sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và chủ trương chuyển

đầu tư sang những ngành khác với lợi thế so sánh của nước Nhật về tư bản và công nghệ;

chấp nhận nhập khẩu hàng tiêu dùng sản xuất từ Đông á với giá thành rẻ hơn do lợi thế so

sánh của họ là nhân công và tài nguyên. Sự bắt đầu của một quá trình thay da đổi thịt này

đã kéo theo việc Nhật Bản gia tăng nhập khẩu hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, sự lên giá của

đồng JPY hỗ trợ một cách triệt để cho việc xuất khẩu tư bản và công nghệ của Nhật Bản ra

nước ngoài. Ngược lại, nó cũng hỗ trợ một cách ấn tượng cho việc gia tăng nhập khẩu từ

Đông á và các nước khác về hàng tiêu dùng và thực phẩm.

31

Bảng 2.10: Lãi suất chiết khấu và ảnh hưởng của nó đến lãi suất các loại và lượng cho

vay của các ngân hàng trung gian.

Chỉ tiêu

1985

1986

1987

1988

1989

1990

1. Lãi suất chiết khấu

5,00

3,00

2,50

2,50

4,25

6,00

(%/năm)

2. Lãi suất thị trường

6,30

4,30

4,30

4,20

6,70

8,20

(%/năm)

3. Lượng cho vay của

368.432 402.835 441.863 489.872 546.547 597.838

các NHTG (tỷ JPY)

Nguồn: BOJ – Main Economic Indicators of Japan, 4/1996.

Trong thời kỳ này, để kích thích cơ cấu kinh tế mới phát triển trong điều kiện đồng

USD giảm giá kéo đồng JPY tăng giá theo, ngân hàng trung ương Nhật Bản quyết định hạ

mức lãi suất chiết khấu đang từ 5,00%/năm vào năm 1985 xuống còn 3,00%/năm vào cuối

năm 1986 (xem bảng 2.10), lãi suất thị trường cũng giảm theo và tín dụng được mở rộng

nhanh chóng tác động đến tăng trưởng kinh tế, đặc biết là đối với các ngành mới và các

Việc đồng JPY lên giá mạnh kết hợp với chính sách lãi suất thấp đã thúc đẩy cả đầu

ngành có liên quan đến xuất khẩu.

tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài tăng nhanh chóng. Ngoài ra, cùng với chính sách

hạn chế, xiết chặt nhập khẩu hàng công nghiệp, thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu (đa dạng

hoá đối tác để giảm thiểu rủi ro, tăng cường tái nhập các hàng hoá sản xuất từ các cơ sở

của Nhật Bản ở nước ngoài để giảm áp lực đồng JPY tăng giá quá mức,… ), kinh tế Nhật

Bản tăng nhanh cả về tổng sản phẩm và ngoại thương, cán cân thương mại và cán cân

thanh toán tiếp tục thặng dư ngày càng lớn (xem bảng 2.11). Nhìn nhận từ việc đồng JPY

tăng giá quá nhanh và cho rằng mình đang đi đúng hướng, BOJ tiếp tục hạ mức lãi suất

chiết khấu xuống 2,50% vào năm 1987. Kết quả là đồng JPY ở mức giá cao kết hợp với lãi

suất thấp đã mở rộng thêm đường cho Nhật Bản xuất khẩu tư bản vào các thị trường mới

nổi trong khu vực và thế giới.

Bảng 2.11: Tình hình tỷ giá, ngoại thương, đầu tư và tăng trưởng của

Nhật Bản 1986 – 1993.

32

FDI ra

Tốc độ tăng

Xuất khẩu

Nhập khẩu

CCTM

Chỉ tiêu

nước ngoài

trưởng GDP

(Tr USD)

(Tr USD)

(Tr USD)

(Tr USD)

(%)

1986

209.151

126.408

82.743

22.320

2,4

1987

229.221

149.515

79.706

33.364

4,3

1988

264.917

187.354

77.563

47.022

6,2

1989

275.175

210.847

64.328

67.540

4,7

1990

286.948

234.779

52.149

56.900

5,6

1991

314.525

236.737

77.778

3,8

1992

339.650

233.021

106.629

1,0

1993

360.991

240.670

120.321

36.025

0,3

Nhưng chính việc sử dụng chính sách tài chính – tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng

Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế Thế giới số 1/2 năm 2000.

nhanh của nền kinh tế Nhật Bản đã tạo thêm những nhân tố không bền vững trong quá

trình tăng trưởng, Nhật Bản rất dễ bị ảnh hưởng lớn bởi các cú sốc từ bên ngoài và không

có đủ tiềm lực để ngăn chặn các tác động từ bên ngoài. Vì vậy, tính chủ động và hiệu quả

trong chính sách điều chỉnh của Nhật Bản có những giới hạn hữu hạn hơn. Chính vì lý do

này, buộc Nhật phải chặt chẽ hơn đối với vấn đề mở cửa, đặc biệt là mở cửa về thương mại

và tài chính. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến chính sách tỷ giá hối

đoái của Nhật trong thời kỳ này có những tác động ngược với cán cân thương mại (cán cân

thương mại liên tục thặng dư khi đồng JPY tiếp tục tăng giá). Tác động ngược của chính

sách tỷ giá đối với ngoại thương còn được giải thích từ những kết quả hoạt động đầu tư của

Nhật Bản với mục tiêu số một là tăng trưởng, luôn tìm mọi giải pháp để khai thác

Nhật ở nước ngoài.

tối đa những lợi thế của mình. Và chính sách tỷ giá trong thời kỳ này là công cụ hữu hiệu

và phục vụ tích cực cho mục tiêu tăng trưởng. Do lợi thế so sánh dồi dào về vốn, nên Nhật

Bản cần duy trì chính sách tỷ giá với đồng JPY mạnh để khuyến khích xuất khẩu vốn ra

nước ngoài. Tuy nhiên, đồng JPY mạnh cũng có những tác động bất lợi cho cán cân thanh

toán vì nó làm giảm sức cạnh tranh hàng hoá - dịch vụ của Nhật Bản. Hơn nữa, đồng JPY

lên giá cũng gây khó khăn cho hoạt động tín dụng, hạn chế đầu tư trong nước và việc đi

vay bằng đồng JPY. Điều này là rất hiển nhiên bởi một lý thuyết rất đơn giản là để đạt

33

được mục tiêu lớn đôi khi chúng ta phải hi sinh những lợi ích khác của mình. Nhật Bản đã

chấp nhận để đồng JPY tăng giá mạnh, giảm đầu tư trong nước và xuất khẩu hàng hoá, đổi

lại nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng mạnh. Chính vì vậy, chính phủ Nhật luôn phải có

sự phối hợp chính sách tỷ giá với các chính sách kinh tế khác và chính sách thương mại để

Đầu năm 1989, khi các nước OPEC nâng giá dầu thô thế giới và xảy ra cuộc khủng

hạn chế những mặt tiêu cực của một đồng JPY mạnh với tốc độ tăng trưởng nhanh.

hoảng vùng vịnh năm 1990, Nhật Bản đã phải áp dụng triệt để chính sách thắt chặt tiền tệ

để tránh những tác động tiêu cực của các nhân tố bên ngoài. Nhưng chính sách thắt chặt lại

tạo thêm áp lực cho đồng JPY lên giá mạnh (do Mỹ vẫn chủ trương duy trì đồng USD yếu)

và đầu tư giảm mạnh, kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái. Năm 1993, mức tăng

trưởng chỉ còn khoảng 0,3%. Tuy nhiên, do có sự kết hợp chính sách thương mại, hạn chế

nhập khẩu cùng với ảnh hưởng tích cực của cơ cấu kinh tế mới và tăng trưởng cao trước

đó, xuất khẩu của Nhật vẫn tăng khiến cán cân thương mại tiếp tục thặng dư vào thời kỳ

này. Khi các nhân tố bên ngoài đã tạm ổn, với chính sách phù hợp của ngân hàng trung

ương Nhật Bản, khoảng cuối năm 1993, kinh tế Nhật Bản đã tạm thời phục hồi.

2.4. Giai đoạn 1994 – 2007 với hai cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ lớn

diễn ra vào các năm 1994 và 1997

Mặc dù đã có những chính sách điều chỉnh phù hợp nhưng tỷ giá đồng JPY/USD

vẫn tiếp tục giảm. Năm 1993, giá trị của đồng JPY đã tăng lên 111,20JPY/1USD. Kết quả

của một đồng JPY mạnh đã gây ra sự mất cân đối cả bên trong và bên ngoài của nền kinh

tế Nhật Bản (thặng dư liên tục cả cán cân thương mại lẫn cán cân thanh toán, kinh tế trong

nước trì trệ và cơ cấu không hợp lý… ) đã làm cho Nhật khó đối phó với các tác động bên

ngoài, điển hình là các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ. Trong giai đoạn này, Nhật

Bản cũng giống như nhiều nước khác trên thế giới bị ảnh hưởng bởi 2 cuộc khủng hoảng

lớn là cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ 1994 tại Mêhicô và các nước Nam Mỹ và cuộc

Cuộc khủng hoảng 1994 tuy không tác động trực tiếp đến Nhật, nhưng lại ảnh

khủng hoảng tài chính 1997 ở các nước Đông Nam á.

hưởng trực tiếp đến Mỹ, nền kinh tế có sức ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và đồng JPY

của Nhật Bản. Sự sụt giá nghiêm trọng của USD đã khiến đồng JPY tăng giá ở mức cao

nhất trong lịch sử 79,75JPY/1USD (19/04/1995) và gây nên những tác động nặng nề cho

nền kinh tế Nhật Bản. Với tỷ giá dưới mức 90JPY/1USD, nhiều công ty tham gia sản xuất

xuất khẩu của Nhật đã rơi vào tình trạng thua lỗ trầm trọng và phải đóng cửa. Cuộc khủng

34

hoảng 1994 kéo theo sự tăng giá đột biến của đồng JPY lần này (xấp xỉ 28%) đã bỗng chốc

tăng thêm gánh nặng của những món nợ khổng lồ của nhiều nước. Do đó, nhiều quốc gia

không muốn vay mượn thêm bằng đồng JPY nữa. Sức ép tăng giá đồng JPY và một số

ngoại tệ mạnh khác so với đồng USD báo hiệu nguy cơ về một cuộc khủng hoảng tài chính

– tiền tệ thế giới, đòi hỏi các thể chế tài chính quốc tế và các nước công nghiệp phát triển

phải đưa ra những đối sách phù hợp để vực dậy sự suy yếu nặng nề của đồng USD. Nỗ lực

đã được đáp lại bằng sự phục hồi giá trị của đồng USD so với đồng JPY, sau khi tụt xuống

mức dưới 80JPY/1USD, đã trở lại duy trì ở mức dưới 110JPY/1USD vào cuối năm 1995

cho đến cuối năm 1996 (xem bảng 2.12).

Bảng 2.12: Diễn biến tình hình tỷ giá hối đoái, ngoại thương và tăng trưởng kinh tế

Nhật Bản 1994 – 2000.

Chỉ tiêu

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

Tỷ giá (JPY/USD)

102,02 94,10 108,80 120,22 131,22 113,80 105,60

Tăng GDP thực tế (%)

0,6

1,4

2,9

-0,7

-2,8

0,5

2,8

Xuất khẩu (tỷ USD)

395,60 442,93 410,87 420,89 411,21 417,38 430,74

Tốc độ tăng XK (%)

9,6

12,0

-7,2

2,4

-2,3

1,5

3,2

Nhập khẩu (tỷ USD)

274,72 336,09 349,12 338,70 313,30 323,95 331,08

Tốc độ tăng NK (%)

14,2

22,3

3,9

-3,0

-7,5

3,4

2,2

CCTM (tỷ USD)

120,85 106,84 61,78

82,19

97,92

93,43

99,65

Trong khi nền kinh tế Nhật Bản chưa kịp hồi phục thì cuộc khủng hoảng 1997 ở

Nguồn: Tạp chí The World 2000/2001.

các nước Đông Nam á có ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Nhật Bản do các nước bị

khủng hoảng đều là những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng của Nhật Bản. Đồng

JPY giảm giá liên tục cùng với sự phá giá của đồng tiền các nước đối tác khu vực của Nhật

đã khiến nước này rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng kéo dài suốt năm 1998 đến

nửa năm 1999. Tuy nhiên, chính sự xuống giá của đồng nội tệ đã giúp hàng hoá Nhật tăng

sức cạnh tranh ở những thị trường không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng như Âu Mỹ

và Trung Quốc, những nước có tỷ giá tương đối ổn định và đồng nội tệ lên giá trong thời

gian này. Đây là lý do giải thích vì sao Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng

nhưng vẫn duy trì cán cân thương mại thặng dư.

35

Đầu năm 1998, lo ngại sự xuống giá của đồng JPY có nguy cơ dẫn đến một cuộc

khủng hoảng Tài chính – tiền tệ mang tính toàn cầu vì sự giảm giá này có thể sẽ kéo theo

sự phá giá của nhiều đồng tiền khác trong khu vực và thế giới, các tổ chức Tài chính – tiền

tệ và cộng đồng quốc tế đã phối hợp sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn sự tiếp tục

xuống giá đồng JPY. Sau nhiều nỗ lực, đến cuối năm 1998, đồng JPY đã bắt đầu tăng trở

lại và duy trì ở mức ổn định cao như trước khủng hoảng ở những năm tiếp sau (xem bảng

2.12). Như vậy, trong điều kiện quốc tế hoá Tài chính – tiền tệ hiện nay, đòi hỏi sự điều

chỉnh các chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng giữa các

nước phải phụ thuộc lẫn nhau. Mức phụ thuộc, bị động của mỗi nước phụ thuộc vào vị thế,

vai trò kinh tế và sức mạnh đồng tiền của nước đó trong hệ thống kinh tế – tài chính thế

giới. Nhật Bản là một nước phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh

Bước sang đầu thế kỷ 21, đồng USD giảm giá liên tục so với các ngoại tệ mạnh

tế nên tính bị động của Nhật Bản trong việc điều hành chính sách càng cao.

khác do những biến động của tình hình kinh tế Mỹ và những bất ổn của các yếu tố bên

ngoài như chiến tranh, khủng bố… Chính vì vậy, đồng JPY lên giá không ngừng từ năm

2001 và duy trì ở mức tỷ giá thấp so với đồng USD cho đến nay. Chỉ riêng trong năm

2004, đồng JPY tăng 1% so với đồng USD; tính chung cho 4 năm 2001 – 2004, tỷ giá hối

đoái theo tỷ trọng thương mại thực tế của đồng JPY đã tăng 9% so với đồng USD.

Bảng 2.13: Diễn biến tỷ giá, lạm phát và tăng trưởng của Nhật Bản từ 2001 – 2006.

Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

2006

121,55 125,22 115,98 108,17

110,12

116.30

Tỷ giá (JPY/USD)

-0,9

0,3

-0,1

-1,3

0,1

Lạm phát (%)

0,4

0,3

2,7

2,6

2,6

2,7

GDP (%)

5,03

5,38

5,26

4,72

4,4

4,1

Thất nghiệp (%)

Từ năm 2001 đến năm 2005, tình hình kinh tế Nhật Bản cũng không mấy lạc quan

Nguồn: Foreign Exchange Data, [8, các website]; IMF International Financial Statistics.

cho dù trong 2 năm 2003 và 2004, tốc độ tăng trưởng đã đạt hơn 2% nhưng nền kinh tế vẫn

chịu sức ép của việc giảm phát nên vẫn chưa thực sự hồi phục sau đợt khủng hoảng. Hoạt

động xuất nhập khẩu cũng phần nào được cải thiện hơn; năm 2001, hoạt động xuất khẩu

36

của Nhật Bản đạt 480tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2000; còn nhập khẩu đạt 381tỷ USD,

Năm 2006, kinh tế Nhật Bản bắt đầu tăng trưởng ổn định, tốc độ tăng trưởng cả

tăng 15,1% so với năm 2000, đứng thứ 3 thế giới về nhập khẩu.

năm đạt 2,7%, cao hơn một chút so với mức 2,6% của năm 2005. Chỉ số môi trường kinh

doanh liên tục gia tăng thúc đẩy đầu tư tăng cao, trong khi đó tiền lương và thị trường lao

động được cải thiện tác động tích cực đến lòng tin của người tiêu dùng. Tỷ lệ thất nghiệp

giảm từ mức 4,4% năm 2005 xuống còn 4,1% năm 2006. Lạm phát CPI liên tục vượt mức

0% từ đầu năm 2006, cả năm đạt 0,3%; lạm phát cơ bản cũng liên tục vượt mức 0% từ

tháng 5/2006, đạt 0,2 - 0,3%; chênh lệch sản lượng lần đầu tiên trong gần 10 năm đạt mức

Năm 2007, đồng JPY liên tục tăng giá so với đồng USD do kinh tế Mỹ phục hồi lớn hơn 0 (+0,7%) vào quý I/2006.

kém, thị trường bất động sản của Mỹ trì trệ, trong khi đó nền kinh tế Nhật Bản phục hồi

nhanh hơn. Nhiều công ty Nhật, nhiều nhà đầu tư đã tăng cường chuyển vốn từ USD sang

JPY làm cho đồng JPY càng tăng giá mạnh hơn. Cuối tháng 10/2007, trong khi đồng USD

tiếp tục tuột dốc thì đồng JPY tăng giá liên tục trong nhiều ngày do các thị trường chứng

khoán châu á giảm đang hối thúc các nhà đầu tư bán các đồng tiền khác để mua đồng JPY.

Cũng vì lý do này mà đồng JPY đã tăng giá so với cả 16 đồng tiền hoạt động mạnh nhất

như đồng Euro, đồng USD, đồng Đô la úc, đồng Won Hàn Quốc… Việc đồng JPY tăng

giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt đã gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu Nhật Bản, đặc

biệt là tại thị trường Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của các công ty Nhật Bản. Nhìn

chung, năm 2007 là một năm nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục đà phục hồi với tốc độ tăng

trưởng 2,3%, nhờ xuất khẩu sang Trung Quốc và các thị trường đang nổi lên tăng mạnh và

tiêu dùng cá nhân tăng. Xuất khẩu tăng mạnh đã góp phần làm tăng nhanh thặng dư tài

Tóm lại, nổi bật trong các chính sách tiền tệ của Nhật phải nói đến chính sách tỷ giá

khoản vãng lai của Nhật Bản.

hối đoái, trong đó có chính sách nâng giá tiền tệ đã được ngân hàng trung ương và chính

phủ Nhật Bản áp dụng rất thành công trong một thời gian khá dài. Đồng JPY mạnh kết hợp

với những chính sách mềm dẻo khác như điều chỉnh lãi suất, bảo hộ hàng hoá nội địa, hạn

chế nhập khẩu…đã đem lại nhiều thành quả cho Nhật Bản như ngày nay. Theo những phân

tích ở trên, ta thấy Nhật Bản là một điển hình của việc áp dụng thành công chính sách nâng

giá đồng nội tệ, đặc biệt là trong thời kỳ xảy ra 2 cuộc khủng hoảng lớn về dầu mỏ năm

1973 – 1980 và thời kỳ đồng JPY điều chỉnh lên xuống cùng với đồng USD những năm

37

1986 - 1993. Đồng JPY mạnh không chỉ giúp Nhật tránh được các cú sốc từ bên ngoài như

giá dầu tăng một cách đột biến, các cuộc khủng hoảng khác, đồng thời tạo cho Nhật Bản

thế chủ động hơn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ một nước xuất khẩu các mặt

hàng như tivi, tủ lạnh… chuyển sang xuất khẩu mạnh về vốn, cán cân thanh toán thặng dư

và tốc độ tăng trưởng nhìn chung là tương đối cao.

