BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

------

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT

HỒ BIỂU CHÁNH

30 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngành Sư phạm Văn

CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT

HỒ BIỂU CHÁNH

30 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

MSSV: K38. 601. 085

Người hướng dẫn khoa học: ThS. LÊ VĂN LỰC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016

2

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện được khoá luận này, đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến

gia đình, vì đã luôn bên cạnh, yêu thương, động viên và tạo điều kiện cho em học tập,

phát triển. Tiếp theo, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, quý thầy cô,

các cô chú cán bộ công nhân viên nhà trường, đặc biệt là quý thầy cô khoa Ngữ văn vì đã

nhiệt tình, tận tâm dạy dỗ, quan tâm, giúp đỡ chúng em trong suốt 4 năm học vừa qua,

cung cấp cho chúng em chìa khoá để mở cánh cửa tri thức, truyền cho chúng em tình yêu

và nhiệt huyết với nghề và trò. Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Lê Văn

Lực, người thầy đã hướng dẫn em từ những bước đi chập chững đầu tiên khi đến với con

đường khoa học đầy khó khăn, thử thách và đưa ra những nhận xét, định hướng để em có

3

thể hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp.

MỤC LỤC PHẦN DẪN NHẬP ............................................................................................................. 6

I. LÝ DO CHỌN ĐÈ TÀI ............................................................................................. 6

II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ...................................................................... 8

III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ................................................................................ 11

IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..................................................... 11

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................... 12

VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI .................................................................. 13

VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN .......................................................................... 13

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 14

CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN ...................................................................... 14

1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam bộ .......................................................................................................... 14

1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người ............................................... 14

1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí – giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh . 18

1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn .................................................. 20

1.3 Mảnh đất Nam Bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 24

1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ ..................................................................................... 24

1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ ............................................................................ 26

1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ ........................................................................ 27

CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH ............................................................................. 29

2.1. Tình cảm gia đình ............................................................................................. 29

2.1.1. Tình phụ tử ....................................................................................................... 29

2.1.2. Tình mẫu tử ....................................................................................................... 35

2.1.3. Tình cảm anh em .............................................................................................. 40

2.1.4. Tình cảm ông cháu ............................................................................................ 41

2.1.5. Tình cảm vợ chồng ........................................................................................ 43

4

2.2. Tình người trong cuộc sống ................................................................................. 47

CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỮ “TÌNH” TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH ........................................................................................................ 52

3.1. Cốt truyện ......................................................................................................... 52

3.2. Nghệ thuật kết cấu ............................................................................................ 56

3.2.1. Kết cấu trần thuật .......................................................................................... 56

3.2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập ........................................................ 60

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 63

3.4. Ngôn ngữ .......................................................................................................... 70

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................................... 74

5

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 77

PHẦN DẪN NHẬP

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI I.

Văn học hiện đại Việt Nam trong quá trình hình thành và vận động bằng chữ quốc

ngữ đã có những biến chuyển mạnh mẽ vào giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Trong quá trình phát triển ấy, văn xuôi được chú ý và đón nhận là một bộ phận quan

trọng của nền văn học dân tộc. Sở dĩ nói thế là vì trong văn xuôi người ta tìm thấy một

thể loại mới mang những yếu tố, những khả năng có thể làm mới nền văn học thời bấy

giờ cả về hình thức lẫn nội dung, hứa hẹn một sự đổi thay mang tính chất toàn diện, đó là

tiểu thuyết.

1.1. Hình thành trong giai đoạn văn học mang tính chất giao thời từ 1900 đến

1930, tiểu thuyết dù chưa phải là chặng hoàn tất và đạt nhiều thành tựu nổi bật như giai

đoạn sau (1930 -1945) nhưng nó đã mang đến một luồng gió mới khi cảm hứng đạo lí nổi

lên thành một đặc điểm tiêu biểu về nội dung có sức ảnh hưởng đối với nền văn học nước

nhà thời bấy giờ. Nội dung đạo lí xuất hiện khi bối cảnh văn hoá, xã hội của nước ta biến

đổi. Quá trình đô thị hoá, tư sản hoá đã dần hình thành nên lối sống tư sản. Dù đã mang

đến những đổi thay tích cực nhưng lối sống này lại bộc lộ nhiều mặt trái đáng phê phán.

Văn hoá, xã hội bắt đầu biến thoái khi những giá trị văn hoá truyền thống dù đã tồn tại

hàng nghìn năm trước cuộc “mưa Âu gió Mỹ” lại có nguy cơ lung lay. Lần đầu tiên,

chúng ta cảm thấy mất niềm tin và khiếp sợ với chính mình, với cuộc sống và văn hoá xã

hội khi mà nhiều giá trị đạo đức truyền thống bị đảo lộn hoặc bị đo bằng thước đo phi đạo

đức. Trong bối cảnh đó, cảm hứng đạo lí – nguồn cảm hứng đã có cơ sở vững chắc từ văn

học trung đại vẫn tiếp tục dòng chảy của mình, phát huy mạnh mẽ trong việc vạch trần,

phê phán đạo đức, lối sống tư sản. Thật vậy, tiểu thuyết từ khi xuất hiện với nội dung đạo

lí đã tác động mạnh mẽ khi nó gắn với chức năng giáo dục, cảnh tỉnh của văn học nói

chung và tiểu thuyết nói riêng được hình thành chủ yếu từ bối cảnh văn hoá, xã hội. Nó là

tấm gương phản chiếu hiện thực đời sống trong cơn lốc Âu hoá đang biến chất một cách

ghê gớm, là nấc thang quan trọng đánh dấu sự đổi mới của nền văn học Việt Nam.

1.2. Vào buổi bình minh của văn xuôi quốc ngữ, các tác giả Nam bộ đã có công

6

đầu trong việc hiện đại hoá tiểu thuyết và tạo nên những bước đột phá mới khi thể loại

này còn khá mới mẻ, chưa hoà nhập vào sự vận động chung của nền văn học nước nhà.

Trong đó, có thể kể đến là Hồ Biểu Chánh_cây bút sáng giá nhất của Nam Bộ. Trên con

đường hiện đại hoá, ông đã có nhiều thử nghiệm khi mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam

một diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trên cái nền của truyền thống, kết hợp

thêm chất xúc tác của văn học phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã đạt được những thành

công đáng kể khi tập trung khai thác những vấn đề, quan niệm về cuộc sống và con người

thông qua lăng kính đạo đức. Nổi bật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là cảm hứng đạo lí

chi phối toàn bộ tác phẩm của ông từ nội dung, nghệ thuật đến những giá trị tinh thần mà

nhà văn muốn hướng đến độc giả. Và hơn hết, thông qua các tiểu thuyết của ông, độc giả

tìm thấy một nhà văn luôn tìm về và khát khao gìn giữ những giá trị truyền thống văn

hoá, đạo đức của dân tộc, luôn phát hiện ra những nét đẹp chân chất, mộc mạc của con

người Nam Bộ cũng như cái tình người, tình đời cao đẹp, chân thành luôn hiện hữu trong

tâm hồn họ. Khi nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, chúng ta không khỏi nể

phục bởi sức sáng tạo vô tận của ông. Hồ Biểu Chánh đã dành trọn trái tim và khối óc

cho văn chương, cho kho tiểu thuyết đồ sộ của mình – kho tiểu thuyết chất chứa tình

người Nam Bộ.

Tìm thấy cảm hứng sáng tác từ cuộc sống đầy biến động trong buổi giao thời, Hồ

Biểu Chánh tập trung miêu tả, khắc hoạ những đổi thay của xã hội trên con đường tư sản

hoá. Nhìn thấy những mặt trái mà cơn gió Âu hoá mang tới, ông đau xót nhận ra những

biến dạng đầy méo mó, lệch lạc trong tâm hồn, nhân cách và đạo đức của con người.

Trong khi các nhà văn khác tập trung đi vào vấn đề hiện thực hoá thì Hồ Biểu Chánh dù

vẫn phản ánh sự suy hoá trong đạo đức, nhân cách của con người để người đọc khi đau

xót khi rùng mình khiếp sợ nhưng điều mà nhà văn muốn hướng đến đó là những giá trị

tốt đẹp trong tâm hồn của con người. Có thể thấy trong các tiểu thuyết của ông, bên cạnh

những hiện thực đen tối, những hạng người bị cuộc sống tư sản tha hoá thì vẫn còn có

những con người của đạo đức, vẫn còn cái tình luôn hiện hữu trong cuộc sống.

1.3. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã thẩm định vị trí, công lao cũng như các

giá trị về tinh thần và văn hoá truyền thống mà các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh để lại

7

cho nền văn xuôi Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu phần lớn chỉ mới đánh

giá một cách khái quát chứ chưa đi sâu để làm rõ cảm hứng đạo lí thể hiện qua chữ tình

trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, chúng tôi

mạnh dạn chọn đề tài “Chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ba mươi năm đầu thế kỉ

XX” để hiểu rõ hơn về cuộc đời và con người của Hồ Biểu Chánh. Bên cạnh đó, đề tài

cũng làm rõ hơn những giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật biểu hiện của chữ tình trong

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ II.

Trong công trình nghiên cứu “Phê bình và cảo luận”, Thiếu Sơn là người đầu tiên

đã đánh giá cao những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong tiến trình văn học

Việt Nam hiện đại khi nhận xét rằng: “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đủ sức hấp dẫn để lôi

cuốn độc giả Việt Nam ham đọc truyện tàu trở về đọc truyện ta để nhớ tới thân phận con

người Việt Nam đương sống trong xã hội Việt Nam và đương là nạn nhân của chế độ,

một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến mà bọn người được ưu đãi là những ông quận,

những ông làng, những ông cử con quan và những ông nhà giàu địa chủ, đặc biệt là tác

giả lại về phe những người nghèo hèn, yếu thế, những tá điền và nông dân” [46, 40]

Trong quyển Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã giới thiệu sơ nét những đặc

điểm về nội dung và nghệ thuật qua một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như Cha con

nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình, Khóc thầm…Đồng thời Vũ Ngọc Phan còn đánh giá cao về

giá trị, những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình phát triển của nền

văn học nước nhà “Điều đáng quí là có lúc Hồ Biểu Chánh đã đề cao được tinh thần

phản kháng của người lao động (…) Hồ Biểu Chánh đã tập trung mũi dùi đả kích vào

bọn địa chủ, quan lại phong kiến” và “Dù sao, nếu đã đọc những tiểu thuyết của các nhà

văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận ra từ Hoàng Ngọc Phạc

và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới

ngày nay là lúc có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [43, 336]

Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã nghiên cứu khá

toàn diện về tiểu thuyết Việt Nam và ông đã ghi nhận một điều mà trước đó giới nghiên

cứu chưa lưu tâm chú ý về sự hình thành của tiểu thuyết miền Nam “Dù sao ta cũng phải

8

công nhận là ở một phương diện nào, thể tiểu thuyết đã đi bước trước ở miền Nam” [41,

377]. Song song đó, Phạm Thế Ngũ cũng dành sự quan tâm của mình vào việc phân tích

một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm 30 của thế kỉ XX để chỉ ra những nét

đặc trưng tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật cùng con người và vùng đất Nam Bộ. Ông

xem đây là một yếu tố quan trọng hình thành nên tư tưởng, chủ đề đạo lí trong các sáng

tác văn xuôi của Hồ Biểu Chánh. Công trình nghiên cứu của Phạm Thế Ngũ được nhìn

nhận là sâu sắc hơn hẳn các công trình nghiên cứu trước đó của Vũ Ngọc Phan, Thiếu

Sơn.

Trong Bản lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhìn nhận Hồ Biểu Chánh là

một nhà văn kì cựu nhất của làng văn Việt Nam và dành phần nhiều trang viết để làm nổi

bật những giá trị về nội dung và nghệ thuật qua việc phân tích một số tác phẩm tiêu biểu

của nhà văn Nam Bộ này. Thanh Lãng đã khẳng định vị thế và ý hướng văn chương của

một nhà tiểu thuyết Nam bộ luôn kiên định với con đường mà mình đã lựa chọn “Nhưng

Hồ Biểu Chánh không phải là con người của các trào lưu mà là của truyền thống. Mặc

cho thiên hạ khen chê, ông cứ thẳng băng đường của ông, ông tiến” [35, 74].

Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến công trình nghiên cứu Chân dung Hồ

Biểu Chánh của Nguyễn Khuê. Bằng việc tập hợp, thống kê đầy đủ các sáng tác của Hồ

Biểu Chánh, Nguyễn Khuê đã giúp người đọc hiểu được cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

của nhà văn Nam bộ này. Ngoài ra, Nguyễn Khuê còn chỉ ra ý hướng chủ yếu trong tiểu

thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí và nhìn nhận giá trị tiểu thuyết của Hồ Biểu

Chánh cũng như địa vị tác giả trong văn học sử “Cái tên HỒ BIỂU CHÁNH rất quen

thuộc đối với văn học. Quen thuộc vì ông là một tác giả lớn ở miền Nam đã có tác phẩm

hành thế từ đầu thế kỉ nay và vẫn tiếp tục sáng tác đều đặn đến những ngày cuối cùng

của đời ông” [30, 8].

Trong Bình minh của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quyết Thắng đã khái

quát sơ lược về cuộc đời của Hồ Biểu Chánh, thu thập, thống kê một số tiểu thuyết tiêu

biểu của ông. Đánh giá những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết

Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Quyết Thắng còn so sánh, trích dẫn thêm những nhận xét của

các nhà nghiên cứu phê bình văn học khác như Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan để mang đến

9

cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về những đóng góp của Hồ Biểu Chánh cho nền văn

học nước nhà “Phần đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào nền học thuật Việt Nam quả thật

vô cùng phong phú. Điều này không một nhà nghiên cứu nào có thể phủ nhận được. Phủ

nhận chỉ làm cho văn học thêm nghèo hơn trong một nền văn học còn thiếu vắng nhiều

khuôn mặt như Hồ Biểu Chánh” [33, 146].

Với công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phan Cự Đệ đã trình bày về những

khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930 và những mầm mống đầu tiên của một nền tiểu

thuyết mới. Ông đã dành nhiều trang nhận xét những mặt tích cực và chỉ ra một số hạn

chế của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phan Cự Đệ khẳng định tiểu thuyết của Hồ Biểu

Chánh đã ghi lại những nét khá điển hình của hiện thực Nam Bộ sau chiến tranh thế giới

lần thứ nhất và khuynh hướng đạo lý giúp cho Hồ Biểu Chánh giữ được nhiều truyền

thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt Nam cổ điển: giàu tính lý tưởng, giàu tinh thần dân chủ

chống phong kiến.

Tóm lại, khảo sát những tài liệu chúng tôi ghi nhận được, chữ tình trong tiểu

thuyết Hồ Biểu Chánh là một đề tài mới mẻ, chưa từng có công trình nào nghiên cứu một

cách đầy đủ, hệ thống trong mối quan hệ biện chứng với quan niệm sáng tác của tác giả

và các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.

Có thể thấy các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh -

đều nghiên cứu theo hướng đánh giá vị trí và sự đóng góp của ông trên văn đàn văn học

dân tộc. Hồ Biểu Chánh được xem là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

Ngoài ra, một số các công trình nghiên cứu khác tập trung vào việc phân -

tích nội dung tư tưởng, khuynh hướng đạo lí, phản ánh hiện thực và đặc trưng ngôn ngữ

trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh như khoá luận Đặc điểm khẩu ngữ Nam bộ trong

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Châu Minh Hiền, khoá luận Vị trí của tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900 – 1930) của Huỳnh Thị

Lành và công trinhg khảo cứu khảo cứu Hồ sơ về Lục châu học – Tìm hiểu con người ở

vùng đất mới của Nguyễn Văn Trung. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình

nghiên cứu nào thật sự quan tâm đầy đủ và đúng mức về việc khẳng định chữ tình trong

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, một đóng góp tích cực về ý thức sáng tạo trong việc định

10

hướng ngòi bút của mình để gìn giữ, ca ngợi những giá trị văn hoá truyền thống của dân

tộc. Bên cạnh đó còn là một kênh hiệu quả để hiểu thêm về hiện thực đời sống văn hoá xã

hội, tính cách con người của vùng đất mới trong các sáng tác của tác giả sau này.

Như vậy, đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu trên,

đi sâu vào tìm hiểu chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh qua một số tiểu thuyết trong

30 năm đầu thế kỉ XX.

III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Về khoa học cơ bản: Chúng tôi khảo sát, trích lọc và phân tích những yếu 1.

tố, cơ sở hình thành nên một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trong 30 năm đầu thế kỉ

XX trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật cụ thể: hiện thực đời sống qua

bức tranh thiên nhiên và xã hội Nam bộ, số phận con người, truyền thống đạo lí dân tộc,

ngôn ngữ sinh hoạt mang nét đặc trưng vùng miền.

Về thực tiễn: Chúng tôi nhận thấy một số đoạn trích từ tiểu thuyết của Hồ 2.

Biểu Chánh được lựa chọn giảng dạy trong chương trình phổ thông đề cao chữ tình của

con người Nam bộ qua tiểu thuyết Con nhà nghèo, Cha con nghĩa nặng. Thực hiện đề tài

này sẽ giúp chúng tôi có thêm kiến thức bao quát, kĩ lưỡng hơn về cuộc đời, quan niệm

sáng tác của tác giả với hiện thực cuộc sống và con người Nam bộ. Từ đó, giảng dạy tốt

hơn những tác phẩm của ông trong chương trình phổ thông các cấp. Đồng thời, nghiên

cứu đề tài này cũng giúp chúng tôi hiểu biết thêm về vùng đất và con người nơi đây, thêm

yêu và trân trọng những đạo lí truyền thống ngàn đời được gìn giữ của dân tộc.

IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu 1.

Tiểu thuyết của tác giả Hồ Biểu Chánh

Phạm vi nghiên cứu 2.

Chúng tôi chỉ tập trung trích lọc và phân tích chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh qua 17 sáng tác trong 30 năm đầu thế kỉ XX:

Ai làm được sáng tác năm 1912, nhuận sắc năm 1922 1.

Chúa tàu Kim Quy, 1922 2.

Cay đắng mùi đời, 1923 3.

11

Tỉnh mộng, 1923 4.

5. Một chữ tình, 1923

Nam cực tinh huy, 1924 6.

Nhơn tình ấm lạnh, 1925 7.

Tiền bạc, bạc tiền, 1925 8.

Thầy Thông ngôn, 1926 9.

10. Ngọn cỏ gió đùa, 1926

11. Chút phận linh đinh, 1928

12. Kẻ làm người chịu, 1928

13. Vì nghĩa vì tình, 1929

14. Cha con nghĩa nặng, 1929

15. Khóc thầm, 1929

16. Nặng gánh cang thường, 1930

17. Con nhà nghèo, 1930

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU V.

Để giải quyết những vấn đề trên, trong khoá luận chúng tôi sẽ sử dụng những

phương pháp sau đây:

Phương pháp nghiên cứu hệ thống (nghiên cứu văn học với tư cách là một a.

chỉnh thể như một cấu trúc phức hợp những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau và tác

động lẫn nhau) như hệ thống đề tài, chủ đề, hệ thống hình tượng nhân vật, tính cách nhân

vật, các yếu tố ngôn ngữ,…trong một hoặc một số tác phẩm.

Vận dụng phương pháp hệ thống chúng tôi trình bày, lí giải, khái quát, tổng hợp

những vấn đề liên quan đến đề tài được thấu đáo, trọn vẹn hơn.

Phương pháp phân tích đối chiếu: đây là phương pháp nhằm tìm hiểu, phát b.

hiện những đặc điểm của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó tìm ra sự đóng góp tích cực

của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình hình thành tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam

đầu thế kỉ XX và những tư tưởng, đạo lí truyền thống của dân tộc qua các thời kì lịch sử.

Phương pháp thống kê – so sánh: phương pháp này nhằm khảo sát những c.

yếu tố mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kế thừa tác phẩm tự sự truyền thống, những yếu tố

12

cách tân để đánh giá vị trí, vai trò của ông trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế

kỉ XX. Đó là mối quan hệ tiếp thu – chuyển biến – sáng tạo giữa thi pháp trung đại và thi

pháp hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

Có cái nhìn tổng quát về vị trí của Hồ Biểu Chánh trong sự phát triển của -

văn xuôi quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX

Chỉ ra được những tiếp biến văn học phương Tây trong tiểu thuyết Hồ Biểu -

Chánh

Góp phần khắc đậm những tính cách, đặc điểm của con người và vùng đất -

Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã được người đi trước đề cập

Sức hấp dẫn của Hồ Biểu Chánh đối với công chúng Nam bộ -

VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm ba chương:

Chương I: Những cơ sở của chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, gồm 3 nội

dung chính. Thứ nhất, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét

đặc trưng của văn hoá Nam bộ. Thứ hai, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm “đạo” trong văn.

Thứ ba, mảnh đất Nam bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

Chương 2: Chữ tình thể hiện qua phương diện nội dung trong tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh với 2 vấn đề lớn: tình cảm gia đình và tình người trong cuộc sống.

Chương 3: Chữ tình thể hiện qua phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ

Biểu Chánh, gồm 4 đặc điểm nổi bật: cốt truyện, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật xây dựng

13

nhân vật, ngôn ngữ.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc

trưng của văn hoá Nam bộ

1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người

Nhìn từ sự phát triển của văn học và văn hoá Nam Bộ đầu thế kỉ XX, Hồ Biểu

Chánh được xem là một nhân vật hết sức đặc biệt trong số các tác gia có đóng góp quan

trọng cho nền văn học dân tộc: nhà văn gắn bó với số phận và những thăng trầm của văn

học quốc ngữ miền Nam. Khi đã mang cả cuộc đời mình gắn bó với vùng đất này, Hồ

Biểu Chánh say mê sáng tác, khai thác, tìm tòi những giá trị văn hoá, tinh thần của vùng

đất Nam bộ trong lịch sử văn học dân tộc. Đọc tiểu thuyết của ông, người đọc đôi lúc

thấy nồng nhiệt, lúc thấy sục sôi bởi hiện thực cuộc sống mà ông phản ánh nhưng giá trị

đặc sắc và có ý nghĩa mà tiểu thuyết của ông mang đến chính là cái cốt lõi của truyền

thống dân tộc: quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người.

Trước hết, đó là sự kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận

vị. Với Hồ Biểu Chánh, ông quan niệm cái ta chung của một cộng đồng là sự tổng hoà

của nhiều cái tôi cá nhân mà những cá thể ấy phải có mối quan hệ mật thiết, có trách

nhiệm với cộng đồng, tập thể và có một bổn phận nhất định. Con người cá nhân trong

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chưa thể tồn tại một cách độc lập, không thể tách khỏi gia

đình, xã hội và càng không có tiếng nói cá nhân: “Ta là Một, là Riêng là Thứ

Nhất”(Xuân Diệu).

Kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận vị nhưng Hồ Biểu

Chánh lại có sự thay đổi khi đặt chức năng phận vị trong quan hệ với gia đình, xã hội mà

không phải là quan hệ với vua, với nước như các nhà Nho xưa. Con người trong tiểu

thuyết Hồ Biểu Chánh là con người đời tư, con người của nhịp sống đời thường. Họ sống

và ý thức cao độ về trách nhiệm, bổn phận của một thành viên trong gia đình, một cá

nhân trong cộng đồng. Không chỉ thuộc tầng lớp trí thức, con người chức năng phận vị

trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có cả hàng ngũ người lao động, đặc biệt là mô típ

14

các nhân vật độc thân. Thay đổi quan niệm về con người chức năng phận vị, Hồ Biểu

Chánh để cho các nhân vật độc thân của mình có những biểu hiện chán ghét hoặc cương

quyết từ chối chuyện lập gia thất, muốn thoát khỏi chức năng phận vị trong gia đình: làm

cha, làm mẹ, làm vợ, làm chồng,…nhưng lại tự gắn mình vào một bổn phận khác, bổn

phận với đời, với xã hội. Chẳng ai tìm được lí do vì sao họ lại lựa chọn con đường ấy

nhưng với họ làm tốt bổn phận của chính mình đã là một hạnh phúc to lớn, có ý nghĩa

hơn cả hạnh phúc cá nhân. Đó là những con người có ý thức rất cao về bổn phận, trách

nhiệm với gia đình, xã hội và có khi còn quên cả chính mình để làm tròn bổn phận với

người, với đời và phong hoá của xã hội. Con người chức năng phận vị trong tiểu thuyết

Hồ Biểu Chánh từ chối ràng buộc với những ham muốn tầm thường, từ chối cả việc thực

hiện trách nhiệm, bổn phận ở một giới hạn nhỏ hẹp. Họ mong muốn vươn tới những giá

trị to lớn, cao cả thông qua việc khẳng định ý thức bổn phận giữa xã hội rộng lớn. Qua

hàng loạt các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, có thể thấy, con người theo quan niệm của

Hồ Biểu Chánh ít nhiều mang nét tương đồng với quan niệm con người tự do trong văn

học thời Lý Trần nhưng tuyệt nhiên không thể thoát ra khỏi chức năng phận vị dù là trong

hoàn cảnh nào và tuyệt đối phải sống đúng với chức năng phận vị của mình. Xuyên suốt

các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã chỉ ra một thực tế: những ai không làm tốt

hoặc cố thoát ra khỏi chức năng phận vị của mình đều sẽ gặp một kết cục thảm hại.

