TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG **********************

Đề tài:

PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn : Thầy Nguyễn Quang Hiệp

Sinh viên thực hiện Lớp : Trần Thị Liên : Anh 5 K38B

HÀ NỘI - 2003

MỤC LỤC

Tra Nội dung

ng

Lời nói đầu 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN

TỬ …………… 4

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ..........… 4

1. Sự ra đời Chính phủ điện

tử……………………………………….. .…………… 4

2. Khái niệm về Chính điện phủ

tử………………………………………………… 11

3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền

thống ………… 16

II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG CHÍNH PHỦ

ĐIỆN TỬ……………………………………………... 17

1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ -

G2G (Government to

Government)……………………………………………………… 17

2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B

(Government to

Business)………………………………………………………….. 17

3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C

(Government to

Citizen)……………………………………………..............................

................. 18

III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ………………………… 18

1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ

………………………………………………. 18

2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước 19

3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ

với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân

……………………………………. 21

CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở

MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

VỚI VIỆT NAM………….. 22

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI………………… 22

1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế

giới…………………………… 22

2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai………………

27

II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ………………….. 28

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ

……………………………………………… 28

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ

…………………………….. 29

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ

…………………………………………… 32

III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA …….. 38

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở 38

Australia…………………………………………

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của

Australia………………….. 39

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở

45

Australia………………………………… IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE…… 47

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore

………………………………… 47

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore

………………………. 48

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore

……………………………………. 55

V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ

ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC…… ……………………………………… 57

1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử

…………………. 57

2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ

điện tử…… 58

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH

PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT

NAM………………………………… 61

I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH

PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM………………………………………... 61

1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông

……………………………. 61

2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử

………………………. 66

3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của

Chính

phủ………………………………………………………………………

……... 67

4. Cơ sở pháp lý

……………………………………………………………………. 67

5. Vấn đề bảo mật thông tin

……………………………………………………….. 69

6. Hệ thống thanh toán điện

tử……………………………………………………… 69

II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN

TỬ Ở VIỆT NAM…………………………………………………….. 71

1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước

…………………………. 71

2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ

……………… 80

III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CHÍNH

PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM…………………….. 86

1. Định hướng Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông

tin và ứng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ

………………………….. 86

2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt

nam …………… 89

Kết luận……………………………………………………………... 93

Tài liệu tham khảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

AGLS: Government Locator Service Standard

ATO: Australian Taxation Office

CIO: Chief Information Officer

G2B: Government to Business

G2C: Government to Citizen G2E:

Government to Employee

G2G: Government to Government

ICT: Information and Communication Technology

IEE: Internal Effectiveness and Efficiency

IMSC: Information Management Strategy Committee

IPT: Integrated Project Team

NOIE: National Office for the Information economy

OMB: Office of Management and Budget

RCB: Registry of Companies and Businesses

RCSA: Recruitment and Consulting Service Association

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng

trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định

các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội

công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường

quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó

đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính.

Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát

triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ

điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có

một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước

khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển

Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế

giới.

Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi

người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai

biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ

mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có

tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát triển

trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều năm

trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý nhà

nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các nước

khác.

Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với

nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em mạnh dạn

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 1

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

lựa chọn đề tài: "PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ

NƯỚC - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM" với hy vọng

phần nào đó nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này cũng như đề xuất một

số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Khoá luận bắt đầu bằng việc nghiên cứu những nội dung cơ bản về

Chính phủ điện tử với mục đích đem lại cái nhìn tổng quát, khách quan nhất

về Chính phủ điện tử. Từ đó, khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu về chiến lược và

tổng hợp một số dữ liệu về thực trạng phát triển Chính phủ điện tử ở một số

nước tiêu biểu, cụ thể là ba nước Mỹ, Australia và Singapore, qua đó rút ra một

số bài học kinh nghiệm về phát triển Chính phủ điện tử. Phần cuối cùng của bài

khoá luận sẽ dành để tìm hiểu và đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng

Chính phủ điện tử ở Việt nam, từ đó đề ra định hướng và một số kiến nghị

nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp

nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu; Phương pháp suy luận logic,

phương pháp so sánh.

4. Kết quả nghiên cứu

Qua nghiên cứu về chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ba nước Mỹ,

Singapore và Australia, khoá luận đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm

cho các nước đi sau. Khoá luận cũng đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chuẩn

bị cho phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.Từ đó, khoá luận đã mạnh

dạn đề xuất các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với khả năng

của nước ta.

5. Nội dung nghiên cứu

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 2

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Khoá luận gồm ba chương:

Chương I: Tổng quan về chính phủ điện tử

Chương II: Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh

nghiệm với Việt nam

Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển Chính phủ điện tử ở

Việt nam

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy Nguyễn Quang Hiệp,

người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng

xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ em trong việc thu

thập tài liệu để hoàn thành khoá luận này.

Do trình độ còn hạn chế và thời gian cũng có hạn, khoá luận này chắc

chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp

ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn.

Hà nội, ngày 20/11/2003

Sinh viên

Trần Thị Liên

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 3

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử

Ngày nay người ta nói nhiều về Chính phủ điện tử (e-government). Một

khi mà Internet và thương mại điện tử ra đời, thì sự ra đời Chính phủ điện tử là

điều tất yếu. Trước kia, hầu hết chính phủ các nước phải giải quyết các vấn đề

kinh tế xã hội theo cách cũ, tức là hoàn toàn không có sự tham gia của công

nghệ thông tin và viễn thông. Như đã thấy ở hầu hết các nước, cơ cấu bộ máy

nhà nước bao gồm các Bộ như bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ

Thương mại, Bộ Khoa học và công nghệ… Trung bình mỗi chính phủ có

khoảng 50 tới 70 bộ hay cơ quan khác nhau ở trung ương. Mỗi bộ như vậy đều

có các cơ quan chức năng riêng. Việc phát hiện một cơ quan làm không đúng

chức năng, nhiệm vụ của mình có thể là khó khăn. Tệ hơn, ngay cả các vấn đề

đơn giản như cấp giấy phép kinh doanh cho một doanh nghiệp, bán một căn nhà

hoặc đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh thì một số lớn các cơ quan khác nhau

đòi hỏi một số biểu mẫu khác nhau. Điều này là quá thừa và không cần thiết.

Hơn nữa, thủ tục giải quyết vấn đề về quản lý thường quá rườm rà, gây khó

khăn cho người dân khi có nhu cầu.

Ví dụ như phố Phoenix tỉnh thành Arizon thuộc bang SW Tây Nam nước

Mỹ, dân chúng thường xuyên phải chen lấn nối đuôi nhau để đăng ký lại xe hơi

và xe tải đã gây ồn ào và làm bẩn cả một khu vực trước trụ sở thành phố. Tình

trạng này đã xảy ra không riêng gì ở Mỹ mà ở hầu hết các

nước trên thế giới. Dân chúng quan hệ với các cơ quan, ban ngành của

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 4

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

chính phủ từ trung ương đến địa phương đều nằm trong tình trạng ảm đạm và

hao phí thời gian nên họ cũng muốn tránh né càng nhiều càng hay.

Một trong các lý do cơ bản làm cho khu vực công kém hiệu quả, quan

liêu là những việc xảy ra ở trên. Hệ thống tổ chức hàng dọc hay ngang của

các cơ quan có quá nhiều ban ngành tạo ra sự phức tạp cho cán bộ nhân viên

trong lúc thừa hành nhiệm vụ. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ các

nước trên thế giới đã tìm ra giải pháp áp dụng Internet và các thành tựu khác

của khoa học công nghệ để cải thiện hoạt động của bộ máy nhà nước.

Khả năng áp dụng Internet để cung cấp thông tin Chính phủ tới mọi

người ở mọi nơi mà không cần bất cứ khâu trung gian nào sẽ ảnh hưởng rất lớn

tới bản thân các quan chức Chính phủ. Các doanh nghiệp nhỏ có thể thu thập

các quy tắc và các văn bản pháp luật dễ dàng hơn mà không cần phải thông

qua luật sư. Ngay cả người dân cũng có thể nộp thuế từ nhà riêng vừa đỡ tốn

thời gian tiền bạc vừa hiệu quả. Mặt khác, việc mọi người có thể chủ động hơn

khi truy cập các thông tin và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ cũng góp phần

hạn chế hiện tượng lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước, bảo vệ

quyền lợi cá nhân cho công dân và đảm bảo an toàn và bảo mật các thông tin

quan trọng của Chính phủ.

Mặc dù vẫn còn sớm để dự đoán những ảnh hưởng của Internet đối với

Chính phủ, nhưng có một điều chắc chắn rằng những ứng dụng của Internet

trong việc đưa thông tin và dịch vụ của Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mọi

lúc tạo ra cơ hội mở rộng, cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin và dịch

vụ của Chính phủ. Lợi ích của việc áp dụng Internet lại càng rõ ràng khi các

Chính phủ trên khắp thế giới đang tự chuyển đổi sang Chính phủ điện tử. Vậy lý

do của tất cả các hành động trên là gì và cơ sở hạ tầng thông tin đóng vai trò gì

trong việc này?

1.1. Lý do ra đời Chính phủ điện tử

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 5

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Có 4 lý do chính khiến Chính phủ các nước chuyển đổi sang Chính phủ

điện tử:

1.1.1. Tiết kiệm chi phí cho cả Chính phủ và dân chúng

Trên thế giới hầu hết các Chính phủ đều nằm trong tình trạng chịu gánh

nặng về chi phí. Mặc dù ở nhiều nước, khoản thu từ thuế tăng lên cùng với

tốc độ tăng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, các khoản chi

tiêu của Chính phủ vẫn tăng lên một cách nhanh chóng, nhất là khi dân số và

các yếu tố khác tăng làm cho các khoản chi dành cho lương hưu và các khoản

trợ cấp thất nghiệp, y tế tăng nhanh mỗi năm. Những khoản chi như vậy làm

cho ngân sách nhà nước ngày càng cạn kiệt, khiến cho Chính phủ phải vắt óc

nghĩ cách giảm chi phí. Chính phủ các nước thấy rằng áp dụng công nghệ

thông tin và viễn thông vào quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ

của Chính phủ vừa giúp giảm chi cho nhà nước vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc

cho các đối tượng sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Rõ ràng là sử dụng dịch vụ

thanh toán bằng điện sẽ nhanh hơn và rẻ hơn rất nhiều so với việc dùng tiền

mặt hay các phương tiện thanh toán truyền thống khác. Chính phủ cũng tiết kiệm

được rất nhiều nếu đăng tải các thông tin mời thầu trên mạng thay vì phải

đăng tải trên báo chí.

Từ năm 1996, thành phố Arizona của Mỹ đi tiên phong trong việc cho

phép dân chúng sử dụng dịch vụ đăng ký lại giấy phép lái xe qua trang Web.

Thay vì phải đứng xếp hàng cả buổi trước sở giao thông để chờ đến lượt mình

thì nay dân chúng có thể lên mạng đăng ký số xe, xin bảng số

24/24 giờ liên tục và 7 ngày một tuần. Nhờ giao dịch qua mạng nên mỗi giao

dịch rút lại trung bình chỉ còn 2 phút và người dân cũng tiết kiệm được chi phí

do không phải đóng lệ phí cho Sở Giao thông như trước đây.

Website này do IBM xây dựng, bảo quản và công ty này được trả 2% trên

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 6

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

trị giá của giao dịch. Tiến trình thực hiện trên mạng chỉ tốn 1,6 USD so với

6,6USD cho mỗi giao dịch tại Sở. Việc này tiết kiệm cho Chính phủ một số

tiền lớn, Sở Giao thông tiết kiệm được 1,7 triệu USD mỗi năm nhờ cung cấp dịch

vụ qua mạng. (Nguồn: Kinh tế học Internet: Từ thương mại điện tử đến Chính

phủ điện tử - Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001)

1.1.2. Áp lực cạnh tranh từ khu vực tư nhân

Ngoài vấn đề chi phí, Chính phủ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày

càng tăng và phức tạp từ khu vực tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường và

môi trường cạnh tranh tự do hiện nay, sản phẩm và dịch vụ khách hàng do

khu vực tư nhân cung cấp ngày càng tăng về cả lượng và chất. Các công ty

đang rất tích cực tìm hiểu thị hiếu và tâm lý khách hàng để tìm cách khác biệt

hoá sản phẩm và dịch vụ của mình so với các công ty khác. Mặc dù việc này

mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội, song nó lại làm nảy sinh

một vấn đề quan trọng, đó là khi các khách hàng được hưởng dịch vụ ngày

càng tốt từ khu vực tư nhân thì họ lại càng mong đợi một dấu hiệu tương tự từ

các dịch vụ của Chính phủ. Trước đây, khi Chính phủ cung cấp thông tin và dịch

vụ phục vụ người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp dịch vụ

đó luôn là vấn đề được xem xét đầu tiên, sau đó mới đến chất lượng dịch vụ.

Nếu cứ trong tình trạng này thì chất lượng dịch vụ do Chính phủ cung cấp

không bao giờ cạnh tranh được với chất lượng dịch vụ của khu vực tư nhân. Vì

vậy, các công dân càng được hưởng dịch vụ tốt bao nhiêu từ khu vực tư nhân

lại càng yêu cầu bấy nhiêu từ các dịch vụ do Chính phủ cung cấp.

1.1.3. Công nghệ thông tin và viễn thông đang cải thiện chất lượng dịch vụ

ở khắp mọi nơi

Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, Chính

phủ cũng nhận thấy áp dụng khoa học công nghệ là một biện pháp

hữu hiệu để cải thiện chất lượng dịch vụ. Nếu một sinh viên đại học có thể

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 7

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

đăng ký lớp cho mình qua mạng từ nhà hay từ ký túc xá thì tại sao Chính phủ

lại không thể cho phép công dân của mình nộp thuế theo cách tương tự như vậy?

Khi công nghệ góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Chính phủ theo hướng

tích cực cả về tính kinh tế lẫn tính kỹ thuật thì Chính phủ không còn sự lựa

chọn nào khác là phải đi theo chiều hướng chung đó. Sử dụng công nghệ hiện

đại, thoạt tiên các viên chức Chính phủ cần phải giải quyết với nhiều loại giao

dịch phong phú hơn với công dân và do đó phải có kiến thức sâu rộng hơn về

công nghệ.

Các tổ chức Chính phủ cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Trước kia, nếu

một công dân muốn xin giấy phép lái xe, đăng ký xe hay muốn nộp thuế, anh

ta sẽ phải đến ba cơ quan nhà nước khác nhau. Chỉ để thực hiện một dịch vụ rất

đơn giản mà phải đi đến rất nhiều nơi và thực hiện nhiều thủ tục rườm rà. Để

giải quyết tình trạng này, Chính phủ cần phải rút gọn lại bộ máy hành chính của

mình. Như vậy thì một công dân thất nghiệp khi muốn hưởng trợ cấp thất nghiệp,

bồi thường hay trợ cấp về y tế có thể ngồi ở nhà và yêu cầu qua điện thoại hay

một máy tính cá nhân thay vì cứ phải đi đến 4, 5 cơ quan khác nhau của Chính

phủ để yêu cầu.

1.1.4. Tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế

Các Chính phủ dân chủ tự do trên thế giới thấy rằng Chính phủ cũng là

một thành viên quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chính

phủ ngày nay nhận thức rõ rằng Chính phủ cần thực hiện thêm chức năng tạo

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số- một động lực

phát triển kinh tế của thế kỷ 21. Vai trò mới này của Chính phủ yêu cầu phải

có nhiều công cụ quản lý hơn ngoài các công cụ truyền thống.

Cơ sở hạ tầng vật chất cũ như hệ thống đường bộ, đường sắt, đường

ống, hệ thống phân phối ga và điện vẫn quan trọng, song chúng cần phải

được bổ sung thêm các cơ sở hạ tầng mới như mạng điện thoại cố định,

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 8

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

điện thoại không dây, vệ tinh, Internet không dây,… Nếu không có cơ sở hạ

tầng viễn thông tiên tiến cũng như hệ thống giáo dục và hệ thống kỹ thuật số

hiện đại cho các dịch vụ của Chính phủ thì nước đó sẽ không có lợi thế cạnh

tranh so với các nước khác.

Trên đây là một số lý do chính khiến cho Chính phủ các nước, nhất là

các nước phát triển, phải nhanh chóng gấp rút tạo tiền đề, cơ sở vật chất kỹ

thuật để chuyển đổi sang Chính phủ điện tử và đặt ra mục tiêu cho chiến lược

Chính phủ điện tử của mình.

Bảng dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về mục tiêu mà Chính phủ

các nước G7 và một số nước khác đặt ra trong chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử.

Tên nước Mục tiêu

Úc Đến năm 2001 tất cả các dịch vụ Chính phủ sẽ được thực hiện

trên mạng.

Canada Đến năm 2004 tất cả các dịch vụ Chính phủ quan trọng sẽ được

cung cấp trực tuyến.

Phần lan Tới năm 2000, đa số các biểu mẫu sẽ được điện hoá.

Pháp Năm 2000, tất cả chính quyền các cấp phải phổ cập truy cập dịch

vụ và thông tin Chính phủ qua mạng.

Đức Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.

Ailen Cung cấp hầu hết các loại dịch vụ Chính phủ qua trên mạng vào

cuối năm 2001.

Ý Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 9

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Nhật bản Tất cả các thủ tục như đăng ký, xin cấp giấy phép và các thủ tục

khác sẽ được cung cấp trên mạng Internet vào năm tài chính

2003.

Singapore Thực hiện các dịch vụ thanh toán điện tử vào năm 2001.

UK 100% dịch vụ công sẽ được thực hiện bằng điện vào năm

2005.

Mỹ Phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng vào

năm 2003.

Nguồn: Central Internet Unit (2000)

1.2. Các nhân tố thúc đẩy sự ra đời Chính phủ điện tử

1.2.1. Toàn cầu hoá

Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay,

các quốc gia trở nên gắn bó với nhau về kinh tế, văn hoá và xã hội. Sự phụ thuộc

lẫn nhau về văn hoá và xã hội giữa các nước khác nhau là cơ sở cho việc hình

thành nền văn hoá toàn cầu. Để tham gia vào sự hình thành nền văn hoá toàn

cầu này cũng như việc được thừa nhận những nét đặc sắc trong văn hoá của

mình, các quốc gia phải tìm cách giúp đỡ các công dân và các tổ chức kinh

doanh của mình cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó việc cung

cấp thông tin cho các công ty trong nước, giúp đỡ các công ty trong nước

cũng như các công ty nước ngoài hoạt động cần phải có sự tham gia của

Chính phủ. Nếu vẫn cứ tồn tại dưới hình thức Chính phủ cũ trước kia, tức là

không có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc cung cấp thông tin và

dịch vụ, thì Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của

mình. Chính phủ điện tử ra đời có thể dễ dàng đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hoá

bằng cách áp dụng công nghệ hiện

đại.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 10

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá, các quốc gia cần trao

đổi thông tin một cách hiệu quả để cùng giải quyết những vấn đề mang tính

toàn cầu như bảo vệ môi trường, chia sẻ các nguồn tài nguyên chiến lược và

những vấn đề khác không thể được giải quyết bởi từng quốc gia riêng lẻ. Chính

phủ điện tử hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu này bởi Chính phủ điện tử

giúp rút ngắn không gian và tiết kiệm thời gian, tạo ra khả năng kiểm soát các

"rủi ro toàn cầu" một cách hiệu quả.

1.2.2. Thị trường hoá

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các công ty đang

tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử nhằm thu lợi nhuận tối đa.

Thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông, các công ty có thể

giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ từ đó thu hút được nhiều

khách hàng hơn. Như vậy nếu Chính phủ điện tử được nhìn nhận như một nhà

cung cấp dịch vụ, mà vẫn sử dụng các phương thức truyền thống thì sẽ gặp phải

sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Chính phủ cần phải áp dụng những

tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tiến chất lượng dịch vụ, xây dựng một cơ sở

hạ tầng quản lý và bảo mật thông tin thì mới có khả năng đáp ứng được yêu

cầu của công dân và doanh nghiệp.

Qua một số phân tích ở trên chúng ta đã hiểu phần nào lý do khiến

Chính phủ điện tử lại là mơ ước chung của Chính phủ các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi Chính phủ điện tử là gì thì mỗi nước lại có một

khái niệm khác nhau. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về

Chính phủ điện tử.

2. Khái niệm về Chính phủ điện tử

2.1. Khái niệm

Với một thuật ngữ mới như Chính phủ điện tử thì khó có thể đưa ra một

khái niệm đúng đắn, rõ ràng và thoả mãn tất cả các đối tượng. Thật sai Khoá luận

tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 11

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

lầm khi cho rằng Chính phủ điện tử là mạng máy tính trang bị cho các cơ quan

Chính phủ và việc sử dụng mạng này của các quan chức Chính phủ từ cấp cao

nhất đến các chuyên viên để thực hiện các công việc của mình. Chính phủ điện

tử tuyệt nhiên không phải là điện toán hoá các cơ quan Chính phủ. Điện toán

hoá các cơ quan Chính phủ là việc cần làm trong tiến trình tạo dựng từng bước

Chính phủ điện tử, nhưng đó chỉ là biện pháp chứ không phải là mục tiêu. Thoạt

nhìn, Chính phủ điện tử giống như việc áp dụng các phương pháp kinh doanh

điện tử vào các dịch vụ do Chính phủ cung cấp như thông tin Chính phủ, cấp

giấy phép lái xe… Tuy nhiên nhiều tác giả và nhiều nhà kinh tế học lại đưa ra

các khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử.

