TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
**********************
Đề tài:
PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : Thầy Nguyễn Quang Hiệp
Sinh viên thực hiện
Lớp : Trần Thị Liên
: Anh 5 K38B
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Tra Nội dung
ng
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN
TỬ …………… 4
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ..........… 4
1. Sự ra đời Chính phủ điện
tử……………………………………….. .…………… 4
2. Khái niệm về Chính điện phủ
tử………………………………………………… 11
3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền
thống ………… 16
II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ……………………………………………... 17
1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ -
G2G (Government to
Government)……………………………………………………… 17
2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B
(Government to
Business)………………………………………………………….. 17
3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C
(Government to
Citizen)……………………………………………..............................
................. 18
III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ………………………… 18
1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ
………………………………………………. 18
2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước 19
3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ
với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân
……………………………………. 21
CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở
MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
VỚI VIỆT NAM………….. 22
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI………………… 22
1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế
giới…………………………… 22
2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai………………
27
II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ………………….. 28
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ
……………………………………………… 28
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ
…………………………….. 29
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ
…………………………………………… 32
III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA …….. 38
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở 38
Australia…………………………………………
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của
Australia………………….. 39
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở
45
Australia…………………………………
IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE…… 47
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore
………………………………… 47
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore
………………………. 48
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore
……………………………………. 55
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC…… ……………………………………… 57
1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử
…………………. 57
2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ
điện tử…… 58
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH
PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM………………………………… 61
I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH
PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM………………………………………... 61
1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
……………………………. 61
2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử
………………………. 66
3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của
Chính
phủ………………………………………………………………………
……... 67
4. Cơ sở pháp lý
……………………………………………………………………. 67
5. Vấn đề bảo mật thông tin
……………………………………………………….. 69
6. Hệ thống thanh toán điện
tử……………………………………………………… 69
II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN
TỬ Ở VIỆT NAM…………………………………………………….. 71
1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước
…………………………. 71
2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ
……………… 80
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CHÍNH
PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM…………………….. 86
1. Định hướng Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông
tin và ứng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ
………………………….. 86
2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt
nam …………… 89
Kết luận……………………………………………………………... 93
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AGLS: Government Locator Service Standard
ATO: Australian Taxation Office
CIO: Chief Information Officer
G2B: Government to Business
G2C: Government to Citizen G2E:
Government to Employee
G2G: Government to Government
ICT: Information and Communication Technology
IEE: Internal Effectiveness and Efficiency
IMSC: Information Management Strategy Committee
IPT: Integrated Project Team
NOIE: National Office for the Information economy
OMB: Office of Management and Budget
RCB: Registry of Companies and Businesses
RCSA: Recruitment and Consulting Service Association
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng
trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định
các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường
quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó
đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính.
Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát
triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ
điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có
một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước
khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển
Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế
giới.
Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi
người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai
biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ
mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có
tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát triển
trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều năm
trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý nhà
nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các nước
khác.
Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với
nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em mạnh dạn
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 1
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam
lựa chọn đề tài: "PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ
NƯỚC - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM" với hy vọng
phần nào đó nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này cũng như đề xuất một
số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khoá luận bắt đầu bằng việc nghiên cứu những nội dung cơ bản về
Chính phủ điện tử với mục đích đem lại cái nhìn tổng quát, khách quan nhất
về Chính phủ điện tử. Từ đó, khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu về chiến lược và
tổng hợp một số dữ liệu về thực trạng phát triển Chính phủ điện tử ở một số
nước tiêu biểu, cụ thể là ba nước Mỹ, Australia và Singapore, qua đó rút ra một
số bài học kinh nghiệm về phát triển Chính phủ điện tử. Phần cuối cùng của bài
khoá luận sẽ dành để tìm hiểu và đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng
Chính phủ điện tử ở Việt nam, từ đó đề ra định hướng và một số kiến nghị
nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp
nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu; Phương pháp suy luận logic,
phương pháp so sánh.
4. Kết quả nghiên cứu
Qua nghiên cứu về chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ba nước Mỹ,
Singapore và Australia, khoá luận đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm
cho các nước đi sau. Khoá luận cũng đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chuẩn
bị cho phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.Từ đó, khoá luận đã mạnh
dạn đề xuất các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với khả năng
của nước ta.
5. Nội dung nghiên cứu
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 2
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về chính phủ điện tử
Chương II: Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh
nghiệm với Việt nam
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển Chính phủ điện tử ở
Việt nam
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy Nguyễn Quang Hiệp,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng
xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ em trong việc thu
thập tài liệu để hoàn thành khoá luận này.
Do trình độ còn hạn chế và thời gian cũng có hạn, khoá luận này chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn.
Hà nội, ngày 20/11/2003
Sinh viên
Trần Thị Liên
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 3
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử
Ngày nay người ta nói nhiều về Chính phủ điện tử (e-government). Một
khi mà Internet và thương mại điện tử ra đời, thì sự ra đời Chính phủ điện tử là
điều tất yếu. Trước kia, hầu hết chính phủ các nước phải giải quyết các vấn đề
kinh tế xã hội theo cách cũ, tức là hoàn toàn không có sự tham gia của công
nghệ thông tin và viễn thông. Như đã thấy ở hầu hết các nước, cơ cấu bộ máy
nhà nước bao gồm các Bộ như bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Thương mại, Bộ Khoa học và công nghệ… Trung bình mỗi chính phủ có
khoảng 50 tới 70 bộ hay cơ quan khác nhau ở trung ương. Mỗi bộ như vậy đều
có các cơ quan chức năng riêng. Việc phát hiện một cơ quan làm không đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình có thể là khó khăn. Tệ hơn, ngay cả các vấn đề
đơn giản như cấp giấy phép kinh doanh cho một doanh nghiệp, bán một căn nhà
hoặc đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh thì một số lớn các cơ quan khác nhau
đòi hỏi một số biểu mẫu khác nhau. Điều này là quá thừa và không cần thiết.
Hơn nữa, thủ tục giải quyết vấn đề về quản lý thường quá rườm rà, gây khó
khăn cho người dân khi có nhu cầu.
Ví dụ như phố Phoenix tỉnh thành Arizon thuộc bang SW Tây Nam nước
Mỹ, dân chúng thường xuyên phải chen lấn nối đuôi nhau để đăng ký lại xe hơi
và xe tải đã gây ồn ào và làm bẩn cả một khu vực trước trụ sở thành phố. Tình
trạng này đã xảy ra không riêng gì ở Mỹ mà ở hầu hết các
nước trên thế giới. Dân chúng quan hệ với các cơ quan, ban ngành của
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 4
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
chính phủ từ trung ương đến địa phương đều nằm trong tình trạng ảm đạm và
hao phí thời gian nên họ cũng muốn tránh né càng nhiều càng hay.
Một trong các lý do cơ bản làm cho khu vực công kém hiệu quả, quan
liêu là những việc xảy ra ở trên. Hệ thống tổ chức hàng dọc hay ngang của
các cơ quan có quá nhiều ban ngành tạo ra sự phức tạp cho cán bộ nhân viên
trong lúc thừa hành nhiệm vụ. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ các
nước trên thế giới đã tìm ra giải pháp áp dụng Internet và các thành tựu khác
của khoa học công nghệ để cải thiện hoạt động của bộ máy nhà nước.
Khả năng áp dụng Internet để cung cấp thông tin Chính phủ tới mọi
người ở mọi nơi mà không cần bất cứ khâu trung gian nào sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới bản thân các quan chức Chính phủ. Các doanh nghiệp nhỏ có thể thu thập
các quy tắc và các văn bản pháp luật dễ dàng hơn mà không cần phải thông
qua luật sư. Ngay cả người dân cũng có thể nộp thuế từ nhà riêng vừa đỡ tốn
thời gian tiền bạc vừa hiệu quả. Mặt khác, việc mọi người có thể chủ động hơn
khi truy cập các thông tin và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ cũng góp phần
hạn chế hiện tượng lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước, bảo vệ
quyền lợi cá nhân cho công dân và đảm bảo an toàn và bảo mật các thông tin
quan trọng của Chính phủ.
Mặc dù vẫn còn sớm để dự đoán những ảnh hưởng của Internet đối với
Chính phủ, nhưng có một điều chắc chắn rằng những ứng dụng của Internet
trong việc đưa thông tin và dịch vụ của Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mọi
lúc tạo ra cơ hội mở rộng, cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin và dịch
vụ của Chính phủ. Lợi ích của việc áp dụng Internet lại càng rõ ràng khi các
Chính phủ trên khắp thế giới đang tự chuyển đổi sang Chính phủ điện tử. Vậy lý
do của tất cả các hành động trên là gì và cơ sở hạ tầng thông tin đóng vai trò gì
trong việc này?
1.1. Lý do ra đời Chính phủ điện tử
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 5
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Có 4 lý do chính khiến Chính phủ các nước chuyển đổi sang Chính phủ
điện tử:
1.1.1. Tiết kiệm chi phí cho cả Chính phủ và dân chúng
Trên thế giới hầu hết các Chính phủ đều nằm trong tình trạng chịu gánh
nặng về chi phí. Mặc dù ở nhiều nước, khoản thu từ thuế tăng lên cùng với
tốc độ tăng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, các khoản chi
tiêu của Chính phủ vẫn tăng lên một cách nhanh chóng, nhất là khi dân số và
các yếu tố khác tăng làm cho các khoản chi dành cho lương hưu và các khoản
trợ cấp thất nghiệp, y tế tăng nhanh mỗi năm. Những khoản chi như vậy làm
cho ngân sách nhà nước ngày càng cạn kiệt, khiến cho Chính phủ phải vắt óc
nghĩ cách giảm chi phí. Chính phủ các nước thấy rằng áp dụng công nghệ
thông tin và viễn thông vào quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ
của Chính phủ vừa giúp giảm chi cho nhà nước vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc
cho các đối tượng sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Rõ ràng là sử dụng dịch vụ
thanh toán bằng điện sẽ nhanh hơn và rẻ hơn rất nhiều so với việc dùng tiền
mặt hay các phương tiện thanh toán truyền thống khác. Chính phủ cũng tiết kiệm
được rất nhiều nếu đăng tải các thông tin mời thầu trên mạng thay vì phải
đăng tải trên báo chí.
Từ năm 1996, thành phố Arizona của Mỹ đi tiên phong trong việc cho
phép dân chúng sử dụng dịch vụ đăng ký lại giấy phép lái xe qua trang Web.
Thay vì phải đứng xếp hàng cả buổi trước sở giao thông để chờ đến lượt mình
thì nay dân chúng có thể lên mạng đăng ký số xe, xin bảng số
24/24 giờ liên tục và 7 ngày một tuần. Nhờ giao dịch qua mạng nên mỗi giao
dịch rút lại trung bình chỉ còn 2 phút và người dân cũng tiết kiệm được chi phí
do không phải đóng lệ phí cho Sở Giao thông như trước đây.
Website này do IBM xây dựng, bảo quản và công ty này được trả 2% trên
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 6
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
trị giá của giao dịch. Tiến trình thực hiện trên mạng chỉ tốn 1,6 USD so với
6,6USD cho mỗi giao dịch tại Sở. Việc này tiết kiệm cho Chính phủ một số
tiền lớn, Sở Giao thông tiết kiệm được 1,7 triệu USD mỗi năm nhờ cung cấp dịch
vụ qua mạng. (Nguồn: Kinh tế học Internet: Từ thương mại điện tử đến Chính
phủ điện tử - Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001)
1.1.2. Áp lực cạnh tranh từ khu vực tư nhân
Ngoài vấn đề chi phí, Chính phủ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày
càng tăng và phức tạp từ khu vực tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường và
môi trường cạnh tranh tự do hiện nay, sản phẩm và dịch vụ khách hàng do
khu vực tư nhân cung cấp ngày càng tăng về cả lượng và chất. Các công ty
đang rất tích cực tìm hiểu thị hiếu và tâm lý khách hàng để tìm cách khác biệt
hoá sản phẩm và dịch vụ của mình so với các công ty khác. Mặc dù việc này
mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội, song nó lại làm nảy sinh
một vấn đề quan trọng, đó là khi các khách hàng được hưởng dịch vụ ngày
càng tốt từ khu vực tư nhân thì họ lại càng mong đợi một dấu hiệu tương tự từ
các dịch vụ của Chính phủ. Trước đây, khi Chính phủ cung cấp thông tin và dịch
vụ phục vụ người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp dịch vụ
đó luôn là vấn đề được xem xét đầu tiên, sau đó mới đến chất lượng dịch vụ.
Nếu cứ trong tình trạng này thì chất lượng dịch vụ do Chính phủ cung cấp
không bao giờ cạnh tranh được với chất lượng dịch vụ của khu vực tư nhân. Vì
vậy, các công dân càng được hưởng dịch vụ tốt bao nhiêu từ khu vực tư nhân
lại càng yêu cầu bấy nhiêu từ các dịch vụ do Chính phủ cung cấp.
1.1.3. Công nghệ thông tin và viễn thông đang cải thiện chất lượng dịch vụ
ở khắp mọi nơi
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, Chính
phủ cũng nhận thấy áp dụng khoa học công nghệ là một biện pháp
hữu hiệu để cải thiện chất lượng dịch vụ. Nếu một sinh viên đại học có thể
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 7
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
đăng ký lớp cho mình qua mạng từ nhà hay từ ký túc xá thì tại sao Chính phủ
lại không thể cho phép công dân của mình nộp thuế theo cách tương tự như vậy?
Khi công nghệ góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Chính phủ theo hướng
tích cực cả về tính kinh tế lẫn tính kỹ thuật thì Chính phủ không còn sự lựa
chọn nào khác là phải đi theo chiều hướng chung đó. Sử dụng công nghệ hiện
đại, thoạt tiên các viên chức Chính phủ cần phải giải quyết với nhiều loại giao
dịch phong phú hơn với công dân và do đó phải có kiến thức sâu rộng hơn về
công nghệ.
Các tổ chức Chính phủ cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Trước kia, nếu
một công dân muốn xin giấy phép lái xe, đăng ký xe hay muốn nộp thuế, anh
ta sẽ phải đến ba cơ quan nhà nước khác nhau. Chỉ để thực hiện một dịch vụ rất
đơn giản mà phải đi đến rất nhiều nơi và thực hiện nhiều thủ tục rườm rà. Để
giải quyết tình trạng này, Chính phủ cần phải rút gọn lại bộ máy hành chính của
mình. Như vậy thì một công dân thất nghiệp khi muốn hưởng trợ cấp thất nghiệp,
bồi thường hay trợ cấp về y tế có thể ngồi ở nhà và yêu cầu qua điện thoại hay
một máy tính cá nhân thay vì cứ phải đi đến 4, 5 cơ quan khác nhau của Chính
phủ để yêu cầu.
1.1.4. Tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế
Các Chính phủ dân chủ tự do trên thế giới thấy rằng Chính phủ cũng là
một thành viên quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chính
phủ ngày nay nhận thức rõ rằng Chính phủ cần thực hiện thêm chức năng tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số- một động lực
phát triển kinh tế của thế kỷ 21. Vai trò mới này của Chính phủ yêu cầu phải
có nhiều công cụ quản lý hơn ngoài các công cụ truyền thống.
Cơ sở hạ tầng vật chất cũ như hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
ống, hệ thống phân phối ga và điện vẫn quan trọng, song chúng cần phải
được bổ sung thêm các cơ sở hạ tầng mới như mạng điện thoại cố định,
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 8
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
điện thoại không dây, vệ tinh, Internet không dây,… Nếu không có cơ sở hạ
tầng viễn thông tiên tiến cũng như hệ thống giáo dục và hệ thống kỹ thuật số
hiện đại cho các dịch vụ của Chính phủ thì nước đó sẽ không có lợi thế cạnh
tranh so với các nước khác.
Trên đây là một số lý do chính khiến cho Chính phủ các nước, nhất là
các nước phát triển, phải nhanh chóng gấp rút tạo tiền đề, cơ sở vật chất kỹ
thuật để chuyển đổi sang Chính phủ điện tử và đặt ra mục tiêu cho chiến lược
Chính phủ điện tử của mình.
Bảng dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về mục tiêu mà Chính phủ
các nước G7 và một số nước khác đặt ra trong chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử.
Tên nước Mục tiêu
Úc Đến năm 2001 tất cả các dịch vụ Chính phủ sẽ được thực hiện
trên mạng.
Canada Đến năm 2004 tất cả các dịch vụ Chính phủ quan trọng sẽ được
cung cấp trực tuyến.
Phần lan Tới năm 2000, đa số các biểu mẫu sẽ được điện hoá.
Pháp Năm 2000, tất cả chính quyền các cấp phải phổ cập truy cập dịch
vụ và thông tin Chính phủ qua mạng.
Đức Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.
Ailen Cung cấp hầu hết các loại dịch vụ Chính phủ qua trên mạng vào
cuối năm 2001.
Ý Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 9
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Nhật bản Tất cả các thủ tục như đăng ký, xin cấp giấy phép và các thủ tục
khác sẽ được cung cấp trên mạng Internet vào năm tài chính
2003.
Singapore Thực hiện các dịch vụ thanh toán điện tử vào năm 2001.
UK 100% dịch vụ công sẽ được thực hiện bằng điện vào năm
2005.
Mỹ Phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng vào
năm 2003.
Nguồn: Central Internet Unit (2000)
1.2. Các nhân tố thúc đẩy sự ra đời Chính phủ điện tử
1.2.1. Toàn cầu hoá
Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay,
các quốc gia trở nên gắn bó với nhau về kinh tế, văn hoá và xã hội. Sự phụ thuộc
lẫn nhau về văn hoá và xã hội giữa các nước khác nhau là cơ sở cho việc hình
thành nền văn hoá toàn cầu. Để tham gia vào sự hình thành nền văn hoá toàn
cầu này cũng như việc được thừa nhận những nét đặc sắc trong văn hoá của
mình, các quốc gia phải tìm cách giúp đỡ các công dân và các tổ chức kinh
doanh của mình cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó việc cung
cấp thông tin cho các công ty trong nước, giúp đỡ các công ty trong nước
cũng như các công ty nước ngoài hoạt động cần phải có sự tham gia của
Chính phủ. Nếu vẫn cứ tồn tại dưới hình thức Chính phủ cũ trước kia, tức là
không có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc cung cấp thông tin và
dịch vụ, thì Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của
mình. Chính phủ điện tử ra đời có thể dễ dàng đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hoá
bằng cách áp dụng công nghệ hiện
đại.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 10
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá, các quốc gia cần trao
đổi thông tin một cách hiệu quả để cùng giải quyết những vấn đề mang tính
toàn cầu như bảo vệ môi trường, chia sẻ các nguồn tài nguyên chiến lược và
những vấn đề khác không thể được giải quyết bởi từng quốc gia riêng lẻ. Chính
phủ điện tử hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu này bởi Chính phủ điện tử
giúp rút ngắn không gian và tiết kiệm thời gian, tạo ra khả năng kiểm soát các
"rủi ro toàn cầu" một cách hiệu quả.
1.2.2. Thị trường hoá
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các công ty đang
tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử nhằm thu lợi nhuận tối đa.
Thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông, các công ty có thể
giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ từ đó thu hút được nhiều
khách hàng hơn. Như vậy nếu Chính phủ điện tử được nhìn nhận như một nhà
cung cấp dịch vụ, mà vẫn sử dụng các phương thức truyền thống thì sẽ gặp phải
sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Chính phủ cần phải áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tiến chất lượng dịch vụ, xây dựng một cơ sở
hạ tầng quản lý và bảo mật thông tin thì mới có khả năng đáp ứng được yêu
cầu của công dân và doanh nghiệp.
Qua một số phân tích ở trên chúng ta đã hiểu phần nào lý do khiến
Chính phủ điện tử lại là mơ ước chung của Chính phủ các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi Chính phủ điện tử là gì thì mỗi nước lại có một
khái niệm khác nhau. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về
Chính phủ điện tử.
2. Khái niệm về Chính phủ điện tử
2.1. Khái niệm
Với một thuật ngữ mới như Chính phủ điện tử thì khó có thể đưa ra một
khái niệm đúng đắn, rõ ràng và thoả mãn tất cả các đối tượng. Thật sai Khoá luận
tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 11
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
lầm khi cho rằng Chính phủ điện tử là mạng máy tính trang bị cho các cơ quan
Chính phủ và việc sử dụng mạng này của các quan chức Chính phủ từ cấp cao
nhất đến các chuyên viên để thực hiện các công việc của mình. Chính phủ điện
tử tuyệt nhiên không phải là điện toán hoá các cơ quan Chính phủ. Điện toán
hoá các cơ quan Chính phủ là việc cần làm trong tiến trình tạo dựng từng bước
Chính phủ điện tử, nhưng đó chỉ là biện pháp chứ không phải là mục tiêu. Thoạt
nhìn, Chính phủ điện tử giống như việc áp dụng các phương pháp kinh doanh
điện tử vào các dịch vụ do Chính phủ cung cấp như thông tin Chính phủ, cấp
giấy phép lái xe… Tuy nhiên nhiều tác giả và nhiều nhà kinh tế học lại đưa ra
các khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử.
Theo Sally Katzen, phó giám đốc điều hành cơ quan quản lý ngân sách
thời tổng thống B.Clinton thì "Chính phủ điện tử là việc mọi công dân và doanh
nghiệp có thể truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ
24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. Chính phủ điện tử chủ yếu dựa vào các cơ quan
Chính phủ sử dụng Internet và các công nghệ tiên tiến khác để nhận và cung
cấp thông tin, dịch vụ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và rẻ hơn."
(Nguồn: http://www.whitehouse.gov/).
Cách hiểu này đã được nêu trong nhiều chiến lược về Chính phủ điện tử
của các quốc gia, có thể coi đây là khái niệm đúng nhất về Chính phủ điện tử.
Dưới thời tổng thống G.Bush hiện nay còn xuất hiện một khái niệm rộng
hơn về Chính phủ điện tử như sau: "Bằng việc cung cấp cho các cá nhân khả
năng tham gia vào bộ máy hành chính liên bang để truy cập thông tin và giao
dịch kinh doanh, Internet hứa hẹn trao bớt quyền lực từ tay các nhà lãnh đạo
trong chính quyền Washington vào tay các công dân
Mỹ. Tổng thống G.Bush tin tưởng rằng việc người dân có thể truy cập
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 12
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
thông tin và dịch vụ Chính phủ dễ dàng hơn chính là bước đầu tiên của
Chính phủ điện tử." (Nguồn: http://www.whitehouse.gov/).
Tổng thống G.Bush tin rằng Chính phủ điện tử sẽ đem lại khả năng tái
thiết bộ máy hành chính quan liêu của liên bang. Đến đây lại có một câu hỏi là
Chính phủ điện tử chỉ tập trung vào việc tiếp nhận, phổ biến thông tin và cung
cấp dịch vụ hay còn bao gồm cả các phương thức điều hành xã hội truyền
thống? Chúng ta thấy rằng hiện nay còn xuất hiện khái niệm "Nền dân chủ điện
tử (e-democracy)". Do vậy, để trả lời được câu hỏi trên nhất thiết phải phân biệt
sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Nền dân chủ điện tử.