Không như các nhà văn khác hướng ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực để lên

án hay tố cáo xã hội, Hồ Biểu Chánh lấy việc phản ánh hiện thực như là một công cụ, bàn

đạp để nhà văn bóc trần những mặt trái trong đạo đức của con người được nảy sinh từ

hiện thực xấu xa, tàn bạo đó. Hiện lên trong các sáng tác ấy là một Hồ Biểu Chánh đang

xót xa, đau đớn trước sự băng hoại, méo mó trong nhân cách, đạo đức của con người.

Thật vậy, dù là một nhà văn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học phương Tây nhưng

Hồ Biểu Chánh luôn tìm về với những phong hoá, những giá trị tinh thần, truyền thống

của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà trong mỗi tác phẩm của ông ta đều

thấy được sự trân trọng, đề cao của nhà văn với những giá trị đạo đức. Với Hồ Biểu

Chánh, sống theo đạo đức là bổn phận và chức năng của con người. Đạo đức ấy không

chỉ phục vụ riêng cho mỗi con người mà còn cho phong hoá của xã hội. Không cần phải

15

mang những lý tưởng hay phẩm chất cao đẹp, con người theo quan niệm cuả Hồ Biểu

Chánh là con người đạo đức, sống theo đạo đức và sống vì đạo đức. Với ông, đạo đức là

thước đo nhân cách, phẩm giá của con người. Chỉ khi con người có thể dẹp bỏ tất cả

những ham muốn và quyền lợi cá nhân để thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức thì con

người ấy chính là con người lí tưởng.

Quan niệm con người lí tưởng là con người làm tốt chức năng phận vị, sống theo

những chuẩn mực đạo đức nhưng với Hồ Biểu Chánh con người lí tưởng còn phải mang

vẻ đẹp tâm hồn. Đây là nguyên tắc tư duy kiểu nhà Nho khi thể hiện con người được Hồ

Biểu Chánh vận dụng cho các nhân vật của mình. Là một nhà văn luôn đi tìm những giá

trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm

đến việc tạo nên các giá trị tinh thần cho nhân vật trong tác phẩm của mình, nhất là các

nhân vật chính diện, tiêu biểu cho loại người có đạo đức. Nhân vật mang vẻ đẹp của đạo

đức trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là những con người có vẻ đẹp ngoại hình vừa

thanh khiết, tinh anh lại vừa gần gũi, giản dị. Nhưng nét đặc biệt để phân biệt Hồ Biểu

Chánh với các nhà Nho khác là khi miêu tả nhân vật của mình ông không sử dụng yếu tố

thiên nhiên để tô vẽ bức chân dung nhân vật chính diện. Hồ Biểu Chánh đã đưa các yếu

tố cụ thể và chân thật của đời thường, những cái vốn có của con người để khắc hoạ hình

dáng bên ngoài của nhân vật. Thế nên, những tình, những cảnh, những con người cùng

bao nhiêu sự việc trong tiểu thuyết của ông thật gần gũi, quen thuộc với quần chúng. Tất

cả hiện lên như một bức tranh sinh hoạt hiện thực sống động mà người đọc có thể mắt

thấy tai nghe, có khi chính là bản thân của họ hoặc đã từng đóng một vai tham dự.

Cả cuộc đời sống hết mình cho nghiệp văn và tấm lòng chỉ hướng về mảnh đất

Nam bộ thương yêu, Hồ Biểu Chánh đã gửi vào những nhân vật của mình hơi thở của

cuộc sống giản dị, của những khát khao hạnh phúc đời thường hoặc những ham muốn

lầm lạc. Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ý thức được nỗi đau, hạnh phúc. Thế

nhưng Hồ Biểu Chánh lại rất có ý thức về tính độc lập tự do của đạo đức. Xây dựng các

hình tượng nhân vật biểu trưng cho cuộc sống đời thường đa dạng, phức tạp như thế

nhưng ông cho rằng dù người ta có theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ thì vẫn cần phải

giữ cho được đạo đức truyền thống, tức đạo lí làm người của dân tộc. Do đó những ai dù

16

mang khát vọng cá nhân mạnh mẽ đến dường nào đều sẽ bị đạo đức, luân lí kéo trở lại

với chức năng phận vị. Dù muốn hay không con người cũng cần phải sống có trách

nhiệm, làm tròn bổn phận và tự ý thức về vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ

gia đình, xã hội. Con người đạo đức, luân lí theo quan niệm của Hồ Biểu Chánh đôi lúc

phải chấp nhận hi sinh tất cả những gì của cá nhân, chấp nhận đau khổ riêng mình mà

chăm lo, vun đắp hạnh phúc cho gia đình, cho những mối quan hệ cộng đồng thân thiết

dù có phải nhận lấy sự thiệt thòi hay nỗi sầu não cả một đời.

Kế thừa, tiếp thu truyền thống văn hoá về con người đạo lí của văn học trung đại,

văn chương Việt Nam thực sự đã có những bước chuyển biến mới đầy hứa hẹn. Trong

lớp các nhà văn mới đang trên đường tìm kiếm một mô hình cho tiểu thuyết Việt Nam

hiện đại, Hồ Biểu Chánh có thể nói là người đã mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam khi

sớm gặt hái được nhiều thành công. Sớm mang một tình yêu chân thành, nồng thắm với

vùng đất, con người Nam bộ, Hồ Biểu Chánh đã lựa chọn thể loại truyện thơ để mang

đến hơi thở sức sống mới cho tiểu thuyết hiện thực của mình. Và hơn hết có thể thấy

chính những truyền thống đạo lí, tinh thần nghĩa hiệp của văn chương miền Nam được

hun đúc nên từ tinh thần đạo nghĩa phương Đông và nó đã trở thành tiền đề cho quan

niệm đạo đức của Hồ Biểu Chánh về cuộc sống, con người. Niềm tin và mong ước về

một xã hội có luân lí, đạo đức tốt đẹp được Hồ Biểu Chánh thể hiện đậm nét trong các tác

phẩm của mình với những người thanh niên trọng lễ nghĩa và trung trực, những con

người từ tâm giàu lòng thương người, những người phụ nữ trọng đạo nghĩa và sự trung

trinh, thuỷ chung, son sắt. Một phiên bản của những Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Kiều

Nguyệt Nga trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu. Vì tin vào sức mạnh trường tồn

của truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, Hồ Biểu Chánh tin vào sự hiền lương trong

tâm tính của con người. Với cái nhìn chủ đích luân lí, ông tin vào chân lí “ác giả ác báo”,

thiện bao giờ cũng thắng ác, người tốt, ngay thẳng dù bị vùi dập, phải trải qua bao nhiêu

gian truân khổ ải cũng sẽ có ngày được đáp đền xứng đáng, người bị hàm oan được thoát

tội còn kẻ gian ác phải bị trừng trị, sống nhục chết thảm không chốn dung thân. Đó là nét

đặc biệt tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.

Trong thời kì hiện đại hóa văn học, đổi mới bao giờ cũng khởi phát từ cái nền của

17

truyền thống. Từ những phân tích trên có thể thấy quan niệm về con người của Hồ Biểu

Chánh luôn có sự đan cài, kết nối giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, giữa cái nhìn cuộc

sống và con người theo quan niệm chức năng phận vị và cái nhìn mới mẻ, phóng khoáng

để làm nên giá trị phù hợp với thời đại. Dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền Hán học

và Tây học nhưng quan niệm của Hồ Biểu Chánh vẫn thể hiện những biến đổi nghệ thuật

về cuộc sống và con người trong giai đoạn văn học giao thời. Và khi có được cái nhìn

mới mẻ, Hồ Biểu Chánh lại là người tỏ ra rất tình nghĩa với truyền thống. Với ông nếu

con người biết sống theo bản ngã trong chừng mực nhất định và không quên chức năng

phận vị thì đó là con người lý tưởng nhất. Hạnh phúc sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và

cái tôi. Chính quan niệm trên đã tạo cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng và

có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đây cũng là nét đặc trưng dễ nhận ra trong văn

học đầu thế kỉ XX.

1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí_giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh

Trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là cây bút tiên phong sáng giá

nhất của giai đoạn 1913 – 1932 bởi lẽ ông đã đạt được nhiều tiến bộ về kĩ thuật dựng

truyện, nội dung cũng như văn từ và sáng tác nhiều hơn hết so với các nhà văn cùng thời.

Tuy nhiên, người đời sau nhớ về Hồ Biểu Chánh không chỉ ở vị trí là người mở đường

cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại mà ông còn là một nhà văn có khuynh hướng bảo thủ,

nhà văn kiên trì dành cả cuộc đời của mình để tìm kiếm những giá trị đạo đức, luân lí

trong nét đẹp cổ xưa của truyền thống văn hoá dân tộc. Đó là sứ mạng văn chương cao cả

được Hồ Biểu Chánh suốt đời tôn sùng, đề cao và trân trọng. Người đời có thể tha hồ chỉ

trích lập trường chính trị của ông quan Hồ Văn Trung nhưng không ai có thể phủ nhận

được địa vị của nhà văn Hồ Biểu Chánh trong lòng người đọc cũng như trong lịch sử văn

học Việt Nam thời cận hiện đại và cả mãi về sau: Hồ Biểu Chánh – cây cầu nối liền

những giá trị cổ truyền với con người hiện đại.

Như vậy, đạo lí trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã khẳng định vị trí của ông

trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua các tác phẩm của mình, dù trong Đời của tôi

về văn nghệ ông đã từng thú nhận ngay từ lúc mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố tâm

18

viết loại tả chân về phong tục nhưng nếu xếp Hồ Biểu Chánh vào nhà văn có ý hướng

phong tục thì đó là một sự nhầm lẫn đáng tiếc. Khi phân tích, nghiên cứu ý hướng chủ

đích trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ta cần phải cân nhắc, đánh giá xem khi ghi

nhận các phong tục và mô tả hình ảnh xã hội đương thời thì Hồ Biểu Chánh đã có thái độ

như thế nào. Và trong quyển “Chân dung Hồ Biểu Chánh”, Nguyễn Khuê viết: “Có thể

nói, tính chất luân lí bao trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục

cũng chỉ nhằm đạt chủ đích luân lí. Thế nên, nếu cần phải xác định một ý hướng làm nền

tảng cho sự sáng tác của Hồ Biểu Chánh thì đó chính là ý hướng luân lí và ông là một

nhà đạo lí” [28, 260]. Nghĩa là thông qua việc ghi nhận và mô tả hình ảnh xã hội đương

thời, Hồ Biểu Chánh phơi bày thực trạng gia đình và xã hội. Phơi bày nhưng không đả

phá những cái cũ và hô hào cho những cái mới. Trong thời đại nền văn minh phương Tây

phát triển ồ ạt và có những ảnh hưởng nhất định đến nền văn hoá nước ta, Hồ Biểu Chánh

chủ trương cái cũ và cái mới đều có những hay dở riêng và việc của mỗi con người chúng

ta là phải tỉnh táo lựa chọn và hành xử một cách đúng đắn nhất, phù hợp với đạo đức,

luân lí tốt đẹp của dân tộc. Miêu tả phong tục, tập quán nhưng chủ đích lại muốn hướng

con người vào một lối sống lành mạnh, tốt đẹp, ngay thẳng. Hồ Biểu Chánh chủ trương

nền văn hoá truyền thống của dân tộc chỉ có thể bền vững khi con người muốn duy trì và

bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền. Đó chính là một vẻ đẹp bất biến trong nhân cách,

tâm hồn của Hồ Biểu Chánh thông qua các tác phẩm của ông.

Điều thứ hai cần phải cân nhắc và xem xét đó là dù các tiểu thuyết của ông chủ

yếu mô tả phong tục nhưng thường nặng tính chất luân lí. Biểu hiện rõ rệt của ý hướng

luân lí trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh thể hiện qua cốt truyện và cách trình bày

nhân vật. Dù trong phạm vi gia đình hay xã hội, dù là vấn đề hôn nhân hay mê tín dị

đoan,…đều có thể thấy khi xây dựng cốt truyện, công thức phổ biến là những nhân vật –

nạn nhân của số phận bị xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, những con người bé nhỏ bị

thực tại và cả chính những ham muốn, lầm lạc của mình xô đẩy và dẫn đến kết cục bi

thảm. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một thế giới đa dạng và phong phú về các nhân

vật và đặc biệt hơn khi họ lại là những nhân vật điển hình cho cuộc sống của hiện thực.

Mỗi nhân vật của ông có một hoàn cảnh, số phận riêng nhưng họ gặp nhau ở một điểm

19

chung: đều bị cái nghèo đói làm cho khổ sở, chật vật. Có người bị vùi dập và biến chất

nhưng cũng có những nhân vật vượt qua được nghịch cảnh ấy mà giữ được những khí

tiết, phẩm chất cao đẹp. Nhưng ý hướng luân lí không chỉ dừng lại ở đó. Nó bộc lộ qua

những kết cục có hậu theo sự tin tưởng của nhiều người rằng “ở hiền gặp lành” hay

“thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Để rồi hoá giải tất cả, cái bất biến trường tồn đến

cuối cùng chính là lòng thương người, lòng trung trinh, sự hiếu hạnh, cải tà quy chánh, tu

thân lập chí và những lời giảng giải luân lí của chính tác giả. Có thể thấy các tác phẩm

của Hồ Biểu Chánh vừa là sự tố cáo hiện thực xã hội lại vừa là giấc mơ, đạo lí sống được

chính tác giả đề cao và trân trọng. Đồng thời, đó còn là một thứ cảm quan đặc trưng của

những cư dân trên một miền đất mới mà những đạo đức, luân lí tốt đẹp ấy như một điểm

tựa vững chắc của niềm tin giúp họ bảo tồn những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc

khi phải thường trực đối diện với một thực tại không nhiều hứa hẹn.

Tiếu thuyết là tác phẩm văn chương cũng là một công trình nghệ thuật và thông

qua đó ít nhiều người đọc bị ảnh hưởng tốt hoặc xấu. Một lần nữa có thể khẳng định ý

hướng chủ yếu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí, ý hướng phong

tục chỉ là thứ yếu. Thông qua các tiểu thuyết luân lí của mình Hồ Biểu Chánh

muốn tuyên truyền và bồi đắp thế đạo nhân tâm khi mạnh dạn lên án những tác nhân,

những mầm mống gieo rắc tai hoạ, gây bao cảnh lầm than và cảm thông chia sẻ nỗi đau

của những số phận, những con người trong xã hội.

1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn

Có nhiều người hay nói đến việc đi tìm cảm hứng sáng tác. Dù là trong lao động

nghệ thuật nói chung hay sáng tác văn chương nói riêng, dù là nhà văn hay nhà thơ đều

cần phải có cảm hứng. Nhà thơ Nguyễn Khuyến thì nói: “Nhân hứng cũng vừa toan cất

bút…” hay như Tố Hữu cũng viết: “Tưởng đâu quên mất thơ rồi/ Tạm ngừng công việc

lại ngồi với thơ…” Cảm hứng sáng tác tạo nên tác phẩm. Cảm hứng theo Bêlinxki là

“trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc

sống mà họ miêu tả”, cảm hứng là “sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một

tư tưởng nào đó” và “cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở

thành lòng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng

20

nhiệt” [24, 208 – 209]. Còn trong quyển Lý luận văn học thì cho rằng: “cảm hứng là một

trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí

tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hoà, kết tinh sẽ cháy bùng trong tư duy

nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như

trực giác, bản năng”[39, 315]. Có rất nhiều cách định nghĩa thế nào là cảm hứng nhưng

chắc chắn nó không tự có mà cũng không thể đi tìm bởi lẽ cảm hứng là một cái gì đó rất

vô hình, không thể định dạng cũng không thể định vị. Cái nền, cái gốc để nảy sinh cảm

hứng sáng tác chính là từ cuộc sống giàu có và phong phú của người nghệ sĩ. Cảm hứng

sáng tác đến thưa thớt hay dồn dập không quan trọng. Cách tốt nhất để nảy sinh cảm

hứng sáng tác là chăm bón tốt cho tâm hồn bằng cách sống tích cực, sống hết mình, gắn

bó với cuộc đời, con người. Không có cảm hứng thì không thể có sáng tác văn chương

đích thực. Rất nhiều đỉnh cao của văn chương nhân loại cả đời chỉ sáng tác một tác phẩm

duy nhất.

Hồ Biểu Chánh là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại không chỉ

để lại cho văn chương nhân loại một sáng tác mà là cả một kho tiểu thuyết đồ sộ khi cả

cuộc đời chỉ dành để sống và gắn bó với con người, vùng đất Nam bộ, cả cuộc đời viết

văn chỉ để đi tìm cảm hứng sáng tác trong những giá trị văn hoá truyền thống đạo đức của

dân tộc và gìn giữ chúng một cách cẩn thận, trân trọng. Đọc tiểu thuyết của ông ta thấy

rằng cảm hứng chủ đạo là biểu dương, khẳng định đạo lý bình dân truyền thống. Không

chỉ bộc lộ qua những sáng tác mà cảm hứng ấy còn thể hiện sâu sắc trong ý thức nghệ

thuật của Hồ Biểu Chánh. Dễ dàng nhận thấy qua các sáng tác của mình, Hồ Biểu Chánh

gần như đã dành trọn đời văn, dành trọn tâm huyết để thực hiện tuyên ngôn nghệ thuật

ấy. Qua kho tiểu thuyết khá lớn, Hồ Biểu Chánh đã chứng tỏ được điều ấy khi ngòi bút

của ông chỉ tỏ ra sở trường khi viết về phong tục, luân lí và “tính chất luân lí bao trùm

mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt chủ định luân

lí” [30, 260].

Trước sự du nhập ồ ạt của văn hoá phương Tây, xã hội Việt Nam nói chung và

vùng đất Nam bộ nói riêng chịu sự cai trị trực tiếp của thực dân Pháp đã có những chuyển

biến mạnh mẽ, diễn ra liên tục, lan toả sâu rộng đến các giềng mối xã hội Việt Nam từ

21

thành thị đến nông thôn và ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học nước nhà. Nhưng cũng từ

những năm đầu của thế kỉ XX, trải qua hơn một nửa thế kỉ cho đến nay, trong khi nhiều

tác phẩm của một số không ít các nhà văn nổi tiếng cùng thời với ông gần như đã bị đẩy

lùi vào quá khứ thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn còn được ưa chuộng, trở thành

món ăn tinh thần quen thuộc của đa số quần chúng trên vùng đất phương Nam tổ quốc.

Vậy điều gì đã làm nên một Hồ Biểu Chánh mang tầm ảnh hưởng sâu sắc đến thế trong

lòng đông đảo bạn đọc yêu văn chương?

Phần lớn các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn ở Nam bộ thời kì này thường

hay đề cập đến vấn đề luân thường đạo lí tạo nên nét đặc trưng của tiểu thuyết miền Nam.

Họ thường hay bàn đến “nhân tình thế thái”, “đạo lí làm người”, thái độ và cách cư xử

trong đời sống hằng ngày để hướng đến vấn đề đó là bảo tồn những giá trị tinh thần trong

truyền thống đạo lí của dân tộc. Cảm hứng chủ đạo của họ là cảm hứng “vì nghĩa”, “xả

thân thủ nghĩa” đã chi phối từ cách xây dựng nội dung cốt truyện , bố cục đến tính cách,

ngôn ngữ của nhân vật tạo nên tính chất đặc thù của tiểu thuyết miền Nam. Lớn lên giữa

lúc xã hội Việt Nam trở mình sực tỉnh giấc ngủ ngót mười chín thế kỉ trong nền văn hoá

cổ truyền chịu ảnh hưởng Trung Hoa một cách sâu đậm để tiếp thu nền văn hoá phương

Tây do người Pháp đem lại, Hồ Biểu Chánh vừa hấp thụ tân học vừa am tường cổ học.

Và phần đông những người trí thức thuộc thế hệ này cũng thế, họ chủ trương dung hoà

Đông – Tây, cũ – mới với ước muốn xây dựng nền quốc học bằng cách một mặt bảo tồn

những đặc sắc của văn hoá phương Đông, mặt khác tiếp thu có chọn lọc những cái hay

của văn hoá phương Tây. Hoà trong mạch chảy đó nhưng Hồ Biểu Chánh lại là một

người bảo thủ sáng suốt nên tuy xuất thân từ Tây học ông vẫn đề cao những tư tưởng

truyền thống của dân tộc vốn thấm nhuần Nho, Phật, Lão giáo. Tư tưởng chính trong con

người của Hồ Biểu Chánh chi phối nội dung tác phẩm của ông là tư tưởng “văn dĩ tải

đạo”, viết văn là để truyền tải giáo huấn đạo đức ở đời. Trong “Đời của tôi về văn nghệ”

ông đã thú nhận rằng: “Viết tiểu thuyết để cảm hoá đặng lần lần dắt quần chúng trở về

đường chánh đại quang minh” [30, 259]. Đạo lí làm người đặt căn bản trên sự nhân ái

hiếu nghĩa, trong sạch thẳng ngay luôn được Hồ Biểu Chánh đề cao khi đưa vào tiểu

22

thuyết của mình thông qua thuyết nhân quả. Điều đó được thể hiện rất rõ khi ông viết

trong Tâm hồn tôi: “Tôi chắc con cháu của tôi ngày sau chúng nó sẽ tìm hiểu coi tôi là

người nuôi tâm chí thế nào.

Nếu chúng nó đọc đủ mấy chục bộ tiểu thuyết của tôi, tự nhiên chúng nó sẽ nhận

thấy bình sanh tôi là thẳng ngay, ghét gian trá, thương yêu nghèo khổ, khinh rẻ giàu

sang. Nhưng chúng chưa biết được ý của tôi với quốc gia và đối với chưởng tộc.

Vậy hôm nay tôi lục những thi văn của tôi có ảnh hưởng với quê hương và xã hội

mà góp thành tập này để con cháu tôi ngày sau được biết rõ tâm hồn của tôi với thời

cuộc…” [30, 100]

Bằng cả cuộc đời sáng tác mà tiêu biểu qua 64 tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã

chứng minh được những lời ông nói. Hơn thế nữa, tiểu thuyết với ông không chỉ là tác

phẩm văn chương, là công trình nghệ thuật mà bên cạnh đó nó còn có thể ảnh hưởng tốt

hoặc xấu đến người đọc. Nghĩa là tiểu thuyết còn phải là tác phẩm mang khuynh hướng

đạo lí trong văn chương. Thế nên các nhân vật mà ông yêu quý, trân trọng luôn sống và

hành động theo một mục đích cao đẹp duy nhất là “thành nhân với thủ nghĩa”. Trong bức

thư gởi cho Ban Trị sự Khổng tử Tế tự hội tỉnh Gò Công để xin từ chức hội trưởng, ông

viết: “…Sản xuất cả mấy chục pho tiểu thuyết, viết kịch bản, làm phú thi, hay lập báo chí,

luôn luôn tôi vẫn đuổi theo cái mục đích duy nhất là: “Thành nhân với Thủ nghĩa”. Tôi

cặm cụi cứ đi tới, đi với một tâm hồn chơn thành, một đức tin mạnh mẽ” [30, 265].

“Thành nhân với Thủ nghĩa” đã trở thành một tư tưởng, một mục đích sống cao đẹp được

Hồ Biểu Chánh đề cao và trân trọng. Đó cũng là truyền thống văn học Nam Bộ đã được

Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rất thành công trong các sáng tác của mình. Nhìn lại chặng

đường sáng tác của hai nhà văn Nam Bộ có thể thấy rằng cả Nguyễn Đình Chiểu và Hồ

Biểu Chánh gặp nhau ở một điểm tương đồng trong tư tưởng sáng tác: đạo đức đã thành

đạo lí, hạt giống nhân nghĩa Khổng Mạnh đã mất đi màu sắc thánh hiền, trở thành cách

sống, cách cư xử ở đời, thành đạo lí nhân dân, đạo đức bình dân.

Càng đề cao đạo lí, càng muốn gìn giữ những giá trị tốt đẹp trong truyền thống

văn hoá của dân tộc, Hồ Biểu Chánh càng đau xót trước những đổi thay của xã hội, của

nhân cách con người. Chứng kiến sự tấn công mạnh mẽ của nền văn hoá phương Tây

23

cũng như sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc, ông lo sợ xã hội băng hoại, văn hoá dân

tộc bị thui chột dù trước đây ông cho rằng luân lí bao giờ cũng là luân lí, con người dù

tiến bộ văn minh đến đâu, dù có bị ảnh hưởng ít nhiều phong tục Âu Tây cũng không thể

đánh mất hoặc đạp đổ các luân lí mà ông cha để lại. Mất đi cái gốc, cái rễ của đạo đức

luân lí thì sợi dây vô hình liên hệ giữa con người với nhau cũng không còn tồn tại. Sống

và viết, Hồ Biểu Chánh luôn mang cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn duy trì nhân tâm

thế đạo chứ không phải cái băn khoăn của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm và đổi mới

cách viết. Ông thao thức và trăn trở trước sự đổi thay chóng vánh của thời cuộc và nhận

thức của con người nhưng ông luôn tin rằng những giá trị bắt nguồn từ đạo lí dân tộc,

mang tính chất nhân dân và có cơ sở từ ngàn đời sẽ luôn bất biến. Các tác phẩm của ông

như là một thứ thuốc đề kháng, một phép vệ sinh tinh thần cho con người Việt Nam trước

bầu không khí ô nhiễm của văn minh vật chất từ văn hoá phương Tây “Phải viết đặng ghi

cái hay cái dở của nhơn tình thế thái về khoảng đời truỵ lạc mà để lại cho em cháu đời

sau được biết chỗ thấp, chỗ cao. Phải viết đặng giải nỗi u sầu của mình và luôn dịp đặng

chỉ đường vạch nẻo cho con cháu trong nhà ngó thấy…” [30, 259 – 260].