Theo Sally Katzen, phó giám đốc điều hành cơ quan quản lý ngân sách

thời tổng thống B.Clinton thì "Chính phủ điện tử là việc mọi công dân và doanh

nghiệp có thể truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ

24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. Chính phủ điện tử chủ yếu dựa vào các cơ quan

Chính phủ sử dụng Internet và các công nghệ tiên tiến khác để nhận và cung

cấp thông tin, dịch vụ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và rẻ hơn."

(Nguồn: http://www.whitehouse.gov/).

Cách hiểu này đã được nêu trong nhiều chiến lược về Chính phủ điện tử

của các quốc gia, có thể coi đây là khái niệm đúng nhất về Chính phủ điện tử.

Dưới thời tổng thống G.Bush hiện nay còn xuất hiện một khái niệm rộng

hơn về Chính phủ điện tử như sau: "Bằng việc cung cấp cho các cá nhân khả

năng tham gia vào bộ máy hành chính liên bang để truy cập thông tin và giao

dịch kinh doanh, Internet hứa hẹn trao bớt quyền lực từ tay các nhà lãnh đạo

trong chính quyền Washington vào tay các công dân

Mỹ. Tổng thống G.Bush tin tưởng rằng việc người dân có thể truy cập

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 12

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

thông tin và dịch vụ Chính phủ dễ dàng hơn chính là bước đầu tiên của

Chính phủ điện tử." (Nguồn: http://www.whitehouse.gov/).

Tổng thống G.Bush tin rằng Chính phủ điện tử sẽ đem lại khả năng tái

thiết bộ máy hành chính quan liêu của liên bang. Đến đây lại có một câu hỏi là

Chính phủ điện tử chỉ tập trung vào việc tiếp nhận, phổ biến thông tin và cung

cấp dịch vụ hay còn bao gồm cả các phương thức điều hành xã hội truyền

thống? Chúng ta thấy rằng hiện nay còn xuất hiện khái niệm "Nền dân chủ điện

tử (e-democracy)". Do vậy, để trả lời được câu hỏi trên nhất thiết phải phân biệt

sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Nền dân chủ điện tử.

Rogers W'O Okot-Uma, tác giả cuốn "E- democracy: Re-inventing Good

Governance" cho rằng "Theo nghĩa rộng, Nền dân chủ điện tử đề cập đến tất

cả các phương tiện thông tin bằng điện tử giữa Chính phủ và công dân. Theo

nghĩa hẹp, Nền dân chủ điện tử bao gồm tất cả phương tiện thông tin

điện tử giữa cử tri và những người đắc cử."

(http://www1.worldbank.org/)

Dân chủ điện tử là việc các cá nhân và các tổ chức có thể tham gia trực

tiếp vào quá trình ra quyết định của Chính phủ thông qua các phương tiện điện

tử như mạng World Wide Web. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù

Chính phủ điện tử và Dân chủ điện tử không loại trừ lẫn nhau, nhưng lại khác

nhau ở chỗ Nền dân chủ điện tử tập trung vào cơ cấu và quá trình thực hiện

các chức năng của Chính phủ, đặc biệt là việc điều hành xã hội. Trong khi đó,

Chính phủ điện tử là Chính phủ tập trung vào việc cung cấp dịch vụ điện tử tới

công chúng. Nói một cách ngắn gọn hơn Chính phủ điện tử đề cập đến việc cung

cấp dịch vụ, còn Nền dân chủ điện tử đề cập đến việc sự tham gia của dân chúng

vào Chính phủ.

2.2. Ba giai đoạn của Chính phủ điện tử

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 13

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ các nước có các chiến lược khác nhau để xây dựng Chính phủ

điện tử. Một số nước lập ra các kế hoạch dài hạn trên mọi lĩnh vực, một số lại

chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực khi bắt đầu dự án xây dựng Chính phủ điện

tử. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang xây dựng thành công Chính phủ điện tử

chọn cách chia dự án phát triển Chính phủ điện tử làm 3 giai đoạn nhỏ. Các giai

đoạn này không phụ thuộc lẫn nhau, tức là không cần phải giai đoạn này hoàn

thành thì giai đoạn kia mới bắt đầu.

2.2.1. Giai đoạn sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để mở rộng truy

cập thông tin của Chính phủ

Chính phủ tạo ra khối lượng lớn thông tin, hầu hết các thông tin này đều

có ích đối với cá nhân và doanh nghiệp. Internet và các công nghệ thông tin

hiện đại khác có thể chuyển các thông tin này nhanh chóng hơn và trực tiếp tới

công dân. Việc thực hiện giai đoạn này rất đa dạng về nội dung, do đó mỗi

nước cần dựa vào khả năng của mình để có cách triển khai phù hợp. Chẳng hạn

đối với các nước đang phát triển, cơ sở tầng phục vụ cho việc phát triển và triển

khai Chính phủ điện tử còn kém so với các nước công nghiệp, nên bắt đầu giai

đoạn này bằng việc phổ biến thông tin Chính phủ trên mạng, tập trung phổ biến

các điều lệ, quy tắc, các văn bản pháp luật… Đối với các quốc gia có nhiều

hiện tượng quan chức Chính phủ làm việc kém hiệu quả và tham nhũng thì

việc tạo cho công dân và doanh nghiệp khả năng truy cập thông tin Chính phủ

mà không cần phải tới các cơ quan hành chính, đứng xếp hàng hàng giờ và thậm

chí đưa hối lộ là một cuộc cách mạng thực sự.

Khi triển khai thực hiện giai đoạn này cần chú ý những điểm sau:

- Bắt đầu bằng việc phổ biến thông tin trực tuyến;

- Truyền đạt thông tin có ích tới công chúng hàng ngày, chú ý tới ngôn

ngữ địa phương;

- Luôn cập nhật thông tin trên trang Web của Chính phủ;

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 14

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

- Tập trung vào những nội dung phục vụ phát triển kinh tế, chống tham

nhũng, thu hút đầu tư nước ngoài…

2.2.2. Giai đoạn tăng cường sự tham gia của người dân vào Chính phủ

Như đã nói ở trên, các trang Web phổ biến thông tin Chính phủ chỉ là

bước đầu của Chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử phải có khả năng lôi kéo, thu

hút dân chúng tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, kết hợp với các nhà

hoạch định chính sách ở mọi cấp của Chính phủ. Củng cố, tăng cường sự tham

gia này sẽ tạo dựng được lòng tin từ phía công chúng vào Chính phủ.

Những điểm cần lưu ý khi xây dựng trang Web tương tác giữa

Chính phủ và dân chúng:

- Phải cho công chúng thấy kết quả của việc họ tham gia vào các hoạt

động của Chính phủ;

- Phân tích, lý giải những vấn đề chính sách phức tạp một cách dễ

hiểu;

- Thuyết phục công chúng tham gia;

- Sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến kiến thức về

Internet.

Khi thực hiện giai đoạn này, các Chính phủ cần chú ý lập ra những diễn

đàn giữa Chính phủ và công dân. Những diễn đàn như vậy sẽ tạo ra những

cuộc thảo luận trực tuyến trong đó mọi người có thể tham gia trao đổi ý kiến

về những vấn đề chính sách của chính phủ.

2.2.3. Giai đoạn cung cấp rộng rãi các dịch vụ của Chính phủ qua mạng

Chính phủ có thể bắt đầu bằng việc cho phép người dân thực hiện giao

dịch qua mạng. Chính phủ chịu áp lực từ phía khu vực tư nhân khi khu vực

này bắt đầu thực hiện giao dịch kinh doanh trên mạng. Thêm vào

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 15

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

đó, khả năng sử dụng giao dịch qua mạng làm giảm chi phí, tăng năng suất cũng

là một nguyên nhân quan trọng khiến Chính phủ phải suy tính. Trước kia, các

dịch vụ của Chính phủ như đăng ký hộ tịch hay ra hạn thẻ căn cước phải mất

một thời gian dài chờ đợi hàng giờ để gặp được các quan chức chính phủ có

trách nhiệm hay thậm chí là phải đút lót. Bằng cách cung cấp dịch vụ trực

tuyến, chỉ cần ngồi ở nhà hay tại nơi làm việc, trạm điện thoại và bật máy vi

tính lên để nối vào mạng của Chính phủ, bạn sẽ nhận được nhiều dịch vụ do

các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp.

Có lẽ động lực lớn nhất trong việc cung cấp các dịch vụ trên mạng là để

rút gọn, tinh giảm bộ máy nhà nước và quá trình thực hiện các thủ tục hành

chính từ đó tiết kiệm tiền bạc và nâng cao hiệu quả trong dài hạn. Thêm vào

đó, bằng cách tự động hoá các thủ tục hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực

thu thuế, Chính phủ hi vọng sẽ hạn chế được hiện tượng tham nhũng, tăng thu

cho ngân sách nhà nước trong khi vẫn duy trì được lòng tin của dân chúng vào

Chính phủ.

Một ví dụ điển hình là hệ thống thu lệ phí xa lộ ở tỉnh Gujarat của Ấn

độ. Đây là tỉnh có hiện tượng đa số tiền lệ phí cầu đường đều chui vào túi của

nhân viên thu phí. Từ khi lập ra hệ thống tính và thu phí tự động, hiện tượng

thất thu phí đã giảm hẳn. Sau một năm áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ,

sự trì trệ và hiện tượng tham nhũng đã giảm đáng kể trong khi doanh thu từ phí

cầu đường tăng 3 lần.

3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống

Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử nhưng

chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung về Chính phủ điện tử như sau:

Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn

thông để tự động hoá và triển khai các thủ tục hành chính.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 16

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ điện tử cho phép các công dân có thể truy cập các thủ tục

hành chính thông qua các phương tiện điện tử như Internet, điện

thoại di động, truyền hình tương tác.

Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7

ngày mỗi tuần và 365 ngày mỗi năm, người dân có thể thụ hưởng các

dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu.

Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm

khác so với Chính phủ truyền thống. Với Chính phủ truyền thống, quá trình

quản lý hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước diễn ra thủ công, tốn

nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Dân chúng không thể liên lạc với Chính

phủ ngoài giờ hành chính, không thể ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ

quan nhà nước. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh doanh, làm

khai sinh cho con mình hay đóng thuế trước bạ

24/24 giờ, 7/7 ngày và ở bất cứ đâu. Chính phủ điện tử có thể khắc phục

được những hạn chế này của Chính phủ truyền thống.

Ngoài ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ

truyền thống là sự khác biệt về tốc độ xử lý giữa các thủ tục hành chính được

tự động hóa so với các thủ tục hành chính được xử lý thủ công. Việc tự động

hoá thủ tục hành chính của Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh

hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất nhiều. Không những thế, thông tin được cung

cấp cho người dân còn đầy đủ, chính xác và dễ dàng hơn, người dân cũng đỡ

mất nhiều chi phí để thu thập các thông tin này.

Nói tóm lại Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện đại hơn nhiều so

với Chính phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan

Chính phủ các cấp sẽ tiến dần từng bước tới và có lẽ không bao giờ có thể nói

rằng Chính phủ điện tử đã được xây dựng xong.

II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 17

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Đối tượng sử dụng dịch vụ Chính phủ bao gồm cơ quan Chính phủ các

cấp, doanh nghiệp, công dân và các nhân viên Chính phủ. Bốn đối tượng chính

trên tương ứng với 4 hình thức cung cấp dịch vụ chính:

1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G

(Government to Government)

Nhiều dịch vụ công dân và các bản báo cáo quan trọng rất cần sự liên

kết giữa chính quyền các cấp. Mục đích của hính thức cung cấp dịch vụ từ

Chính phủ đến Chính phủ (G2G) này là để tạo lập và củng cố mối quan hệ

giữa chính quyền các cấp với nhau. Những mối quan hệ mới này sẽ thúc đẩy sự

liên kết giữa các cơ quan trong nội bộ Chính phủ nhằm mục đích cung cấp các

dịch vụ phục vụ dân chúng ngày càng tốt hơn.

2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B

(Government to Business)

Điều quan trọng cần phải ghi nhớ là G2B là một yếu tố quan trọng góp

phần tăng tính cạnh tranh của thị trường trong nước và tạo mối quan hệ lâu dài,

đôi bên cùng có lợi giữa chính phủ và doanh nghiệp.

Mục đích của hình thức G2B này là nhằm giảm bớt gánh nặng cho các

doanh nghiệp trong việc truy cập thông tin Chính phủ như các quy tắc luật điều

chỉnh việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trang Web

BusinessLaw.gov của Chính phủ Mỹ là một ví dụ điển hình về hình thức cung

cấp dịch vụ từ Chính phủ đến doanh nghiệp. Qua trang Web này các doanh

nghiệp có thể truy cập các thông tin, các nghị định và các văn bản pháp luật

khác. Cũng trên trang Web này các doanh nghiệp có thể sử dụng ngay các dụng

cụ chuyên ngành để tìm hiểu xem các văn bản luật yêu cầu

gì đối với công việc kinh doanh của mình.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 18

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C

(Government to Citizen)

Mục đích của hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ tới Công dân này

là để cung cấp thông tin và dịch vụ trực tuyến tới mọi người dân. Dân chúng có

thể thu thập các thông tin liên quan tới cuộc sống hàng ngày của mình và sử

dụng các dịch vụ của Chính phủ một cách nhanh chóng và tiết kiệm thông qua

việc kết nối vào mạng của Chính phủ. Ở hầu hết các nước, hình thức cung cấp

dịch vụ này của Chính phủ đang trong quá trình triển khai và cũng đã đạt một

số kết quả nhất định.

III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ

Trong kỷ nguyên Chính phủ điện tử, mọi công dân có thể được hưởng

các dịch vụ của Chính phủ mọi lúc, mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục

vụ nhiệt tình hơn. Chính phủ điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh

nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hoàn

thành các yêu cầu của Chính phủ trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ

doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế ngay trên mạng. Chính

phủ điện tử có thể khiến cho các cá nhân truy cập thông tin và dịch vụ liên

quan đến mình qua một cửa duy nhất. Các thông tin được cung cấp của Chính

phủ điện tử luôn đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu của từng cá nhân riêng lẻ.

Nói chung, Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân cũng

như các doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các lợi ích sau:

Cung cấp đầy đủ thông tin cho mọi đối tượng;

Đơn giản hoá các thủ tục hành chính;

Đảm bảo việc xử lý các thủ tục hành chính một các công khai, công

bằng, tin cậy, ổn định và kịp thời;

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 19

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Tiết kiệm thời gian và tiền bạc;

Tăng tính thuận tiện khi sử dụng các dịch vụ của Chính phủ;

2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước

Chính phủ điện tử góp phần làm trong sáng bộ máy nhà nước, hạn chế

và loại trừ hiện tượng tham nhũng. Bảng dưới đây thể hiện các loại thông tin

có thể đạt được tính minh bạch thông qua Chính phủ điện tử, làm

nản lòng các quan chức quan liêu tham nhũng trong Chính phủ.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 20

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Loại thông tin Lợi ích Ví dụ

- Các quy tắc và thủ tục - Tiêu chuẩn hoá các Công khai ngân sách ở

về dịch vụ thủ tục cung cấp dịch Argentina và

vụ Karnataka, Ấn độ - Tên các quan chức

- Hạn chế sự trì hoãn Chính phủ

- Giảm tính chuyên - Thông tin về công dân

quyền của các viên

chức chính phủ.

Kết quả của các quyết Giảm tình trạng tham E-procurement ở

nhũng định của Chính phủ. Chile, Philippines.

Dữ liệu về nhà đất, tiền - Công khai tình trạng ăn Bhoomi, Các báo cáo

thanh toán các khoản hối lộ và tham nhà đất trực tuyến ở

thuế… nhũng Karnataka, Ấn độ

- Trao nhiều quyền lực

hơn cho công dân tham

gia vào các hoạt động

của chính phủ

Các quyết định của Theo dõi các hành Hải quan trực tuyến,

chính phủ như cấp động đút lót, hối lộ, OPEN ở Seoul, Hàn

phép, cấp giấy thông mua chuộc quốc

hành cho hàng hoá…

OPEN: Online Procedures Enhancement for Civil Applications

Nguồn: "Administrative Corruption: How Does E-Government Help?",

Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management,

Ahmedabad, India.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 21

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Ngoài ra, bộ máy nhà nước có thể được tinh giảm nhờ áp dụng công nghệ

thông tin, giúp tiết kiệm ngân sách dành cho chi phí quản lý, tiết kiệm thời gian

và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động của các cơ quan Chính phủ.

3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ

với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân

Tương tự như thương mại điện tử cho phép các nghiệp giao thương với

nhau một cách có hiệu quả hơn (B2B) và tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận

gần hơn với doanh nghiệp (B2C), Chính phủ điện tử cũng hướng tới việc tạo ra

mối quan hệ tương hỗ Chính phủ - công dân (G2C), Chính phủ - doanh nghiệp

(G2B), và quan hệ giữa chính các cơ quan công quyền (G2G) ngày càng thân

thiện hơn, thuận lợi hơn và công khai hơn. Các mối quan hệ này có thể được

duy trì thường xuyên, liên tục nhờ có các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại,

đỡ tốn thời gian.

Trong dài hạn, các dịch vụ điện tử có thể giúp giảm chi phí cung cấp dịch

vụ của Chính phủ. Người dân cũng ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều dịch

vụ điện tử của Chính phủ vì họ không cần phải đến, viết thư hoặc gọi điện

thoại tới một cơ quan Chính phủ để yêu cầu thực hiện một dịch vụ cụ thể. Với

ngày càng nhiều dịch vụ được cung cấp trực tuyến, Chính phủ điện tử sẽ là một

cuộc cách mạng trong mối quan hệ giữa Chính

phủ và công dân.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 22

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

CHƯƠNG II

PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT

TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI

1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới

(Nguồn : Global E-government Full Report, 2003 -

www.insidepolitics.org/egovt03int.html)

Theo báo cáo về tình hình phát triển Chính phủ điện tử điện tử toàn cầu

của Darrell M. West, trường Đại học Brown ở Providence, Rhode Island vào

tháng 9 năm 2003, tình hình phát triển Chính phủ điện tử của các nước trên

thế giới tiến bộ rất nhiều so với các năm trước. Đây là báo cáo được hầu hết

các quốc gia sử dụng trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử. Những dữ

liệu phân tích được lấy từ 2166 trang Web của Chính phủ ở 198 quốc gia khác

nhau cho thấy:

- 16% Website của Chính phủ đã thực hiện cung cấp dịch vụ trên

mạng, tăng 12% so với năm 2002.

- 89% Website cung cấp các ấn phẩm và 73% Website cho phép kết nối

với các cơ sở dữ liệu khác.

- 75% Website của Chính phủ sử dụng tiếng Anh.

- 51% Website đa ngôn ngữ, tức là sử dụng từ hai đến ba ngôn ngữ.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 23

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Các quốc gia trên thế giới có tốc độ phát triển Chính phủ điện tử khác

nhau phụ thuộc vào từng khu vực. Cao nhất vẫn là các nước Bắc Mỹ, sau đó đến

Châu Á, Tây Âu, các quốc gia thuộc Thái Bình Dương, Trung Đông, Đông Âu,

Nga và Trung Á, Nam Mỹ, Trung Mỹ và cuối cùng là Châu Phi.

Bảng: Tỷ lệ các quốc gia thực hiện Chính phủ điện tử giữa các khu vực

trên thế giới (Đơn vị %)

Khu vực 2001 2002 2003

Bắc Mỹ 51.0 60.4 40.2

Tây Âu 34.1 47.6 33.1

Đông Âu -- 43.5 32.0

Châu Á 34.0 48.7 34.3

Trung đông 31.1 43.2 32.1

Nga và Trung Á 30.9 37.2 29.7

Nam Mỹ 30.7 42.0 29.5

Các quốc đảo Thái Bình Dương 30.6 39.5 32.1

Trung Mỹ 27.7 41.4 28.6

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 24

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Châu Phi 23.5 36.8 27.6

Hầu hết các trang Web của Chính phủ được thiết kế để cung cấp đầy đủ

thông tin phục vụ dân chúng như các ấn phẩm và các cơ sở dữ liệu khác. Đa

số các trang Web không cung cấp phim ảnh và ca nhạc. Đây là đặc điểm

chung của các Website của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn có khoảng

8% Website cung cấp các dịch vụ nghe nhạc và xem phim.

Về dịch vụ trên mạng, trong số các trang Web của Chính phủ được

điều tra có 16% Website cung cấp dịch vụ trực tuyến, tăng 12% so với năm

2002. Trong đó, 9% chỉ cung cấp một dịch vụ, 3% cung cấp 2 dịch vụ, 4% cung

cấp từ 3 dịch vụ trở lên, 84% không cung cấp dịch vụ nào. Hầu hết các dịch

vụ được thực hiện trên trang Web của Chính phủ đều là các loại dịch vụ như

gửi kiến nghị, đặt các ấn phẩm, tìm kiếm việc làm, đăng ký giấy thông hành

và gia hạn giấy phép lái xe.