II. Đức thời kỳ sử dụng đồng DM

1. Tình hình chung

Đức là một quốc gia công nghiệp phát triển, để trở thành một trong những nước có

tiềm lực kinh tế lớn mạnh, Đức cũng phải trải qua những giai đoạn hết sức khó khăn, kinh

tế của quốc gia này cũng đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi chiến tranh, suy thoái, khủng hoảng

và những biến động phức tạp ngay trong nội bộ đất nước. Chính phủ Đức cũng đã sử dụng

rất nhiều biện pháp, chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế, trong đó phải kể đến

Trải qua những giai đoạn phát triển kinh tế, với nhiều biến động chung quanh việc

chính sách tiền tệ.

suy thoái, gia nhập hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS), khủng hoảng vùng Vịnh, thống nhất

đất nước…, chính phủ Đức cùng ngân hàng trung ương Đức đã điều chỉnh chính sách tiền

tệ một cách rất thành công với điều có thể thấy là kinh tế nước Đức từ chỗ suy yếu nặng

nề, đã được sắp xếp, cơ cấu lại và đến nay đã trở thành một trong những quốc gia có nền

kinh tế phát triển cường thịnh với tốc độ tăng trưởng mạnh tại châu Âu, lạm phát được

kiềm chế giữ ở mức thấp nhất. Đồng DM trở thành đồng tiền mạnh được sử dụng trong các

Đồng DM mạnh cũng đã giúp chính phủ Đức rất nhiều trong quá trình điều hành và

giao dịch thương mại và dự trữ quan trọng trên thế giới.

phát triển nền kinh tế, đặc biệt là trong những thập kỷ 80, 90. Cũng giống như Nhật Bản,

Đức định hướng phát triển kinh tế theo hướng ổn định nội địa và tăng trưởng kinh tế dựa

vào hướng ngoại. Trong đó, điều tiết hướng về tăng trưởng hướng ngoại là chủ thể ưu tiên.

Xuất khẩu là con đường tăng trưởng nhanh nhất cho nền kinh tế cả về hướng ngoại và đối

nội để xác lập vị trí cường quốc cho quốc gia. Tỷ giá hối đoái là công cụ phục vụ đắc lực

cho mục tiêu lớn này của Đức. Bằng việc điều tiết cung ứng cơ số tiền DM trên thị trường,

ngân hàng trung ương Đức điều tiết tỷ giá theo từng mục tiêu bộ phận của từng thời điểm

trong năm trong khuôn khổ của các chiến lược chính, tiến tới điều tiết xuất nhập khẩu và

sản lượng nền kinh tế nước Đức. Giá cả và tổng cầu đã được kiểm soát ở mức khá ổn định

dựa trên việc kiểm soát khá chặt chẽ cung ứng cơ số tiền tệ là hạt nhân. Với tổng khối tiền

38

tệ được giữ dao động trong khoảng 53,8% GDP, mọi biến động trong nền kinh tế Đức đều

xuất phát từ thay đổi trong khối tiền tệ này. Điều tiết tiền tệ là phương thức chủ đạo để

điều tiết và định hướng nền kinh tế Đức, đặc biệt trong những năm 80 và 90 của thế kỷ 20.

Và điều tiết cung ứng cơ số tiền không những tác động đến tỷ giá hối đoái mà còn là công

cụ chính để hình thành tổng khối tiền tệ của quốc gia. Thêm vào đó, ta có một nhận định

chung rằng một nền kinh tế ngày càng mở cửa ra cộng đồng với lượng xuất khẩu trên GDP

ngày càng tăng nhanh thì chính sách tỷ giá là một công cụ hàng đầu để ổn định cán cân

thanh toán và phòng ngừa rủi ro.

2. Sự tăng giá của đồng DM và những tác động của nó

2.1. Giai đoạn đầu phát triển 1960 – 1980

Phát triển kinh tế Đức luôn song hành cùng với mục tiêu ổn định bên trong (kinh tế

đối nội), cân bằng cán cân thanh toán (kinh tế đối ngoại) và hướng tới tăng trưởng kinh tế

mạnh. Trong thời kỳ hệ thống tỷ giá hối đoái cố định cùng với nghĩa vụ can thiệp trong

khuôn khổ hệ thống Bretton Woods, việc bảo vệ kinh tế đối ngoại và chính sách ổn định

trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng cho chính sách tiền tệ của Đức, nghĩa là Đức có 2

mục tiêu trong thời kỳ này là ổn định giá trị đồng tiền trong nước và bảo đảm những yêu

cầu của kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên do mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ được ưu tiên hàng

đầu, để tránh nguy cơ kinh tế phát triển vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế dẫn

đến mất cân đối về kinh tế đối nội và đối ngoại, nên lần đầu tiên năm 1961, ngân hàng

trung ương Liên Bang Đức (DBB) đã nâng giá đồng DM 5% thành 1USD = 4DM : tăng

giá trị đồng tiền để có được sự bảo vệ về kinh tế đối ngoại cho sự ổn định về kinh tế đối

 Việc nâng giá này đã có những tác động như sau:

nội.

- Giữa năm 1961, cán cân thanh toán vãng lai Tây Đức đã bình thường trở lại sau

một thời gian dài dư thừa từ năm 1952 do chính sách hủy bỏ tự do hoá nhập khẩu để khắc

phục thâm hụt cán cân thanh toán.

- Dòng vốn đầu cơ giảm (cán cân chu chuyển vốn thâm hụt 4tỷ DM; chênh lệch lãi

suất giữa Đức và Mỹ, Đức tăng lãi suất trong khi Mỹ giảm lãi suất). - Xuất khẩu giảm 10% và ít tác động đến nhập khẩu.

Trong những năm tiếp sau, không có sự xung khắc nghiêm trọng và lâu dài giữa

mục tiêu kinh tế đối nội và đối ngoại trong chính sách tiền tệ của Đức, không có khủng

hoảng đồng DM, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển bình thường.

39

BiÓu ®å 2.14: Tû gi¸ hèi ®o¸i cña DM so víi USD trong nh÷ng n¨m 70.

6,66 6,66

7

6

5

/

4

3,12

2,63

2,5

3

2,22

Tû gi¸ DM/USD

1,85 1,75

2

D S U M D ¸ i g û T

1

0

1970 1971 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980

N¨m

Nguồn: Foreign Exchange Data, [8, các website]; IMF International Financial Statistics.

Trong giai đoạn sau cho tới khi gia nhập vào khối liên minh Châu Âu (EU), nội bộ

kinh tế - chính trị Đức đã tương đối đi vào khuôn khổ, đồng DM đã có lúc tăng giá mạnh

mẽ và trở thành một trong những đồng tiền chủ đạo trên thế giới.Tỷ giá đồng DM/USD

trong năm 1970 và 1971 là 6,66; cho đến năm 1973 tỷ giá này đã giảm xuống còn một nửa

là 3,12. Trải qua các năm tiếp theo cho đến năm 1980, đồng DM liên lục lên giá so với

đồng USD. Đến cuối năm 1980, tỷ giá đồng DM/USD giảm tương đối mạnh với 1,75

DM/1USD (xem biểu đồ 2.14).

Từ năm 1980 đến 1982, nước Đức cũng như các nước công nghiệp khác, bước vào

cuộc đại suy thoái toàn cầu do nhiều nguyên nhân khác nhau. Với nước Đức, nguyên nhân

chính là do sự kết hợp cùng lúc của nhiều nhân tố, đó là hậu quả của đợt khủng hoảng giá

dầu thô lần thứ hai bắt đầu từ tháng 8/1978 và kéo dài cho đến thời điểm nói trên. Chính

sách lên giá đồng DM của DBB nhằm chuẩn bị cho Đức thế mạnh khi bước vào hệ thống

tiền tệ châu Âu (EMS), cùng với cú đánh vì sự tăng giá nguyên nhiên liệu nhập ngoại làm

cho sức sản xuất của công nghiệp nội địa suy giảm. Và sự gia tăng xuất khẩu tư bản đã làm

cán cân thanh toán thâm hụt đến 23,9 tỷ DM cuối năm 1980.

Bảng 2.15: Một số chỉ tiêu kinh tế của nền kinh tế Đức 1980 – 1984.

Chỉ tiêu

1980

1981 1982 1983 1984

40

2,4

0,5

-1,0

1,9

3,3

1. GNP thực (%)

2,1

0,8

-2,0

2,3

2,0

2. Tổng cầu nội địa (%)

5,2

6,6

5,3

3,3

2,4

3. Giá cả hàng tiêu dùng (%)

8,9

27,7

51,3

42,1

53,9

4. Cán cân thương mại (tỷ DM)

-23,9

-8,1

12,1

11,5

27,8

5. Cán cân thanh toán (tỷ DM)

5,2

6,6

5,3

3,3

6. Lạm phát (%)

Nguồn: World Economic Outlook and DBB Annual Report 1995.

Suy thoái cùng với sự tăng giá đầu vào đã kích giá cả tiêu dùng tăng vọt lên trong 3

năm từ 1980 đến 1982. Tổng cầu nội địa giảm 2% dưới không vào năm 1982, GNP thực

chỉ tăng 0,5% trong năm 1981 do ngân hàng trung ương DBB đã tăng lãi suất chiết khấu

lên tới 7,5% và lãi suất tín dụng lên 9,5%; thắt chặt cung tiền 6,523tỷ DM năm 1980 giảm

còn 2,7tỷ DM năm 1981; tổng lượng tín dụng cũng được thắt chặt với lượng tiền cung ứng

tháng 12/1980 là 6,5tỷ DM xuống chỉ còn 3,9tỷ DM cuối năm 1981. Điều này làm cho một

nửa khu vực sản xuất cho xuất khẩu thiếu vốn chỉ sản xuất 2/3 sản lượng và hầu như tất cả

các bộ phận công nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu đều phải thu hẹp khả năng

đầu tư. Tuy bóp nghẹt tổng cầu nội địa nhưng DBB đã thực hiện được mục tiêu chống lạm

phát, lạm phát từ hai chữ số năm 1979 xuống còn 5,2% trong năm 1980 và đến cuối năm

Nhìn chung, trong giai đoạn 1979 – 1982, DBB đã duy trì chính sách tiền tệ và tín

1983 chỉ còn 3,3% (xem bảng 2.15).

dụng hạn chế với mục tiêu giữ lạm phát thật thấp và một đồng DM mạnh trên thị trường

tiền tệ châu Âu. Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ, nâng giá đồng DM cũng đã làm

tăng tỷ lệ thất nghiệp và làm giảm khả năng phát triển của những ngành công nghiệp nhẹ ở

Đức.

2.2. Giai đoạn nửa cuối những năm 80 đến thập kỷ 90

Chính phủ Đức đã áp dụng các biện pháp tiền tệ để đồng DM lên giá từ từ hàng

năm so với USD sau đợt phá giá năm 1983 nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp và kích thích

ngành công nghiệp nhẹ của Đức tăng trưởng. Việc đồng DM tăng giá trong giai đoạn này

đã làm giảm giá hàng nhập khẩu, củng cố mức lạm phát thấp cho nền kinh tế Đức; đồng

Năm 1986, Hoa Kỳ bắt đầu chiến dịch mở rộng tiền tệ, hạ lãi suất và phá giá USD. thời xuất khẩu tăng đã củng cố vị thế của đồng DM.

ảnh hưởng của phá giá USD đã lan sang Đức, DM liên tục lên giá so với USD trong những

41

khoảng thời gian từ 1985 đến cuối 1988, 1989 đến cuối 1992 và 1994 cho đến cuối 1995.

Chính phủ Đức đã rất khôn khéo khi lèo lái chính sách tiền tệ để đồng DM lên giá từ từ,

Xuất khẩu của Đức hoạt động rất tốt từ năm 1984 đến 1987, sản phẩm nhựa xuất DBB đã sử dụng những biện pháp như hạ lãi suất và tăng cung tiền nội tệ để sự tăng giá DM không quá nhanh và mang tính đột ngột.

khẩu chiếm 23,71% tổng sản lượng nhựa xuất khẩu toàn thế giới, trong khi con số ấy ở

Hoa Kỳ chỉ là 11,49% và Nhật Bản là 7,34%. Hoá chất công nghiệp các loại trong giai

đoạn 1984 – 1987 chiếm 21,82% tổng xuất khẩu thế giới (cả EC là 60,93%, Mỹ chiếm

13,06% và Nhật Bản là 7,96%). Máy móc thiết bị các loại không phải là máy điện chiếm

19,97% sản lượng toàn thế giới, cao hơn Mỹ và Nhật Bản. Xuất khẩu của Đức trong nội bộ

EC và tính cả ngoài EC trong giai đoạn trên, lớn nhất thế giới. Chính sự tăng mạnh mẽ về

Từ năm 1988 đến 1990, lo ngại đồng nội tệ lên giá quá nhanh, chính phủ Đức đã có

xuất khẩu đã làm dự trữ ngoại tệ của Đức liên tục gia tăng.

những biện pháp như gia tăng mua trên thị trường ngoại hối, tăng cung nội tệ nhằm hướng

- Không làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Đức vào EC và

tới 2 mục tiêu:

thị trường Hoa Kỳ,

- Bành trướng thêm cơ số tiền tệ để hỗ trợ cho kế hoạch tăng trưởng kinh tế nhanh

trong 5 năm 1987 – 1992.

Bảng 2.16: Diễn biến tỷ giá, ngoại thương, giá cả của Đức 1985 – 1995.

Tổng

Giá cả

Cán cân

Cán cân

Tỷ giá

Chỉ tiêu

GNP(%)

cầu nội

hàng tiêu

thương mại

thanh toán

DM/USD

địa (%)

dùng(%)

(tỷ DM)

(tỷ DM)

1985

73,4

50,1

2,2

0,8

2,94

1,9

1986

112,6

87,8

-0,1

3,3

2,17

2,3

1987

117,7

82,8

0,2

2,4

1,80

1,5

1988

128,0

86,9

1,3

3,6

1,77

3,7

1989

134,6

107,5

2,8

2,9

1,88

3,6

1990

105,4

79,0

2,7

5,2

1,62

5,7

1991

21,9

31,9

4,6

6,1

1,66

2,9

1992

33,7

-33,5

4,9

3,0

1,56

2,2

42

1993

-1,2

4,7

61,9

-26,8

1,65

-1,1

1994

1,7

3,1

73,3

-34,7

1,62

2,3

1995

1,43

2,8

2,2

2,2

87,5

-30,3

Mặc dù Đức cùng các ngân hàng trung ương khác trong khối G-10 cùng bán nội tệ

Nguồn: World Economic Outlook and DBB Annual Report 1995.

ra mua USD vào để ngăn bớt sự mất giá của USD nhằm trước hết cứu giá trị của những

khoản dự trữ quốc gia khổng lồ bằng USD ở mỗi nước, và sau đó là củng cố năng lực cạnh

tranh cho xuất khẩu, USD vẫn sụt giá so với DM. ở đây, vai trò của xuất khẩu là nguyên

nhân quan trọng. Năm 1989 và nửa đầu 1990, xuất khẩu của Đức tăng quá nhanh. Với một

nền kinh tế có GNP thực tăng trưởng cao nhất thế giới vào năm 1990 (5,7%) và xuất khẩu

sang thị trường Hoa Kỳ tăng 15%, sang EC tăng 18,5% trong một số mặt hàng chủ đạo,

nguồn ngoại tệ đổ vào thị trường ngoại tệ FrankFurt và nước Đức là quá nhiều. Nhận thấy

không thể bành trướng cơ số tiền tệ nhiều hơn nữa, DBB và chính phủ Đức đành để cho

Do sự tăng giá của đồng DM, năm 1993, tổng cầu rớt xuống -1,2% (xem bảng

DM lại tiếp tục lên giá so với USD vào cuối năm 1989 đến cuối 1992.

2.16), sản lượng nội địa sụt giảm nhanh chóng. Đứng trước nguy cơ về một cuộc đại suy

thoái, DBB đã liên tục can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm làm tăng tỷ giá để kích

thích trở lại tổng cầu, từ đó đạt được mục tiêu cao hơn là chống thất nghiệp. Sự phát triển

khá lạc quan của nền kinh tế vào nửa cuối năm 1994 đã làm cho thất nghiệp giảm đi đáng

Tuy vậy, tiền lương cao là vấn đề khó khăn ngày càng lớn dần đối với sức cạnh

kể.

tranh của hàng hoá Đức trên thị trường Tây Âu và Hoa Kỳ so với hàng hoá Nhật Bản. Đến

năm 1994, một công dân Đức trung bình chỉ còn làm việc khoảng 1500giờ/năm, quá thấp

so với Mỹ (1850giờ/năm) và Nhật Bản (2165giờ/năm). Điều đó khiến các nhà kinh doanh

Đức từ những năm 1989 đã tìm cách chuyển dần đầu tư ra nước ngoài. Năm 1983, tổng

đầu tư của Đức ra nước ngoài dưới nhiều hình thức (đầu tư trực tiếp, cho vay, đầu tư vào

chứng khoán nước ngoài…) chiếm 36,5tỷ DM. Năm 1987, con số này tăng gấp đôi với

62,2tỷ DM, năm 1990 là 106,9tỷ DM. Năm 1993, tổng lượng đầu tư ra nước ngoài là 198tỷ

DM, bình quân cứ gấp đôi sau 5 năm. áp lực của nhu cầu này tăng cao trong năm 1994 và

để hỗ trợ cho đầu tư ra nước ngoài của giới kinh doanh Đức như một bộ phận của chính

sách mở rộng đường giới hạn của sản lượng tiềm năng quốc gia, giảm chi phí và tăng năng

lực cạnh tranh của xuất khẩu, tháng 2/1995, DBB quyết định tăng giá DM (xem bảng

43

2.16). Đồng DM lên giá đã khiến lạm phát chỉ còn 2,2% (từ mức 3,1% vào đầu năm 1995)

vào cuối tháng 3/1996. Xuất khẩu tư bản ra nước ngoài dưới nhiều hình thức được sự trợ

giúp của đồng DM mạnh hơn, đã tăng 8,6% so với mức tăng 4% của xuất khẩu trong cả

năm 1995 và sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư ra nước ngoài đã đưa về những khả năng mở

Tóm lại, từ thực trạng quá trình vận động của đồng DM ta có thể nhận thấy, một

rộng sản lượng nhanh hơn cho nền kinh tế Đức.

đồng DM mạnh cùng với những chính sách điều tiết phù hợp của chính phủ và ngân hàng

trung ương Đức đã đem lại không ít thành công cho nền kinh tế Đức từ chỗ suy yếu phải

vực dậy nền kinh tế do ảnh hưởng của việc tham gia chiến tranh, các cuộc khủng hoảng…

đã đi vào ổn định và phát triển trở thành một cường quốc. Chính sách tỷ giá là một công cụ

hàng đầu giúp Đức ổn định giá cả, ổn định cán cân thanh toán, phòng ngừa rủi ro và quan

trọng là đạt được mục tiêu ổn định nội địa và tăng trưởng hướng ngoại.

III. Mỹ

1. Tình hình chung

Mỹ là một siêu cường quốc, có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó, thị

trường tiền tệ, thị trường hối đoái là những thị trường được phát triển và hoàn thiện vào

loại bậc nhất của thế giới. Phương pháp điều chỉnh chính sách kinh tế nói chung và chính

sách tỷ giá nói riêng đã đạt đến độ tương đối hoàn hảo và không chỉ có ảnh hưởng đến

Diễn biến chính sách tỷ giá hối đoái kể từ khi Mỹ tuyên bố thả nổi đồng USD được

thương mại, kinh tế của Mỹ mà còn có những ảnh hưởng tới thương mại và kinh tế toàn

cầu. chia thành 5 thời kỳ như sau:

- Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ đồng USD để thả nổi thay thế cho chế độ tỷ giá cố định,

diễn ra trong suốt thập kỷ 70.

- Thời kỳ thứ hai là từ 1980 – 1985, gắn liền với chính sách thắt chặt tiền tệ và khôi

phục giá trị đồng USD của Mỹ với hy vọng lấy lại những thăng bằng cho nền kinh tế mà

trong suốt 10 năm của thập kỷ 70 chưa giải quyết được.

- Thời kỳ thứ ba từ sau 1985 cho đến 1993, duy trì đồng USD theo hướng giảm giá trị

phục vụ cho chiến lược khôi phục và bành trướng kinh tế Mỹ.

- Thời kỳ thứ tư là 1994 cho đến 2000, đồng USD được điều chỉnh lên xuống để ứng

phó với các cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến kinh tế Mỹ và kinh

tế thế giới.