Trong văn học Nam bộ, khuynh hướng đạo lí đã được thể hiện từ thời Nguyễn

Đình Chiểu cho đến các nhà văn lớp sau như Phú Đức, Hồ Biểu Chánh. Với Hồ Biểu

Chánh – nhà văn dành cả một đời đi tìm “đạo” trong văn đã giúp cho nền tiểu thuyết Việt

Nam giữ được những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Điều đó đã giúp Hồ Biểu

Chánh cùng các tác phẩm của mình sống mãi trong lòng người đọc và người ta biết đến

ông không chỉ là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết mà còn là người nối liền những giá

trị cổ truyền với con người hiện đại “…hồi làm quan thì ta chăm nom giúp đỡ người

nghèo nên ta được tiếng thương dân, mà viết tiểu thuyết ta cũng cố giữ vẹn đạo hiếu

nghĩa và luôn luôn binh vực hạng bình dân nghèo hèn, nên ta được thiện cảm của quần

chúng” [30, 260].

1.3 Mảnh đất Nam Bộ_nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh

1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ

“Nam bộ” là một cách gọi nghe thật thân thương và quen thuộc. Hình ảnh thiên

24

nhiên Nam bộ với sông nước, miệt vườn qua những trang văn của Hồ Biểu Chánh lại

càng thân thương và tha thiết, chân thành hơn. Không gian trong tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh trải rộng khắp Lục tỉnh Nam Kì từ các tỉnh miền Đông sang các tỉnh miền Tây ra

tận các đảo ngoài khơi như Kim Quy, Phú Quốc. Thiên nhiên Nam Bộ trong các tác

phẩm của Hồ Biểu Chánh gần gũi, thơ mộng với quang cảnh miền Nam từ thành thị đến

nông thôn, từ những giồng trảng ở các tỉnh miền Đông đến những kênh rạch ở các tỉnh

miền Tây. Đó là Xóm Tre được lấy làm bối cảnh cho tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, là

Đập Ông Canh ở làng Vĩnh Thạnh phía bắc, Ụ Giữa ở làng Vĩnh Trị phía Nam, là sông

Bao Ngược, chợ Mỹ Lợi, lộ Cây Dương,…Miêu tả thiên nhiên Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh

đã mở rộng tất cả các giác quan của mình để quan sát, cảm nhận và từ đó đưa người đọc

quay về vùng nông thôn sông nước, ngắm nhìn đồng ruộng, con cò,…nơi thôn dã bình dị.

Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người đọc như có một chuyến du ngoạn đầy hứng thú

khi được về với miệt vườn sông nước thân thương, thấm đẫm dư vị ngọt ngào của bao

điệu hò, câu hát mộc mạc, chân tình.

Do cả cuộc đời gắn bó với vùng đất Nam bộ thế nên tình yêu với mảnh đất này

cũng lớn dần theo năm tháng và càng mãnh liệt, nồng nàn hơn trong các tác phẩm của Hồ

Biểu Chánh. Qua 64 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên

không chỉ có đường nét, hình ảnh, màu sắc mà còn có cái hữu tình riêng. Chính mảnh đất

này là nơi vun đắp tình cảm trong tâm hồn của nhà văn. Bởi yêu quý, trân trọng mảnh đất

Nam bộ này nên Hồ Biểu Chánh đã đau xót khi cuộc sống, con người Nam bộ nói riêng

và xã hội Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị ô nhiễm bởi những đổi thay của làn

sóng Âu hoá mang đến. Liệu Nam bộ có còn là thỏi nam châm thu hút những bước chân

không mỏi tìm về khung cảnh trời nước mênh mang, chất hào sảng phóng khoáng của

người đồng bằng Nam bộ? Liệu có ai còn nhớ đến Nam bộ với những vùng miệt vườn trù

phú đong đầy trái thơm, quả ngọt? Và khi những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình

tưởng chừng bất biến ấy không còn tồn tại, hiện hữu nữa thì tình đời, tình người, những

giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc có còn vững bền, bảo tồn được nữa hay không?

Thật vậy, đó là những trăn trở của một con người hoài cổ, mong muốn và khát khao được

gìn giữ những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Một lần nữa có thể khẳng định rằng

25

những trang viết về thiên nhiên là những trang đẹp nhất của Hồ Biểu Chánh. Qua đó, nhà

văn đã làm nổi bật những nét quen thuộc nhất, đặc trưng nhất của thiên nhiên vùng sông

nước Nam Bộ.

1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều bạn đọc lại rất thích đọc tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh. Không những độc giả cùng thời với ông mà những độc giả thời sau này vẫn thích.

Sở dĩ có sự thành công như thế là do giọng điệu tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hoàn toàn

thích hợp với tâm hồn người dân miền Nam. Đọc tiểu thuyết của ông, người ta thấy cả

con người và xã hội miền Nam vào các thập niên 1920 – 1940.

Như đã nói, trong Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh đã cho biết ngay từ lúc

mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố viết loại tả chân về phong tục. Thế nên khi khắc

hoạ nên bức chân dung đời sống văn hoá của con người Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt

quan tâm đến những phong tục dần đổi mới ở miền Nam trong gia đình cũng như ngoài

xã hội, từ thành thị đến nông thôn. Ông chú trọng đến các vấn đề nhức nhối của xã hội đi

ngược lại với những chuẩn mực truyền thống của dân tộc để từ đó khuyên răn, dạy bảo

con người phải biết trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hoá đó: vấn đề tiền dâm hậu

thú, môn đăng hộ đối, tục “nôm”, đa thê, sinh con trai nối dõi, tranh giành gia tài,…Ông

phơi bày những hiện trạng xã hội cốt để duy trì và bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền.

Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh cũng không quên đề cập đến tư tưởng tam giáo : Nho, Phật,

Lão giáo trong đời sống văn hoá của con người nơi đây. Với ông, dù là đạo nào thì ông

luôn đề cao lối sống biết tôn trọng, gìn giữ những giá trị đạo đức của con người như:

trung nghĩa, hiếu thuận, tiết hạnh, trọng nghĩa khinh tài,… Con người có thể theo chủ

nghĩa này hay chủ nghĩa nọ nhưng vẫn cần phải giữ cho được đạo đức truyền thống, tức

đạo lí làm người của dân tộc. Đó là cơ sở, tiền đề để làm nổi bật luận đề đạo đức về con

người xã hội mà Hồ Biểu Chánh muốn hướng đến người đọc.

Thật vậy, qua các tác phẩm của mình, đời sống văn hoá Nam Bộ hiện lên sống

động, chân thực, ngòi bút của Hồ Biểu Chánh hướng vào việc khai thác từng ngóc ngách

sâu kín nhất trong suy nghĩ, hành động, nhận thức của con người nơi đây để từ đó ông

cho thấy những sự đổi thay trong lối sống của họ nhưng quan trọng nhất vẫn là việc gìn

26

giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của một dân tộc.

1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ

Phản ánh hiện thực vốn là yếu tố mang tính đặc trưng của văn xuôi tự sự. Thông

qua việc phản ánh hiện thực ấy, nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một ý nghĩa, một

thông điệp sâu sắc. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng là một sự phản ánh hiện thực,

đó là hiện thực của đời sống con người Nam bộ. Cuộc sống sinh hoạt của con người Nam

bộ được hiện lên trên nền của bức tranh thiên nhiên Nam bộ. Quan sát, miêu tả và phản

ánh, Hồ Biểu Chánh đã dụng công, tinh tế khi phác hoạ một cách chi tiết, cụ thể, sinh

động sự nghèo nàn của con người nơi đây sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới và trồng

lúa nước. Cuộc sống nơi đây hiện ra cảnh sống lam lũ, cực nhọc của người dân nghèo và

nổi bật là cuộc sống của tầng lớp thống trị, những kẻ tham lam, độc ác luôn tìm mọi cách

để ức hiếp, bóc lột dân nghèo.

Bên cạnh việc phản ánh những nét đẹp trong phong tục tập quán của vùng đất

Nam bộ, Hồ Biểu Chánh còn rất tinh tế khi bắt đầu có những chuyển biến đáng kể trong

việc quan sát những mối quan hệ của con người vùng đất này. Theo đó, ông thấy rằng,

bên cạnh những gia đình vẫn giữ được những truyền thống đẹp đẽ thì vẫn còn một số mặt

tiêu cực đang tồn tại và làm mất đi giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đi

sâu khai thác triệt để những vấn đề đó, Hồ Biểu Chánh nêu lên những luân lí, quan niệm

đạo đức, hướng người đọc đến những chuẩn mực đạo lí cao đẹp ngàn đời của dân tộc.

Xuyên suốt các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có thể thấy, đề tài chính hay vấn đề

mà nhà văn quan tâm nhất đó là xã hội, cuộc sống và con người Nam bộ, là đạo đức

truyền thống và mối quan hệ gia đình. Cảm hứng xuyên suốt trong tác phẩm của ông là

đạo lí và bảo vệ đạo lí. Thật không khó để nhận ra chủ trương của nhà văn Hồ Biểu

Chánh trong việc duy trì, bồi đắp và phát huy những mặt tích cực trong nền luân lí cổ

truyền của dân tộc cũng như tiếp nhận những mặt tiến bộ của lối sống tự do.

Tóm lại, có thể thấy, trong các tác phẩm của mình, đạo lí truyền thống được Hồ

Biểu Chánh phản ánh một mặt vừa tiếp nối truyền thống đạo đức của các nhà văn đi trước

mà phải kể đến đó là Nguyễn Đình Chiểu với sự ảnh hưởng từ giọng văn cho đến tính

cách con người đầy chất Nam bộ, mặt khác tiếp tục đặt nền móng cho tiểu thuyết Nam bộ

27

đầu thế kỉ XX. Chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc và mang giá trị đạo đức cao, tiểu

thuyết Hồ Biểu Chánh đã thật sự gần gũi, thân thuộc với đời sống con người Nam bộ.

Đây là tiền đề để làm nên chữ tình sâu sắc trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Chữ

tình ấy vừa là nét đẹp của văn chương Nam bộ, vừa là đạo lí truyền thống và lối sống của

người dân Nam bộ, góp phần giữ mãi nét đẹp cổ kính nhưng bình dân của văn chương

một vùng đất mới. Và Hồ Biểu Chánh trong suốt gần 50 năm cầm bút ông vẫn giữ một

cảm hứng xuyên suốt là đạo lí truyền thống với những biến động của xã hội qua các giai

28

đoạn lịch sử.

CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

2.1. Tình cảm gia đình

Vào những năm đầu thế kỉ XX, với sự tấn công mạnh mẽ của lối sống phương Tây

vào đời sống của nước ta cùng sức mạnh của đồng tiền lên ngôi đã làm đảo lộn những giá

trị truyền thống của dân tộc. Vẫn tưởng tất cả sẽ bị mai một nhưng qua các tiểu thuyết

của Hồ Biểu Chánh, chúng ta vững tin hơn khi thấy rằng những giá trị, những nét đẹp

truyền thống trong những mối quan hệ gia đình vẫn còn tồn tại và được gìn giữ ở xã hội

Nam bộ. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề gia đình, qua các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu

Chánh đã cho người đọc nhận thấy vai trò của gia đình, nơi hình thành , chứa đựng và hội

tụ những tình cảm cao quý nhất của con người. Gia đình bao gồm các mối quan hệ tốt

đẹp, gắn bó giữa cha mẹ - con cái, anh em, ông bà – cháu với những cung bậc tình cảm

đa dạng, đa sắc thái.

2.1.1. Tình phụ tử

Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói:”Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết

là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ

không phải là các tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người

viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn” [29,

61]. Thật vậy, tư tưởng trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải là tư tưởng nằm

thẳng đơ trên trang giấy. Đó là tư tưởng đã được đúc rút từ hiện thực cuộc sống, từ cuộc

đời, số phận của những con người nhỏ bé trong xã hội, từ chính những trải nghiệm của

nhà văn trong cuộc sống. Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những hình ảnh đẹp của cảnh sống

hạnh phúc trong gia đình Nam bộ ở nông thôn lẫn thành thị. Còn có gì đẹp đẽ và cao quý

hơn tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, ta bắt gặp hình

ảnh những người cha hết lòng yêu thương, hy sinh vì con của mình và những đứa con

luôn một lòng yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha. Tình cảm ấy vốn dĩ đã rất thiêng

thiêng nhưng lại còn cao quý hơn khi nó xuất hiện ở nơi mà lối sống tư sản đang tấn công

29

mạnh mẽ vào truyền thống gia đình Việt Nam.

Nếu mẹ là người có công mang nặng đẻ đau, ẵm bồng, dạy dỗ cho con cái nên vóc

nên người thì với đứa con, người cha lại có công sinh thành, nuôi dưỡng, là trụ cột vững

chắc của gia đình. Thế nên, ngoài tình mẫu tử cao quý thì tình cha con cũng là một tình

cảm thiêng liêng và đáng quý của con người.Trong gia đình truyền thống của người Việt,

người cha có quyền tuyệt đối với con cái. Tuy không có sự quy định chặt chẽ của pháp

luật nhưng theo đạo đức, luân lí của nước ta thì người cha trong gia đình đối với con cái

phải làm tròn trách nhiệm, phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái trưởng thành và người

làm con cũng phải giữ đạo hiếu, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Qua tiểu thuyết của Hồ

Biểu Chánh, người đọc dễ dàng nhận thấy rằng, ngoài tình cảm mẫu tử thiêng liêng và

gắn bó của con người thì tình phụ tử cũng sâu nặng, thiết tha không thua kém. Nếu chúng

ta xúc động với hình ảnh những bà mẹ yêu thương con dịu dàng, sẵn sàng hy sinh tất cả

cho con thì ta lại càng nể phục hơn với những người cha hết mực thương con và nhận

chịu mọi đau khổ để con mình được hạnh phúc.

Nhân vật Vương Thể Hùng trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa là một người cha

như thế. Tình yêu thương con sâu nặng của Thể Hùng làm người đọc phải nghẹn ngào,

xúc động. Là một người nghĩa sĩ, chàng phải đau đớn chấp nhận rời xa vợ con để thực

hiện nghĩa vụ của một người làm trai. Có nỗi đau nào lớn hơn khi một người cha phải rời

xa con mình khi nó vẫn còn thơ dại. Thế nên, việc Thể Hùng không làm tròn trách nhiệm

của một người cha, không nuôi dưỡng dạy bảo cho con khôn lớn thành người đáng

thương hơn là đáng trách. Bởi lẽ, sự lỗi đạo làm cha, việc không làm tròn nghĩa vụ, trách

nhiệm của Thể Hùng là một việc bất đắc dĩ và chàng buộc phải hy sinh tình cảm gia đình

vì nghĩa vụ đối với nước nhà. Nhưng không phải vì thế mà Thể Hùng lãng quên hay giũ

bỏ trách nhiệm của người làm cha. Chàng vẫn luôn yêu thương Thể Phụng và tình cảm ấy

làm người đọc phải xúc động rơi nước mắt bởi Thể Hùng phải chịu đựng việc yêu thương

con trong thầm lặng với tất cả tấm lòng. Người cha đau đớn chấp nhận xa lìa con của

mình một lần nữa khi chinh chiến đã chấm dứt vì muốn con có một cuộc sống êm ấm,

hạnh phúc, có điều kiện học hành đỗ đạt và không phải lo lắng về cuộc sống sau này với

gia tài rộng lớn của ông ngoại là Đàm Tự Chấn. Khi đứa con mà Thể Hùng yêu thương là

30

Thể Phụng tìm đến gặp, chàng đã nghẹn ngào xúc động. Lời nói của Thể Hùng làm người

đọc cảm động vì đó là những lời nói, lời tâm tình chân thành, xuất phát từ chính trái tim

của người làm cha đối với con mình: “Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con.

Cha thương con lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con

nên biết rằng vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con mà cha

phải giấu, không dám cho con biết, thuở nay đi thăm con hoài, chừng vài ba tháng cha đi

thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường con đi học, rồi ngồi

xuống ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng chi, hoặc làm điều chi cho con biết. Vậy

con đừng có tưởng cha không thương con” [14, 150]. Thật vậy, dù không tận tay nuôi

dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ con nên vóc nên người nhưng người cha đáng thương ấy luôn

dõi theo từng bước đi của con. Và dù không thể đem lại cuộc sống êm ấm, hạnh phúc cho

con nhưng có thể nói Thể Hùng đã gián tiếp giúp con có một cuộc sống đầy đủ về vật

chất thông qua sự hy sinh tình phụ tử. Có người sẽ nói việc làm của Thể Hùng là sai

nhưng cũng có người cho là đúng. Sự đánh giá đúng sai ấy tuỳ thuộc vào sự nhìn nhận

của mỗi người. Nhưng có một điều mà không ai có thể phủ nhận đó chính là tình yêu con,

sự hy sinh cao cả xuất phát từ tấm lòng của người cha đối với con: “Nghĩ vì thương con

thì phải làm cho con nên, chớ không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn

lòng mà ưng chịu, thà là cha vì con mà ảo não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì

cha mà hạ tiện bần cùng” [14, 152]. Yêu con nên người cha chấp nhận chịu đựng mọi

khổ đau, sầu não và chính tình yêu thương con lớn lao ấy là sợi dây gắn kết tình cảm cha

con ruột thịt của Thể Hùng và Thể Phụng. Cũng chính tình yêu thương đó đã khơi dậy

tình yêu thương với cha, xoá bỏ mọi nghi hoặc và những ấn tượng không tốt, sự xem

thường, oán hận về cha mà từ lúc nhỏ đã bị ông ngoại và dì dạy bảo. Từ đó giúp người

đọc tin rằng tình phụ tử vốn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý nên sẽ không có bất kì

một thế lực nào có thể chia cắt được. Thế nên, ngay khi biết tin cha mình vẫn còn sống,

Thể Phụng đã mang một khao khát, ước muốn được gặp cha. Dù xa cách mười mấy năm,

không có sự dạy dỗ, chở che nhưng khi hiểu rõ tình cảm của cha dành cho mình thì Thể

Phụng đã xúc động trước cha. Đứa con ấy thấy kính trọng và tự hào về cha mình, lòng

yêu thương cha càng trở nên da diết, sâu sắc hơn: “Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì

31

đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận làm con của cha, thì con phải nuôi dưỡng cha,

nếu con không làm như vậy, dầu con học thi đậu tới trạng nguyên, dầu con có giàu như

Thạch Sùng đi nữa, con cũng không đáng làm người” [14, 149]. Để một lòng chăm sóc,

hiếu thảo với cha, Thể Phụng đã phải chịu tội bất nghĩa với ông ngoại và chấp nhận từ bỏ

cuộc sống giàu sang của mình: “Cha tưởng gia tài đó quý cho bằng cha hay sao. Con

không màng đâu. Thử đem mười cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay

không mà” [14, 152]. Tình phụ tử thiêng liêng ấy đã xoá tan mọi khoảng cách của sự chia

xa trong mười mấy năm và những hiểu lầm trước đó để cho người đọc thấy rằng không

có gì quý giá hơn tình cảm cha con, một thứ tình cảm chân thành và sâu sắc của con

người.

Hay trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng cũng có tình cảm cha con làm người

đọc xúc động giữa Trần Văn Sửu và thằng Tý, con Quyên. Vợ của Trần Văn Sửu là Thị

Lựu lén chồng để ngoại tình và trong một lần tức giận, Trần Văn Sửu đã sơ ý làm vợ

mình ngã chết nên phải trốn đi. Dù biết có thể bị bắt hoặc nặng hơn là bị bỏ tù vì tội giết

người nhưng trong lúc nguy cấp, Trần Văn Sửu vẫn chỉ nghĩ đến những đứa con mà

không hề lo lắng cho bản thân: “Trời ơi! Tôi đánh vợ tôi chết rồi, bây giờ làm sao? Bị

đày, chắc không khỏi bị đày chung thân. Mấy đứa con tôi, ai nuôi nó?” [18, 13]. Sợ rằng

con mình còn quá nhỏ không hiểu chuyện sẽ trở nên oán hận mình nên người cha với tấm

lòng yêu thương con vô bờ lại càng lo lắng và day dứt hơn. Qua những lời than vãn của

Trần Văn Sửu, người đọc nhận ra được hình ảnh một người cha hết mực thương con:

“Con tôi còn nhỏ quá, tội nghiệp lắm trời ôi! Bên nội không có ai hết, còn bên ngoại, thì

có một mình ông ngoại, mà ông ngoại nó nghèo quá, lại già yếu rồi, làm sao có đủ cơm

mà nuôi ba đứa cho nổi. Ý hị!... Khổ lắm!... Còn một nỗi không biết sắp con tôi nó có

hiểu bụng tôi hay không. Sợ e chừng nó khôn lớn, chúng nó không hiểu chi hết, tưởng tôi

hung dữ, làm điều chi không phải rồi còn đạp chết vợ nữa, chúng nó thương mẹ trở lại

oán tôi, thì còn khổ cho tôi biết chừng nào” [18, 14]. Trốn chạy, bôn ba xứ người, chịu

đựng cuộc sống vất vả, đau khổ suốt mười một năm chỉ để mong có một ngày được gặp

lại mấy đứa con thơ dại và bộc bạch để chúng hiểu được nỗi lòng của cha: “Mười một

năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày gặp được mặt

32

con. Nay về đến đây, chưa gặp được con mà phải đi, thì đi làm sao được, trời đất ơi!”

[18, 47]. Tình yêu đối với những đứa con, ước muốn và niềm hy vọng một ngày được

đoàn tụ với con là niềm tin và động lực giúp Trần Văn Sửu vượt qua bao khó khăn, đau

khổ và bao nỗi nhớ dày vò. Nhưng đau đớn thay những ước mơ, hy vọng ấy lại không

thực hiện được vì người cha ấy thương con và không muốn con mình phải khó xử nên đã

chấp nhận hy sinh tất cả để cả hai đứa được hạnh phúc. Mong muốn được gặp con, được

sống gần gũi bù đắp lại những tháng ngày con thiếu vắng tình thương của một người cha

nhưng Trần Văn Sửu lại một lần nữa đau đớn chọn cách ra đi, xót xa khi phải xa lìa con

lần nữa: “Tôi phải chịu đau đớn cực khổ buồn rầu, con tôi mới nên được. Tôi vui lòng mà

lãnh các sự đau đớn buồn rầu đó, miễn là con tôi được giàu có sung sướng thì thôi” [18,

47]. Biết tìm đâu một người cha như thế, người cha vừa đáng thương nhưng cũng đáng

kính trọng biết bao. Trần Văn Sửu đã yêu thương con mình hết lòng bằng tình yêu tha

thiết, sâu nặng và bằng cả những nỗi đau của sự hy sinh vì con. Miễn sao con được hạnh

phúc, miễn sao con có một cuộc sống ấm êm thì cha sẵn sàng chịu mọi khổ đau, buồn rầu

cho riêng mình. Xem hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình, yêu thương con

bằng cả tấm lòng nên người cha ấy đã được đền bù xứng đáng bằng lòng yêu thương, sự

kính trọng và hiếu thảo của Tý và Quyên. Còn gì hạnh phúc và sung sướng hơn khi hay

tin cha vẫn còn sống. Cả thằng Tý và con Quyên đã vui mừng còn hơn được người ta cho

tiền cho bạc: “Đi riết, anh Hai. Em nghe nói em mừng quá. Cha về hồi nào? Làm sao

anh gặp được? Ông ngoại hay rồi hay chưa?” [18, 51]. Những câu hỏi xuất phát từ tình

yêu thương và lòng nhớ mong cha trong suốt mười một năm xa cách. Và hơn cả nhớ

mong, cả Tý và Quyên đều mong muốn được sống cùng cha, ở cạnh cha dù cuộc sống có

nghèo khổ: “Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chớ”

[18, 49], “Tính sao cũng được miễn là con có thể gần cha thì thôi. Mà cha ở với Thổ, thì

cực khổ tội nghiệp thân cha lắm” [18, 49]. Thật may mắn khi những đứa trẻ ấy hiểu

chuyện, không hề oán trách cha về cái chết của mẹ mà còn nhận Trần Văn Sửu là cha

mình và tìm đủ mọi cách để giữ cha ở bên cạnh mình. Đó là tình cảm cha con gây nên

bao xúc động bởi lẽ nó xuất phát từ tình cảm chân thành, sâu sắc của con người. Điều đó

đã minh chứng rằng người cha dù không mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày nhưng

33

lại có ơn sinh thành, tạo nên hình hài, vóc dáng và nuôi dưỡng, dạy bảo con cái nên

người. Tình yêu thương vô bờ bến và sẵn sàng hy sinh tất cả vì con của tình cha ấy chính

là những giá trị cao đẹp tạo nên đạo đức, luân lí trong gia đình Việt Nam.