Rogers W'O Okot-Uma, tác giả cuốn "E- democracy: Re-inventing Good
Governance" cho rằng "Theo nghĩa rộng, Nền dân chủ điện tử đề cập đến tất
cả các phương tiện thông tin bằng điện tử giữa Chính phủ và công dân. Theo
nghĩa hẹp, Nền dân chủ điện tử bao gồm tất cả phương tiện thông tin
điện tử giữa cử tri và những người đắc cử."
(http://www1.worldbank.org/)
Dân chủ điện tử là việc các cá nhân và các tổ chức có thể tham gia trực
tiếp vào quá trình ra quyết định của Chính phủ thông qua các phương tiện điện
tử như mạng World Wide Web. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù
Chính phủ điện tử và Dân chủ điện tử không loại trừ lẫn nhau, nhưng lại khác
nhau ở chỗ Nền dân chủ điện tử tập trung vào cơ cấu và quá trình thực hiện
các chức năng của Chính phủ, đặc biệt là việc điều hành xã hội. Trong khi đó,
Chính phủ điện tử là Chính phủ tập trung vào việc cung cấp dịch vụ điện tử tới
công chúng. Nói một cách ngắn gọn hơn Chính phủ điện tử đề cập đến việc cung
cấp dịch vụ, còn Nền dân chủ điện tử đề cập đến việc sự tham gia của dân chúng
vào Chính phủ.
2.2. Ba giai đoạn của Chính phủ điện tử
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 13
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ các nước có các chiến lược khác nhau để xây dựng Chính phủ
điện tử. Một số nước lập ra các kế hoạch dài hạn trên mọi lĩnh vực, một số lại
chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực khi bắt đầu dự án xây dựng Chính phủ điện
tử. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang xây dựng thành công Chính phủ điện tử
chọn cách chia dự án phát triển Chính phủ điện tử làm 3 giai đoạn nhỏ. Các giai
đoạn này không phụ thuộc lẫn nhau, tức là không cần phải giai đoạn này hoàn
thành thì giai đoạn kia mới bắt đầu.
2.2.1. Giai đoạn sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để mở rộng truy
cập thông tin của Chính phủ
Chính phủ tạo ra khối lượng lớn thông tin, hầu hết các thông tin này đều
có ích đối với cá nhân và doanh nghiệp. Internet và các công nghệ thông tin
hiện đại khác có thể chuyển các thông tin này nhanh chóng hơn và trực tiếp tới
công dân. Việc thực hiện giai đoạn này rất đa dạng về nội dung, do đó mỗi
nước cần dựa vào khả năng của mình để có cách triển khai phù hợp. Chẳng hạn
đối với các nước đang phát triển, cơ sở tầng phục vụ cho việc phát triển và triển
khai Chính phủ điện tử còn kém so với các nước công nghiệp, nên bắt đầu giai
đoạn này bằng việc phổ biến thông tin Chính phủ trên mạng, tập trung phổ biến
các điều lệ, quy tắc, các văn bản pháp luật… Đối với các quốc gia có nhiều
hiện tượng quan chức Chính phủ làm việc kém hiệu quả và tham nhũng thì
việc tạo cho công dân và doanh nghiệp khả năng truy cập thông tin Chính phủ
mà không cần phải tới các cơ quan hành chính, đứng xếp hàng hàng giờ và thậm
chí đưa hối lộ là một cuộc cách mạng thực sự.
Khi triển khai thực hiện giai đoạn này cần chú ý những điểm sau:
- Bắt đầu bằng việc phổ biến thông tin trực tuyến;
- Truyền đạt thông tin có ích tới công chúng hàng ngày, chú ý tới ngôn
ngữ địa phương;
- Luôn cập nhật thông tin trên trang Web của Chính phủ;
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 14
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
- Tập trung vào những nội dung phục vụ phát triển kinh tế, chống tham
nhũng, thu hút đầu tư nước ngoài…
2.2.2. Giai đoạn tăng cường sự tham gia của người dân vào Chính phủ
Như đã nói ở trên, các trang Web phổ biến thông tin Chính phủ chỉ là
bước đầu của Chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử phải có khả năng lôi kéo, thu
hút dân chúng tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, kết hợp với các nhà
hoạch định chính sách ở mọi cấp của Chính phủ. Củng cố, tăng cường sự tham
gia này sẽ tạo dựng được lòng tin từ phía công chúng vào Chính phủ.
Những điểm cần lưu ý khi xây dựng trang Web tương tác giữa
Chính phủ và dân chúng:
- Phải cho công chúng thấy kết quả của việc họ tham gia vào các hoạt
động của Chính phủ;
- Phân tích, lý giải những vấn đề chính sách phức tạp một cách dễ
hiểu;
- Thuyết phục công chúng tham gia;
- Sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến kiến thức về
Internet.
Khi thực hiện giai đoạn này, các Chính phủ cần chú ý lập ra những diễn
đàn giữa Chính phủ và công dân. Những diễn đàn như vậy sẽ tạo ra những
cuộc thảo luận trực tuyến trong đó mọi người có thể tham gia trao đổi ý kiến
về những vấn đề chính sách của chính phủ.
2.2.3. Giai đoạn cung cấp rộng rãi các dịch vụ của Chính phủ qua mạng
Chính phủ có thể bắt đầu bằng việc cho phép người dân thực hiện giao
dịch qua mạng. Chính phủ chịu áp lực từ phía khu vực tư nhân khi khu vực
này bắt đầu thực hiện giao dịch kinh doanh trên mạng. Thêm vào
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 15
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
đó, khả năng sử dụng giao dịch qua mạng làm giảm chi phí, tăng năng suất cũng
là một nguyên nhân quan trọng khiến Chính phủ phải suy tính. Trước kia, các
dịch vụ của Chính phủ như đăng ký hộ tịch hay ra hạn thẻ căn cước phải mất
một thời gian dài chờ đợi hàng giờ để gặp được các quan chức chính phủ có
trách nhiệm hay thậm chí là phải đút lót. Bằng cách cung cấp dịch vụ trực
tuyến, chỉ cần ngồi ở nhà hay tại nơi làm việc, trạm điện thoại và bật máy vi
tính lên để nối vào mạng của Chính phủ, bạn sẽ nhận được nhiều dịch vụ do
các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp.
Có lẽ động lực lớn nhất trong việc cung cấp các dịch vụ trên mạng là để
rút gọn, tinh giảm bộ máy nhà nước và quá trình thực hiện các thủ tục hành
chính từ đó tiết kiệm tiền bạc và nâng cao hiệu quả trong dài hạn. Thêm vào
đó, bằng cách tự động hoá các thủ tục hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực
thu thuế, Chính phủ hi vọng sẽ hạn chế được hiện tượng tham nhũng, tăng thu
cho ngân sách nhà nước trong khi vẫn duy trì được lòng tin của dân chúng vào
Chính phủ.
Một ví dụ điển hình là hệ thống thu lệ phí xa lộ ở tỉnh Gujarat của Ấn
độ. Đây là tỉnh có hiện tượng đa số tiền lệ phí cầu đường đều chui vào túi của
nhân viên thu phí. Từ khi lập ra hệ thống tính và thu phí tự động, hiện tượng
thất thu phí đã giảm hẳn. Sau một năm áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ,
sự trì trệ và hiện tượng tham nhũng đã giảm đáng kể trong khi doanh thu từ phí
cầu đường tăng 3 lần.
3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử nhưng
chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung về Chính phủ điện tử như sau:
Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn
thông để tự động hoá và triển khai các thủ tục hành chính.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 16
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ điện tử cho phép các công dân có thể truy cập các thủ tục
hành chính thông qua các phương tiện điện tử như Internet, điện
thoại di động, truyền hình tương tác.
Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7
ngày mỗi tuần và 365 ngày mỗi năm, người dân có thể thụ hưởng các
dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu.
Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm
khác so với Chính phủ truyền thống. Với Chính phủ truyền thống, quá trình
quản lý hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước diễn ra thủ công, tốn
nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Dân chúng không thể liên lạc với Chính
phủ ngoài giờ hành chính, không thể ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ
quan nhà nước. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh doanh, làm
khai sinh cho con mình hay đóng thuế trước bạ
24/24 giờ, 7/7 ngày và ở bất cứ đâu. Chính phủ điện tử có thể khắc phục
được những hạn chế này của Chính phủ truyền thống.
Ngoài ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ
truyền thống là sự khác biệt về tốc độ xử lý giữa các thủ tục hành chính được
tự động hóa so với các thủ tục hành chính được xử lý thủ công. Việc tự động
hoá thủ tục hành chính của Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh
hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất nhiều. Không những thế, thông tin được cung
cấp cho người dân còn đầy đủ, chính xác và dễ dàng hơn, người dân cũng đỡ
mất nhiều chi phí để thu thập các thông tin này.
Nói tóm lại Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện đại hơn nhiều so
với Chính phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan
Chính phủ các cấp sẽ tiến dần từng bước tới và có lẽ không bao giờ có thể nói
rằng Chính phủ điện tử đã được xây dựng xong.
II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 17
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Đối tượng sử dụng dịch vụ Chính phủ bao gồm cơ quan Chính phủ các
cấp, doanh nghiệp, công dân và các nhân viên Chính phủ. Bốn đối tượng chính
trên tương ứng với 4 hình thức cung cấp dịch vụ chính:
1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G
(Government to Government)
Nhiều dịch vụ công dân và các bản báo cáo quan trọng rất cần sự liên
kết giữa chính quyền các cấp. Mục đích của hính thức cung cấp dịch vụ từ
Chính phủ đến Chính phủ (G2G) này là để tạo lập và củng cố mối quan hệ
giữa chính quyền các cấp với nhau. Những mối quan hệ mới này sẽ thúc đẩy sự
liên kết giữa các cơ quan trong nội bộ Chính phủ nhằm mục đích cung cấp các
dịch vụ phục vụ dân chúng ngày càng tốt hơn.
2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B
(Government to Business)
Điều quan trọng cần phải ghi nhớ là G2B là một yếu tố quan trọng góp
phần tăng tính cạnh tranh của thị trường trong nước và tạo mối quan hệ lâu dài,
đôi bên cùng có lợi giữa chính phủ và doanh nghiệp.
Mục đích của hình thức G2B này là nhằm giảm bớt gánh nặng cho các
doanh nghiệp trong việc truy cập thông tin Chính phủ như các quy tắc luật điều
chỉnh việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trang Web
BusinessLaw.gov của Chính phủ Mỹ là một ví dụ điển hình về hình thức cung
cấp dịch vụ từ Chính phủ đến doanh nghiệp. Qua trang Web này các doanh
nghiệp có thể truy cập các thông tin, các nghị định và các văn bản pháp luật
khác. Cũng trên trang Web này các doanh nghiệp có thể sử dụng ngay các dụng
cụ chuyên ngành để tìm hiểu xem các văn bản luật yêu cầu
gì đối với công việc kinh doanh của mình.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 18
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C
(Government to Citizen)
Mục đích của hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ tới Công dân này
là để cung cấp thông tin và dịch vụ trực tuyến tới mọi người dân. Dân chúng có
thể thu thập các thông tin liên quan tới cuộc sống hàng ngày của mình và sử
dụng các dịch vụ của Chính phủ một cách nhanh chóng và tiết kiệm thông qua
việc kết nối vào mạng của Chính phủ. Ở hầu hết các nước, hình thức cung cấp
dịch vụ này của Chính phủ đang trong quá trình triển khai và cũng đã đạt một
số kết quả nhất định.
III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ
Trong kỷ nguyên Chính phủ điện tử, mọi công dân có thể được hưởng
các dịch vụ của Chính phủ mọi lúc, mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục
vụ nhiệt tình hơn. Chính phủ điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hoàn
thành các yêu cầu của Chính phủ trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ
doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế ngay trên mạng. Chính
phủ điện tử có thể khiến cho các cá nhân truy cập thông tin và dịch vụ liên
quan đến mình qua một cửa duy nhất. Các thông tin được cung cấp của Chính
phủ điện tử luôn đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu của từng cá nhân riêng lẻ.
Nói chung, Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân cũng
như các doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các lợi ích sau:
Cung cấp đầy đủ thông tin cho mọi đối tượng;
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính;
Đảm bảo việc xử lý các thủ tục hành chính một các công khai, công
bằng, tin cậy, ổn định và kịp thời;
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 19
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Tiết kiệm thời gian và tiền bạc;
Tăng tính thuận tiện khi sử dụng các dịch vụ của Chính phủ;
…
2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước
Chính phủ điện tử góp phần làm trong sáng bộ máy nhà nước, hạn chế
và loại trừ hiện tượng tham nhũng. Bảng dưới đây thể hiện các loại thông tin
có thể đạt được tính minh bạch thông qua Chính phủ điện tử, làm
nản lòng các quan chức quan liêu tham nhũng trong Chính phủ.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 20
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Loại thông tin Lợi ích Ví dụ
- Các quy tắc và thủ tục - Tiêu chuẩn hoá các Công khai ngân sách ở
về dịch vụ thủ tục cung cấp dịch Argentina và
vụ Karnataka, Ấn độ - Tên các quan chức
- Hạn chế sự trì hoãn Chính phủ
- Giảm tính chuyên - Thông tin về công dân
quyền của các viên
chức chính phủ.
Kết quả của các quyết Giảm tình trạng tham E-procurement ở
nhũng định của Chính phủ. Chile, Philippines.
Dữ liệu về nhà đất, tiền - Công khai tình trạng ăn Bhoomi, Các báo cáo
thanh toán các khoản hối lộ và tham nhà đất trực tuyến ở
thuế… nhũng Karnataka, Ấn độ
- Trao nhiều quyền lực
hơn cho công dân tham
gia vào các hoạt động
của chính phủ
Các quyết định của Theo dõi các hành Hải quan trực tuyến,
chính phủ như cấp động đút lót, hối lộ, OPEN ở Seoul, Hàn
phép, cấp giấy thông mua chuộc quốc
hành cho hàng hoá…
OPEN: Online Procedures Enhancement for Civil Applications
Nguồn: "Administrative Corruption: How Does E-Government Help?",
Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management,
Ahmedabad, India.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 21
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Ngoài ra, bộ máy nhà nước có thể được tinh giảm nhờ áp dụng công nghệ
thông tin, giúp tiết kiệm ngân sách dành cho chi phí quản lý, tiết kiệm thời gian
và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động của các cơ quan Chính phủ.
3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ
với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân
Tương tự như thương mại điện tử cho phép các nghiệp giao thương với
nhau một cách có hiệu quả hơn (B2B) và tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận
gần hơn với doanh nghiệp (B2C), Chính phủ điện tử cũng hướng tới việc tạo ra
mối quan hệ tương hỗ Chính phủ - công dân (G2C), Chính phủ - doanh nghiệp
(G2B), và quan hệ giữa chính các cơ quan công quyền (G2G) ngày càng thân
thiện hơn, thuận lợi hơn và công khai hơn. Các mối quan hệ này có thể được
duy trì thường xuyên, liên tục nhờ có các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại,
đỡ tốn thời gian.
Trong dài hạn, các dịch vụ điện tử có thể giúp giảm chi phí cung cấp dịch
vụ của Chính phủ. Người dân cũng ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều dịch
vụ điện tử của Chính phủ vì họ không cần phải đến, viết thư hoặc gọi điện
thoại tới một cơ quan Chính phủ để yêu cầu thực hiện một dịch vụ cụ thể. Với
ngày càng nhiều dịch vụ được cung cấp trực tuyến, Chính phủ điện tử sẽ là một
cuộc cách mạng trong mối quan hệ giữa Chính
phủ và công dân.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 22
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
CHƯƠNG II
PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT
TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới
(Nguồn : Global E-government Full Report, 2003 -
www.insidepolitics.org/egovt03int.html)
Theo báo cáo về tình hình phát triển Chính phủ điện tử điện tử toàn cầu
của Darrell M. West, trường Đại học Brown ở Providence, Rhode Island vào
tháng 9 năm 2003, tình hình phát triển Chính phủ điện tử của các nước trên
thế giới tiến bộ rất nhiều so với các năm trước. Đây là báo cáo được hầu hết
các quốc gia sử dụng trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử. Những dữ
liệu phân tích được lấy từ 2166 trang Web của Chính phủ ở 198 quốc gia khác
nhau cho thấy:
- 16% Website của Chính phủ đã thực hiện cung cấp dịch vụ trên
mạng, tăng 12% so với năm 2002.
- 89% Website cung cấp các ấn phẩm và 73% Website cho phép kết nối
với các cơ sở dữ liệu khác.
- 75% Website của Chính phủ sử dụng tiếng Anh.
- 51% Website đa ngôn ngữ, tức là sử dụng từ hai đến ba ngôn ngữ.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 23
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Các quốc gia trên thế giới có tốc độ phát triển Chính phủ điện tử khác
nhau phụ thuộc vào từng khu vực. Cao nhất vẫn là các nước Bắc Mỹ, sau đó đến
Châu Á, Tây Âu, các quốc gia thuộc Thái Bình Dương, Trung Đông, Đông Âu,
Nga và Trung Á, Nam Mỹ, Trung Mỹ và cuối cùng là Châu Phi.
Bảng: Tỷ lệ các quốc gia thực hiện Chính phủ điện tử giữa các khu vực
trên thế giới (Đơn vị %)
Khu vực 2001 2002 2003
Bắc Mỹ 51.0 60.4 40.2
Tây Âu 34.1 47.6 33.1
Đông Âu -- 43.5 32.0
Châu Á 34.0 48.7 34.3
Trung đông 31.1 43.2 32.1
Nga và Trung Á 30.9 37.2 29.7
Nam Mỹ 30.7 42.0 29.5
Các quốc đảo Thái Bình Dương 30.6 39.5 32.1
Trung Mỹ 27.7 41.4 28.6
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 24
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Châu Phi 23.5 36.8 27.6
Hầu hết các trang Web của Chính phủ được thiết kế để cung cấp đầy đủ
thông tin phục vụ dân chúng như các ấn phẩm và các cơ sở dữ liệu khác. Đa
số các trang Web không cung cấp phim ảnh và ca nhạc. Đây là đặc điểm
chung của các Website của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn có khoảng
8% Website cung cấp các dịch vụ nghe nhạc và xem phim.
Về dịch vụ trên mạng, trong số các trang Web của Chính phủ được
điều tra có 16% Website cung cấp dịch vụ trực tuyến, tăng 12% so với năm
2002. Trong đó, 9% chỉ cung cấp một dịch vụ, 3% cung cấp 2 dịch vụ, 4% cung
cấp từ 3 dịch vụ trở lên, 84% không cung cấp dịch vụ nào. Hầu hết các dịch
vụ được thực hiện trên trang Web của Chính phủ đều là các loại dịch vụ như
gửi kiến nghị, đặt các ấn phẩm, tìm kiếm việc làm, đăng ký giấy thông hành
và gia hạn giấy phép lái xe.
Bắc Mỹ (bao gồm Mỹ, Canada và Mehicô) là khu vực có tỷ lệ dịch vụ
thực hiện trực tuyến lớn nhất, tới 45%, tăng so với 41% năm 2002. Dưới đây
là bảng xếp hạng các khu vực có tỷ lệ các Website của Chính
phủ thực hiện dịch vụ trực tuyến lớn nhất:
Khu vực 2001 2002 2003
Bắc Mỹ 28% 45% 41%
Các quốc đảo Thái Bình Dương 19 14 17
Châu Á 12 26 26
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 25
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Trung Đông 10 24 15
Tây Âu 17 9 10
Đông Âu -- 6 2
Trung Mỹ 4 4 9
Nam Mỹ 3 14 7
Nga và Trung Á 2 1 1
Châu Phi 2 2 5
Một trong những đặc điểm làm chậm tốc độ phát triển của các dịch vụ
trực tuyến là không thể sử dụng được thẻ tín dụng và chữ ký số trong các giao
dịch tài chính. Trong khi đó ở các trang Web tư việc này rất phổ biến. Tuy vậy,
đã có 2% Website của Chính phủ chấp nhận sử dụng thẻ tín dụng và 0,1% cho
phép dùng chữ ký số trong các giao dịch tài chính, ví dụ như trang Web của
Chính phủ Singapore và Đan Mạch.
Về thông tin cá nhân và tính an toàn bảo mật: đây là nỗi băn khoăn lo
lắng của mọi công dân về Chính phủ điện tử. Chỉ khi đảm bảo được an toàn
thông tin cá nhân thì mới có thể trấn an được dân chúng và khuyến khích mọi
người sử dụng nhiều dịch vụ công trên mạng. Tuy vậy, chỉ có một số ít các
trang Web của Chính phủ là chú ý tới điều này. Đa số đều
nằm trong các lĩnh vực mà Chính phủ cho là quan trọng. Chính phủ điện tử
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 26
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
sẽ không được triển khai một cách nhanh chóng trừ phi dân chúng cảm
thấy an toàn khi sử dụng thông tin và dịch vụ trên mạng.
Bảng: Tỷ lệ trang Web có độ an toàn thông tin cá nhân cao ở các
nước
New Nhật Đài Singapore Canada Mỹ Úc Anh Zealand Bản Loan
90% 65% 62% 39% 30% 21% 15% 12%
Các nước được điều tra trong báo cáo này được đánh giá về chỉ số phát
triển Chính phủ điện tử theo thang điểm từ 0 đến 100. Chỉ số này chủ yếu dựa
trên khả năng sẵn có các thông tin, cơ sở dữ liệu và số lượng các dịch vụ trực
tuyến. Sau đây là bảng xếp hạng một số nước về việc phát
triển Chính phủ điện tử :
Singapore 46.3 Mỹ 45.3
Canada 42.4 Úc 41.5
Đài Loan 41.3 Thổ Nhĩ Kỳ 38.3
Anh 37.7 Malaysia 36.7
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 27
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Vatican 36.5 Austria 36.0
Thuỵ Điển 35.9 Trung Quốc 35.9
New Zealand 35.5 Phần Lan 35.5
Philippines 35.5 Đan Mạch 35.5
Hồng Kông 34.5 Đức 34.4
Nhật 34.2 Pháp 33.8
Cộng hoà Séc 33.8 Brunei 32.8
Thái land 32.4 Đông Timo 32.6
Campuchia 31.0 Vietnam 30.5
Myanma 28.0 Indonesia 24.0
Irăc 20.0 Lào 19.0
2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai
Xu hướng phát triển Chính phủ điện tử đang trở thành một tất yếu
khách quan. Có rất nhiều lý do khiến các nước không thể bỏ qua cơ hội phát
triển Chính phủ điện tử. Lý do quan trọng nhất chính là những lợi ích mà Chính
phủ điện tử đem lại. Không thể phủ nhận một điều rằng Chính phủ điện tử đã
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 28
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
nước vốn cồng kềnh, quan liêu và trì trệ với một khối lượng công việc khổng
lồ. Ứng dụng công nghệ thông tin viễn thông vào hoạt động của Chính phủ là
chìa khoá của mọi thành công mà Chính phủ các nước công nghiệp phát triển
đã đạt được. Đó chính là những bước khởi đầu trong chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử mà hầu hết các nước trên thế giới đang đeo đuổi.