44

- Thời kỳ thứ năm, thời kỳ đồng USD giảm giá, duy trì chính sách đồng USD yếu từ

Vị trí quốc tế của đồng USD đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Mỹ và có

năm 2001 đến nay.

những ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển thương mại, kinh tế thế giới. Khác với đồng

tiền của các nước khác, những diễn biến của đồng USD không chỉ có ảnh hưởng đến nền

kinh tế Mỹ, hay một số các nước có quan hệ kinh tế chủ yếu đối với Mỹ; mà còn có ảnh

hưởng đến hầu hết nền kinh tế của các quốc gia và toàn bộ hệ thống kinh tế thế giới, trước

hết là hệ thống tài chính – tiền tệ và thương mại, đầu tư quốc tế. Vị trí của đồng USD trong

khi tạo điều kiện cho nền kinh tế Mỹ phát triển; nền kinh tế Mỹ phát triển đến lượt nó lại

tạo điều kiện cho đồng USD củng cố vị thế và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình. Hơn

thế nữa, sự tác động qua lại hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa kinh tế và tiền tệ đã tạo cơ sở

để chính phủ Mỹ điều tiết chủ động đồng USD ngày càng được tự do hoá trong hệ thống

Trong các thời kỳ của diễn biến chính sách tỷ giá hối đoái, thời kỳ thứ hai là thời

tài chính tiền tệ quốc tế.

kỳ tăng giá đồng USD nhằm khôi phục nền kinh tế khôi phục nền kinh tế tăng trưởng kém

và đang bị suy thoái trong những năm 70. Tuy nhiên chính sách nâng giá đồng nội tệ này

của Mỹ dường như đã không thành công. Nếu như những thực tiễn nêu trên về Nhật Bản

và Đức là những ví dụ điển hình của việc áp dụng hết sức thành công chính sách nâng giá

đồng nội tệ hay chính sách đồng nội tệ mạnh, đặc biệt là Nhật Bản, thì Mỹ dường như áp

dụng và không đem lại những kết quả như mong đợi.

2. Chính sách tăng giá đồng USD trong thời kỳ 1980 – 1985 và tác động

của nó

Sau khi Mỹ tuyên bố thả nổi đồng USD, nền kinh tế Mỹ phải đối mặt với những cú

sốc bên ngoài và rơi vào nhiều cuộc khủng hoảng làm đồng USD liên tục giảm giá mạnh

so với các ngoại tệ khác. Tính đến cuối những năm 70, đồng USD đã giảm giá so với đồng

JPY khoảng trên 50% và khoảng 70% so với đồng DM của Đức.

45

§å thÞ 2.17: C¸n c©n th­¬ng m¹i cña Mü nh÷ng n¨m 70.

20

10

10

2

0

-2

-5

72

73

74

75

76

77

78

79

80

-10

C¸n c©n th­¬ng m¹i

-20

-25

D S U û T

-28

-30

-37

-40

-40

-48

-50

-60

N¨m

Hậu quả của nền kinh tế những năm 70 không chỉ làm cho giá trị đồng USD suy

Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 1/2 năm 2000.

giảm mà còn làm cho cả cân bằng nội và ngoại của Mỹ đều bất ổn, trong đó phải kể đến sự

Nhận định rằng chính sách tiền tệ mở rộng vào những năm 70, lạm phát cao và

lên xuống bất thường của cán cân thương mại Mỹ (xem đồ thị 2.17).

chính sách tỷ giá hối đoái không có khả năng thiết lập lại những cân đối, thúc đẩy nền kinh

tế trở lại tăng trưởng nhanh và thoát ra khỏi suy thoái. Mỹ đã quay trở lại thực thi chính

Mỹ đã áp dụng một loạt các chính sách tài chính, tiền tệ, tỷ giá và thương mại sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát và khôi phục giá trị của đồng USD. Đồng USD chuyển sang tăng giá từ đầu những năm 1980 cho đến năm 1985.

nhằm làm giảm thâm hụt ngân sách, tăng lãi suất, mở rộng thu hút vốn đầu tư nước

ngoài,… và kích thích nền kinh tế phát triển. Kết quả là đồng USD bắt đầu tăng giá trở lại

kể từ năm 1980. Mặc dù Mỹ đã ra sức khuyến khích chính sách thương mại tự do nhưng

dấu hiệu suy giảm cán cân thương mại cuối thập kỷ 70 lại bắt đầu gia tăng nhanh chóng và đạt kỷ lục vào năm 1987 là 158 tỷ USD.

Bảng 2.18: Tỷ giá hối đoái và tài khoản vãng lai của Mỹ 1982 – 1988.

Đơn vị: % thay đổi

Chỉ tiêu

1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988

-7,9

-5,4

-6,6

-3,8

19,8

12,7

6,9

TGHĐ (USD/ngoại tệ)

46

0,0

-1,0

-2,4

-2,8

-3,4

-3,5

-2,8

Tài khoản vãng lai

Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 4/8 năm 1996.

Đồng USD đã tăng giá trong nửa đầu thập kỷ 80, từ 1980 – 1985, làm cho giá cả

hàng nhập khẩu vào Mỹ giảm và bắt đầu tăng trở lại tình trạng thâm hụt cán cân thương

mại và tài khoản vãng lai vào năm 1983. Sự thâm hụt của cán cân thương mại và tài khoản

vãng lai tiếp tục kéo dài và gia tăng cho tới năm 1987, mặc dù từ năm 1986 đồng USD bắt

đầu giảm giá trở lại. Và chỉ sang năm 1988, sự thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản

Một nguyên nhân quan trọng khác góp phần làm xấu đi nghiêm trọng cán cân

vãng lai mới bắt đầu có dấu hiệu suy giảm.

thương mại của Mỹ là do những chính sách thương mại của Mỹ trong thời gian này đối lập

với các đối tác thương mại lớn của Mỹ. Đầu những năm 80, trong khi Mỹ bảo vệ quan

điểm tự do hoá thương mại thì các nước Tây Âu và Nhật Bản, các đối tác quan trọng của

Mỹ lại tăng cường chính sách bảo hộ. Trong tình huống như vậy, sự gia tăng giá trị của

đồng USD đầu thập kỷ 80 đã tạo cơ hội cho nhập khẩu vốn và hàng nước ngoài vào Mỹ

Kết quả cuối cùng của những năm 1980 – 1985 là thâm hụt ngân sách của Mỹ

nhưng không tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Mỹ xuất khẩu ra nước ngoài.

không giảm mà tăng lên gấp 3 lần (từ 74 lên 221 tỷ USD), lãi suất thực tế ở mức cao nhất

thế giới (7% - 10%), đồng USD lên giá 50%, thâm hụt thương mại tăng gấp 6 lần. Tất cả

những kết quả này cho thấy bản thân chính sách tài chính - tiền tệ thắt chặt và tỷ giá hối

đoái ủng hộ việc tăng giá đồng nội tệ và sự điều chỉnh chặt chẽ của nhà nước cũng không

Tóm lại, chính sách nâng giá đồng nội tệ là một bộ phận của chính sách tiền tệ, nó

đạt được những mục tiêu đã đề ra.

có những tác dụng tích cực nếu như chính phủ các nước sử dụng đúng thời điểm, phù hợp

với hoàn cảnh và ngược lại. Trong bài luận văn này, thực tiễn của Nhật, Đức và Mỹ đã cho

thấy cả mặt tích cực và tiêu cực của việc áp dụng chính sách tiền tệ nói chung và chính

sách tỷ giá hối đoái nói riêng với đồng nội tệ mạnh. Nhật Bản trải qua các thời kỳ phát

triển đã hết sức thành công với đồng JPY mạnh kết hợp với các công cụ điều hành khác

của chính phủ và ngân hàng trung ương Nhật Bản. Đức với chính sách tỷ giá linh hoạt,

thay đổi tăng giảm phù hợp, và sử dụng chính sách đồng nội tệ mạnh đúng thời điểm đã

đem lại những tác động có lợi cho nền kinh tế. Ngược lại, trường hợp của Mỹ vào thời kỳ

những năm đầu của thập kỷ 80 đã cho thấy chính sách nâng giá đồng USD của Mỹ vào giai

47

đoạn đó là không thích hợp, dẫn đến những tác động tiêu cực, không cải thiện được tình

hình kinh tế Mỹ mà ngược lại cán cân thương mại Mỹ lại xấu đi nghiêm trọng.

Chương III

Một số Bài học kinh nghiệm trong điều hành tỷ giá hối đoái cho

Việt Nam

TỪ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ CỦA

MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG CHƯƠNG 2 TA CÓ THỂ NHÌN NHẬN

NHỮNG CÁI ĐƯỢC VÀ MẤT CỦA CÁC NƯỚC KHI ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH NÀY.

CHƯƠNG 2 CHO TA THẤY NHẬT BẢN NGAY TỪ NHỮNG THẬP NIÊN 70 ĐÃ ÁP

DỤNG CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ VÀ ĐÃ THÀNH CÔNG RỰC RỠ VỚI MỘT NỀN

KINH TẾ VỮNG MẠNH NHƯ NGÀY NAY, HAY NHƯ ĐỨC TRẢI QUA CUỘC

CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II VỚI NỀN KINH TẾ SUY YẾU VÀ GÁNH NẶNG

NỢ RẤT LỚN, NHƯNG VỚI SỰ KHÔN KHÉO CỦA MÌNH TRONG VIỆC ĐIỀU

HÀNH CHÍNH SÁCH ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT CƯỜNG QUỐC VÀ TRONG NHỮNG

GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA MÌNH, ĐỨC CŨNG CÓ NHỮNG THỜI ĐIỂM ÁP

48

DỤNG CHÍNH SÁCH TĂNG GIÁ NỘI TỆ, NÓ ĐÃ ĐEM LẠI CHO ĐỨC NHIỀU

THUẬN LỢI LẪN KHÓ KHĂN. NHƯNG SỰ KẾT HỢP ĐỒNG NỘI TỆ LÊN GIÁ VỚI

CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ KHÁC ĐÃ GIÚP ĐỨC TRỞ THÀNH MỘT NỀN KINH

TẾ LỚN MẠNH. BÊN CẠNH NHỮNG MINH CHỨNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH

NÂNG GIÁ TIỀN TỆ HẾT SỨC THÀNH CÔNG, THÌ MỸ VỚI GIAI ĐOẠN 1980 –

1985 ĐÃ CHO TA THẤY SỰ KHÔNG HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH NÀY NHẰM

CẢI THIỆN TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ MỸ MÀ THÂM HỤT THƯƠNG MẠI CÒN

TĂNG LÊN.

ĐÓ LÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỪ NHỮNG NƯỚC ĐÃ TỪNG ÁP DỤNG

CHÍNH SÁCH NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ. THÊM VÀO ĐÓ, NHIỀU CHUYÊN GIA

KINH TẾ ĐÃ NHẬN ĐỊNH RẰNG TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM CÓ NÉT TƯƠNG

ĐỒNG TRONG VIỆC ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI. VÌ VẬY

TRONG CHƯƠNG 3, CHÚNG TA SẼ ĐỀ CẬP THÊM VỀ TRUNG QUỐC, TÌNH

HÌNH KINH TẾ TRUNG QUỐC VỚI CHÍNH SÁCH PHÁ GIÁ TIỀN TỆ, DƯỚI SỨC

ÉP TỪ CÁC PHÍA TRUNG QUỐC ĐỐI MẶT VỚI VIỆC NÂNG GIÁ ĐỒNG NHÂN

DÂN TỆ. VẬY NẾU TRUNG QUỐC NÂNG GIÁ THÌ SẼ CÓ TÁC DỤNG TIÊU CỰC

HAY TÍCH CỰC. VỚI KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN, ĐỨC, MỸ VÀ TRUNG

QUỐC – MỘT NƯỚC CŨNG THƯỜNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH PHÁ GIÁ TIỀN TỆ,

NẾU NÂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ SẼ CÓ NHỮNG TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO, TỪ

ĐÓ TA RÚT RA BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.

I. Trung Quốc và chính sách phá giá đồng nội tệ

1. Những tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến ngoại thương và

đầu tư nước ngoài

1.1. Tình hình chung

Nếu trong trường hợp của Nhật Bản, sự đột phá gắn liền với việc tăng giá đồng nội

tệ JPY thì trong trường hợp của Trung Quốc, sự đột phá lại gắn với việc phá giá đồng nhân

dân tệ (NDT). Từ năm 1979 đến 1993 (14 năm), Trung Quốc đã điều chỉnh mạnh tỷ giá hối

đoái 7 lần. Xu hướng điều chỉnh là phá giá mạnh đồng NDT. Năm 1993, mức điều chỉnh tỷ

giá hối đoái so với năm 1985 đã là gần 70%. Nhưng mặc dù phá giá liên tục và với biên độ

lớn như vậy, tổn thất xuất khẩu do tỷ giá gây ra vẫn rất lớn (xem bảng 3.1). Lý do là vì tỷ

giá NDT/USD có mặt bằng xuất phát “phá giá” quá thấp nên dù phá giá mạnh như vậy,

mức tỷ giá vẫn chưa đạt đến điểm hoà vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

49

Bảng 3.1: Tổn thất tài chính đối với xuất khẩu do tỷ giá ở Trung Quốc.2

Chỉ tiêu

1979

1981

1983

1985

1988

1993

Chi phí để thu 1 USD xuất khẩu

2,40

2,31

3,02

3,67

5,80

6,32

Tổn thất ứng với 1 USD xuất khẩu 0,85

0,49

0,22

0,73

2,08

1,0

Nguồn: N. Lardy 1992; Wong 1998, [9, các website].

Cùng với quá trình cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế tỷ giá hối đoái của

Trung Quốc cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế phát

triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Bước đầu tiên của quá trình chuyển đổi trong chế độ và chính sách tỷ giá ở Trung

Quốc là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây thả nổi theo sát những diễn biến của tỷ

giá trên thị trường trong giai đoạn 1979 – 1990. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố

thị trường vào trong cơ chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi

cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết

và định hướng của nhà nước. Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá

hối đoái danh nghĩa theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của đồng

NDT bị đánh giá cao trước đây trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách.

Sau khi tỷ giá được điều chỉnh phản ánh tương đối chính xác với những biến đổi

của thị trường và sức mua thực tế của đồng NDT, Trung Quốc chuyển sang cơ chế cố định

tỷ giá. Trong giai đoạn 1990 – 1993, tỷ giá danh nghĩa của đồng NDT với USD được duy

trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT/1USD. So với những năm 70, chính sách

điều chỉnh tỷ giá của Trung Quốc cũng đã có nhiều chuyển biến đáng kể, các nhà xuất

khẩu không phải xin cấp giấy phép về ngoại tệ như trước kia nữa, các đặc khu đã được

quyền ấn định tỷ giá theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Song trên thực tế cả nước, giai

đoạn này, Trung Quốc vẫn áp dụng chế độ 2 tỷ giá: tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối

đoái giao dịch (tỷ giá hối đoái giao dịch được quyết định bởi các giao dịch của các công ty

thương mại được phép mua hoặc bán một phần ngoại hối của các nhà nhập khẩu). Cơ chế 2

tỷ giá thực sự đã cản trở rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, của hoạt

động kinh tế – tài chính nói riêng và bắt đầu có tác dụng xấu đến mục tiêu tăng cường mở

cửa theo chiều sâu và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế (xem bảng 3.2).

2 Đây là số liệu tính toán, được lấy từ các nguồn nhưng không có công thức, do vậy không thể cập nhật thêm được.

50

Mặc dù dự trữ ngoại tệ được cải thiện và tăng gấp 2 lần trong 3 năm, từ 11,1 tỷ

USD năm 1990 lên 21,2 tỷ USD năm 1993, nhưng tình hình cán cân thương mại và lạm

phát Trung Quốc có biểu hiện xấu đi trầm trọng. Cán cân thương mại Trung Quốc đã

chuyển từ mức thặng dư 9165 triệu USD năm 1990 sang thâm hụt trầm trọng tới -12.220

triệu USD vào năm 1993. Lạm phát Trung Quốc tăng gấp 5 lần trong 3 năm, từ 3,06% năm

1990 lên đến 14,58% năm 1993.

Bảng 3.2: Biến động của tỷ giá NDT/USD, cán cân thương mại, lạm phát và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc giai đoạn 1990 – 1993.3

1990

1991

1992

1993

Chỉ tiêu

4,783

5,323

5,515

5,762

TGHĐ trung bình năm (NDT/USD)

9165

8743

5183

-12220

Cán cân thương mại (triệu USD)

3,06

3,54

6,34

14,58

Lạm phát (%/năm)

11,1

21,7

19,4

21,2

Dự trữ ngoại tệ (tỷ USD)

Nguồn: IMF, Editorial Board of Fiscal Yearbook of China, 1995.

Để cải thiện tình hình, năm 1994, chính phủ Trung Quốc quyết định phá giá mạnh

đồng NDT. Biên độ phá giá mạnh lên tới gần 50%: từ mức 5,762 NDT/1USD năm 1993

lên 8,6187 NDT/1USD kể từ ngày 1/1/1994 (xem bảng 3.3). Kể từ thời điểm đó cho đến

năm 2006, ngân hàng trung ương Trung Quốc với những chính sách điều hành của mình đã

nỗ lực duy trì mức tỷ giá khoảng trên 8 NDT/1USD.

Trung Quốc với chính sách phá giá đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là

giai đoạn sau năm 1994 khi bắt đầu phá giá mạnh và giai đoạn sau khi gia nhập WTO. Từ

năm 1993 cho đến năm 2006, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc luôn là con số dương,

thấp nhất cũng là 7,3% năm 2001 và cao nhất là 13,49% năm 1993. Và một điểm đáng chú

ý khác là tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc, mặc dù phá giá mạnh đồng tiền nhưng chính phủ

Trung Quốc cũng đã duy trì được mức lạm phát không quá cao bắt đầu từ năm 1997 cho

tới năm 2006. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc là 11,50%, một con số khá

ấn tượng; tuy nhiên đi cùng với nó là một tỷ lệ lạm phát khá cao 6,50%, gấp hơn 2 lần so

với năm 2006 là 2,50%.

3 Số liệu cập nhật xem ở các bảng tiếp theo.

51

Bảng 3.3: Tình hình tỷ giá, lạm phát và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Trung Quốc

1994 – 2007.

TGHĐ

Lạm phát

Chỉ tiêu

Tốc độ tăng trưởng (%/năm)

(NDT/USD) 5,7620

(%/năm) 14,58

1993

13,49

1994

8,6187

24,24

12,70

1995

8,3514

16,90

10,50

1996

8,3142

8,32

9,59

1997

8,2898

2,80

8,80

1998

8,2790

-0,80

7,80

1999

8,2783

-1,40

7,11

2000

8,2785

0,40

8,00

2001

8,2771

0,70

7,30

2002

8,2770

-0,80

8,00

2003

8,2770

1,20

9,10

2004

8,2768

3,90

9,50

2005

8,1938

3,00

9,80

2006

7,9734

2,50

10,70

2007

7,5069

6,50

11,50

Nguồn: Foreign Exchange Data, Central Bank of China, Republic of China; IMF

International Financial Statistics.

Cùng với việc thay đổi chính sách tỷ giá, chế độ quản lý ngoại hối của Trung Quốc

cũng được cải cách mạnh mẽ: tỷ giá chính thức thống nhất với mức tỷ giá hoán đổi hiện

hành; chế độ giữ lại ngoại tệ được bãi bỏ, thị trường ngoại hối liên ngân hàng được thành

lập. Ngân hàng trung ương Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động về ngoại

hối ở các ngân hàng bằng cách quy định chỉ một số ngân hàng có toàn quyền hoạt động

trong thị trường ngoại hối, được phép chuyển đổi ngoại hối và quy định số lượng chuyển

đổi. Đối với các công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ

từng năm một. Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài buộc phải có giấy phép đổi

52

ngoại tệ mạnh sang NDT. Các doanh nghiệp nhà nước yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu

được thay vì mức 50% như trước.

Việc cải cách chế độ tỷ giá (thực chất là thống nhất các loại tỷ giá đi liền với việc

phá giá đồng tiền) đã có tác động rất mạnh và hầu như tức thời đến động thái của nền kinh

tế Trung Quốc, đặc biệt là đối với hoạt động ngoại thương và thu hút vốn đầu tư.

1.2. Tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái đến ngoại thương Trung Quốc

Việc phá giá đồng NDT với quy mô 50% dẫn tới kết quả tức thì: cán cân thương

mại từ chỗ thâm hụt chuyển thành cán cân thặng dư 5,4 tỷ USD năm 1994. Kể từ đó cho

đến khi Trung Quốc gia nhập WTO (năm 2000), xu hướng này luôn được giữ vững với

mức thặng dư thương mại cao ổn định (xem bảng 3.4).