Không những thế, Hồ Biểu Chánh còn xây dựng hình ảnh của những người cha

mặc dù chỉ là cha nuôi nhưng lại yêu thương con mình bằng tất cả tình yêu chân thành

của một người cha thật sự. Tiểu thuyết Con nhà nghèo đã để lại một dấu ấn khó phai mờ

trong lòng người đọc về một người cha nuôi hết lòng tận tuỵ, tận tâm vì con của mình, đó

chính là Hương sư Cu. Tình yêu thương ấy không phải được tính bằng công lao sinh

thành hay dưỡng dục mà bằng tình thương của sự lo lắng, hy sinh hết lòng vì con mà

không hề có sự phân biệt. Dù biết Tư Lựu đã thất tiết với cậu Hai Nghĩa nhưng ông vẫn

không chê bai cô mà còn thương cả con của Tư Lựu như tình yêu với mẹ của nó. Hương

sư Cu tuy là một anh nông dân ít học nhưng đối với con của Tư Lựu lại biết trước biết

sau và làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người làm cha: “Con nào cũng là con, hễ

mình kêu nó bằng con thì mình phải thương yêu, nuôi dưỡng nó hết lòng. Hễ nó gọi mình

bằng cha thì mình phải ăn ở cho xứng phận làm cha” [21, 54]. Thương con và không hề

có sự phân biệt đối xử giữa con ruột và con nuôi: “Thưa, con gì cũng vậy, hễ đặt con thì

tự nhiên mình thương. Mà thằng Hai đây tôi thương nó không biết chừng hơn con ruột

của tôi nữa, bởi vì cha nó không nhìn, tôi ra nhìn thế, nên tôi phải thương nó bằng hai”

[21, 48]. Dù không phải là mối quan hệ ruột thịt nhưng Hương sư Cu lại xem đứa con

chính là sinh mạng của mình: “Nếu thằng Hai có bề nào, thì tôi cũng chết, chớ tôi không

sống được” [21, 52]. Dù không phải máu thịt của mình, dù hình hài ấy không do mình

tạo ra nhưng qua lời nói đầy chân thành xuất phát từ trái tim của người làm cha đã giúp

cho độc giả cảm nhận một cách sâu sắc tình cảm cha con mà Hương sư Cu đã dành cho

đứa con mà mình yêu quý: “Nhà giàu thương con, nhà nghèo cũng biết thương con vậy

chớ. Ai nỡ cắt thịt mà trao cho người khác được. Vợ chồng tôi nghèo thì nuôi con theo

phận nghèo. Cái tình thương con là quý, chớ giàu nghèo nghĩa gì đâu” [21, 48]. Tình

yêu con của Hương sư Cu thật cao cả, thiêng liêng, không chỉ xuất phát từ tình yêu với

Tư Lựu mà còn vì đó là tình yêu thương con chân thật và trách nhiệm của một người cha

đối với con mình. Người đọc đã thật sự xúc động khi chứng kiến được tình phụ tử sâu

34

nặng này. Tuy bề ngoài nhìn thật khó hiểu nhưng tình cảm này phù hợp với luân lí gia

đình và đáng được trân trọng. Đó là một tình yêu sâu nặng, mãnh liệt và thật chân thành

được khơi nguồn từ tình phụ tử thiêng liêng của con người. Trời không phụ người có

lòng và lại rất mực thương con như Hương sư Cu. Khi Kinh lý Hai biết được sự thật,

cũng là tình yêu kính đối với Hương sư Cu như trước nhưng nay lại càng yêu thương và

kính trọng hơn, đó là tấm lòng biết ơn của một đứa con dành cho cha mình: “Thưa cha,

con biết được căn nguyên của con rồi thì con càng thương má, kính cha bằng mười hồi

trước nữa. Người như cha má mà con không thương yêu kính trọng thì con có phải là

loài người đâu. Chẳng nói tới công sanh thành của má, công dưỡng dục của cha làm chi,

nội một sự cha má cản hôn nhơn của con đây thì cũng đủ cho con thương yêu kính trọng

đời đời kiếp kiếp” [21, 90]. Thật vậy, khi nhìn lại những biến đổi của xã hội Việt Nam

thời đó, chúng ta càng thấy trân trọng tình phụ tử thiêng liêng của những những nhân vật

trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Đó là tình phụ tử mà làm cho những người tận mắt

chứng kiến hoặc nghe thấy cũng đều phải xúc động, nghẹn ngào. Qua đó đã minh chứng

một điều rằng, người cha không chỉ làm tròn trách nhiệm của mình mà còn yêu thương

con với tình yêu chân thành, sâu sắc, không kém phần mãnh liệt như những người mẹ. Có

đôi lúc âm thầm, lặng lẽ, kín đáo nhưng đến khi có thế lực nào đó có nguy cơ làm tan vỡ

tình phụ tử thiêng thiêng thì những người cha ấy sẵn sàng bộc lộ, hy sinh tất cả để bảo vệ

con của mình. Con là xương thịt, là giọt máu, là tất cả cuộc sống của cha và khi càng có

nhiều thử thách, gian truân thì những tình cảm thiêng liêng của con người như tình phụ tử

lại càng trở nên cao đẹp, ngời sáng hơn trong cuộc sống.

2.1.2. Tình mẫu tử

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi suốt đời lòng mẹ mãi theo con

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”

(Con cò – Chế Lan Viên)

Ai lớn lên mà không có mẹ, không được mẹ yêu thương, chăm sóc. Niềm hạnh

phúc và sung sướng của mỗi con người trên cuộc đời này là được gọi hai tiếng thân

35

thương nhưng thiêng liêng, cao quý “Mẹ ơi”. Tình mẹ con tồn tại ở mỗi con người chúng

ta, không phân biệt giai cấp hay giàu nghèo. Đâu phải người giàu sang mới biết yêu

thương con mình, dành cho con những điều đầy đủ và tốt đẹp nhất. Có rất nhiều cách mà

mẹ thể hiện tình cảm với con, dù là người giàu sang, có địa vị hay nghèo hèn, thấp cổ bé

họng thì vẫn yêu thương con bằng nhiều cách khác nhau. Và khi nói đến tình cảm mẹ

con, chúng ta thường nghĩ ngay đến thứ tình cảm cao quý, vốn có trong mối quan hệ ruột

thịt. Nói về sự hy sinh của mẹ cha dành cho con cái, dân gian ta có câu “Mồ côi cha ăn

cơm với cá, mồi côi má lót lá mà nằm”. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tình cảm

thiêng liêng, cao quý ấy được nhà văn thể hiện một cách rất sâu sắc, rất Nam bộ. Trong

tiểu thuyết Cay đắng mùi đời được phóng tác từ tiểu thuyết Không gia đình của Hector

Malot, bà Hội đồng Nhàn do sơ ý không đề phòng sự độc ác, toan tính, tham lam của

người thân nên đã đánh mất con mình là Phan Thanh Nhã suốt mười lăm năm trời. Mất

con là một nỗi đau quá lớn, một sự mất mát về tình cảm bởi lẽ bà yêu con bà, yêu hơn cả

bạc tiền: “Chú nó ráng kiếm dùm con tôi, kẻo tội nghiệp tôi quá…Ai mà ăn ở bất nhơn

thất đức lắm như vậy không biết…Cha chả! Ai có khuấy chơi xin trả con tôi lại cho tôi,

muốn xin một hai ngàn gì tôi cũng cho hết” [7, 65]. Ai làm mẹ mà không thương con

nhất là đối với bà Hội đồng Nhàn – người mẹ với tình yêu thương con thật sâu nặng, tha

thiết, dám làm tất cả, hy sinh tất cả vì con của mình. Mất con nên phải xa con, bà luôn

thương nhớ con mình day dứt “Bà Hội đồng nhớ con ăn ngủ không được ngày đêm cứ

ngồi khoanh tay mà khóc hoài. Ông Hội đồng an ủi hết sức, tuy bề ngoài bà gượng làm

khuây song trong lòng bà chẳng giây phút nào mà quên con được” [7, 65]. Nỗi nhớ

mong, day dứt khôn nguôi ấy xuất phát từ chính trái tim nhạy cảm, đong đầy yêu thương

của người làm mẹ, từ sợi dây tình cảm thiêng liêng của con người. Mẹ mang nặng đẻ đau

con suốt chín tháng mười ngày, xa con một ngày đã dài đằng đẵng nhớ mong khôn nguôi.

Còn đằng này, suốt mười lăm năm xa con, nỗi nhớ thương càng làm nỗi đau mất con

nhân lên gấp trăm lần, lòng mẹ càng quặn đau. Bà Hội đồng trăm phương ngàn kế để tìm

kiếm con không ngại gian nan, khó khăn. Dù có tốn kém bao nhiêu bạc tiền mẹ cũng

không tiếc. Thế nên, khi gặp nhau sau bao năm xa cách, người mẹ vui mừng khôn xiết,

nỗi vui ngẹn ngào khó tả “Phải rồi, phải rồi, đồ của con tôi đây mà, đây cái áo đầm nầy

36

tôi may, đường kim mũi chỉ làm sao tôi quên được, đôi vớ nầy nữa đây, còn cái mền nầy

của chồng mua dưới chợ Cần Thơ nữa đây; con ôi, con, mấy năm nay con xiêu lạc làm

cho mẹ phiền não đêm ngày” [7, 69]. Người mẹ được gặp lại đứa con yêu thương của

mình, bà nhìn con với cái nhìn dịu dàng, trìu mến, thân thương, chứa chan tình cảm. Nỗi

nhớ thương con da diết trong mười lăm năm được gửi gắm qua những nụ hôn yêu

thương, ngọt ngào. Thật vậy, tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng của con

người mà không có một thế lực nào chia cắt được bởi đối với người mẹ đứa con là núm

ruột dính liền.

Tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp còn được thể hiện sâu sắc trong tiểu thuyết

Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh thông qua nhân vật Lý Ánh Nguyệt. Nàng đại diện

cho những người phụ nữ Nam bộ với sự hy sinh, tấm lòng thương con vô bờ bến nhưng

lại chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có câu thơ

“Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” quả thật không sai

chút nào. Ánh Nguyệt là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời chịu nhiều truân

chuyên, bất hạnh. Cuộc sống nghèo khổ, cha mất sớm, một thân côi cút lại là người có

bản chất thật thà nên Ánh Nguyệt đã bị Hải Yến – một thanh niên có học thức lừa gạt tình

cảm làm cho thất tiết. Bị phụ tình, đau khổ và cảm thấy nhục nhã vì không giữ trọn tiết

hạnh, phẩm giá nên nàng có ý định tự tử. Thế nhưng, Ánh Nguyệt không phải là người

chỉ nghĩ chỉ biết cho riêng mình. Nàng còn là một người mẹ yêu con tha thiết. Dù đau

khổ nhưng nàng phải cố sống dù cuộc sống vất vả, khổ cực, nhục nhã trăm bề, vì con

nàng sẵn sàng chấp nhận tất cả: “Nàng mới nghĩ lại nếu mình chết thì phận mình đã yên

rồi còn con mình bỏ lại cho ai nuôi? Con là máu thịt của mình, lỗi tại nơi ai chớ nó có tội

gì mà mình bỏ nó” [14, 66]. Ánh Nguyệt thương con với tình yêu của người mẹ vô bờ

bến. Miễn sao Thu Vân_con gái của nàng được hạnh phúc, sung sướng thì dẫu có đau

đớn, tủi hổ thế nào nàng cũng cam tâm chấp nhận, hy sinh tất cả vì con: “Cháu đã

nguyền với Trời Phật thà là bán cái thân của cháu mà nuôi con, chớ cháu không nỡ để

cho con cực khổ nữa” [14, 99]. Tình mẹ con còn thể hiện qua ước muốn chuộc lại con,

được sống gần bên con của Ánh Nguyệt. Nàng bôn ba, vất vả, phải làm rất nhiều việc đến

nỗi rơi vào hoàn cảnh tủi nhục bị người đời trêu ghẹo, khinh khi xem là phường con gái

37

buôn hương bán phấn. Yêu thương và nhớ con khôn xiết nàng đã gạt bỏ cả lòng tự trọng,

hạ mình xin tiền của Thiên Hộ. Những ai nếu nghe được lời nói của Ánh Nguyệt sẽ đều

phải xúc động rơi nước mắt trước tình yêu con sâu nặng, bao la của nàng: “Tội nghiệp tôi

lắm ông ơi! Ông làm ơn cho tôi tiền đặng tôi chuộc con tôi. Tôi nhớ nó quá” [14, 106].

Khi còn sống yêu con và nhớ con đến khi trong hoàn cảnh nguy nan, cái chết đang kề cận

thì tình yêu đó cũng không hề thay đổi. Nàng không hề lo lắng cho bản thân mình mà chỉ

một lòng hướng về Thu Vân với tất cả sự nhớ nhung và yêu thương con tha thiết. Ước

muốn duy nhất của Ánh Nguyệt cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là mong được thấy

con. Còn gì chân thành, tha thiết hơn nữa. Với Ánh Nguyệt, Thu Vân chính là sức mạnh

giúp nàng vượt qua tất cả: “Con tôi về tới nơi rồi, may lắm. Con ôi! Má đây con, má

trông con quá” [14, 121]. Những lời nói tha thiết, chân thành ấy xuất phát từ tình yêu

thương, nỗi nhớ con da diết của một người mẹ gây nên bao xúc động và thấm đẫm biết

bao tình cảm. Không chỉ nhớ con ở hiện tại mà trong mơ nỗi nhớ ấy cũng thao thức, ám

ảnh. Chính điều đó đã thể hiện rõ nét tình yêu thương con của Ánh Nguyệt: “Hồi nãy

cháu nằm chiêm bao thấy con Thu Vân về tới rồi, nó chơi với sắp nhỏ ngoài sân, mà

cháu kêu nó không chịu vô” [14, 121]. Dù thương con, mong ngóng được gặp con chỉ

một lần nhưng cuối cùng nàng đã phải từ giã cõi đời trong nỗi oán hận vì đời bạc bẽo,

người vô tình, kẻ vô nghĩa. Đều là tình mẫu tử cao đẹp, đều là tình thương vô bờ bến của

người mẹ dành cho đứa con của mình nhưng Ánh Nguyệt lại không được may mắn như

bà Hội đồng Nhàn, được đoàn tụ và sống hạnh phúc với con của mình. Tình mẫu tử giữa

Ánh Nguyệt và Thu Vân đã gây nên bao xúc động và khiến người đọc trân trọng, kính nể.

“Mẹ nuôi con biển hồ lai láng”, mẹ là người sinh thành, mang nặng đẻ đau và

nuôi dưỡng con không tính công lao, không quản khó nhọc. Với mẹ, con chính là núm

ruột, máu thịt không thể rời xa. Con là lẽ sống, là nguồn vui, là hy vọng, là tình yêu giúp

mẹ vượt qua những nỗi đau, mất mát và khó khăn trong cuộc sống. Nhưng cũng có những

người mẹ dù không mang nặng đẻ đau vẫn yêu thương đứa con bằng tình yêu chân thành,

tha thiết. Qua tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, Hồ Biểu Chánh đã làm cho người đọc phải

ngậm ngùi và kính phục trước tình cảm mẹ con giữa Ba Thời và thằng Được. Tuy không

có sự ràng buộc bởi mối quan hệ mẹ con ruột thịt nhưng tình cảm của họ thật sự đã trở

38

thành tình mẫu tử cao đẹp mà không phải ai cũng làm được. Được là con nuôi, không

phải chín tháng mười ngày cưu mang nhưng với nó, Ba Thời như một người mẹ luôn hết

mực yêu thương, dành trọn tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc tốt nhất cho con. Tình cảm

yêu thương ấy xuất phát từ trái tim yêu con của một người mẹ. Trong suy nghĩ của Ba

Thời không một chút mỉa mai xem Được là con nuôi. Suốt bảy tám năm ẵm bồng, nuôi

dưỡng, Ba Thời yêu thương Được như con ruột: “Thuở nay mẹ không muốn nói chuyện

đó cho con nghe là vì mẹ nghĩ con nghe con buồn chớ không có ích chi, bởi vì mẹ thương

con nên dốc lòng nuôi con như con của mẹ đẻ vậy” [7, 11]. Vì thế khi phải đưa ra sự lựa

chọn giữa chồng và con, bà đã rất đau khổ, khó xử. Và chấp nhận đánh mất đi danh giá,

phẩm tiết của người phụ nữ, Ba Thời vẫn quyết định bảo vệ Được, không đem cho người

khác. Tình cảm mẹ con giữa Ba Thời và Được luôn được gìn giữ trong mọi hoàn cảnh:

“Tuy vậy mà mẹ khuyên con chớ nên buồn, ví dầu thế nào mẹ cũng thương con, dầu ngày

sau con khôn lớn có tìm được cha mẹ ruột rồi phụ bạc mẹ đi nữa, mẹ cũng cam tâm chớ

không khi nào phiền trách” [7, 11]. Tuy nhiên, Ba Thời cũng phải đau đớn rời xa Được,

đứa con mà bà hết lòng yêu thương. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng và bất diệt.

Trong bao năm xa cách với những khó khăn của cuộc sống, họ vẫn luôn hướng về nhau.

Không chỉ có Ba Thời thương con mà Được cũng rất yêu mẹ của mình. Tuy là một đứa

bé mới mười lăm tuổi đầu nhưng tình cảm và suy nghĩ của Được rất chín chắn. Sở thích

của mẹ mình Được cũng biết rất rõ. Suy nghĩ của trẻ thơ tuy ngây ngô nhưng thật đáng

quý và đáng trân trọng. Được mua con heo về tặng mẹ không chỉ làm cho Ba Thời xúc

động mà còn làm cho độc giả rơi nước mắt vì đó là sự thể hiện đáng yêu của một đứa con

yêu thương, hiếu thảo và kính trọng mẹ hết mực: “Bĩ ơi, hồi tao ở với má tao, tao ra đi

với thầy tao thì tao có nói rằng chừng nào tao lớn khôn tao sẽ làm mà nuôi má tao. Nay

tuy tao chưa lớn mà đã có thể cho má tao được một con heo như vầy thì tao đã khoái

trong lòng rồi. Để rồi sau mầy coi, chừng tao giàu lớn thì tao sẽ làm cho má tao sung

sướng lắm…Chắc tao về đây má tao vui lắm” [7, 46]. Còn điều gì đáng quý hơn tình cảm

mẹ con như thế. Được tuy là con nuôi nhưng khi xa cách, Ba Thời vẫn luôn lo lắng,

ngóng trông, nhớ thương: “Con đi năm sáu năm nay má nhớ con hết sức mà má cũng lo

39

sợ không biết con mạnh giỏi thế nào” [7, 49].

Qua tình cảm mẹ con của bà Hội đồng Nhàn, Lý Ánh Nguyệt, Ba Thời và một số

tiểu thuyết khác như trong Chúa tàu Kim Quy, Thủ Nghĩa là người con hiếu thảo khi lúc

bị bắt ở tù anh không hề nghĩ đến bản thân mình mà chỉ lo lắng cho mẹ già yếu ở nhà.

Trót mười năm trường ở chốn lao tù, lúc nào anh cũng thương nhớ cha mẹ, thương phận

em. Khi trốn ngục điều đầu tiên anh làm là về quê thăm cha mẹ để báo hiếu chứ không

phải là đi tìm vàng bạc châu báu. Hay người đọc còn bắt gặp tình cảm mẹ con cảm động

giữa Thu Vân, Thu Ba và Thu Cúc trong tiểu thuyết Chút phận linh đinh và anh nông dân

nghèo Lê Văn Đó trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa vì thương mẹ và đàn cháu nheo nhóc

ở nhà đang trong cơn đói đã lỡ trộm nồi cháo heo của Bá Hộ Cao mà nên tội. Thật vậy,

qua những tiểu thuyết viết về tình cảm mẹ con ấy, Hồ Biểu Chánh đã khẳng định mạnh

mẽ về sự thiêng liêng và cao quý của tình mẫu tử. Tình mẹ con là một tình cảm phổ biến,

cao đẹp. Nó xuất hiện ở mọi hoàn cảnh, càng trải qua nhiều thử thách càng thấy ngời lên

nét đẹp của tình cảm thiêng liêng này. Trong cái nhìn của Hồ Biểu Chánh, nó vẫn hiện

hữu trong cuộc sống của người Nam bộ, làm nên những giá trị đạo đức cao quý, tôn vinh

những nét đẹp trong gia đình của người dân Nam bộ.

2.1.3. Tình cảm anh em Ca dao có câu:

“Anh em như thể chân tay

Rách làm đùm bọc, dở hay đỡ đần”

Cha mẹ có công ơn sinh thành, dưỡng dục, dạy dỗ, nuôi nấng chúng ta nên người.

Những người con ngoài bổn phận phải yêu kính, chăm sóc, hiếu kính với cha mẹ thì việc

anh em trong gia đình sống vui vẻ, hoà thuận với nhau thì cha mẹ mới vui vẻ mà an lòng

sống hạnh phúc với các con. Anh em là những người có cùng chung huyết thống và trải

qua những gian nan thử thách nếu anh chị em biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau thì tình

cảm gia đình sẽ càng thêm bền chặt. Trong tiểu thuyết Con nhà nghèo, người đọc chắc

hẳn sẽ cảm thấy trân trọng tình cảm anh em giữa Ba Cam và Tư Lựu. Vì yêu thương em

mình hết lòng nên người anh Ba Cam đã không trách móc mà trái lại còn cảm thông cho

hoàn cảnh đau khổ, tủi nhục của em mình. Do hoàn cảnh gia đình nghèo khó, nhà chỉ có

40

ba anh em mà chỉ có Tư Lựu là con gái nên Ba Cam càng thương em hơn lại càng bất

bình trước cuộc đời đau khổ của em hơn. Không nghĩ suy đến sự nguy hiểm của bản thân,

Ba Cam quyết tâm ra tay rửa nhục, đòi lại sự công bằng cho em mình: “Từ rày sắp lên nó

mang tiếng xấu chớ em hết xấu nữa. Dầu qua ở tù em cũng đừng buồn. Qua đã rửa nhục

cho em mà qua ở tù thì qua vui lòng lắm, không hại chi đâu mà sợ” [21, 40]. Phải yêu em

mình nhiều lắm, tha thiết lắm thì Ba Cam mới có thể suy nghĩ và vạch ra những việc làm

táo bạo như rạch mặt cậu Hai Nghĩa. Càng thương càng xót em đang phải chịu những tủi

nhục như thế, Ba Cam càng mạnh mẽ trách móc Hai Bưởi: “Anh cứ sợ ở tù hoài! Đồ

khốn nạn nó làm nhục em mình, anh nhát nên không động đến nó. Nay tôi ra tay rửa

nhục cho con Lựu, anh còn rầy tôi nữa sao?” [21, 38]. Ba Cam biết rằng em mình đã

phải chịu đựng những nỗi đau và mất mát quá lớn, Ba Cam biết điều Tư Lựu cần bây giờ

là sự bảo bọc, chở che, cần một chỗ dựa vững chắc để vượt qua tất cả nên đã hết lòng lo

lắng, an ủi và động viên em: “Em Lựu, anh Hai dở lắm, ảnh không dám binh vực em. Tuy

vậy mà em đừng lo. Từ nay trở đi có qua. Qua thề có mặt đèn làm chứng qua sẽ bảo vệ

thân em đến cùng, qua quyết tìm cách rửa nhục cho em, rồi qua về trển qua liệu thế đem

em lên Sài Gòn ở với qua” [21, 34 – 35]. Trong một xã hội kim tiền như thế thì tình cảm

giữa ba anh em Hai Bưởi, Ba Cam, Tư Lựu thật đáng trân trọng. Tình cảm anh em ấy

khẳng định một điều bất biến rằng mọi tình cảm, mọi giá trị cao đẹp của con người vẫn sẽ

tồn tại vĩnh hằng trước sức mạnh của đồng tiền.

2.1.4. Tình cảm ông cháu Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi hội tụ những tình cảm tốt đẹp của con người

như tình cảm cha mẹ - con cái, vợ chồng, anh em và cả tình cảm chân thành giữa ông và

cháu. Thật vậy, có những đứa trẻ ngay từ khi còn nhỏ đã không được sống cùng cha mẹ.