Bắc Mỹ (bao gồm Mỹ, Canada và Mehicô) là khu vực có tỷ lệ dịch vụ

thực hiện trực tuyến lớn nhất, tới 45%, tăng so với 41% năm 2002. Dưới đây

là bảng xếp hạng các khu vực có tỷ lệ các Website của Chính

phủ thực hiện dịch vụ trực tuyến lớn nhất:

Khu vực 2001 2002 2003

Bắc Mỹ 28% 45% 41%

Các quốc đảo Thái Bình Dương 19 14 17

Châu Á 12 26 26

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 25

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Trung Đông 10 24 15

Tây Âu 17 9 10

Đông Âu -- 6 2

Trung Mỹ 4 4 9

Nam Mỹ 3 14 7

Nga và Trung Á 2 1 1

Châu Phi 2 2 5

Một trong những đặc điểm làm chậm tốc độ phát triển của các dịch vụ

trực tuyến là không thể sử dụng được thẻ tín dụng và chữ ký số trong các giao

dịch tài chính. Trong khi đó ở các trang Web tư việc này rất phổ biến. Tuy vậy,

đã có 2% Website của Chính phủ chấp nhận sử dụng thẻ tín dụng và 0,1% cho

phép dùng chữ ký số trong các giao dịch tài chính, ví dụ như trang Web của

Chính phủ Singapore và Đan Mạch.

Về thông tin cá nhân và tính an toàn bảo mật: đây là nỗi băn khoăn lo

lắng của mọi công dân về Chính phủ điện tử. Chỉ khi đảm bảo được an toàn

thông tin cá nhân thì mới có thể trấn an được dân chúng và khuyến khích mọi

người sử dụng nhiều dịch vụ công trên mạng. Tuy vậy, chỉ có một số ít các

trang Web của Chính phủ là chú ý tới điều này. Đa số đều

nằm trong các lĩnh vực mà Chính phủ cho là quan trọng. Chính phủ điện tử

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 26

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

sẽ không được triển khai một cách nhanh chóng trừ phi dân chúng cảm

thấy an toàn khi sử dụng thông tin và dịch vụ trên mạng.

Bảng: Tỷ lệ trang Web có độ an toàn thông tin cá nhân cao ở các

nước

New Nhật Đài Singapore Canada Mỹ Úc Anh Zealand Bản Loan

90% 65% 62% 39% 30% 21% 15% 12%

Các nước được điều tra trong báo cáo này được đánh giá về chỉ số phát

triển Chính phủ điện tử theo thang điểm từ 0 đến 100. Chỉ số này chủ yếu dựa

trên khả năng sẵn có các thông tin, cơ sở dữ liệu và số lượng các dịch vụ trực

tuyến. Sau đây là bảng xếp hạng một số nước về việc phát

triển Chính phủ điện tử :

Singapore 46.3 Mỹ 45.3

Canada 42.4 Úc 41.5

Đài Loan 41.3 Thổ Nhĩ Kỳ 38.3

Anh 37.7 Malaysia 36.7

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 27

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Vatican 36.5 Austria 36.0

Thuỵ Điển 35.9 Trung Quốc 35.9

New Zealand 35.5 Phần Lan 35.5

Philippines 35.5 Đan Mạch 35.5

Hồng Kông 34.5 Đức 34.4

Nhật 34.2 Pháp 33.8

Cộng hoà Séc 33.8 Brunei 32.8

Thái land 32.4 Đông Timo 32.6

Campuchia 31.0 Vietnam 30.5

Myanma 28.0 Indonesia 24.0

Irăc 20.0 Lào 19.0

2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai

Xu hướng phát triển Chính phủ điện tử đang trở thành một tất yếu

khách quan. Có rất nhiều lý do khiến các nước không thể bỏ qua cơ hội phát

triển Chính phủ điện tử. Lý do quan trọng nhất chính là những lợi ích mà Chính

phủ điện tử đem lại. Không thể phủ nhận một điều rằng Chính phủ điện tử đã

góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 28

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

nước vốn cồng kềnh, quan liêu và trì trệ với một khối lượng công việc khổng

lồ. Ứng dụng công nghệ thông tin viễn thông vào hoạt động của Chính phủ là

chìa khoá của mọi thành công mà Chính phủ các nước công nghiệp phát triển

đã đạt được. Đó chính là những bước khởi đầu trong chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử mà hầu hết các nước trên thế giới đang đeo đuổi.

Hiện nay, Singapore, Mỹ, Canada và Australia là 4 nước đứng đầu trên

thế giới về phát triển Chính phủ điện tử. Singapore là nước công nghiệp mới

duy nhất được nằm trong tốp các nước dẫn đầu, còn lại hầu hết là các nước phát

triển. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử ở các nước đang phát triển kém

khả quan hơn nhiều, họ còn một khoảng cách rất xa mới đuổi kịp các nước đi

trước. Tuy nhiên, khi Chính phủ điện tử diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các

nước đang và kém phát triển có thể rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để

rút ngắn thời gian triển khai Chính phủ điện tử. Như vậy, trong năm tới, năm

2004, tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới sẽ có nhiều chuyển

biến tích cực. Các nước đi tiên phong về Chính phủ điện tử đang tiếp tục hoàn

thiện, còn các quốc gia kém phát triển hơn như Thái Lan, Campuchia,Việt

Nam… đang gấp rút chuẩn bị cơ sở vật chất và vạch ra chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử.

II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ

Bộ máy hành chính hiện tại của Mỹ là sản phẩm của các xung đột

chính trị trong suốt hai thập kỷ qua. Cho đến nay hệ thống hành pháp của Liên

bang Mỹ được đánh giá là khá tản mạn. Hệ thống này bao gồm tổng thống, các

trợ lý, Bộ trưởng, 14 bộ và hàng loạt các cơ quan khác với khoảng ba triệu

công chức. Với một bộ máy chính quyền khá cồng kềnh

như vậy thì sự ra đời Chính phủ điện tử thực sự là một cuộc cách mạng.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 29

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Người Mỹ đã sớm biết rằng khi công nghệ, khả năng sáng tạo và lãnh

đạo hợp nhất thì sẽ tạo ra những kết quả mạnh mẽ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Chính

phủ nắm lấy công nghệ thông tin với trí sáng tạo và sự lãnh đạo táo bạo? Điều gì

sẽ xảy ra nếu tất cả người Mỹ đều nhận thức được Chính phủ điện tử là cách để

thay đổi thế giới một cách có ý nghĩa? Và điều gì sẽ xảy ra nếu căn bệnh thâm

niên của Chính phủ là sự mất liên lạc giữa người dân và Chính phủ được nối lại?

Khích lệ bởi những câu hỏi này, hàng trăm nhà lãnh đạo trong các ngành công

nghiệp, Chính phủ, các nhà nghiên cứu và các tổ chức phi lợi nhuận đã bắt

đầu hợp tác làm việc vào tháng

11/1999 để phát triển Chính phủ điện tử. Công việc của họ được phát động,

hướng dẫn và điều phối bởi tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ CEG

(Council for Excellence in Government). Theo dự án này, hai chuyên gia tư vấn

Peter Hart và Robert Teeter thực hiện hai cuộc điều tra vào tháng 8/2000 và

tháng 1/2001.

Cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 1/2001 của P.Hart và R.Teeter cho thấy

trong 3 người Mỹ thì có 1 người nói Chính phủ điện tử nên được tổng thống mới

ưu tiên. Hai phần ba số người được trưng cầu ý kiến ủng hộ công việc của cơ

quan công nghệ Nhà Trắng nhằm đổi mới Chính phủ và cải thiện dịch vụ thông

qua mạng Internet. Hai phần ba cho rằng sự tồn tại mối liên hệ giữa nhà nước

và khu vực tư nhân bao giờ cũng tốt hơn là để hai khu vực này hoạt động độc

lập với nhau. Cũng 2/3 số người được hỏi ủng hộ việc sử dụng quỹ Chính phủ

để giúp các bang hiện đại hoá hệ thống bầu cử, ví dụ như lắp đặt các máy bỏ

phiếu điện tử tương tự như các máy rút tiền tự động đang được sử dụng rộng

rãi ở các ngân hàng. (Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)

Năm 2001, tổng thống Bush đã bắt đầu một vài nỗ lực cải cách Chính

phủ nhằm làm cho Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn và lấy dân làm trọng

tâm. Một trong những nỗ lực này là tạo lập nên một Chính phủ điện tử ở Mỹ.

Vì vậy vào ngày 18/7/2001, giám đốc cơ quan Quản lý và

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 30

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Ngân sách (OMB: Office of Management and Budget), ông Mitchell

E.Daneils đã thành lập nhóm thực hiện Chính phủ điện tử vạch kế hoạch hành

động để thực hiện những bước khởi đầu cho Chính phủ điện tử.

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ

2.1. Mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ

Mỹ

Phát triển Chính phủ điện tử là một thành phần quan trọng trong chương

trình quản lý của tổng thống G.Bush. Bắt đầu vào năm 2001, chương trình

này của Chính phủ Mỹ nhằm mục đích ứng dụng công nghệ thông tin để tiết

kiệm hàng triệu đô la lãng phí trong chi tiêu của Chính phủ, giảm gánh nặng

lên công dân và doanh nghiệp khi phải làm việc với Chính phủ, rút ngắn thời

gian trả lời những câu hỏi của công dân từ hàng tuần xuống còn vài phút. Mục

đích quan trọng của chiến lược này là phải làm sao cho người dân có thể truy

cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ chỉ bằng ba lần nhấn chuột khi sử

dụng Internet.

Sau đây là một số mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử:

n Mục tiêu chung:

Các cơ quan Chính phủ tập trung vào việc hiện đại hoá thông qua

ứng dụng công nghệ thông tin.

Các hệ thống công nghệ thông tin chính phải được công chúng thừa

nhận là an toàn tuyệt đối.

Chính phủ điện tử bước đầu phải đạt được những lợi ích thiết thực như

tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian mà dân chúng phải chờ đợi để có

được sự hồi âm từ phía Chính phủ, giảm gánh nặng cho các doanh

nghiệp, cải thiện dịch vụ Chính phủ…

Đề ra những giải pháp giảm thiểu chi phí đầu tư cho công nghệ

thông tin không cần thiết trong sáu lĩnh vực kinh doanh của Chính

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 31

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

phủ vào năm tài chính 2004 (được nêu trong phần sau của chương này).

o Mục tiêu cụ thể:

G2G (Chính phủ - Chính phủ):

Mục tiêu chủ yếu của loại hình quan hệ này là làm sao cho chính

quyền các cấp làm việc với nhau dễ dàng hơn để phục vụ người dân

ngày càng tốt hơn. Để đạt được điều này phải có biện pháp làm cho

chính quyền các bang và chính quyền địa phương có thể dễ dàng nhận

được thông tin và đáp ứng yêu cầu của nhau. Cải tiến cách truyền thông

tin giữa các cấp chính quyền sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho Chính phủ.

G2B (Chính phủ - Doanh nghiệp):

Tăng khả năng công dân và doanh nghiệp có thể tìm, xem và bàn luận

về các quy tắc và các văn bản pháp luật;

Giảm gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cách cho phép các doanh

nghiệp có thể trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng;

Rút ngắn thời gian điền vào các mẫu đơn xuất khẩu; và

Rút ngắn thời gian mà các doanh nghiệp phải đệ trình và tuân thủ

các quy tắc pháp luật.

G2C (Chính phủ - Công dân):

Rút ngắn thời gian truy cập thông tin về các khoản vay;

Tăng số lượng công dân trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng;

Rút ngắn thời gian cho người dân khi phải tìm kiếm các thông tin giải

trí.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 32

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

2.2. Chính sách Chính phủ Mỹ sử dụng để đạt mục tiêu phát triển Chính

phủ điện tử

Vào năm 2003 và 2004, Chính phủ điện tử sẽ cung cấp dịch vụ ngày càng

tốt hơn tới người dân với chi phí thấp hơn. Để thực hiện được mục tiêu trên,

cơ quan Chính phủ điện tử và công nghệ thông tin sẽ thực hiện những chính

sách sau:

Đơn giản hóa quá trình hoạt động của Chính phủ nhằm cải thiện chất

lượng dịch vụ.

Sử dụng ngân sách hàng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án

Chính phủ điện tử.

Đẩy nhanh tình hình thực hiện dự án thông qua phát triển, tuyển dụng

và giữ chân lực lượng cán bộ công nghệ thông tin có trình độ.

Tiếp tục hiện đại hoá quản lý thông qua ứng dụng công nghệ thông

tin trong các cơ quan Chính phủ, bao gồm quản lý chi phí, quản lý các

báo cáo tài chính, quản lý sổ sách; cung cấp thông tin và dữ liệu liên

quan tới tình hình đất nước; quản lý nguồn nhân lực;…

Liên kết lãnh đạo các cơ quan Chính phủ để hỗ trợ cho việc thực hiện

dự án Chính phủ điện tử.

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ

Phần lớn người Mỹ hiện nay đang sử dụng Internet, con số này chiếm

63% trong đó có 31% số người sử dụng nó vì công việc. Một nửa trong nhóm

này (35%) là những người sử dụng một cách thường xuyên. Công chúng có

một quan điểm rất tích cực về Internet, nhưng vẫn hoài nghi về tính an toàn

của nó. 74% số người sử dụng Internet cho rằng

Internet có ảnh hưởng tích cực đối với cuộc sống của họ. Đây là một yếu tố

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 33

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

quan trọng khiến cho Chính phủ điện tử không còn chỉ là lý thuyết nữa mà nó

đang và sẽ trở thành hiện thực. Những số liệu sau đây sẽ là những bằng chứng rõ

ràng nhất cho sự ra đời và tồn tại một Chính phủ điện tử ở Mỹ.

Hầu như mọi quan chức Chính phủ liên bang, các quan chức của các bang

và các quan chức ở địa phương cho rằng cơ quan của họ đều có một trang Web

riêng và đang hoạt động rất tốt. Các Website này đều đăng thông tin, một vài

trang Web còn cho phép công chúng thực hiện các giao dịch trên mạng. Một số

các Website còn cho phép người truy cập đưa ra

những lời bình luận về các dịch vụ hoặc về các hoạt động của Chính phủ.

C¸c dÞch vô ®−îc cung cÊp trªn Website cña chÝnh phñ

Down load ph Çn mÒm 37 % 58% M¸y mã c

64%

B×nh lu Ën vÒ ho¹t ®éng cñ a Ch Ýnh ph ñ

DÞch vô 66 % 72% Th«ng tin

83% Tμi liÖu

Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm

Hiện nay Chính phủ đang đầu tư cho Chính phủ điện tử và các quan chức

tin tưởng việc đầu tư đang có kết quả tốt. Chính phủ điện tử trợ giúp các cơ

quan Chính phủ trong các công việc hành chính nội bộ, giúp tiếp cận nhiều

hơn với công chúng và phối hợp tốt hơn với các cơ quan các cấp khác của Chính

phủ.

Công chúng trên mạng đang sử dụng và đánh giá rất cao các trang Web

của Chính phủ. Sáu mươi sáu phần trăm người sử dụng Internet ở Mỹ đã ghé

thăm ít nhất một trong số rất nhiều Website của chính quyền Liên Bang, chính

quyền các bang và chính quyền địa phương. Trong số đó nhiều nhất là những

người sử dụng Internet thường xuyên và những người

có liên quan đến Chính phủ.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 34

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Bảng: Tỷ lệ sử dụng Website của Chính phủ

Người sử dụng Internet Lòng tin vào chính phủ

Website Tất cả Người sử Người sử Thấp những dụng dụng Ca o Trung bình

Website của 56% 53% 51% Chính phủ người sử 54 % Internet 66 % Internet 38 %

Website của 44% 48% 41% Chính phủ 45 % 58 % 29 %

42% 37% 30% Website địa phương 36 % 45 % 26 % (Nguồn: http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)

Các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận cũng tiếp cận với Chính phủ

điện tử. Đa số những người đứng đầu các tổ chức này nói rằng họ có sử dụng

các trang Web của Chính phủ và đánh giá các trang Web này rất tốt. Ba phần

tư các doanh nghiệp giao dịch với chính quyền Liên Bang ở mức độ không

thường xuyên nói rằng khả năng tìm kiếm thông tin và điều khiển các giao dịch

qua Internet đã làm cho mối quan hệ giữa họ với các cơ quan Chính phủ không

còn nặng nề như trước nữa. Họ còn cho rằng khả năng tìm kiếm thông tin Chính

phủ trên Internet làm cho họ dễ dàng tuân thủ các quy định của pháp luật.

3.1. Thái độ của người dân Mỹ về Chính phủ điện tử

Năm 2001, Hart Teeter đã thay mặt hội đồng các đại biểu quốc hội tổ

chức nhiều cuộc điều tra về thái độ của công chúng, các quan chức Chính phủ

và các tổ chức đối với Chính phủ điện tử. Cuộc điều tra đã rút ra ba kết luận

sau:

* Người dân Mỹ tin tưởng rằng Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một

Chính phủ hiệu quả hơn.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 35

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Cả ba đối tượng của cuộc điều tra đều nhận thấy tiềm năng to lớn của

Chính phủ điện tử trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Năm

mươi sáu phần trăm công chúng dự đoán rằng trong vòng 5 đến

10 năm tới Chính phủ điện tử sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhiều hơn là tiêu

cực. Chín mươi hai phần trăm quan chức Chính phủ và 76% tổ chức cho rằng

Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một Chính phủ hiệu quả hơn.

Ban đầu chỉ có 58% số người Mĩ có niềm tin thấp đối với Chính phủ điện

tử. Tuy nhiên sau khi các dịch vụ của Chính phủ điện tử được thử nghiệm thì

sự ủng hộ của họ đối với Chính phủ điện tử đã tăng 13% lên thành 71%. Tuy

còn quá sớm để dự đoán khả năng thay đổi niềm tin của công chúng vào

Chính phủ điện tử, nhưng kết quả của cuộc điều tra cho thấy Chính phủ điện

tử sẽ có ảnh hưởng tích cực tới mọi mặt của đời sống.

* Công chúng Mỹ mong muốn tiến hành Chính phủ điện tử một cách thận

trọng nhằm đảm bảo sự an toàn và bí mật thông tin cá nhân.

Các đối tượng tham gia trong cuộc điều tra còn thể hiện hai quan

điểm khác nhau về Chính phủ điện tử:

- Quan điểm 1: Nên tiến hành dần dần việc kết nối Internet giữa Chính

phủ và công chúng bởi vì còn rất nhiều người không truy cập được vào Internet

và còn nhiều vấn đề quan trọng như an toàn và bí mật thông tin cá nhân vẫn

chưa được giải quyết.

- Quan điểm 2: Nên tiến hành nhanh chóng việc mở rộng sử dụng

Internet trong việc giao tiếp giữa Chính phủ và công chúng bởi vì Chính phủ

điện tử tạo ra nhiều cơ hội cải thiện dịch vụ, khả năng liên lạc và hiệu quả của

Chính phủ.

65% người dân Mỹ ủng hộ quan điểm 1 tức là mong muốn tiến hành một

cách chậm chạp việc thực thi Chính phủ điện tử, trong khi chỉ có 30% người

mong muốn tiến hành nó một cách nhanh chóng. Đại đa số người dân còn lo

lắng về độ an toàn và bí mật. Ngược lại, các quan chức Chính

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 36

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

phủ lại có một quan điểm đối lập, 56% các quan chức được hỏi ủng hộ quan

điểm 2. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi vì các quan chức

Chính phủ biết nhiều về Chính phủ điện tử hơn so với công chúng và đã được

thấy những lợi ích của nó một cách trực tiếp, hơn 80% tin tưởng rằng cơ quan

của họ sẽ thực hiện tốt công việc bằng cách sử dụng Internet để cải thiện hiệu

quả và chất lượng dịch vụ.

* Mong muốn của công chúng về Chính phủ điện tử không chỉ dừng lại ở

những dịch vụ có chất lượng cao và hiệu quả mà họ còn mong muốn

được thông tin nhiều hơn, được trao nhiều quyền lực hơn và mong chờ ở

một Chính phủ có trách nhiệm hơn.

Người Mỹ đánh giá một cách rất rõ ràng tiềm năng của Chính phủ điện

tử trong việc tạo ra một Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, cung cấp nhiều dịch

vụ tốt hơn và thuận tiện hơn. Họ ủng hộ việc họ có thể nộp thuế, đăng ký xe

hay sinh viên có thể vay tiền qua mạng. Khi được hỏi lợi ích nào là quan trọng

nhất mà Chính phủ điện tử mang lại, 36% cho rằng tạo ra một Chính phủ có

trách nhiệm hơn đối với người dân là lợi ích quan trọng nhất, 23% ủng hộ khả

năng Chính phủ điện tử đem lại số lượng người truy cập thông tin nhiều hơn,

21% cho rằng Chính phủ tạo ra nhiều lợi ích hơn và hiệu quả hơn, 13% tin

tưởng Chính phủ điện tử sẽ tạo ra

những dịch vụ thuận tiện hơn.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 37

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Nh÷ng lîi Ých quan träng nhÊt cña ChÝnh phñ ®iÖn tö

C«ng chóng Quan chøc ChÝnh phñ

23 % 13 % DÞch vô ChÝnh phñ thuËn tiÖn h¬n 16 %

21% 34% 23% ChÝnh phñ ho¹t ®éng hiÖu qu¶ h¬n 19 % 36%

Sè l−îng d©n chóng truy cËp th«ng tin nhiÒu h¬n

ChÝnh phñ cã tr¸ch nhiÖm h¬n víi c«ng d©n

(Nguồn: The Next American Revolution - http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm)

Tóm lại, người dân Mỹ có nhận thức rất tốt về Chính phủ điện tử và

những lợi ích của Chính phủ điện tử. Điều này chứng tỏ tình hình triển khai

Chính phủ điện tử ở Mỹ có những dấu hiệu rất khả quan, ít nhất thì đa số người

dân Mỹ còn biết Chính phủ điện tử là gì và tại sao phải phát triển Chính phủ

điện tử. Có thể nói đây là một kết quả quan trọng của chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử của Chính phủ Mỹ.