Cuối năm 2001, khi Trung Quốc đã gia nhập WTO cũng là lúc nền kinh tế thế giới

tăng trưởng thấp. Mặc dù thương mại quốc tế phục hồi tương đối chậm, đầu tư trực tiếp

quốc tế giảm mạnh, nhưng nền kinh tế quốc dân và kinh tế đối ngoại Trung Quốc vẫn giữ

mức tăng trưởng nhanh và giành được thế chủ động trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc

liệt. Một trong những nguyên nhân quan trọng là Trung Quốc đã phát huy hiệu quả tích

cực sau khi gia nhập WTO và khai thác triệt để lợi ích từ chính sách phá giá nội tệ của

mình.

Mặc dù Trung Quốc gặp phải khá nhiều khó khăn do dịch SARS, thiên tai và sự

biến động giá dầu quốc tế nhưng thương mại quốc tế của Trung Quốc vẫn tăng trưởng

nhanh. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đạt 620,77 tỷ USD,

tăng 21,8% so với năm 2001. Trong đó xuất khẩu đạt 325,6 tỷ USD, tăng 22,3%; nhập

khẩu đạt 295,17 tỷ USD, tăng 21,2% cao hơn mức 4% của thương mại thế giới năm đó. Vị

trí xuất khẩu của Trung Quốc trên thế giới đã từ thứ 6 năm 2001 tăng lên thứ 5 năm 2002.

Từ năm 2003 trở đi, Trung Quốc vẫn duy trì mức tăng trưởng với tốc độ cao trong ngoại

thương, mỗi năm tăng thêm khoảng 200 tỷ USD. Năm 2004, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt

1154,8 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt 593,4 tỷ USD, tăng 35,4%; nhập khẩu đạt 561,4 tỷ

USD, tăng 36%, xuất siêu tới 32 tỷ USD (xem bảng 3.4). Xuất khẩu sản phẩm cơ điện có

tỷ trọng vượt quá một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao

và mới chiếm gần 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 3.4: Tình hình xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán của Trung Quốc 1994 – 2004.

Đơn vị: tỷ USD.

53

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Cán cân thương mại

Chỉ tiêu

91,74

103,96

-12,22

1993

121,01

115,61

5,40

1994

148,78

132,08

16,70

1995

151,05

138,83

12,22

1996

182,79

142,37

40,42

1997

183,71

140,24

43,47

1998

194,93

165,70

29,23

1999

294,20

225,09

24,11

2000

266,10

243,55

22,55

2001

325,60

295,17

30,43

2002

438,37

412,84

25,53

2003

593,40

561,40

32,00

2004

Nguồn: China Statistical Yearbook, China Statistics Press, 2005.

Các bạn hàng lớn của Trung Quốc trong nửa đầu năm 2005 là: EU, bạn hàng lớn

nhất với tổng kim ngạch song phương lên đến 100,05 tỷ USD, tăng 23,6%; Mỹ là bạn hàng

lớn thứ hai, Nhật Bản là bạn hàng lớn thứ ba; ASEAN là bạn hàng lớn thứ tư với con số

tương ứng là 46,26 tỷ USD và 25,1%; 86,54 tỷ USD và 10,2%; 59,76 tỷ USD và 25%.

Lượng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc năm 2006 đạt gần 1086,5 tỷ USD so với năm

2005 là 821,51 tỷ USD. Tính từ năm 2004 cho đến nay, lượng dự trữ ngoại hối của Trung

Quốc tăng xấp xỉ 200 tỷ USD mỗi năm; riêng năm 2007, lượng dự trữ ngoại hối tăng xấp

xỉ 400 tỷ USD so với năm 2006 (xem bảng 3.5).

Bảng 3.5: Lượng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc 2000 – 2007.

Đơn vị: tỷ USD.

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Dự trữ

168.28 215,61 291,13 408,15 614,50 821,51 1068,49 1528,20

ngoại hối

Nguồn: Foreign Exchange Data, Central Bank of China, Republic of China; IMF

International Financial Statistics.

54

Kể từ năm 1994 và sau khi gia nhập WTO cho tới nay, thặng dư thương mại của

Trung Quốc liên tục tăng với tốc độ cao. Kết hợp với sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI), là kết quả khác trực tiếp bắt nguồn từ sự biến đổi tỷ giá NDT, nền kinh

tế Trung Quốc bước vào nhịp tăng trưởng mới, với hai động lực mạnh mẽ nhất là xuất

khẩu và đầu tư nước ngoài trực tiếp. Và cũng giống như Nhật Bản trước đây, xuất khẩu

Trung Quốc tăng mạnh đã đẩy thâm hụt mậu dịch của thế giới nói chung, của Mỹ nói riêng

với Trung Quốc lên tới mức nghiêm trọng.

Mỹ và hầu như cả thế giới đều cho rằng nguyên nhân chính của tình trạng mất cân

bằng nghiêm trọng trong quan hệ mậu dịch này có nguồn gốc trực tiếp và cơ bản từ việc

Chính phủ Trung Quốc duy trì quá lâu chính sách tỷ giá “đồng NDT yếu” (tính từ năm

1994). Trong hơn 13 năm qua, sự cộng hưởng tác động của chính sách “đồng tiền yếu” và

việc Trung Quốc gia nhập WTO đã tạo thành sức thúc đẩy to lớn để nền kinh tế Trung

Quốc trỗi dậy và trở thành một nền kinh tế khổng lồ. Kết quả tất yếu của sự lớn mạnh kinh

tế nhanh chóng này là sự tăng giá đồng NDT. Vì vậy, đòi hỏi Trung Quốc phải tăng giá

đồng NDT ngày càng gay gắt từ các nước phương Tây là hoàn toàn có căn cứ lý lẽ và thực tiễn vững chắc.

1.3. Tác động của thay đổi tỷ giá đồng NDT đến dòng FDI

Dường như càng hoạt động lâu ở Trung Quốc, các công ty nước ngoài càng phát

hiện ra những sức hấp dẫn mới của đất nước này với tư cách là một “cứ điểm” sản xuất:

chi phí thấp, sức cạnh tranh cao. Giá thành sản phẩm thấp ở Trung Quốc đồng nghĩa với

một thông điệp: muốn bán được hàng hoá ở bất cứ đâu trên thế giới thì cách chắc chắn nhất là đầu tư vào Trung Quốc.

Sức mạnh của thông điệp đó được nhân lên nhờ quyết tâm và hành động liên tục

phá giá mạnh đồng NDT vào năm 2003, 2004 của chính phủ Trung Quốc đã làm cho sức

mạnh về giá của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc vượt qua giới hạn thông thường để trở

thành một sự đột phá mạnh, khiến dòng FDI đổ vào lập tức tăng mạnh. Năm 1993, lượng

FDI thực hiện tăng 250% so với năm 1992; còn năm 1994 tăng 23% so với năm 1993. Đến

năm 1998, mức tăng so với năm 1993 đã là 200%. Và bước sang thế kỷ mới, Trung Quốc

trở thành một trong những nền kinh tế thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới, với lượng FDI

đổ vào hàng năm đạt mức 55 – 77 tỷ USD.

Sự phá giá đồng NDT cùng với sự gia nhập WTO đã khiến sức hấp dẫn đối với đầu

tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng mạnh. Năm 2002, vốn ngoại sử dụng thực tế của

55

Trung Quốc là 52,7 tỷ USD tăng 12,5%, trở thành nước sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài nhiều nhất trong năm. Năm 2004, vốn đầu tư thực tế là 60,6 tỷ USD tăng 13,3%.

Nửa đầu năm 2005, vốn ký kết là 86,2 tỷ USD, vốn sử dụng thực tế 28,6 tỷ USD. Cùng với

việc tiếp tục duy trì quy mô thu hút đầu tư nước ngoài tương đối lớn, chất lượng và trình

độ cũng từng bước được nâng cao. Trong 500 công ty xuyên quốc gia lớn nhất trên toàn

cầu thì có hơn 400 công ty đầu tư vào Trung Quốc, trong đó có gần 30 công ty đã xây dựng

tổng bộ vùng ở Trung Quốc, hơn 400 cơ quan nghiên cứu phát triển đầu tư nước ngoài

được xây dựng; những hạng mục lớn trong các ngành kỹ thuật cao có vốn đầu tư nước

ngoài như điện tử thông tin… đã tăng lên rõ rệt; các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo

hiểm, chứng khoán, thương nghiệp, du lịch, giao thông, y tế, giáo dục… trở thành những

điểm nóng đầu tư mới hiện nay; đầu tư nước ngoài ở miền Trung và miền Tây tăng tương

đối nhanh; quy mô xuất khẩu ở các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã chiếm 50% xuất

khẩu của cả nước.

Gia nhập WTO đã tạo ra môi trường bên ngoài rất tốt cho các doanh nghiệp Trung

Quốc “đầu tư ra ngoài”. Tính đến cuối năm 2002, Trung Quốc đã có 2328 doanh nghiệp có

mặt ở trên 128 nước và khu vực, luỹ kế vốn đầu tư phía Trung Quốc đạt gần 30 tỷ USD,

luỹ kế vốn các doanh nghiệp hợp tác lao động và bao thầu công trình là 106,5 tỷ USD, tổng

số lao động cử ra nước ngoài là 2,73 triệu lượt người. Mậu dịch gia công ở nước ngoài và

khai thác tài nguyên chiến lược ở nước ngoài như dầu khí, vật liệu gỗ, kim loại màu… đều

đạt được những thành tựu rõ rệt. Năm 2003, có hơn 500 doanh nghiệp mới được phê chuẩn

ra nước ngoài đầu tư, kim ngạch đầu tư theo hiệp định của Trung Quốc là 1,74 tỷ USD,

tăng 91,6% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch doanh nghiệp bao thầu công trình và hợp

tác lao động là 14,1 tỷ USD, tăng 26,5%, luôn giữ được tốc độ tăng trưởng mạnh.

Kinh tế đối ngoại tăng nhanh đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế quốc dân duy trì được

mức tăng trưởng nhanh. Năm 2002, tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) Trung Quốc đã

đạt hơn 1000 tỷ USD, tăng 8%. Tính đến cuối năm đó, số người có việc làm là 737,4 triệu

người, tăng 7,15 triệu người so với năm trước. Năm 2003, cho dù gặp phải những ảnh

hưởng bất lợi như dịch SARS và nhiều loại thiên tai nhưng tăng trưởng kinh tế cả năm đạt

gần 1400 tỷ USD, tăng 9,1% bình quân đầu người đạt 1090 USD. Năm 2004, GDP Trung

Quốc lại tăng đến 9,5%, đạt chừng hơn 1700 tỷ USD và tính riêng năm 2006, GDP tăng

lên 10,7%, đạt khoảng 2700 tỷ USD. Năm 2007 là một năm thành công của Trung Quốc

với tốc độ tăng trưởng cao khoảng 11,5% và với mức tăng trưởng này, Trung Quốc được

56

xem là quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Hai lĩnh vực có mức tăng trưởng nổi

bật nhất là ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng mức

tăng trưởng từ năm 2003 trở lại đây quá nóng vì nó đã gây ra một số vấn đề bức xúc: tiêu

hao nhiên nguyên liệu quá lớn là một trong các yếu tố tạo ra các cơn sốt giá dầu mỏ và sắt

thép; xâm phạm thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU quá mạnh, xuất siêu quá nhiều – gây ra

những xung đột thương mại; gia tăng đầu tư quá mức vào lĩnh vực bất động sản có nhiều

rủi ro, làm phức tạp thêm các vấn đề xã hội… Mức tăng trưởng cao của Trung Quốc được

đánh giá không chỉ ở tăng trưởng GDP nói chung mà là sự tăng trưởng khá toàn diện, cả

trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và thương mại. Tính đến tháng 3/2008, tốc độ

tăng trưởng GDP là 10,6% cao hơn mức dự tính 10,4% của nhiều chuyên gia phân tích

kinh tế.

Tóm lại, vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay đã được

Trung Quốc lợi dụng một cách triệt để có lợi cho Trung Quốc. Thực tiễn trong những năm

gần đây cho thấy từ năm 1994, khi đồng NDT phá giá 40 – 50% và kéo dài đến nay đã biến

Trung Quốc thành nơi thu hút các nguồn lực của thế giới. Với dòng FDI ào ạt đổ vào

Trung Quốc, thị trường trong và ngoài nước được mở rộng. Việc Trung Quốc gia nhập

WTO càng nhân gấp bội thời vận của Trung Quốc. Trung Quốc đã xuất siêu vào Mỹ, Nhật

Bản và Châu Âu, với khối lượng lớn và đã tạo ra một cuộc tranh chấp thương mại thực ra

mới chỉ là bề nổi, sự xung đột về tỷ giá đang và sẽ còn gay gắt hơn. Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU

đang ép Trung Quốc phải nâng giá đồng NDT với những đe dọa từ cả phía chính phủ hành

pháp lẫn lập pháp. Trung Quốc đã kịch liệt phản đối, cuối cùng phải thay đổi và ngày

21/07/2005, đã phải nâng giá đồng NDT lên 2,1%, mức nâng giá này còn quá nhẹ so với

yêu cầu của các đối tác. Và tranh chấp về vấn để tỷ giá hối đoái Trung Quốc vẫn tiếp tục

kéo dài cho đến nay. Kể từ năm 2005, Trung Quốc đã tăng giá đồng NDT, hạ tỷ giá hối

đoái giữa NDT và USD một cách từ từ để không gây những biến động lớn đối với nền kinh

tế.

2. Đồng NDT lên giá và những tác động có thể có

Hiện nay, tình trạng thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc của hầu như tất cả các nền

kinh tế phát triển đã trở nên ngày càng gay gắt và động chạm đến nhiều nhóm lợi ích xã

hội, làm tổn thương “uy tín” quốc gia, đã đặt trước chính phủ nhiều nước, đặc biệt là Mỹ

và EU, yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng giảm thâm hụt thương mại, lập lại cân bằng

trong các cán cân tài khoản vốn và tài khoản vãng lai với Trung Quốc. Để đạt mục tiêu đó,

57

giống như Nhật Bản trước đây, Mỹ và các nước G7 khác đang gây áp lực rất mạnh buộc

Trung Quốc phải tăng giá đồng NDT lên 20 – 40% trong một thời gian ngắn.

Cả áp lực đòi đồng NDT lên giá lẫn quá trình lên giá của đồng tiền này đều đang

diễn ra trên thực tế. áp lực thì ngày càng gia tăng; còn chính phủ Trung Quốc thì cố gắng

trì hoãn sự gia tăng để tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao tiềm lực tài chính và tránh gây

sốc trong nền kinh tế và xã hội. Vì vậy, quá trình lên giá của đồng NDT đang diễn ra

nhưng với tốc độ chậm và được chính phủ Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ. Tính từ tháng

07/2005 cho đến cuối năm 2007, đồng NDT lên giá khoảng 18%, tỷ giá từ 8,2765

NDT/1USD giảm xuống còn 7,3046 NDT/1USD vào tháng 12/2007.

Với giải pháp lên giá đồng JPY do chính thế giới áp đặt, Nhật Bản đã từng bắt thế

giới “chịu nạn” chứ không phải Nhật Bản là “nạn nhân”. Nhiều nhà kinh tế tự đặt ra câu

hỏi liệu thế giới có phải chịu một tác động tương tự một khi đồng NDT tăng giá và nền

kinh tế Trung Quốc sẽ như thế nào khi điều đó xảy ra. Trước hết, theo nguyên lý truyền

thống, đồng NDT lên giá sẽ làm cho sản phẩm của Trung Quốc trở nên kém cạnh tranh

hơn về giá trên thị trường quốc tế. Nhờ đó, các nền kinh tế nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có

khả năng giảm được tình trạng “nhập siêu”, còn các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu với

Trung Quốc cũng sẽ có cơ hội tăng xuất khẩu các mặt hàng cạnh tranh với hàng hoá Trung

Quốc. Nhưng đồng thời, ta dễ nhận thấy rằng bù lại những bất lợi và tổn thất (tiềm năng)

do đồng NDT lên giá, chính điều này lại tạo ra cho Trung Quốc những cơ hội thu được

nhiều lợi ích. Những lợi ích đó bắt nguồn từ chỗ: khi đồng NDT lên giá, giá sản phẩm đầu

vào nhập khẩu của Trung Quốc, tính ra NDT sẽ rẻ đi tương ứng. Điều này sẽ làm giảm đáng kể tác động tiêu cực do giá thành sản phẩm xuất khẩu tăng lên gây ra.

Việc tăng giá đồng NDT không mang lại tác động tích cực một chiều như nhiều

nước đang kỳ vọng. Ngay cả đối với các nền kinh tế “nhập siêu’ từ Trung Quốc cũng vậy.

Về dài hạn, nền kinh tế Trung Quốc sẽ phải tái cơ cấu lại để thích ứng với xu hướng lên giá

của đồng NDT. Xu hướng cơ bản của quá trình tái cơ cấu này là dịch chuyển các quá trình

sản xuất lên các nấc thang công nghệ cao hơn. Giống như Nhật Bản trước đây, một trong

những hướng chuyển dịch tiềm năng cơ cấu sản phẩm chủ yếu của Trung Quốc dưới tác

động của việc đồng NDT lên giá sẽ là đầu tư ra nước ngoài, theo nguyên lý “lan toả công

nghiệp” hay “mô hình đàn sếu bay”.

Một ví dụ điển hình là xu hướng “lan toả” cơ cấu theo kiểu “mô hình đàn sếu bay”

từ Trung Quốc sang Việt Nam dưới tác động của việc đồng NDT lên giá là rất lớn, thậm

58

chí, không tránh khỏi. Trong mấy năm gần đây, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư

sang Việt Nam để tận dụng lợi thế giá nhân công rẻ, sự thuận lợi về nguồn nguyên liệu và

vị trí địa lý. Xu hướng đầu tư này chắc chắn sẽ được đẩy mạnh hơn khi đồng NDT lên giá.

Làn sóng chuyển dịch cơ cấu từ Nhật Bản cách đây 20 năm trải ra cho một loạt các

nước Đông á kém phát triển hơn. Nhưng hiện nay, trong khu vực, số nền kinh tế có trình

độ phát triển thấp hơn Trung Quốc ít hơn nhiều so với Nhật Bản trước đây. Do vậy, sự lan

toả phát triển, nếu diễn ra, sẽ “chụm” hơn. Độ “chụm” đó cộng với quy mô khổng lồ của

nền kinh tế Trung Quốc và được gia tốc bằng tốc độ đổi mới công nghệ nhanh hơn hiện

nay cho phép nghĩ đến một làn sóng dịch chuyển cơ cấu từ Trung Quốc mạnh mẽ so với

quá trình đã diễn ra ở Nhật Bản trước đây.

59

II. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1. Khái quát về chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam và các tác động

đến thương mại sau đổi mới 1989 đến nay

1.1. Thời kỳ đổi mới từ 1989 cho đến sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền

tệ khu vực Đông Nam á (1997 – 1998)

Năm 1989 là mốc quan trọng trong việc thay đổi cơ chế, chính sách điều hành tỷ

giá hối đoái ở Việt Nam. Khi quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống Liên

Xô và Đông Âu – khu vực thương mại thanh toán bằng đồng rúp – bị phá vỡ, khiến Việt

Nam phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng USD. Kể từ đó tỷ giá

cố định và cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo kiểu kế hoạch hoá tập trung không còn

thích hợp, đã được thay thế dần bằng cơ chế quản lý và điều hành theo tín hiệu thị trường

có sự can thiệp của Chính phủ từ tháng 3 năm 1989.

Bảng 3.6: Những thay đổi về tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 1989 – 1998

TGHĐ chính thức

TGHĐ thị trường

% thay đổi của

Chỉ tiêu

(VND/USD)

(VND/USD)

TGHĐ thị trường

1989

3.950

3.977

1990

5.600

+ 39,81

5.560

1991

8.819

+ 76,64

9.822

1992

11.200

+ 14,20

11.217

1993

10.642

- 4,55

10.706

1994

10.954

+ 2,43

10.966

1995

11.009

+ 0,59

11.031

1996

11.027

+ 0,14

11.047

1997

11.128

+ 7,04

11.824

1998

12.203

+ 14,15

13.497

Nguồn: Vietnam – Netherlands masters in Development Economics; [10, các website].