Khi ấy người ông vừa như một người cha, vừa như một người mẹ quan tâm, lo lắng,

chăm sóc và dạy bảo đứa cháu nên người, để nó cảm nhận được tình thương của người

thân và để tình thân chữa lành những vết thương, những thiếu thốn về tình cảm của đứa

cháu. Trong tiểu thuyết Chút phận linh đinh, ông Hội đồng Đạt tuy mang quan niệm cổ

hủ, khắt khe với chuyện hôn nhân của con cái, không chấp thuận chuyện hôn nhân của

Hiển Vinh và Thu Vân nhưng lại rất đau khổ, ân hận khi nghe tin con mình không còn

41

nữa. Thương con, nhớ con, ăn năn, ân hận nhưng ông lại càng khắc khoải hơn khi hay tin

mình vẫn có hai đứa cháu. Ông Hội đồng Đạt ngày đêm trông ngóng, mong nhớ hai đứa

cháu, ra sức tìm kiếm cho bằng được. Khi hy vọng bị dập tắt, trong cảnh thân già cô đơn

không có con cháu bên cạnh, gặp được Thu Cúc nhưng chưa biết là cháu mình, những lời

tâm sự của ông đã làm người đọc phải xúc động, thấy ông đáng thương hơn là đáng

trách: “Không, chuyện chút đỉnh mà đền ơn giống gì. Ông thấy cháu gặp lúc cùng khổ,

ông động lòng, nên ông làm ơn mọn có đáng gì lắm mà nói. Nhưng cháu nói bây giờ mẹ

con cháu bơ vơ, không có nơi nương dựa, vậy nếu cháu muốn ở đây thì ông nuôi. Phận

ông có một mình, có một đứa con trai đây chết, rồi còn hai đứa cháu nội gái thì chúng nó

lạc mất hết không biết ở đâu. Ông nuôi l0 đứa như cháu vậy cũng được, không luận là

cháu.” [15, 23 ] Sau bao ngày mong ngóng, khi biết Thu Vân là con dâu và Thu Cúc là

cháu của mình thì ông đã dồn tất cả tình yêu thương, niềm mong nhớ bấy lâu nay mà

chăm sóc, bù đắp những lỗi lầm của mình: “Con đừng có cãi cha. Cha không cho con đi

đâu nữa hết. Từ bữa cha được bức thơ của con, thì cha tưởng con đã chết rồi, bởi vậy

cha thương hai đứa nhỏ cha buồn rầu đến đỗi sanh bịnh. Hôm bữa hai mẹ con tới đây mà

thằng Pho nó không cho vô đó là tại cha bịnh đa. Hơn tháng nay cha mạnh rồi, cha cũng

muốn đi kiếm, mà mắc việc nhà đa đoan nên cha đi chưa được. Cha buồn rầu ăn năn đến

nỗi muốn cất nhà để rước nuôi con nít mồ côi. Thôi để vài bữa cha sắp đặt việc nhà, cha

giao hết cho con coi, rồi cha đi chơi đặng cha kiếm con Thu Ba cho.” [15,45 ]. Đáp lại

những yêu thương đó, thật may mắn thay, Thu Vân và Thu Cúc cũng không hề oán giận

ông Hội đồng Đạt mà trái lại còn luôn ở bên cạnh, kính trọng và luôn lo lắng, chăm sóc

cho ông. Điều đó cho thấy dù trải qua bao nhiêu sóng gió thì gia đình vẫn là sợi dây tình

cảm bền chặt gắn bó những con người có quan hệ máu thịt với nhau.

Trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh cũng có một tình cảm ông

cháu đáng được trân trọng đó là tình yêu thương giữa người ông Đàm Tự Chấn và cháu

ngoại Vương Thể Phụng. Đó là một người ông luôn yêu thương cháu hết mực. Nhưng

cũng vì quá yêu thương cháu ngoại lại biết chàng đã nhận lại và hiếu thảo với cha mình,

người mà ông căm ghét nên ông đã tức giận đuổi Thể Phụng ra khỏi nhà. Suy cho cùng

tất cả mọi việc đều xuất phát từ tình yêu của ông dành cho đứa cháu ngoại, mong muốn

42

nó học hành đỗ đạt, biết yêu thương, kính trọng và vâng lời ông. Tình yêu ấy càng mạnh

mẽ hơn khi ngoài mặt người ông ấy đuổi Thể Phụng đi nhưng ngày đêm lại nhớ thương.

Dù ngoài miệng thì chửi bới, căm giận nhưng vẫn luôn mong cháu bình an, mau trở về.

Hay như ông Bạch Khiếu Nhàn trong tiểu thuyết Ai làm được cũng là một người ông với

tình yêu thương đứa cháu của mình thật đáng ngưỡng mộ: “Tình thương cháu như tình

ông Khiếu Nhàn thiệt ít có!” [5, 59]. Ông xem Bạch Tuyết cháu mình là một của cải quý

báu ở trên đời này nên luôn quan tâm, lo lắng và đùm bọc đứa cháu. Tình yêu đó khó mà

có ai sánh được bởi người ông này đã không ngại gian nan, ngay cả khi sức khoẻ không

được tốt ông vẫn lặn lội cực khổ đi tìm, trong lòng chỉ mong ước được gặp lại cháu:

“Bạch Tuyết làm nhọc ông đã nhiều mà ông không trách chi hết. Bạch Tuyết trốn ông đi

lần này, ông tuốt theo mà kiếm nữa” [5, 59]. Vậy mới thấy, điều quý trọng và cao đẹp

nhất trên cuộc đời này chính là tình cảm của con người và thiêng liêng hơn đó chính là

tình cảm gia đình. Đó là những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc mà

con người luôn cố gắng bảo vệ.

2.1.5. Tình cảm vợ chồng

Từ thuở xa xưa, ông cha ta đã quan tâm đến việc xây dựng hạnh phúc gia đình

thông qua tình cảm của những người trong gia đình với nhau. Làm thế nào để giữ được

hạnh phúc của gia đình, bao giờ người ta cũng nghĩ ngay đến tình cảm của vợ chồng đối

với nhau. Bởi vợ chồng, bố mẹ, ông bà chính là những người giữ vai trò quyết định trong

tình cảm gia đình. Khi đồng tiền lên ngôi, các giá trị tinh thần dần mai một thì sự sâu sắc,

gắn bó trong tình cảm vợ chồng chính là một chất keo kết dính tình cảm cao đẹp của con

người lại với nhau. Qua các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng những gia

đình với cuộc sống vợ chồng thật thuận hoà, êm ấm và hạnh phúc. Và điều làm chúng ta

ngạc nhiên hơn chính là tình cảm vợ chồng tốt đẹp không phải là những hiện tượng hiếm

hoi mà rất phổ biến trong xã hội Nam bộ. Trước sự du nhập mạnh mẽ của lối sống tư sản

vào cuộc sống xã hội Nam bộ nhưng đáng quý thay gia đình với mối quan hệ vợ chồng

tốt đẹp vẫn duy trì trước thế lực kim tiền. Trải qua nhiều thăng trầm, gian lao, khó khăn,

tình cảm vợ chồng ngày còn gắn bó sâu sắc, mặn nồng trong bất cứ hoàn cảnh nào là một

43

điều luôn hiện hữu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh.

Tư Lựu là một cô gái hiền lành, nết na lại giỏi giang nhưng vì cuộc sống nghèo

khó, vì không có quyền lực nên đã bị cậu Hai Nghĩa dụ dỗ. Vẫn tưởng cuộc đời cô sẽ đầy

rẫy những bất hạnh, tủi nhục khi làm thân con gái đã bị thất tiết mà lại có con khi chưa có

chồng. Nhưng Hương sư Cu, người yêu thầm cô Tư Lựu từ rất lâu vẫn chấp nhận cưới

cô: “Sao lại không cưới. . . Tôi nói thiệt với anh Hai chị Hai, nếu cô Tư ưng tôi thì tôi

cưới liền” [21, 12] và xem con của cô như con của mình: “Con của cổ là con của tôi.

Người ta bỏ tôi nuôi. Thằng nhỏ không có cha, tôi lãnh tôi làm cha” [21, 14]. Tưởng

rằng đó chỉ là sự cao thượng nhất thời của một tình yêu thầm kín từ rất lâu nhưng khi trở

thành vợ của Hương sư Cu thì cả Tư Lựu và gia đình của cô luôn đầm ấm, thuận hoà và

vang tiếng cười. Sau này khi cuộc sống trở nên khá giả thì Hương sư Cu lại càng yêu

thương cô Tư Lựu hơn. Điều đó cho thấy rằng nếu đã là tình yêu đích thực, nếu con

người một lòng hướng đến nhau, không chấp nhặt những chuyện của quá khứ thì dù khi

khó khăn, nghèo khổ hay lúc giàu sang, có địa vị con người vẫn sẽ một lòng xem trọng và

yêu thương nhau. Ngay cả khi Tư Lựu không còn giữ được sự trong trắng của người phụ

nữ thì Hương sư Cu vẫn không chút mỉa mai, xem thường mà luôn tỏ ra cảm thông chia

sẻ với những tủi nhục mà cô phải chịu đựng. Mối quan hệ của họ không còn gọi là tình

yêu nữa mà cao hơn đó là tình nghĩa. Hương sư Cu đối với cô Tư Lựu luôn có tình – tình

cảm ấp ủ từ rất lâu và cô Tư Lựu mang ơn của Hương sư Cu – người đã giúp cô thoát ra

khỏi vũng bùn đen tối, cứu vớt danh giá và cưu mang hai mẹ con cô. Không còn những lo

lắng của cuộc sống nghèo khổ cũng không còn những mất mát, tủi nhục của quá khứ, giờ

đây cuộc sống vợ chồng của họ luôn chứa đựng những hạnh phúc dù nhỏ bé nhưng làm

họ ấm lòng vì họ luôn biết yêu thương, kính trọng lẫn nhau và đặc biệt họ luôn giữ trọn

đạo làm vợ, làm chồng trong gia đình.

Không chỉ dừng lại đó, Hồ Biểu Chánh còn cho người đọc thấy được một gia đình

hạnh phúc với cuộc sống vợ chồng thật mặn nồng, sâu sắc trong tình cảm qua tiểu thuyết

Ai làm được. Người đọc sẽ cảm thấy trân trọng trước tình cảm yêu thương, gắn bó với

nhau trong mọi hoàn cảnh của Bạch Tuyết và Chí Đại dù họ không nhận được sự chấp

thuận của cha mẹ Bạch Tuyết. Bạch Tuyết vì không muốn bị ép gả và để bảo vệ danh giá

44

của mình đã bỏ trốn lên Sài Gòn, thân gái một mình nơi đất khách. Chí Đại, chàng trai tốt

bụng khi ấy đã sẵn sàng chấp nhận giúp đỡ, cưu mang để bảo vệ danh giá cho Bạch

Tuyết. Chí Đại và Bạch Tuyết trong hoàn cảnh ấy đã trở thành vợ chồng nhưng chính

nhờ cuộc sống khó khăn như thế mà tình cảm của họ càng sâu sắc, gắn bó, thuỷ chung.

Hai vợ chồng luôn đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ với nhau những khó khăn trong cuộc

sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Yêu nhau từ trong gian nan, khó khăn nên Bạch Tuyết

rất yêu thương chồng. Càng yêu chồng cô càng không muốn Chí Đại phải mặc cảm về

thân phận nghèo hèn của mình nên đã từ bỏ tất cả kể cả thân phận một tiểu thư con nhà

giàu có mà cùng chồng xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc bằng cách làm những

công việc nặng nhọc để san sẻ với chồng mình: “Xin anh đừng ngại chi hết, bất luận

sang hèn, anh coi chỗ nào làm được thì anh xin mà làm, miễn là có chỗ dung thân, rồi em

sẽ đi may mướn vá thuê với anh kiếm tiền mà độ nhựt” [5, 28]. Cuộc sống dù khó khăn,

dù vất vả và thiếu thốn trăm bề nhưng lại luôn đầy ấp tiếng cười và hạnh phúc vì hai vợ

chồng luôn đồng tâm hiệp lực, san sẻ những đắng cay, khổ cực cùng nhau. Hiểu được

tấm lòng của vợ mình, Chí Đại càng yêu Bạch Tuyết sâu sắc hơn. Người chồng ấy luôn

quan tâm, lo lắng cho vợ còn hơn cả bản thân mình, chấp nhận hy sinh, chịu mọi khổ cực,

vất vả kể cả việc vác mướn – cái nghề mà mọi người trong xã hội đều cho là hèn hạ với

mong muốn tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc, sung túc cho Bạch Tuyết. Những tình

cảm chân thành, đầm thắm ấy được bộc lộ qua những lời nói chân tình của Chí Đại:

“Qua buồn là buồn cho phận em, vì qua mà phải chịu cực khổ đến nước nầy, nên qua

thấy em qua đau lòng xót dạ hết sức” [5, 34]. Vì không muốn Bạch Tuyết phải chịu cuộc

sống nghèo khó nên dù rất thương rất nhớ nhưng Chí Đại đành chấp nhận rời xa vợ mình:

“Qua đã suy xét kĩ rồi, nên qua tính như vầy: em để qua đưa em về dưới ông ngoại em ở

cho an thân. Còn phần qua thì ráng làm ăn chừng nào khá rồi vợ chồng sẽ tái hiệp với

nhau, chớ qua nghèo khổ mà em theo qua hoài, thì tội nghiệp thân em lắm, qua không

chịu được” [5, 34]. Trong hoàn cảnh nghèo khó ấy, tình cảm vợ chồng của Chí Đại và

Bạch Tuyết càng mặn nồng, sắt son hơn. Hiểu được tâm ý của chồng mình nhưng Bạch

Tuyết vì quá yêu chồng nên không chấp nhận rời xa chồng mình mà một lòng muốn cùng

Chí Đại gánh vác, chia sẻ mọi khổ cực: “Nay cháu muốn về mang hủ hỉ với ông nhưng

45

mà có về thì về cho đủ vợ đủ chồng, chớ đạo vợ chồng phú tắc cộng lạc, bần tắc cộng ưu,

lẽ nào cháu về vui hưởng thanh nhàn, còn để chồng cháu dày bừa gió bụi cho đành” [5,

42]. Đúng như tục ngữ có câu: “Đồng vợ đồng chồng, tát biển đông cũng cạn”, tình yêu

thương thắm thiết, sự chia sớt ngọt bùi, thuận vợ thuận chồng đã giúp cho Chí Đại và

Bạch Tuyết vượt qua mọi rào cản, sóng gió của cuộc đời. Chính tình cảm vợ chồng cao

quý ấy đã giúp cho Chí Đại có niềm tin và động lực bôn ba ở nơi xứ người với một mục

đích duy nhất là đem lại cuộc sống đầy đủ, sung sướng cho Bạch Tuyết bằng khả năng

của mình. Và Bạch Tuyết, người vợ hiền ngoan đã luôn thấu hiểu được tâm tư của chồng,

luôn nhớ thương Chí Đại với sự lo lắng, trong mong đến phải lâm bệnh. Vuợt qua mọi

thử thách, thăng trầm của cuộc sống, cuối cùng Chí Đại và Bạch Tuyết đã tìm được hạnh

phúc trọn vẹn cho mình và điều đó làm người đọc vững tin hơn vào tình cảm vợ chồng

sâu sắc, bền vững trong xã hội kim tiền.

Ngoài ra, người đọc còn sẽ thực sự xúc động khi được chứng kiến tình cảm tốt

đẹp, thuỷ chung của Phi Phụng và Duy Linh trong tiểu thuyết Nhân tình ấm lạnh hoặc

cảm phục và quý trọng nàng Lý Ánh Nguyệt dầu bị Hải Yến phụ tình nhưng vẫn quyết ở

vậy mà nuôi con không nghĩ đến việc tìm một người chồng khác, nhất quyết giữ gìn

phẩm chất tiết hạnh cuả mình đến cùng. Và viết về đề tài gia đình – tình cảm vợ chồng

Hồ Biểu Chánh còn muốn chứng tỏ cho người đọc thấy quan niệm mới mẻ của ông về

tình cảm vợ chồng: vợ chồng vẫn có thể thương nhau mặc dầu không yêu nhau trước

bằng sự gặp gỡ của ba nhân vật Quảng Giao – Bác Ái – Xuân Hoa trong tiểu thuyết Một

chữ tình. Bên cạnh đó, Hồ Biểu Chánh còn cho rằng sự cương trực, ngay thẳng có thể

cảm hoá con người và giá trị con người không nằm ở tiền tài địa vị mà ở nhân cách. Điều

đó đã đem đến một tình yêu nảy nở thực sự giữa Kỳ Tâm và Yến Tuyết trong tiểu thuyết

Tỉnh mộng. Thật vậy, viết về đề tài tình cảm vợ chồng trong gia đình, Hồ Biểu Chánh đã

có cái nhìn thật sâu sắc và toàn diện về nhiều mặt trong tâm lí, tính cách của con người

Nam bộ để từ đó phát hiện những vẻ đẹp chân chất, hiền lành và thấm đẫm nghĩa tình của

con người nơi đây. Và đây là một nét đặc biệt đã giúp cho tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh

ngày càng gần gũi và sống mãi trong lòng người đọc.

Qua các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những hình ảnh tốt đẹp về

46

tình cảm gia đình trong xã hội Nam bộ. Nhà văn khẳng định cuộc sống gia đình có hạnh

phúc, có hoà thuận chính là nhờ vào sự cảm thông, chia sẻ và nhất là khi con người luôn

biết giữ trọn đạo tào khang, trọn đạo hiếu nghĩa. Thông qua những tình cảm chân thành,

cao đẹp đó, ông thể hiện sự tin tưởng vào các giá trị truyền thống của gia đình. Qua đó,

chúng ta nhận thấy rằng tình cảm của con người thật cao đẹp, thiêng liêng biết mấy nhất

là tình cảm gia đình bao gồm các mối quan hệ: cha mẹ - con cái, ông cháu, anh em, vợ

chồng. Chính những tình cảm chân thành, thắm thiết đã tạo nên sự gắn bó bền chặt, sâu

sắc giữa những thành viên trong gia đình với nhau. Nó giúp con người vượt qua những

khó khăn trong cuộc sống, làm con người cảm thấy hạnh phúc và quan trọng hơn hết nó

giúp con người vững tin và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

2.2. Tình người trong cuộc sống Vào những năm đầu thế kỉ XX, xã hội, văn hoá Việt Nam bước bào thời kì khủng

hoàng trầm trọng khi chịu sự tác động mạnh mẽ của lối sống phương Tây. Nền văn hoá

phương Đông truyền thống giao thoa với sự du nhập của một nền văn hoá mới đã tạo nên

những biến động dữ dội ở nước ta. Kéo theo đó, hàng loạt những quan niệm, các tư tưởng

vốn bền vững trong xã hội Việt Nam bị lung lay dần cùng những giá trị truyền thống tốt

đẹp của dân tộc cũng có nguy cơ mai một trước vòng xoáy của nền kinh tế thị trường.

Đồng tiền lên ngôi đã len lỏi vào mọi ngóc ngách sâu kín nhất trong tình cảm của con

người. Sức mạnh của đồng tiền đã có sự ảnh hưởng rất to lớn đến đời sống xã hội Việt

Nam. Vẫn tưởng con người trong xã hội xem đồng tiền là phương tiện để vụ lợi, tìm kiếm

hạnh phúc quyền lực. Nhưng đọc tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, người đọc vững tin vào

sự lương thiện, vào những tình cảm tốt đẹp của con người. Xã hội và con người Nam bộ

qua đôi mắt của Hồ Biểu Chánh vẫn tồn tại những giá trị tốt đẹp, giàu ân tình, thấm

đượm nghĩa thuỷ chung. Con người Nam bộ vẫn đối xử với nhau bằng cái tình, cái nghĩa

chân chất, thiệt thà.

Thật vậy, thông qua tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, Hồ Biểu Chánh đã viết nên

những tình cảm tốt đẹp trong mối quan hệ của con người. Đây không phải là mối quan hệ

gia đình ruột thịt mà là những con người xa lạ nhưng đối xử với nhau rất chân thành, đậm

tình đời tình người. Trong hoàn cảnh khó khăn như Ba Thời, việc nhặt một đứa bé về

47

nuôi là điều quá sức tưởng tượng nhưng bằng lòng trắc ẩn, người đàn bà bao dung ấy đã

thu nhận đứa bé với tất cả tình thương của mình dù đã bị chú Tích can ngăn: “Người ta

bỏ mình xí được thì mình nuôi, như họ có biết, họ đến đòi thì mình trả, chớ có tội gì... Ý!

Mà tôi nghi có lẽ khi con gái nhà giàu chửa hoang đẻ lạnh, sợ để nuôi xấu hổ, nên họ

đem đi bỏ đây chớ gì. Tôi tưởng tôi nuôi được mà, có sao đâu mà sợ” [7, 5]. Bấp chấp

mọi can ngăn, từ những con người không cùng huyết thống Ba Thời nhặt thằng Được về

nuôi, yêu thương chăm sóc như con ruột rồi tình mẫu tử từ đấy nảy nở thật thiêng liêng

cao quý. Họ xem nhau như mẹ con, Ba Thời thương thằng Được bằng tất cả tình thương

của một người mẹ dành cho con mình. Khi bị người chồng bắt ép phải xa lìa thằng Được,

lòng của người mẹ đau như dao cắt: “Thuở nay mẹ không muốn nói chuyện đó cho con

nghe là vì mẹ nghĩ con nghe con buồn chớ không có ích chi, bởi vì mẹ thương con nên

dốc lòng nuôi con như con của mẹ đẻ vậy, nếu nói ra sợ con bớt thương mẹ rồi lại sợ con

nói bậy nói bạ, cha mẹ ruột có hay đến mà nhìn con thì mẹ con ta còn ai đâu mà hủ hỉ.

Nay mẹ nói ra đây là tại việc tình cờ làm cho con đã rõ biết ngọn ngành rồi, nên mẹ

không lẽ còn giấu con nữa được. Tuy vậy mà mẹ khuyên con chớ nên buồn, ví dầu thế

nào mẹ cũng thương con, dầu ngày sau con khôn lớn có tìm được cha mẹ ruột rồi con

phụ bạc mẹ đi nữa, mẹ cũng cam tâm chớ không khi nào phiền trách” [7, 24]. Tình cảm

ấy lúc ban đầu là tình cảm xuất phát từ tâm tính lương thiện, từ lòng nhân ái của con

người sau đó nó trở thành tình cảm chân thành, tha thiết của một người mẹ dành cho con

mình. Thật may mắn thay, thằng Được cũng rất yêu thương Ba Thời, người đã cưu mang,

tạo nên một cuộc đời mới cho nó, là người mẹ đã yêu thương nó hết lòng. Người đọc thật

sự đã rất xúc động, nghẹn ngào khi nghe lời cầu xin của một đứa bé sợ phải sống xa mẹ:

“Má đừng có đuổi tôi đi nghe hôn má. Tôi thương má lắm, để tôi ở với, đừng đuổi tôi tội

nghiệp” [7, 26]. Sau này, khi đã tìm được mẹ ruột của mình và có một cuộc sống giàu

sang, thằng Được vẫn không quên người mẹ đã từng cưu mang nó như lời nó đã từng nói

với Ba Thời lúc trước: “Thôi má đừng có buồn, đừng có khóc nữa. Tía có bán con thì để

tía bán đặng con đi phứt cho rồi, chớ má cản trở để con ở lại đây tía rầy rà hoài tội

nghiệp má lắm. Không có sao đâu má sợ! Con đi rồi chừng con khôn lớn con làm ăn có

48

tiền nhiều con trở về con cho má, con không quên má đâu”[7, 28]. Đó là một điều đáng

quý, đáng trân trọng trong đời sống tình cảm của con người. Nó làm con người vững tin

hơn vào lòng tốt, vào tình người trong cuộc sống mà đồng tiền đang lên ngôi.

Trong tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, Hồ Biểu Chánh còn ghi lại những hình ảnh

tốt đẹp về cách đối nhân xử thế giữa con người với con người. Thầy Đàng dù cuộc sống

nghèo khó, bữa cơm đủ ăn nhưng vẫn cưu mang thằng Được và con Liên, dạy dỗ hai đứa

nên người. Cuộc sống mưu sinh của ba thầy trò có gian nan, vất vả nhưng họ vẫn tìm

được niềm vui trong cuộc sống. Thầy Đàng còn là người sống nghĩa tình, thấy chuyện bất

bình thì ra tay cứu giúp chẳng ngại đến thân mình. Thầy bất bình khi thấy tên bếp xét

giấy thuế thân đánh đập những người dân nghèo mà phải vào tù mười lăm ngày: “Mầy

ngang quá! Mầy có phép nào mà được đánh người ta. Như người ta có tội thì bắt giải

người ta đến tòa bố hoặc tòa án cho quan phân xử, chớ sao mầy được gióc[3] roi trên

đầu người ta vậy?” [7, 31]. Hay bà Hội đồng Nhàn là người phụ nữ giàu sang có tấm

lòng nhân ái khi sẵn sàng nhận nuôi, dạy dỗ những đứa trẻ cơ nhở như con Liên, thằng

Bĩ, bà còn nhân đức tha thứ lỗi lầm cho em chồng và Thị Sảnh. Khi biết Ba Thời là người

có ơn nuôi dưỡng con mình thì bà đền ơn. Thầy Xếp ga trong tiểu thuyết Cay đắng mùi

đời cũng là người giàu lòng nhân hậu khi hết lòng yêu thương, giúp đỡ thằng Được, lo

chôn cất cho thầy Đàng, đưa thằng Được vào nhà trường, thường xuyên đến thăm nom và

còn cho nó một vé xe lửa với một đồng bạc làm lộ phí đi đường. Tất cả những con người

ấy đã làm cho chúng ta hiểu rõ thế nào là nhân tình thế cố, thương xót cho cuộc đời của

những đứa con hoang và cái tình người tình đời đẹp đẽ vẫn còn đó đồng thời còn nêu lên

đạo lí nhân ái ở đời.