3.2. Một số sự kiện nổi bật trong quá trình thực hiện

Chính phủ điện tử

FirstGov.gov: đây là Website có tới 186 triệu trang thông tin kết nối với

hơn 22.000 Website của chính quyền Liên bang và chính quyền các bang.

FirstGov.gov là một trong 50 Website tiện ích nhất do Yahoo thiết kế vào

tháng 7/2002, và hiện thời trang Web này đã được cải tiến để cung cấp dịch vụ

Chính phủ chỉ trong vòng "3 nháy chuột". Chiến lược "3 nháy chuột" này đã

thu hút số người sử dụng trang Web ngày càng tăng, từ 5 triệu người năm

2001 lên tới 28 triệu người năm 2002.

Volunteer.gov: trang Web này cho phép công dân Mỹ đăng ký làm tình

nguyện viên.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 38

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Recreation.gov: cho phép công dân truy cập vào các công viên giải trí

và các trung tâm giải trí khác. Website này kết nối với hơn 2500

Website giải trí khác của Chính phủ.

GovBenefits.gov: cho phép truy cập thông tin và dịch vụ của hơn

400 chương trình của Chính phủ đạt hơn 2000 tỷ đô la lợi nhuận hàng năm.

Website này mỗi tháng có tới hơn 500.000 người truy cập.

IRS Free Filing: hơn 78 triệu người Mỹ có thể trình văn bản thuế trên

mạng miễn phí. Theo dự đoán, sẽ có tới 3,5 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ

này vào năm 2003.

Integrated Acquisition Environment: IAE đã cho ra đời một số trang

Web và công cụ quan trọng như Hệ thống phục hồi thông tin

(www.PPIRS.gov) được dùng để tìm và phục hồi lại những thông tin đã mất và

Hệ thống dữ liệu kỹ thuật Liên bang (www.FedTeDS.gov).

BusinessLaw.gov: cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ khả năng truy

cập thông tin về các quy tắc pháp luật, các công cụ hỗ trợ và khả năng thực hiện

giao dịch trên mạng. Website này cũng là một cổng thông tin được kết nốt với

các trang Web của chính quyền Liên bang, chính quyền các bang và chính

quyền địa phương.

Regulation.gov: bằng cách tạo ra một hệ thống duy nhất hỗ trợ cho quá

trình làm luật, đề ra các điều lệ, các quy tắc, Website này theo dự tính sẽ tiết

kiệm được 94 triệu đô la.

GoLearn.gov: đây là một trong những Website đào tạo điện tử được sử

dụng nhiều nhất trên thế giới. GoLearn.gov này có hơn 45.000 người sử dụng

đăng ký tham gia đào tạo với học phí rất thấp trong khi phương pháp đào tạo

truyền thống chỉ phục vụ được một số ít người, đôi khi học phí lên

tới 2500 đến 5000 đô la một lớp.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 39

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

E-Payroll: Dự án hệ thống trả lương điện tử này sẽ rút gọn các cơ

quan quản lý tiền lương cho nhân viên Chính phủ từ con số 22 xuống còn

2, đó là DoD/GSA và USDA/DOI. Theo dự đoán, hệ thống này giúp Chính phủ

tiết kiệm được 1,2 tỷ đô la trong 10 năm tới.

III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Australia

Đổi mới và tính hiệu quả là hai động lực quan trọng đối với

Australia để tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Tiến bộ khoa học kỹ thuật

đang giúp Australia rút ngắn khoảng cách với các nước khác và nhanh chóng

hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Công nghệ thông tin và viễn thông (ICT)

và những ứng dụng của nó đã tạo ra sự chuyển đổi trong hoạt động của cá nhân,

doanh nghiệp và Chính phủ.

Trong chính sách đầu tư phát triển ban hành năm 1997, thủ tướng

Australia, ông Hon John Howard MP đã công bố kế hoạch đầu tư cho sự phát

triển và tăng tính năng động cho nền kinh tế Australia. Kế hoạch này tập trung

vào việc tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy quá trình cải cách nền kinh tế đất

nước. Ngoài ra, kế hoạch này còn đặt ra một mục tiêu quan trọng cho các bộ,

ban ngành là tới tháng 9/2001, tất cả các dịch vụ Chính phủ phải được cung cấp

trên mạng Internet. Vào tháng 2/2002, trong cuộc họp của đại biểu các quốc

gia trên thế giới về công nghệ thông tin, Thủ Tướng Úc đã tuyên bố nước này

đã đạt được mục tiêu đề ra trong năm

2002. Đây là nền móng cho sự ra đời Chính phủ điện tử ở Úc.

Hiện nay Chính phủ nước này đã rất tiến bộ so với các quốc gia khác

trong việc sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ trực tuyến. Chính phủ

Australia đang tiến hành chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai

của Chính phủ điện tử - đó là giai đoạn phát triển một Chính phủ điện tử đầy

đủ hơn, trong đó việc ứng dụng công nghệ mới vào cung cấp

các dịch vụ công, cung cấp thông tin và vào quá trình quản lý hành chính

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 40

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

nhà nước sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và bản thân Chính

phủ. Chiến lược này đã đề ra một số mục tiêu quan trọng cho các bộ, các ban

ngành và các cơ quan Chính phủ (các mục tiêu này sẽ được đề cập trong phần

2.1 của chương này). Chiến lược này được Chính phủ Úc giao cho một uỷ ban

mới thành lập là Uỷ ban chiến lược quản lý thông tin (IMSC) với sự hỗ trợ của

Uỷ ban CIO.

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Australia

2.1. Các mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển Chính phủ điện

tử

Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ Australia

được lập vào tháng 11/2002 đã đề ra một số mục tiêu quan trọng sau:

- Đầu tư có hiệu quả hơn:

Đầu tư cho sự phát triển một Chính phủ điện tử hiệu quả là một vấn đề

hết sức quan trọng đối Australia. Nhưng phải đầu tư như thế nào để đạt kết quả

tốt nhất lại càng quan trọng hơn bởi kết quả đầu tư sẽ là nền tảng quan trọng

cho Chính phủ trong việc cải thiện hoạt động của Chính phủ, cải thiện quá

trình hoạch định chính sách, cung cấp dịch vụ và thông tin. Do vậy phải cơ

cấu lại bộ máy hành chính nhà nước, áp dụng công nghệ mới trong quá trình

cải cách, phải lập và quản lý dự án đảm bảo đạt được kết quả toàn diện.

- Đảm bảo tính thuận tiện khi truy cập thông tin và dịch vụ Chính phủ:

Chính phủ điện tử có thể giúp công dân và doanh nghiệp làm việc với

Chính phủ để giải quyết hàng loạt các vấn đề bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu mà

không cần phải biết là cơ quan nào của Chính phủ đang cung cấp dịch vụ mà

họ yêu cầu. Người dân không còn phải đứng xếp hàng hàng giờ

bên ngoài trụ sở của cơ quan Chính phủ để được gặp các quan chức có

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 41

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

trách nhiệm và sau đó phải chờ đợi điện thoại trả lời yêu cầu của mình hàng

tuần hay thậm chí hàng tháng.

- Cung cấp dịch vụ theo nhu cầu khách hàng:

Mặc dù chúng ta luôn nói công nghệ trong thời đại Chính phủ điện tử

đóng vai trò rất quan trọng nhưng công nghệ không quyết định loại dịch vụ mà

Chính phủ cung cấp. Ngược lại, áp dụng công nghệ để quản lý

thông tin và hoạt động kinh doanh mới là phương tiện để làm cho dịch vụ của

Chính phủ đáp ứng được ước muốn và nhu cầu của công dân.

- Thống nhất, kết hợp các dịch vụ có liên quan:

Thật không thuận tiện cho các cá nhân và doanh nghiệp khi phải thực

hiện nhiều giao dịch riêng lẻ với Chính phủ để đạt được một mục tiêu duy nhất.

Để hạn chế nhược điểm này, Chính phủ Australia sẽ áp dụng biện pháp phân

các dịch vụ liên quan đến nhau thành từng nhóm, từ đó các dịch vụ liên quan đến

nhau có thể được thực hiện thông qua một giao dịch duy nhất.

- Tăng cường sự tham gia của công dân vào Chính phủ:

Chính phủ có thể sử dụng Internet để tăng tính minh bạch trong các hoạt

động của Chính phủ và tạo mối quan hệ chặt chẽ hơn với công chúng. Khi mọi

người ngày càng quen với việc tìm kiếm thông tin và sử dụng dịch vụ công trên

mạng thì họ lại càng mong chờ một mối liên hệ ở cấp độ cao hơn với Chính

phủ. Điều này lại càng đem lại nhiều lợi ích cho Chính phủ khi mà công chúng

ngày càng quan tâm tới hoạt động của Chính phủ. Tính minh bạch và lòng tin

của công chúng vào Chính phủ ngày càng được củng cố khi những ý kiến của

công chúng được quan tâm để ý trong quá trình hoạch định chính sách của

Chính phủ.

2.2. Thực hiện mục tiêu

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 42

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ chính là chìa khoá để

thực hiện thành công 6 mục tiêu trên. Đây chính là sự liên kết giữa các cơ quan

Chính phủ trong cách thức cung cấp thông tin và dịch vụ, cách lên kế hoạch và

quản lý các thành phần của Chính phủ điện tử như thế nào. Cơ quan chiến lược

quản lý thông tin (IMSC) sẽ chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch này.

Sau đây là một số biện pháp Chính phủ Australia chọn lựa nhằm thực

hiện mục tiêu đề ra:

* Đầu tư có hiệu quả hơn:

Để đầu tư có hiệu quả hơn cần phải xác định được chi phí và kết quả đầu

tư. Với sự tồn tại nhiều kênh cung cấp dịch vụ như hiện nay thì việc xác định

chi phí và lợi ích của dịch vụ trực tuyến không phải dễ. Trong khi đó người dân

Australia khi sử dụng dịch vụ luôn hi vọng chỉ phải trả chi phí thấp. Do vậy

việc đầu tư cần phải thực hiện trong nhiều năm thì mới có thể giảm được chi phí

theo yêu cầu của dân chúng.

* Đảm bảo tính thuận tiện khi truy cập thông tin và dịch vụ Chính phủ:

Có một số phương pháp để thực hiện mục tiêu này là Chính phủ có thể

cung cấp thông tin và dịch vụ theo khách hàng, theo nhóm chủ đề, theo loại dịch

vụ theo vùng, và cũng có thể cung cấp thông tin và dịch vụ công dựa trên

những sự kiện trong cuộc sống hàng ngày. Trang Web Australia.gov.au

và một số trang Web khác đang trong giai đoạn đầu tiên cung cấp thông tin và

dịch vụ theo các nhóm một cách logic không phụ thuộc vào việc thông tin

hay dịch vụ đó do cơ quan Chính phủ nào cung cấp.

* Cung cấp dịch vụ theo nhu cầu khách hàng:

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 43

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Thiết lập cơ sở cho các dịch vụ tương tác lẫn nhau sẽ làm cho các cơ quan

Chính phủ có khả năng "bó" các dịch vụ có liên quan với nhau thành các dịch

vụ hợp nhất theo yêu cầu của khách hàng. Điều này sẽ rút ngắn quá trình xử

lý thông tin và giảm chi phí điều hành. Các cơ quan Chính phủ còn có thể kết

hợp các dịch vụ khác nhau, không liên quan đến nhau và cung cấp chúng với tư

cách là một dịch vụ đơn nhất.

* Thống nhất, kết hợp các dịch vụ có liên quan:

+ Xây dựng một cơ cấu cung cấp dịch vụ chung và điều hành nó:

Nguyên tắc và tiêu chuẩn của cơ cấu này được đưa ra nhằm khuyến khích ứng

dụng công nghệ thông tin và viễn thông để hỗ trợ cho quá trình cung cấp dịch

vụ của Chính phủ. Đây chính là nền tảng quan trọng cho việc phân phối dịch

vụ hợp nhất. Chỉ ra các vấn đề quan trọng liên quan tới việc đầu tư và quản lý cơ

sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông được coi như là một phần trong

chương trình làm việc của IMSC.

+ Thiết lập các cơ cấu điều hành để thoả mãn khách hàng: Thành công

của một Chính phủ điện tử lấy công dân làm trung tâm phụ thuộc vào khả năng

đáp ứng yêu cầu của dân chúng. Nhiều cơ quan Chính phủ đang sẵn sàng làm

việc nhằm thu hút sự chú ý của công chúng. Việc này cần phải có sự hiểu biết

về từng thành phần khách hàng và các cách để thu hút được sự phản hồi từ phía

khách hàng.

+ Xây dựng một chiến lược đầu tư: Để phát triển các dịch vụ tập trung

vào khách hàng cần phải trả lời câu hỏi ai sẽ là người trả chi phí cho việc tiêu

dùng các dịch vụ đó, lợi ích thu được từ các dịch vụ đó là bao nhiêu và việc

đầu tư cần bao nhiêu thời gian? Việc cung cấp các dịch vụ phức tạp hơn có lẽ

sẽ khó được thực hiện nếu không có một chiến lược đầu tư kết hợp giữa các cơ

quan Chính phủ. Do vậy cần phải xây dựng một chiến lược đầu tư, trong đó

xem xét xem nguồn kinh phí dành cho hoạt

động đầu tư nên lấy từ ngân sách hay từ các nguồn thu khác? Hiện nay,

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 44

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

việc đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông cũng gặp khó khăn do

những hạn chế trong nguồn ngân sách hiện tại của Australia. Thông qua

IMSC, Chính phủ Australia đang xem xét những vấn đề trên để loại bỏ những

trở ngại đối với chiến lược đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông.

* Tạo dựng lòng tin của người sử dụng

Chính phủ Australia đã xây dựng và tăng lòng tin từ phía công chúng

thông qua việc ban hành những tiêu chuẩn về Website của Chính phủ. Trong

chiến lược Chính phủ trực tuyến, Chính phủ Australia đã đề ra những tiêu chuẩn

tối thiểu đối với những thông tin và dịch vụ trực tuyến. Những tiêu chuẩn này

hiện nay vẫn còn được áp dụng. Cơ quan quốc gia về nền kinh tế thông tin

(NOIE) sẽ tiếp tục làm việc với các cơ quan quan trọng của Chính phủ để thúc

đẩy thực hiện những tiêu chuẩn này.

Cuối năm 2002, Chính phủ Australia đã ban hành tiêu chuẩn dịch vụ

Chính phủ Australia (AGLS). Việc sử dụng tiêu chuẩn này của các cơ quan hành

pháp cho phép gia tăng sự truy cập thông tin từ phía các khách hàng. Sau đây là

một số tiêu chuẩn quan trọng trong hệ thống các tiêu chuẩn AGLS:

+ Truy cập: đây là một tiêu chuẩn quan trọng đối với các Website của

Chính phủ. Các cơ quan Chính phủ phải đảm bảo rằng nội dung trang Web của

họ phải tới được tất cả những người có thể sử dụng Internet.

+ Sự thẩm định quyền: trong một hệ điều hành mạng hoặc đa người

dùng, đây là một tiến trình đánh giá thông tin đăng nhập của người dùng. Tiến

trình thẩm định quyền liên quan đến việc so sánh tên và mật khẩu của người

dùng với một danh sách những người dùng được phép. Nếu hệ điều hành so

thấy khớp, người dùng được phép truy xuất hệ thống, nhưng chỉ ở mức độ như

đã chỉ định trong bản cấp phép trong chương mục của người

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 45

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

dùng đó. Trong quá trình cung cấp dịch vụ và thông tin trên mạng, sự thẩm định

quyền đảm bảo xác định người gửi và người nhận thông tin trực tuyến, từ đó

xây dựng lòng tin và đảm bảo tính an toàn khi thực hiện các giao dịch trên

mạng. Chính phủ Australia đã có những tiến bộ đáng kể trong thẩm định điện

tử các doanh nghiệp tham gia giao dịch với Chính phủ trên mạng.

* Tăng cường sự tham gia của công dân vào Chính phủ

Internet mang lại cho các cơ quan Chính phủ cơ hội có được ý kiến của

công chúng về các vấn đề chính sách. Có hai cách để tăng cường sự tham gia

của công dân vào Chính phủ. Cách thứ nhất là Chính phủ có thể sử dụng tối đa

những ứng dụng của Internet để quan hệ với công dân, chẳng hạn như các

nghị sĩ quốc hội có thể liên lạc với cơ quan, với quốc hội qua mạng Internet,

hay người dân có thể bỏ phiếu bầu cử thông qua mạng Internet (Bỏ phiếu điện

tử). Các thứ hai tập trung vào quản lý công chúng, tức là các cơ quan Chính

phủ có thể sử dụng Internet để tối đa hoá hiệu quả khi quan hệ và trưng cầu ý

kiến của công chúng.

2.3. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin

* Nghiên cứu phát triển chiến lược quản lý kiến thức về Chính phủ điện

tử:

Sự phát triển một Chính phủ điện tử hiệu quả và bền vững ở

Australia yêu cầu Chính phủ nước này cần phải chú ý nhiều hơn tới nguồn tài

sản trí tuệ và phải coi đó là nguồn tài nguyên được chia sẻ giữa các cơ quan

Chính phủ. Biện pháp của Chính phủ đối với nghiên cứu phát triển quản lý

kiến thức là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo cho Chính phủ có thể đạt được kết quả

tốt nhất trong việc đầu tư vào công nghệ thông tin và viễn thông.

* Phát triển kỹ năng về công nghệ thông tin và viễn thông trong Chính phủ:

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 46

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Để đảm bảo thành công trong những giai đoạn tiếp theo của Chính phủ

điện tử, những kỹ năng về công nghệ thông tin và viễn thông cần phải được mở

rộng phát triển ở tất các các cấp quản lý. Trách nhiệm xúc tiến chương trình

cung cấp dịch vụ và thông tin trên mạng đi vào hoạt động nhanh chóng thuộc

về các nhà quản lý công nghệ thông tin, do vậy các nhà

quản lý trong các cơ quan Chính phủ cần phải có kiến thức và những kỹ năng

cần thiết đủ để hiểu được quy trình cung cấp dịch vụ trên mạng của Chính phủ

hoạt động như thế nào.

* Chia sẻ và tái sử dụng tài sản:

Các cơ quan nhà nước đang sẵn sàng hợp tác để đưa ra các chính sách

nhằm xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa họ. Các cơ quan Chính phủ còn liên kết

chặt chẽ trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông thông qua

việc tăng quyền mua của Chính phủ và tái sử dụng nguồn tài sản trí tuệ có giá trị.

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Australia

Chiến lược Chính phủ trực tuyến của Australia đã đạt được kết quả đáng

kể. Các cơ quan Chính phủ hiện nay luôn đảm bảo tính sẵn có của thông tin

và dịch vụ trên Internet cho những người có nhu cầu truy cập. Dưới đây là

một số sự kiện nổi bật trong quá trình thực hiện Chính phủ điện tử ở

Australia:

* Business Entry Point: đây là trang Web cung cấp thông tin và dịch vụ

miễn phí cho các doanh nghiệp Australia 24/24 giờ và 7 ngày trong

tuần. Thông qua trang Web này các doanh nghiệp Australia có thể thực hiện

các giao dịch thuận tiện hơn và đơn giản hơn. Đặc điểm duy nhất của Website

này là nó có thể cung cấp thông tin và dịch vụ của các cơ quan Chính phủ từ

cấp Liên Bang, Chính phủ cấp bang đến Chính phủ cấp địa phương. Website

này đang tiếp tục được hoàn thiện và cung cấp

ngày càng nhiều dịch vụ hơn để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 47

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Australia. Theo các thông tin được đăng tải trên Website này, kể từ đầu năm

2000, Business Entry Point đã cung cấp hơn 30 triệu trang thông tin. Gần một

triệu đơn xin phép trở thành một thành viên của Australian Business

Number được thực hiện trên mạng thông qua Business Entry Point, gần một

triệu nghiên cứu được thực hiện trên Australian Business Register mỗi tháng.

(Nguồn : http://www.business.gov.au/ )

* Australian JobSearch (AJS) cung cấp những thông tin về việc làm

cho những người đang tìm việc và là nơi để các doanh nghiệp đăng quảng

cáo tuyển nhân viên. Cơ sở dữ liệu này bao gồm những nội dung sau:

Tất cả các công việc được liệt kê trên các trang Web việc làm trên cả

nước;

Việc làm được quảng cáo trên các báo trong nước;

Việc làm được đăng trên công báo Australian Public Service;

Việc làm do các công ty đăng tải; và

Việc làm từ Hiệp hội dịch vụ tư vấn và tuyển dụng (RCSA).

Ngoài ra, Australian JobSearch còn liệt kê danh sách các công việc cho

các dự án trợ cấp thất nghiệp và việc làm theo mùa trên cả nước. Hiện AJS đang

có hơn 50.000 vị trí và là một trong các trang tuyển dụng dẫn đầu Australia.

(Theo http://www.jobsearch.gov.au/)

FishOnline (http://www.fishonline.tas.gov.au/): trang Web này cho phép

truy cập nhanh chóng thông tin về chính sách câu cá của Chính phủ, bơi

thuyền, dự báo thời tiết, các quy tắc về an toàn và môi trường cũng như xin

cấp phép câu cá trên mạng. Website này thể hiện cách các Chính phủ liên bang

và Chính phủ các bang liên kết với nhau để cung cấp dịch vụ vì lợi ích của

công chúng. Đây là một mô hình hiệu quả để cung cấp

dịch vụ hợp nhất trực tuyến trong tương lai.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 48

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Paying tax online (Nộp thuế trên mạng): Thuế điện tử là cách an toàn để

nộp thuế và tăng doanh thu thuế hàng năm qua Internet. Thuế điện tử sử dụng

công nghệ chứng chỉ kỹ thuật số và mã hoá dữ liệu mới nhất để đảm bảo tính an

toàn và tính xác thực của các thông tin được gửi tới Cơ quan thuế Australia

(ATO).