Sau khi đưa cơ chế mới vào thực hiện, tỷ giá VND/USD tăng mạnh và liên tục,

đồng thời tỷ giá danh nghĩa chính thức ngày càng sát với tỷ giá trên thị trường. Năm 1991,

tỷ giá hối đoái tăng hơn gấp đôi so với năm 1989. Với sự kiện phá giá rất mạnh đồng nội

60

tệ, sau khi nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường, xoá bỏ cơ bản hệ thống

tỷ giá cũ quá phức tạp… thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã

có những biến chuyển rất căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động và trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng của kinh tế mở.

Việc thả nổi tỷ giá tương đối mạnh trong một giai đoạn ngắn từ khi thay đổi cơ chế

cho đến cuối năm 1991, đã xoá bỏ tình trạnh bất hợp lý trong mua bán và thanh toán, đặc

biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cải thiện tình hình trên thị trường ngoại hối và tạo rất

nhiều thông thoáng cho việc lưu thông ngoại tệ trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, cũng

gây ra một số vấn đề khó khăn như thâm hụt tài chính chính phủ và mức độ lạm phát nặng

nề ở Việt Nam cùng với sự hoạt động hết sức yếu ớt của hệ thống các ngân hàng thương

mại và việc thả lỏng, mất kiểm soát của các tổ chức tín dụng. Hơn thế nữa, nguồn thu

ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ làm cho dự trữ ngoại tệ của quốc gia tăng chậm hoặc

không tăng. Đứng trước những cái chưa hợp lý của chế độ tỷ giá thả nổi và mất kiểm soát

tỷ giá. Chính phủ đưa ra những thay đổi mới trong cơ chế điều hành tỷ giá giai đoạn tiếp

theo từ năm 1992 . Chính sách tỷ giá hối đoái mới được hình thành trên cơ sở thiên về cố

định hơn là thả nổi, tỷ giá hối đoái chính thức được áp dụng do ngân hàng nhà nước công

bố với biên độ giao dịch (+/-) 0,5% năm 1994 và nâng lên (+/-) 1% năm 1996. Sự điều tiết

không thường xuyên của ngân hàng nhà nước nhằm vừa khuyến khích xuất khẩu, vừa kiểm

soát hợp lý nhập khẩu. Chính sách tỷ giá hối đoái này đã góp phần khuyến khích tích luỹ

giá trị dưới dạng nội tệ hơn ngoại tệ (chủ yếu là đồng USD), thu hút vốn đầu tư nước

ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong nước.

Trong thời kỳ 92 – 97, nguồn cung ngoại tệ vào Việt Nam đã tăng lên rất nhanh

nhờ hoạt động kinh tế đối ngoại vủa Việt Nam ngày càng được mở rộng, các khoản thu từ

xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ tăng với tốc độ cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm

1997 đã tăng lên hơn 9 tỷ USD, gấp 4 lần so với năm 1989 và 1990. Các luồng vốn ngắn

hạn như chuyển tiền, các khoản thu từ dịch vụ lao động, du lịch, quà tặng, trợ cấp, từ thiện,

viện trợ của các chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ và các khoản đầu tư trực

tiếp nước ngoài, cho vay dài hạn của các tổ chức tín dụng quốc tế, cộng đồng tài chính thế

giới ngày một gia tăng. Nguồn cung ngoại tệ dồi dào đã khiến cho tỷ giá VND/USD trên

thị trường ngoại hối giảm xuống. Thêm vào đó là các nhân tố khác như thanh toán quốc tế

trong thời kỳ này không cao, chính sách của nhà nước. Tất cả những yếu tố này nhằm mục

61

đích ổn định tỷ giá VND/USD trong một thời gian dài có những tác dụng tích cực nhất

định như ổn định giá cả, ổn định lạm phát (xem đồ thị 3.7) và đẩy mạnh thu hút đầu tư

nước ngoài, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, thấp nhất là 8,1%

năm 1993 và cao nhất là 9,5% năm 1995; nhưng đồng thời cũng làm cho VND có xu

hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế.

§å thÞ 3.7: Tèc ®é thay ®æi tû gi¸ vµ tû lÖ l¹m ph¸t cña ViÖt Nam trong giai ®o¹n 1990 - 1998.

Tû lÖ l¹m ph¸t (%)

%

% thay ®æi tû gi¸

90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 -10

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 N¨m

Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới năm 1970 – 2000

Mặc dù đồng nội tệ bị đánh giá cao song nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt

Nam vẫn tăng lên đáng kể trong suốt những năm 92 - 96, năm 1993 tăng 34% so với năm

1992, các năm sau con số tăng tương ứng là 1994: 30%; 1995: 73,4%; 1996: 30,1%. Sự gia

tăng của đầu tư nước ngoài trong những năm này là do hai yếu tố: thứ nhất là môi trường

đầu tư của Việt Nam ngày càng thông thoáng với nhiều chính sách ưu đãi và thứ hai là xu

hướng đầu tư nội vùng phổ biến trong giai đoạn này (các nhà đầu tư từ Nhật Bản, Đài

Loan, Singapore… quan tâm đầu tư vào các nước láng giềng và các nước trong khu vực,

trong đó có Việt Nam). Sự sụt giảm đầu tư nước ngoài trong năm 1997 – 1998 là do cuộc

khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra năm 1997, do vậy các nhà đầu tư phải rút vốn về nước khác phục khủng hoảng.

Bảng 3.8: Tốc độ tăng trưởng GDP, dự trữ ngoại tệ và tình hình xuất nhập khẩu

của Việt Nam 1989 – 1998.

Chỉ tiêu

1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998

Tốc độ tăng

5,1

6,0 8,6

8,1

8,7

9,5

9,3

9,0

5,8

62

trưởng GDP (%)

Xuất khẩu

1.946 2.404 2.087 2.581 2.985 4.054 5.448 7.255 9.155 9.361

(Triệu USD)

% tăng xuất khẩu

23,5 -13,2 2,7 15,7 35,8 34,4 33,2 26,2

2,3

Nhập khẩu

2.566 2.752 2.338 2.540 3.924 5.826 8.155 11.144 11.622 11.495

(Triệu USD)

% tăng nhập khẩu

7,2 -15,0 8,6 54,5 48,5 40,0 36,7

4,3

-1,1

Dự trữ ngoại tệ

876 1,376 1,798 2,260 1,350

(Triệu USD)

Nguồn: Ngân hàng trung ương nhà nước Việt Nam.

Xuất nhập khẩu từ năm 1992 cho đến năm 1996, trước khi xảy ra cuộc khủng

hoảng, có xu hướng tăng khá đều đặn. Tuy nhiên, cán cân thương mại vẫn thâm hụt nặng

nề do sự gia tăng mức chênh lệch giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa (VND ngày càng bị

đánh giá cao hơn so với thực tế). Năm 1993, thâm hụt thương mại là khoảng xấp xỉ 939

triệu USD, bằng 31,4% giá trị xuất khẩu, nhưng đến năm 1996 là gần 3889 triệu USD và

53,6%. Chỉ đến năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khiến nhiều hợp đồng

nhập khẩu không được thực hiện, con số này mới giảm đi đôi chút, thâm hụt thương mại là

2467 triệu USD và bằng 26,9% giá trị xuất khẩu; tốc độ gia tăng nhập khẩu năm 97 đạt

4,3% thấp hơn nhiều so với xuất khẩu là 26,2%(xem bảng 3.8). Đến năm 1998, tốc độ gia

tăng xuất khẩu giảm sút nghiêm trọng chỉ còn 2,3%, trong khi đó nhập khẩu lại giảm xuống

chút ít với % tăng nhập khẩu là -1,1%.

Về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ năm 1988 đến năm 1990, đầu tư

trực tiếp nước ngoài FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế – xã hội ở Việt Nam.

Trong 3 năm đó chỉ có hơn 1,5 tỷ USD vốn đăng ký; còn vốn thực hiện thì không đáng kể;

bởi vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết

mới đưa được vốn vào Việt Nam. Giai đoạn 1991 - 1997 là giai đoạn FDI tăng trưởng

nhanh và góp phần ngày càng quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội.

Trong kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, đã thu hút 16 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng

hàng năm rất cao; vốn đăng ký năm 1991 là 1,275 tỷ USD thì năm 1995 là 6,6 tỷ USD, gấp

5,3 lần. Vốn thực hiện trong cả 5 năm là 7,153 tỷ USD, bằng 32% tổng vốn đầu tư của cả

nước. Hai năm tiếp theo, FDI tiếp tục tăng trưởng nhanh: thêm 15 tỷ USD vốn đăng ký và

63

6,06 tỷ USD vốn thực hiện. Từ năm 1998, FDI bắt đầu suy giảm và tiếp tục suy giảm trong

2 năm tiếp sau đó, vốn đăng ký năm 1998 là 3,897 tỷ USD. Sauk hi đạt kỷ lục về vốn thực

hiện vào năm 1997 với gần 3,2 tỷ USD, thì năm 1998 giảm rõ rệt chỉ là 2,4 tỷ USD.

Tóm lại, thời kỳ 1989 – 1998 là thời kỳ “đổi mới” trong cơ chế điều hành chính

sách tỷ giá của chính phủ, xoá bỏ chế độ cố định đa tỷ giá gồm tỷ giá chính thức và tỷ giá

kết toán nội bộ không còn phù hợp với thực tế; Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới với

những thay đổi linh hoạt hơn trong cơ chế tỷ giá, tỷ giá thả nổi từ 1989 đến 1991 và tỷ giá

cố định với những thay đổi trong biên độ giao dịch kết hợp với sự điều tiết không thường

xuyên của ngân hàng nhà nước trong giai đoạn 1992 – 1998. Những thay đổi trên thể hiện

một bước tiến, sự mạnh dạn của ngân hàng trung ương và chính phủ Việt Nam trong quá

trình đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa thị trường.

1.2. Thời kỳ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông Nam á từ 1999

cho đến những năm gần đây

Kể từ tháng 2/1999, tỷ giá hối đoái chính thức được ngân hàng nhà nước công bố

hàng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại

tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất. Đây là một bước tiến quan trọng, một bước

ngoặt lịch sử trong chính sách điều hành tỷ giá - chuyển từ một chế độ tỷ giá hối đoái cố

định với những công cụ điều hành chủ yếu mang tính hành chính sang chế độ tỷ giá mới

linh hoạt hơn và mang tính thị trường, chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tỷ giá sẽ

do cung – cầu về ngoại tệ trên thị trường quyết định và Ngân hàng nhà nước chỉ can thiệp

trong những trường hợp cần thiết.

64

BiÓu ®å 3.9: Tû gi¸ chÝnh thøc b×nh qu©n VND/USD giai ®o¹n 1999 - 2007

16500

16101 16114

15749 15875

16000

15560

15235

15500

/

14796

15000

14500

14159

Tû gi¸ VND/USD

13940

14000

D S U D N V ¸ i g û t

13500

13000

12500

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

N¨m

Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Nhìn vào biểu đồ 3.9 ta thấy tỷ giá chính thức bình quân mà ngân hàng nhà nước

đưa ra giữa VND và USD là tăng lên liên tục từ năm 1999 đến năm 2007. Theo đó, Ngân

hàng nhà nước quy định các giao dịch kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng

không được vượt quá biên độ dao động là 0,1% so với tỷ giá được Ngân hàng nhà nước

công bố. Đó là công bố của ngân hàng nhà nước vào năm 1999. Sau đó, biên động đã được

nới rộng qua các năm: ngày 1/7/2002, mở rộng biên độ từ +/- 0,1% lên +/- 0,25%; ngày

31/12/2006 lên đến +/- 0,5%; đến 24/12/2007, nới rộng thêm lên +/- 0,75% và cho đến tháng 6/2008 thì biên độ này là +/- 1%.

Công cụ điều hành tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn cùng với việc

Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 đã có tác động tích cực khiến lượng kiều hối liên

tục tăng cao qua các năm, từ 400 triệu USD năm 1997 lên 2,6 tỷ USD năm 2003; 3,8 tỷ

USD năm 2005 và gần đây nhất là 5,5 tỷ USD trong năm 2007.

Sang năm 1999, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á và hậu quả của nó

đã hết, nền kinh tế nhiều nước bị rơi vào khủng hoảng đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi.

Đồng thời, cán cân thương mại của Việt Nam cũng được cải thiện (năm 1999 thâm hụt

thương mại là 200,7 thấp hơn nhiều so với năm 1998 là 2134 triệu USD được thể hiện

trong bảng 3.8 và 3.10).

Tuy nhiên, sau năm 1999, thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng, cả xuất

khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh qua các năm nhưng tốc độ tăng của nhập khẩu vẫn lớn

65

hơn. Kể từ năm 2000, thâm hụt cán cân thương mại nằm trong khoảng từ 1.200 triệu USD

đến 5.500 triệu USD, đặc biệt năm 2007, thâm hụt thương mại tăng lên tới 12.450 triệu

USD, gấp gần 3 lần năm 2006.

66

Bảng 3.10: Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại và lượng kiều hối chuyển về

Việt Nam giai đoạn 1999 – 2007.

Đơn vị: triệu USD.

% thâm hụt so

Chỉ tiêu Xuất khẩu Nhập khẩu Thâm hụt

Kiều hối

với xuất khẩu

1999

11.541,4

11.742,1

200,7

1,7

1.200

2000

14.482,7

15.636,5

1.153,8

7,9

1.757

2001

15.029,2

16.217,9

1.188,7

7,9

1.820

2002

16.706,1

19.745,6

3.039,5

18,2

2.154

2003

20.149,3

25.255,8

5.106,7

25,3

2.600

2004

26.504,2

31.953,9

5.449,7

20,5

3.200

2005

32.200

36.900

4.700

14,6

3.800

2006

39.570

44.410

4.840

12,2

4.700

2007

48.380

60.830

12.450

25,7

5.500

Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, [11, các website].

Từ năm 2000, sau một thời gian suy giảm vốn đầu tư do cuộc khủng hoảng tài

chính khu vực, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã có xu hướng

phục hồi trở lại. Lượng FDI tăng khá chậm trong khoảng năm 2000 đến năm 2005, mỗi

năm trung bình khoảng 1 tỷ USD. Tuy nhiên đây là con số đáng mừng cho thấy năng lực

hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là hết sức khả quan. Kể từ sau năm 2005, đầu tư

FDI tăng vọt với 10,2 tỷ USD năm 2006, gần gấp đôi năm 2005; 21,3 tỷ USD năm 2007,

một con số kỷ lục, cao hơn so với báo cáo ban đầu là 20,3 tỷ USD của Bộ kế hoạch và đầu

tư, tăng gấp 2 lần năm 2006 và gấp 4 lần năm 2005.

67

§å thÞ 3.11: §Çu t­ n­íc ngoµi vµo ViÖt Nam giai ®o¹n 1999 - 2007.

25

21,3

20

15

10,2

D S U û T

10

Tæng vèn ®¨ng ký

5,8

5

4,2

3,1

2,95

2,7

2,3

1,96

0

1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

N¨m

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tóm lại, chính sách tỷ giá hối đoái cùng các công cụ điều tiết khác của chính phủ

và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã mang lại không ít thành công cho sự phát triển của

đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập ngày nay, cùng sự gia nhập vào tổ chức

thương mại thế giới WTO và sự bùng nổ của tài chính – tín dụng trong thời gian gần đây

cho thấy Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để phát triển nền kinh tế và hạn chế

những sai lầm của mình thông qua việc học hỏi những kinh nghiệm từ các quốc gia đi

trước. Có thể thấy rằng chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng

có những tác động nhất định đối với nền kinh tế. Vì vậy, chính phủ cần chọn đúng hướng

cho chính sách tỷ giá hối đoái trong tương lai.

2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc điều hành chính sách nâng giá đồng

nội tệ của các nước

Từ thực tiễn của nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái mà

điển hình là đã áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ, có thể nhận thấy rằng chính sách tỷ giá

hối đoái là một công cụ chiến lược trong hệ thống chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. Các

cường quốc như Mỹ, Nhật Bản hay Đức đều sử dụng công cụ này như một phần không thể

thiếu trong việc điều hành chính sách quốc gia để phát triển nền kinh tế quốc gia mình.

2.1. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Mỹ

68

Mỹ là quốc gia khá chủ động trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái. Như đã

trình bày ở chương 2, thời kỳ nửa đầu những năm 1980, Mỹ đã nâng giá đồng USD phối

hợp với chính sách lãi suất cao nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, điều chỉnh

cơ cấu công nghiệp hướng mạnh vào những ngành kỹ thuật công nghệ cao là những ngành

Mỹ có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh. Mặc dù, giai đoạn này chính sách của Mỹ đã

không giúp chính phủ Mỹ đạt được những mục tiêu mong muốn nhưng cho thấy sự chủ

động trong điều hành chính sách của Mỹ. Và sự chủ động này có được là do vị trí của đồng

USD và vị thế của nền kinh tế Mỹ trên trường quốc tế, là một siêu cường quốc đứng đầu

trên thế giới, có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Mỗi biến động trong tỷ giá

hối đoái của đồng USD có phạm vi và mức độ tác động đến thương mại, kinh tế và tài

chính – tiền tệ thế giới lớn hơn bất cứ đồng tiền của bất kỳ quốc gia nào. Kinh nghiệm của

Mỹ cho thấy, nếu một quốc gia có khả năng chủ động điều chỉnh tỷ giá hối đoái sẽ có tầm

ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế thế giới.

Tuy nhiên, chính sách nâng giá đồng nội tệ của Mỹ giai đoạn 1980 – 1985 lại là

một thất bại trong điều hành chính sách tỷ giá của Mỹ. Đây là một bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam khi áp dụng chính sách nâng giá:

Thứ nhất, Việt Nam không nên áp dụng chính sách nâng giá tiền tệ vào thời

điểm không phù hợp với bản thân tình hình bên trong nền kinh tế như khi nền kinh tế

bị rơi vào tình trạng suy thoái hoặc lạm phát đang cao, lượng nhập khẩu lớn hơn xuất

khẩu… Với Mỹ trong giai đoạn 80 - 85, nền kinh tế đứng trước sự suy thoái, lạm phát gia

tăng và đồng USD suy yếu nghiêm trọng, cán cân thương mại mất cân đối nghiêm trọng;

trước tình cảnh này, chính phủ Mỹ quyết định nâng giá đồng nội tệ và chính sách thương

mại tự do với hi vọng khuyến khích đầu tư ra nước ngoài; đồng thời làm giảm thâm hụt

ngân sách, cân đối cán cân thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.

Mục tiêu cứu chữa nền kinh tế của Mỹ đã không đạt được mà còn rơi vào tình trạng trầm

trọng hơn.

Thứ hai là cần phải quan sát và nghiên cứu thật kỹ các yếu tố bên ngoài khi

thực hiện chính sách nâng giá. Đây là một trong những kinh nghiệm giá trị dành cho Việt

Nam. Có thể thấy rằng Mỹ đã quên đi những yếu tố tác động bên ngoài, vì thế chính sách

nâng giá của Mỹ đã sử dụng không đúng thời điểm. Trong khi Mỹ đi theo hướng tự do hoá

thương mại thì các đối tác quan trọng của Mỹ là Tây Âu và Nhật Bản lại ra sức tăng cường

chính sách bảo hộ. Vì thế, chính sách nâng giá đồng USD thời kỳ này đã thất bại, nó làm

69

tình trạng nhập siêu vào Mỹ gia tăng mạnh trong khi các nước lại hạn chế nhập siêu và góp

phần làm xấu hơn nữa cán cân thương mại Mỹ đang thâm hụt nghiêm trọng.