Hiện nay, Singapore, Mỹ, Canada và Australia là 4 nước đứng đầu trên
thế giới về phát triển Chính phủ điện tử. Singapore là nước công nghiệp mới
duy nhất được nằm trong tốp các nước dẫn đầu, còn lại hầu hết là các nước phát
triển. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử ở các nước đang phát triển kém
khả quan hơn nhiều, họ còn một khoảng cách rất xa mới đuổi kịp các nước đi
trước. Tuy nhiên, khi Chính phủ điện tử diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các
nước đang và kém phát triển có thể rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để
rút ngắn thời gian triển khai Chính phủ điện tử. Như vậy, trong năm tới, năm
2004, tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới sẽ có nhiều chuyển
biến tích cực. Các nước đi tiên phong về Chính phủ điện tử đang tiếp tục hoàn
thiện, còn các quốc gia kém phát triển hơn như Thái Lan, Campuchia,Việt
Nam… đang gấp rút chuẩn bị cơ sở vật chất và vạch ra chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử.
II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ
Bộ máy hành chính hiện tại của Mỹ là sản phẩm của các xung đột
chính trị trong suốt hai thập kỷ qua. Cho đến nay hệ thống hành pháp của Liên
bang Mỹ được đánh giá là khá tản mạn. Hệ thống này bao gồm tổng thống, các
trợ lý, Bộ trưởng, 14 bộ và hàng loạt các cơ quan khác với khoảng ba triệu
công chức. Với một bộ máy chính quyền khá cồng kềnh
như vậy thì sự ra đời Chính phủ điện tử thực sự là một cuộc cách mạng.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 29
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Người Mỹ đã sớm biết rằng khi công nghệ, khả năng sáng tạo và lãnh
đạo hợp nhất thì sẽ tạo ra những kết quả mạnh mẽ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Chính
phủ nắm lấy công nghệ thông tin với trí sáng tạo và sự lãnh đạo táo bạo? Điều gì
sẽ xảy ra nếu tất cả người Mỹ đều nhận thức được Chính phủ điện tử là cách để
thay đổi thế giới một cách có ý nghĩa? Và điều gì sẽ xảy ra nếu căn bệnh thâm
niên của Chính phủ là sự mất liên lạc giữa người dân và Chính phủ được nối lại?
Khích lệ bởi những câu hỏi này, hàng trăm nhà lãnh đạo trong các ngành công
nghiệp, Chính phủ, các nhà nghiên cứu và các tổ chức phi lợi nhuận đã bắt
đầu hợp tác làm việc vào tháng
11/1999 để phát triển Chính phủ điện tử. Công việc của họ được phát động,
hướng dẫn và điều phối bởi tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ CEG
(Council for Excellence in Government). Theo dự án này, hai chuyên gia tư vấn
Peter Hart và Robert Teeter thực hiện hai cuộc điều tra vào tháng 8/2000 và
tháng 1/2001.
Cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 1/2001 của P.Hart và R.Teeter cho thấy
trong 3 người Mỹ thì có 1 người nói Chính phủ điện tử nên được tổng thống mới
ưu tiên. Hai phần ba số người được trưng cầu ý kiến ủng hộ công việc của cơ
quan công nghệ Nhà Trắng nhằm đổi mới Chính phủ và cải thiện dịch vụ thông
qua mạng Internet. Hai phần ba cho rằng sự tồn tại mối liên hệ giữa nhà nước
và khu vực tư nhân bao giờ cũng tốt hơn là để hai khu vực này hoạt động độc
lập với nhau. Cũng 2/3 số người được hỏi ủng hộ việc sử dụng quỹ Chính phủ
để giúp các bang hiện đại hoá hệ thống bầu cử, ví dụ như lắp đặt các máy bỏ
phiếu điện tử tương tự như các máy rút tiền tự động đang được sử dụng rộng
rãi ở các ngân hàng. (Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)
Năm 2001, tổng thống Bush đã bắt đầu một vài nỗ lực cải cách Chính
phủ nhằm làm cho Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn và lấy dân làm trọng
tâm. Một trong những nỗ lực này là tạo lập nên một Chính phủ điện tử ở Mỹ.
Vì vậy vào ngày 18/7/2001, giám đốc cơ quan Quản lý và
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 30
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Ngân sách (OMB: Office of Management and Budget), ông Mitchell
E.Daneils đã thành lập nhóm thực hiện Chính phủ điện tử vạch kế hoạch hành
động để thực hiện những bước khởi đầu cho Chính phủ điện tử.
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ
2.1. Mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ
Mỹ
Phát triển Chính phủ điện tử là một thành phần quan trọng trong chương
trình quản lý của tổng thống G.Bush. Bắt đầu vào năm 2001, chương trình
này của Chính phủ Mỹ nhằm mục đích ứng dụng công nghệ thông tin để tiết
kiệm hàng triệu đô la lãng phí trong chi tiêu của Chính phủ, giảm gánh nặng
lên công dân và doanh nghiệp khi phải làm việc với Chính phủ, rút ngắn thời
gian trả lời những câu hỏi của công dân từ hàng tuần xuống còn vài phút. Mục
đích quan trọng của chiến lược này là phải làm sao cho người dân có thể truy
cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ chỉ bằng ba lần nhấn chuột khi sử
dụng Internet.
Sau đây là một số mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử:
n Mục tiêu chung:
Các cơ quan Chính phủ tập trung vào việc hiện đại hoá thông qua
ứng dụng công nghệ thông tin.
Các hệ thống công nghệ thông tin chính phải được công chúng thừa
nhận là an toàn tuyệt đối.
Chính phủ điện tử bước đầu phải đạt được những lợi ích thiết thực như
tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian mà dân chúng phải chờ đợi để có
được sự hồi âm từ phía Chính phủ, giảm gánh nặng cho các doanh
nghiệp, cải thiện dịch vụ Chính phủ…
Đề ra những giải pháp giảm thiểu chi phí đầu tư cho công nghệ
thông tin không cần thiết trong sáu lĩnh vực kinh doanh của Chính
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 31
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
phủ vào năm tài chính 2004 (được nêu trong phần sau của chương này).
o Mục tiêu cụ thể:
G2G (Chính phủ - Chính phủ):
Mục tiêu chủ yếu của loại hình quan hệ này là làm sao cho chính
quyền các cấp làm việc với nhau dễ dàng hơn để phục vụ người dân
ngày càng tốt hơn. Để đạt được điều này phải có biện pháp làm cho
chính quyền các bang và chính quyền địa phương có thể dễ dàng nhận
được thông tin và đáp ứng yêu cầu của nhau. Cải tiến cách truyền thông
tin giữa các cấp chính quyền sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho Chính phủ.
G2B (Chính phủ - Doanh nghiệp):
Tăng khả năng công dân và doanh nghiệp có thể tìm, xem và bàn luận
về các quy tắc và các văn bản pháp luật;
Giảm gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cách cho phép các doanh
nghiệp có thể trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng;
Rút ngắn thời gian điền vào các mẫu đơn xuất khẩu; và
Rút ngắn thời gian mà các doanh nghiệp phải đệ trình và tuân thủ
các quy tắc pháp luật.
G2C (Chính phủ - Công dân):
Rút ngắn thời gian truy cập thông tin về các khoản vay;
Tăng số lượng công dân trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng;
Rút ngắn thời gian cho người dân khi phải tìm kiếm các thông tin giải
trí.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 32
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
2.2. Chính sách Chính phủ Mỹ sử dụng để đạt mục tiêu phát triển Chính
phủ điện tử
Vào năm 2003 và 2004, Chính phủ điện tử sẽ cung cấp dịch vụ ngày càng
tốt hơn tới người dân với chi phí thấp hơn. Để thực hiện được mục tiêu trên,
cơ quan Chính phủ điện tử và công nghệ thông tin sẽ thực hiện những chính
sách sau:
Đơn giản hóa quá trình hoạt động của Chính phủ nhằm cải thiện chất
lượng dịch vụ.
Sử dụng ngân sách hàng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án
Chính phủ điện tử.
Đẩy nhanh tình hình thực hiện dự án thông qua phát triển, tuyển dụng
và giữ chân lực lượng cán bộ công nghệ thông tin có trình độ.
Tiếp tục hiện đại hoá quản lý thông qua ứng dụng công nghệ thông
tin trong các cơ quan Chính phủ, bao gồm quản lý chi phí, quản lý các
báo cáo tài chính, quản lý sổ sách; cung cấp thông tin và dữ liệu liên
quan tới tình hình đất nước; quản lý nguồn nhân lực;…
Liên kết lãnh đạo các cơ quan Chính phủ để hỗ trợ cho việc thực hiện
dự án Chính phủ điện tử.
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ
Phần lớn người Mỹ hiện nay đang sử dụng Internet, con số này chiếm
63% trong đó có 31% số người sử dụng nó vì công việc. Một nửa trong nhóm
này (35%) là những người sử dụng một cách thường xuyên. Công chúng có
một quan điểm rất tích cực về Internet, nhưng vẫn hoài nghi về tính an toàn
của nó. 74% số người sử dụng Internet cho rằng
Internet có ảnh hưởng tích cực đối với cuộc sống của họ. Đây là một yếu tố
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 33
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
quan trọng khiến cho Chính phủ điện tử không còn chỉ là lý thuyết nữa mà nó
đang và sẽ trở thành hiện thực. Những số liệu sau đây sẽ là những bằng chứng rõ
ràng nhất cho sự ra đời và tồn tại một Chính phủ điện tử ở Mỹ.
Hầu như mọi quan chức Chính phủ liên bang, các quan chức của các bang
và các quan chức ở địa phương cho rằng cơ quan của họ đều có một trang Web
riêng và đang hoạt động rất tốt. Các Website này đều đăng thông tin, một vài
trang Web còn cho phép công chúng thực hiện các giao dịch trên mạng. Một số
các Website còn cho phép người truy cập đưa ra
những lời bình luận về các dịch vụ hoặc về các hoạt động của Chính phủ.
C¸c dÞch vô ®−îc cung cÊp trªn Website cña chÝnh phñ
Down load ph Çn mÒm 37
% 58% M¸y mã c
64%
B×nh lu Ën vÒ
ho¹t ®éng cñ a
Ch Ýnh ph ñ
DÞch vô 66
% 72% Th«ng tin
83% Tμi liÖu
Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm
Hiện nay Chính phủ đang đầu tư cho Chính phủ điện tử và các quan chức
tin tưởng việc đầu tư đang có kết quả tốt. Chính phủ điện tử trợ giúp các cơ
quan Chính phủ trong các công việc hành chính nội bộ, giúp tiếp cận nhiều
hơn với công chúng và phối hợp tốt hơn với các cơ quan các cấp khác của Chính
phủ.
Công chúng trên mạng đang sử dụng và đánh giá rất cao các trang Web
của Chính phủ. Sáu mươi sáu phần trăm người sử dụng Internet ở Mỹ đã ghé
thăm ít nhất một trong số rất nhiều Website của chính quyền Liên Bang, chính
quyền các bang và chính quyền địa phương. Trong số đó nhiều nhất là những
người sử dụng Internet thường xuyên và những người
có liên quan đến Chính phủ.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 34
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Bảng: Tỷ lệ sử dụng Website của Chính phủ
Người sử dụng Internet Lòng tin vào chính phủ
Website Tất cả Người sử Người sử Thấp những dụng dụng Ca
o Trung
bình
Website của 56% 53% 51% Chính phủ người sử
54
% Internet
66
% Internet
38
%
Website của 44% 48% 41% Chính phủ 45
% 58
% 29
%
42% 37% 30% Website địa
phương 36
% 45
% 26
% (Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)
Các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận cũng tiếp cận với Chính phủ
điện tử. Đa số những người đứng đầu các tổ chức này nói rằng họ có sử dụng
các trang Web của Chính phủ và đánh giá các trang Web này rất tốt. Ba phần
tư các doanh nghiệp giao dịch với chính quyền Liên Bang ở mức độ không
thường xuyên nói rằng khả năng tìm kiếm thông tin và điều khiển các giao dịch
qua Internet đã làm cho mối quan hệ giữa họ với các cơ quan Chính phủ không
còn nặng nề như trước nữa. Họ còn cho rằng khả năng tìm kiếm thông tin Chính
phủ trên Internet làm cho họ dễ dàng tuân thủ các quy định của pháp luật.
3.1. Thái độ của người dân Mỹ về Chính phủ điện tử
Năm 2001, Hart Teeter đã thay mặt hội đồng các đại biểu quốc hội tổ
chức nhiều cuộc điều tra về thái độ của công chúng, các quan chức Chính phủ
và các tổ chức đối với Chính phủ điện tử. Cuộc điều tra đã rút ra ba kết luận
sau:
* Người dân Mỹ tin tưởng rằng Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một
Chính phủ hiệu quả hơn.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 35
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Cả ba đối tượng của cuộc điều tra đều nhận thấy tiềm năng to lớn của
Chính phủ điện tử trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Năm
mươi sáu phần trăm công chúng dự đoán rằng trong vòng 5 đến
10 năm tới Chính phủ điện tử sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhiều hơn là tiêu
cực. Chín mươi hai phần trăm quan chức Chính phủ và 76% tổ chức cho rằng
Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một Chính phủ hiệu quả hơn.
Ban đầu chỉ có 58% số người Mĩ có niềm tin thấp đối với Chính phủ điện
tử. Tuy nhiên sau khi các dịch vụ của Chính phủ điện tử được thử nghiệm thì
sự ủng hộ của họ đối với Chính phủ điện tử đã tăng 13% lên thành 71%. Tuy
còn quá sớm để dự đoán khả năng thay đổi niềm tin của công chúng vào
Chính phủ điện tử, nhưng kết quả của cuộc điều tra cho thấy Chính phủ điện
tử sẽ có ảnh hưởng tích cực tới mọi mặt của đời sống.
* Công chúng Mỹ mong muốn tiến hành Chính phủ điện tử một cách thận
trọng nhằm đảm bảo sự an toàn và bí mật thông tin cá nhân.
Các đối tượng tham gia trong cuộc điều tra còn thể hiện hai quan
điểm khác nhau về Chính phủ điện tử:
- Quan điểm 1: Nên tiến hành dần dần việc kết nối Internet giữa Chính
phủ và công chúng bởi vì còn rất nhiều người không truy cập được vào Internet
và còn nhiều vấn đề quan trọng như an toàn và bí mật thông tin cá nhân vẫn
chưa được giải quyết.
- Quan điểm 2: Nên tiến hành nhanh chóng việc mở rộng sử dụng
Internet trong việc giao tiếp giữa Chính phủ và công chúng bởi vì Chính phủ
điện tử tạo ra nhiều cơ hội cải thiện dịch vụ, khả năng liên lạc và hiệu quả của
Chính phủ.
65% người dân Mỹ ủng hộ quan điểm 1 tức là mong muốn tiến hành một
cách chậm chạp việc thực thi Chính phủ điện tử, trong khi chỉ có 30% người
mong muốn tiến hành nó một cách nhanh chóng. Đại đa số người dân còn lo
lắng về độ an toàn và bí mật. Ngược lại, các quan chức Chính
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 36
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
phủ lại có một quan điểm đối lập, 56% các quan chức được hỏi ủng hộ quan
điểm 2. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi vì các quan chức
Chính phủ biết nhiều về Chính phủ điện tử hơn so với công chúng và đã được
thấy những lợi ích của nó một cách trực tiếp, hơn 80% tin tưởng rằng cơ quan
của họ sẽ thực hiện tốt công việc bằng cách sử dụng Internet để cải thiện hiệu
quả và chất lượng dịch vụ.
* Mong muốn của công chúng về Chính phủ điện tử không chỉ dừng lại ở
những dịch vụ có chất lượng cao và hiệu quả mà họ còn mong muốn
được thông tin nhiều hơn, được trao nhiều quyền lực hơn và mong chờ ở
một Chính phủ có trách nhiệm hơn.
Người Mỹ đánh giá một cách rất rõ ràng tiềm năng của Chính phủ điện
tử trong việc tạo ra một Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, cung cấp nhiều dịch
vụ tốt hơn và thuận tiện hơn. Họ ủng hộ việc họ có thể nộp thuế, đăng ký xe
hay sinh viên có thể vay tiền qua mạng. Khi được hỏi lợi ích nào là quan trọng
nhất mà Chính phủ điện tử mang lại, 36% cho rằng tạo ra một Chính phủ có
trách nhiệm hơn đối với người dân là lợi ích quan trọng nhất, 23% ủng hộ khả
năng Chính phủ điện tử đem lại số lượng người truy cập thông tin nhiều hơn,
21% cho rằng Chính phủ tạo ra nhiều lợi ích hơn và hiệu quả hơn, 13% tin
tưởng Chính phủ điện tử sẽ tạo ra
những dịch vụ thuận tiện hơn.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 37
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Nh÷ng lîi Ých quan träng nhÊt cña ChÝnh phñ ®iÖn tö
C«ng chóng Quan chøc ChÝnh phñ
23
% 13
% DÞch vô ChÝnh
phñ thuËn tiÖn
h¬n 16
%
21% 34% 23% ChÝnh phñ ho¹t
®éng hiÖu qu¶
h¬n 19
% 36%
Sè l−îng d©n
chóng truy cËp
th«ng tin nhiÒu
h¬n
ChÝnh phñ cã
tr¸ch nhiÖm
h¬n víi c«ng
d©n
(Nguồn: The Next American Revolution -
http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)
Tóm lại, người dân Mỹ có nhận thức rất tốt về Chính phủ điện tử và
những lợi ích của Chính phủ điện tử. Điều này chứng tỏ tình hình triển khai
Chính phủ điện tử ở Mỹ có những dấu hiệu rất khả quan, ít nhất thì đa số người
dân Mỹ còn biết Chính phủ điện tử là gì và tại sao phải phát triển Chính phủ
điện tử. Có thể nói đây là một kết quả quan trọng của chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử của Chính phủ Mỹ.
3.2. Một số sự kiện nổi bật trong quá trình thực hiện
Chính phủ điện tử
FirstGov.gov: đây là Website có tới 186 triệu trang thông tin kết nối với
hơn 22.000 Website của chính quyền Liên bang và chính quyền các bang.
FirstGov.gov là một trong 50 Website tiện ích nhất do Yahoo thiết kế vào
tháng 7/2002, và hiện thời trang Web này đã được cải tiến để cung cấp dịch vụ
Chính phủ chỉ trong vòng "3 nháy chuột". Chiến lược "3 nháy chuột" này đã
thu hút số người sử dụng trang Web ngày càng tăng, từ 5 triệu người năm
2001 lên tới 28 triệu người năm 2002.
Volunteer.gov: trang Web này cho phép công dân Mỹ đăng ký làm tình
nguyện viên.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 38
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Recreation.gov: cho phép công dân truy cập vào các công viên giải trí
và các trung tâm giải trí khác. Website này kết nối với hơn 2500
Website giải trí khác của Chính phủ.
GovBenefits.gov: cho phép truy cập thông tin và dịch vụ của hơn
400 chương trình của Chính phủ đạt hơn 2000 tỷ đô la lợi nhuận hàng năm.
Website này mỗi tháng có tới hơn 500.000 người truy cập.
IRS Free Filing: hơn 78 triệu người Mỹ có thể trình văn bản thuế trên
mạng miễn phí. Theo dự đoán, sẽ có tới 3,5 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ
này vào năm 2003.
Integrated Acquisition Environment: IAE đã cho ra đời một số trang
Web và công cụ quan trọng như Hệ thống phục hồi thông tin
(www.PPIRS.gov) được dùng để tìm và phục hồi lại những thông tin đã mất và
Hệ thống dữ liệu kỹ thuật Liên bang (www.FedTeDS.gov).
BusinessLaw.gov: cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ khả năng truy
cập thông tin về các quy tắc pháp luật, các công cụ hỗ trợ và khả năng thực hiện
giao dịch trên mạng. Website này cũng là một cổng thông tin được kết nốt với
các trang Web của chính quyền Liên bang, chính quyền các bang và chính
quyền địa phương.
Regulation.gov: bằng cách tạo ra một hệ thống duy nhất hỗ trợ cho quá
trình làm luật, đề ra các điều lệ, các quy tắc, Website này theo dự tính sẽ tiết
kiệm được 94 triệu đô la.
GoLearn.gov: đây là một trong những Website đào tạo điện tử được sử
dụng nhiều nhất trên thế giới. GoLearn.gov này có hơn 45.000 người sử dụng
đăng ký tham gia đào tạo với học phí rất thấp trong khi phương pháp đào tạo
truyền thống chỉ phục vụ được một số ít người, đôi khi học phí lên
tới 2500 đến 5000 đô la một lớp.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 39
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
E-Payroll: Dự án hệ thống trả lương điện tử này sẽ rút gọn các cơ
quan quản lý tiền lương cho nhân viên Chính phủ từ con số 22 xuống còn
2, đó là DoD/GSA và USDA/DOI. Theo dự đoán, hệ thống này giúp Chính phủ
tiết kiệm được 1,2 tỷ đô la trong 10 năm tới.
III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Australia
Đổi mới và tính hiệu quả là hai động lực quan trọng đối với
Australia để tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Tiến bộ khoa học kỹ thuật
đang giúp Australia rút ngắn khoảng cách với các nước khác và nhanh chóng
hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Công nghệ thông tin và viễn thông (ICT)
và những ứng dụng của nó đã tạo ra sự chuyển đổi trong hoạt động của cá nhân,
doanh nghiệp và Chính phủ.
Trong chính sách đầu tư phát triển ban hành năm 1997, thủ tướng
Australia, ông Hon John Howard MP đã công bố kế hoạch đầu tư cho sự phát
triển và tăng tính năng động cho nền kinh tế Australia. Kế hoạch này tập trung
vào việc tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy quá trình cải cách nền kinh tế đất
nước. Ngoài ra, kế hoạch này còn đặt ra một mục tiêu quan trọng cho các bộ,
ban ngành là tới tháng 9/2001, tất cả các dịch vụ Chính phủ phải được cung cấp
trên mạng Internet. Vào tháng 2/2002, trong cuộc họp của đại biểu các quốc
gia trên thế giới về công nghệ thông tin, Thủ Tướng Úc đã tuyên bố nước này
đã đạt được mục tiêu đề ra trong năm
2002. Đây là nền móng cho sự ra đời Chính phủ điện tử ở Úc.
Hiện nay Chính phủ nước này đã rất tiến bộ so với các quốc gia khác
trong việc sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ trực tuyến. Chính phủ
Australia đang tiến hành chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai
của Chính phủ điện tử - đó là giai đoạn phát triển một Chính phủ điện tử đầy
đủ hơn, trong đó việc ứng dụng công nghệ mới vào cung cấp
các dịch vụ công, cung cấp thông tin và vào quá trình quản lý hành chính
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 40
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
nhà nước sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và bản thân Chính
phủ. Chiến lược này đã đề ra một số mục tiêu quan trọng cho các bộ, các ban
ngành và các cơ quan Chính phủ (các mục tiêu này sẽ được đề cập trong phần
2.1 của chương này). Chiến lược này được Chính phủ Úc giao cho một uỷ ban
mới thành lập là Uỷ ban chiến lược quản lý thông tin (IMSC) với sự hỗ trợ của
Uỷ ban CIO.