Kể từ khi thuế điện tử được đưa vào sử dụng, số người sử dụng

phương thức nộp thuế này ngày càng tăng. Tới đầu tháng 11/2002, ở Úc có

hơn 540.000 người sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử, tăng 52% so với năm

2001. Tốc độ thu thuế điện tử nhanh hơn rất nhiều so với các phương thức nộp

thuế thủ công. Cơ quan thuế Australia đã xử lý 100% doanh thu thuế điện tử

trong vòng 14 ngày, trong đó có tới gần 90% được xử lý chỉ trong 10 ngày,

thấp hơn rất nhiều so với con số 42 ngày khi xử lý trên giấy tờ. (Nguồn:

http://www.etax.ato.gov.au/)

Kết luận: Trên đây là một số thành tựu trong quá trình phát triển Chính

phủ điện tử ở Australia. Nhưng đây không phải là giai đoạn cuối cùng mà chỉ

là giai đoạn đầu trong qua trình chuyển đổi Chính phủ thông qua ứng dụng

rộng rãi công nghệ để cung cấp dịch vụ trực tuyến. Dịch vụ trực tuyến là một

phần trong quá trình cung cấp dịch vụ của Chính phủ. Đối với các cơ quan

Chính phủ Australia, kênh phân phối dịch vụ hiên nay là kết quả của việc kế

thừa các kênh phân phối truyền thống. Dịch vụ vẫn sẽ được cung cấp thông qua

các phương tiện truyền thống như điện thoại, fax hoặc cung cấp trực tiếp tại trụ

sở của các cơ quan Chính phủ. Cho dù có sử dụng kênh phân phối nào đi nữa

thì mục tiêu cuối cùng vẫn là nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí cho

cả người sử dụng lẫn nhà cung cấp dịch vụ mà cụ thể là Chính phủ.

IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 49

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore

Có thể nói Chính phủ điện tử ở Singapore ra đời bắt nguồn từ quyết định

tin học hoá bộ máy hành chính nhà nước vào năm 1981. Tuy nhiên, do đây là

chương trình phát triển chỉ tập trung vào bộ máy hành chính nhà nước cho nên

Chính phủ điện tử ở Singapore ngày nay không phát triển tới được mức độ mà

đáng lẽ ra nếu với thời gian triển khai sớm như vậy thì nước này phải có một

Chính phủ điện tử lớn mạnh hơn nhiều. Hiện nay đối với Singapore, phát triển

Chính phủ điện tử đã là một bộ phận không thể thiếu trong chiến lược phát

triển đất nước.

Chương trình tin học hoá bộ máy hành chính nhà nước (CSCP) bắt đầu

thực hiện vào năm 1981 đánh dấu làn sóng đầu tiên của Chính phủ điện tử ở

Singapore. Chương trình này nhằm mục đích tiết kiệm nguồn nhân lực, cải

thiện hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, cung cấp nguồn thông tin tốt

hơn cho quá trình ra quyết định của Chính phủ và nâng cao chất lượng dịch vụ

công. Mục tiêu chung của chương trình này là nhằm tự động hoá các chức

năng hoạt động truyền thống của Chính phủ và hạn chế cách làm việc thủ công,

chủ yếu là trên giấy tờ.

Một trong các chiến lược đầu tiên mà CSSP lựa chọn được gọi là SS-

SF (Start Small, Scale Fast). Ngay từ khi công nghệ thông tin và viễn thông

chưa trở nên quen thuộc với cả Chính phủ lẫn người dân Singapore thì người ta

cũng nhận thấy rằng để bắt đầu một chương trình cải cách, cách tốt nhất là nên

bắt đầu thử nghiệm ở quy mô nhỏ, sau đó một khi đã được đông đảo công

chúng chấp nhận mới nhanh chóng tiến hành triển khai ở phạm vi rộng hơn.

Với những nhận thức như vậy, chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà

nước của Chính phủ Singapore diễn ra khá nhanh chóng, tạo tiền đề cho sự phát

triển Chính phủ điện tử sau này.

Điều quan trọng là phải chú ý rằng nếu chỉ với những kiến thức kỹ

thuật đơn giản về công nghệ thông tin và viễn thông thì sẽ không đủ để bắt

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 50

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

đầu triển khai Chính phủ điện tử. Những ứng dụng công nghệ thông tin và viễn

thông trong cuộc sống thường gặp phải những hạn chế như tâm lý e ngại cái

mới trong một bộ phận dân chúng hay những khó khăn nhỏ thường xảy ra

với các cơ quan Chính phủ trong giai đoạn đầu cung cấp dịch vụ công. Do vậy

trước khi bắt đầu triển khai xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử việc cần

phải làm trước tiên là khắc phục khó khăn và loại bỏ tâm lý lo sợ này.

Trong thời gian hơn 20 năm kể từ khi bắt đầu triển khai, Chính phủ

Singapore đã cho ra đời rất nhiều dịch vụ về Chính phủ điện tử, từ việc cung

cấp thông tin đơn giản đến những giao dịch kinh doanh phức tạp. Hiện nay,

Singapore là một trong những nước có hệ thống Chính phủ điện tử phát triển

nhất thế giới. Do vậy, các nước đang xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử

trên thế giới nên và rất cần nghiên cứu chiến lược phát triển Chính phủ điện tử

của Singapore để trả lời được câu hỏi tại sao Chính phủ điện tử ở Singapore lại

phát triển đến như vậy, hơn cả các cường quốc kinh tế trên thế giới.

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore

2.1. Chiến lược G2C

Một nguyên lý cơ bản của mối quan hệ Chính phủ - Công dân trong

Chính phủ điện tử là lấy khách hàng làm trung tâm. Nhưng trên thực tế lại có

một nghịch lý đó là hiện nay, hầu hết các chính trị gia và các quan chức Chính

phủ, những người được dân bầu ra và được trả lương để phục vụ dân lại tự

coi mình là cha mẹ dân chứ không phải là đầy tớ của dân. Họ đặt quyền lợi của

mình lên trên quyền lợi của dân. Họ coi việc làm thế nào để cai trị thoải mái,

thuận tiện hơn là lắng nghe xem dân chúng muốn gì. Do đó, coi công dân là

khách hàng của Chính phủ là cách Chính phủ Singapore tạo lập mối quan

hệ Chính phủ - Công dân theo chiều hướng

phục vụ lợi ích của người dân.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 51

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

* Cổng Công dân - điện tử:

Cổng Công dân - điện tử (http://www.ecitizen.gov.sg/) là nền tảng của

Chính phủ điện tử ở Singapore. Cổng này cung cấp thông tin và dịch vụ trực

tuyến một cửa, qua đó mọi người dân có thể tham gia giao dịch với Chính phủ

mà không cần phải thông qua bất cứ một cơ quan Chính phủ riêng rẽ nào.

Dịch vụ và thông tin được cung cấp qua cổng này rất phong phú và đa dạng.

Thông tin và dịch vụ được phân loại thành 16 lĩnh vực: văn hoá nghệ thuật,

kinh doanh, quốc phòng, giáo dục, bầu cử, việc làm, gia đình, sức khoẻ, nhà

ở, luật, thư viện, giải trí, an toàn và an ninh, thể thao, vận tải và cuối cùng là

du lịch. Mọi người dân có thể truy cập cổng Công dân - điện tử từ khắp mọi

nơi chỉ cần kết nối Internet cho máy tính của mình. Các cá nhân không có điều

kiện truy cập Internet từ nhà riêng, từ cơ quan hay những cá nhân cần có sự

hướng dẫn khi truy cập các dịch vụ điện tử của Chính phủ có thể yêu cầu sự trợ

giúp từ Trung tâm trợ giúp công dân - điện tử. Trung tâm Công dân - điện tử

hiện nay có hơn 2.600 dịch vụ điện tử.

Do bị hạn chế trong khuôn khổ khoá luận này, nên những thông tin chi

tiết về cổng Công dân - điện tử không thể được giới thiệu hết. Bạn đọc có thể

truy cập thêm thông tin trong các trang www.ecitizen.gov.sg,

www.mof.gov.sg, hoặc www.ida.gov.sg.

*Sự kết nối đa chiều:

Điều kiện tiên quyết để Chính phủ điện tử có thể hoạt động một cách hiệu

quả chính là sự kết nối điện tử đến mọi người dân Singapore. Chính phủ

Singapore đang nỗ lực xây dựng một xã hội trong đó mà công nghệ thông tin

và viễn thông là một phần của cuộc sống. Hiện nay ở Singapore, "Singapore

One" là một sơ sở hạ tầng rộng khắp cả nước. "Singapore One" bao trùm 99%

phạm vi lãnh thổ, mang lại khả năng ứng dụng công nghệ

trong các cơ quan, các doanh nghiệp, trường học, gia đình, thư viện, và các

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 52

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

trung tâm công cộng, với 7.000 điểm truy cập trên khắp đất nước

Singapore. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)

Tất cả các trường đại học và cao đẳng ở Singapore đã được trang bị đầy

đủ các thiết bị thông tin liên lạc hiện đại. Singapore cũng đã thực hiện thành

công mục tiêu là vào cuối năm 2002, cứ hai học sinh cấp I và cấp II sẽ có một

máy vi tính để phục vụ cho việc học tập.

Trong năm 2000, 75% số dân Singapore sử dụng điện thoại di động, gần

50% người dân truy cập Internet. Về mật độ truy cập Internet tại gia, Singapore

đứng thứ hai Châu Á với tỷ lệ 353/10.000 người. Ngoài ra, Singapore còn là

một trong những nước có tỷ lệ sở hữu máy vi tính cao

nhất trên thế giới, chiếm 61% trong năm 2000.

Tû lÖ së h÷u PC ë mét sè n−íc

61% 56% 56% 51% 50%

32%

Singapore A ustralia §μi L oan USA A ilen

Hång K«ng

Nguồn: Survey on Infocomm Usage in Households 2000

* Xã hội điện tử và phong cách sống điện tử:

Trong một xã hội điện tử, công nghệ phải tới được và phù hợp với tất cả

mọi người không kể tuổi tác, ngôn ngữ, sức khoẻ và khả năng kinh tế. Chính

phủ Singapore đã đầu tư 25 triệu đô la Singapore để tạo ra một động thái điện

tử trong thời gian ba năm, tập trung vào việc khắc phục

khoảng cách số về thu nhập, ngôn ngữ…, đặc biệt là với 4 thành phần dân

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 53

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

cư quan trọng là người già, người nội trợ, công nhân và người khuyết tật.

Chương trình này còn nhằm mục đích cải thiện khả năng ứng dụng công nghệ

thông tin và viễn thông trong 30.000 hộ gia đình có thu nhập thấp. Mục tiêu

của Chính phủ Singapore là làm sao để không một người dân Singapore nào

còn cảm thấy khó khăn khi truy cập các dịch vụ điện tử của Chính phủ. Để có

được mức độ truy cập rộng khắp, các trung tâm trợ giúp Công dân điện tử đã

được đặt ở khắp các vùng trong cả nước, bố trí cán bộ nhân viên có khả năng nói

được cả 4 ngôn ngữ chính thức của nước này.

Một trong các cách để thúc đẩy việc triển khai Chính phủ điện tử là phải

tạo ra một phong cách sống điện tử trong mọi tầng lớp nhân dân. Thành công

của Chính phủ điện tử phụ thuộc vào sự chấp nhận của công chúng đối với

một nếp sống mới - một phong cách sống điện tử. Để nâng cao nhận thức của

công chúng về phong cách sống điện tử, chiến dịch kéo dài một tháng được tổ

chức hàng năm bắt đầu từ năm 2000. Đến năm

2002, chiến dịch này chuyển sang thực hiện hàng tháng thay vì hàng năm, nội

dung của chiến dịch chủ yếu tập trung vào các chủ đề cụ thể. Các chiến dịch này

nhấn mạnh 4Es - tức là học tập điện tử, giải trí điện tử, thông tin điện tử và giao

dịch điện tử - nhằm mục đích lý giải cho dân chúng thấy sự cần thiết của công

nghệ thông tin và viễn thông.

Tuy nhiên, các chiến dịch trên mới chỉ nhằm mục đích nâng cao mục

đích của dân chúng về một phong cách sống điện tử, còn để hướng người dân

từ nhận thức sang chấp nhận nhận nó, Chính phủ Singapore đã tổ chức một loạt

hội chợ trực tuyến nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào dịch vụ trực

tuyến như mua bán hàng tạp phẩm, mua bán túi du lịch hay cung cấp dịch vụ

ngân hàng trực tuyến. Chính phủ Singapore cũng đã tổ chức các chương trình

đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết về công nghệ thông tin và viễn thông, trang

bị cho hàng nghìn người Singapore những kỹ năng về máy tính và Internet.

Các chương trình đào tạo này thường là rất nhanh chóng và luôn sẵn có. Ngoài

ra, Chính phủ Singapore còn tổ

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 54

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

chức một chương trình gọi là Đại sứ điện tử (e - Ambassador). Mục đích

chương trình này là để xoá bỏ "khoảng cách số" giữa những người có kiến thức

về công nghệ thông tin và viễn thông với những người chưa có kinh nghiệm gì

bằng cách người đi trước giúp đỡ người đi sau. Chương trình này được tổ

chức rộng rãi trong công chúng, nêu cao tinh thần tự nguyện, kêu gọi những

người đã biết giúp đỡ những người chưa biết từng bước làm quen với phong cách

sống điện tử.

2.2. Chiến lược G2B

Mục tiêu của chiến lược G2B của Singapore là tạo mối quan hệ điện tử

giữa Chính phủ và doanh nghiệp hiệu quả cao, thuận tiện và chi phí thấp. Mô

hình Business Town (http://www.gov.sg/singov/biz.htm) của trung tâm Công

dân điện tử là một tiến bộ quan trọng trong phương pháp lấy khách hàng làm

trung tâm để cung cấp dịch vụ điện tử. Giờ đây, các doanh nghiệp trong nước

và quốc tế có thể truy cập, sử dụng thông tin dịch vụ G2B phục vụ cho hoạt

động của doanh nghiệp như lên kế hoạch kinh doanh, nghiên cứu thị trường,

quản lý nguồn tài sản trí tuệ,…

Một hướng dẫn gồm 10 bước được xây dựng nhằm giúp đỡ các doanh

nghiệp mới trở thành các doanh nghiệp thành công trên thương trường.

Business Town còn có các kế hoạch và chương trình hỗ trợ để khuyến khích

các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử

cũng như hiện đại hoá, nâng cấp và mở rộng lĩnh vực kinh doanh truyền thống

của công ty. Thông qua công nghệ thông tin và viễn thông, Chính phủ

Singapore quyết tâm không chỉ cung cấp các dịch vụ điện tử mà còn đóng vai

trò ngày càng lớn trong sự phát triển của các doanh nghiệp ở nước này.

*Thu mua trực tuyến:

Thu mua trực tuyến có thể giúp các doanh nghiệp giảm chi phí quản lý và

tạo được nhiều mối quan hệ với nhiều nhà cung cấp trên thế giới.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 55

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ Singapore đã thiết lập hệ thống thu mua trực tuyến của Chính phủ

vào tháng 12/2000, được gọi là trung tâm kinh doanh điện tử của Chính phủ

(GeBiz). Trung tâm này tạo cơ hội cho các nhà cung cấp trong và ngoài nước

buôn bán với khu vực công, cho phép họ có thể thực hiện các giao dịch điện

tử với Chính phủ. Một khi hoàn thiện, hệ thống này sẽ mang lại cho người

mua, các nhà cung cấp và đấu thầu một môi trường an toàn cho hoạt động thu

mua và đấu thầu.

*Đơn giản hoá thủ tục đăng ký kinh doanh:

Trong môi trường kinh doanh năng động hiện nay, công việc dễ dàng

nhất và cần thiết nhất để bắt đầu và hợp thức hoá công việc kinh doanh là

đăng ký kinh doanh với Chính phủ. Các công ty có thể gửi yêu cầu thành lập

công ty trên mạng. Đơn đăng ký kinh doanh (Bizfile) có thể thực hiện trên

mạng mà không cần phải trực tiếp đến trụ sở của Cơ quan đăng ký kinh doanh

(RCB: Registry of Companies and Businesses). Công chúng sẽ có thể nhận

được các thông tin chính xác và cập nhật liên quan tới các doanh nghiệp thông

qua eBizCore. Ngoài việc đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp còn có thể

nhanh chóng xin giấy phép và các yêu cầu khác thông qua hệ thống xin cấp

phép trực tuyến (OASIS). Các doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống này ở

bất cứ đâu, miễn là nơi đó có nối mạng Internet mà không cần phải gửi đi đơn

xin cấp phép nhiều lần hoặc phải thực hiện nhiều cuộc viếng thăm các cơ quan

Chính phủ mới có thể bắt đầu công việc kinh doanh của mình.

2.3. Chiến lược G2E

Bên cạnh công chúng và doanh nghiệp, các nhân viên Chính phủ đóng

vai trò quan trọng trong sự thành công của Chính phủ điện tử. Các nhân viên

Chính phủ chịu trách nhiệm thực thi chính sách và phân phối

dịch vụ, do vậy mục tiêu của chiến lược G2E là trao quyền cho các quan

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 56

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

chức Chính phủ, sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để giữ cho mình

không ở bên ngoài lề của nền kinh tế điện tử.

Để thực hiện thành công Chính phủ điện tử, yêu cầu đầu tiên là bản thân

người cung cấp thông tin và dịch vụ điện tử phải hiểu rõ về công nghệ thông tin

và viễn thông. Xuất phát từ yêu cầu này, chương trình giáo dục công nghệ

thông tin và viễn thông (IE) đã được tổ chức nhằm trang bị cho tất cả các nhân

viên Chính phủ những kỹ năng cần thiết để tận dụng cơ hội sáng tạo ra một

Chính phủ điện tử thực sự.

* Nâng cao tri thức trong Chính phủ: Để khuyến khích và ủng hộ ý

tưởng Quản lý tri thức của Chính phủ Singapore, một chương trình thử nghiệm

về quản lý tri thức (KM-EP: Knowledge Management

Experimentation Programme) được phát động vào tháng 7/2001 để tạo ra một

môi trường làm việc tri thức trong Chính phủ.

* Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông vững mạnh: Cốt

lõi của hạ tầng công nghệ thông tin Chính phủ là một loạt các công cụ như thẻ

thông minh, hệ thống email của Chính phủ và mạng nội bộ của Chính phủ. Cơ

sở hạ tầng này tạo điều kiện thuận lợi cho thông tin liên lạc trong nội bộ Chính

phủ cũng như giữa Chính phủ với dân chúng. Ví dụ, hệ thống email của Chính

phủ hiện có 30.000 người sử dụng, mỗi tháng xử lý hơn 12 triệu email trong nội

bộ Chính phủ và 5 triệu email trao đổi giữa Chính phủ với công chúng mỗi

năm. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)

* Cải thiện tính hiệu quả trong hoạt động của Chính phủ: Một hệ

thống quản lý nhân lực sẽ tạo điều kiện thực hiện chính sách nguồn nhân lực

của Chính phủ một cách nhanh chóng. Mục đích của hệ thống này là cải thiện

hiệu quả hoạt động của chính phủ cũng như trợ giúp các bộ,

các ngành trong việc quản lý các nguồn tài nguyên.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 57

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore

Những nỗ lực xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử của

Singapore đã đạt được một số kết quả đáng kể. Cổng Chính phủ điện tử của

Singapore có 1,2 triệu người truy cập mỗi tháng. Một cuộc điều tra tiến hành vào

tháng 7/2002 cho thấy 1/3 số người được hỏi nói rằng họ thích phương pháp

giao dịch và liên lạc qua Internet, và cứ 10 người thì có 9 người nói rằng dịch

vụ điện tử của Chính phủ tương đương, nếu không nói là tốt hơn dịch vụ điện tử

của khu vực tư nhân. (Nguồn: E-government: The Singapore - www.infitt.org/)

Một số nhà phê bình nước ngoài cho rằng Singapore là nước đứng đầu

thế giới về Chính phủ điện tử. Trong hội nghị về Chính phủ điện tử năm

2002 tổ chức tại Washington, Singapore được nhận giải thưởng Explorer

Award cho những thành công của quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ

điện tử. Chính phủ Singapore rất nghiêm khắc khi thực hiện cải thiện dịch vụ

công. Điều này xuất phát từ tư tưởng cho rằng một dịch vụ công minh bạch và

hiệu quả sẽ là một yếu tố quan trọng đối với thành công trong tương lai của

Chính phủ điện tử ở Singapore.

Tuy nhiên, tương tự như các nước khác, "khoảng cách số" vẫn còn tồn

tại ngăn cách một bộ phận dân chúng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà

một khi họ không biết gì về những tiến bộ khoa học kỹ thuật này thì sẽ không thể

ủng hộ nó. Do vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Chính phủ Singapore

cần quan tâm đến nhóm người này để có thể thu hút sự chú ý và ủng hộ của

họ. Ở quốc đảo nhỏ bé này, khoảng cách giữa có hay không có một "khoảng

cách số" là rất mỏng manh.

* Một số thành tựu về Chính phủ điện tử của Singapore:

- Công dân điện tử (http://www.ecitizen.gov.sg/)

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 58

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

- NTU (Nanyang Technological University) - Đại học công nghệ

Nanyang ở Singapore quản lý mọi hoạt động của trường thông qua

Website http://www.ntu.edu.sg/.