2.2. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Nhật Bản

Nhật Bản là một kinh nghiệm khác về sự nâng giá đồng nội tệ nhưng có lẽ đồng

JPY tăng giá lại đem lại nhiều thành công cho Nhật Bản. Bài học cho Việt Nam khi nghiên

cứu chính sách nâng giá tiền tệ của Nhật có thể được tổng kết như sau:

Đầu tiên là cần phải biết kết hợp chính sách nâng giá với các công cụ tài chính –

tiền tệ khác như hạn mức tín dụng, khung lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở (mua, bán

chứng khoán,tín phiếu, trái phiếu…), chính sách tái chiết khấu… Có thể nói Nhật Bản

đã rất biết cách lợi dụng triệt để sự lên giá của đồng JPY kết hợp với các công cụ khác của

chính sách tài chính – tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Nhờ việc

đồng JPY tăng giá và với sự khôn khéo của mình, nền kinh tế Nhật Bản đã đứng vững,

thoát khỏi cuộc khủng hoảng giá dầu, suy thoái kinh tế thế giới. Cán cân thương mại của

Nhật Bản cải thiện, tăng đột phá và tốc độ tăng trưởng GDP tăng lên nhanh chóng cùng với

tỷ lệ dự trữ ngoại hối tăng cao. Thêm nữa, nhờ sự tăng giá của đồng JPY giúp Nhật Bản

xuất khẩu vốn hiệu quả hơn, nhập khẩu đầu vào tương đối rẻ và quan trọng nhất là giảm

sóc những cú sốc bên ngoài, đặc biệt là sự tăng vọt của giá dầu thô thế giới.

Thứ hai, khi nâng giá tiền tệ cần phải có các biện pháp hạn chế những tác động

tiêu cực của việc đồng nội tệ lên giá như khuyến khích dùng hàng nội địa, sử dụng các

biện pháp bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước như hàng rào kỹ thuật trong thương

mại (TBT), hạn chế định lượng… Như ở chương 2 phân tích, tăng giá đồng JPY cũng

mang lại những khó khăn cho Nhật Bản như cản trở dòng vốn đầu tư vào Nhật Bản, khiến

cho việc đi vay đồng JPY của các doanh nghiệp trở nên đắt hơn… Nhưng chính phủ Nhật

Bản đã rất khéo léo để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của đồng JPY mạnh, ngân

hàng trung ương BOJ đã liên tục hạ mức lãi suất chiết khấu xuống rất thấp và hạn chế nhập

khẩu. Điều này khiến cho lượng vốn đầu tư trong nước và ra nước ngoài của Nhật Bản tăng

lên đáng kể.

Chính sách tỷ giá chỉ phục vụ mục tiêu tăng trưởng bền vững nếu nó cho phép khai

thác tối đa những lợi thế so sánh hàng đầu của một nước. Lợi thế so sánh số một của Nhật

Bản là sự dồi dào nguồn lực về vốn. Chính việc duy trì chính sách tỷ giá hối đoái đồng JPY

mạnh trong phần lớn thời gian qua của chính phủ Nhật Bản đã góp phần quan trọng vào

khai thác có hiệu quả lợi thế này để phát triển kinh tế.

70

Từ kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy Nhật Bản đã đi đúng hướng với đồng nội tệ

mạnh, đồng JPY lên giá liên tục kể từ thập kỷ 70 đến nay mặc dù cũng có đôi lúc sụt giá.

Chính phủ các nước cần lấy Nhật Bản làm tấm gương về sự điều hành tỷ giá hết sức thành

công để biến nước Nhật thành một trong những cường quốc trên thế giới. Chính sách nâng

giá cũng như phá giá đều có những tác động tiêu cực và tích cực, điều quan trọng là chúng

ta chọn lựa một trong hai sao cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc đó và phải kết hợp với

các chính sách khác để hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra, tốt hơn nữa là biến những tác

động tiêu cực đó thành những cơ hội tốt, có lợi cho quốc gia.

2.3. Kinh nghiệm từ việc nghiên cứu chính sách nâng giá của Đức

Nếu như Mỹ trong giai đoạn nửa đầu những năm 80 áp dụng chính sách nâng giá

nội tệ không thành công, còn Nhật Bản lại thành công rực rỡ với chính sách này thì Đức là

quốc gia cũng có những giai đoạn thời kỳ áp dụng chính sách nâng giá tương đối tốt. Kinh

nghiệm của Đức là khi áp dụng chính sách nâng giá là không để đồng tiền lên giá quá

nhanh và mang tính đột ngột.

Sự lên giá của đồng DM không mang tính chủ động nhưng chính phủ Đức và ngân

hàng trung ương Đức đã cho thấy khả năng thiên tài trong việc điều hành chính sách tiền tệ

nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng. Mặc dù chính sách nâng giá nội tệ của Đức một

phần lớn là có sự tác động của đồng USD suy yếu nhưng với sự khôn ngoan của người

Đức, đồng DM lên giá đã giúp duy trì mức lạm phát rất thấp, cán cân ngoại thương thặng

dư và ổn định kinh tế đối nội cũng như đối ngoại. Dự trữ ngoại tệ của Đức ngày càng lớn

kể từ khi đồng DM lên giá, hàng nhập khẩu trở nên tương đối rẻ và xuất khẩu tăng cao đã củng cố thêm vị thế của nước Đức.

Dưới sức ép của đồng USD giảm giá, đồng DM liên tục tăng giá với tốc độ cao có

thể gây hại tới nền kinh tế Đức, chính phủ Đức cũng đã nhanh chóng sử dụng các biện

pháp như hạ lãi suất, tăng cung tiền nội tệ để điều chỉnh tỷ giá giảm một cách từ từ. Sự lên

giá của đồng DM với sự dẫn dắt sắc sảo của chính phủ Đức đã gặt hái nhiều thành công

như tăng trưởng nhanh, đầu tư tăng cao, xuất khẩu ngày càng nhiều với năng lực cạnh

tranh được củng cố và lạm phát siêu thấp. Chính phủ Đức cũng đã đạt được những mục

tiêu đề ra là ổn định giá cả, cán cân thanh toán, ổn định kinh tế đối nội và tăng trưởng

hướng ngoại.

71

2.4. Kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung

Quốc trước sức ép nâng giá đồng nội tệ

Khác với Nhật Bản và Đức đạt được nhiều thành tựu với chính sách nâng giá đồng

nội tệ, Trung Quốc là một ví dụ về sự phá giá thành công. Việt Nam cũng thường xuyên áp

dụng chính sách phá giá tiền tệ, vì vậy Trung Quốc sẽ là một minh chứng hết sức rõ ràng

cho Việt Nam về một quốc gia đã thành công với phá giá nội tệ và nay với sức ép lên giá

thì nền kinh tế Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng như thế nào. Đây là một bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam về một quốc gia đi đúng hướng với chính sách phá giá và khi cả thế giới,

đặc biệt là các đối tác kinh tế tầm cỡ như Mỹ và EU gây sức ép nâng giá, với áp lực đồng

nội tệ nâng giá Trung Quốc đã làm gì.

Bài học đầu tiên cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Trung Quốc là thời điểm và

mức điều hành tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của

chính sách tỷ giá. Trung Quốc đã hành động đúng khi phá giá mạnh đồng NDT vào năm

1994 và họ đã thu được lợi ích dài hạn lớn hơn rất nhiều những trả giá ngắn hạn mà họ

phải chịu đựng. Hàm lượng của các yếu tố thị trường như: quan hệ cung cầu về ngoại hối,

sở thích, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ… phản ánh trong tỷ giá càng nhiều

thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả càng cao và khả năng chống đỡ được với

các cú sốc bên ngoài càng lớn. Một trong những lý do quan trọng khiến Trung Quốc duy trì

được tỷ giá NDT ổn định và hạ cánh an toàn trước tác động của các cuộc khủng hoảng

chính là vì việc điều hành chính sách tỷ giá nói riêng và các chính sách kinh tế nói chung

đảm bảo được tương đối tốt quy luật này.

Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc đã củng cố thêm kết luận

của các nhà kinh tế cho rằng với Việt Nam, phá giá đồng tiền trong những điều kiện cho

phép có thể là một giải pháp góp phần tăng trưởng tốt hơn mà phải trả giá thấp hơn, xét cả

trong ngắn hạn và dài hạn. Thông qua chính sách phá giá đồng nội tệ ở một thời điểm hợp

lý, Việt Nam có thể tạo ra một lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, thay đổi cơ

cấu xuất nhập khẩu, mở rộng nhanh ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư

có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.

Bài học quan trọng thứ hai cho Việt nam rút ra từ Trung Quốc là việc tăng giá

đồng tiền phải được tiến hành theo lộ trình, không thể gấp gáp. Tình hình hiện nay, khi

Trung Quốc đứng trước sức ép lên giá ngày càng căng thẳng, thì việc đồng NDT lên giá là

một tất yếu xảy ra. Nhưng các nhà chức trách Trung Quốc cũng đã khéo léo với động thái

72

tăng giá đồng NDT một cách từ từ để tránh gây sốc cho nền kinh tế đang phát triển như vũ

bão này. Đây là một nước cờ hết sức khôn ngoan của chính phủ Trung Quốc nhằm tiếp tục

thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao tiềm lực tài chính và không gây ra những ảnh hưởng trầm

trọng đến nền kinh tế và xã hội. Cho đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều nhận định về

Trung Quốc có thể làm bài học cho Việt Nam như sau:

- Thứ nhất, việc nâng giá đồng nội tệ có thể không ảnh hưởng quá lớn đến nền kinh

tế Trung Quốc hay Việt Nam. Hơn nữa, về dài hạn, Trung Quốc lại thu được khá nhiều lợi

ích như xuất khẩu vốn ra nước ngoài, đổi mới cơ cấu kinh tế… và đặc biệt là nâng cao vị

thế của đồng NDT trên trường quốc tế.

- Thứ hai, khi đồng nội tệ lên giá, nó sẽ kiềm chế bớt sự tăng trưởng quá nóng của

nền kinh tế Trung Quốc hay Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh – xu hướng

tất yếu để phát triển khu vực doanh nghiệp và tái cơ cấu nền kinh tế một cách hợp lý. Môi

trường cạnh tranh lành mạnh hơn khiến các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hơn nữa

để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá mình so với đối thủ, nhập khẩu đầu vào tương đối rẻ

giúp các doanh nghiệp trong nước sản xuất với chi phí thấp hơn. Do vậy, đồng nội tệ lên

giá không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng, nó có

thể tăng sức cạnh tranh, khiến hàng hoá chất lượng tốt hơn và xuất khẩu cũng không gặp

khó khăn nếu nhập khẩu đầu vào rẻ và nhà nước có những chính sách hợp lý dành cho các

doanh nghiệp sản xuất nội địa.

- Thứ ba, nâng giá tiền tệ có thể khuyến khích xuất khẩu tư bản ta nước ngoài.

Trung Quốc có thể xuất khẩu tư bản ra nước ngoài một cách hiệu quả với khối lượng

khổng lồ. Chính sách nâng giá nội tệ có lẽ là một hướng đi tất yếu của Trung Quốc, nhờ đó

chính phủ có thể khuyến khích đầu tư ra nước ngoài ở mức độ hợp lý và có lẽ thị trường

các nước trong khu vực sẽ là những điểm đến đầu tiên của các luồng tư bản từ Trung

Quốc. Đó là những thị trường với nguồn nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú

và vị trí địa lý thuận lợi.

Tóm lại, thực tiễn các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức và Trung

Quốc cho thấy những kinh nghiệm quý báu về chính sách tỷ giá hối đoái, đặc biệt là chính

sách nâng giá đồng nội tệ. Những kinh nghiệm đó sẽ thực sự có giá trị khi các nhà hoạch

định và điều hành chính sách của Việt Nam vận dụng những kinh nghiệm đó một cách linh

hoạt, có sáng tạo, cụ thể và phù hợp với thời điểm và hoàn cảnh của nền kinh tế.

73

74

Kết luận

NGÀY NAY, TÀI CHÍNH TIỀN TỆ LUÔN LÀ MỘT VẤN ĐỀ NÓNG BỎNG

CỦA TẤT CẢ CÁC NHÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ ĐÓNG

VAI TRÒ HẾT SỨC QUAN TRỌNG TRONG NỀN KINH TẾ CỦA MỌI QUỐC GIA.

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÀ MỘT CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

VÀ LÀ MỘT TRONG NHỮNG CHÍNH SÁCH VÔ CÙNG CẦN THIẾT ĐỂ GIÚP

CHÍNH PHỦ CÁC NƯỚC ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG MỤC TIÊU KINH TẾ – CHÍNH TRỊ

VÀ XÃ HỘI. NÓ CÓ TẦM ẢNH HƯỞNG RẤT LỚN, LÀ MỘT TRONG NHỮNG

NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA QUỐC GIA. DO VẬY, ĐIỀU

HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LUÔN LÀ VẤN ĐỀ VỪA MANG TÍNH QUỐC GIA LẠI

VỪA MANG TÍNH QUỐC TẾ, NÓ RẤT PHỨC TẠP NÊN MỖI NƯỚC, TRONG

NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ – XÃ HỘI NHẤT ĐỊNH CẦN LỰA CHỌN NHỮNG

PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ MỘT CÁCH CỤ THỂ, PHÙ HỢP VỚI QUỐC

GIA MÌNH. VÌ VẬY, CẦN PHẢI ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI MỘT CÁCH HIỆU

QUẢ VÀ CHẶT CHẼ, ĐỒNG THỜI ĐẶT NÓ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC

CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT, QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ KHÁC.

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI MÀ CỤ THỂ HƠN LÀ VIỆC NÂNG GIÁ HAY PHÁ GIÁ

ĐỒNG NỘI TỆ CỦA QUỐC GIA MÌNH SO VỚI ĐỒNG TIỀN CÁC NƯỚC KHÁC,

ĐẶC BIỆT LÀ NHỮNG ĐỒNG TIỀN MẠNH, LÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LỚN ĐẾN

TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, CÁN CÂN THƯƠNG MẠI, ĐẦU TƯ VÀ

NHỮNG CHỈ SỐ KINH TẾ VĨ MÔ KHÁC CỦA QUỐC GIA. ĐẶC BIỆT TRONG XU

THẾ TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY, TÀI CHÍNH QUỐC TẾ LUÔN DÀNH ĐƯỢC SỰ

CHÚ Ý ĐẶC BIỆT CỦA MỌI QUỐC GIA, MỖI THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH

TIỀN TỆ, CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NỀN KINH

TẾ THẾ GIỚI NÓI CHUNG VÀ CỦA TỪNG QUỐC GIA NÓI RIÊNG.

TRONG THẾ KỶ 21, GẦN NHƯ TẤT CẢ CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

ĐỀU CÓ MỐI LIÊN HỆ CHẶT CHẼ VỀ MẶT KINH TẾ – XÃ HỘI. VIỆC NÂNG GIÁ

TIỀN TỆ CỦA MỘT QUỐC GIA, TRỌNG TÂM LÀ NHỮNG QUỐC GIA CÓ NỀN

KINH TẾ PHÁT TRIỂN, CÓ THỂ ĐEM LẠI LỢI ÍCH TỐT ĐẸP CHO QUỐC GIA ĐÓ

NHƯNG CÓ KHI LẠI GÂY BẤT LỢI, TÁC DỤNG NGƯỢC CHIỀU VỚI NHỮNG GÌ

QUỐC GIA ĐÓ MONG MUỐN ĐẠT ĐƯỢC, ĐỒNG THỜI CŨNG CÓ THỂ DẪN ĐẾN

75

NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC HOẶC TÍCH CỰC ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH

TẾ – XÃ HỘI CỦA CÁC QUỐC GIA KHÁC CÙNG KHU VỰC, CÙNG KHỐI LIÊN

MINH VÀ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI. VIỆC PHÁ GIÁ TIỀN TỆ CŨNG NHƯ VẬY.

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, GIA NHẬP WTO, VIỆT

NAM CŨNG CẦN LINH HOẠT HƠN TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ

GIÁ HỐI ĐOÁI. THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ CÁC QUỐC GIA TRONG VẤN ĐỀ TỶ

GIÁ MANG LẠI CHO VIỆT NAM NHỮNG BÀI HỌC VÔ CÙNG QUÍ GIÁ NHẰM

ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỐT HƠN, HỌC TẬP NHỮNG ĐIỂM TỐT VÀ PHÒNG

NGỪA NHỮNG RỦI RO, TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC DO CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ GÂY

RA. TRUNG QUỐC LÀ MỘT BÀI HỌC VÔ CÙNG ĐÁNG GIÁ, MỘT KINH NGHIỆM

HẾT SỨC SÁT THỰC VỚI XU HƯỚNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA

VIỆT NAM. THÊM VÀO ĐÓ, NHỮNG QUỐC GIA PHÁT TRIỂN ĐƯỢC PHÂN TÍCH

TRONG KHOÁ LUẬN LÀ NHỮNG KINH NGHIỆM KHÁC CHO CHÍNH BẢN THÂN

TRUNG QUỐC HIỆN NAY VÀ CÓ THỂ LÀ CHO VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI.

VỚI KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC, VIỆT NAM HOÀN TOÀN CÓ CƠ SỞ ĐỂ TIN

VÀO MỘT CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỢP LÝ, PHÙ HỢP VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY, ĐEM LẠI CHO VIỆT NAM MỘT TƯƠNG LAI TƯƠI

SÁNG VÀ TỐT ĐẸP HƠN, VƯƠN LÊN MỘT TẦM CAO MỚI, ĐỨNG VỮNG TRÊN

TRƯỜNG QUỐC TẾ.

76

Danh mục tài liệu tham khảo

1. TS. NGUYỄN KIM BẢO (2006), GIA NHẬP WTO: TRUNG QUỐC LÀM GÌ VÀ ĐƯỢC GÌ, NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI, VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC.

2. BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ (THÁNG 12/2007), DỰ BÁO KINH TẾ THẾ GIỚI

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

NĂM 2008, TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ – XÃ HỘI

3. TS. LÊ VINH DANH (2005), CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ SỰ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ

QUỐC GIA.

4. LÊ VIỆT ĐỨC (1995), HIỆN TƯỢNG ĐÁNH GIÁ CAO NỘI TỆ VÀ NHỮNG

CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG, NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH.

5. VŨ THU GIANG (1995), TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KIM

HẬU QUẢ TIÊU CỰC, TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 4.

6. TSKH. VÕ ĐẠI LƯỢC (2006), TRUNG QUỐC SAU KHI GIA NHẬP WTO:

NGẠCH XUẤT KHẨU, TẠP CHÍ KINH TẾ KẾ HOẠCH SỐ 1.

THÀNH CÔNG VÀ THÁCH THỨC, NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI, VIỆN KHOA

7. TS. LÊ QUỐC LÝ (2004), TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ

HOC XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ VIỆN KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ QUỐC GIA.

8. TS. LÊ QUỐC LÝ (2004), QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI

THỰC TIỄN ĐIỀU HÀNH Ở VIỆT NAM, NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ HÀ NỘI.

9. TRẦN ĐỨC MẬU (THÁNG 4/1993), CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA CỘNG HOÀ

ĐOÁI Ở VIỆT NAM, NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ.

10. PGS.,TS NGUYỄN THỊ MÙI (2006), LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ

LIÊN BANG ĐỨC.

GIÁ HỐI ĐOÁI – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM, NHÀ

11. HOÀNG XUÂN QUẾ (2004), BÀN VỀ CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

XUẤT BẢN HÀ NỘI, BỘ TÀI CHÍNH.

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ HÀ NỘI.

77

12. TS ĐỖ TIẾN SÂM (2005), TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO – KINH NGHIÊM

VỚI VIỆT NAM, NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, VIỆN KHOA HỌC

13. NGUYỄN THỊ THANH THẢO (1998), CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA TRUNG

XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC.

QUỐC NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ KHU VỰC HIỆN

14. NGUYỄN THỊ THƯ (2001), LATS: TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI – CHÍNH SÁCH VÀ TÁC

NAY, VIỆN NGHIÊN CỨU TÀI CHÍNH.

ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI NGOẠI THƯƠNG QUA THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN

15. NGỌC TRỊNH (1995), ĐỒNG YÊN LÊN GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ, TẠP CHÍ

KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC.

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ THẾ GIỚI SỐ 3.

1. MONTHLY REPORT MARCH 2008, THE ECONOMIST INTELLIGENCE UNIT

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

2. BANK OF JAPAN, MONTHLY REVIEW FROM 1980 TO 1996.

3. DEUTSCHE BUNDES BANK, ANNUAL REPORT 1980 TO 1995.

LIMITED 2008.