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Australia
2.1. Các mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển Chính phủ điện
tử
Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ Australia
được lập vào tháng 11/2002 đã đề ra một số mục tiêu quan trọng sau:
- Đầu tư có hiệu quả hơn:
Đầu tư cho sự phát triển một Chính phủ điện tử hiệu quả là một vấn đề
hết sức quan trọng đối Australia. Nhưng phải đầu tư như thế nào để đạt kết quả
tốt nhất lại càng quan trọng hơn bởi kết quả đầu tư sẽ là nền tảng quan trọng
cho Chính phủ trong việc cải thiện hoạt động của Chính phủ, cải thiện quá
trình hoạch định chính sách, cung cấp dịch vụ và thông tin. Do vậy phải cơ
cấu lại bộ máy hành chính nhà nước, áp dụng công nghệ mới trong quá trình
cải cách, phải lập và quản lý dự án đảm bảo đạt được kết quả toàn diện.
- Đảm bảo tính thuận tiện khi truy cập thông tin và dịch vụ Chính phủ:
Chính phủ điện tử có thể giúp công dân và doanh nghiệp làm việc với
Chính phủ để giải quyết hàng loạt các vấn đề bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu mà
không cần phải biết là cơ quan nào của Chính phủ đang cung cấp dịch vụ mà
họ yêu cầu. Người dân không còn phải đứng xếp hàng hàng giờ
bên ngoài trụ sở của cơ quan Chính phủ để được gặp các quan chức có
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 41
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
trách nhiệm và sau đó phải chờ đợi điện thoại trả lời yêu cầu của mình hàng
tuần hay thậm chí hàng tháng.
- Cung cấp dịch vụ theo nhu cầu khách hàng:
Mặc dù chúng ta luôn nói công nghệ trong thời đại Chính phủ điện tử
đóng vai trò rất quan trọng nhưng công nghệ không quyết định loại dịch vụ mà
Chính phủ cung cấp. Ngược lại, áp dụng công nghệ để quản lý
thông tin và hoạt động kinh doanh mới là phương tiện để làm cho dịch vụ của
Chính phủ đáp ứng được ước muốn và nhu cầu của công dân.
- Thống nhất, kết hợp các dịch vụ có liên quan:
Thật không thuận tiện cho các cá nhân và doanh nghiệp khi phải thực
hiện nhiều giao dịch riêng lẻ với Chính phủ để đạt được một mục tiêu duy nhất.
Để hạn chế nhược điểm này, Chính phủ Australia sẽ áp dụng biện pháp phân
các dịch vụ liên quan đến nhau thành từng nhóm, từ đó các dịch vụ liên quan đến
nhau có thể được thực hiện thông qua một giao dịch duy nhất.
- Tăng cường sự tham gia của công dân vào Chính phủ:
Chính phủ có thể sử dụng Internet để tăng tính minh bạch trong các hoạt
động của Chính phủ và tạo mối quan hệ chặt chẽ hơn với công chúng. Khi mọi
người ngày càng quen với việc tìm kiếm thông tin và sử dụng dịch vụ công trên
mạng thì họ lại càng mong chờ một mối liên hệ ở cấp độ cao hơn với Chính
phủ. Điều này lại càng đem lại nhiều lợi ích cho Chính phủ khi mà công chúng
ngày càng quan tâm tới hoạt động của Chính phủ. Tính minh bạch và lòng tin
của công chúng vào Chính phủ ngày càng được củng cố khi những ý kiến của
công chúng được quan tâm để ý trong quá trình hoạch định chính sách của
Chính phủ.
2.2. Thực hiện mục tiêu
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 42
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ chính là chìa khoá để
thực hiện thành công 6 mục tiêu trên. Đây chính là sự liên kết giữa các cơ quan
Chính phủ trong cách thức cung cấp thông tin và dịch vụ, cách lên kế hoạch và
quản lý các thành phần của Chính phủ điện tử như thế nào. Cơ quan chiến lược
quản lý thông tin (IMSC) sẽ chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch này.
Sau đây là một số biện pháp Chính phủ Australia chọn lựa nhằm thực
hiện mục tiêu đề ra:
* Đầu tư có hiệu quả hơn:
Để đầu tư có hiệu quả hơn cần phải xác định được chi phí và kết quả đầu
tư. Với sự tồn tại nhiều kênh cung cấp dịch vụ như hiện nay thì việc xác định
chi phí và lợi ích của dịch vụ trực tuyến không phải dễ. Trong khi đó người dân
Australia khi sử dụng dịch vụ luôn hi vọng chỉ phải trả chi phí thấp. Do vậy
việc đầu tư cần phải thực hiện trong nhiều năm thì mới có thể giảm được chi phí
theo yêu cầu của dân chúng.
* Đảm bảo tính thuận tiện khi truy cập thông tin và dịch vụ Chính phủ:
Có một số phương pháp để thực hiện mục tiêu này là Chính phủ có thể
cung cấp thông tin và dịch vụ theo khách hàng, theo nhóm chủ đề, theo loại dịch
vụ theo vùng, và cũng có thể cung cấp thông tin và dịch vụ công dựa trên
những sự kiện trong cuộc sống hàng ngày. Trang Web Australia.gov.au
và một số trang Web khác đang trong giai đoạn đầu tiên cung cấp thông tin và
dịch vụ theo các nhóm một cách logic không phụ thuộc vào việc thông tin
hay dịch vụ đó do cơ quan Chính phủ nào cung cấp.
* Cung cấp dịch vụ theo nhu cầu khách hàng:
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 43
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Thiết lập cơ sở cho các dịch vụ tương tác lẫn nhau sẽ làm cho các cơ quan
Chính phủ có khả năng "bó" các dịch vụ có liên quan với nhau thành các dịch
vụ hợp nhất theo yêu cầu của khách hàng. Điều này sẽ rút ngắn quá trình xử
lý thông tin và giảm chi phí điều hành. Các cơ quan Chính phủ còn có thể kết
hợp các dịch vụ khác nhau, không liên quan đến nhau và cung cấp chúng với tư
cách là một dịch vụ đơn nhất.
* Thống nhất, kết hợp các dịch vụ có liên quan:
+ Xây dựng một cơ cấu cung cấp dịch vụ chung và điều hành nó:
Nguyên tắc và tiêu chuẩn của cơ cấu này được đưa ra nhằm khuyến khích ứng
dụng công nghệ thông tin và viễn thông để hỗ trợ cho quá trình cung cấp dịch
vụ của Chính phủ. Đây chính là nền tảng quan trọng cho việc phân phối dịch
vụ hợp nhất. Chỉ ra các vấn đề quan trọng liên quan tới việc đầu tư và quản lý cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông được coi như là một phần trong
chương trình làm việc của IMSC.
+ Thiết lập các cơ cấu điều hành để thoả mãn khách hàng: Thành công
của một Chính phủ điện tử lấy công dân làm trung tâm phụ thuộc vào khả năng
đáp ứng yêu cầu của dân chúng. Nhiều cơ quan Chính phủ đang sẵn sàng làm
việc nhằm thu hút sự chú ý của công chúng. Việc này cần phải có sự hiểu biết
về từng thành phần khách hàng và các cách để thu hút được sự phản hồi từ phía
khách hàng.
+ Xây dựng một chiến lược đầu tư: Để phát triển các dịch vụ tập trung
vào khách hàng cần phải trả lời câu hỏi ai sẽ là người trả chi phí cho việc tiêu
dùng các dịch vụ đó, lợi ích thu được từ các dịch vụ đó là bao nhiêu và việc
đầu tư cần bao nhiêu thời gian? Việc cung cấp các dịch vụ phức tạp hơn có lẽ
sẽ khó được thực hiện nếu không có một chiến lược đầu tư kết hợp giữa các cơ
quan Chính phủ. Do vậy cần phải xây dựng một chiến lược đầu tư, trong đó
xem xét xem nguồn kinh phí dành cho hoạt
động đầu tư nên lấy từ ngân sách hay từ các nguồn thu khác? Hiện nay,
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 44
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
việc đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông cũng gặp khó khăn do
những hạn chế trong nguồn ngân sách hiện tại của Australia. Thông qua
IMSC, Chính phủ Australia đang xem xét những vấn đề trên để loại bỏ những
trở ngại đối với chiến lược đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông.
* Tạo dựng lòng tin của người sử dụng
Chính phủ Australia đã xây dựng và tăng lòng tin từ phía công chúng
thông qua việc ban hành những tiêu chuẩn về Website của Chính phủ. Trong
chiến lược Chính phủ trực tuyến, Chính phủ Australia đã đề ra những tiêu chuẩn
tối thiểu đối với những thông tin và dịch vụ trực tuyến. Những tiêu chuẩn này
hiện nay vẫn còn được áp dụng. Cơ quan quốc gia về nền kinh tế thông tin
(NOIE) sẽ tiếp tục làm việc với các cơ quan quan trọng của Chính phủ để thúc
đẩy thực hiện những tiêu chuẩn này.
Cuối năm 2002, Chính phủ Australia đã ban hành tiêu chuẩn dịch vụ
Chính phủ Australia (AGLS). Việc sử dụng tiêu chuẩn này của các cơ quan hành
pháp cho phép gia tăng sự truy cập thông tin từ phía các khách hàng. Sau đây là
một số tiêu chuẩn quan trọng trong hệ thống các tiêu chuẩn AGLS:
+ Truy cập: đây là một tiêu chuẩn quan trọng đối với các Website của
Chính phủ. Các cơ quan Chính phủ phải đảm bảo rằng nội dung trang Web của
họ phải tới được tất cả những người có thể sử dụng Internet.
+ Sự thẩm định quyền: trong một hệ điều hành mạng hoặc đa người
dùng, đây là một tiến trình đánh giá thông tin đăng nhập của người dùng. Tiến
trình thẩm định quyền liên quan đến việc so sánh tên và mật khẩu của người
dùng với một danh sách những người dùng được phép. Nếu hệ điều hành so
thấy khớp, người dùng được phép truy xuất hệ thống, nhưng chỉ ở mức độ như
đã chỉ định trong bản cấp phép trong chương mục của người
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 45
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
dùng đó. Trong quá trình cung cấp dịch vụ và thông tin trên mạng, sự thẩm định
quyền đảm bảo xác định người gửi và người nhận thông tin trực tuyến, từ đó
xây dựng lòng tin và đảm bảo tính an toàn khi thực hiện các giao dịch trên
mạng. Chính phủ Australia đã có những tiến bộ đáng kể trong thẩm định điện
tử các doanh nghiệp tham gia giao dịch với Chính phủ trên mạng.
* Tăng cường sự tham gia của công dân vào Chính phủ
Internet mang lại cho các cơ quan Chính phủ cơ hội có được ý kiến của
công chúng về các vấn đề chính sách. Có hai cách để tăng cường sự tham gia
của công dân vào Chính phủ. Cách thứ nhất là Chính phủ có thể sử dụng tối đa
những ứng dụng của Internet để quan hệ với công dân, chẳng hạn như các
nghị sĩ quốc hội có thể liên lạc với cơ quan, với quốc hội qua mạng Internet,
hay người dân có thể bỏ phiếu bầu cử thông qua mạng Internet (Bỏ phiếu điện
tử). Các thứ hai tập trung vào quản lý công chúng, tức là các cơ quan Chính
phủ có thể sử dụng Internet để tối đa hoá hiệu quả khi quan hệ và trưng cầu ý
kiến của công chúng.
2.3. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin
* Nghiên cứu phát triển chiến lược quản lý kiến thức về Chính phủ điện
tử:
Sự phát triển một Chính phủ điện tử hiệu quả và bền vững ở
Australia yêu cầu Chính phủ nước này cần phải chú ý nhiều hơn tới nguồn tài
sản trí tuệ và phải coi đó là nguồn tài nguyên được chia sẻ giữa các cơ quan
Chính phủ. Biện pháp của Chính phủ đối với nghiên cứu phát triển quản lý
kiến thức là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo cho Chính phủ có thể đạt được kết quả
tốt nhất trong việc đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông.
* Phát triển kỹ năng về công nghệ thông tin và viễn thông trong Chính phủ:
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 46
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Để đảm bảo thành công trong những giai đoạn tiếp theo của Chính phủ
điện tử, những kỹ năng về công nghệ thông tin và viễn thông cần phải được mở
rộng phát triển ở tất các các cấp quản lý. Trách nhiệm xúc tiến chương trình
cung cấp dịch vụ và thông tin trên mạng đi vào hoạt động nhanh chóng thuộc
về các nhà quản lý công nghệ thông tin, do vậy các nhà
quản lý trong các cơ quan Chính phủ cần phải có kiến thức và những kỹ năng
cần thiết đủ để hiểu được quy trình cung cấp dịch vụ trên mạng của Chính phủ
hoạt động như thế nào.
* Chia sẻ và tái sử dụng tài sản:
Các cơ quan nhà nước đang sẵn sàng hợp tác để đưa ra các chính sách
nhằm xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa họ. Các cơ quan Chính phủ còn liên kết
chặt chẽ trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông thông qua
việc tăng quyền mua của Chính phủ và tái sử dụng nguồn tài sản trí tuệ có giá trị.
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Australia
Chiến lược Chính phủ trực tuyến của Australia đã đạt được kết quả đáng
kể. Các cơ quan Chính phủ hiện nay luôn đảm bảo tính sẵn có của thông tin
và dịch vụ trên Internet cho những người có nhu cầu truy cập. Dưới đây là
một số sự kiện nổi bật trong quá trình thực hiện Chính phủ điện tử ở
Australia:
* Business Entry Point: đây là trang Web cung cấp thông tin và dịch vụ
miễn phí cho các doanh nghiệp Australia 24/24 giờ và 7 ngày trong
tuần. Thông qua trang Web này các doanh nghiệp Australia có thể thực hiện
các giao dịch thuận tiện hơn và đơn giản hơn. Đặc điểm duy nhất của Website
này là nó có thể cung cấp thông tin và dịch vụ của các cơ quan Chính phủ từ
cấp Liên Bang, Chính phủ cấp bang đến Chính phủ cấp địa phương. Website
này đang tiếp tục được hoàn thiện và cung cấp
ngày càng nhiều dịch vụ hơn để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 47
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Australia. Theo các thông tin được đăng tải trên Website này, kể từ đầu năm
2000, Business Entry Point đã cung cấp hơn 30 triệu trang thông tin. Gần một
triệu đơn xin phép trở thành một thành viên của Australian Business
Number được thực hiện trên mạng thông qua Business Entry Point, gần một
triệu nghiên cứu được thực hiện trên Australian Business Register mỗi tháng.
(Nguồn : http://www.business.gov.au/ )
* Australian JobSearch (AJS) cung cấp những thông tin về việc làm
cho những người đang tìm việc và là nơi để các doanh nghiệp đăng quảng
cáo tuyển nhân viên. Cơ sở dữ liệu này bao gồm những nội dung sau:
Tất cả các công việc được liệt kê trên các trang Web việc làm trên cả
nước;
Việc làm được quảng cáo trên các báo trong nước;
Việc làm được đăng trên công báo Australian Public Service;
Việc làm do các công ty đăng tải; và
Việc làm từ Hiệp hội dịch vụ tư vấn và tuyển dụng (RCSA).
Ngoài ra, Australian JobSearch còn liệt kê danh sách các công việc cho
các dự án trợ cấp thất nghiệp và việc làm theo mùa trên cả nước. Hiện AJS đang
có hơn 50.000 vị trí và là một trong các trang tuyển dụng dẫn đầu Australia.
(Theo http://www.jobsearch.gov.au/)
FishOnline (http://www.fishonline.tas.gov.au/): trang Web này cho phép
truy cập nhanh chóng thông tin về chính sách câu cá của Chính phủ, bơi
thuyền, dự báo thời tiết, các quy tắc về an toàn và môi trường cũng như xin
cấp phép câu cá trên mạng. Website này thể hiện cách các Chính phủ liên bang
và Chính phủ các bang liên kết với nhau để cung cấp dịch vụ vì lợi ích của
công chúng. Đây là một mô hình hiệu quả để cung cấp
dịch vụ hợp nhất trực tuyến trong tương lai.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 48
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Paying tax online (Nộp thuế trên mạng): Thuế điện tử là cách an toàn để
nộp thuế và tăng doanh thu thuế hàng năm qua Internet. Thuế điện tử sử dụng
công nghệ chứng chỉ kỹ thuật số và mã hoá dữ liệu mới nhất để đảm bảo tính an
toàn và tính xác thực của các thông tin được gửi tới Cơ quan thuế Australia
(ATO).
Kể từ khi thuế điện tử được đưa vào sử dụng, số người sử dụng
phương thức nộp thuế này ngày càng tăng. Tới đầu tháng 11/2002, ở Úc có
hơn 540.000 người sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử, tăng 52% so với năm
2001. Tốc độ thu thuế điện tử nhanh hơn rất nhiều so với các phương thức nộp
thuế thủ công. Cơ quan thuế Australia đã xử lý 100% doanh thu thuế điện tử
trong vòng 14 ngày, trong đó có tới gần 90% được xử lý chỉ trong 10 ngày,
thấp hơn rất nhiều so với con số 42 ngày khi xử lý trên giấy tờ. (Nguồn:
http://www.etax.ato.gov.au/)
Kết luận: Trên đây là một số thành tựu trong quá trình phát triển Chính
phủ điện tử ở Australia. Nhưng đây không phải là giai đoạn cuối cùng mà chỉ
là giai đoạn đầu trong qua trình chuyển đổi Chính phủ thông qua ứng dụng
rộng rãi công nghệ để cung cấp dịch vụ trực tuyến. Dịch vụ trực tuyến là một
phần trong quá trình cung cấp dịch vụ của Chính phủ. Đối với các cơ quan
Chính phủ Australia, kênh phân phối dịch vụ hiên nay là kết quả của việc kế
thừa các kênh phân phối truyền thống. Dịch vụ vẫn sẽ được cung cấp thông qua
các phương tiện truyền thống như điện thoại, fax hoặc cung cấp trực tiếp tại trụ
sở của các cơ quan Chính phủ. Cho dù có sử dụng kênh phân phối nào đi nữa
thì mục tiêu cuối cùng vẫn là nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí cho
cả người sử dụng lẫn nhà cung cấp dịch vụ mà cụ thể là Chính phủ.
IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 49
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore
Có thể nói Chính phủ điện tử ở Singapore ra đời bắt nguồn từ quyết định
tin học hoá bộ máy hành chính nhà nước vào năm 1981. Tuy nhiên, do đây là
chương trình phát triển chỉ tập trung vào bộ máy hành chính nhà nước cho nên
Chính phủ điện tử ở Singapore ngày nay không phát triển tới được mức độ mà
đáng lẽ ra nếu với thời gian triển khai sớm như vậy thì nước này phải có một
Chính phủ điện tử lớn mạnh hơn nhiều. Hiện nay đối với Singapore, phát triển
Chính phủ điện tử đã là một bộ phận không thể thiếu trong chiến lược phát
triển đất nước.
Chương trình tin học hoá bộ máy hành chính nhà nước (CSCP) bắt đầu
thực hiện vào năm 1981 đánh dấu làn sóng đầu tiên của Chính phủ điện tử ở
Singapore. Chương trình này nhằm mục đích tiết kiệm nguồn nhân lực, cải
thiện hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, cung cấp nguồn thông tin tốt
hơn cho quá trình ra quyết định của Chính phủ và nâng cao chất lượng dịch vụ
công. Mục tiêu chung của chương trình này là nhằm tự động hoá các chức
năng hoạt động truyền thống của Chính phủ và hạn chế cách làm việc thủ công,
chủ yếu là trên giấy tờ.
Một trong các chiến lược đầu tiên mà CSSP lựa chọn được gọi là SS-
SF (Start Small, Scale Fast). Ngay từ khi công nghệ thông tin và viễn thông
chưa trở nên quen thuộc với cả Chính phủ lẫn người dân Singapore thì người ta
cũng nhận thấy rằng để bắt đầu một chương trình cải cách, cách tốt nhất là nên
bắt đầu thử nghiệm ở quy mô nhỏ, sau đó một khi đã được đông đảo công
chúng chấp nhận mới nhanh chóng tiến hành triển khai ở phạm vi rộng hơn.
Với những nhận thức như vậy, chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước của Chính phủ Singapore diễn ra khá nhanh chóng, tạo tiền đề cho sự phát
triển Chính phủ điện tử sau này.
Điều quan trọng là phải chú ý rằng nếu chỉ với những kiến thức kỹ
thuật đơn giản về công nghệ thông tin và viễn thông thì sẽ không đủ để bắt
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 50
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
đầu triển khai Chính phủ điện tử. Những ứng dụng công nghệ thông tin và viễn
thông trong cuộc sống thường gặp phải những hạn chế như tâm lý e ngại cái
mới trong một bộ phận dân chúng hay những khó khăn nhỏ thường xảy ra
với các cơ quan Chính phủ trong giai đoạn đầu cung cấp dịch vụ công. Do vậy
trước khi bắt đầu triển khai xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử việc cần
phải làm trước tiên là khắc phục khó khăn và loại bỏ tâm lý lo sợ này.
Trong thời gian hơn 20 năm kể từ khi bắt đầu triển khai, Chính phủ
Singapore đã cho ra đời rất nhiều dịch vụ về Chính phủ điện tử, từ việc cung
cấp thông tin đơn giản đến những giao dịch kinh doanh phức tạp. Hiện nay,
Singapore là một trong những nước có hệ thống Chính phủ điện tử phát triển
nhất thế giới. Do vậy, các nước đang xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử
trên thế giới nên và rất cần nghiên cứu chiến lược phát triển Chính phủ điện tử
của Singapore để trả lời được câu hỏi tại sao Chính phủ điện tử ở Singapore lại
phát triển đến như vậy, hơn cả các cường quốc kinh tế trên thế giới.
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore
2.1. Chiến lược G2C
Một nguyên lý cơ bản của mối quan hệ Chính phủ - Công dân trong
Chính phủ điện tử là lấy khách hàng làm trung tâm. Nhưng trên thực tế lại có
một nghịch lý đó là hiện nay, hầu hết các chính trị gia và các quan chức Chính
phủ, những người được dân bầu ra và được trả lương để phục vụ dân lại tự
coi mình là cha mẹ dân chứ không phải là đầy tớ của dân. Họ đặt quyền lợi của
mình lên trên quyền lợi của dân. Họ coi việc làm thế nào để cai trị thoải mái,
thuận tiện hơn là lắng nghe xem dân chúng muốn gì. Do đó, coi công dân là
khách hàng của Chính phủ là cách Chính phủ Singapore tạo lập mối quan
hệ Chính phủ - Công dân theo chiều hướng
phục vụ lợi ích của người dân.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 51
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
* Cổng Công dân - điện tử:
Cổng Công dân - điện tử (http://www.ecitizen.gov.sg/) là nền tảng của
Chính phủ điện tử ở Singapore. Cổng này cung cấp thông tin và dịch vụ trực
tuyến một cửa, qua đó mọi người dân có thể tham gia giao dịch với Chính phủ
mà không cần phải thông qua bất cứ một cơ quan Chính phủ riêng rẽ nào.
Dịch vụ và thông tin được cung cấp qua cổng này rất phong phú và đa dạng.