Hạ tầng công nghệ thông tin tại NTU có thể xếp hàng đầu nếu so sánh

với các trường đại học Âu - Mỹ. Cán bộ và sinh viên NTU có thể truy cập đến

Website của trường để vào hệ thống ứng dụng dành riêng

(www.ntu.edu.sg/stafflink cho cán bộ và www.ntu.edu.sg/studentlink cho sinh

viên).

Hệ thống Stafflink: hệ thống này giải quyết mọi công việc liên quan đến

giảng dạy và hành chính như lịch giảng, phân bố lớp học, điền điểm thi vào sơ

sở dữ liệu, thiết lập bảng lương, tài chính, các công trình nghiên cứu…Nhờ đó,

quá trình xử lý được rút ngắn từ hàng tuần khi dùng giấy tờ xuống vài phút. Hệ

thống này được truy cập qua Internet nên rất tiện cho người sử dụng.

Hệ thống Studentlink: điểm và thông tin liên quan đến quá trình học tập

của sinh viên đều có trên hệ thống này. Sinh viên có thể truy cập vào

Studentlink để cập nhật thời khoá biểu, lịch học, lớp học, nhóm thực hành thí

nghiệm, xem điểm thi…

Hệ thống Edventure (http://edventure.ntu.edu.sg/): là hệ thống lớp học

ảo vào loại hiện đại nhất thế giới. Các môn học, kể cả tài liệu tham khảo và

nội dung bài giảng đều được đưa vào đây. Giáo sư thông báo lịch học, tài liệu

và trao đổi với sinh viên tại địa chỉ này. Hiện nay hệ thống video đang được

thử nghiệm để truyền hình bài giảng từ xa, cho phép giáo sư có thể giảng bài

qua hệ thống Edventure mà không phải đích thân đến giảng đường. Mỗi giảng

đường đều được trang bị hệ thống máy tính và máy chiếu. Giáo sư truy cập bài

giảng từ Edventure và chiếu trực tiếp tại

giảng đường.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 59

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Hệ thống Microsoft Exchange: Đây là hệ thống email cá nhân và các thư

mục, trao đổi thông tin của trường chạy trên nền Microsoft Exchange. Các cơ

sở dữ liệu ở đây cho phép nhanh chóng tìm tên người, địa chỉ, số điện thoại và

địa chỉ email. Các hoạt động khác như đặt phòng họp, thông báo hội thảo đều

được tiến hành tự động trên hệ thống.

Hệ thống thư viện: Thư viện của NTU là nơi ứng dụng công nghệ

thông tin nhiều nhất. Cơ sở dữ liệu sách trong thư viện được quản lý bằng

OPAC. Mỗi quyển sách đều có mã vạch từ điển và mã vạch chống lấy trộm.

Người sử dụng tìm tên sách trên mạng OPAC, chọn sách và mượn sách qua

máy tự động. Hệ thống đặt sách, đặt cảnh báo quá hạn… đều chạy trên máy tự

động.

Ngoài ra, thư viện còn đăng ký truy cập tới các thư viện điện tử trên thế

giới và các tạp chí chuyên ngành. Tài liệu được tải về máy tính cá nhân trong vài

giây mà người dùng không cần đích thân đến thư viện. Hệ thống dữ liệu của

NTU cũng như luận án tốt nghiệp của sinh viên đều được số hoá và cài đặt

trên cơ sở dữ liệu của thư viện.

Hệ thống quản lý nhân sự và bảo mật: Mỗi cán bộ và sinh viên của NTU

đều có thẻ chứng minh. Thẻ chứng minh được dùng tại thư viện khi tự động

mượn sách hay tại các cơ sở thể dục thể thao của trường.

Mô hình trên đây của NTU không chỉ cho thấy những ứng dụng hiệu quả

của Internet trong môi trường đào tạo mà còn phản ánh một xu hướng mới: biến

Website thành cổng hành chính. Đây là xu hướng mới của nhiều tổ chức, nhất là

các tổ chức hành chính, quản lý ở các quốc gia phát triển.

V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ

ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 60

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử

Thực tiễn phát triển Chính phủ điện tử ở ba nước Mỹ, Australia và

Singapore cho thấy rằng Chính phủ điện tử đã tạo ra nhiều cơ hội và đem lại

nhiều lợi ích cho Chính phủ ba nước này:

- Tạo ra một Chính phủ hiệu quả hơn và có trách nhiệm hơn, giảm hiện

tượng quan liêu, tham nhũng của các cơ quan công quyền.

- Người dân có thể chủ động tham gia vào quá trình điều hành của

Chính phủ ở mỗi quốc gia.

- Người dân được hưởng các dịch vụ thuận tiện, hiệu quả và tiết kiệm

hơn, từ đó kích thích khả năng truy cập thông tin.

- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, cơ sở hạ tầng nhân

lực, cơ sở hạ tầng pháp lý… phát triển cùng với quá trình phát triển Chính phủ

điện tử.

- Các doanh nghiệp trong Chính phủ điện tử có nhiều cơ hội tham gia

giao dịch trên mạng, giảm chi phí và những phiền phức khi phải làm việc với

Chính phủ, từ đó đẩy nhanh năng suất, nâng cao lợi nhuận.

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.

2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ điện tử

2.1. Những thách thức về kỹ thuật

Vấn đề bảo mật luôn là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử ở các nước. Do vậy, để đảm bảo được tính an toàn và bảo

mật những thông tin liên quan đến công dân và doanh nghiệp, một Chính phủ

điện tử hiệu quả cần phải có 2 thành phần công nghệ quan trọng

sau:

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 61

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

- Một mạng lưới an toàn: công nghệ này bảo vệ mạng lưới khỏi bị nghe

trộm và sửa đổi thông tin được truyền tải. Mặc dù hiện nay ở các nước đã có

một số công nghệ bảo mật như SSL/V3 và S/MIME, nhưng chúng ta vẫn cần

phát triển thêm nhiều công nghệ hơn nữa để đảm bảo sự an toàn ngày càng cao

cho người sử dụng.

- Sự thẩm định điện tử: Để xây dựng Chính phủ điện tử thành công, trước

tiên phải có một hệ thống thẩm định điện tử đáng tin cậy cho cả các cá nhân,

doanh nghiệp và cả các viên chức Chính phủ, những người phải xử lý các mẫu

đơn và quyết định nội dung của các mẫu đơn đó.

2.2. Khung pháp lý và chính sách công cộng

Việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông có thể gặp phải những

trở ngại về vấn đề pháp luật và chính sách. Luật pháp và chính sách phải đảm

bảo cho việc thực hiện các giao dịch và các tài liệu điện tử diễn ra dễ dàng. Do

đó các nhà hoạch định chính sách phải xem xét ảnh hưởng của luật pháp và

chính sách tới quá trình phát triển Chính phủ điện tử.

2.3. Khoảng cách số

"Khoảng cách số" vẫn là vấn đề nhức nhối của tất cả các Chính phủ

trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, kể cả các nước phát triển lẫn các

nước đang phát triển. Ví dụ như ở Mỹ, chính Bộ Thương Mại Mỹ đã báo động

về một khảng cách số khá sâu rộng trong xã hội. Số người Mỹ da trắng có khả

năng sắm máy vi tính nhiều gấp hai lần (40,8%) so với người Mỹ gốc Phi

(19,3%) hay Tây Ban Nha (19,4%). Riêng số người Mỹ da trắng ngồi nhà truy

cập Internet vẫn nhiều hơn so với tất cả những người Mỹ da màu vào Internet

từ bất cứ nơi đâu. Số người có trình độ cao đẳng trở lên và có khả năng sắm

máy vi tính hiện nhiều hơn gấp mười lần (63,2%) so với những người chưa có

ngày nào bước vào ngưỡng cửa bậc

trung học (6.8%) … (Nguồn: Tạp chí PCWorld Vietnam, số tháng 9/2001)

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 62

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Xoá bỏ "khoảng cách số" không phải là chuyện một sớm một chiều, mà

cần phải có sự nỗ lực hết sức của Chính phủ trong một khoảng thời gian rất

dài. Đây là thách thức không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai, vì nếu không

xoá bỏ "khoảng cách số" này thì không thể nào xây dựng được một Chính phủ

điện tử hoàn chỉnh.

2.4. Ngân sách cho việc triển khai Chính phủ điện tử

Đây là vấn đề hết sức quan trọng để hỗ trợ cho việc triển khai Chính phủ

điện tử được suôn sẻ. Đối với một nước có nguồn ngân sách hạn chế, chính phủ

nên tìm kiếm các nguồn đầu tư hay có thể duy trì các chương trình tiết kiệm

để tránh lãng phí. Các nhà hoạch định chính sách cần đặt ra các mục tiêu cụ thể

và hợp lý dựa vào các nguồn lực sẵn có.

2.5. Các cản trở khác đối với Chính phủ điện tử

Theo cựu Phó Tổng Thống Mỹ Al Gore, có 4 cản trở lớn của Chính phủ

điện tử: văn hóa quản lý; ý muốn duy trì quyền lực; tệ tham nhũng; và trình độ

công chức. Đây là những khó khăn nội tại của Chính phủ. Do vậy muốn xây

dựng thành công Chính phủ điện tử, Chính phủ các nước phải

giải quyết được những khó khăn này.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 63

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

CHƯƠNG III

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ

ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

Chính phủ điện tử là một thuật ngữ còn khá mới mẻ với Việt nam. Gần

đây chúng ta bắt đầu nghe nói nhiều tới Chính phủ điện tử, nhưng hầu như chỉ

có một số các viên chức Chính phủ là có thể biết tới khái niệm Chính phủ

điện tử. Vậy vấn đề ở đây là liệu Việt nam đã có Chính phủ điện tử hay

chưa? Để trả lời được câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy xem xét một số tiền

đề phục vụ việc phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam sau:

1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông

1.1 Hạ tầng Internet và viễn thông

♣ Thực trạng dịch vụ Internet và viễn thông ở Việt Nam

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 64

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Bộ Bưu chính viễn thông đã thực thi các chính sách ủng hộ môi trường

cạnh tranh, tạo ra các điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế tham gia vào dịch

vụ Internet và viễn thông. Kết quả là trên thị trường có rất nhiều nhà cung

cấp được cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông (hiện tại có 6 doanh nghiệp

được phép cung cấp cơ sở hạ tầng mạng). Chỉ trong dịch vụ Internet, đến cuối

năm 2002 đã có 3 IXP, 13 ISP và 4 ISP (nhà cung cấp dịch vụ internet) dùng

riêng được cấp phép cung cấp các dịch vụ Internet và các ứng dụng (so với cuối

năm 2000 chỉ có 1 IXP và 5 ISP).

Các ISP chủ yếu tập trung khai thác thị trường tại các thành phố lớn.

Trong số 13 ISP vào thời điểm này, chỉ có VDC là có khả năng cung cấp dịch

vụ trên toàn quốc, các ISP như FPT, NETNAM, SPT chỉ tập trung vào phát

triển dịch vụ tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà

Nẵng. 9 ISP còn lại, mặc dù đã được cấp phép nhưng vẫn chưa thực sự cung

cấp dịch vụ.

VDC hiện tại đang chịu trách nhiệm về mạng xương sống của Việt Nam

và các cổng đi quốc tế. Các ISP như FPT, NETNAM chỉ cung cấp dịch vụ ở

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phí truy nhập Internet của 2

ISP này được tính theo giá trong nước. SPT và VIETEL do mới được cấp phép

cung cấp dịch vụ nên thị phần còn thấp. VDC và FPT cũng là hai ISP lớn nhất

Việt Nam, chiếm khoảng 87% thị trường Internet Việt Nam trong đó VDC

chiếm khoảng 57% và FPT chiếm khoảng 30%.

Với nhiều phương thức truyền tin khác nhau, dịch vụ điện thoại đã được

đưa đến tất cả các quận huyện và 93,04% các xã phường trên toàn quốc (năm

2000 tỷ lệ này là 85,8%). Hiện nay, 8.356/8.981 phường xã trên toàn quốc đã có

điện thoại, đạt tỷ lệ 93,04%; ở các xã đặc biệt khó khăn là

1.728/2362, đạt tỷ lệ 73,16%; 100% các xã ở đảo có điện thoại; 319 trong tổng

số 401 xã vùng biên đã có điện thoại, đạt tỷ lệ 79,55%… Tổng số

điện thoại cố định ở khu vực nông thôn là khoảng 1,8 triệu.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 65

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Hiện tại, ở hơn 60 tỉnh thành trên cả nước, những người sử dụng điện

thoại cố định có thể truy cập gián tiếp Internet theo nhiều cách khác nhau như

Internet trả trước, Internet trả sau, VNN1268, VNN1269,… và với dịch vụ

VNN999, người sử dụng còn có thể truy nhập Internet qua điện thoại di động.

Đến hết tháng 6/2003, Việt Nam có trên 460.000 thuê bao Internet, tỷ lệ

người sử dụng Internet đạt 2,38%. Mặc dù tỷ lệ này vẫn chưa đạt trung bình

thế giới nhưng, với kết quả này, Việt Nam đã được đánh giá là có tốc độ phát

triển viễn thông nhanh thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc.

Bảng: Các chỉ số công nghệ thông tin truyền thông

Các chỉ số công nghệ thông tin Việt nam EAP Toàn cầu truyền thông được lựa chọn

GNP đầu người (PPP value) 2.010USD 4.130USD 6.870USD

Điện thoại cố định cho 1.000 người 109 158 50

Điện thoại di động cho 1.000 người 70 86 19

Đài cho 1.000 người 302 420 107

11 PC cho 1.000 người 21,7 28,4

Sự truy cập Internet (% dân số) 0.22% 1,5% 8%

Số người dùng Internet (nghìn 172 51.943 562.371

người)

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 66

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Nguồn: Số liệu của Hiệp hội Viễn thông quốc tế 2000 và số liệu của

Tổng cục bưu điện Việt nam 2002

EAP: Khu vực Đông Á - Thái Bình Dương

♣ Việc giảm phí Internet và viễn thông

Từ năm 2001, Tổng cục Bưu chính viễn thông đã thực thi hàng loạt

chính sách nhằm từng bước giảm phí Internet và viễn thông. Trong suốt 2 năm

2001-2002, Tổng cục đã ban hành hai quyết định về phí lắp đặt và thuê bao

đường dây Internet trực tiếp, áp dụng cho các khu công nghiệp phần mềm tập

trung. Từ 1/1/2002, các loại phí kết nối Internet trực tiếp đối với các khu công

nghiệp phần mềm tập trung đã giảm đáng kể so với trước. Tính trung bình,

phí thuê đường dây giảm 30%, phí lắp đặt giảm

50% và phí thuê bao cổng Internet trực tiếp giảm 39%. Có thể nói rằng đây là

một nỗ lực quan trọng của ngành Bưu chính trong việc thúc đẩy sự phát triển

của công nghiệp phần mềm nói riêng và công nghệ thông tin Việt Nam nói

chung.

Với mục tiêu phổ cập hoá Internet, các chính sách thúc đẩy cạnh tranh

cũng như các chính sách thích đáng về cước phí dịch vụ Internet đã được thực

hiện. Trong hai năm 2001-2002, phí truy nhập Internet gián tiếp qua điện thoại

đã giảm khoảng 14%. Chính sách nhiều giá đã được thực thi, tạo điều kiện

thuận lợi cho các nhà cung cấp có thể chủ động trong việc mở rộng các dịch vụ

Internet. Mức cước đầu năm 2003 dao động từ mức thấp nhất là 40 VND/phút

đến mức cao nhất là 180 VND/ phút.

Thêm vào đó, trong hai năm liên tục 2001-2002, Tổng cục Bưu chính

viễn thông đã xây dựng lịch trình giảm giá và ban hành các quyết định về

giảm cước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông khác như phí thuê kênh

trong nước và quốc tế, phí dịch vụ Frame Relay và X25 cùng với cước dịch

vụ điện thoại quốc tế tiếp tục được cắt giảm.

Ngày 25/3/2003, Bộ Bưu chính viễn thông đã công bố mức giảm

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 67

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

cước từ 10% đến 40% đối với 12 loại hình dịch vụ Internet và viễn thông. Các

mức cước mới này có hiệu lực từ 1/4/2003. Theo đó, cước viễn thông quốc tế

trực tiếp (IDD - International Direct Dial) giảm khoảng 32% và được chia theo

3 mức: mức 1 là 0,9 USD/phút, mức 2 là 1 USD/phút và mức 3 là 1,1

USD/phút. Trước đó cước được chia theo 4 mức tương ứng là

1,3 USD/phút, 1,4 USD/phút, 1,5 USD/phút và 1,7 USD/phút. Do vậy, việc

giảm và điều chỉnh cước viễn thông trực tiếp quốc tế IDD từ 4 mức xuống còn

3 mức giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí bằng cách chuyển từ mức

cước cao xuống mức cước thấp.

Cước thuê bao di động trả sau cũng giảm từ 150.000 VND xuống

120.000, cước cho mỗi phút đàm thoại cũng được chia làm hai mức: nội hạt là

1.800 VND/phút, liên tỉnh là 2.700 VND/phút. Cước di động trả trước trong

nội hạt cũng giảm từ 3.500 VND/phút xuống 3.300 VND/phút, cước liên tỉnh

giảm từ 5.000-6.500 VND/phút xuống 4.200 VND/phút. Cước thuê bao di

động theo ngày cũng giảm từ 3000 xuống còn 2.700

VND/ngày, cước gọi nội hạt không đổi trong khi cước liên tỉnh giảm còn

3.100 VND/phút.

Cước điện thoại trong nước cho truy cập Internet giảm từ 120

VND/phút xuống còn 40 VND/phút. Đối với dịch vụ thuê kênh viễn thông quốc

tế, mức phí giảm tới 40%. Với các dịch vụ này, Bộ Bưu chính viễn thông đã

đưa ra các mức giá trần và giá sàn để tạo quyền quyết định mức giá cạnh tranh

cho các doanh nghiệp. Mức phí dịch vụ kênh viễn thông quốc tế áp dụng cho

các IXP để kết nối Internet quốc tế giảm từ 20% đến

30%.

3.2 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam

Tổng doanh thu của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam năm

1997 là 150 triệu USD, năm 1998 là 180 triệu, năm 1999 là 195 triệu, năm

2000 là 235 triệu và năm 2001 là 300 triệu. Trong đó, phần cứng chiếm tới

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 68

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

80%, phần mềm 8% và dịch vụ 12%. Năm 2002, tổng doanh thu đạt 340 triệu

USD trong đó doanh thu phần cứng đạt 280 triệu, phần mềm và dịch vụ 60

triệu.

Sự tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam

ThÞ tr−êng CNTT (triÖu USD)

340 400 300

300 200 220 180 150 200

100

0 1997 1998 1999 2000 2001 2002

(Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May

2003)

Thị trường công nghệ thông tin thế giới phát triển chậm, trung bình

khoảng 2,5%/năm, tối đa là 6% trong khi thị trường công nghệ thông tin Việt

Nam sẽ tiếp tục duy trì tốc độ 20-25%. Trong nửa đầu năm 2003, thị trường

phần cứng, Internet và viễn thông phát triển sôi động nhất. Trong quý I, kim

ngạch nhập khẩu thiết bị tin học của Việt Nam đạt 105 triệu USD, tăng 78%

so với cùng kỳ năm trước. (Theo Tuần tin Công nghiệp - Thương mại Việt

Nam, số 34/2003)

2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử

Để triển khai Chính phủ điện tử, việc cần thiết nhất là phải có một

nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây được hiểu là đội ngũ cán bộ

làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin viễn thông, đội ngũ cán bộ quản lý

có nhận thức đầy đủ về công nghệ thông tin cũng như Chính phủ điện tử.

Nguồn nhân lực mạnh mẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự

thành công của chiến lược xây dựng Chính phủ điện tử.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 69

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Đầu tiên là nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn

thông. Cho tới năm 1980, lực lượng làm công nghệ thông tin (CNTT) ở nước ta

chủ yếu là các cán bộ thuộc các ngành toán, lý chuyển sang. Hiện nay trên

phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang hoạt động trong

lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về phần mềm tin

học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt động

trong lĩnh vực CNTT.

Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho

tới nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh

viên đều được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành

phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu

tư cho các khoa CNTT với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi

năm. Cho tới nay, trung bình mỗi năm có khoảng

3.500 người được đào tạo cơ bản về tin học. Tuy nhiên, nếu tính bình quân đầu

người so với Singapore thì nước ta còn kém khoảng 50 lần. Hiện nay, chúng ta

vẫn đang thiếu nhân lực về CNTT, số sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ

đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và doanh nghiệp. (Nguồn: Thương mại điện tử

- Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003)

Còn về đội ngũ cán bộ quản lý các dự án tin học hoá quản lý hành

chính nhà nước, mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tin học hoá

này nhưng đa số các cán bộ không có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó. Một

dự án tốt mà những nhà lãnh đạo chủ chốt lại không có nhận thức đầy đủ về bản

chất của vấn đề thì không bao giờ có thể thành công được.