1. WWW.TRADINGECONOMICS.COM/ECONOMICS/CURRENCY

2. WWW.VIETNAMNET.VN/KINHTE/THEGIOI/2005

3. WWW.INVESTINTAIWAN.NAT.GOV

4. HTTP://WWW.CHINABILITY.COM/RESERVES

5. HTTP://WWW.LAOCAI.GOV.VN/NHDLTNTQ

6. HTTP://WWW.SBV.GOV.VN/VN/HOME/TINNGHIENCUU

7. HTTP://WWW.TIASANG.COM.VN/PRINT?ID=1847

8. CENTRAL BANK OF CHINA, REPUBLIC OF CHINA,

CÁC WEBSITE

HTTP://INVESTINTAIWAN.NAT.GOV.TW/EN/ENV/STATS/EXCHANGE_RA

9. TẠP CHÍ TIA SÁNG, BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, NGÀY 24/08/2007.

TES.HTML

78

10. HTTP://WWW.MDE.EDU.VN/MAIHUONG.ASP

11. HTTP://WWW.VNEXPRESS.NET/GL/KINH-DOANH/2008/01/3B9FE7C4/

Phụ Lục

1. CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

A) CÁCH TIẾP CẬN TỶ GIÁ DÀI HẠN

79

CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI DÀI HẠN ĐƯỢC XEM XÉT DỰA

TRÊN CƠ SỞ CỦA QUY LUẬT MỘT GIÁ, THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA, VÀ

 QUY LUẬT MỘT GIÁ:

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CUNG CẦU NGOẠI TỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TRONG DÀI HẠN.

QUY LUẬT MỘT GIÁ DỰA TRÊN NHỮNG GIẢ ĐỊNH ĐƠN GIẢN HÓA QUÁ

TRÌNH VÀ TÍNH CHẤT GIAO DỊCH CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, BẰNG CÁCH BỎ

QUA CÁC VẤN ĐỀ VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI NHƯ THUẾ QUAN, BẢO HỘ… VÀ

CÁC CHI PHÍ VẬN TẢI HÀNG HÓA TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. QUY LUẬT

MỘT GIÁ QUAN NIỆM MỘT CÁCH ĐƠN GIẢN LÀ VỚI MỘT LOẠI HÀNG HÓA THÌ GIÁ CẢ CỦA NÓ SẼ ĐƯỢC BÁN VỚI MỘT MỨC GIÁ NHƯ NHAU Ở MỌI NƠI.

MẶC DÙ CÁCH TIẾP CẬN CỦA QUY LUẬT MỘT GIÁ LÀ KHÔNG THỰC

TẾ NHƯNG CŨNG ĐÃ PHẢN ÁNH ĐƯỢC NHÂN TỐ CƠ BẢN ĐỂ XÁC ĐỊNH TỶ

GIÁ HỐI ĐOÁI MÀ TẤT CẢ CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐỀU DỰA VÀO.

HƠN THẾ NỮA, DÙ ĐỨNG TRÊN QUAN ĐIỂM VÀ CÁCH TIẾP CẬN NÀO ĐI NỮA

THÌ CŨNG KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN ĐƯỢC NỘI DUNG “GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG”

TRONG LÝ THUYẾT “GIÁ CẢ”, TIỀN TỆ” CỦA RICACĐÔ. TIỀN TỆ VỀ BẢN

CHẤT CŨNG LÀ MỘT HÀNG HÓA – DÙ ĐÓ LÀ MỘT HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT –

NÊN GIÁ TRỊ CỦA NÓ CŨNG PHẢI ĐƯỢC TÍNH DỰA TRÊN CHI PHÍ LAO ĐỘNG

TẠO RA NÓ. TUY NHIÊN, GIÁ CẢ CỦA TIỀN TỆ CŨNG NHƯ HÀNG HÓA DỊCH

VỤ KHÁC KHÔNG ĐƯỢC XÁC ĐỊNH TRONG ĐIỀU KIỆN BẤT BIẾN, MÀ CẦN

XÁC ĐỊNH TRONG MỐI QUAN HỆ LUÔN LUÔN THAY ĐỔI VÀ NHỮNG THAY

ĐỔI NÀY NGÀY MỘT PHỨC TẠP HƠN, ĐẶC BIỆT LÀ TRONG ĐIỀU KIỆN CÓ SỰ

CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC. CHÍNH VÌ VẬY, NẾU CHỈ DỰA VÀO QUY LUẬT

MỘT GIÁ THÌ KHÔNG ĐỦ ĐỂ PHẢN ÁNH NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ ĐẾN TỶ GIÁ VÀ GIÁ TRỊ CÁC ĐỒNG TIỀN.

MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ CÓ ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP ĐẾN SỰ

THAY ĐỔI TRONG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG LÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG

MỨC GIÁ CẢ HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ CỦA HAI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN TRỰC

TIẾP ĐẾN VIỆC XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. TIẾP THEO CHÚNG TA SẼ ĐỀ CẬP

 THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA (PPP):

ĐẾN CÁCH TIẾP CẬN VÀ XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ THEO THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA.

80

THEO THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA THÌ TỶ GIÁ GIỮA HAI ĐỒNG

TIỀN BẤT KỲ CŨNG SẼ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH ĐỂ PHẢN ÁNH NHỮNG THAY ĐỔI

TRONG GIÁ CẢ HÀNG HÓA, DỊCH VỤ CỦA HAI NƯỚC. KHI MỨC GIÁ CẢ CỦA

HÀNG HÓA, DỊCH VỤ CỦA MỘT NƯỚC TĂNG LÊN THÌ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI SẼ

TĂNG VÀ ĐỒNG TIỀN NƯỚC ĐÓ SẼ GIẢM GIÁ TRỊ, NGƯỢC LẠI KHI MỨC GIÁ

CẢ HÀNG HÓA, DỊCH VỤ CỦA MỘT NƯỚC GIẢM THÌ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI SẼ

GIẢM VÀ GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN CỦA NƯỚC ĐÓ SẼ TĂNG. NHƯ VẬY, VỀ THỰC

CHẤT THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA LÀ ÁP DỤNG QUY LUẬT MỘT GIÁ VÀO

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG MỨC GIÁ CẢ HÀNG HÓA, DỊCH VỤ CỦA HAI

NƯỚC.

THUYẾT NGANG GIÁ SỨC MUA ĐƯỢC THỰC HIỆN TRÊN NỘI DUNG

CỦA QUY LUẬT MỘT GIÁ NÊN NÓ CŨNG CÓ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHÍNH

QUY LUẬT MỘT GIÁ. HƠN THẾ NỮA, DO CÁCH PHẢN ÁNH CỦA PPP HOÀN

TOÀN CĂN CỨ VÀO NHỮNG THAY ĐỔI TRONG MỨC GIÁ, MỘT BIẾN SỐ MÀ

CÁCH TÍNH TOÁN CỦA NÓ DỰA TRÊN RỔ HÀNG HÓA – DỊCH VỤ BAO GỒM

CỦA NHỮNG THỨ KHÔNG ĐƯỢC BUÔN BÁN QUA BIÊN GIỚI NHƯ: ĐẤT ĐAI,

NHÀ CỬA, DỊCH VỤ DU LỊCH… ĐÂY LÀ NHỮNG HÀNG HÓA MÀ SỰ BIẾN

ĐỘNG GIÁ CẢ CỦA NÓ CÓ ẢNH HƯỞNG LỚN ĐẾN MỨC GIÁ CHUNG CỦA MỘT

NƯỚC NHƯNG LẠI ÍT CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI. NHỮNG NGHIÊN

CỨU VÀ KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM CHO THẤY PPP CÓ MỨC ĐỘ PHẢN ÁNH

VÀO TỶ GIÁ RẤT THẤP, ĐẶC BIỆT LÀ TRONG NGẮN HẠN. NHỮNG KHOẢNG

CÁCH TỒN TẠI LÀM CHO QUY LUẬT MỘT GIÁ KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC LÀ

DO TÍNH KHÔNG HOÀN HẢO CỦA CẠNH TRANH: NHỮNG SẢN PHẨM TƯƠNG

TỰ NHAU DO CÁC NƯỚC KHÁC NHAU SẢN XUẤT KHÔNG HOÀN TOÀN THAY

THẾ ĐƯỢC NHAU DƯỚI CON MẮT VÀ SỞ THÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG. HƠN

NỮA, TRONG THỰC TẾ HÌNH THỨC TƯƠNG ĐỐI CỦA QUY LUẬT GIÁ DUY

NHẤT LÀ KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC NGAY TRONG MỘT NHÓM SẢN PHẨM

TRAO ĐỔI, VÀ NGAY CẢ ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI SẢN PHẨM. HIỆN TƯỢNG NÀY

CÀNG TRẦM TRỌNG KHI SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC SẢN PHẨM NGÀY CÀNG

LỚN. DO VẬY ĐỂ GIẢI THÍCH THỎA ĐÁNG HƠN NHỮNG CƠ SỞ XÁC ĐỊNH TỶ

GIÁ DÀI HẠN CẦN KHẢO SÁT VÀ NGHIÊN CỨU THÊM CÁC NHÂN TỐ LÀM

THAY ĐỔI CUNG CẦU NGOẠI TỆ TRONG DÀI HẠN.

81

 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LÀM THAY ĐỔI TỶ GIÁ TRONG DÀI HẠN

(THAY ĐỔI CUNG - CẦU TRONG DÀI HẠN)

NHỮNG NHÂN TỐ LÀM THAY ĐỔI QUAN HỆ CUNG CẦU TRÊN THỊ

TRƯỜNG NGOẠI HỐI TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ THEO NGUYÊN TẮC: TẤT CẢ

NHỮNG NHÂN TỐ NÀO LÀM TĂNG CẦU HÀNG HÓA NỘI SO VỚI HÀNG NGOẠI

ĐỀU CÓ XU HƯỚNG LÀM TĂNG GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG NỘI TỆ, CÓ NGHĨA LÀ

LÀM CHO TỶ GIÁ GIẢM, BỞI VÌ HÀNG NỘI VẪN CÒN TIẾP TỤC ĐƯỢC BÁN

TỐT NGAY CẢ KHI ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG GIÁ. TƯƠNG TỰ NHƯ VẬY, NHỮNG

NHÂN TỐ LÀM TĂNG CẦU VỀ HÀNG NGOẠI (TĂNG NHẬP KHẨU) ĐỀU CÓ XU

HƯỚNG LÀM GIẢM GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG NỘI TỆ (TỶ GIÁ TĂNG), BỞI VÌ HÀNG

NỘI CHỈ ĐƯỢC BÁN TỐT KHI GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG NỘI TỆ GIẢM XUỐNG THẤP

HƠN. HAY NHÌN MỘT CÁCH KHÁC, KHI CẦU HÀNG NỘI TĂNG THÌ CẦU VỀ

HÀNG NGOẠI GIẢM DẪN TỚI NHẬP KHẨU GIẢM VÀ KHI ĐÓ CẦU VỀ NGOẠI

TỆ ĐỂ THANH TOÁN CHO HÀNG NHẬP KHẨU CŨNG GIẢM DO VẬY TỶ GIÁ

GIẢM VÀ GIÁ TRỊ ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG. TƯƠNG TỰ VẬY, KHI TĂNG NHẬP

KHẨU THÌ SẼ DẪN ĐẾN XU HƯỚNG GIẢM GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ.

CÓ THỂ ĐÚC KẾT 4 NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CUNG – CẦU NGOẠI TỆ

TRONG DÀI HẠN, ĐÓ LÀ MỨC GIÁ, CHÍNH SÁCH BẢO HỘ, SỞ THÍCH CỦA

NGƯỜI TIÊU DÙNG HAY ĐỘ CO GIÃN CỦA GIÁ CẢ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẦU

 MỨC GIÁ CẢ TƯƠNG ĐỐI

HÀNG HÓA VÀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG.

KHI MỨC GIÁ CẢ HÀNG HÓA – DỊCH VỤ TRONG NƯỚC TĂNG SO VỚI

MỨC GIÁ CẢ HÀNG HÓA – DỊCH VỤ NƯỚC NGOÀI, CÁC HÃNG SẢN XUẤT

TRONG NƯỚC NÓI CHUNG VÀ CÁC HÃNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA XUẤT KHẨU

NÓI RIÊNG CÓ XU HƯỚNG THU HẸP QUY MÔ SẢN XUẤT DO GIÁ ĐẦU VÀO

(CHI PHÍ SẢN XUẤT) TĂNG, ĐIỀU NÀY DẪN ĐẾN SỰ SUY GIẢM CỦA XUẤT

KHẨU VÀ KÉO THEO SỰ SUY GIẢM CỦA CUNG NGOẠI TỆ, ĐƯỜNG CUNG

NGOẠI TỆ DI CHUYỂN SANG TRÁI (LÊN PHÍA TRÊN). TRONG KHI CẦU VỀ

HÀNG NỘI GIẢM THÌ CẦU VỀ HÀNG NGOẠI TĂNG LÊN, KÉO THEO ĐƯỜNG

CẦU NGOẠI TỆ DỊCH CHUYỂN SANG PHẢI. CHÍNH NHỮNG SỰ DỊCH CHUYỂN

NÀY ĐÃ TẠO NÊN MỘT ĐIỂM CÂN BẰNG MỚI TRÊN THỊ TRƯỜNG HỐI ĐOÁI

82

VÀ TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY ĐIỂM ĐÓ SẼ NẰM Ở PHÍA TRÊN CỦA ĐIỂM

CÂN BẰNG BAN ĐẦU. CÓ NGHĨA LÀ TỶ GIÁ GIA TĂNG VÀ ĐỒNG TIỀN NỘI

ĐỊA GIẢM GIÁ.

S’ E(usd/vnd)

S E’

E

D’

D

Q(usd) HÌNH 1.2: TÁC ĐỘNG CỦA MỨC GIÁ THAY ĐỔI ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

NHƯ VẬY, VỀ DÀI HẠN SỰ GIA TĂNG MỨC GIÁ CỦA MỘT NƯỚC SO

VỚI MỨC GIÁ NƯỚC NGOÀI SẼ LÀM CHO TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TĂNG LÊN VÀ

ĐỒNG TIỀN NƯỚC ĐÓ GIẢM GIÁ. ĐIỀU NÀY CŨNG PHẦN NÀO GIẢI THÍCH

HIỆN TƯỢNG KHI MỘT NƯỚC CÓ MỨC LẠM PHÁT CAO HƠN MỨC LẠM PHÁT

NƯỚC NGOÀI THÌ TỶ GIÁ CÓ XU HƯỚNG TĂNG LÊN. NÓ CŨNG GIẢI THÍCH

 CHÍNH SÁCH BẢO HỘ

MỐI QUAN HỆ CHẶT CHẼ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ, MỐI QUAN HỆ GIỮA MỨC GIÁ TRONG NƯỚC VÀ MỨC GIÁ NƯỚC NGOÀI.

DO SỰ PHÁT TRIỂN KHÔNG ĐỒNG ĐỀU VÀ ƯU THẾ KHÁC NHAU GIỮA

CÁC NƯỚC TRONG SẢN XUẤT HÀNG HÓA ĐÃ TẠO RA KHẢ NĂNG CẠNH

TRANH KHÔNG ĐỒNG ĐỀU CỦA HÀNG HÓA DỊCH VỤ CÁC NƯỚC. ĐỂ BẢO VỆ

LỢI ÍCH VÀ SỨC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÒN NON TRẺ

TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ, CÁC NƯỚC THƯỜNG DỰNG LÊN CÁC RÀO

CẢN THƯƠNG MẠI, ĐÓ LÀ CÁC HÀNG RÀO THUẾ QUAN VÀ PHI THUẾ QUAN.

83

E(vnd/usd)

S

E1

E2 D1

D2

Q(usd)

HÌNH 1.3: TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HỘ ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.

SONG CÁC HÀNG RÀO THUẾ QUAN VÀ PHI THUẾ QUAN TRONG KHI

BẢO VỆ LỢI ÍCH CỦA MỘT SỐ NGÀNH SẢN XUẤT, MỘT SỐ LĨNH VỰC KINH TẾ

ĐÃ NGĂN CẢN TỰ DO BUÔN BÁN, LÀM GIẢM LỢI ÍCH CỦA MỘT SỐ NGÀNH

KINH TẾ KHÁC, MỘT SỐ VÙNG KINH TẾ KHÁC VÀ LÀM TỔN HẠI ĐẾN LỢI ÍCH

CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG. BỞI VÌ, SỰ TĂNG CƯỜNG HÀNG RÀO THUẾ QUAN,

QUOTA ĐÃ LÀM HẠN CHẾ KHỐI LƯỢNG HÀNG HÓA DỊCH VỤ NHẬP KHẨU

DẪN ĐẾN HẠN CHẾ CẦU NGOẠI TỆ, TỪ ĐÓ LÀM DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG CẦU

NGOẠI TỆ XUỐNG PHÍA DƯỚI, VÀ VỀ DÀI HẠN SẼ KÉO TỶ GIÁ ĐI XUỐNG

DẪN ĐẾN LÀM TĂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ.

NGHỊCH LÝ CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HỘ THỂ HIỆN Ở CHỖ, TRONG KHI

DÙNG CÁC HÀNG RÀO THUẾ QUAN VÀ QUOTA ĐỂ HẠN CHẾ NHẬP KHẨU, HỖ

TRỢ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC VÀ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU THÌ LẠI KÉO

GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG LÊN, VÀ KHI GIÁ TRỊ ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG

 SỰ CO GIÃN CỦA TỔNG CẦU DƯỚI THAY ĐỔI CỦA MỨC GIÁ

LẠI HẠN CHẾ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.

KHI MỨC GIÁ THAY ĐỔI SẼ KÉO THEO SỰ THAY ĐỔI CỦA TỔNG CẦU

ĐỐI VỚI HÀNG HÓA, SONG SỰ THAY ĐỔI NÀY KHÔNG THEO MỘT TỈ LỆ NHẤT

ĐỊNH VỚI SỰ THAY ĐỔI CỦA GIÁ CẢ. BỞI VÌ, NÓ PHỤ THUỘC VÀO “SỞ THÍCH

CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG”. TUY NHIÊN, SỞ THÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG LÀ

84

MỘT NHÂN TỐ KHÓ XÁC ĐỊNH VỀ LƯỢNG CŨNG NHƯ NHỮNG TÁC ĐỘNG

CỦA NÓ TỚI CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ. TRONG THỰC TẾ NGAY CẢ KHI CÁC

HÀNG HÓA TRONG NƯỚC VÀ HÀNG HÓA NƯỚC NGOÀI CÓ NHỮNG CHẤT

LƯỢNG GIỐNG NHAU (NHƯ VỀ GIÁ CẢ, CHẤT LƯỢNG, MẪU MÃ …) THÌ

CHÚNG VẪN KHÔNG THỂ CÓ KHẢ NĂNG THAY THẾ HOÀN TOÀN CHO NHAU

BỞI SỞ THÍCH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG KHÁC NHAU.

NẾU NGƯỜI DÂN MỘT NƯỚC CÓ XU HƯỚNG THÍCH DÙNG HÀNG

NGOẠI HƠN HÀNG NỘI THÌ CẦU HÀNG NGOẠI SẼ TĂNG, DẪN ĐẾN CẦU NHẬP

KHẨU HÀNG NGOẠI TĂNG VÀ ĐƯỜNG CẦU NGOẠI TỆ DỊCH CHUYỂN SANG

PHẢI, TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TĂNG, ĐỒNG TIỀN NỘI ĐỊA GIẢM GIÁ. KHI NHU CẦU

 NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG

VỀ HÀNG NỘI GIA TĂNG THÌ XẢY RA HIỆN TƯỢNG NGƯỢC LẠI.

NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TĂNG LÊN THỂ HIỆN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC. NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TĂNG

LÊN GÓP PHẦN LÀM GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT, GIẢM GIÁ THÀNH SẢN PHẨM,

NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ. NĂNG SUẤT TĂNG LÀM

GIÁ THÀNH HÀNG NỘI ĐỊA GIẢM - ĐIỀU NÀY ĐÃ LÀM CHO HÀNG NỘI CHIẾM

ƯU THẾ TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC VÀ VƯƠN RA THỊ TRƯỜNG NƯỚC

NGOÀI, KÍCH THÍCH VÀ MỞ RỘNG XUẤT KHẨU, TĂNG CUNG NGOẠI TỆ. VÀ

KHI CUNG NGOẠI TỆ TĂNG SẼ ĐẨY ĐƯỜNG CUNG DỊCH CHUYỂN SANG PHẢI,

ĐỒNG THỜI NHU CẦU HÀNG NGOẠI GIẢM DẪN ĐẾN NHẬP KHẨU GIẢM, KHI

ĐÓ ĐƯỜNG CẦU NGOẠI TỆ SẼ DỊCH CHUYỂN SANG TRÁI, VÀ KÉO TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG GIẢM XUỐNG, ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG GIÁ.