Thông tin và dịch vụ được phân loại thành 16 lĩnh vực: văn hoá nghệ thuật,
kinh doanh, quốc phòng, giáo dục, bầu cử, việc làm, gia đình, sức khoẻ, nhà
ở, luật, thư viện, giải trí, an toàn và an ninh, thể thao, vận tải và cuối cùng là
du lịch. Mọi người dân có thể truy cập cổng Công dân - điện tử từ khắp mọi
nơi chỉ cần kết nối Internet cho máy tính của mình. Các cá nhân không có điều
kiện truy cập Internet từ nhà riêng, từ cơ quan hay những cá nhân cần có sự
hướng dẫn khi truy cập các dịch vụ điện tử của Chính phủ có thể yêu cầu sự trợ
giúp từ Trung tâm trợ giúp công dân - điện tử. Trung tâm Công dân - điện tử
hiện nay có hơn 2.600 dịch vụ điện tử.
Do bị hạn chế trong khuôn khổ khoá luận này, nên những thông tin chi
tiết về cổng Công dân - điện tử không thể được giới thiệu hết. Bạn đọc có thể
truy cập thêm thông tin trong các trang www.ecitizen.gov.sg,
www.mof.gov.sg, hoặc www.ida.gov.sg.
*Sự kết nối đa chiều:
Điều kiện tiên quyết để Chính phủ điện tử có thể hoạt động một cách hiệu
quả chính là sự kết nối điện tử đến mọi người dân Singapore. Chính phủ
Singapore đang nỗ lực xây dựng một xã hội trong đó mà công nghệ thông tin
và viễn thông là một phần của cuộc sống. Hiện nay ở Singapore, "Singapore
One" là một sơ sở hạ tầng rộng khắp cả nước. "Singapore One" bao trùm 99%
phạm vi lãnh thổ, mang lại khả năng ứng dụng công nghệ
trong các cơ quan, các doanh nghiệp, trường học, gia đình, thư viện, và các
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 52
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
trung tâm công cộng, với 7.000 điểm truy cập trên khắp đất nước
Singapore. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)
Tất cả các trường đại học và cao đẳng ở Singapore đã được trang bị đầy
đủ các thiết bị thông tin liên lạc hiện đại. Singapore cũng đã thực hiện thành
công mục tiêu là vào cuối năm 2002, cứ hai học sinh cấp I và cấp II sẽ có một
máy vi tính để phục vụ cho việc học tập.
Trong năm 2000, 75% số dân Singapore sử dụng điện thoại di động, gần
50% người dân truy cập Internet. Về mật độ truy cập Internet tại gia, Singapore
đứng thứ hai Châu Á với tỷ lệ 353/10.000 người. Ngoài ra, Singapore còn là
một trong những nước có tỷ lệ sở hữu máy vi tính cao
nhất trên thế giới, chiếm 61% trong năm 2000.
Tû lÖ së h÷u PC ë mét sè n−íc
61% 56% 56% 51% 50%
32%
Singapore A ustralia §μi L oan USA A ilen
Hång
K«ng
Nguồn: Survey on Infocomm Usage in Households 2000
* Xã hội điện tử và phong cách sống điện tử:
Trong một xã hội điện tử, công nghệ phải tới được và phù hợp với tất cả
mọi người không kể tuổi tác, ngôn ngữ, sức khoẻ và khả năng kinh tế. Chính
phủ Singapore đã đầu tư 25 triệu đô la Singapore để tạo ra một động thái điện
tử trong thời gian ba năm, tập trung vào việc khắc phục
khoảng cách số về thu nhập, ngôn ngữ…, đặc biệt là với 4 thành phần dân
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 53
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
cư quan trọng là người già, người nội trợ, công nhân và người khuyết tật.
Chương trình này còn nhằm mục đích cải thiện khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin và viễn thông trong 30.000 hộ gia đình có thu nhập thấp. Mục tiêu
của Chính phủ Singapore là làm sao để không một người dân Singapore nào
còn cảm thấy khó khăn khi truy cập các dịch vụ điện tử của Chính phủ. Để có
được mức độ truy cập rộng khắp, các trung tâm trợ giúp Công dân điện tử đã
được đặt ở khắp các vùng trong cả nước, bố trí cán bộ nhân viên có khả năng nói
được cả 4 ngôn ngữ chính thức của nước này.
Một trong các cách để thúc đẩy việc triển khai Chính phủ điện tử là phải
tạo ra một phong cách sống điện tử trong mọi tầng lớp nhân dân. Thành công
của Chính phủ điện tử phụ thuộc vào sự chấp nhận của công chúng đối với
một nếp sống mới - một phong cách sống điện tử. Để nâng cao nhận thức của
công chúng về phong cách sống điện tử, chiến dịch kéo dài một tháng được tổ
chức hàng năm bắt đầu từ năm 2000. Đến năm
2002, chiến dịch này chuyển sang thực hiện hàng tháng thay vì hàng năm, nội
dung của chiến dịch chủ yếu tập trung vào các chủ đề cụ thể. Các chiến dịch này
nhấn mạnh 4Es - tức là học tập điện tử, giải trí điện tử, thông tin điện tử và giao
dịch điện tử - nhằm mục đích lý giải cho dân chúng thấy sự cần thiết của công
nghệ thông tin và viễn thông.
Tuy nhiên, các chiến dịch trên mới chỉ nhằm mục đích nâng cao mục
đích của dân chúng về một phong cách sống điện tử, còn để hướng người dân
từ nhận thức sang chấp nhận nhận nó, Chính phủ Singapore đã tổ chức một loạt
hội chợ trực tuyến nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào dịch vụ trực
tuyến như mua bán hàng tạp phẩm, mua bán túi du lịch hay cung cấp dịch vụ
ngân hàng trực tuyến. Chính phủ Singapore cũng đã tổ chức các chương trình
đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết về công nghệ thông tin và viễn thông, trang
bị cho hàng nghìn người Singapore những kỹ năng về máy tính và Internet.
Các chương trình đào tạo này thường là rất nhanh chóng và luôn sẵn có. Ngoài
ra, Chính phủ Singapore còn tổ
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 54
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
chức một chương trình gọi là Đại sứ điện tử (e - Ambassador). Mục đích
chương trình này là để xoá bỏ "khoảng cách số" giữa những người có kiến thức
về công nghệ thông tin và viễn thông với những người chưa có kinh nghiệm gì
bằng cách người đi trước giúp đỡ người đi sau. Chương trình này được tổ
chức rộng rãi trong công chúng, nêu cao tinh thần tự nguyện, kêu gọi những
người đã biết giúp đỡ những người chưa biết từng bước làm quen với phong cách
sống điện tử.
2.2. Chiến lược G2B
Mục tiêu của chiến lược G2B của Singapore là tạo mối quan hệ điện tử
giữa Chính phủ và doanh nghiệp hiệu quả cao, thuận tiện và chi phí thấp. Mô
hình Business Town (http://www.gov.sg/singov/biz.htm) của trung tâm Công
dân điện tử là một tiến bộ quan trọng trong phương pháp lấy khách hàng làm
trung tâm để cung cấp dịch vụ điện tử. Giờ đây, các doanh nghiệp trong nước
và quốc tế có thể truy cập, sử dụng thông tin dịch vụ G2B phục vụ cho hoạt
động của doanh nghiệp như lên kế hoạch kinh doanh, nghiên cứu thị trường,
quản lý nguồn tài sản trí tuệ,…
Một hướng dẫn gồm 10 bước được xây dựng nhằm giúp đỡ các doanh
nghiệp mới trở thành các doanh nghiệp thành công trên thương trường.
Business Town còn có các kế hoạch và chương trình hỗ trợ để khuyến khích
các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử
cũng như hiện đại hoá, nâng cấp và mở rộng lĩnh vực kinh doanh truyền thống
của công ty. Thông qua công nghệ thông tin và viễn thông, Chính phủ
Singapore quyết tâm không chỉ cung cấp các dịch vụ điện tử mà còn đóng vai
trò ngày càng lớn trong sự phát triển của các doanh nghiệp ở nước này.
*Thu mua trực tuyến:
Thu mua trực tuyến có thể giúp các doanh nghiệp giảm chi phí quản lý và
tạo được nhiều mối quan hệ với nhiều nhà cung cấp trên thế giới.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 55
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ Singapore đã thiết lập hệ thống thu mua trực tuyến của Chính phủ
vào tháng 12/2000, được gọi là trung tâm kinh doanh điện tử của Chính phủ
(GeBiz). Trung tâm này tạo cơ hội cho các nhà cung cấp trong và ngoài nước
buôn bán với khu vực công, cho phép họ có thể thực hiện các giao dịch điện
tử với Chính phủ. Một khi hoàn thiện, hệ thống này sẽ mang lại cho người
mua, các nhà cung cấp và đấu thầu một môi trường an toàn cho hoạt động thu
mua và đấu thầu.
*Đơn giản hoá thủ tục đăng ký kinh doanh:
Trong môi trường kinh doanh năng động hiện nay, công việc dễ dàng
nhất và cần thiết nhất để bắt đầu và hợp thức hoá công việc kinh doanh là
đăng ký kinh doanh với Chính phủ. Các công ty có thể gửi yêu cầu thành lập
công ty trên mạng. Đơn đăng ký kinh doanh (Bizfile) có thể thực hiện trên
mạng mà không cần phải trực tiếp đến trụ sở của Cơ quan đăng ký kinh doanh
(RCB: Registry of Companies and Businesses). Công chúng sẽ có thể nhận
được các thông tin chính xác và cập nhật liên quan tới các doanh nghiệp thông
qua eBizCore. Ngoài việc đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp còn có thể
nhanh chóng xin giấy phép và các yêu cầu khác thông qua hệ thống xin cấp
phép trực tuyến (OASIS). Các doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống này ở
bất cứ đâu, miễn là nơi đó có nối mạng Internet mà không cần phải gửi đi đơn
xin cấp phép nhiều lần hoặc phải thực hiện nhiều cuộc viếng thăm các cơ quan
Chính phủ mới có thể bắt đầu công việc kinh doanh của mình.
2.3. Chiến lược G2E
Bên cạnh công chúng và doanh nghiệp, các nhân viên Chính phủ đóng
vai trò quan trọng trong sự thành công của Chính phủ điện tử. Các nhân viên
Chính phủ chịu trách nhiệm thực thi chính sách và phân phối
dịch vụ, do vậy mục tiêu của chiến lược G2E là trao quyền cho các quan
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 56
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
chức Chính phủ, sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để giữ cho mình
không ở bên ngoài lề của nền kinh tế điện tử.
Để thực hiện thành công Chính phủ điện tử, yêu cầu đầu tiên là bản thân
người cung cấp thông tin và dịch vụ điện tử phải hiểu rõ về công nghệ thông tin
và viễn thông. Xuất phát từ yêu cầu này, chương trình giáo dục công nghệ
thông tin và viễn thông (IE) đã được tổ chức nhằm trang bị cho tất cả các nhân
viên Chính phủ những kỹ năng cần thiết để tận dụng cơ hội sáng tạo ra một
Chính phủ điện tử thực sự.
* Nâng cao tri thức trong Chính phủ: Để khuyến khích và ủng hộ ý
tưởng Quản lý tri thức của Chính phủ Singapore, một chương trình thử nghiệm
về quản lý tri thức (KM-EP: Knowledge Management
Experimentation Programme) được phát động vào tháng 7/2001 để tạo ra một
môi trường làm việc tri thức trong Chính phủ.
* Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông vững mạnh: Cốt
lõi của hạ tầng công nghệ thông tin Chính phủ là một loạt các công cụ như thẻ
thông minh, hệ thống email của Chính phủ và mạng nội bộ của Chính phủ. Cơ
sở hạ tầng này tạo điều kiện thuận lợi cho thông tin liên lạc trong nội bộ Chính
phủ cũng như giữa Chính phủ với dân chúng. Ví dụ, hệ thống email của Chính
phủ hiện có 30.000 người sử dụng, mỗi tháng xử lý hơn 12 triệu email trong nội
bộ Chính phủ và 5 triệu email trao đổi giữa Chính phủ với công chúng mỗi
năm. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)
* Cải thiện tính hiệu quả trong hoạt động của Chính phủ: Một hệ
thống quản lý nhân lực sẽ tạo điều kiện thực hiện chính sách nguồn nhân lực
của Chính phủ một cách nhanh chóng. Mục đích của hệ thống này là cải thiện
hiệu quả hoạt động của chính phủ cũng như trợ giúp các bộ,
các ngành trong việc quản lý các nguồn tài nguyên.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 57
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore
Những nỗ lực xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử của
Singapore đã đạt được một số kết quả đáng kể. Cổng Chính phủ điện tử của
Singapore có 1,2 triệu người truy cập mỗi tháng. Một cuộc điều tra tiến hành vào
tháng 7/2002 cho thấy 1/3 số người được hỏi nói rằng họ thích phương pháp
giao dịch và liên lạc qua Internet, và cứ 10 người thì có 9 người nói rằng dịch
vụ điện tử của Chính phủ tương đương, nếu không nói là tốt hơn dịch vụ điện tử
của khu vực tư nhân. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)
Một số nhà phê bình nước ngoài cho rằng Singapore là nước đứng đầu
thế giới về Chính phủ điện tử. Trong hội nghị về Chính phủ điện tử năm
2002 tổ chức tại Washington, Singapore được nhận giải thưởng Explorer
Award cho những thành công của quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ
điện tử. Chính phủ Singapore rất nghiêm khắc khi thực hiện cải thiện dịch vụ
công. Điều này xuất phát từ tư tưởng cho rằng một dịch vụ công minh bạch và
hiệu quả sẽ là một yếu tố quan trọng đối với thành công trong tương lai của
Chính phủ điện tử ở Singapore.
Tuy nhiên, tương tự như các nước khác, "khoảng cách số" vẫn còn tồn
tại ngăn cách một bộ phận dân chúng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà
một khi họ không biết gì về những tiến bộ khoa học kỹ thuật này thì sẽ không thể
ủng hộ nó. Do vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Chính phủ Singapore
cần quan tâm đến nhóm người này để có thể thu hút sự chú ý và ủng hộ của
họ. Ở quốc đảo nhỏ bé này, khoảng cách giữa có hay không có một "khoảng
cách số" là rất mỏng manh.
* Một số thành tựu về Chính phủ điện tử của Singapore:
- Công dân điện tử (http://www.ecitizen.gov.sg/)
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 58
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
- NTU (Nanyang Technological University) - Đại học công nghệ
Nanyang ở Singapore quản lý mọi hoạt động của trường thông qua
Website http://www.ntu.edu.sg/.
Hạ tầng công nghệ thông tin tại NTU có thể xếp hàng đầu nếu so sánh
với các trường đại học Âu - Mỹ. Cán bộ và sinh viên NTU có thể truy cập đến
Website của trường để vào hệ thống ứng dụng dành riêng
(www.ntu.edu.sg/stafflink cho cán bộ và www.ntu.edu.sg/studentlink cho sinh
viên).
Hệ thống Stafflink: hệ thống này giải quyết mọi công việc liên quan đến
giảng dạy và hành chính như lịch giảng, phân bố lớp học, điền điểm thi vào sơ
sở dữ liệu, thiết lập bảng lương, tài chính, các công trình nghiên cứu…Nhờ đó,
quá trình xử lý được rút ngắn từ hàng tuần khi dùng giấy tờ xuống vài phút. Hệ
thống này được truy cập qua Internet nên rất tiện cho người sử dụng.
Hệ thống Studentlink: điểm và thông tin liên quan đến quá trình học tập
của sinh viên đều có trên hệ thống này. Sinh viên có thể truy cập vào
Studentlink để cập nhật thời khoá biểu, lịch học, lớp học, nhóm thực hành thí
nghiệm, xem điểm thi…
Hệ thống Edventure (http://edventure.ntu.edu.sg/): là hệ thống lớp học
ảo vào loại hiện đại nhất thế giới. Các môn học, kể cả tài liệu tham khảo và
nội dung bài giảng đều được đưa vào đây. Giáo sư thông báo lịch học, tài liệu
và trao đổi với sinh viên tại địa chỉ này. Hiện nay hệ thống video đang được
thử nghiệm để truyền hình bài giảng từ xa, cho phép giáo sư có thể giảng bài
qua hệ thống Edventure mà không phải đích thân đến giảng đường. Mỗi giảng
đường đều được trang bị hệ thống máy tính và máy chiếu. Giáo sư truy cập bài
giảng từ Edventure và chiếu trực tiếp tại
giảng đường.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 59
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Hệ thống Microsoft Exchange: Đây là hệ thống email cá nhân và các thư
mục, trao đổi thông tin của trường chạy trên nền Microsoft Exchange. Các cơ
sở dữ liệu ở đây cho phép nhanh chóng tìm tên người, địa chỉ, số điện thoại và
địa chỉ email. Các hoạt động khác như đặt phòng họp, thông báo hội thảo đều
được tiến hành tự động trên hệ thống.
Hệ thống thư viện: Thư viện của NTU là nơi ứng dụng công nghệ
thông tin nhiều nhất. Cơ sở dữ liệu sách trong thư viện được quản lý bằng
OPAC. Mỗi quyển sách đều có mã vạch từ điển và mã vạch chống lấy trộm.
Người sử dụng tìm tên sách trên mạng OPAC, chọn sách và mượn sách qua
máy tự động. Hệ thống đặt sách, đặt cảnh báo quá hạn… đều chạy trên máy tự
động.
Ngoài ra, thư viện còn đăng ký truy cập tới các thư viện điện tử trên thế
giới và các tạp chí chuyên ngành. Tài liệu được tải về máy tính cá nhân trong vài
giây mà người dùng không cần đích thân đến thư viện. Hệ thống dữ liệu của
NTU cũng như luận án tốt nghiệp của sinh viên đều được số hoá và cài đặt
trên cơ sở dữ liệu của thư viện.
Hệ thống quản lý nhân sự và bảo mật: Mỗi cán bộ và sinh viên của NTU
đều có thẻ chứng minh. Thẻ chứng minh được dùng tại thư viện khi tự động
mượn sách hay tại các cơ sở thể dục thể thao của trường.
Mô hình trên đây của NTU không chỉ cho thấy những ứng dụng hiệu quả
của Internet trong môi trường đào tạo mà còn phản ánh một xu hướng mới: biến
Website thành cổng hành chính. Đây là xu hướng mới của nhiều tổ chức, nhất là
các tổ chức hành chính, quản lý ở các quốc gia phát triển.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 60
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử
Thực tiễn phát triển Chính phủ điện tử ở ba nước Mỹ, Australia và
Singapore cho thấy rằng Chính phủ điện tử đã tạo ra nhiều cơ hội và đem lại
nhiều lợi ích cho Chính phủ ba nước này:
- Tạo ra một Chính phủ hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn, giảm hiện
tượng quan liêu, tham nhũng của các cơ quan công quyền.
- Người dân có thể chủ động tham gia vào quá trình điều hành của
Chính phủ ở mỗi quốc gia.
- Người dân được hưởng các dịch vụ thuận tiện, hiệu quả và tiết kiệm
hơn, từ đó kích thích khả năng truy cập thông tin.
- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, cơ sở hạ tầng nhân
lực, cơ sở hạ tầng pháp lý… phát triển cùng với quá trình phát triển Chính phủ
điện tử.
- Các doanh nghiệp trong Chính phủ điện tử có nhiều cơ hội tham gia
giao dịch trên mạng, giảm chi phí và những phiền phức khi phải làm việc với
Chính phủ, từ đó đẩy nhanh năng suất, nâng cao lợi nhuận.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.
2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ điện tử
2.1. Những thách thức về kỹ thuật
Vấn đề bảo mật luôn là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử ở các nước. Do vậy, để đảm bảo được tính an toàn và bảo
mật những thông tin liên quan đến công dân và doanh nghiệp, một Chính phủ
điện tử hiệu quả cần phải có 2 thành phần công nghệ quan trọng
sau:
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 61
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
- Một mạng lưới an toàn: công nghệ này bảo vệ mạng lưới khỏi bị nghe
trộm và sửa đổi thông tin được truyền tải. Mặc dù hiện nay ở các nước đã có
một số công nghệ bảo mật như SSL/V3 và S/MIME, nhưng chúng ta vẫn cần
phát triển thêm nhiều công nghệ hơn nữa để đảm bảo sự an toàn ngày càng cao
cho người sử dụng.
- Sự thẩm định điện tử: Để xây dựng Chính phủ điện tử thành công, trước
tiên phải có một hệ thống thẩm định điện tử đáng tin cậy cho cả các cá nhân,
doanh nghiệp và cả các viên chức Chính phủ, những người phải xử lý các mẫu
đơn và quyết định nội dung của các mẫu đơn đó.
2.2. Khung pháp lý và chính sách công cộng
Việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông có thể gặp phải những
trở ngại về vấn đề pháp luật và chính sách. Luật pháp và chính sách phải đảm
bảo cho việc thực hiện các giao dịch và các tài liệu điện tử diễn ra dễ dàng. Do
đó các nhà hoạch định chính sách phải xem xét ảnh hưởng của luật pháp và
chính sách tới quá trình phát triển Chính phủ điện tử.
2.3. Khoảng cách số
"Khoảng cách số" vẫn là vấn đề nhức nhối của tất cả các Chính phủ
trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, kể cả các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển. Ví dụ như ở Mỹ, chính Bộ Thương Mại Mỹ đã báo động
về một khảng cách số khá sâu rộng trong xã hội. Số người Mỹ da trắng có khả
năng sắm máy vi tính nhiều gấp hai lần (40,8%) so với người Mỹ gốc Phi
(19,3%) hay Tây Ban Nha (19,4%). Riêng số người Mỹ da trắng ngồi nhà truy
cập Internet vẫn nhiều hơn so với tất cả những người Mỹ da màu vào Internet
từ bất cứ nơi đâu. Số người có trình độ cao đẳng trở lên và có khả năng sắm
máy vi tính hiện nhiều hơn gấp mười lần (63,2%) so với những người chưa có
ngày nào bước vào ngưỡng cửa bậc
trung học (6.8%) … (Nguồn: Tạp chí PCWorld Vietnam, số tháng 9/2001)
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 62
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Xoá bỏ "khoảng cách số" không phải là chuyện một sớm một chiều, mà
cần phải có sự nỗ lực hết sức của Chính phủ trong một khoảng thời gian rất
dài. Đây là thách thức không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai, vì nếu không
xoá bỏ "khoảng cách số" này thì không thể nào xây dựng được một Chính phủ
điện tử hoàn chỉnh.
2.4. Ngân sách cho việc triển khai Chính phủ điện tử
Đây là vấn đề hết sức quan trọng để hỗ trợ cho việc triển khai Chính phủ
điện tử được suôn sẻ. Đối với một nước có nguồn ngân sách hạn chế, chính phủ
nên tìm kiếm các nguồn đầu tư hay có thể duy trì các chương trình tiết kiệm
để tránh lãng phí. Các nhà hoạch định chính sách cần đặt ra các mục tiêu cụ thể
và hợp lý dựa vào các nguồn lực sẵn có.