3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử

của Chính phủ

Có thể nói nhận thức của người dân Việt nam về Chính phủ điện tử điện

tử rất kém. Hầu như mọi người đều không biết Chính phủ điện tử là

gì, kể cả những sinh viên đại học chuyên ngành công nghệ thông tin hay

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 70

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

kinh tế, chứ không nói gì đến những người dân bình thường, kể cả người dân ở

các thành phố lớn đến những người dân ở nông thôn. Từ tình trạng sử dụng

dịch vụ Internet ta có thể thấy, mặc dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet đã

tăng lên, nhưng vẫn còn rất thấp so với các nước khác. Do vậy khả năng tiếp

cận các dịch vụ công của Chính phủ là rất thấp. Đối tượng sử dụng chủ yếu là

các doanh nghiệp, nhưng vẫn không phải tất cả các doanh nghiệp Việt nam đều

sử dụng được các loại dịch vụ của Chính phủ điện tử. Còn người dân thì chỉ có

một số ít sử dụng, đó là những người đã quen thuộc với Internet. Như vậy,

muốn tăng khả năng sử dụng các dịch vụ công của Chính phủ điện tử, điều cần

thiết trước mắt là phải nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của việc ứng

dụng công nghệ thông tin trong đời sống.

Hiện nay nhiều nhà lãnh đạo chưa thấy hết được giá trị của công nghệ

thông tin trong công tác quản lý. Nhận thức của đại bộ phận cán bộ công chức

còn kém, chưa thấy sức mạnh và chưa biết khai thác công nghệ thông tin.

4. Cơ sở pháp lý

Các quyết định của Thủ Tướng Chính phủ số 280/QĐ-TTg ngày

29/4/1997 về việc xây dựng mạng tin học diện rộng trong các văn phòng

UBND và các bộ, ngành; Quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 5/3/1997 về việc

thành lập ban điều phối quốc gia mạng Internet…, là những cơ sở pháp lý ban

đầu cho việc phát triển hạ tầng cơ sở thông tin ở Việt Nam và tạo điều kiện cho

thương mại điện tử, Chính phủ điện tử bước đầu phát triển tại Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên

vật mang tin như đĩa từ, băng từ hay các loại thẻ thanh toán để làm chứng từ

thanh toán và để thanh toán tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng

(theo quyết định số 196/QĐ-TTg ngày 1/4/1997 của TTCP).

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 71

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ Việt nam cũng cần tạo ra một khung pháp lý cho sự ra đời

của thương mại điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Chính phủ điện

tử. Chính vì vậy, căn cứ Nghị quyết số 12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng

Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ năm 2002-2007 và Chỉ thị của Thủ

tướng Chính phủ về việc giao Bộ Thương mại làm đầu mối xây dựng Pháp lệnh

Thương mại điện tử, tháng 3/2002 Bộ Thương mại đã ra quyết định thành lập

Ban soạn thảo Dự án Pháp lệnh Thương mại điện tử, từ đó từng bước hoàn

chỉnh để trình quốc hội phê duyệt văn bản pháp lý quan trọng này. Cho tới

nay, dự thảo lần thứ 6 của Pháp lệnh Thương mại điện tử đã được hoàn thành

và được Bộ Thương mại trình lên Chính phủ. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ chính

thức phê duyệt và ban hành Pháp lệnh này vào quý I năm 2004.

Cho đến nay, Chính phủ Việt nam đã soạn thảo hai đề án tin học hoá quản

lý hành chính nhà nước nhằm tạo tiền đề cho sự ra đời của Chính phủ điện tử.

Đầu tiên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 49/CP về ứng dụng công nghệ

thông tin ở Việt nam giai đoạn 1996 - 2000, trong đó đề án tin học hóa quản

lý hành chính nhà nước là một phần quan trọng trong Chương trình quốc

gia về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, đề án này không được thực hiện một cách

suôn sẻ, hay nói đúng hơn là "đang khởi động thì ngừng lại". Chương trình quốc

gia về công nghệ thông tin chỉ tồn tại có hai năm rưỡi, thời gian còn lại chỉ để

sắp xếp về tổ chức và triển khai thử nghiệm một số dự án để rút kinh nghiệm.

Vào ngày 25/7/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 112/QĐ-

TTg phê duyệt đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -

2005.

5. Vấn đề bảo mật thông tin

Hiện nay, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho thông tin điện tử ở Việt

Nam được thực hiện như sau:

- Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các cơ quan của

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 72

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao…), từ lâu nhà nước đã có các

quy định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phù hợp để đảm bảo an ninh, an

toàn cho loại thông tin này. Ngành cơ yếu Việt Nam đứng đầu là Ban cơ yếu

Chính phủ là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo mật, bảo đảm an toàn

cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.

- Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực kinh tế xã hội, việc bảo đảm

an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi Việt Nam chính thức tham gia mạng Internet,

nhà nước đã thành lập một cơ quan liên ngành Bưu chính viễn thông và Công

an để quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số văn bản quy định về

vấn đề này.

6. Hệ thống thanh toán điện tử

Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang nỗ lực triển khai các dịch

vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm

tự động hoá việc xử lý giao dịch, đa dạng hoá sản phẩm. Hiện nay, Ngân hàng

Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã có hệ thống thanh

toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội

bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của

Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh

toán SWIFT. Cụ thể là, ngân hàng Ngoại Thương đã có hệ thống bán lẻ

SilverLake, hệ thống quản lý thẻ ATM và tham gia mạng SWIFT; ngân hàng

Đầu tư & Phát triển Việt Nam có hệ thống thanh toán tập trung BCS, hệ thống

giao dịch trên mạng IBS và dịch vụ Home Banking; ngân hàng Công Thương

Việt Nam đã có trương trình thanh toán điện tử trực tuyến triển khai tại toàn

bộ 98 chi nhánh trên cả nước, đồng thời ngân hàng cũng sẵn sàng thanh toán các

loại thẻ tín dụng của hai tổ chức là Visa và Master.

Đáng chú ý hơn cả là Ngân hàng Á châu ACB đã triển khai hệ thống

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 73

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

quản trị ngân hàng bán lẻ mới TCBS trong trong toàn hệ thống, làm nền tảng

cho việc phát triển ngân hàng điện tử Á châu (ACB E.Banking). Sau ba năm

chuẩn bị, sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử đã chính thức hoạt động vào đầu

năm 2003 với tổ hợp các kênh phân phối bằng điện tử với những sản phẩm

dịch vụ ngân hàng của ACB dành cho khách hàng như Banking, Home

Banking, Phone Banking, Mobile Banking, thẻ thanh toán. Đặc biệt dịch vụ

Home Banking giúp khách hàng trên mạng kết nối tại văn phòng, tại nhà riêng.

ACB E.Banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến khách

hàng thông qua điện thoại cố định, điện thoại di dộng, máy tính, POS,

Internet, Intranet, Wap… dịch vụ có thể thực hiện

24/24 giờ và 7 ngày trong tuần. Hiện nay ACB đang cung cấp dịch vụ

E.Banking hoàn toàn miễn phí. Đặc biệt, dịch vụ Home Banking do ACB cung

cấp được bảo đảm an toàn nhờ hệ thống mã khoá bảo mật chữ ký điện tử của

khách hàng (CA) do đơn vị thứ ba cung cấp (VASC). Công nghệ CA được

các tổ chức tài chính quốc tế như Swift, Visa, Master… công nhận và sử dụng

trong việc thanh toán điện tử. Các khách hàng sẽ được sử dụng tám dịch vụ

chính như: Kiểm tra số dư tài khoản; Mua sắm hàng hoá không dùng tiền mặt

(bằng dịch vụ Mobile Banking và thẻ ACB); Chuyển tiền giữa các tài khoản

với nhau; Yêu cầu báo cáo về tình hình giao dịch tài khoản; Thanh toán các

loại hoá đơn; Rút tiền từ tài khoản khi đang ở nước ngoài; Kiểm tra tỷ giá hối

đoái, giá chứng khoán và hỏi thông tin về các tài khoản và dịch vụ ngân hàng.

Trước mắt việc áp dụng thanh toán dịch vụ Home Banking chỉ được áp dụng

cho loại tiền đồng Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy rằng chúng ta đã có một số cơ sở ban đầu phục vụ

cho việc thanh toán điện tử thông qua các ngân hàng của Việt Nam. Tuy nhiên,

việc thanh toán điện tử vẫn còn tương đối mới mẻ đối với các doanh nghiệp, đa

số các doanh nghiệp vẫn chưa thể cho phép khách hàng

thanh toán trực tuyến tại website của mình thông qua các dịch vụ của ngân

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 74

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

hàng.

II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở

VIỆT NAM

1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước

1.1. Chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai

đoạn 1996 - 2000

1.1.1. Một số thành quả của chương trình

Dự án ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành chính 1996

- 1998, với tên gọi chính thức là Dự án tin học hoá quản lý nhà nước, là một

bộ phận quan trọng của Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin giai đoạn

1996 - 2000. Trong ba năm 1996-1998, Nhà nước đã đầu tư cho chương trình

280 tỷ với 4 nội dung lớn là đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin;

xây dựng cơ sở hạ tầng các mạng truyền thông máy tính; ứng dụng công nghệ

thông tin trong quản lý nhà nước và các hoạt động kinh tế-xã hội khác; phát

triển công nghiệp công nghệ thông tin, trong đó riêng dự án tin học hoá quản

lý nhà nước được đầu tư hơn 150 tỷ đồng. Trong chưa đầy 4 năm hoạt động

(1996 - 1999), chương trình đã đạt được kết quả đáng khích lệ cho sự phát triển

công nghệ thông tin ở nước ta như Internet, 7 khoa công nghệ thông tin tại 7

trường đại học trọng điểm, Saigon Software Park ở Thành phố Hồ Chí

Minh,… (Nguồn: PCWORLD B Việt Nam số 01/2002)

Tin học hoá quản lý nhà nước là một phần trong nội dung quan trọng

về ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy vậy, vào giai đoạn triển khai chương

trình, hầu hết chúng ta chưa biết tới khái niệm Chính phủ điện tử, càng chưa

nhận thức được rằng Chính phủ điện tử gồm hai mảng lớn là tin học hoá hoạt

động hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước (G2G) và

tin học hoá các dịch vụ công (G2B, G2C). Ta đã đầu tư hơn 50% tổng kinh

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 75

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

phí của chương tình cho mảng G2G ở các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố.

Không phải bộ, ngành, tỉnh, thành phố nào cũng sử dụng có hiệu quả vốn đầu

tư ban đầu tuy ít ỏi nhưng hết sức quan trọng này, nhưng rõ ràng đó là bước

khởi đầu quan trọng để hình thành mạng diện rộng của Chính phủ sau này.

1.1.2. Hạn chế của chương trình tin học hoá quản lý nhà nước giai

đoạn 1996 - 2000

* Hạn chế:

Về điều hành vi mô: Nhiều hạng mục lớn đã được Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt trong kế hoạch tổng thể chưa triển khai được. Các dự án tin học hoá

quản lý hành chính nhà nước của các bộ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng mới

chỉ thực hiện được một phần. Vốn đầu tư cho tin học hoá

160 tỷ đồng trong ba năm 1996- 1998 mới chỉ đáp ứng 20%- 25% nhu cầu kinh

phí của các đề án đã được duyệt của 100 cơ quan hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.

Theo điều tra của văn phòng Chính phủ, đa số các đề án tin học hoá bị

ngừng lại. Một số cơ quan có khả năng tiếp tục đầu tư cho các chỉ tiêu tin học

hoá quản lý nhà nước, nhưng phát triển theo hướng công nghệ riêng; một số

cơ quan khác thì chờ chủ trương phát triển thống nhất chung của Chính phủ.

Các cơ sở dữ liệu quốc gia mới chỉ được đáp ứng khoảng

10% nhu cầu vốn đầu tư (30 tỷ đồng). Do vậy, các cơ sở dữ liệu quốc gia chỉ

dừng lại ở giai đoạn hoàn thành luận chứng khả thi và triển khai thử nghiệm,

đang chờ vốn để tiếp tục đề án. Thêm vào đó, nhiều bộ, ngành coi thông tin quản

lý của mình là thông tin riêng của ngành, không coi đó là tài sản quốc gia hoặc

cung cấp dữ liệu tổng hợp không đầy đủ để các cơ quan khác có đủ thông tin

phục vụ cho việc hoạch định chính sách và ra quyết

định.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 76

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Dữ liệu trên mạng tin học: Thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động

quản lý hành chính có nhiều nhưng việc tích luỹ thông tin dưới dạng điện tử chỉ

mới dừng ở mức độ thấp, đến nay mới tích luỹ trên mạng ở một số loại thông tin

cơ bản.

Về tổ chức bộ máy: Cho đến nay vẫn chưa có quy định chung về vị trí,

chức năng, nhiệm vụ đối với các đơn vị chủ trì các đề án tin học hoá quản lý

hành chính nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước, thậm chí không có

ngạch công chức, không có chức danh cho cán bộ làm công tác tin học. Vì lý

do này nên các cơ quan hành chính nhà nước đã không thu hút được chuyên

gia kỹ thuật giỏi, dẫn đến việc tiếp thu chuyển giao công nghệ, chỉ đạo triển

khai các dự án ứng dụng bị hạn chế rất nhiều.

Về cơ chế tài chính: từ năm 1998, kinh phí dành cho tin học hoá quản lý

hành chính nhà nước chuyển sang nguồn ngân sách chi thường xuyên, do vậy

các bộ, ngành, địa phương không đủ kinh phí đầu tư để hoàn thành các đề án tin

học hoá, không thể tiếp tục triển khai các ứng dụng cơ bản trong quản lý, điều

hành. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tin học của nhiều cơ quan hành chính nhà nước,

về cơ bản, đến nay vẫn như tình trạng năm

1998.

Bảng: Đánh giá hiệu quả đầu tư và nhu cầu tiếp tục triển khai tin học

hoá quản lý

Hiệu quả so với mức Ý kiến của các bộ, Ý kiến của các tỉnh

ngành (%) đầu tư (%)

Rất hiệu quả 1,75 35,7

Hiệu quả vừa phải 87,7 59,5

Không hiệu quả 7 0

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 77

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Không có ý kiến 4,7 3,5

(Theo số liệu điều tra của Văn phòng ban chỉ đạo chương trình quốc gia

về công nghệ thông tin năm 1998 tại 57.61 tỉnh và 42/51 bộ, ngành, đoàn thể.

Nguồn: Kho dữ liệu Internet Net - Văn phòng Chính phủ)

*Nguyên nhân:

Đến đây xuất hiện một câu hỏi là nguyên nhân nào khiến cho các dự án

ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước không thành

công như mong đợi?

Nguyên nhân đầu tiên và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là nhận

thức chưa đúng của các cấp lãnh đạo về vao trò của công nghệ thông tin trong

việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

Tuy vẫn nói rằng công nghệ thông tin là quan trọng nhưng phần lớn lãnh

đạo các tổ chức đều không dành đủ thời gian, không dành đủ tiền bạc cho công

nghệ thông tin, không trực tiếp chỉ đạo hay tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách

công nghệ thông tin tại các đơn vị hầu như chẳng được trao quyền hạn gì đáng

kể. Họ không được tham gia vào định hướng chiến lược ứng dụng công nghệ

thông tin, không được tham gia vào quá trình tái cơ cấu các quy trình nghiệp

vụ. Do vậy việc các lãnh đạo không có nhận thức đúng mức về tầm quan trọng

của công nghệ thông tin đã ảnh hưởng xấu tới sự thành công của dự án.

Nhận thức đúng mức vai trò của công nghệ thông tin không phải là việc

dễ dàng và tự nhiên. Không phải vô cớ mà Chính phủ Pháp phải đầu tư 500

triệu FRF cho chương trình nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và dân

chúng về vai trò của công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng. Nếu

không có biện pháp nâng cao nhận thức này của các cấp lãnh đạo, không thể nói

đến hiệu quả của các dự án ứng dụng công

nghệ thông tin.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 78

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Nguyên nhân thứ hai: Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa

tốt.

Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt thể hiện ở trình độ

quản lý của lãnh đạo các cấp không cao. Do trình độ hạn chế, nhiều cán bộ lãnh

đạo ngại ứng dụng công nghệ thông tin, ngại học tin học vì sợ lộ ra những khiếm

khuyết về trình độ. Mặt khác, "tập quán" lãnh đạo theo kinh nghiệm tại nhiều

đơn vị đang làm giảm vai trò của công nghệ thông tin. Nếu lãnh đạo không sử

dụng thông tin để ra quyết định thì ý nghĩa của hệ thống thông tin không còn

nữa. Lãnh đạo không sử dụng thông tin thì cấp dưới cũng không cần thông tin,

cuối cũng dẫn đến tình trạng không có nhu cầu về thông tin trong toàn bộ hệ

thống.

Môi trường ứng dụng công nghệ thông tin chưa tốt còn thể hiện ở các

quy trình nghiệp vụ lạc hậu hoặc không ổn định. Chúng ta đều biết không thể

ứng dụng công nghệ thông tin cho một quy trình nghiệp vụ không ổn định.

Ngoài ra, nếu ứng dụng công nghệ thông tin cho các quy trình cũ lạc hậu thì sự

cải thiện sẽ là không đáng kể (về hiệu quả đầu tư có thể cho kết quả âm).

Nguyên nhân thứ ba: Các tổ chức, và kể cả các doanh nghiệp Việt nam,

chưa cảm thấy nguy cơ mất năng lực cạnh tranh khi Việt nam tham gia vào

các khối kinh tế thương mại khu vực và thế giới.

Tâm lý chung của rất nhiều lãnh đạo các cơ quan hiện nay là có ứng dụng

công nghệ thông tin cũng tốt, còn chưa ứng dụng cũng chẳng sao. Không có gì

bức bách cả. Thế nhưng thực tế ngày nay cho thấy không chỉ các doanh nghiệp

phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, mà ngay cả các Chính phủ cũng phải

đối mặt với thử thách tương tự. Chính vì thế Chính phủ điện tử còn được gọi

là Chính phủ cạnh tranh. Những quốc gia có Chính phủ điện tử hoàn hảo có

cơ hội thu hút đầu tư tốt hơn những quốc

gia quản lý giao dịch quan liêu trì trệ. Trong nội bộ một nước, những tỉnh,

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 79

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

thành phố có nền hành chính điện tử tốt cũng có cơ hội thu hút đầu tư tốt hơn

những "tỉnh quan liêu giấy tờ". Ứng dụng công nghệ thông tin là biện pháp tốt

nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của tất cả các cơ quan nhà nước cũng

như các doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.

Nguyên nhân thứ tư: Các đề cương dự án công nghệ thông tin chất

lượng kém nhưng vẫn được triển khai.

Rất ít dự án ứng dụng công nghệ thông tin bắt đầu bằng những đánh giá

chính xác nhu cầu thực tế. Thiếu việc xác định và đánh giá nhu cầu một cách

nghiêm túc sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhu cầu không quan trọng và tốn kém

lại được đáp ứng trước cả những nhu cầu cấp thiết, thậm chí các nhu cầu cấp

thiết này còn bị bỏ qua. Hầu hết các dự án công nghệ thông tin được bắt đầu vì

có ngân sách. Hầu hết các dự án có mục tiêu chung chung, các sản phẩm của dự

án không được mô tả đầy đủ. Mà mục tiêu đầu ta không rõ ràng thì hiệu quả

đầu tư xấu là điều không tránh khỏi.

Đa số các dự án có phạm vi không xác định, rất khó nghiệm thu nên

thường là trễ hạn, do vậy dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Rất ít dự án có hệ

thống chỉ tiêu đánh giá định lượng. Chính vì vậy khi dự án kết thúc không thể

đo được xem dự án thực hiện đến đâu, có hiệu quả không và nếu có thì hiệu quả

là bao nhiêu. Thêm vào đó, phần lớn các dự án đều thiếu sự kiểm soát nghiêm

ngặt theo lộ trình. Nhiều dự án chỉ được kiểm tra lúc hình thành và khi nghiệm

thu tổng thể, nên những sai sót xảy ra trong quá trình thực hiện dự án không

được phát hiện kịp thời. Do sai sót tích tụ qua nhiều giai đoạn nên khi chúng

được phát hiện thì phần nhiều đã "vô phương cứu chữa".

Hầu hết các dự án đánh đồng các nguồn lực kinh phí, tức là thay vì phải

yêu cầu đầy đủ nguồn lực cần thiết để đảm bảo thực hiện thành công dự án, thì

hầu hết các bản đề cương chỉ đưa ra một dự toán kinh phí hết sức

chủ quan và sơ sài. Trong đề cương của một dự án, nội dung "các nguồn

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 80

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

lực đảm bảo cho dự án" phải là một chương riêng nói rõ trách nhiệm của nhà

đầu tư dự án.

Nguyên nhân cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng khiến cho

các dự án kém chất lượng nhưng vẫn được thông qua là do một hội đồng

thẩm tra dự án yếu kém. Nhiều thành viên trong hội đồng là người có chức vụ và

học vị cao nhưng không có thời gian, ngay cả thời gian đi họp, không có tâm

huyết và thậm chí không có kinh nghiệm, không đúng chuyên môn. Sự tham

gia của họ vì thế nhiều khi lại cản trở chứ không phải là thúc đẩy quá trình

thực hiện dự án.

Nguyên nhân thứ năm: Thiếu cán bộ có đủ trình độ.

Để triển khai công nghệ thông tin trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần sự

tích hợp hai mảng: kiến thức công nghệ thông tin và kiến thức chuyên ngành

của lĩnh vực đó. Nhiều dự án ứng dụng công nghệ thông tin không thành công

là do thiếu cán bộ trầm trọng: thiếu cán bộ hiểu biết nghiệp vụ có kiến thức tin

học, thiếu cán bộ có kinh nghiệm triển khai dự án, thiếu cán bộ có kinh

nghiệm quản lý dự án….Ngoài ra trình độ của người sử dụng khai thác các

ứng dụng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của

các dự án ứng dụng công nghệ thông tin. Cộng thêm công tác đào tạo, huấn

luyện và bồi dưỡng việc ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin tiến hành còn

chậm, chưa đồng bộ với việc xây dựng và triển khai các hệ thống công nghệ

thông tin. Vì vậy đã dẫn đến hiện tượng hệ thống thông tin đã được lắp đặt

nhưng chưa được sử dụng ngay gây lãng phí trong việc đầu tư. Thêm vào đó,

có đôi chỗ việc đầu tư các trang thiết bị phần cứng, phần mềm và nối mạng vượt

quá năng lực của người sử dụng.