NHƯ VẬY, CƠ SỞ XÁC ĐỊNH TỶ GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI DÀI HẠN CÓ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN TƯƠNG QUAN

TRONG XUẤT NHẬP KHẨU, ĐỒNG THỜI LÀ NHỮNG BIẾN SỐ CÓ TÍNH ỔN

ĐỊNH TƯƠNG ĐỐI. TUY NHIÊN NÓ LẠI CHƯA THỂ GIẢI THÍCH ĐƯỢC TẠI SAO

TỶ GIÁ LẠI THƯỜNG XUYÊN BIẾN ĐỔI VÀ ĐÔI KHI GÂY RA NHỮNG CÚ SỐC

TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ. CÁCH TIẾP CẬN TỶ GIÁ TRÊN THỊ

TRƯỜNG TÀI SẢN SẼ PHẦN NÀO LÝ GIẢI VÀ GIÚP CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐƯỢC CÁC ĐẶC ĐIỂM TRÊN CỦA TỶ GIÁ.

85

B) CÁCH TIẾP CẬN TỶ GIÁ TRONG NGẮN HẠN

BẰNG CÁCH THỪA NHẬN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI LÀ GIÁ CẢ CỦA TIỀN GỬI

Ở NGÂN HÀNG NỘI ĐỊA (TIỀN GỬI GHI BẰNG NỘI TỆ) TÍNH RA TIỀN GỬI TẠI

NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI (TIỀN GỬI GHI BẰNG NGOẠI TỆ), HAY TỶ GIÁ

CHÍNH LÀ GIÁ CẢ CỦA MỘT TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH DANH BẰNG ĐỒNG TIỀN

NÀY TÍNH RA BẰNG ĐỒNG TIỀN KHÁC. VỚI CHỨC NĂNG LÀ ĐO LƯỜNG MỨC

LỢI TỨC CỦA CÁC ĐỒNG TIỀN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN THÌ BẤT CỨ SỰ

THAY ĐỔI NÀO CỦA TỶ GIÁ DÙ LÀ TỶ GIÁ HIỆN HÀNH HAY TỶ GIÁ HỐI

ĐOÁI DỰ KIẾN ĐỀU LÀM THAY ĐỔI LỢI TỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ SẼ THAY

ĐỔI HÀNH VI VÀ LÀM THAY ĐỔI CUNG CẦU TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN SẼ

 LỢI TỨC TIỀN GỬI VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG:

KÉO THEO THAY ĐỔI TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG.

ĐỐI VỚI MỘT NƯỚC, TIỀN GỬI NỘI TỆ ĐƯỢC ĐỊNH DANH BẰNG TIỀN

CỦA NƯỚC ĐÓ (VÍ DỤ: Ở VIỆT NAM LÀ ĐỒNGVIỆT NAM – VND), TIỀN GỬI

NGOẠI TỆ LÀ TIỀN CỦA NƯỚC NGOÀI (VÍ DỤ: ĐÔ LA MỸ – USD). NHÂN TỐ

CHỦ YẾU LÚC NÀY TÁC ĐỘNG ĐẾN CẦU VND HAY USD PHỤ THUỘC VÀO

VIỆC SO SÁNH LỢI TỨC TIỀN GỬI DỰ TÍNH CỦA TÀI SẢN ĐÓ. NẾU LỢI TỨC

DỰ TÍNH CỦA TIỀN GỬI BẰNG USD CAO HƠN TIỀN ĐỒNG VIỆT NAM THÌ CẢ

NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI CÓ XU HƯỚNG NẮM GIỮ ĐỒNG

USD NHIỀU HƠN (CẦU VỀ USD CAO HƠN VÀ CẦU VỀ VND THẤP HƠN). SONG

LỢI TỨC DỰ TÍNH VỀ TIỀN GỬI ĐỒNG VIỆT NAM TÍNH RA NGOẠI TỆ KHÔNG

PHẢI BẰNG MỨC LÃI TIỀN GỬI ĐỒNG VND MÀ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH THEO SỰ

TĂNG HAY GIẢM GIÁ CỦA VND. TƯƠNG TỰ NHƯ VẬY, MỨC LỢI TỨC DỰ

TÍNH VỀ TIỀN GỬI NGOẠI TỆ TÍNH RA VND PHẢI ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH THEO SỰ

 THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÂN BẰNG:

TĂNG HAY GIẢM GIÁ CỦA ĐỒNG NGOẠI TỆ.

KHI LỢI TỨC CỦA TÀI SẢN NỘI TỆ VÀ NGOẠI TỆ BẰNG NHAU, THỊ

TRƯỜNG TÀI SẢN ĐẠT Ở VỊ TRÍ CÂN BẰNG A. TẠI A TỶ GIÁ CÂN BẰNG ĐƯỢC

XÁC ĐỊNH, CẦU VỀ TÀI SẢN NỘI TỆ BẰNG VỚI CẦU TÀI SẢN NGOẠI TỆ MÀ

CHÚNG CÓ THỂ THAY THẾ NHAU (GIẢ ĐỊNH LÀ CÓ SỰ THAY THẾ HOÀN

HẢO). NẾU TỶ GIÁ THỊ TRƯỜNG LỚN HƠN HOẶC NHỎ HƠN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

86

CÂN BẰNG, CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG SẼ TỰ ĐIỀU TIẾT ĐỂ ĐƯA TỶ GIÁ TRỞ LẠI

VỊ TRÍ CÂN BẰNG.

GIẢ SỬ NẾU CÓ TỶ GIÁ E1 (E1 > E*), LÚC NÀY LỢI TỨC DỰ TÍNH VỀ

TIỀN GỬI NỘI TỆ SẼ LỚN HƠN LỢI TỨC DỰ TÍNH VỀ TIỀN GỬI NGOẠI TỆ. KHI

ĐÓ CẢ NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐỀU CÓ XU HƯỚNG MUỐN

GIỮ ĐỒNG NỘI TỆ (VND) VÀ HỌ SẼ BÁN NGOẠI TỆ ĐỂ MUA NỘI TỆ, LÀM CHO

CUNG NGOẠI TỆ TĂNG LÊN, VÀ TỶ GIÁ SẼ GIẢM VỀ TỚI MỨC TỶ GIÁ CÂN

BẰNG E*. KHI TỶ GIÁ Ở MỨC E2 (E2 < E*) THÌ TÌNH HÌNH SẼ DIỄN RA THEO

CHIỀU NGƯỢC LẠI, VÀ E2 ĐƯỢC ĐẨY TĂNG TRỞ LẠI TỚI E*.

Tỷ giá (vnd/usd) RET(usd)

RET(vnd) E1

E* A

E2

Lợi tức tiền gửi

HÌNH 1.4: TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN NỘI – NGOẠI TỆ ĐẾN TỶ GIÁ HỐI

 NHỮNG NHÂN TỐ LÀM THAY ĐỔI TỶ GIÁ CÂN BẰNG NGẮN HẠN:

ĐOÁI.

BẤT CỨ NHÂN TỐ NÀO LÀM DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG LỢI TỨC DỰ TÍNH

TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN ĐỀU DẪN TỚI SỰ DỊCH CHUYỂN VỊ TRÍ CÂN

BẰNG VÀ SỰ THAY ĐỔI CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NGẮN HẠN. SỰ DỊCH CHUYỂN

SANG PHẢI HAY SANG TRÁI CỦA ĐƯỜNG LỢI TỨC DỰ TÍNH BỊ GÂY RA BỞI

CÁC NGUYÊN NHÂN SAU: LÃI SUẤT TIỀN GỬI NỘI TỆ THAY ĐỔI, SỰ THAY

ĐỔI TRONG TỶ GIÁ TƯƠNG LAI DỰ TÍNH.

87

- SỰ DỊCH CHUYỂN CỦA ĐƯỜNG LỢI TỨC DỰ TÍNH ĐỐI VỚI TIỀN GỬI

NỘI TỆ:

KHI LÃI SUẤT TIỀN GỬI NỘI TỆ TĂNG LÊN, LỢI TỨC DỰ TÍNH TIỀN GỬI

NỘI TỆ TĂNG, ĐƯỜNG LỢI TỨC DỰ TÍNH RET(VND) DỊCH SANG PHẢI, TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI GIẢM, ĐỒNG NỘI TỆ TĂNG GIÁ. NGƯỢC LẠI KHI LÃI SUẤT NỘI TỆ

GIẢM, ĐƯỜNG RET(VND) DỊCH CHUYỂN SANG TRÁI, TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TĂNG,

ĐỒNG NỘI TỆ GIẢM GIÁ.

NHƯ VẬY, TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TƯƠNG LAI DỰ TÍNH CÓ QUAN HỆ TỶ LỆ

NGHỊCH VỚI LỢI TỨC DỰ TÍNH ĐỒNG NỘI TỆ. ĐẾN LƯỢT NÓ TỶ GIÁ HỐI

ĐOÁI TƯƠNG LAI DỰ TÍNH LẠI BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI CÁC NHÂN TỐ DÀI HẠN

NHƯ: MỨC GIÁ TƯƠNG ĐỐI, CHÍNH SÁCH BẢO HỘ, SỞ THÍCH NGƯỜI TIÊU

DÙNG, NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG. MỌI SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC NHÂN TỐ NÀY

LÀM TĂNG TỶ GIÁ TƯƠNG LAI DỰ TÍNH THÌ SẼ DẪN TỚI GIẢM GIÁ ĐỒNG

NỘI TỆ, NGƯỢC LẠI NẾU CHÚNG TƯƠNG TÁC LẪN NHAU THEO HƯỚNG LÀM

GIẢM TỶ GIÁ TƯƠNG LAI DỰ TÍNH THÌ SẼ CÓ TÁC ĐỘNG LÀM TĂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ.

- SỰ DỊCH CHUYỂN CỦA ĐƯỜNG LỢI TỨC DỰ TÍNH TIỀN GỬI NGOẠI TỆ

DO SỰ THAY ĐỔI LỢI TỨC DỰ TÍNH CỦA TIỀN GỬI NGOẠI TỆ TÍNH

THEO NGOẠI TỆ KHÔNG CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ NÊN NÓ CHỈ PHỤ

THUỘC VÀO NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT CỦA TIỀN GỬI NGOẠI TỆ.

KHI CÓ SỰ THAY ĐỔI TRONG LÃI SUẤT TIỀN GỬI NGOẠI TỆ THÌ SẼ CÓ SỰ

THAY ĐỔI VỀ TỶ GIÁ, CHẲNG HẠN LÃI SUẤT TIỀN GỬI NGOẠI TỆ TĂNG LÊN

LỢI TỨC CỦA TIỀN GỬI TĂNG LÊN, ĐƯỜNG LỢI TỨC NGOẠI TỆ DỊCH CHUYỂN

SANG PHẢI, KÉO THEO TỶ GIÁ CÂN BẰNG BỊ ĐẨY LÊN VÀ ĐỒNG NỘI TỆ

GIẢM GIÁ. MỘT SỰ GIẢM LÃI SUẤT ĐỒNG NGOẠI TỆ SẼ CÓ TÁC ĐỘNG

NGƯỢC LẠI.

TUY NHIÊN TƯƠNG QUAN THUẬN GIỮA TỶ GIÁ, GIÁ TRỊ ĐỒNG NGOẠI

TỆ VỚI LÃI SUẤT NGOẠI TỆ MÀ CHÚNG TA PHÂN TÍCH TRÊN ĐÂY CHỈ CÓ Ý

NGHĨA KHI SỰ THAY ĐỔI CỦA LÃI SUẤT NGOẠI TỆ LÀ DO SỰ THAY ĐỔI CỦA

LÃI SUẤT THỰC TẾ GÂY RA. NHÀ KINH TẾ HỌC FISHER, KHI NGHIÊN CỨU VỀ

LÃI SUẤT ĐÃ ĐƯA RA PHƯƠNG TRÌNH NỔI TIẾNG, PHẢN ÁNH 2 NHÂN TỐ CÓ

ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẤU TRÚC LÃI SUẤT. ĐÓ LÀ LÃI SUẤT THỰC VÀ LẠM

88

PHÁT. PHƯƠNG TRÌNH ĐƠN GIẢN MÀ ÔNG SỬ DỤNG ĐỂ MÔ TẢ CẤU TRÚC

LÃI SUẤT LÀ PHƯƠNG TRÌNH FISHER. TRONG ĐÓ LÃI SUẤT THỰC TẾ LÀ KẾT

QUẢ CỦA LÃI SUẤT DANH NGHĨA ĐÃ LOẠI BỎ LẠM PHÁT.

NHƯ VẬY, LÃI SUẤT DANH NGHĨA CỦA TIỀN GỬI CÓ THỂ ĐƯỢC THAY

ĐỔI DO 2 NHÂN TỐ LÀ LÃI SUẤT THỰC TẾ VÀ LẠM PHÁT DỰ TÍNH. NẾU LÃI

SUẤT DANH NGHĨA THAY ĐỔI DO LÃI SUẤT THỰC TẾ THAY ĐỔI THÌ KẾT

QUẢ SẼ DIỄN RA NHƯ TA PHÂN TÍCH Ở TRÊN (LÃI SUẤT CÓ TÁC ĐỘNG

THUẬN CHIỀU VỚI GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN ĐÓ VÀ TỈ LỆ NGHỊCH VỚI ĐỒNG TIỀN

TRONG QUAN HỆ TỶ GIÁ VỚI NÓ). CÒN NẾU LÃI SUẤT DANH NGHĨA CỦA

TIỀN GỬI NGOẠI TỆ TÍNH THEO ĐỒNG NGOẠI TỆ THAY ĐỔI DO NGUYÊN

NHÂN LẠM PHÁT DỰ TÍNH THAY ĐỔI THÌ NÓ KHÔNG CHỈ TÁC ĐỘNG ĐẾN

LỢI TỨC DỰ TÍNH CỦA ĐỒNG NGOẠI TỆ MÀ CÒN TÁC ĐỘNG ĐẾN LỢI TỨC

DỰ TÍNH CỦA ĐỒNG NỘI TỆ TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN. CỤ THỂ LÀ KHI

LẠM PHÁT CỦA NƯỚC CÓ ĐỒNG NGOẠI TỆ TĂNG, DẪN ĐẾN LÃI SUẤT DANH

NGHĨA CỦA ĐỒNG NGOẠI TỆ TĂNG, DẪN ĐẾN LỢI TỨC CỦA ĐỒNG NGOẠI TỆ

TĂNG, ĐƯỜNG LỢI TỨC NGOẠI TỆ DỊCH CHUYỂN SANG PHẢI. ĐỒNG THỜI

LẠM PHÁT TĂNG SẼ LÀM MỨC GIÁ NƯỚC NGOÀI TĂNG SO VỚI MỨC GIÁ

TRONG NƯỚC. THEO NHỮNG PHÂN TÍCH VỀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ

DÀI HẠN, VỀ LÂU DÀI SẼ DẪN ĐẾN LÀM GIẢM TỶ GIÁ TƯƠNG LAI DỰ TÍNH

VÀ TĂNG GIÁ ĐỒNG TIỀN NƯỚC ĐÓ. DỰ KIẾN VỀ TỶ GIÁ TƯƠNG LAI DỰ

KIẾN GIẢM SẼ LÀM TĂNG LỢI TỨC DỰ TÍNH CỦA ĐỒNG NỘI TỆ, KÉO THEO ĐƯỜNG LỢI TỨC NỘI TỆ DỊCH CHUYỂN SANG PHẢI.

NHƯ VẬY, NGƯỢC LẠI VỚI SỰ GIA TĂNG LÃI SUẤT TIỀN GỬI NGOẠI

TỆ DO LÃI SUẤT THỰC TẾ TĂNG, GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN TĂNG, SỰ GIA TĂNG

CỦA LÃI SUẤT TIỀN GỬI NGOẠI TỆ DO LẠM PHÁT DỰ TÍNH TĂNG LẠI TÁC

ĐỘNG LÀM GIẢM GIÁ ĐỒNG NGOẠI TỆ.

TRONG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LÀM THAY ĐỔI TỶ GIÁ NGẮN HẠN,

LÃI SUẤT ĐƯỢC COI LÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU NHẤT. BỞI VÌ LÃI

SUẤT LÀ NHÂN TỐ QUAN TRỌNG VÀ NHẠY CẢM NHẤT TÁC ĐỘNG GÂY RA

NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN. NHỮNG BẰNG CHỨNG

THỰC NGHIỆM CŨNG ĐÃ CHỨNG MINH RẰNG, SỰ BIẾN THIÊN CỦA TỶ GIÁ

LUÔN THEO SÁT NHỮNG THAY ĐỔI TRONG LÃI SUẤT THỰC TẾ. CỤ THỂ LÀ

89

SỰ YẾU ĐI CỦA ĐỒNG USD VÀO CUỐI NHỮNG NĂM 70, MẠNH LÊN TỪ

NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN 1985 VÀ LẠI SUY YẾU VÀO CUỐI NHỮNG NĂM 80, SAU

ĐÓ LẠI MẠNH LÊN VÀO NỬA CUỐI NHỮNG NĂM 90 SAU ĐÓ LẠI SUY YẾU

VÀO THỜI KỲ HIỆN NAY ĐÃ THEO KHẢO SÁT NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI

SUẤT THỰC TẾ. MỨC ĐỘ TƯƠNG ỨNG CỦA LÃI SUẤT DANH NGHĨA ÍT CHẶT

CHẼ HƠN.

TUY NHIÊN, MẶC DÙ NHỮNG THAY ĐỔI TRONG LÃI SUẤT THƯỜNG

ĐƯỢC COI LÀ NHÂN TỐ CHÍNH TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ, NHƯNG ĐỂ DỰ ĐOÁN

ĐƯỢC CHIỀU HƯỚNG VÀ KHẢ NĂNG BIẾN ĐỔI CỦA TỶ GIÁ TRONG TƯƠNG

LAI CẦN PHẢI XÁC ĐỊNH RÕ NGUỒN GỐC PHÁT SINH NHỮNG THAY ĐỔI

TRONG LÃI SUẤT. BỞI VÌ, MỖI NGUỒN GỐC PHÁT SINH KHÁC NHAU SẼ DẪN

TỚI NHỮNG THAY ĐỔI KHÁC NHAU TRONG TỶ GIÁ. NẾU SỰ GIA TĂNG CỦA

LÃI SUẤT TRONG NƯỚC LÀ DO SỰ TĂNG LÊN CỦA LÃI SUẤT THỰC TẾ, THÌ

TỶ GIÁ SẼ BIẾN ĐỔI THEO HƯỚNG TĂNG GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ. VÀ NGƯỢC LẠI,

NẾU NGUYÊN NHÂN TỪ SỰ TĂNG LÊN CỦA LẠM PHÁT DỰ TÍNH THÌ TA THẤY TỶ GIÁ SẼ BIẾN ĐỔI THEO HƯỚNG GIẢM GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ.

SỰ TÁC ĐỘNG PHỨC TẠP CỦA LÃI SUẤT VÀ CÁC NHÂN TỐ DỰ TÍNH

ĐẾN TỶ GIÁ CÂN BẰNG GIÚP CHÚNG TA HIỂU ĐƯỢC TẠI SAO TỶ GIÁ NGẮN

HẠN LẠI BIẾN ĐỔI LINH HOẠT ĐẾN VẬY. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NGẮN HẠN

KHÔNG CHỈ BIẾN ĐỘNG LINH HOẠT MÀ NHIỀU KHI CÒN THAY ĐỔI RẤT ĐỘT

NGỘT GÂY RA NHỮNG XÁO ĐỘNG LỚN CHO NỀN KINH TẾ. GIẢI THÍCH

NHỮNG HIỆN TƯỢNG VÀ TÍNH CHẤT NÀY CỦA TỶ GIÁ ĐÃ ĐƯỢC THỂ HIỆN

RÕ THÔNG QUA PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỚI CẢ TỶ

GIÁ NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN.

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI ĐỘT BIẾN CỦA TỶ GIÁ NGẮN HẠN MỘT

LẦN NỮA CHO CHÚNG TA THẤY, TỶ GIÁ NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN CÓ NHỮNG

DIỄN BIẾN KHÁC NHAU, NHƯNG LẠI CÓ MỐI QUAN HỆ CHẶT CHẼ VỚI NHAU,

SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA CHÚNG CŨNG RẤT PHỨC TẠP.

90

91