2.5. Các cản trở khác đối với Chính phủ điện tử
Theo cựu Phó Tổng Thống Mỹ Al Gore, có 4 cản trở lớn của Chính phủ
điện tử: văn hóa quản lý; ý muốn duy trì quyền lực; tệ tham nhũng; và trình độ
công chức. Đây là những khó khăn nội tại của Chính phủ. Do vậy muốn xây
dựng thành công Chính phủ điện tử, Chính phủ các nước phải
giải quyết được những khó khăn này.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 63
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM
I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Chính phủ điện tử là một thuật ngữ còn khá mới mẻ với Việt nam. Gần
đây chúng ta bắt đầu nghe nói nhiều tới Chính phủ điện tử, nhưng hầu như chỉ
có một số các viên chức Chính phủ là có thể biết tới khái niệm Chính phủ
điện tử. Vậy vấn đề ở đây là liệu Việt nam đã có Chính phủ điện tử hay
chưa? Để trả lời được câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy xem xét một số tiền
đề phục vụ việc phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam sau:
1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
1.1 Hạ tầng Internet và viễn thông
♣ Thực trạng dịch vụ Internet và viễn thông ở Việt Nam
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 64
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Bộ Bưu chính viễn thông đã thực thi các chính sách ủng hộ môi trường
cạnh tranh, tạo ra các điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế tham gia vào dịch
vụ Internet và viễn thông. Kết quả là trên thị trường có rất nhiều nhà cung
cấp được cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông (hiện tại có 6 doanh nghiệp
được phép cung cấp cơ sở hạ tầng mạng). Chỉ trong dịch vụ Internet, đến cuối
năm 2002 đã có 3 IXP, 13 ISP và 4 ISP (nhà cung cấp dịch vụ internet) dùng
riêng được cấp phép cung cấp các dịch vụ Internet và các ứng dụng (so với cuối
năm 2000 chỉ có 1 IXP và 5 ISP).
Các ISP chủ yếu tập trung khai thác thị trường tại các thành phố lớn.
Trong số 13 ISP vào thời điểm này, chỉ có VDC là có khả năng cung cấp dịch
vụ trên toàn quốc, các ISP như FPT, NETNAM, SPT chỉ tập trung vào phát
triển dịch vụ tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng. 9 ISP còn lại, mặc dù đã được cấp phép nhưng vẫn chưa thực sự cung
cấp dịch vụ.
VDC hiện tại đang chịu trách nhiệm về mạng xương sống của Việt Nam
và các cổng đi quốc tế. Các ISP như FPT, NETNAM chỉ cung cấp dịch vụ ở
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phí truy nhập Internet của 2
ISP này được tính theo giá trong nước. SPT và VIETEL do mới được cấp phép
cung cấp dịch vụ nên thị phần còn thấp. VDC và FPT cũng là hai ISP lớn nhất
Việt Nam, chiếm khoảng 87% thị trường Internet Việt Nam trong đó VDC
chiếm khoảng 57% và FPT chiếm khoảng 30%.
Với nhiều phương thức truyền tin khác nhau, dịch vụ điện thoại đã được
đưa đến tất cả các quận huyện và 93,04% các xã phường trên toàn quốc (năm
2000 tỷ lệ này là 85,8%). Hiện nay, 8.356/8.981 phường xã trên toàn quốc đã có
điện thoại, đạt tỷ lệ 93,04%; ở các xã đặc biệt khó khăn là
1.728/2362, đạt tỷ lệ 73,16%; 100% các xã ở đảo có điện thoại; 319 trong tổng
số 401 xã vùng biên đã có điện thoại, đạt tỷ lệ 79,55%… Tổng số
điện thoại cố định ở khu vực nông thôn là khoảng 1,8 triệu.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 65
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
Hiện tại, ở hơn 60 tỉnh thành trên cả nước, những người sử dụng điện
thoại cố định có thể truy cập gián tiếp Internet theo nhiều cách khác nhau như
Internet trả trước, Internet trả sau, VNN1268, VNN1269,… và với dịch vụ
VNN999, người sử dụng còn có thể truy nhập Internet qua điện thoại di động.
Đến hết tháng 6/2003, Việt Nam có trên 460.000 thuê bao Internet, tỷ lệ
người sử dụng Internet đạt 2,38%. Mặc dù tỷ lệ này vẫn chưa đạt trung bình
thế giới nhưng, với kết quả này, Việt Nam đã được đánh giá là có tốc độ phát
triển viễn thông nhanh thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc.
Bảng: Các chỉ số công nghệ thông tin truyền thông
Các chỉ số công nghệ thông tin Việt nam EAP Toàn cầu truyền thông được lựa chọn
GNP đầu người (PPP value) 2.010USD 4.130USD 6.870USD
Điện thoại cố định cho 1.000 người 109 158 50
Điện thoại di động cho 1.000 người 70 86 19
Đài cho 1.000 người 302 420 107
11 PC cho 1.000 người 21,7 28,4
Sự truy cập Internet (% dân số) 0.22% 1,5% 8%
Số người dùng Internet (nghìn 172 51.943 562.371
người)
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 66
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Nguồn: Số liệu của Hiệp hội Viễn thông quốc tế 2000 và số liệu của
Tổng cục bưu điện Việt nam 2002
EAP: Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương
♣ Việc giảm phí Internet và viễn thông
Từ năm 2001, Tổng cục Bưu chính viễn thông đã thực thi hàng loạt
chính sách nhằm từng bước giảm phí Internet và viễn thông. Trong suốt 2 năm
2001-2002, Tổng cục đã ban hành hai quyết định về phí lắp đặt và thuê bao
đường dây Internet trực tiếp, áp dụng cho các khu công nghiệp phần mềm tập
trung. Từ 1/1/2002, các loại phí kết nối Internet trực tiếp đối với các khu công
nghiệp phần mềm tập trung đã giảm đáng kể so với trước. Tính trung bình,
phí thuê đường dây giảm 30%, phí lắp đặt giảm
50% và phí thuê bao cổng Internet trực tiếp giảm 39%. Có thể nói rằng đây là
một nỗ lực quan trọng của ngành Bưu chính trong việc thúc đẩy sự phát triển
của công nghiệp phần mềm nói riêng và công nghệ thông tin Việt Nam nói
chung.
Với mục tiêu phổ cập hoá Internet, các chính sách thúc đẩy cạnh tranh
cũng như các chính sách thích đáng về cước phí dịch vụ Internet đã được thực
hiện. Trong hai năm 2001-2002, phí truy nhập Internet gián tiếp qua điện thoại
đã giảm khoảng 14%. Chính sách nhiều giá đã được thực thi, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà cung cấp có thể chủ động trong việc mở rộng các dịch vụ
Internet. Mức cước đầu năm 2003 dao động từ mức thấp nhất là 40 VND/phút
đến mức cao nhất là 180 VND/ phút.
Thêm vào đó, trong hai năm liên tục 2001-2002, Tổng cục Bưu chính
viễn thông đã xây dựng lịch trình giảm giá và ban hành các quyết định về
giảm cước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông khác như phí thuê kênh
trong nước và quốc tế, phí dịch vụ Frame Relay và X25 cùng với cước dịch
vụ điện thoại quốc tế tiếp tục được cắt giảm.
Ngày 25/3/2003, Bộ Bưu chính viễn thông đã công bố mức giảm
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 67
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
cước từ 10% đến 40% đối với 12 loại hình dịch vụ Internet và viễn thông. Các
mức cước mới này có hiệu lực từ 1/4/2003. Theo đó, cước viễn thông quốc tế
trực tiếp (IDD - International Direct Dial) giảm khoảng 32% và được chia theo
3 mức: mức 1 là 0,9 USD/phút, mức 2 là 1 USD/phút và mức 3 là 1,1
USD/phút. Trước đó cước được chia theo 4 mức tương ứng là
1,3 USD/phút, 1,4 USD/phút, 1,5 USD/phút và 1,7 USD/phút. Do vậy, việc
giảm và điều chỉnh cước viễn thông trực tiếp quốc tế IDD từ 4 mức xuống còn
3 mức giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí bằng cách chuyển từ mức
cước cao xuống mức cước thấp.
Cước thuê bao di động trả sau cũng giảm từ 150.000 VND xuống
120.000, cước cho mỗi phút đàm thoại cũng được chia làm hai mức: nội hạt là
1.800 VND/phút, liên tỉnh là 2.700 VND/phút. Cước di động trả trước trong
nội hạt cũng giảm từ 3.500 VND/phút xuống 3.300 VND/phút, cước liên tỉnh
giảm từ 5.000-6.500 VND/phút xuống 4.200 VND/phút. Cước thuê bao di
động theo ngày cũng giảm từ 3000 xuống còn 2.700
VND/ngày, cước gọi nội hạt không đổi trong khi cước liên tỉnh giảm còn
3.100 VND/phút.
Cước điện thoại trong nước cho truy cập Internet giảm từ 120
VND/phút xuống còn 40 VND/phút. Đối với dịch vụ thuê kênh viễn thông quốc
tế, mức phí giảm tới 40%. Với các dịch vụ này, Bộ Bưu chính viễn thông đã
đưa ra các mức giá trần và giá sàn để tạo quyền quyết định mức giá cạnh tranh
cho các doanh nghiệp. Mức phí dịch vụ kênh viễn thông quốc tế áp dụng cho
các IXP để kết nối Internet quốc tế giảm từ 20% đến
30%.
3.2 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam
Tổng doanh thu của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam năm
1997 là 150 triệu USD, năm 1998 là 180 triệu, năm 1999 là 195 triệu, năm
2000 là 235 triệu và năm 2001 là 300 triệu. Trong đó, phần cứng chiếm tới
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 68
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
80%, phần mềm 8% và dịch vụ 12%. Năm 2002, tổng doanh thu đạt 340 triệu
USD trong đó doanh thu phần cứng đạt 280 triệu, phần mềm và dịch vụ 60
triệu.
Sự tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam
ThÞ tr−êng CNTT (triÖu USD)
340 400 300
300 200 220 180 150 200
100
0 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May
2003)
Thị trường công nghệ thông tin thế giới phát triển chậm, trung bình
khoảng 2,5%/năm, tối đa là 6% trong khi thị trường công nghệ thông tin Việt
Nam sẽ tiếp tục duy trì tốc độ 20-25%. Trong nửa đầu năm 2003, thị trường
phần cứng, Internet và viễn thông phát triển sôi động nhất. Trong quý I, kim
ngạch nhập khẩu thiết bị tin học của Việt Nam đạt 105 triệu USD, tăng 78%
so với cùng kỳ năm trước. (Theo Tuần tin Công nghiệp - Thương mại Việt
Nam, số 34/2003)
2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử
Để triển khai Chính phủ điện tử, việc cần thiết nhất là phải có một
nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây được hiểu là đội ngũ cán bộ
làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin viễn thông, đội ngũ cán bộ quản lý
có nhận thức đầy đủ về công nghệ thông tin cũng như Chính phủ điện tử.
Nguồn nhân lực mạnh mẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự
thành công của chiến lược xây dựng Chính phủ điện tử.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 69
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Đầu tiên là nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông. Cho tới năm 1980, lực lượng làm công nghệ thông tin (CNTT) ở nước ta
chủ yếu là các cán bộ thuộc các ngành toán, lý chuyển sang. Hiện nay trên
phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang hoạt động trong
lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về phần mềm tin
học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt động
trong lĩnh vực CNTT.
Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho
tới nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh
viên đều được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu
tư cho các khoa CNTT với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi
năm. Cho tới nay, trung bình mỗi năm có khoảng
3.500 người được đào tạo cơ bản về tin học. Tuy nhiên, nếu tính bình quân đầu
người so với Singapore thì nước ta còn kém khoảng 50 lần. Hiện nay, chúng ta
vẫn đang thiếu nhân lực về CNTT, số sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ
đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và doanh nghiệp. (Nguồn: Thương mại điện tử
- Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003)
Còn về đội ngũ cán bộ quản lý các dự án tin học hoá quản lý hành
chính nhà nước, mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tin học hoá
này nhưng đa số các cán bộ không có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó. Một
dự án tốt mà những nhà lãnh đạo chủ chốt lại không có nhận thức đầy đủ về bản
chất của vấn đề thì không bao giờ có thể thành công được.
3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử
của Chính phủ
Có thể nói nhận thức của người dân Việt nam về Chính phủ điện tử điện
tử rất kém. Hầu như mọi người đều không biết Chính phủ điện tử là
gì, kể cả những sinh viên đại học chuyên ngành công nghệ thông tin hay
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 70
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
kinh tế, chứ không nói gì đến những người dân bình thường, kể cả người dân ở
các thành phố lớn đến những người dân ở nông thôn. Từ tình trạng sử dụng
dịch vụ Internet ta có thể thấy, mặc dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet đã
tăng lên, nhưng vẫn còn rất thấp so với các nước khác. Do vậy khả năng tiếp
cận các dịch vụ công của Chính phủ là rất thấp. Đối tượng sử dụng chủ yếu là
các doanh nghiệp, nhưng vẫn không phải tất cả các doanh nghiệp Việt nam đều
sử dụng được các loại dịch vụ của Chính phủ điện tử. Còn người dân thì chỉ có
một số ít sử dụng, đó là những người đã quen thuộc với Internet. Như vậy,
muốn tăng khả năng sử dụng các dịch vụ công của Chính phủ điện tử, điều cần
thiết trước mắt là phải nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong đời sống.
Hiện nay nhiều nhà lãnh đạo chưa thấy hết được giá trị của công nghệ
thông tin trong công tác quản lý. Nhận thức của đại bộ phận cán bộ công chức
còn kém, chưa thấy sức mạnh và chưa biết khai thác công nghệ thông tin.
4. Cơ sở pháp lý
Các quyết định của Thủ Tướng Chính phủ số 280/QĐ-TTg ngày
29/4/1997 về việc xây dựng mạng tin học diện rộng trong các văn phòng
UBND và các bộ, ngành; Quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 5/3/1997 về việc
thành lập ban điều phối quốc gia mạng Internet…, là những cơ sở pháp lý ban
đầu cho việc phát triển hạ tầng cơ sở thông tin ở Việt Nam và tạo điều kiện cho
thương mại điện tử, Chính phủ điện tử bước đầu phát triển tại Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên
vật mang tin như đĩa từ, băng từ hay các loại thẻ thanh toán để làm chứng từ
thanh toán và để thanh toán tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng
(theo quyết định số 196/QĐ-TTg ngày 1/4/1997 của TTCP).
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 71
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ Việt nam cũng cần tạo ra một khung pháp lý cho sự ra đời
của thương mại điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Chính phủ điện
tử. Chính vì vậy, căn cứ Nghị quyết số 12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng
Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ năm 2002-2007 và Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ về việc giao Bộ Thương mại làm đầu mối xây dựng Pháp lệnh
Thương mại điện tử, tháng 3/2002 Bộ Thương mại đã ra quyết định thành lập
Ban soạn thảo Dự án Pháp lệnh Thương mại điện tử, từ đó từng bước hoàn
chỉnh để trình quốc hội phê duyệt văn bản pháp lý quan trọng này. Cho tới
nay, dự thảo lần thứ 6 của Pháp lệnh Thương mại điện tử đã được hoàn thành
và được Bộ Thương mại trình lên Chính phủ. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ chính
thức phê duyệt và ban hành Pháp lệnh này vào quý I năm 2004.
Cho đến nay, Chính phủ Việt nam đã soạn thảo hai đề án tin học hoá quản
lý hành chính nhà nước nhằm tạo tiền đề cho sự ra đời của Chính phủ điện tử.
Đầu tiên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 49/CP về ứng dụng công nghệ
thông tin ở Việt nam giai đoạn 1996 - 2000, trong đó đề án tin học hóa quản
lý hành chính nhà nước là một phần quan trọng trong Chương trình quốc
gia về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, đề án này không được thực hiện một cách
suôn sẻ, hay nói đúng hơn là "đang khởi động thì ngừng lại". Chương trình quốc
gia về công nghệ thông tin chỉ tồn tại có hai năm rưỡi, thời gian còn lại chỉ để
sắp xếp về tổ chức và triển khai thử nghiệm một số dự án để rút kinh nghiệm.
Vào ngày 25/7/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 112/QĐ-
TTg phê duyệt đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -
2005.
5. Vấn đề bảo mật thông tin
Hiện nay, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho thông tin điện tử ở Việt
Nam được thực hiện như sau:
- Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các cơ quan của
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 72
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao…), từ lâu nhà nước đã có các
quy định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phù hợp để đảm bảo an ninh, an
toàn cho loại thông tin này. Ngành cơ yếu Việt Nam đứng đầu là Ban cơ yếu
Chính phủ là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo mật, bảo đảm an toàn
cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.
- Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực kinh tế xã hội, việc bảo đảm
an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi Việt Nam chính thức tham gia mạng Internet,
nhà nước đã thành lập một cơ quan liên ngành Bưu chính viễn thông và Công
an để quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số văn bản quy định về
vấn đề này.
6. Hệ thống thanh toán điện tử
Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang nỗ lực triển khai các dịch
vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm
tự động hoá việc xử lý giao dịch, đa dạng hoá sản phẩm. Hiện nay, Ngân hàng
Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã có hệ thống thanh
toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội
bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của
Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh
toán SWIFT. Cụ thể là, ngân hàng Ngoại Thương đã có hệ thống bán lẻ
SilverLake, hệ thống quản lý thẻ ATM và tham gia mạng SWIFT; ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam có hệ thống thanh toán tập trung BCS, hệ thống
giao dịch trên mạng IBS và dịch vụ Home Banking; ngân hàng Công Thương
Việt Nam đã có trương trình thanh toán điện tử trực tuyến triển khai tại toàn
bộ 98 chi nhánh trên cả nước, đồng thời ngân hàng cũng sẵn sàng thanh toán các
loại thẻ tín dụng của hai tổ chức là Visa và Master.
Đáng chú ý hơn cả là Ngân hàng Á châu ACB đã triển khai hệ thống
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 73
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
quản trị ngân hàng bán lẻ mới TCBS trong trong toàn hệ thống, làm nền tảng
cho việc phát triển ngân hàng điện tử Á châu (ACB E.Banking). Sau ba năm
chuẩn bị, sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử đã chính thức hoạt động vào đầu
năm 2003 với tổ hợp các kênh phân phối bằng điện tử với những sản phẩm
dịch vụ ngân hàng của ACB dành cho khách hàng như Banking, Home
Banking, Phone Banking, Mobile Banking, thẻ thanh toán. Đặc biệt dịch vụ
Home Banking giúp khách hàng trên mạng kết nối tại văn phòng, tại nhà riêng.
ACB E.Banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến khách
hàng thông qua điện thoại cố định, điện thoại di dộng, máy tính, POS,
Internet, Intranet, Wap… dịch vụ có thể thực hiện
24/24 giờ và 7 ngày trong tuần. Hiện nay ACB đang cung cấp dịch vụ
E.Banking hoàn toàn miễn phí. Đặc biệt, dịch vụ Home Banking do ACB cung
cấp được bảo đảm an toàn nhờ hệ thống mã khoá bảo mật chữ ký điện tử của
khách hàng (CA) do đơn vị thứ ba cung cấp (VASC). Công nghệ CA được
các tổ chức tài chính quốc tế như Swift, Visa, Master… công nhận và sử dụng
trong việc thanh toán điện tử. Các khách hàng sẽ được sử dụng tám dịch vụ
chính như: Kiểm tra số dư tài khoản; Mua sắm hàng hoá không dùng tiền mặt
(bằng dịch vụ Mobile Banking và thẻ ACB); Chuyển tiền giữa các tài khoản
với nhau; Yêu cầu báo cáo về tình hình giao dịch tài khoản; Thanh toán các
loại hoá đơn; Rút tiền từ tài khoản khi đang ở nước ngoài; Kiểm tra tỷ giá hối
đoái, giá chứng khoán và hỏi thông tin về các tài khoản và dịch vụ ngân hàng.
Trước mắt việc áp dụng thanh toán dịch vụ Home Banking chỉ được áp dụng
cho loại tiền đồng Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy rằng chúng ta đã có một số cơ sở ban đầu phục vụ
cho việc thanh toán điện tử thông qua các ngân hàng của Việt Nam. Tuy nhiên,
việc thanh toán điện tử vẫn còn tương đối mới mẻ đối với các doanh nghiệp, đa
số các doanh nghiệp vẫn chưa thể cho phép khách hàng
thanh toán trực tuyến tại website của mình thông qua các dịch vụ của ngân
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 74
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
hàng.
II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM
1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước
1.1. Chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai
đoạn 1996 - 2000
1.1.1. Một số thành quả của chương trình
Dự án ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính 1996
- 1998, với tên gọi chính thức là Dự án tin học hoá quản lý nhà nước, là một
bộ phận quan trọng của Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin giai đoạn
1996 - 2000. Trong ba năm 1996-1998, Nhà nước đã đầu tư cho chương trình
280 tỷ với 4 nội dung lớn là đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin;
xây dựng cơ sở hạ tầng các mạng truyền thông máy tính; ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý nhà nước và các hoạt động kinh tế-xã hội khác; phát
triển công nghiệp công nghệ thông tin, trong đó riêng dự án tin học hoá quản
lý nhà nước được đầu tư hơn 150 tỷ đồng. Trong chưa đầy 4 năm hoạt động
(1996 - 1999), chương trình đã đạt được kết quả đáng khích lệ cho sự phát triển
công nghệ thông tin ở nước ta như Internet, 7 khoa công nghệ thông tin tại 7
trường đại học trọng điểm, Saigon Software Park ở Thành phố Hồ Chí
Minh,… (Nguồn: PCWORLD B Việt Nam số 01/2002)
Tin học hoá quản lý nhà nước là một phần trong nội dung quan trọng
về ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy vậy, vào giai đoạn triển khai chương
trình, hầu hết chúng ta chưa biết tới khái niệm Chính phủ điện tử, càng chưa
nhận thức được rằng Chính phủ điện tử gồm hai mảng lớn là tin học hoá hoạt
động hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước (G2G) và
tin học hoá các dịch vụ công (G2B, G2C). Ta đã đầu tư hơn 50% tổng kinh
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 75
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
phí của chương tình cho mảng G2G ở các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố.
Không phải bộ, ngành, tỉnh, thành phố nào cũng sử dụng có hiệu quả vốn đầu
tư ban đầu tuy ít ỏi nhưng hết sức quan trọng này, nhưng rõ ràng đó là bước
khởi đầu quan trọng để hình thành mạng diện rộng của Chính phủ sau này.
1.1.2. Hạn chế của chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai
đoạn 1996 - 2000
* Hạn chế:
Về điều hành vi mô: Nhiều hạng mục lớn đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt trong kế hoạch tổng thể chưa triển khai được. Các dự án tin học hoá
quản lý hành chính nhà nước của các bộ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng mới
chỉ thực hiện được một phần. Vốn đầu tư cho tin học hoá
160 tỷ đồng trong ba năm 1996- 1998 mới chỉ đáp ứng 20%- 25% nhu cầu kinh
phí của các đề án đã được duyệt của 100 cơ quan hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.
Theo điều tra của văn phòng Chính phủ, đa số các đề án tin học hoá bị
ngừng lại. Một số cơ quan có khả năng tiếp tục đầu tư cho các chỉ tiêu tin học
hoá quản lý nhà nước, nhưng phát triển theo hướng công nghệ riêng; một số
cơ quan khác thì chờ chủ trương phát triển thống nhất chung của Chính phủ.