Con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh tin vào luật nhân quả, vào

quan niệm thiện thắng ác. Họ dám hành động vì những điều mà mình cho là đúng đắn, có

khi chấp nhận hy sinh cả những quyền lợi cá nhân chỉ để giúp đỡ mọi người. Trong tiểu

thuyết “Chúa tàu Kim Quy”, người đọc sẽ hết sức thán phục với nhân vật Kỉnh Chi về

những nghĩa cử cao đẹp của chàng. Kỉnh Chi là một chàng trai rất trọng lời hứa và giàu

lòng nhân ái. Chàng xem gia đình vợ như những người thân của mình dù chưa được

chính thức cưới hỏi. Khi hay tin mẹ vợ bệnh nặng, chàng lật đật lên thăm còn định rước

49

cả thầy thuốc lên chữa bệnh cho mẹ vợ. Hay lúc biết tin vợ bị cưỡng bức thì Kỉnh Chi

không hề khinh miệt hay tỏ ý xa lánh, hất hủi mà trái lại còn thông cảm, chia sẻ với hoàn

cảnh của nàng. Người đọc sẽ thật sự thán phục tấm lòng của Kỉnh Chi khi nghe lời tâm

sự của anh với Thủ Nghĩa: “Vợ em nó bị cưỡng bức ấy là điều tai bay hoạ gởi chớ phải

nó muốn như vậy hay sao mà em chê, em không cưới” [6, 19]. Và đây cũng là một con

người trọng chữ tình, trọng đạo nghĩa khi chỉ vì một lời hứa hôn mà Kỉnh chi có trách

nhiệm với gia đình nhà vợ. Kỉnh Chi đã chẳng than oán một lời nào mà lo thuốc thang,

chôn cất cho mẹ vợ và vợ chẳng may đau ốm qua đời khi anh vợ bị vu oan mắc tội chung

thân bỏ lại mẹ già và em gái. Chàng còn cưu mang, dạy dỗ thằng Phục nên người. Cũng

vì nhân nghĩa để rồi đến nỗi nghèo thêm lại nghèo, chàng phải bán nhà để trả nợ rồi đi

chèo ghe mướn mà sống qua ngày. Đến khi cuộc sống đỡ vất vả, Kỉnh Chi liền nghĩ ngay

đến việc làm mồ mả cho hai bên gia đình vì cho rằng: “…Ở đời nhân nghĩa là hơn, chớ

bạc vàng quyền thế mà làm gì…” [6, 198]. Thử hỏi, con người như thế có đáng trân trọng

hay không và liệu trong cuộc sống hiện đại ngày nay có còn được mấy người mang

những nghĩa cử cao đẹp như thế?

Hay trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh, ông miêu tả Lê Văn

Đó với những hành động của một nhà từ thiện giàu lòng từ tâm sau khi được giác ngộ tư

tưởng Phật giáo qua tấm lòng từ bi của Hoà Thượng Chánh Tâm nên đã quyết định làm

lại cuộc đời bằng những công việc “thi ân bố đức”. Hễ “những dân nghèo bất luận già

trẻ hễ đến than nghèo thì Chánh Tâm làm cho no cơm ấm áo hết thảy” [14, 244]. Ông

sẵn sàng bỏ tiền xây cất nhà dãy ngang dãy dọc “chỗ thì để dạy trẻ nhỏ học, chỗ thì nuôi

con nít mồ côi, chỗ thì để nuôi người già yếu” [14, 246]. Ông còn cho mời thầy nho đến

dạy học cho lũ trẻ không biết chữ và với những người bệnh tật, trẻ mồ côi thì cho mời

danh y chữa bệnh và tìm người để chăm sóc. Để đảm bảo cuộc sống bình yên cho người

dân, suốt 3 năm, Chánh Tâm nuôi mấy ngàn quân của triều đình để dẹp loạn. Có thể nói,

nhờ tình người trong cuộc sống đã giúp cho Lê Văn Đó nhìn thấy được ánh sáng của cuộc

sống, tìm thấy được sự lương thiện trong tâm tính của mình. Thế nên, ông quan niệm

phải đem lòng tốt, tình người ấy mà phân phát khắp nơi: “Ngày trước mình nghèo đói có

lẽ ngày nay cũng còn những người khác nghèo như mình. Vì ngày trước không có ai hảo

50

tâm cứu giúp nên thân mình mới lọt vào vòng khốn khổ…Ngày nay mình có tiền dư, có

lúa sẵn, nếu mình dùng tiền và lúa ấy mà cứu kẻ bần hàn cho khỏi có những Lê Văn Đó

nữa, há chẳng phải tốt đẹp hay sao” [14, 245].

Tóm lại, thông qua các tác phẩm của mình, Hồ Biểu chánh tập trung vào hai chủ

đề lớn đó là đạo lí truyền thống và mối quan hệ gia đình. Dù là đạo lí truyền thống hay

mối quan hệ gia đình, ông đều tập trung phản ánh hiện thực xã hội và đời sống con người

để thông qua đó cho mọi người thấy mối liên hệ về tình người trong cuộc sống này dù là

ruột rà tình thân hay những người xa lạ. Niềm tin và sự khẳng định giá trị bất biến của

luân lí, truyền thống đạo đức của Hồ Biểu Chánh hoàn toàn có cơ sở vững chắc chứ

không chỉ là những ước mơ không tưởng, chỉ có trong tiểu thuyết viết theo kiểu luận đề

về luân lí. Thật vậy, hiện thực cuộc sống luôn tồn tại hai mặt: cũ – mới, xấu – tốt, hay –

dở. Cái cũ cũng như cái mới đều có những cái hay, dở riêng của nó cũng như con người

không ai là hoàn hảo, sẽ có người xấu và người tốt. Điều quan trọng là mỗi người cần có

ý thức, sống có trách nhiệm với chính mình, với xã hội, cộng đồng. Cuộc sống chỉ thật sự

phát triển tốt đẹp khi nền đạo đức, luân lí được giữ gìn và phát huy những giá trị vốn có

của nó một cách tối đa. Vì thế, Hồ Biểu Chánh khẳng định con người sống cần phải biết

trọng đạo nghĩa và nhất là cần nuôi dưỡng lòng từ tâm, tình cảm nhân ái giữa con người

với con người. Đó là chất keo kết dính, là thứ thuốc thần kì chữa lành mọi vết thương

trong tâm hồn của con người, lấp đầy những thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần của

con người trong thời đại đồng tiền đang lên ngôi và làm mất đi những giá trị truyền thống

cao đẹp trong nhân cách, lối sống của con người, xã hội Nam bộ nói riêng và hiện thực

51

đất nước Việt Nam nói chung.

CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỮ “TÌNH” TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

3.1. Cốt truyện

Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà chỉ tồn

tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, truyện

thơ, kí,…) và các tác phẩm kịch. Trong một số tác phẩm thuộc loại kí, không có yêu cầu

xây dựng cốt truyện một cách chặt chẽ. Loại tác phẩm trữ tình không có yếu tố cốt truyện

vì tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, tình cảm, ý nghĩ cảm xúc của

tác giả. Cốt truyện không đòi hỏi nhà văn phải xây dựng những sự kiện, biến cố, hành

động thành một hệ thống liên tục làm cơ sở cho sự triển khai các tính cách. Nói cách

khác, cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm

tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn

cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Cả cuộc đời tận hiến cho văn chương dân tộc, Hồ Biểu Chánh đã để lại một khối

lượng sáng tác khá đồ sộ trong số đó phải kể đến 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn tiêu

biểu cho phong cách văn chương của ông. Và sở dĩ nói Hồ Biểu Chánh là người mở

đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại bởi vì hành trình sáng tác văn xuôi của ông rất

điển hình cho hành trình sáng tạo văn xuôi chữ quốc ngữ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,

con đường văn chương đi từ dịch thuật sang mô phỏng rồi sáng tác. Như đã nói, Hồ Biểu

Chánh là nhà văn có sự giao thoa giữa văn học phương Đông truyền thống và văn học

hiện đại của phương Tây thế nên có khá nhiều tiểu thuyết của ông ở giai đoạn 30 năm

đầu thế kỉ XX được phóng tác từ các tác phẩm nổi tiếng của văn học Pháp như Ngọn cỏ

gió đùa phỏng theo Những người khốn khổ của Victor Hugo, Cay đắng mùi đời phỏng

theo Không gia đình của Hector Malot, Chút phận linh đinh phỏng theo Trong gia đình

của Hector Malot, Chúa tàu Kim Quy phỏng theo Bá tước Mônggiê – Crixtô của

A.Duyma. Tuy nhiên, trong quá trình mô phỏng, Hồ Biểu Chánh đã có ý thức thay đổi

cốt truyện cho phù hợp với văn hoá và con người Việt Nam, đặc biệt là thật gần gũi với

52

văn hoá và con người Nam bộ, nhà văn không chỉ chỉ ra các tình tiết mà còn biết trang

trải ra các chương, dàn xếp cho có thắt nút có giải kết, cho trước sau hồi cố, giữ lấy cái vẻ

thật, đem cả sự thật ở xã hội xung quanh vào tác phẩm.

Văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng như con người của ông luôn mang những

giá trị đặc sắc tốt đẹp của dân tộc, hướng về cội nguồn với những nét đẹp trong đạo đức,

luân lí, văn hoá truyền thống của con người Việt Nam. Mô phỏng từ các tác phẩm nổi

tiếng của văn học phương Tây nhưng cốt truyện mà Hồ Biểu Chánh xây dựng trong các

tác phẩm của mình lại mang tính dân tộc sâu sắc. Cốt truyện trong tiểu thuyết của Hồ

Biểu Chánh mang tính hiện thực sống động, sâu sắc khi phản ánh được đời sống văn hoá

xã hội Việt Nam, nhất là vùng đất Nam bộ những năm đầu thế kỉ XX. Đó là hiện thực đời

sống bị xáo trộn từ thành thị đến nông thôn do lối sống tư sản mang lại. Một cuộc sống

mà con người bị mất hút trong nhịp điệu khẩn trương hối hả của sức mạnh đồng tiền, của

tâm lí làm giàu, của sự háo hức bon chen trên con đường tư sản hoá. Con người ngủ quên

trong lối sống đó và dần bộc lộ những mặt xấu xa, những lối sống sai trái: cướp đoạt, lừa

phỉnh, đầu cơ trục lợi, mua danh bán tước như trong tác phẩm Tỉnh mộng Trường Xuân

tham giàu chấp nhận lấy người vợ xấu xí, Tri phủ Bạc Liêu, Bá hộ Siêu và Hội đồng Lâm

Yên trong Nhân tình ấm lạnh đều muốn kết thông gia với Huyện hàm Tú Phan giàu có

mà chỉ có một mụn con gái hay trong tiểu thuyết Thầy Thông ngôn, vợ chồng Hương sư

Sắc luôn khuyên con phải lấy vợ giàu. Ngoài ra còn một số những hệ luỵ từ lối sống tư

sản đã thâm nhập vào đời sống xã hội Nam bộ nói riêng và cả nước Việt Nam nói chung

như hám của, phụ nghĩa vợ chồng, gia đình ly tán trong Cha con nghĩa nặng hay cậu Hai

Nghĩa ăn chơi phóng túng xa hoa trác táng, làm mất đi sự trong trắng của đời con gái cô

Tư Lựu nhưng lại phủi tay rũ bỏ trách nhiệm trong Con nhà nghèo. Xây dựng cốt truyện,

Hồ Biểu Chánh mạnh dạn sử dụng những hiện tượng xã hội vượt qua những khuôn khổ

đạo lí thông thường làm chất liệu chính cho tiểu thuyết hay dựng nên những tình huống li

kì, hấp dẫn bằng việc đưa các nhân vật của mình vào những đam mê, lầm lỡ, cho thói mê

nết xấu lôi cuốn họ vào bao sự rắc rối để rồi nhân vật bộc lộ tính cách, thể hiện bản thân.

Đó chính là nét sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Hồ Biểu

53

Chánh.

Ngoài ra, ở mỗi tác phẩm, Hồ Biểu Chánh đều cố gắng xây dựng những tình

huống gây cấn, hấp dẫn. Tiểu thuyết của ông thường có án mạng, chết chóc thê thảm

nhưng ông lại thường hay thêm vào những câu chuyện phiêu lưu, nhất là những trường

hợp “ấu thơ lưu lạc niên thiếu phong trần”, khéo léo khai thác những trớ trêu số mạng,

những tao ngộ của cuộc đời dệt nên một chuỗi những biến cố ly kì để từ đó con người

trong tác phẩm bộc lộ cái tình người trong cuộc đời. Ở tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, đó

là một hành trình cuộc đời đầy sóng gió của thằng Được từ nhỏ đã bị đánh tráo rồi lưu lạc

khắp nơi kiếm sống, trải qua bao nhiêu tai biến mới gặp lại được mẹ ruột của mình là bà

Hội đồng Nhàn và được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Hay ở tiểu thuyết Cha con

nghĩa nặng đó là sự chọn lựa giữa tình thương con và hạnh phúc của con, hay hạnh phúc

của con và tình con thương cha. Thông qua những tình huống đó mà con người sẽ đấu

tranh để lựa chọn cho mình một lối đi, từ đó nhân vật sẽ nói lên tính cách đồng thời thể

hiện được nội dung tư tưởng đạo lí của tác phẩm.

Một đặc điểm cần phải chú ý nữa là cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tiểu thuyết Tàu, tác phẩm tự sự trong văn học Việt Nam thời

trung đại theo mô hình “gia biến – lưu lạc – đoàn viên”, có cả những truyện có án mạng

thê thảm đi vào tang tóc u sầu rồi cũng thoát ra bằng một lối giải đẹp đẽ, kẻ ác phải tội,

người thiện được phúc, người ta tha thứ hoặc người ta tỉnh ngộ rồi sum họp đoàn viên.

Điều này còn cho thấy Hồ Biểu Chánh dụng tâm xây dựng cốt truyện đạo lí bởi lẽ cư dân

Nam bộ vốn coi trọng đạo lí từ xưa đến nay và bản thân Hồ Biểu Chánh cũng thuộc lớp

cựu nho tiến bộ đang mở rộng tầm nhìn hoà nhập vào cuộc sống mới. Vốn mang quan

niệm, chủ trương “văn dĩ tải đạo”, xem sáng tác văn chương là để nhằm giữ gìn đạo lí

dân tộc, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm đến truyền thống gia đình khi đề cao đạo lí.

Có thể dễ dàng nhận thấy cốt truyện trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh xoay quanh về

những vấn đề gia đình: đạo nghĩa thuỷ chung của vợ chồng, sự hiếu kính của con cái với

cha mẹ, ông bà. Ông khẳng đinh, một khi con người không giữ được những đạo lí cơ bản

đó thì hạnh phúc gia đình sụp đổ là điều hiển nhiên, tiêu biểu như tiểu thuyết Cha con

nghĩa nặng, Thị Lựu – người vợ, người mẹ không biết giữ đạo chung thuỷ với chồng, con

54

mà làm tan rã cả một gia đình, khiến cho gia đình không thể sống cùng nhau, cha con

chia lìa nhưng đáng trân trọng thay khi thằng Tý và con Quyên vẫn yêu thương và kính

trọng cha mình dù Trần Văn Sửu đã vô tình giết chết mẹ nó. Còn ngoài xã hội, bao trùm

lên xã hội thì đạo lý chính là cái nghĩa. Có nhiều cốt truyện trong tác phẩm Hồ Biểu

Chánh bàn về cái nghĩa. Đó là cái nghĩa ở đời chứ không phải bạc vàng phù du trong Tiền

bạc bạc tiền hay thấy việc đúng thì phải ra tay dù là hy sinh cả tính mạng của bản thân

như Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa hoặc khuyên con người phải biết thông cảm, chia

sẻ với những người khốn khổ như bà Hương quản Tồn trong Cha con nghĩa nặng. Qua

các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, có thể thấy, một trong những biểu hiện của cốt truyện

đạo lí chính là kết thúc truyện thường có hậu theo quan niệm dân gian “ở hiền gặp lành”,

“ác giả ác báo” như trong Ai làm được, cuối cùng Chí Đại và Bạch Tuyết đoàn tụ, có

cuộc sống hạnh phúc hay trong Chút phận linh đinh vượt qua bao gian nan, thử thách,

ông Hội đồng Đạt chấp nhận hai mẹ con Thu Vân và họ có sống hạnh phúc viên

mãn,…Xây dựng các tình tiết, sắp xếp các sự kiện như thế Hồ Biểu Chánh muốn đề cao

giá trị răn dạy đạo lí ở đời nhưng cái hay của ông chính là nói đạo lí nhưng đi kèm với

nói chuyện đời nên được phần lớn độc giả dễ dàng tiếp nhận và ưa chuộng thưởng thức.

Cốt truyện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỉ mang tính hiện

thực sâu sắc. Tất cả những khung cảnh, chất liệu, sự việc trong tiểu thuyết của ông hầu

hết đều lấy miền Nam, từ thành thị đến nông thôn, diễn ra khắp các tỉnh Nam Kỳ, đến tận

đảo Kim Quy, Phú Quốc cả miền Bắc như Một chữ tình, Chút phận linh đinh hoặc sang

tận Trung Hoa như Chúa tàu Kim Quy song phần lớn các việc đều xảy ra ở miền Nam.

Chính trong bối cảnh xã hội miền Nam, ông đã quan sát, ghi nhận những phong tục dần

đổi mới ở miền Nam, những tấn trò đời để lựa chọn đề tài và chất liệu xây dựng các tác

phẩm. Mặc dù nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Hồ Biểu Chánh có những đặc sắc

riêng nhưng cũng không thể phủ nhận những hạn chế của ông. Nếu xem xét kĩ có thể thấy

cốt truyện của Hồ Biểu Chánh thường diễn biến theo cảm tính chủ quan của tác giả và do

cốt truyện chủ yếu mang tính răn dạy dạo lí với lối kết thúc có hậu vẫn chưa thực sự thoát

khỏi mô hình truyện Nôm trung đại với ba phần: gặp gỡ - gia biến, lưu lạc – đoàn tụ. Thế

55

nên, cốt truyện của Hồ Biểu Chánh chưa hấp dẫn vì người đọc có thể dễ dàng dự đoán

được kết thúc cho các nhân vật. Thật vậy, những hạn chế này ít nhiều đã làm giảm đi tính

hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh.

3.2. Nghệ thuật kết cấu

Kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Trên một mức độ lớn,

có thể nói sáng tác tức là kết cấu. Nhiệm vụ của một nhà văn là nhào nặn vốn sống để xây

dựng thành những sinh mệnh nghệ thuật – tái hiện những bức tranh đời sống giàu tính

khái quát, nghĩa là phải tổ chức lại chất liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển

thêm cái chưa có, nối liền cái xa nhau, tạo thành một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật.

Điều đặc biệt quan trọng đó chính là kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung

cuộc sống và tư tưởng tác phẩm.

3.2.1. Kết cấu trần thuật

Tiểu thuyết được xem là một thể loại lớn tiêu biểu cho loại hình tự sự, “cỗ máy

cái” của nền văn học hiện đại. Với đặc trưng thi pháp của mình, bằng kết cấu trần thuật,

tiểu thuyết chiếm lĩnh và khái quát hiện thực cuộc sống một cách đa chiều và phong phú.

Kết cấu trần thuật thường được xem là bố cục, là kết cấu bề mặt bao gồm sự sắp

xếp, phân bố các phần của nội dung vào chương, hồi, tiết, đoạn, màn, lớp trong tác phẩm.

Xét theo kết cấu bề mặt, tiểu thuyết thường được chia thành nhiều chương. Và kết cấu

chương hồi là loại kết cấu chính thống được các tiểu thuyết gia Trung Quốc thời kì trung

đại ưa chuộng đã tạo nên những bộ tiểu thuyết đồ sộ hấp dẫn người đọc qua nhiều thế kỉ

như: Tam quốc chí, Phong Thần,Phong kiếm xuân thu,…Kết cấu chương hồi được Hồ

Biểu Chánh đặc biệt quan tâm: “ Thoạt tiên, ông sắp xếp sơ lược cốt truyện trong trí và

suy nghĩ coi đoạn nào cần phải tả dài, đoạn nào chỉ nên nói phớt qua, đặt tên, định tuổi

cho nhân vật, năm và chỗ nhân vật hành động. Sau đó, ông phân đoạn rành rẽ lên giấy

và định tính tình, tâm hồn mỗi vai” [23, 239]. Kết cấu chương hồi được Hồ Biểu Chánh

sử dụng như một sự kế thừa tinh hoa của nền văn học trung đại nhằm mục đích khai nhãn

và thoả mãn thị hiếu của người đọc. Mỗi tác phẩm là một đứa con tinh thần của nhà văn,

là trí tuệ, tinh hoa của người viết. Với mỗi tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh thường chia ra

thành nhiều chương, trong mỗi chương có nhiều hồi, mỗi hồi nói lên diễn biến hoặc kết

56

quả của một hành động, sự việc, mở đầu mỗi hồi thường có hai câu thơ đề dẫn tóm tắt nội

dung hồi đó. Thế nên, mỗi khi viết nên một tác phẩm, Hồ Biểu Chánh dụng công rất

nhiều cho việc xây dụng bố cục. Công việc này mất rất nhiều thời gian nên ông rất công

phu, cẩn thận tính toán từng chi tiết làm sao cho tâm hồn, ngôn ngữ và cử chỉ, cách cư xử

của nhân vật có thể giống với người đời. Quan trọng hơn các tình tiết truyện phải phát

triển tự nhiên, mạch lạc để làm sao khi một tiểu thuyết đến với người đọc thì họ có thể

nhìn thấy cuộc đời, thấy chính mình đang hiện hữu trong tác phẩm, có thể sống cùng nhà

văn và tác phẩm. Vì thế, có tác phẩm, Hồ Biểu Chánh phải mất vài năm mới xong bố cục

như Ngọn cỏ gió đùa dài đến 572 trang nhưng cũng có những tác phẩm mà bố cục, truyện

được hoàn thành chỉ trong vòng hai tháng.

Nhìn lại hành trình lao động sáng tạo miệt mài của nhà văn Hồ Biểu Chánh, chúng

ta thấy cuốn tiểu thuyết văn xuôi đầu tay của ông qua hai lần xuất bản Ai làm được vẫn

mang dáng dấp của một truyện tài tử giai nhân truyền thống với lối kết thúc có hậu theo

kiểu “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” và “ở hiền gặp lành” nhưng đã cho thấy một

bước chuyển đổi đặc biệt từ nghệ thuật kết cấu truyền thống sang một kết cấu có tính chất

hiện đại riêng. Ban đầu tiểu thuyết này được chia thành 27 hồi, mỗi hồi bắt đầu bằng một

nhan đề tóm tắt những sự việc sắp xảy ra như “Ông cháu gặp nhau”, “Phu phụ tương

ly”, “Tái đáo Sài Gòn”… Sau khi được nhuận sắc, Ai làm được từ một cuốn truyện có

27 hồi đã được bố cục lại thành 6 chương, thay cho những câu giới thiệu tóm tắt câu

chuyện ở đầu mỗi chương là những con số La Mã giản dị. Ông cũng loại bỏ những câu

giới thiệu vụng về của người dẫn chuyện mỗi khi câu chuyện chuyển hướng và thêm

nhiều đoạn tả cảnh, nhiều đoạn đối thoại để làm cho nội dung tác phẩm sống động và rõ

ràng hơn. Chính những thay đổi về mặt nghệ thuật kết cấu này đã làm cho tiểu Ai làm

được gần với một tiểu thuyết hiện đại hơn.

Sau Ai làm được, toàn bộ tiểu thuyết văn xuôi của Hồ Biểu Chánh giai đoạn những

năm 30 đầu thế kỷ hầu như chỉ có quyển Nam cực tinh huy (1924) là tuân thủ nguyên tắc

kết cấu theo lối chương hồi chính thống gồm 34 hồi, mỗi hồi có hai câu dẫn đề. Xin được

57

trích hai câu dẫn đề của hồi thứ ba:

“Nước nguy biến, Đinh công rầu vong mạng

Chú đuổi xô, Bộ Lãnh quyết lập thân.”

Hay như hồi thứ mười sáu :

“Ngô chúa băng hà, Tam ca soán nghiệp

Tử hoàng tị nạn, vương hậu xuất giá.”

Sở dĩ có sự khác biệt như thế là do Nam cực tinh huy là một tiểu thuyết lịch sử,

cho nên việc kết cấu theo lối chương hồi trong thời điểm đó là có lý do của nó. Với 16

tiểu thuyết còn lại, nhà văn đã lần lượt thay đổi bằng cách giản lược, biến tấu lối kết cấu

chương hồi để tạo nên một lối kết cấu mới. Tiêu biểu như Một chữ tình (1923), Tiền bạc

bạc tiền (1925) không phân chia chương hồi cụ thể, không có thơ đề dẫn hoặc những tiêu

đề. Đến Nhơn tình ấm lạnh (1925), Hồ Biểu Chánh trở lại chia theo chương hồi, nhưng

tác giả phân chia dựa theo số trang, khoảng cách mỗi hồi khoảng từ mười mấy trang hoặc

trên hai mươi trang và trước mỗi hồi không có thơ đề dẫn.

Tiểu thuyết Chúa tàu Kim Quy (1922) chia hai phần, mỗi phần chia thành nhiều

phần nhỏ đánh số từ I đến IX ( phần I), từ I đến VII (phần II). Tác giả ghi phần thứ nhất

tựa là “Gió dập sóng dồi”, phần thứ nhì tiêu đề “Ơn đền oán trả”.