Các cơ sở dữ liệu quốc gia mới chỉ được đáp ứng khoảng
10% nhu cầu vốn đầu tư (30 tỷ đồng). Do vậy, các cơ sở dữ liệu quốc gia chỉ
dừng lại ở giai đoạn hoàn thành luận chứng khả thi và triển khai thử nghiệm,
đang chờ vốn để tiếp tục đề án. Thêm vào đó, nhiều bộ, ngành coi thông tin quản
lý của mình là thông tin riêng của ngành, không coi đó là tài sản quốc gia hoặc
cung cấp dữ liệu tổng hợp không đầy đủ để các cơ quan khác có đủ thông tin
phục vụ cho việc hoạch định chính sách và ra quyết
định.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 76
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Dữ liệu trên mạng tin học: Thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động
quản lý hành chính có nhiều nhưng việc tích luỹ thông tin dưới dạng điện tử chỉ
mới dừng ở mức độ thấp, đến nay mới tích luỹ trên mạng ở một số loại thông tin
cơ bản.
Về tổ chức bộ máy: Cho đến nay vẫn chưa có quy định chung về vị trí,
chức năng, nhiệm vụ đối với các đơn vị chủ trì các đề án tin học hoá quản lý
hành chính nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước, thậm chí không có
ngạch công chức, không có chức danh cho cán bộ làm công tác tin học. Vì lý
do này nên các cơ quan hành chính nhà nước đã không thu hút được chuyên
gia kỹ thuật giỏi, dẫn đến việc tiếp thu chuyển giao công nghệ, chỉ đạo triển
khai các dự án ứng dụng bị hạn chế rất nhiều.
Về cơ chế tài chính: từ năm 1998, kinh phí dành cho tin học hoá quản lý
hành chính nhà nước chuyển sang nguồn ngân sách chi thường xuyên, do vậy
các bộ, ngành, địa phương không đủ kinh phí đầu tư để hoàn thành các đề án tin
học hoá, không thể tiếp tục triển khai các ứng dụng cơ bản trong quản lý, điều
hành. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học của nhiều cơ quan hành chính nhà nước,
về cơ bản, đến nay vẫn như tình trạng năm
1998.
Bảng: Đánh giá hiệu quả đầu tư và nhu cầu tiếp tục triển khai tin học
hoá quản lý
Hiệu quả so với mức Ý kiến của các bộ, Ý kiến của các tỉnh
ngành (%) đầu tư (%)
Rất hiệu quả 1,75 35,7
Hiệu quả vừa phải 87,7 59,5
Không hiệu quả 7 0
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 77
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Không có ý kiến 4,7 3,5
(Theo số liệu điều tra của Văn phòng ban chỉ đạo chương trình quốc gia
về công nghệ thông tin năm 1998 tại 57.61 tỉnh và 42/51 bộ, ngành, đoàn thể.
Nguồn: Kho dữ liệu Internet Net - Văn phòng Chính phủ)
*Nguyên nhân:
Đến đây xuất hiện một câu hỏi là nguyên nhân nào khiến cho các dự án
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước không thành
công như mong đợi?
Nguyên nhân đầu tiên và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là nhận
thức chưa đúng của các cấp lãnh đạo về vao trò của công nghệ thông tin trong
việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Tuy vẫn nói rằng công nghệ thông tin là quan trọng nhưng phần lớn lãnh
đạo các tổ chức đều không dành đủ thời gian, không dành đủ tiền bạc cho công
nghệ thông tin, không trực tiếp chỉ đạo hay tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách
công nghệ thông tin tại các đơn vị hầu như chẳng được trao quyền hạn gì đáng
kể. Họ không được tham gia vào định hướng chiến lược ứng dụng công nghệ
thông tin, không được tham gia vào quá trình tái cơ cấu các quy trình nghiệp
vụ. Do vậy việc các lãnh đạo không có nhận thức đúng mức về tầm quan trọng
của công nghệ thông tin đã ảnh hưởng xấu tới sự thành công của dự án.
Nhận thức đúng mức vai trò của công nghệ thông tin không phải là việc
dễ dàng và tự nhiên. Không phải vô cớ mà Chính phủ Pháp phải đầu tư 500
triệu FRF cho chương trình nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và dân
chúng về vai trò của công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng. Nếu
không có biện pháp nâng cao nhận thức này của các cấp lãnh đạo, không thể nói
đến hiệu quả của các dự án ứng dụng công
nghệ thông tin.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 78
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Nguyên nhân thứ hai: Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa
tốt.
Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt thể hiện ở trình độ
quản lý của lãnh đạo các cấp không cao. Do trình độ hạn chế, nhiều cán bộ lãnh
đạo ngại ứng dụng công nghệ thông tin, ngại học tin học vì sợ lộ ra những khiếm
khuyết về trình độ. Mặt khác, "tập quán" lãnh đạo theo kinh nghiệm tại nhiều
đơn vị đang làm giảm vai trò của công nghệ thông tin. Nếu lãnh đạo không sử
dụng thông tin để ra quyết định thì ý nghĩa của hệ thống thông tin không còn
nữa. Lãnh đạo không sử dụng thông tin thì cấp dưới cũng không cần thông tin,
cuối cũng dẫn đến tình trạng không có nhu cầu về thông tin trong toàn bộ hệ
thống.
Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt còn thể hiện ở các
quy trình nghiệp vụ lạc hậu hoặc không ổn định. Chúng ta đều biết không thể
ứng dụng công nghệ thông tin cho một quy trình nghiệp vụ không ổn định.
Ngoài ra, nếu ứng dụng công nghệ thông tin cho các quy trình cũ lạc hậu thì sự
cải thiện sẽ là không đáng kể (về hiệu quả đầu tư có thể cho kết quả âm).
Nguyên nhân thứ ba: Các tổ chức, và kể cả các doanh nghiệp Việt nam,
chưa cảm thấy nguy cơ mất năng lực cạnh tranh khi Việt nam tham gia vào
các khối kinh tế thương mại khu vực và thế giới.
Tâm lý chung của rất nhiều lãnh đạo các cơ quan hiện nay là có ứng dụng
công nghệ thông tin cũng tốt, còn chưa ứng dụng cũng chẳng sao. Không có gì
bức bách cả. Thế nhưng thực tế ngày nay cho thấy không chỉ các doanh nghiệp
phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, mà ngay cả các Chính phủ cũng phải
đối mặt với thử thách tương tự. Chính vì thế Chính phủ điện tử còn được gọi
là Chính phủ cạnh tranh. Những quốc gia có Chính phủ điện tử hoàn hảo có
cơ hội thu hút đầu tư tốt hơn những quốc
gia quản lý giao dịch quan liêu trì trệ. Trong nội bộ một nước, những tỉnh,
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 79
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
thành phố có nền hành chính điện tử tốt cũng có cơ hội thu hút đầu tư tốt hơn
những "tỉnh quan liêu giấy tờ". Ứng dụng công nghệ thông tin là biện pháp tốt
nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của tất cả các cơ quan nhà nước cũng
như các doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.
Nguyên nhân thứ tư: Các đề cương dự án công nghệ thông tin chất
lượng kém nhưng vẫn được triển khai.
Rất ít dự án ứng dụng công nghệ thông tin bắt đầu bằng những đánh giá
chính xác nhu cầu thực tế. Thiếu việc xác định và đánh giá nhu cầu một cách
nghiêm túc sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhu cầu không quan trọng và tốn kém
lại được đáp ứng trước cả những nhu cầu cấp thiết, thậm chí các nhu cầu cấp
thiết này còn bị bỏ qua. Hầu hết các dự án công nghệ thông tin được bắt đầu vì
có ngân sách. Hầu hết các dự án có mục tiêu chung chung, các sản phẩm của dự
án không được mô tả đầy đủ. Mà mục tiêu đầu ta không rõ ràng thì hiệu quả
đầu tư xấu là điều không tránh khỏi.
Đa số các dự án có phạm vi không xác định, rất khó nghiệm thu nên
thường là trễ hạn, do vậy dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Rất ít dự án có hệ
thống chỉ tiêu đánh giá định lượng. Chính vì vậy khi dự án kết thúc không thể
đo được xem dự án thực hiện đến đâu, có hiệu quả không và nếu có thì hiệu quả
là bao nhiêu. Thêm vào đó, phần lớn các dự án đều thiếu sự kiểm soát nghiêm
ngặt theo lộ trình. Nhiều dự án chỉ được kiểm tra lúc hình thành và khi nghiệm
thu tổng thể, nên những sai sót xảy ra trong quá trình thực hiện dự án không
được phát hiện kịp thời. Do sai sót tích tụ qua nhiều giai đoạn nên khi chúng
được phát hiện thì phần nhiều đã "vô phương cứu chữa".
Hầu hết các dự án đánh đồng các nguồn lực kinh phí, tức là thay vì phải
yêu cầu đầy đủ nguồn lực cần thiết để đảm bảo thực hiện thành công dự án, thì
hầu hết các bản đề cương chỉ đưa ra một dự toán kinh phí hết sức
chủ quan và sơ sài. Trong đề cương của một dự án, nội dung "các nguồn
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 80
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
lực đảm bảo cho dự án" phải là một chương riêng nói rõ trách nhiệm của nhà
đầu tư dự án.
Nguyên nhân cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng khiến cho
các dự án kém chất lượng nhưng vẫn được thông qua là do một hội đồng
thẩm tra dự án yếu kém. Nhiều thành viên trong hội đồng là người có chức vụ và
học vị cao nhưng không có thời gian, ngay cả thời gian đi họp, không có tâm
huyết và thậm chí không có kinh nghiệm, không đúng chuyên môn. Sự tham
gia của họ vì thế nhiều khi lại cản trở chứ không phải là thúc đẩy quá trình
thực hiện dự án.
Nguyên nhân thứ năm: Thiếu cán bộ có đủ trình độ.
Để triển khai công nghệ thông tin trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần sự
tích hợp hai mảng: kiến thức công nghệ thông tin và kiến thức chuyên ngành
của lĩnh vực đó. Nhiều dự án ứng dụng công nghệ thông tin không thành công
là do thiếu cán bộ trầm trọng: thiếu cán bộ hiểu biết nghiệp vụ có kiến thức tin
học, thiếu cán bộ có kinh nghiệm triển khai dự án, thiếu cán bộ có kinh
nghiệm quản lý dự án….Ngoài ra trình độ của người sử dụng khai thác các
ứng dụng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của
các dự án ứng dụng công nghệ thông tin. Cộng thêm công tác đào tạo, huấn
luyện và bồi dưỡng việc ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin tiến hành còn
chậm, chưa đồng bộ với việc xây dựng và triển khai các hệ thống công nghệ
thông tin. Vì vậy đã dẫn đến hiện tượng hệ thống thông tin đã được lắp đặt
nhưng chưa được sử dụng ngay gây lãng phí trong việc đầu tư. Thêm vào đó,
có đôi chỗ việc đầu tư các trang thiết bị phần cứng, phần mềm và nối mạng vượt
quá năng lực của người sử dụng.
Ngoài năm nguyên nhân cơ bản trên còn một số nguyên nhân khác, mặc
dù ít quan trọng hơn, nhưng cũng ảnh hưởng ít nhiều tới kết quả của
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 81
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 1996 -
2000. Đó là những nguyên nhân sau:
Nhận thức của các nhà đầu tư còn phiến diện, coi trọng phần cứng, coi
nhẹ phần mềm, chưa chú trọng đúng mức đến việc xây dựng các hệ thống
thông tin thực sự cấp bách cho công tác nghiệp vụ, quản lý và điều hành.
Do đó có tình trạng một số mạng xây dựng xong mà thông tin thiếu rất
nhiều, chẳng khác nào làm đường giao thông xong mà không có xe
chạy.
Đa số chưa coi trọng công tác tổ chức thực hiện.
Chưa gắn kết chặt chẽ giữa công tác cải cách hành chính nhà nước với
công tác tin học hoá. Cải cách hành chính chưa dựa vào tin học hoá, nên
thiếu một động lực mạnh mẽ và công cụ hữu hiệu để cải cách. Mặt
khác, quy trình công tác quản lý, lề lối làm việc vẫn lạc hậu, tư duy
không đổi mới thì tin học cũng không thể áp dụng một cách có hiệu quả
được.
Rất ít lãnh đạo coi trọng việc cấu trúc lại các quy trình cũ để nâng cao
hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin.
Không đánh giá đúng tầm quan trọng trong mối quan hệ tương tác với
người sử dụng. Nhiều thiết kế hình thành mà không có ý kiến đóng góp
của người sử dụng.
Công các tổ chức thầu hiện nay chủ yếu dựa vào giá bỏ thầu. Các tiêu
chí về kỹ thuật, kinh nghiệm triển khai, đội ngũ thực hiện, quy trình thực
hiện ít được chú ý.
Một số các dự án không hiệu quả do không có kinh phí để duy trì hệ
thống sau khi nghiệm thu như cập nhật dữ liệu, khắc phục sự cố…
1.2. Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 82
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Theo nhiều chuyên gia đánh giá, mặc dù có tiến bộ do rút kinh nghiệm
từ dự án tin học hoá giai đoạn 1996 - 2000, đề án tin học hoá quản lý hành chính
nhà nước chưa được chuẩn bị thật sự kỹ càng dẫn tới nhiều thiếu sót.
* Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của hạ tầng thông tin quản lý hành chính
quốc gia. Điều này thể hiện rõ nét ở:
- Trang 6: "do cước phí truyền thông quá cao nên nhiều bộ, ngành, địa
phương phải hạn chế sử dụng mạng…". Để thực thi Chính phủ điện tử thì việc
sử dụng mạng là hết sức thường xuyên và cần thiết, vậy mà nhà nước ta lại
quy định các bộ, ngành và địa phương phải hạn chế sử dụng mạng. Cần nhận
thức rõ việc điều hành của Chính phủ là trên hết và truyền thông phải phục vụ sự
điều hành đó.
- Trang 15: "Mạng tin học diện rộng của Chính phủ gồm: Một trục
truyền thông Bắc - Nam tốc độ 64KB kiểu X25, 35, ISDN…". Lẽ ra phải viết
là "64 Kbps", nghĩa là "64 kilobit một giây". Tuy vậy 64 Kbps chỉ là tốc độ đủ
dùng cho một doanh nghiệp chứ không thể nào đủ cho Chính phủ điều hành cả
nước. Thêm vào đó, X25 là kỹ thuật truyền thông đã rất lạc hậu, không còn
nước nào trên thế giới dùng nữa mà chỉ dùng cáp quang hay vô tuyến điện cho
trường hợp này.
* Sự chậm trễ:
Kế hoạch triển khai cho giai đoạn 2001 - 2005 mà đến nửa cuối năm
2002 mới hoàn thành xong phần soạn thảo đề án. Như vậy thì chỉ còn 4 năm
để thực hiện đề án.
* Thiếu hoàn toàn thiết kế tổng thể:
Đề án còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn rõ ràng, gây khó hiểu cho
người đọc và gây khó khăn cho người thực hiện, ví dụ như:
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 83
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
- Kết cấu thông tin quản lý hành chính từ Chính phủ đến bộ, ngành, địa
phương gồm những nội dung gì, theo tiêu chuẩn gì, có cấu trúc như thế nào?
- Hệ thống phần mềm ứng dụng thống nhất gồm những phần mềm gì,
hoạt động như thế nào?
- Hạ tầng thông tin quản lý nhà nước gồm những gì?
- Các trung tâm tích hợp dữ liệu thực hiện tích hợp thông tin theo các
tiêu chuẩn nào, ai xây dựng, và khi nào cung cấp?
- Lực lượng nào sẽ thực hiện đề án?
Đay là những sai sót không đáng có, do vậy cần phải được sửa chữa kịp
thời để tránh kết cục giống như đề án tin học hoá hành chính nhà nước giai đoạn
1996 - 2000.
2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ
2.1. Mạng Cityweb TP. HCM
Từ tháng 2/2001, UBND TP. HCM ban hành quyết định nội dung
thông tin cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố.
Trang Web này cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ
nhiều đối tượng, trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục
"Tổng quan về thành phố" và mục "Đầu tư", doanh nghiệp có thể nhận được đầy
đủ thông tin về kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án đang kêu gọi đầu
tư, các địa chỉ cần thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt nam và
thành phố để chuẩn bị quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục
đầu tư đã có thêm phần tiếng Anh và đang thực hiện chuyển thể sang tiếng
Trung, tiếng Nhật. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư.
Người dân Việt nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể
truy cập các thông tin về lịch sử thành phồ, về văn hoá, du lịch, về các
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 84
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
hệ thống giáo dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành
phố, về các quyết định của các UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh
tế, về đền bù và giải toả, về quy hoạch đô thị… Bên cạnh trang thông tin tích
hợp trên Internet, thành phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại
trên mạng cục bộ của thành phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng
giữa người dân, doanh nghiệp và các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ
thống đối thoại qua mạng, người dân có thể phản ánh kịp thời các khó khăn
trong cuộc sống. Lãnh đạo các cấp, các ngành có thể trả lời trực tiếp cho người
dân, đồng thời thông qua kênh đối thoại có thể biết được cấp dưới thực hiện sự
chỉ đạo của cấp trên ra sao.
2.2. Hệ thống thông tin tin học hoá tại Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh
Quận 1 đã ứng dụng công nghệ thông tin từ năm 1990. Đến nay, nhìn
chung việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính và quản lý
nhà nước tại Quận 1 đã đạt được nhiều kết quả khả quan; trong đó có một số
chương trình hoạt động tốt, ổn định như chương trình cấp giấy chứng nhận
kinh doanh, cấp phép xây dựng, xử lý vi phạm hành chính, giải quyết đơn khiếu
nại, quản lý dân số và lao động, quản lý cán bộ và đặc biệt là kết nối với mạng
diện rộng của Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND thành phố, giúp tra
cứu một cách thuận tiện các văn bản phục vụ quản lý và điều hành.
Kết quả này có được là do UBND Quận 1 có một hệ thống thông tin đảm
bảo phục vụ tốt mô hình tiếp dân và công tác xử lý hồ sơ liên quan đến công
dân, tổ chức… một cách hiệu quả nhất. Tất cả các văn bản pháp luật của Trung
ương do Văn phòng Chính phủ đưa xuống được đưa vào cơ sở dữ liệu và cài đặt
máy ở các đơn vị trực thuộc. Thông qua mạng nội bộ, các phòng ban và các đơn
vị trực thuộc để có thể tra cứu các thông tin này
khi cần thiết. Các văn bản pháp quy được sắp xếp sẵn theo hệ thống và cho
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 85
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
phép truy cập, tra cứu dễ dàng với kiến thức sơ đẳng về máy tính. Có thể mở
thêm nhiều trạm tra cứu để người dân truy cập vào. Đây là phương tiện thông tin
để người dân thông hiểu pháp luật và các chỉ thị văn bản được công bố.
2.3. Đăng ký kinh doanh qua mạng
Vào năm 1997, Sở KH&ĐT TP. HCM đã tiến hành xây dựng một
mạng thông tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh nghiệp
đã đăng ký, xây dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ
tháng 8/2000, Sở đã khai trương "Trang thông tin doanh nghiệp" bao gồm
thông tin về tất cả doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của
Sở KH&ĐT đã phát huy tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký
kinh doanh phải cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ
chức và thậm chí là cả các cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đã
đáp ứng thông tin kịp thời, tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh
với các ngành chức năng theo từng thời kì hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở KH&ĐT
dễ dàng báo cáo cho lãnh đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp
theo ngành nghề hoạt động trên từng địa bàn, tổng vốn đã đăng ký, số lượng
lao động… hoặc giúp doanh nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang
hoạt động hay giải thể, cung cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký
kết hợp đồng với đối tác.
Sở KH&ĐT TP. HCM cũng đã đưa ra trang Web
www.hcminvest.gov.vn bằng tiếng Anh phục vụ cho người nước ngoài. Phần
nội dung dành cho công chúng trong nước bằng tiếng Việt được đưa lên trang
www.hcmste.gov.vn thuộc Sở Khoa học công nghệ và Môi trường TP. HCM.
Sau khi xây dựng xong quy trình đăng ký kinh doanh khép kín, từ
ngày 1/1/2000, công tác đăng ký kinh doanh của Sở đã được xử lý qua
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 86
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
mạng nội bộ (LAN). Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, phòng
Đăng ký kinh doanh sẽ tiếp nhận xử lý theo quy trình trên mạng nội bộ. Với
hình thức đăng ký này, doanh nghiệp phải đến Sở để nhận mẫu đơn đúng
theo yêu cầu và nộp lại. Trong quá trình xử lý, những người có trách nhiệm sẽ
kiểm tra thông tin trong đơn, bộ phận tiếp nhận sẽ hẹn ngày đến nhận giấy phép.
Đăng ký kinh doanh qua mạng đem lại rất nhiều lợi ích cho cả cơ quan
đăng ký kinh doanh và cả doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh qua mạng giúp
hạn chế những sai sót trong nhập liệu như ngày tháng năm sinh, số chứng minh
thư nhân dân. Các doanh nghiệp, thay vì phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh
để được hướng dẫn đăng ký kinh doanh, có thể ngồi tại văn phòng dể xem
hướng dẫn trực tiếp từ hệ thống. Nếu đăng ký kinh doanh qua mạng, doanh
nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian chờ đợi, giảm được số lần phải đến Sở
(chỉ phải đến một lần).
2.4. Những Website cho nông nghiệp Việt nam
Hiện Bộ NN&PTNT đang rất nỗ lực tận dụng công nghệ Internet vào
mục tiêu thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt nam, thể hiện
rõ ở ba Website sau:
* www.mard.gov.vn:
Bộ NN&PTNT quy định: từ ngày1/7/2001, thủ trưởng các đơn vị trực
thuộc bộ, giám đốc các Sở NN&PTNT, chi cục trưởng chi cục kiểm lâm các
tỉnh… có trách nhiệm kết nối với mạng của Bộ để nhận thông tin phục vụ công
tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức lấy tin, gửi tin, báo cáo qua mạng tin
học của bộ và qua thư điện tử. Hàng ngày lãnh đạo các đơn vị này phải truy
cập thông tin trên mạng ít nhất hai lần vào buổi sáng và buổi chiều để theo dõi
và nắm bắt thời các ý kiến chỉ đạo của Bộ, các văn băn mới của nhà nước.
Qua Website này, những văn băn không cần
phải đóng dấu đỏ sẽ được đưa trực tiếp lên mạng. Các văn bản này bao
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 87
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
gồm các báo cáo thông báo tình hình của bộ, báo cáo của bộ gửi Chính phủ,
các cơ quan của bộ… chiếm 70% tổng số lượng công văn, giấy tờ.
* www.pclb.vnn.vn:
Đây là trang Web hỗ trợ phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai. Từ
Wevsite này, chúng ta có thể kết nối sang Website www.pclb.vnn.vn do Phòng
chống bão lụt miền Trung phụ trách. Tại đây, những thông tin về tình hình
thiên tai trên cả nước được liên tục cập nhật. Ví dụ, tin áp thấp nhiệt đới của
Trung tâm quốc gia dự báo khí tượng thuỷ văn được phát lúc
14 giờ 30 phút thì 25 phút sau bản tin đó cũng xuất hiện trên Internet.
* www.agroviet.gov.vn:
Đây là trang thông tin về nông sản. Nhờ sự cộng tác của Mạng thông tin
thương mại thị trường Việt nam (Vitranet) và Bản tin thị trường (Bộ Thương
Mại), Website www.agroviet.gov.vn cung cấp thông tin thị trường, thiết lập cầu
nối giữa người sản xuất, người kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách với
các nhà đầu tư và nhà tài trợ trong và ngoài nước. Thông qua Website này các
doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh liên
quan đến nông nghiệp.
Nguồn thông tin của Website này thu từ các kênh thông tin trên thế giới
qua ăngten parabol (thông tin về nông phẩm, giá cả các sản phẩm nông nghiệp
trên thế giới…), thông tin trong nước có nguồn từ Ban vật giá Chính phủ, Tổng
cục thống kê, Tổng cục hải quan, Thông tấn xã Việt nam… Đối tượng hưởng
lợi trực tiếp từ trang thông tin này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên
các trang chuyên đề về nông sản Việt nam, về lúa gạo, mía đường, cà phê, cao
su đều có các thông tin về giá cả của các loại nông sản này như giá đóng cửa,
giá mở cửa của các thị trường nông sản thế giới, giá cả trong nước, những
chính sách mới về nông sản
trong nước, trên thế giới, các dự báo về thị trường nông sản… Những
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 88
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
thông tin này rất hữu ích cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại,
đồng thời giúp họ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc.
2.5. Khai báo hải quan điện tử
Khai báo hải quan điện tử ở Việt nam hiện nay mới chỉ ở mức độ thấp
nhất. Tại các nước phát triển trên thế giới đang tồn tại ba mức độ của hình thức
khai báo hải quan điện tử. Cao nhất là khai báo hải quan tức thì qua hệ thống
mạng Chính phủ điện tử. Mức trung bình là khai báo điện tử trước, sau đó 3-4
ngày sẽ nộp hồ sơ. Mức độ thấp nhất là vừa khai báo điện tử vừa nộp hồ sơ. Các
mức độ của hình thức khai báo hải quan điện tử bị chi phối bởi ba yếu tố: cơ
sở pháp lý, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các ngành, đơn vị liên quan
và hạ tầng riêng của ngành Hải quan. Nhưng hiện khai báo hải quan điện tử
vẫn còn thiếu một hạ tầng cơ sở pháp lý cần thiết và các hạ tầng cơ sở khác
đảm bảo cho việc thực hiện khai báo hải quan điện tử.
Hải quan đang có một Website hết sức nghèo nàn và đơn điệu với chức
năng tuyên truyền cho ngành, nhưng lại không được thường xuyên cập nhật.
Cứ với tình trạng này, Website này sẽ không thể trở thành cổng hành chính
phục vụ chương trình khai báo hải quan điện tử và các dịch vụ công khác của
ngành hải quan. Chính vì vậy, mặc dù khai báo hải quan điện tử thực sự
được đưa vào áp dụng vào tháng 6/2002, song đến tháng
8/2002, tiến trình khai báo hải quan điện tử chỉ được thực hiện với tốc độ rất
chậm. Tại TP. HCM, sau hai tháng triển khai cũng chỉ có 6 doanh nghiệp làm
hàng gia công tham gia chương trình khai báo hải quan điện tử. Trong khi đó, với
việc trang bị hệ thống máy tính và năm đường điện thoại kết nối vào năm
modem khi bắt đầu thực hiện chương trình, Cục hải quan thành phố đã mong
đợi sẽ có hơn 200 doanh nghiệp tham gia.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Mặc dù nói là khai báo
hải quan điện tử nhưng so với cách làm cũ, mọi công đoạn vẫn giữ
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 89
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
nguyên, các doanh nghiệp còn phải mất thêm thời gian và kinh phí trang bị máy
tính, phần mềm để lên mạng. Thực tế chứng minh khai báo hải quan điện tử
chậm hơn khai báo thủ công, do doanh nghiệp vừa khai báo điện tử vừa phải
mang hồ sơ lên Cục hải quan nộp như bình thường. Thêm vào đó, nhiều doanh
nghiệp còn chưa vào cuộc do ngại đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin. Một lý do
khác là Hải quan chưa bao giờ công bố công khai chi tiết các chuẩn của mình về
tờ khai điện tử cũng như bộ hồ sơ điện tử, khiến cho các công ty phần mềm
vẫn thờ ơ với chương trình khai báo hải quan điện tử của ngành Hải quan.
Những lý do trên đây dẫn đến tình trạng khai báo hải quan điện tử, dù đã triển
khai thực hiện gần một năm nhưng vẫn không đạt được nhiều kết quả.
2.6. Báo điện tử
Hiện Việt Nam có 21 tờ báo, tạp chí điện tử, điển hình là các tờ Nhân
Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Lao Động, Người Lao Động, Quốc Tế, Quê Hương,
Đầu Tư, Thời Báo Kinh Tế, Sài Gòn Tiếp Thị …. Con số 21 trên 500 tờ báo và
tạp chí in vẫn còn khiêm tốn. Xong để tìm được hết tất cả các báo, tạp chí điện
tử này lại không đơn giản chút nào, kể cả đối với những người làm việc thường
xuyên trên mạng. Khó khăn lắm mới tìm được một nửa số báo, tạp chí điện tử
đó.
Các tờ báo dễ tìm thấy trên mạng có nội dung và hình thức khá tốt. Các
trang chủ tổ chức có trật tự, màu sắc bắt mắt, chứng tỏ chúng được xây dựng
và duy trì ở mức chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, đa số các bài được đưa lên
mạng chỉ dừng ở mức lặp lại trang tin trên các tờ báo in của chính nó. Lợi thế
của báo điện tử là đưa tin nhanh, dung lượng tin lớn, đa dạng gần như bị tuột
khỏi tay các tổng biên tập. Phần lớn những người làm báo điện tử chỉ đơn thuần
là biên tập viên chứ chưa có các phóng viên thực
thụ và chuyên nghiệp theo nghĩa “điện tử”. Đó là nguyên nhân chính làm
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 90
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
thu hẹp thị trường độc giả và do đó các báo điện tử ở nước ta vẫn sống nhờ
vào báo in, nguồn thu từ quảng cáo trực tuyến cũng rất khiêm tốn.
Hiện báo điện tử đang gặp phải một số khó khăn. Đầu tiên là về vấn đề
thiếu ngân sách. Một vấn đề khác nữa là hành lang pháp lý cho báo điện tử. Bên
cạnh đó, các tờ báo điện tử đang vấp phải đối thủ cạnh tranh là các trang tin
điện tử như VASC-Orienrtz (www.vnn.vn), VN-Express
(Vnexpress.net)... Hàng ngày có khoảng 6 triệu lượt người truy cập trang
www.vnn.vn. Dung lượng tin tức của họ vượt trội, khoảng 140 tin mỗi ngày.
Thực chất, lượng tin ấy có đến 60% chép lại từ các tờ báo in và 25% dịch từ
nguồn tin nước ngoài. (Nguồn: PCWorld B Việt nam số 11/2002)
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Đề xuất một số phương hướng nhằm phát triển công nghệ thông tin và
ứng dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ
Xuất phát từ thực tiễn thực hiện các đề án tin học hoá quản lý hành
chính nhà nước, tôi xin được nêu ý kiến của mình nhằm định hướng Chính phủ
trong việc phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin
vào các dịch vụ của Chính phủ như sau:
- Phải gắn tin học hoá quản lý hành chính nhà nước với vấn đề cải cách
hành chính. Cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin là hai vấn đề
có mối liên hệ chặt chẽ. Công nghệ thông tin là một yếu tố hết sức quan trọng
và cần thiết, có tác động tích cực thúc đẩy quá trình cải cách hành chính.
- Các nhà quản lý phải giữ vai trò chủ đạo, phải có sự lãnh đạo thống nhất
từ cấp cao nhất của Chính phủ. Nếu người lãnh đạo không nhận thức được đầy
đủ vai trò và ý nghĩa của ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà
nước thì việc ứng dụng công nghệ thông tin khó có thể thành công. Như vậy,
người lãnh đạo phải hiểu trước, hiểu sâu hơn về công nghệ
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 91
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
thông tin thì mới có thể đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng một cách hiệu
quả.
- Hiệu quả phải đo được, tức là phải lượng hoá được những gì mà công
nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng quản lý.
- Hiệu quả đầu tư cần được đặt lên hàng đầu. Các dự án công nghệ
thông tin phải có mục tiêu rõ ràng cụ thể, phải tính toán kỹ, đảm bảo sự đồng
bộ giữa phần cứng, phần mềm, đào tạo huấn luyên chuyên viên kỹ thuật và
những người sử dụng, người quản lý sao cho khi hệ thống được thiết lập xong
là vận hành ngay được, thực hiện được mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả.
Tránh vội vàng, rập khuôn, làm ào ạt theo phong trào mà không chuẩn bị kỹ
càng các điều kiện thực hiện.
- Tạo hành lang pháp lý cho tin học hoá, cho ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin.
- Tin học hoá không chỉ hướng vào bên trong mà phải hướng ra bên
ngoài, hướng vào các dịch vụ công. Tin học hoá ngoài việc trợ giúp các quy
trình hoạt động trong các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu suất công việc
còn phải hướng tới việc tổ chức lại để tạo ra các dịch vụ nhằm phục vụ tốt hơn
cho nhân dân.
- 24 bước cần thiết của một dự án ứng dụng công nghệ thông tin:
Xuất phát từ kinh nghiệm thực hiện dự án ứng dụng công nghệ thông
tin của công ty FPT trong nhiều năm qua, các cơ quan nhà nước có thể áp dụng
quy trình thực hiện dự án gồm 24 bước sau để có thể khắc phục được những
hạn chế và loại bỏ được những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tính kém hiệu
quả của các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà
nước.
8 bước hình thành công việc:
1. Khảo sát hiện trạng.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 92
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
2. Tham khảo mô hình tương tự (trong và ngoài nước).
3. Xác định nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin.
4. Xây dựng các mục tiêu, xác định phạm vi của dự án.
5. Xác định các nguồn lực cần thiết cho dự án.
6. Hình thành các bài toán với các mức độ ưu tiên.
7. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng.
8. Xây dựng lộ trình chung cho dự án.
8 bước xây dựng giải pháp cho công việc:
9. Lựa chọn nhân sự phù hợp cho dự án, đặc biệt là nhân sự then chốt.
10. Lựa chọn giải pháp và các công nghệ liên quan.
11. Lựa chọn đối tác tin cậy.
12. Phân tích thiết kế hệ thống.
13. Tái cấu trúc các quy trình không hợp lý.
14. Xây dựng các ứng dụng mẫu.
15. Tiếp tục đổi mới quy trình nghiệp vụ.
16. Xác định mô hình ứng dụng và giải pháp.
8 bước triển khai:
17. Xây dựng các ứng dụng diện rộng.
18. Từng bước mở rộng diện khai thác thử nghiệm.
19. Đánh giá sơ bộ hiệu quả sử dụng.
20. Đào tạo tiếp nhận và khai thác hệ thống.
21. Đo mức độ đáp ứng hệ thống chỉ tiêu dịnh lượng.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 93
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
22. Nghiệm thu, bàn giao hệ thống
23. Duy trì hệ thống.
24. Đánh giá hiệu quả ứng dụng, đưa ra hướng cải tiến.
2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam
Dựa trên kinh nghiệm phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước đã
nghiên cứu trong chương II và dựa vào điều kiện cơ sở vật chất của đất nước
ta, khoá luận sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở
Việt nam.
* Trước hết, để xây dựng Chính phủ điện tử, nước ta cần xây dựng cơ sở hạ
tầng, trong đó phải xây dựng những cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên. Có
thể xếp hạng ưu tiên các cơ sở hạ tầng như sau:
- Hạ tầng viễn thông: các thiết bị viễn thông và máy tính phải được đề
cập tới trong bất kỳ kế hoạch nào về Chính phủ điện tử. Mức độ phát triển hạ
tầng viễn thông phụ thuộc vào đề án Chính phủ điện tử.
- Kết nối sử dụng công nghệ thông tin viễn thông của Chính phủ: Tình
hình sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông của Chính phủ cho thấy mức
độ sẵn sàng quản lý thông tin và thực hiện đề án Chính phủ điện tử. Do vậy cần
phải xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế.
- Đội ngũ cán bộ trong Chính phủ. Đây là nhân tố quan trọng nhất trong
chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ở bất cứ quốc gia nào. Đội ngũ cán bộ
nhà nước phải hiểu rõ về tầm quan trọng của Chính phủ điện tử, và phải được
trang bị những kiến thức cần thiết nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử.
- Khả năng tài chính đang và sẽ có. Chính phủ nên dành riêng một phần
ngân sách để đảm bảo khả năng tài chính phục vụ cho quá trình xây
dựng và phát triển Chính phủ điện tử.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 94
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
- Môi trường kinh doanh điện tử như khung pháp lý, an toàn thông
tin…Ngoài những hỗ trợ về tài chính, nhà nước cần xây dựng một khung pháp
lý chính thức và hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Chính phủ
điện tử.
* Tiếp đến là xây dựng và quản lý đề án Chính phủ điện tử, bao gồm:
- Thiết lập cơ quan chuyên trách về Chính phủ điện tử trong Chính phủ.
Thực tế cho thấy rằng khó có thể thực thi được đề án Chính phủ điện tử mà
không có một đội ngũ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Những cơ
quan như vậy cần được hỗ trợ về tài chính, nhân lực và quản lý để thực hiện
nhiệm vụ được giao.
- Đảm bảo trao đủ quyền lực cho cơ quan quản lý đề án: Sẽ rất khó khăn
cho cơ quan quản lý đề án nếu bất cứ quyết định nào cũng phải chờ cơ quan
cấp trên thông qua rồi mới được thực hiện. Điều này sẽ làm chậm tiến độ thực
hiện đề án. Do vậy, cơ quan quản lý đề án cần được trao đủ quyền lực để có
thể tự quyết định những vấn đề nằm trong phạm vi nhiệm vụ để rút ngắn thời
gian và chi phí không cần thiết.
- Xây dựng một kế hoạch làm việc để thực hiện đề án Chính phủ điện tử.
Kế hoạch làm việc nên tập trung vào 6 thành phần chính sau:
Phát triển nội dung: bao gồm phát triển ứng dụng, mở rộng tiêu
chuẩn, xây dựng các giao diện ngôn ngữ địa phương, hướng dẫn sử
dụng và đào tạo điện tử.
Nguồn nhân lực và các chương trình đào tạo ở tất cả các cấp.
Kết nối mạng nội bộ và mạng Internet.
Khung pháp lý.
Các giao diện tương tác với công dân đảm bảo dễ dàng truy cập và
phù hợp với tất cả các đối tượng.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 95
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Nguồn vốn: Kế hoạch phải xác định được nguồn doanh thu như phí
sử dụng hay ngân sách để có thể đảm bảo cân bằng về tài chính.
* Vượt qua những trở ngại tâm lý trong Chính phủ:
Trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, các quan chức chính phủ
thường cho rằng công nghệ sẽ làm cho họ mất việc làm, mất quyền lực, một
số còn lo sợ sẽ phải làm nhiều việc hơn, vất vả hơn, lo sợ sẽ không thích ứng
được với công nghệ mới...
Những tư tưởng như vậy hạn chế rất nhiều tiến trình thực hiện đề án
Chính phủ điện tử. Do vậy, Chính phủ cần phải giải thích cho họ hiểu mục đích
của đề án, giải toả những lo lắng, đào tạo họ thành những "nhân viên tri thức".
Đây chính là nội dung của quản lý tri thức, một thành phần quan trọng trong bất
cứ đề án Chính phủ điện tử nào. Chính phủ cũng nên đề ra những phần thưởng
để tuyên dương những cán bộ có thành tích trong quá trình thực hiện đề án.
* Xây dựng phương pháp đo hiệu quả hoạt động của Chính phủ dựa trên
những tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn đo sự thích ứng của Chính phủ với Chính phủ điện tử:
1, Khối lượng giao dịch điện tử;
2, Thời gian thực hiện yêu cầu của người sử dụng;
3, Số lượng hoặc phần trăm các dịch vụ điện tử do Chính phủ
cung cấp;
4, Số lượng các dịch vụ điện tử mới;
5, Một dịch vụ điện tử được thực hiện ở bao nhiêu tỉnh, thành
trong cả nước.
- Tiêu chuẩn đo những ảnh hưởng của Chính phủ điện tử:
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 96
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
1, Số lượng người truy cập thông tin và dịch vụ điện tử của
Chính phủ;
2, Hiệu quả trong việc cung cấp thông tin và dịch vụ điện tử
24/24 giờ, 7/7 ngày như thế nào;
3, Thời gian người sử dụng có được hàng hoá, dịch vụ, thông tin là
bao nhiêu;
4, Giảm bao nhiêu chi phí mà người sử dụng và Chính phủ phải chịu.
* Tuyên truyền công cộng đối với công dân và doanh nghiệp, tuyên truyền
trong Chính phủ để nâng cao nhận thức về Chính phủ điện tử.
Trên thực tế, việc xây dựng Chính phủ điện tử rất tốn kém, thời gian đem
lại lợi ích cho công chúng không phải là ngắn, vì vậy có thể áp dụng phương
pháp triển khai nhanh. Việc này nhanh chóng tạo nên môi trường linh động và
cạnh tranh hơn trên thị trường. Đồng thời có thể tiến hành xây dựng các cổng
thông tin kinh tế trên cơ sở thông tin của Bộ Thương mại để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp.
KẾT LUẬN
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 97
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Hiểu đúng nghĩa thì Chính phủ điện tử là ước mơ và có lẽ là ước mơ kỳ
diệu nhất của nền dân chủ, của một nhà nước của dân, do dân và vì dân trong
thời đại thông tin. Vì vậy bất cứ nước nào, dù là nước xã hội chủ nghĩa hay
nước tư bản chủ nghĩa đều cần phải xây dựng Chính phủ điện tử, bởi Chính phủ
điện tử không những không làm biến đổi bản chất chế độ mà nước đó đang
đeo đuổi, mà nó còn giúp cho nước đó nâng cao vị thế của mình.
Có nhiều cách để xây dựng Chính phủ điện tử. Mỗi nước có một
chiến lược phát triển Chính phủ điện tử khác nhau, phù hợp với điều kiện cơ sở
vật chất của nước đó. Một nước nghèo như nước ta không thể áp dụng chiến
lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ, Australia hay của Singapore. Nếu
áp dụng rập khuôn sẽ rất dễ dẫn đến thất bại vì nó không phù hợp với hoàn
cảnh kinh tế - xã hội nước ta. Vì vậy, có xây dựng Chính phủ điện tử thành công
hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc đề ra một chiến lược hợp lý và phải có
sự chuẩn bị kỹ càng.
Tuy nói là chúng ta không thể áp dụng chiến lược phát triển Chính phủ
điện tử của các nước đi trước, nhưng chúng ta vẫn có thể nghiên cứu chiến
lược phát triển Chính phủ điện tử của các nước này, từ đó rút ra những bài học
thành công và không thành công của họ để rút kinh nghiệm. Con đường mà các
nước đã đi qua trong lộ trình triển khai Chính phủ điện tử mất một khoảng thời
gian khá dài, hi vọng một nước đi sau như Việt nam sẽ không phải mất nhiều
thời gian như vậy. Muốn vậy, Việt nam phải tự tìm ra những hướng đi thích hợp
trong ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả
và hiệu lực của chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ
công cho người dân qua Internet nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian và sức
lực của người
dân trong quan hệ với Chính phủ.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 98
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với
Việt
nam
Chính phủ điện tử ở Việt nam mới chỉ đang trong giai đoạn đầu, tức là
giai đoạn ứng dụng công nghệ thông tin sao cho bộ máy Chính phủ điều hành
hiệu quả hơn, cung cấp các thông tin Chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin
học hoá quản lý hành chính nhà nước… Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của
Việt nam là phải thực hiện những bước đi hợp lý, thực hiện những biện pháp
cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo của Chính
phủ điện tử. Để thực hiện được điều này, Việt Nam cần phải xây dựng cơ sở
hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông, xây dựng và có
kế hoạch quản lý chặt chẽ đề án Chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâm
lý trong Chính phủ và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi
tầng lớp dân chúng về Chính phủ điện tử. Những giải pháp trên được khoá luận
rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước đi trước và tình hình thực tế của Việt
Nam, hi vọng sẽ nhanh chóng được áp dụng nhằm giúp nước ta tiến nhanh
trên con đường phát
triển Chính phủ điện tử.
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 99
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng1, 2, 4/2002
2. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Số 3(33) tháng
6/2001
3. Thông tin Kinh tế - Xã hội, số tháng 10 và 12/2002
4. PCWorld B Việt nam, các số năm 2000, 2001, 2002
5. Tạp chí BCVT kỳ II - Internet tháng 8/2003
6. Public Agenda for a Digital World - Leslie David Simon
7. E-Commerce and Development Report 2001
8. Electronic Governance & Electronic Democracy: Living & working in
the Wired World - Professor Thomas Briley, 2000
9. Administrative Corruption: How Does E-Government Help? -
Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management,
Ahmedabad, India.
10. A Framework for Pricing Government E-Services - Dr. Craig L.
Johnson, Indiana University, 2003
11. Investment, Access, and Security: A Policy Environment For E-
Government - US Internet Industry Association -
http://www.usiia.org
12. E-government Best Practices an Implementation manual - Robert H.
Smith, School of Business University of Maryland, College Park, May
2001
13. Prototyping e-Government Applications - Richard Heeks, IDPM,
University of Manchester, UK, 2001
14. What citizens want from E-Government - Meghan E-Cook, Center for
Technology in Government, University at Albany, SUNY,
10/2000
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
15. E-government - E-citizen - Birgit Wilder, Chief Information Office
Austria
16. Joint IEG Statement- Suffolk Accessible Government Partnership,
2001, 2002 - http://www.suffolkcc.gov.uk/central/e-government/ieg-
index1.html
17. Benchmarking the E-Government Revolution: Year 2000 Report on
Citizen and Business demand - http://www.nicusa.com/NIC-
flash/index-flash2.htm
18. E-Government: The Next American Revolution - Hart - Teeter,
Council for Excellence in Government the E-Government,
http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm
19. http://noie.gov.au
20. http://www.infosoc.fi/PublicServices.pdf
21. Global E-government full report, sept, 2003 -
http://www.insidepolitics.org/
22. E-government: The Singapore - http://www.infitt.org/
23. Roadmap for e-government in the developing world -
http://www.pacificcouncil.org/
24. Applying the e-government framework to transitional countries -
Theodore Tsekos - http://www.untcentre.org/
25. E-government handbook for Developing nations -
http://www.cdt.org/
26. E-government Project - The kingdom of Thailand -
http://unpan1.un.org/
27. What citizens want from E-govenrnment, Macghan E-Cook, Center for
Technology in Government, University at Albany, SUNY
28. E-Government Strategy - http://www.whitehouse.gov/
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B
Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
nam
29. E-government case studies: P.S.Portals - http://unpan1.un.org/
30. E-government Bulletin - http://www.headstar.com/
- workflow software solution
http://www.handysoft.com
E-government Strategy 2003 - http://www.whitehouse.gov/ 31. E-government
32.
33. Office of E-government, Western Australia -
http://egov.dpc.wa.gov.au/
34. E-government in Europe - http://www.unpan.org/
35. What is e-government? - http://www.webfaqt.com/
36. Japanese E-Government Timetable - http://www.manaboo.com/
37. Kinh tế học Internet: Từ Thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử -
Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001
38. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003)
39. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động
2003
Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B