Hai tác phẩm Chút phận linh đinh (1928) và Nặng gánh cang thường (1930)

không có hồi, chia nhiều phần và có thơ đề dẫn giúp người đọc nhớ nhanh, gọn diễn biến

của mỗi phần trong tiểu thuyết:

Chút phận linh đinh:

I: Lỡ bước thương người không dám ngó

Nhớ lời cám nghĩa phải làm khuây

II: Nặng chữ tình thuyền quyên thất tiết

Nghiêm gia phong nghịch tử ly hương

III: Nghe chồng mất vợ hiền lo đáp nghĩa

Thương con thơ mẹ yếu phải hồi hương...

Nặng gánh cang thường:

VIII: Háo sắc Trần Ngang bị nhục

58

Dạo chơi Ngự sử được con

X: Oan ức trung thần không bán chúa

Hung hăng cường khấu phải tan xương...

Đến Thầy thông ngôn (1925), Kẻ làm người chịu (1928), Vì nghĩa vì tình (1929),

Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc thầm (1929) thì không có hồi nhưng được chia thành

nhiều phần, đơn cử như tiểu thuyết Khóc thầm:

I: Khách lạ đến nhà

II:Luận đàm thế sự

III:Gả con lấy chồng

IV: Vợ chồng trái ý

V : Còn toan khai hoá

VI :Vừa lộ tánh tình

VII : Thấy rõ tâm chí

VIII : Nhà nghèo nhịn nhà giàu

IX :Nhà giàu hại nhà nghèo

X :Cha trách con

XI : Vợ phiền chồng

XII :Vĩnh Thái bị giết

XIII : Thu Hà ân hận

Tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa (1926) không chia hồi, không chia từng phần theo

những con số trên, không có thơ đề dẫn, chỉ ghi tiêu đề một cách ngắn gọn : Đau đớn

phận hèn, Nát thân bồ liễu, Nắng táp mưa sa, Đường ngay nẻo vạy, Nghĩa nặng tình sâu,

Ân tình vẹn vẽ... Các tiêu đề cũng được chia một cách cân đối theo quan điểm mỹ học về

cái đẹp cân đối hài hòa của phương Đông. Ngoài ra, một số tác phẩm không có hồi,

không chia các phần, không ghi thơ đề dẫn, không đặt tiêu đề như : Cay đắng mùi đời

(1923), Tỉnh mộng (1923), Con nhà nghèo (1930).

Tóm lại, xét về phương diện tổ chức bên trong tác phẩm, Hồ Biểu Chánh đã có sự

thay đổi trật tự thời gian so với tiểu thuyết chương hồi truyền thống buộc người viết phải

đi theo một trật tự nhất định về thời gian. Qua từng chặng đường sáng tác, trên nền tiểu

59

thuyết chương hồi, Hồ Biểu Chánh đã bắt đầu quan tâm đến số phận, cuộc đời, tính cách

của nhân vật hơn là việc kể, tả lại các chuỗi sự việc. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vì

thế không chỉ đơn thuần là phản ánh hiện thực, là rao giảng đạo đức, luân lí nữa. Điểm

sáng tạo và đăc biệt hấp dẫn người đọc tìm đến với tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đó chính

là sự khai thác, thâm nhập vào những biểu hiện tình cảm, nội tâm của nhân vật qua không

gian, thời gian cụ thể, nhằm biểu đạt tình cảm của nhân vật. Dù chưa hoàn toàn thoát hẳn

lối kết cấu chương hồi nhưng nhờ vào sự đổi mới lối kết cấu trong tác phẩm đã giúp Hồ

Biểu Chánh thể hiện được luận đề tư tưởng đạo lý rõ ràng, khúc chiết hơn. Đồng thời

thông qua lối kết cấu ấy, nhà văn dễ làm bật lên cái tình đời tình người thông qua từng tác

phẩm để người đọc xem xét và chiêm nghiệm.

3.2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập

Đây là lối kết cấu được sử dụng nhiều trong văn học cổ khi nhà văn xây dựng hai

tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức,

hành động...để phân biệt giữa một bên đại diện cho lực lượng chính nghĩa, cái đẹp, chân

lí và một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh kịch liệt, mạnh mẽ, không khoan

nhượng với nhau và kết thúc thường nghiêng về lực lượng chính nghĩa. Đây là lối kết cấu

được sử dụng để nhằm làm nổi rõ chủ đề tư tưởng cho tác phẩm thông qua việc so sánh,

đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật đối lập. Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn

Nam bộ đi tiên phong trong việc sử dụng lối kết cấu hai tuyến nhân vật đối lập để qua đó

truyền tải nội dung tư tưởng đạo đức luân lí đến với mọi người và đặc biệt hơn là tình

người, tình đời của những con người ở vùng đất Nam bộ.

Nếu ai đã từng đọc qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì đều có thể tìm thấy kết

cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập. Trong tiểu thuyết Ai làm được, đó là sự đấu tranh

không khoan nhượng giữa một bên là Bạch Khiếu Nhàn, Chí Đại và Bạch Tuyết, đại diện

cho những người lương thiện, có học thức, nhân hậu còn một bên là bà Phủ Hai có lòng

dạ hiểm độc, mưu mô xảo quyệt, lợi dụng sự tin yêu của chồng mà làm những điều hại

người. Đại diện cho những người lương thiện họ đấu tranh để tìm thấy cuộc sống mới,

giành lấy hạnh phúc còn bên ngược lại thì đấu tranh để giành lấy tiền tài, địa vị. Cuối

60

cùng thiện thắng ác, sức mạnh đồng tiền dù có uy lực cỡ nào cũng không thể thắng nổi

những tình cảm chân thành, cao đẹp của con người, Chí Đại và Bạch Tuyết cuối cùng

cũng được hưởng hạnh phúc bên nhau trọn đời.

Hay trong tác phẩm Chúa tàu Kim Quy là sự đối lập giữa một Thủ Nghĩa thật thà,

ngay thẳng, sống tình cảm, giữ trọn đạo nghĩa và Trần Tấn Thân quỷ quyệt, mưu mô,

gian xảo, chuyên đi lừa gạt, vu cáo, hại người. Đó là sự đấu tranh không khoan nhượng

của con người đi tìm lẽ phải, đạo lí, tình người ở đời để rồi cuối cùng thiện cũng thắng ác,

Thủ Nghĩa báo được thù và đền ơn cho những người đã từng giúp đỡ mình. Trong tiểu

thuyết Con nhà nghèo là hình ảnh của Ba Cam, Thị Lựu, Cai Tuần Bưởi, Hương sư Cu,

những con người thấp cổ bé họng, mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc, đơn giản,

bình yên với những kẻ bất nhân, bất nghĩa như bà Cai Hiếu, cậu Hai Nghĩa,…Qua việc

khảo sát 17 tiểu thuyết trên có thể thấy Hồ Biểu Chánh đã có sự phân tuyến rạch ròi giữa

một bên là những con người giàu lòng vị tha, nhân ái, bao dung, bản chất lương thiện,

trong sáng và hấp dẫn người đọc: Bạch Tuyết, Chí Đại (Ai làm được), Thủ Nghĩa, Kỉnh

Chi (Chúa Tàu Kim Quy), Yến Tuyết (Tỉnh mộng), Lê Văn Đó, Thu Vân, Lý Ánh Nguyệt

(Ngọn cỏ gió đùa), Thu Hà (Khóc thầm), Thị Lựu (Con nhà nghèo) hay những con người

sống thuỷ chung, kiên trì, vững lòng dù gặp khó khăn gian lao như Cô Tư Chuyên (Chúa

tàu Kim Quy), Xuân Hoa (Một chữ tình), Lệ Bích, Thanh Tòng (Nặng gánh cang

thường); những người giàu nghĩa khí, trung trực, ngay thẳng như Ngô Quyền, Đinh Long,

Đinh Hổ (Nam cực tinh huy); những người hiền lành chất phác, sống nghĩa tình như Duy

Linh (Nhơn tình ấm lạnh), thằng Được, Ba Thời (Cay đắng mùi đời),… đối lập với một

bên là những kẻ gian ác, sống vô nghĩa, vô tình như bà Phủ Hai (Ai làm được), Tấn Thân

(Chúa tàu Kim Quy), cậu Hai Nghĩa (Con nhà nghèo), Trường Xuân (Tỉnh

mộng),…những kẻ mất nhân tính, vô đạo đức như Như Hoa (Thầy Thông ngôn), Thị Lựu

(Cha con nghĩa nặng),… đã tạo nên những hình ảnh đối lập khá rõ nét, gây ấn tượng

mạnh đến người đọc từ đó dễ dàng truyền tải những thông điệp về tư tưởng, đạo lí đến

độc giả.

Đã phàm là con người, ai cũng sẽ có ưu, khuyết. Tuy nhiên, đứng ở góc độ đạo

61

đức thì cái cốt lõi vẫn là chính – tà, tốt – xấu, thiện – ác. Thế nên, việc kết cấu nhân vật

theo hai tuyến của Hồ Biểu Chánh trên đại thể không hề làm mất đi tính chân thực của

đời sống. Thật vậy, dù hai tuyến nhân vật được phân chia theo cách chủ quan nhưng vẫn

phản ánh được những đặc trưng của con người của vùng đất Nam bộ. Vùng đất Nam bộ

vốn có những con người bộc trực, thẳng ngay, nghĩa khí, trọng nghĩa khinh tài dù cuộc

sống cơ hàn, nghèo cực. Đây cũng là một đặc điểm về con người Nam bộ đã được các

nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích và chứng minh. Nguyễn Văn Kha đã chỉ ra nguồn gốc

và cơ sở của đạo lí – nghĩa tình – nét đặc trưng của con người Nam bộ “Giữa cái mênh

mông của đồng lầy, của rừng ngập mặn, của biển cả và sông nước, con người cần phải

nương tựa vào nhau. Nhưng sự liên kết đó dựa trên cơ sở nào? Phải lấy cái gì để điều

chỉnh mối quan hệ giữa người với người. Trong hoàn cảnh và môi trường sống như vậy,

con người Nam Bộ đã lấy tình nghĩa và đạo lý làm chỗ dựa tinh thần cho sự gắn bó, liên

kết giữa người với người:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khảm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng ta.” (Tạp chí Tính cách con người Nam bộ)

Nghĩa là khi xây dựng nhân vật của mình, mặc dù vẫn phân chia theo hai tuyến

nhân vật tốt – xấu nhưng Hồ Biểu Chánh đã quan tâm rất nhiều đến sự gần gũi với hiện

thực cuộc sống. Ông mang hơi thở của cuộc sống vào tác phẩm của mình, nhân vật trong

tiểu thuyết là những con người của đời sống hiện thực sống động đang trăn trở, đang sống

trên những trang giấy. Đây cũng là một phương tiện nghệ thuật giúp cho chủ đề tác phẩm

của nhà văn đạt giá trị nhân văn cao cả, thể hiện tập trung và rõ nét nhất. Thiện ác, tốt xấu

luôn được phân biệt rõ ràng, rạch ròi và kết thúc tác phẩm đa phần đều có hậu, đều hướng

về mục đích cuối cùng là người “ở hiền gặp lành”, “ác lai, ác báo”, “ân đền, oán trả”

62

mang lại niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp cho con người

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Văn học là nhân học, đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con

người luôn giữ vị trí trung tâm. Sự đa dạng, phong phú của tác phẩm có thể được tạo nên

từ những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình

luận... nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân

vật. Điều gì sẽ còn lại với độc giả sau khi thưởng thức một tác phẩm phẩm văn học? Có

thể nói cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm,

cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi

cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng

tác" hay nói cách khác nhân vật “là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là tiêu

điểm để bộc lộ chủ đề, và tư tưởng của chủ đề…nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư

tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học” [48, 109]

Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua

đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật văn học là con người được

nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể

được miêu tả kĩ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,

thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều

lắm đối với tác phẩm. Với thể loại tiểu thuyết cũng vậy, nhân vật là một nhân tố quan

trọng đóng vai trò chính yếu tập trung thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh đều khẳng định thế giới nhân vật trong

tiểu thuyết của ông rất đa dạng và phong phú “bao gồm đủ hạng người trong xã hội. Có

tá điền, địa chủ, có quan lại lớn bé, có thông ngôn, ký lục, có gái đĩ, me tây, có tư sản, có

công nhân, có nhà văn, nhà báo, có học sinh, có thầy giáo, có người lớn, có trẻ con, có

nam, có nữ, ngoài ra còn có Tây, có “khách” và có cả Chà và nữa” [34, 237].

Là một nhà văn có vốn sống phong phú nên Hồ Biểu Chánh đã đưa những sự trải

nghiệm sống động , đa dạng của mình vào sáng tạo văn chương. Trong tác phẩm của ông

thể hiện đủ tất cả các hạng người với những đặc điểm về ngoại hình, tính cách, thói quen,

phong tục tiêu biểu cho xã hội Nam bộ nói riêng và xã hội Việt Nam thực dân nửa phong

63

kiến đầu thế kỉ XX nói chung. Nhân vật trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được nhà

văn tập trung khai thác qua tính cách, hành động, tâm lí, ngôn ngữ nhân vật,…mang đậm

sắc thái Nam bộ. Bên cạnh đó có thể thấy do nội dung cốt truyện của tiểu thuyết Hồ Biểu

Chánh nặng về đạo lí nên nhân vật trong tác phẩm của ông thường được chia theo hai

tuyến nhân vật rạch ròi: tốt – xấu, thiện – ác, giàu – nghèo nên với hai tuyến nhân vật này

tác giả giới thiệu đến người đọc nhiều loại nhân vật: nhân vật chính diện, tích cực thể

hiện lý tưởng xã hội, quan điểm đạo đức, tư tưởng của tác giả; nhân vật phản diện, tiêu

cực phản ánh mặt trái của xã hội và là nhân tố tác giả dùng để lên án xã hội. Các tuyến

nhân vật này luôn xuất hiện song song, xen kẽ nhau, đấu tranh, tác động lẫn nhau để tạo

nên những mâu thuẫn hoặc có khi là sự chia sẻ, một mối cảm thông nào đó đẩy diễn tiến

câu chuyện đến một thắt nút, đỉnh điểm, cao trào phù hợp với logic. Và thường thì nhân

vật chính trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là những người nghèo khổ ở nông thôn, họ là

những người nông dân chân lấm tay bùn, chân chất thiệt thà nơi đồng ruộng như thằng

Cu (Con nhà nghèo), bị chèn ép, không có tiếng nói như Cai tuần Bưởi, bị áp bức bóc lột

như Lê Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy) cũng có khi bị cái nghèo đói đẩy vào con đường

lầm than, lận đận nhưng cuối cùng tìm lại được hạnh phúc cho mình như Lê Văn Đó

(Ngọn cỏ gió đùa), Phan Chí Đại (Ai làm được),…Có thể khẳng định các nhân vật trong

tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải chỉ xây dựng theo ý thức chủ quan của ông

mà còn rất gần với hiện thực cuộc sống. Đơn cử như trong tiểu thuyết Cha con nghĩa

nặng, Hồ Biểu Chánh đã tả rất đúng cuộc đời vất vả của người dân quê Trần Văn Sửu.

Đó là sự thật thà đến khờ khạo của một người chồng cục mịch và sự khôn ngoan của một

người vợ trắc nết được phác hoạ, miêu tả lại thật sống động và sắc nét. Sửu khờ khạo đến

nỗi vợ ngoại tình với Hương hào Hội rồi có một đứa con mà anh chẳng hay biết gì cả. Sự

thật thà, ngây ngô của Sửu làm cho người đọc cũng phải giật mình thảng thốt, đặc biệt là

đoạn nghe dân làng nói nhỏ to về sự gian dâm của vợ mình, Trần Văn Sửu vẫn tỉnh bơ:

“Thằng Xuyên hỏi Trần Văn Sửu rằng:

- Hổm nay tôi không có đi phía dưới ruộng của anh, nghe nói năm nay lúa

64

anh trúng lắm, phải hôn?

- Khá khá, chớ không trúng lắm.

- Anh sướng quá còn làm bộ nữa.

- Sướng giống gì?

- Anh hỏi được đất của bà Hương quản anh làm, không sướng hay sao? Tôi

muốn mướn ít chục công làm kiếm cơm ăn, mà mướn không ra.

Hương tuần Tam cười và nói với thằng Xuyên rằng:

- Mầy muốn làm ruộng thì kêu vợ mầy quen với Hương hào Hội, tự nhiên có

đất chớ gì.

- Sao vậy?

- Thì vậy chớ sao. Thằng Sửu nó cũng nhờ có vợ nó quen với Hương hào

Hội, nên nó mới mướn được ba chục công đất đó chớ. Vợ mầy còn nhỏ, không biết chừng

mầy mướn còn nhiều hơn thằng Sửu nữa a.

Thăng Xuyên suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Chú nói kỳ quá! Ai mà chịu vậy”.

Hương tuần Tam cười ngất rồi đáp rằng:

- Vậy chớ thằng Sửu đó sao? Phải thí ruộng nhỏ mới có ruộng lớn chớ.

- Thà là chịu chết đói, chớ ai chịu khốn nạn như vậy được.

- Không chịu thì thôi.

Thằng Xuyên day lại thấy Trần Văn Sửu ngồi bơ bơ, bèn vỗ vai mà hỏi rằng:

65

- Sao, anh chịu như vậy được không anh?

- Chịu giống gì?

- Chịu cái đó.

- Cái đó là cái gì đâu?

- Anh để cho vợ anh quen với Hương hào Hội chớ cái gì?

- Quen thì quen chớ sao?

Hương tuần Tam với thằng Xuyên nghe Trần Văn Sửu trả lời như vậy thì ngó nhau

rồi cười rộ lên. Trần Văn Sửu không hiểu gì hết, thấy người ta cười thì ngó lơ láo rồi

cũng cười theo” [18, 22 – 24]

Ngoài ra hiện hữu trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh còn là sự góp mặt

cũng những người phụ nữ nghèo nhưng mang những phẩm cách tốt đẹp, cao quý như

Ánh Nguyệt (Ngọn cỏ gió đùa), Ba Thời (Cay đắng mùi đời), Cô Tư Chuyên (Chúa tàu

Kim Quy); hay những người phụ nữ có học thức, giữ trọn đạo nghĩa như Thu Hà (Khóc

thầm), Thu Vân (Chút phận linh đinh), Phi Phụng (Nhơn tình ấm lạnh), Lệ Bích (Nặng

gánh cang thường), Yến Tuyết (Tỉnh mộng), Bạch Tuyết (Ai làm được),…Hoặc những

đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ hay thiếu tình thương của mẹ lúc còn thơ dại là những yếu tố

làm nên giá trị đạo lí sâu sắc trong tác phẩm của ông về tình đời, tình người trong cuộc

sống: thằng Được, con Liên, thằng Bĩ (Cay đắng mùi đời), thằng Hồi, thằng Quỳ (Vì

nghĩa vì tình), con Quyên, thằng Tý (Cha con nghĩa nặng),…

Để cho những mâu thuẫn xảy ra, những cao trào được đẩy lên đỉnh điểm buộc

nhân vật chính lựa chọn con đường cho riêng mình qua đó bộc lộ chủ đề của tác phẩm thì

còn phải kể đến sự xuất hiện của những tên quan lại, địa chủ, cường hào chuyên làm

những chuyện bất chính, thủ đoạn tàn ác khi ra sức vơ vét, ức hiếp dân lành, trục lợi cá

nhân như tên Quản phó Cà Mau, Hương sư Sắc (Thầy Thông ngôn), Bá hộ Cao (Ngọn cỏ

gió đùa), Hương hào Điều, Hương chủ Lung (Khóc thầm)…những kẻ chuyên đi lừa gạt,

66

phỉnh nịnh như thầy Thông Hàng (Con nhà giàu), những kẻ giả nhân giả nghĩa như Vĩnh

Thái (Khóc thầm),…những người phụ nữ không giữ tiết hạnh như Thị Lựu (Cha con

nghĩa nặng), Như Hoa (Thầy thông ngôn), Đỗ Thị (Tiền bạc bạc tiền)… Xây dựng một

thế giới nhân vật đa dạng, phong phú như thế nhưng điều làm nên nét đặc biệt, cuốn hút

riêng cho các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đó là nhà văn không xây dựng một mẫu

người nhất định. Với Hồ Biểu Chánh người giàu không nhất thiết là người xấu như ông

Hội đồng Đạt (Chút phận linh đinh), Bạch Khiếu Nhàn (Ai làm được), bà Hội đồng Nhàn

(Cay đắng mùi đời). Điều này đã tạo nên nhiều bất ngờ, lí thú cho người đọc khi tiếp

nhận, thưởng thức các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất chú trọng vào việc xây dựng nhân vật thông qua

tính cách nhân vật. Hồ Biểu Chánh tập trung khai thác những chuyển biến trong số phận

cuộc đời của nhân vật, những mâu thuẫn, những ham muốn, những lầm lạc để họ đấu

tranh, chọn lựa hướng đi cho mình từ đó bộc lộ nét tâm lí, tính cách đạo đức. Hồ Biểu

Chánh là nhà văn của đạo lí truyền thống nên khi xây dựng nhân vật ông đặc biệt quan

tâm đến cách gọi tên nhân vât. Những nhân vật chính thường có những tên gọi mà người

đọc có thể dự đoán trước về số phận của họ và hiểu được chủ đề tư tưởng mà Hồ Biểu

Chánh muốn hướng đến, như:

Bạch Tuyết là người phụ nữ có tấm lòng trinh bạch, trắng trong như Tuyết; -

Phan Chí Đại là người con trai có chí lớn, tấm lòng chính nghĩa (Ai làm được)

Lê Thủ Nghĩa là chàng trai trọng nghĩa tình, sống vì đạo nghĩa; Cô Tư -

Chuyên là một người con gái chính chuyên, thuỷ chung (Chúa tàu Kim Quy)

Thằng Hồi là đứa bé lưu lạc nhưng cuối cùng cũng được trở về gia đình (Vì -

nghĩa vì tình); thằng Được là đứa bé được nhặt bên đường nhưng sau này được hưởng

một cuộc sống hạnh phúc bên mẹ (Cay đắng mùi đời)

Hoà thượng Chánh Tâm là người có tấm lòng ngay thẳng, hay giúp đỡ -

người khác (Ngọn cỏ gió đùa)

Kỳ Tâm là người có tấm lòng kì lạ (Kẻ làm người chịu)…. -

Nhưng bên cạnh đó Hồ Biểu Chánh cũng thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai

67

những kẻ cố khoác cho mình một hình thức tốt đẹp, đạo mạo ở bên ngoài nhưng bản chất

bên trong thì hoàn toàn thấp hèn, gian xảo khi mang tên gọi hoàn toàn trái ngược với tính

cách và bản chất, như:

Như Hoa là người con gái có tên đẹp như Hoa nhưng lại trắc nết, lăng loan -

(Thầy Thông ngôn)

Cậu Hai Nghĩa là con nhà giàu có tưởng là người sống đạo nghĩa nhưng -

thực chất lại là một tên lừa tình (Con nhà nghèo)…

Xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm

đến sự gần gũi với đặc điểm tâm lí của người dân Nam bộ, với cuộc sống đời thường ở

vùng đất này. Nhà văn của đạo lí dân tộc luôn thể hiện rạch ròi tư tưởng chủ đề của mình

qua các tác phẩm thông qua suy nghĩ và hành động của nhân vật khi căm ghét, phê phán,

đả kích cái xấu; ngợi ca cái tốt, sự thuỷ chung, hiếu nghĩa. Miêu tả nhân vật, Hồ Biểu

Chánh vận dụng những quan sát thực tế của mình từ hiện thực cuộc sống Nam bộ nhưng

tất cả đều được thể hiện qua ngòi bút tinh tế và sắc sảo của một vốn từ địa phương phong

phú, đa dạng phù hợp với ngoại hình, tính cách nhân vật. Miêu tả ngoại hình của Thị

Lựu, người phụ nữ trắc nết lăng loàn trong Cha con nghĩa nặng “Thị Lựu là vợ của Sửu,

mình mặc cái quần lãnh đen, một cái áo vải đen còn mới, đầu gỡ láng nhuốt, răng đánh

trắng nõn, tai đeo một đôi bông có nhận hột thuỷ tinh, cổ đeo một sợi dây chuyền có trái

tim treo nhỏng nhảnh, tay mặt có đeo một chiếc đồng trơn, tay trái có đeo một chiếc niệt

chỉ đang bồng đứa con nhỏ hết, đứng tựa cửa, thấy chồng về đã không thèm mà còn

nguýt một cái” [18, 12] sẽ khác với khi Hồ Biểu Chánh miêu tả nàng Ánh Nguyệt hiếu

thảo với cha, là người con gái công, dung, ngôn, hạnh, mang những phẩm chất tốt đẹp

trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa: “Nàng để đầu trần, tóc vuốt mà không bới chớ không

cần lược nhưng mà tóc nàng xấp xải hai bàn tay, đầu tóc nàng xụ xọp đứng sau ót, làm

cho chiều lả lơi pha trộn với vẻ hữu tình. Mặt nàng không dồi phấn mà trắng trong; chơn

mày nàng cong vòng mà lại nhỏ; ngón tay nàng dài mà nhọn như mũi viết, lại thêm phao

hồng hồng; móng tay nàng suông đuột nên đánh đờn xa dịu; bàn chơn nàng không đi

giầy mà gót ửng đỏ, bàn no vun, nên hễ gió phất ống quần thì ai cũng phải ngó. Tướng

mạo nàng thanh tao nữa, bởi vậy tuy nàng ở trong nhà dân giả bần hàn, song phẩm giá

68

nàng chẳng kém gì gái trâm anh phiệt duyệt” [14, 71]

Cũng có khi nhà văn không chú trọng vào việc miêu tả ngoại hình mà đi thẳng vào

tính cách, phẩm chất đạo đức và quan niệm sống của nhân vật như hình ảnh của một anh

nông dân nghèo Cai tuần Bưởi trong tác phẩm Con nhà nghèo: “cực nhọc trót một năm

trường dang nắng cầm cày, dầm mưa nhổ mạ, chỉ còn lời 20 giạ mà thôi! Mà trong đó

còn phải đong lúa mướn trâu, còn phải trả tiền công cấy thì còn dư nỗi gì” [21, 8 – 9]

Một điểm đáng chú ý trong cách xây dựng nhân vật của Hồ Biểu Chánh chính là

những nhân vật chính của ông đồng thời cũng là nhân vật đạo lí. Họ mang trong mình

những phẩm chất tốt đẹp như thật thà, chất phác, thương chồng thương vợ thương con,

chung thuỷ…dù trong hoàn cảnh hoạn nạn, gian khó cũng không bỏ rơi nhau. Họ bị cuốn

vào vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc đời, của bất hạnh nghèo đói, của thói đời đen bạc và

buộc họ phải hành động trước những ngã rẽ đó. Nhân vật của Hồ Biểu Chánh được xây

dựng thông qua những hành động dứt khoát của những con người đạo nghĩa, hy sinh

quên mình như Lê Văn Đó vì thương mẹ và đàn cháu nhỏ đã phạm tội trộm nồi cháo heo

của Bá hộ Cao nên phải đi đày, Trần Văn Sửu vì vô tình xô ngã làm vợ chết mà bị tù

tội…nhưng rồi họ cũng tìm được đường về với sự lương thiện, cao quý của chính họ.

Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đại diện cho những con người sống có tình có

nghĩa. Điều đó thể hiện được một lập trường tư tưởng đạo đức đơn giản nhưng dứt khoát

của Hồ Biểu Chánh cũng là sự hiện hữu của giá trị đạo đức trong con người.

Tuy nhiên có một đặc điểm dễ nhận thấy trong cách xây dựng nhân vật của Hồ

Biểu Chánh đó là ông dụng ý tạo nên con người hành động chứ chưa phải là con người

tâm lí. Nhà văn thường chú trọng nhiều vào những biểu hiện bên ngoài của nhân vật như

sắc diện, ngôn ngữ, cử chỉ hành động…còn tâm lí nhân vật cũng được bộc lộ chủ yếu từ

những biểu hiện bên ngoài ấy. Rất hiếm khi Hồ Biếu Chánh miêu tả nhiều về những

giằng co, trăn trở trong nội tâm sâu kín, phức tạp của nhân vật. Đơn cử như chi tiết Trần

Văn Sửu vô tình xô vợ ngã chết trong Cha con nghĩa nặng. Đây là một tình huống đầy

kịch tính khi một người đang trong trạng thái hoảng loạn, có sự đấu tranh giữa thương và

giận thì nội tâm lúc này phải căng thẳng, đấu tranh, giằng co quyết liệt. Thế nhưng, ở

đoạn này tâm lí của nhân vật vẫn chỉ thể hiện qua hành động: “Lúc ấy, trong lòng anh ta

69

đã đau đớn mà tâm trí lại lo sợ, anh ta lính quýnh chạy vô buồng rồi chạy ra đứng ngó

vợ, muốn khóc mà không có nước mắt, muốn nói mà không nói ra lời. Bộ tịch anh ta như

người mất trí. Anh ta ngó vợ một hồi rồi dùn mình. Anh ta vụt dở cửa bước ra sân, bỏ

cửa rớt một cái ầm rồi co giò chạy tuốt…” [18, 15]. Điều đó cho thấy con người trong

tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh tồn tại theo một phương thức khác. Đó là con người có ý thức,

có ham muốn, toan tính và cả những đam mê, lầm lạc nhưng lại thiếu đi những chiều kích

của sự băn khoăn, đấu tranh để lựa chọn, thiếu đi chiều sâu của những xung đột, mâu

thuẫn bên trong nội tâm.

Qua việc khảo sát 17 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có thể nhận thấy đây là một

nhà văn Nam bộ giàu tâm huyết với nghề văn khi xây dựng các nhân vật của mình đại

diện cho những con người sống động, gần gũi với hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên vẫn

còn có những điểm hạn chế đó là có những lúc Hồ Biểu Chánh quá giản lược, dễ dãi hay

áp đặt suy nghĩ, mong muốn mang tính chủ quan của mình cho nhân vật. Nhưng có một

điều không thể phủ nhận đó chính là phương thức xây dựng nhân vật của Hồ Biểu Chánh

rất phù hợp với đặc tính của con người Nam bộ bình dị chân chất, suy nghĩ đơn giản, mộc

mạc, tình cảm chân thành, dứt khoát,…Đây chính là điểm sáng giúp cho tiểu thuyết Hồ

Biểu Chánh ngày càng gần gũi hơn với người đọc.

3.4. Ngôn ngữ

Bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã có rất nhiều nhà nghiên cứu

nhất trí ở chỗ nhà văn đã vận dụng một cách khéo léo khẩu ngữ Nam bộ tạo nên phong

cách riêng của mình như Cù Đình Tú đã nhận xét: “Phong cách của Hồ Biểu Chánh là

phong cách viết như nói, nói tiếng mà dân chúng Nam bộ thường dùng hàng ngày vào

đầu thế kỉ 20 [33, 228] (…) Điều cần phải ghi nhận ở văn Hồ Biểu Chánh qua cả vạn

trang tiểu thuyết của ông là: ông viết tiểu thuyết bằng tiếng của dân chúng vùng đồng

bằng sông Cửu Long. Lẽ tự nhiên ai cũng hiểu đó vẫn là tiếng Việt, nhưng đó là tiếng

Việt ở một vùng cư dân đông đúc tại nơi phía Nam của Tổ quốc với những đặc sắc riêng

của nó”. [33, 233]. Trong tiểu thuyết Con nhà nghèo thay vì dùng từ “có vẻ” thì nhà văn

dùng từ “coi bộ” để diễn tả sự e dè, lo lắng của Thị Tố với chồng mình là Cai Tuần Bưởi

trong đoạn đối thoại khi hay tin Tư Lựu thất thân và có mang với cậu Hai Nghĩa:

70

“Thị Tố cười, ngoái tay xỉa thuốc một hồi nữa, rồi mới hỏi lớn tiếng rằng:

- Vậy chớ mình không thấy cậu Hai khác hơn mọi lần hay sao?

- Cậu Hai nào?

- Cậu Hai con bà Cai chớ cậu Hai nào?

- Ờ. Tưởng mình nói cậu Hai nào chớ, ai mà dè đâu. Cậu Hai thì cũng vậy chớ

khác giống gì?

- Xưa rày mình gặp cậu, vậy chớ cậu có nói gì hay không?

- Không, có nói giống gì đâu!

Thị Tố châu mày, ngồi nín thinh, coi bộ lo ra. Cai tuần Bưởi bơ bơ, cặp điếu thuốc

mà hút, ngặt vì thuốc tắt nữa, nên phải kê vô đèn mà đốt lại.” [21, 2]

Có thể thấy Hồ Biểu Chánh đã tiếp thu đặc điểm câu văn tiếng Việt có từ thời

Trương Vĩnh Ký “trơn tuột như lời nói thường” nhờ đó đưa đến cho người đọc cách diễn

đạt nôm na, bình dị tuy chưa vươn tới vẻ đẹp thẩm mĩ nhưng mà có ý thức thoát dần ra

khỏi kiểu cách của văn chương trung đại. Hồ Biểu Chánh đã sử dụng tiếng nói bình dân

Nam Bộ không kiểu cách, không điển cố, vận dụng lối văn biền ngẫu theo yêu cầu diễn

đạt mới để phù hợp với người đọc, tiêu biểu là một đoạn kể về Hương thị Tào trong tiểu

thuyết Cha con nghĩa nặng: “Năm nay Hương Thị Tào đã ngoài năm mươi tuổi rồi, tóc

đã bạc hoa râm, răng đã rụng vài cái. Ông ta lăn lóc làm nuôi sắp cháu ngoại, khi bồng

thằng Sung đút cơm, khi dắt con Quyên đi tắm, ai thấy vậy cũng động lòng thương. Hồi

trước ông ta cũng có hay Thị Lựu tư tình với Hương hào Hội, ông ta thường có dứt bẩn

con, mà hễ có nói ra thì có mắng tướt, bởi vậy ông ta ghét không thèm nói nữa. Đến

chừng thấy con chết nằm trơ trơ, mà lại nghe con chết vì cái thói gian dâm ấy, thì ổng đã

không thương tiếc nỗi con, mà cũng không phiền trách thằng rễ. Có đêm sắp cháu ngủ,

ông ta chong đèn ngồi một mình, ông ta dòm thấy chúng nó thì động lòng rung rung nước

mắt. Ông ta khóc đó là tại ông ta buồn tủi đạo nhà, chứ không phải thương nhớ con. [18,

22]

Tìm hiểu về đề tài “Chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỉ

XX”, chúng tôi nhận thấy cần đặc biệt chú ý về ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng vì nó vừa

thể hiện được những suy nghĩ, tính cách đặc trưng của người Nam bộ và vừa thể hiện

71

được phong cách sáng tác rất riêng của nhà văn. Trong số những đặc điểm nổi bật về

ngôn ngữ thì việc sử dụng thành ngữ mang đặc trưng Nam bộ là một trong những yếu tố

quan trọng giúp tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh gần gũi với bạn đọc. Qua việc khảo sát 17

tiểu thuyết của ông, chúng tôi nhận thấy sử dụng thành ngữ giúp cho Hồ Biểu Chánh

truyền tải những tư tưởng đạo lí nhân nghĩa và cách ứng xử của con người Nam bộ đến

người đọc một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, sử dụng thành ngữ cũng giúp cho câu văn

trở nên hàm xúc, cô động hơn như: đền ơn đáp ngãi, đau lòng xót dạ, đường ngay nẻo

dại, gạn đục lóng trong, bạc tình bội nghĩa, bẻ cổ vặn họng, bội ước bạc tình,… và một

số thành ngữ mang nét đặc trưng của Nam bộ như: dộng đầu xuống đất, trôi sông lạc

chợ, hơi hành giọng tỏi, trở cẳng lên trời, bôi tro trét trấu,…

Ngoài những thành ngữ có tính gợi hình và biểu cảm, phản ánh lối suy nghĩ bộc

trực, giản đơn, thẳng thắn của con người Nam bộ thì Hồ Biểu Chánh còn sử dụng một hệ

thống những khẩu ngữ Nam bộ trong những trang tiểu thuyết của ông. Một trong những

yếu tố quan trọng góp phần tạo nên kho tiểu thuyết đồ sộ của Hồ Biểu Chánh là nhờ vào

những kiểu nói đặc sắc Nam bộ, những từ láy hết sức riêng nhưng lại cực kì lí thú của

Nam bộ: nằm dàu dàu, đi lầm lũi, lỗ tai lung bùng, trong lòng xốn xang, rụt rịt bên chơn,

đôi mắt láo liên,…Từ đó có thể thấy, Hồ Biểu Chánh viết văn không đi theo hướng bác

học mà luôn tiếp thu, sử dụng tiếng nói quen thuộc, gần gũi của dân chúng ở vùng đồng

bằng sông Cửu Long. Đó là thứ ngôn ngữ trơn tuột như lời nói, ngôn ngữ của cuộc sống

sinh động, giàu nghĩa tình. Chính khẩu ngữ có mặt trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh

đã tạo nên những nhịp cầu đơn sơ nhưng kì diệu giúp con người có thể xích gần lại với

nhau mà giãi bày tâm tình. Đó là một điều rất đặc biệt mà không phải ai cũng có thể làm

được như nhà văn Nam bộ Hồ Biểu Chánh.

Qua việc khảo sát ngôn ngữ trong 17 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm

đầu thế kỉ XX, có thể thấy thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, Hồ Biểu Chánh đã vẽ nên

khung cảnh hiện thực cuộc sống Nam bộ với những màu sắc vùng miền đa dạng qua cách

nói năng, suy nghĩ, phong tục, tập quán của con người Nam bộ. Tác phẩm của Hồ Biểu

Chánh mang nhiều phong vị chân phương chất phác của một nhà văn cổ chưa sành với

những thuật biến báo để gây hứng thú. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công mà Hồ

72

Biểu Chánh có được thì cũng cần phải nghiêm túc đánh giá những mặt còn hạn chế qua

việc sử dụng ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông. Chính vì sử dụng khẩu ngữ Nam bộ

một cách quá tự nhiên nên trong những tiểu thuyết của mình có đôi chỗ lời văn còn hơi

thô, ý tứ thiếu trong sáng, trang nhã nhưng trên phương diện văn chương dân tộc có thể

nói Hồ Biểu Chánh đã thật sự trở về với ngôn ngữ khoẻ mạnh của quần chúng và học tập

lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng. Đặc điểm đó cho thấy Hồ Biểu Chánh là nhà

văn mang ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây nhưng còn giữ lại ít nhiều tính chất cổ

điển và truyền thống chuyên chở đạo đức, đề cao cái nghĩa tình của con người Việt Nam,

gần gũi với tâm lí của nhân dân Nam Bộ. Đây là điều kiện giúp tác phẩm Hồ Biểu Chánh

73

nhanh chóng đi vào cuộc sống lâu dài trong lòng người đọc Nam Bộ.

PHẦN KẾT LUẬN

Nội dung 1.

Văn học là nhân học. Đối tượng chủ yếu của nghệ thuật là con người, nghệ thuật

được tạo ra vì con người và nghệ thuật quan tâm trước hết đến bản chất xã hội của con

người. Không chỉ phản ánh hiện thực một cách đơn thuần hoặc cài hoa vẽ mây mà cần

phải đặt chính cuộc đời của mình vào trong cuộc sống, dùng trái tim ấm nóng của mình

để say mê, thăng hoa với niềm vui của cuộc sống hoặc để thổn thức, tha thiết cùng nỗi

đau của những số phận quanh mình. Hiểu được sứ mệnh cao cả của văn chương và trách

nhiệm chân chính của một nhà văn, Hồ Biểu Chánh đã hướng ngồi bút của mình vào

cuộc sống đời tư của những con người nhỏ bé trong xã hội đương thời để thấu hiểu, sẻ

chia và để tôn vinh các giá trị đạo lí truyền thống của dân tộc.

Bằng những trải nghiệm cuộc sống rất sâu sắc, chân thật và một trái tim ấm nóng,

nhân hậu, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện lại bức tranh xã hội hiện thực Nam bộ những năm

đầu thế kỉ XX trước những biến động dữ dội của sự du nhập các luồng tư tưởng, văn hoá,

lối sống phương Tây và sức mạnh của đồng tiền. Các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã

vẽ lại chân xác xã hội, cuộc sống của những con người Nam bộ với những xáo trộn,

những biến đổi trong tư tưởng, lối sống của con người. Xã hội biến động kéo theo hàng

loạt nguy cơ nền văn hoá truyền thống trở nên hỗn tạp, đe doạ đến phong hoá bao đời mà

cha ông ta đã gây dựng, gìn giữ. Quan trọng hơn hết, cái mà Hồ Biểu Chánh quan tâm và

trăn trở đó là trước những nguy cơ ấy thì liệu con người có đánh mất đi những giá trị tốt

đẹp của chính mình và của văn hoá truyền thống dân tộc. Chữ tình được đặt ra là một vấn

đề lớn vừa phản ánh tính cách, số phận của con người vùng đất này vừa như một lời gợi

nhắc đến những tình cảm tốt đẹp trong cách đối nhân xử thế giữa con người với nhau,

vừa như một lời nhắc nhở, cảnh tỉnh con người cần phải yêu quý và trân trọng những giá

trị đạo đức, luân lí tốt đẹp của chính mình và văn hoá truyền thống của dân tộc.

Thông qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, hiện thực cuộc sống của vùng đất Nam

bộ nghĩa tình hiện lên chân thật, sống động qua từng chi tiết từ cảnh vật, đến tâm lí, tính

cách, hành động và lời ăn tiếng nói của con người. Hồ Biểu Chánh đã có những đóng góp

74

rất đáng kể vào nền văn học Việt Nam của thế kỉ XX, như Hoài Thanh đã từng nhận xét:

“Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn học phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã góp

phần khai sáng nền văn học hiện đại và cách tân thể loại tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã

chọn lọc những tiểu thuyết văn học phương Tây giàu tính hiện thực và nhân bản để

phóng tác thành tác phẩm của mình…đó là những giọt máu tươi lành, tiếp cho cơ thể của

bệnh nhân cùng một nhóm máu, khiên cho cơ thể văn học Việt Nam mau lành mạnh, dần

dần trở nên tráng kiện hồng hào…tiếp thu kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết của phương Tây,

Hồ Biểu Chánh đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện,

tình tiết, bố cục tác phẩm..” [44, 101]. Mặc dù, hiện thực cuộc sống trong tác phẩm hiện

lên chân thực như vốn có, phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của cuộc sống nhưng

do hạn chế về mặt nhận thức nên có đôi chỗ vẫn còn phiến diện hoặc chỉ tập trung phản

ánh hiện thực qua góc nhìn của đạo đức mà bỏ quên góc nhìn chính trị.

Nghệ thuật 2.

Mỗi nhà văn là sản phẩm của một thời đại nhất định, mỗi tác phẩm đều là tấm

gương phản chiếu đời sống xã hội của một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đời sống văn học

những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một giai đoạn giao thời giữa cái cũ và cái

mới mà những cái tên như Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách có

thể coi như những nhịp cầu đưa văn học Việt Nam bước vào quá trình hiện đại hóa một

cách mạnh mẽ và toàn diện. Vì thế, việc tìm hiểu nhữngđặc điểm nổi bật về nghệ thuật

của Hồ Biểu Chánh như kết cấu, đề tài, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ,…trong

các sáng tác của ông vừa góp phần thể hiện phong cách sáng tác của tác giả, vừa giúp

người đọc tiếp cận một cách rõ nét hơn những đặc trưng tiêu biểu của giai đoạn văn học

mang tính lịch sử này.

Hướng phát triển của đề tài 3.

Khoá luận là cơ sở ban đầu nhằm cung cấp các cứ liệu cần thiết cho việc tìm hiểu

văn hoá, xã hội và con người Nam bộ đồng thời góp thêm tiếng nói cho việc khẳng định

những giá trị của văn học miền Nam thông qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vào văn đàn

văn học dân tộc. Trong giới hạn của khoá luận này, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu hiện

thực cuộc sống vùng đất Nam bộ và những giá trị đạo đức, luân lí truyền thống của con

75

người Nam bộ trong tiểu thuyết ba mươi năm đầu thế kỉ XX của Hồ Biểu Chánh, chưa

có cơ hội tìm hiểu sâu sắc vấn đề nghiên cứu dưới góc độ so sánh, đối chiếu với những

tác phẩm của các nhà văn Nam Bộ cùng thời hoặc giai đoạn sau để cho thấy sự bao quát,

hệ thống chặt chẽ vấn đề được nghiên cứu. Trong thời gian tới, nếu có điều kiện, chúng

tôi sẽ đầu tư công phu và lâu dài hơn để tiếp tục phát triển nghiên cứu này một cách sâu

sắc hơn.

Do khả năng và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, khoá luận trên chắc hẳn vẫn còn

nhiều thiếu sót. Thế nên, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý để khoá luận được hoàn

76

thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoài Anh (1988), Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp, Văn học Nam bộ từ đầu đến giữa

thế kỉ XX (1900 – 1945), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Nguyễn Kim Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb, Hà Nội. 4. Huỳnh Phan Anh, Ghi nhận về Hồ Biểu Chánh, Tập san văn chương tư tưởng

nghệ thuật số 80: Tưởng niệm Hồ Biểu Chánh ra ngày 15/4/1967.

5. Hồ Biểu Chánh (1912), Ai làm được,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/AiLamDuoc/Ald_gt.html

6. Hồ Biểu Chánh (1922), Chúa tàu Kim Quy,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ChuaTauKimQuy/ctkq_gt.html

7. Hồ Biểu Chánh (1923), Cay đắng mùi đời,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/CayDangMuiDoi/cdmd_gt.html

8. Hồ Biểu Chánh (1923), Tỉnh mộng,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/TinhMong/tm_gt.html

9. Hồ Biểu Chánh (1923), Một chữ tình,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/MotChuTinh/mct_gt.html

10. Hồ Biểu Chánh (1924), Nam cực tinh huy,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/NamCucTinhHuy/ncth_gt.html

11. Hồ Biểu Chánh (1925), Nhơn tình ấm lạnh,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/NhonTinhAmLanh/ntal_gt.html

12. Hồ Biểu Chánh (1925), Tiền bạc, bạc tiền,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/TienBacBacTien/tbbt_gt.html

13. Hồ Biểu Chánh (1926), Thầy Thông ngôn,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ThayThongNgon/ttn_gt.html

14. Hồ Biểu Chánh ( 1926), Ngọn cỏ gió đùa,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/NgonCoGioDua/ncgd_gt.html

15. Hồ Biểu Chánh (1928), Chút phận linh đinh,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ChutPhanLinhDinh/cpld_gt.html

16. Hồ Biểu Chánh (1928), Kẻ làm người chịu,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/KeLamNguoiChiu/klnc_gt.html

17. Hồ Biểu Chánh (1929), Vì nghĩa vì tình,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ViNghiaViTinh/vnvt_gt.html

18. Hồ Biểu Chánh (1929), Cha con nghĩa nặng,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ChaConNghiaNang/ccnn_gt.html

19. Hồ Biểu Chánh (1929), Khóc thầm,

77

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/KhocTham/kh_gt.html

20. Hồ Biểu Chánh (1930), Nặng gánh cang thường,

http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/NangGanhCangThuong/ngct_gt.ht ml

21. Hồ Biểu Chánh (1930), Con nhà

nghèo, http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ConNhaNgheo/cnn_gt.html 22. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản đại học và trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

23. Nhóm Lê Quý Đôn (1956 – 1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Xây

dựng, Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học – Vấn đề và suy

nghĩ, Nxb Giáo dục Hà Nội.

25. Nguyễn Văn Hầu (2012), Văn học miền Nam Lục tỉnh, tập một: miền Nam và văn

học dân gian địa phương, Nxb Trẻ.

26. Lý Tùng Hiếu (2012), Ngôn ngữ văn hoá vùng đất Sài Gòn và Nam bộ, Nxb Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giao thời 1900 – 1930,

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

28. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), Văn hoá Việt Nam truyền thống, một góc nhìn, Nxb

Thông tin và Truyền thông.

29. Nguyễn Khải (1985), Các nhà văn nói về văn, tập 1, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Nguyễn Khuê (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 31. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học (tập I, II), Nxb KHXH, Hà Nội. 32. Nhiều tác giả (2004), Nam Bộ, đất và người, tập 2, Nxb Trẻ. 33. Nhiều tác giả (2006), Hồ Biểu Chánh, người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam

hiện đại, Nxb Văn nghệ.

34. Nhiều tác giả (2010), Đông Nam Bộ vùng đất, con người, Nxb Quân đội Nhân

dân.

35. Thanh Lãng (1967), Bản lược đồ Văn học Việt Nam, 36. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam (1900 – 1945),

Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

37. Bình Nguyên Lộc, Biến cố và chiếc cầu Hồ Biểu Chánh, Tập san văn chương tư

tưởng nghệ thuật số 80: Tưởng niệm Hồ Chí Minh ra ngày 15/41967.

38. Huỳnh Lứa, Đặng Văn Thắng, Nhân Hoà…(2002), Nam Bộ đất và Người, Nxb

Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

39. Phương Lựu (chủ biên – 1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 40. Cao Xuân Mỹ, Mai Quốc Liên (1999), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX, Nxb

78

Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III), Quốc học

tùng thư xuất bản, Sài Gòn.

42. Võ Văn Nhơn, Con đường đến với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của hai nhà văn

tiên phong Nam Bộ, Tạp chí Văn học số 3 năm 2000.

43. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại (tái bản), Nxb Thăng Long, Sài Gòn. 44. Vũ Tiến Quỳnh (1993), Phê bình – bình luận văn học về Hồ Biểu Chánh, Nxb Văn

nghệ, Tp.HCM.

45. Trang Quang Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (2006), Hồ Biểu Chánh – người

mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Văn nghệ. 46. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và Cảo luận, Nxb Nam Ký, Hà Nội. 47. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

48. Trần Mạnh Tiến (2013), Lí luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX:

Chuyên khảo, Nxb Đại học sư phạm.

49. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và đạo đức, Nxb Trẻ. 50. Tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, Tập san văn chương tư tưởng nghệ thuật số 80

79

15/4/1967. Website www.hobieuchanh.com