Ngoài năm nguyên nhân cơ bản trên còn một số nguyên nhân khác, mặc

dù ít quan trọng hơn, nhưng cũng ảnh hưởng ít nhiều tới kết quả của

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 81

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 1996 -

2000. Đó là những nguyên nhân sau:

Nhận thức của các nhà đầu tư còn phiến diện, coi trọng phần cứng, coi

nhẹ phần mềm, chưa chú trọng đúng mức đến việc xây dựng các hệ thống

thông tin thực sự cấp bách cho công tác nghiệp vụ, quản lý và điều hành.

Do đó có tình trạng một số mạng xây dựng xong mà thông tin thiếu rất

nhiều, chẳng khác nào làm đường giao thông xong mà không có xe

chạy.

Đa số chưa coi trọng công tác tổ chức thực hiện.

Chưa gắn kết chặt chẽ giữa công tác cải cách hành chính nhà nước với

công tác tin học hoá. Cải cách hành chính chưa dựa vào tin học hoá, nên

thiếu một động lực mạnh mẽ và công cụ hữu hiệu để cải cách. Mặt

khác, quy trình công tác quản lý, lề lối làm việc vẫn lạc hậu, tư duy

không đổi mới thì tin học cũng không thể áp dụng một cách có hiệu quả

được.

Rất ít lãnh đạo coi trọng việc cấu trúc lại các quy trình cũ để nâng cao

hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin.

Không đánh giá đúng tầm quan trọng trong mối quan hệ tương tác với

người sử dụng. Nhiều thiết kế hình thành mà không có ý kiến đóng góp

của người sử dụng.

Công các tổ chức thầu hiện nay chủ yếu dựa vào giá bỏ thầu. Các tiêu

chí về kỹ thuật, kinh nghiệm triển khai, đội ngũ thực hiện, quy trình thực

hiện ít được chú ý.

Một số các dự án không hiệu quả do không có kinh phí để duy trì hệ

thống sau khi nghiệm thu như cập nhật dữ liệu, khắc phục sự cố…

1.2. Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 82

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Theo nhiều chuyên gia đánh giá, mặc dù có tiến bộ do rút kinh nghiệm

từ dự án tin học hoá giai đoạn 1996 - 2000, đề án tin học hoá quản lý hành chính

nhà nước chưa được chuẩn bị thật sự kỹ càng dẫn tới nhiều thiếu sót.

* Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của hạ tầng thông tin quản lý hành chính

quốc gia. Điều này thể hiện rõ nét ở:

- Trang 6: "do cước phí truyền thông quá cao nên nhiều bộ, ngành, địa

phương phải hạn chế sử dụng mạng…". Để thực thi Chính phủ điện tử thì việc

sử dụng mạng là hết sức thường xuyên và cần thiết, vậy mà nhà nước ta lại

quy định các bộ, ngành và địa phương phải hạn chế sử dụng mạng. Cần nhận

thức rõ việc điều hành của Chính phủ là trên hết và truyền thông phải phục vụ sự

điều hành đó.

- Trang 15: "Mạng tin học diện rộng của Chính phủ gồm: Một trục

truyền thông Bắc - Nam tốc độ 64KB kiểu X25, 35, ISDN…". Lẽ ra phải viết

là "64 Kbps", nghĩa là "64 kilobit một giây". Tuy vậy 64 Kbps chỉ là tốc độ đủ

dùng cho một doanh nghiệp chứ không thể nào đủ cho Chính phủ điều hành cả

nước. Thêm vào đó, X25 là kỹ thuật truyền thông đã rất lạc hậu, không còn

nước nào trên thế giới dùng nữa mà chỉ dùng cáp quang hay vô tuyến điện cho

trường hợp này.

* Sự chậm trễ:

Kế hoạch triển khai cho giai đoạn 2001 - 2005 mà đến nửa cuối năm

2002 mới hoàn thành xong phần soạn thảo đề án. Như vậy thì chỉ còn 4 năm

để thực hiện đề án.

* Thiếu hoàn toàn thiết kế tổng thể:

Đề án còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn rõ ràng, gây khó hiểu cho

người đọc và gây khó khăn cho người thực hiện, ví dụ như:

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 83

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

- Kết cấu thông tin quản lý hành chính từ Chính phủ đến bộ, ngành, địa

phương gồm những nội dung gì, theo tiêu chuẩn gì, có cấu trúc như thế nào?

- Hệ thống phần mềm ứng dụng thống nhất gồm những phần mềm gì,

hoạt động như thế nào?

- Hạ tầng thông tin quản lý nhà nước gồm những gì?

- Các trung tâm tích hợp dữ liệu thực hiện tích hợp thông tin theo các

tiêu chuẩn nào, ai xây dựng, và khi nào cung cấp?

- Lực lượng nào sẽ thực hiện đề án?

Đay là những sai sót không đáng có, do vậy cần phải được sửa chữa kịp

thời để tránh kết cục giống như đề án tin học hoá hành chính nhà nước giai đoạn

1996 - 2000.

2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ

2.1. Mạng Cityweb TP. HCM

Từ tháng 2/2001, UBND TP. HCM ban hành quyết định nội dung

thông tin cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố.

Trang Web này cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ

nhiều đối tượng, trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục

"Tổng quan về thành phố" và mục "Đầu tư", doanh nghiệp có thể nhận được đầy

đủ thông tin về kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án đang kêu gọi đầu

tư, các địa chỉ cần thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt nam và

thành phố để chuẩn bị quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục

đầu tư đã có thêm phần tiếng Anh và đang thực hiện chuyển thể sang tiếng

Trung, tiếng Nhật. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư.

Người dân Việt nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể

truy cập các thông tin về lịch sử thành phồ, về văn hoá, du lịch, về các

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 84

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

hệ thống giáo dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành

phố, về các quyết định của các UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh

tế, về đền bù và giải toả, về quy hoạch đô thị… Bên cạnh trang thông tin tích

hợp trên Internet, thành phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại

trên mạng cục bộ của thành phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng

giữa người dân, doanh nghiệp và các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ

thống đối thoại qua mạng, người dân có thể phản ánh kịp thời các khó khăn

trong cuộc sống. Lãnh đạo các cấp, các ngành có thể trả lời trực tiếp cho người

dân, đồng thời thông qua kênh đối thoại có thể biết được cấp dưới thực hiện sự

chỉ đạo của cấp trên ra sao.

2.2. Hệ thống thông tin tin học hoá tại Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh

Quận 1 đã ứng dụng công nghệ thông tin từ năm 1990. Đến nay, nhìn

chung việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính và quản lý

nhà nước tại Quận 1 đã đạt được nhiều kết quả khả quan; trong đó có một số

chương trình hoạt động tốt, ổn định như chương trình cấp giấy chứng nhận

kinh doanh, cấp phép xây dựng, xử lý vi phạm hành chính, giải quyết đơn khiếu

nại, quản lý dân số và lao động, quản lý cán bộ và đặc biệt là kết nối với mạng

diện rộng của Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND thành phố, giúp tra

cứu một cách thuận tiện các văn bản phục vụ quản lý và điều hành.

Kết quả này có được là do UBND Quận 1 có một hệ thống thông tin đảm

bảo phục vụ tốt mô hình tiếp dân và công tác xử lý hồ sơ liên quan đến công

dân, tổ chức… một cách hiệu quả nhất. Tất cả các văn bản pháp luật của Trung

ương do Văn phòng Chính phủ đưa xuống được đưa vào cơ sở dữ liệu và cài đặt

máy ở các đơn vị trực thuộc. Thông qua mạng nội bộ, các phòng ban và các đơn

vị trực thuộc để có thể tra cứu các thông tin này

khi cần thiết. Các văn bản pháp quy được sắp xếp sẵn theo hệ thống và cho

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 85

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

phép truy cập, tra cứu dễ dàng với kiến thức sơ đẳng về máy tính. Có thể mở

thêm nhiều trạm tra cứu để người dân truy cập vào. Đây là phương tiện thông tin

để người dân thông hiểu pháp luật và các chỉ thị văn bản được công bố.

2.3. Đăng ký kinh doanh qua mạng

Vào năm 1997, Sở KH&ĐT TP. HCM đã tiến hành xây dựng một

mạng thông tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh nghiệp

đã đăng ký, xây dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ

tháng 8/2000, Sở đã khai trương "Trang thông tin doanh nghiệp" bao gồm

thông tin về tất cả doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của

Sở KH&ĐT đã phát huy tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký

kinh doanh phải cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ

chức và thậm chí là cả các cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đã

đáp ứng thông tin kịp thời, tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh

với các ngành chức năng theo từng thời kì hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở KH&ĐT

dễ dàng báo cáo cho lãnh đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp

theo ngành nghề hoạt động trên từng địa bàn, tổng vốn đã đăng ký, số lượng

lao động… hoặc giúp doanh nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang

hoạt động hay giải thể, cung cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký

kết hợp đồng với đối tác.

Sở KH&ĐT TP. HCM cũng đã đưa ra trang Web

www.hcminvest.gov.vn bằng tiếng Anh phục vụ cho người nước ngoài. Phần

nội dung dành cho công chúng trong nước bằng tiếng Việt được đưa lên trang

www.hcmste.gov.vn thuộc Sở Khoa học công nghệ và Môi trường TP. HCM.

Sau khi xây dựng xong quy trình đăng ký kinh doanh khép kín, từ

ngày 1/1/2000, công tác đăng ký kinh doanh của Sở đã được xử lý qua

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 86

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

mạng nội bộ (LAN). Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, phòng

Đăng ký kinh doanh sẽ tiếp nhận xử lý theo quy trình trên mạng nội bộ. Với

hình thức đăng ký này, doanh nghiệp phải đến Sở để nhận mẫu đơn đúng

theo yêu cầu và nộp lại. Trong quá trình xử lý, những người có trách nhiệm sẽ

kiểm tra thông tin trong đơn, bộ phận tiếp nhận sẽ hẹn ngày đến nhận giấy phép.

Đăng ký kinh doanh qua mạng đem lại rất nhiều lợi ích cho cả cơ quan

đăng ký kinh doanh và cả doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh qua mạng giúp

hạn chế những sai sót trong nhập liệu như ngày tháng năm sinh, số chứng minh

thư nhân dân. Các doanh nghiệp, thay vì phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh

để được hướng dẫn đăng ký kinh doanh, có thể ngồi tại văn phòng dể xem

hướng dẫn trực tiếp từ hệ thống. Nếu đăng ký kinh doanh qua mạng, doanh

nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian chờ đợi, giảm được số lần phải đến Sở

(chỉ phải đến một lần).

2.4. Những Website cho nông nghiệp Việt nam

Hiện Bộ NN&PTNT đang rất nỗ lực tận dụng công nghệ Internet vào

mục tiêu thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt nam, thể hiện

rõ ở ba Website sau:

* www.mard.gov.vn:

Bộ NN&PTNT quy định: từ ngày1/7/2001, thủ trưởng các đơn vị trực

thuộc bộ, giám đốc các Sở NN&PTNT, chi cục trưởng chi cục kiểm lâm các

tỉnh… có trách nhiệm kết nối với mạng của Bộ để nhận thông tin phục vụ công

tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức lấy tin, gửi tin, báo cáo qua mạng tin

học của bộ và qua thư điện tử. Hàng ngày lãnh đạo các đơn vị này phải truy

cập thông tin trên mạng ít nhất hai lần vào buổi sáng và buổi chiều để theo dõi

và nắm bắt thời các ý kiến chỉ đạo của Bộ, các văn băn mới của nhà nước.

Qua Website này, những văn băn không cần

phải đóng dấu đỏ sẽ được đưa trực tiếp lên mạng. Các văn bản này bao

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 87

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

gồm các báo cáo thông báo tình hình của bộ, báo cáo của bộ gửi Chính phủ,

các cơ quan của bộ… chiếm 70% tổng số lượng công văn, giấy tờ.

* www.pclb.vnn.vn:

Đây là trang Web hỗ trợ phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai. Từ

Wevsite này, chúng ta có thể kết nối sang Website www.pclb.vnn.vn do Phòng

chống bão lụt miền Trung phụ trách. Tại đây, những thông tin về tình hình

thiên tai trên cả nước được liên tục cập nhật. Ví dụ, tin áp thấp nhiệt đới của

Trung tâm quốc gia dự báo khí tượng thuỷ văn được phát lúc

14 giờ 30 phút thì 25 phút sau bản tin đó cũng xuất hiện trên Internet.

* www.agroviet.gov.vn:

Đây là trang thông tin về nông sản. Nhờ sự cộng tác của Mạng thông tin

thương mại thị trường Việt nam (Vitranet) và Bản tin thị trường (Bộ Thương

Mại), Website www.agroviet.gov.vn cung cấp thông tin thị trường, thiết lập cầu

nối giữa người sản xuất, người kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách với

các nhà đầu tư và nhà tài trợ trong và ngoài nước. Thông qua Website này các

doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh liên

quan đến nông nghiệp.

Nguồn thông tin của Website này thu từ các kênh thông tin trên thế giới

qua ăngten parabol (thông tin về nông phẩm, giá cả các sản phẩm nông nghiệp

trên thế giới…), thông tin trong nước có nguồn từ Ban vật giá Chính phủ, Tổng

cục thống kê, Tổng cục hải quan, Thông tấn xã Việt nam… Đối tượng hưởng

lợi trực tiếp từ trang thông tin này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên

các trang chuyên đề về nông sản Việt nam, về lúa gạo, mía đường, cà phê, cao

su đều có các thông tin về giá cả của các loại nông sản này như giá đóng cửa,

giá mở cửa của các thị trường nông sản thế giới, giá cả trong nước, những

chính sách mới về nông sản

trong nước, trên thế giới, các dự báo về thị trường nông sản… Những

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 88

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

thông tin này rất hữu ích cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại,

đồng thời giúp họ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc.

2.5. Khai báo hải quan điện tử

Khai báo hải quan điện tử ở Việt nam hiện nay mới chỉ ở mức độ thấp

nhất. Tại các nước phát triển trên thế giới đang tồn tại ba mức độ của hình thức

khai báo hải quan điện tử. Cao nhất là khai báo hải quan tức thì qua hệ thống

mạng Chính phủ điện tử. Mức trung bình là khai báo điện tử trước, sau đó 3-4

ngày sẽ nộp hồ sơ. Mức độ thấp nhất là vừa khai báo điện tử vừa nộp hồ sơ. Các

mức độ của hình thức khai báo hải quan điện tử bị chi phối bởi ba yếu tố: cơ

sở pháp lý, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các ngành, đơn vị liên quan

và hạ tầng riêng của ngành Hải quan. Nhưng hiện khai báo hải quan điện tử

vẫn còn thiếu một hạ tầng cơ sở pháp lý cần thiết và các hạ tầng cơ sở khác

đảm bảo cho việc thực hiện khai báo hải quan điện tử.

Hải quan đang có một Website hết sức nghèo nàn và đơn điệu với chức

năng tuyên truyền cho ngành, nhưng lại không được thường xuyên cập nhật.

Cứ với tình trạng này, Website này sẽ không thể trở thành cổng hành chính

phục vụ chương trình khai báo hải quan điện tử và các dịch vụ công khác của

ngành hải quan. Chính vì vậy, mặc dù khai báo hải quan điện tử thực sự

được đưa vào áp dụng vào tháng 6/2002, song đến tháng

8/2002, tiến trình khai báo hải quan điện tử chỉ được thực hiện với tốc độ rất

chậm. Tại TP. HCM, sau hai tháng triển khai cũng chỉ có 6 doanh nghiệp làm

hàng gia công tham gia chương trình khai báo hải quan điện tử. Trong khi đó, với

việc trang bị hệ thống máy tính và năm đường điện thoại kết nối vào năm

modem khi bắt đầu thực hiện chương trình, Cục hải quan thành phố đã mong

đợi sẽ có hơn 200 doanh nghiệp tham gia.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Mặc dù nói là khai báo

hải quan điện tử nhưng so với cách làm cũ, mọi công đoạn vẫn giữ

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 89

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

nguyên, các doanh nghiệp còn phải mất thêm thời gian và kinh phí trang bị máy

tính, phần mềm để lên mạng. Thực tế chứng minh khai báo hải quan điện tử

chậm hơn khai báo thủ công, do doanh nghiệp vừa khai báo điện tử vừa phải

mang hồ sơ lên Cục hải quan nộp như bình thường. Thêm vào đó, nhiều doanh

nghiệp còn chưa vào cuộc do ngại đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin. Một lý do

khác là Hải quan chưa bao giờ công bố công khai chi tiết các chuẩn của mình về

tờ khai điện tử cũng như bộ hồ sơ điện tử, khiến cho các công ty phần mềm

vẫn thờ ơ với chương trình khai báo hải quan điện tử của ngành Hải quan.

Những lý do trên đây dẫn đến tình trạng khai báo hải quan điện tử, dù đã triển

khai thực hiện gần một năm nhưng vẫn không đạt được nhiều kết quả.

2.6. Báo điện tử

Hiện Việt Nam có 21 tờ báo, tạp chí điện tử, điển hình là các tờ Nhân

Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Lao Động, Người Lao Động, Quốc Tế, Quê Hương,

Đầu Tư, Thời Báo Kinh Tế, Sài Gòn Tiếp Thị …. Con số 21 trên 500 tờ báo và

tạp chí in vẫn còn khiêm tốn. Xong để tìm được hết tất cả các báo, tạp chí điện

tử này lại không đơn giản chút nào, kể cả đối với những người làm việc thường

xuyên trên mạng. Khó khăn lắm mới tìm được một nửa số báo, tạp chí điện tử

đó.

Các tờ báo dễ tìm thấy trên mạng có nội dung và hình thức khá tốt. Các

trang chủ tổ chức có trật tự, màu sắc bắt mắt, chứng tỏ chúng được xây dựng

và duy trì ở mức chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, đa số các bài được đưa lên

mạng chỉ dừng ở mức lặp lại trang tin trên các tờ báo in của chính nó. Lợi thế

của báo điện tử là đưa tin nhanh, dung lượng tin lớn, đa dạng gần như bị tuột

khỏi tay các tổng biên tập. Phần lớn những người làm báo điện tử chỉ đơn thuần

là biên tập viên chứ chưa có các phóng viên thực

thụ và chuyên nghiệp theo nghĩa “điện tử”. Đó là nguyên nhân chính làm

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 90

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

thu hẹp thị trường độc giả và do đó các báo điện tử ở nước ta vẫn sống nhờ

vào báo in, nguồn thu từ quảng cáo trực tuyến cũng rất khiêm tốn.

Hiện báo điện tử đang gặp phải một số khó khăn. Đầu tiên là về vấn đề

thiếu ngân sách. Một vấn đề khác nữa là hành lang pháp lý cho báo điện tử. Bên

cạnh đó, các tờ báo điện tử đang vấp phải đối thủ cạnh tranh là các trang tin

điện tử như VASC-Orienrtz (www.vnn.vn), VN-Express

(Vnexpress.net)... Hàng ngày có khoảng 6 triệu lượt người truy cập trang

www.vnn.vn. Dung lượng tin tức của họ vượt trội, khoảng 140 tin mỗi ngày.

Thực chất, lượng tin ấy có đến 60% chép lại từ các tờ báo in và 25% dịch từ

nguồn tin nước ngoài. (Nguồn: PCWorld B Việt nam số 11/2002)

III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

1. Đề xuất một số phương hướng nhằm phát triển công nghệ thông tin và

ứng dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ

Xuất phát từ thực tiễn thực hiện các đề án tin học hoá quản lý hành

chính nhà nước, tôi xin được nêu ý kiến của mình nhằm định hướng Chính phủ

trong việc phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin

vào các dịch vụ của Chính phủ như sau:

- Phải gắn tin học hoá quản lý hành chính nhà nước với vấn đề cải cách

hành chính. Cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin là hai vấn đề

có mối liên hệ chặt chẽ. Công nghệ thông tin là một yếu tố hết sức quan trọng

và cần thiết, có tác động tích cực thúc đẩy quá trình cải cách hành chính.

- Các nhà quản lý phải giữ vai trò chủ đạo, phải có sự lãnh đạo thống nhất

từ cấp cao nhất của Chính phủ. Nếu người lãnh đạo không nhận thức được đầy

đủ vai trò và ý nghĩa của ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà

nước thì việc ứng dụng công nghệ thông tin khó có thể thành công. Như vậy,

người lãnh đạo phải hiểu trước, hiểu sâu hơn về công nghệ

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 91

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

thông tin thì mới có thể đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng một cách hiệu

quả.

- Hiệu quả phải đo được, tức là phải lượng hoá được những gì mà công

nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng quản lý.

- Hiệu quả đầu tư cần được đặt lên hàng đầu. Các dự án công nghệ

thông tin phải có mục tiêu rõ ràng cụ thể, phải tính toán kỹ, đảm bảo sự đồng

bộ giữa phần cứng, phần mềm, đào tạo huấn luyên chuyên viên kỹ thuật và

những người sử dụng, người quản lý sao cho khi hệ thống được thiết lập xong

là vận hành ngay được, thực hiện được mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả.

Tránh vội vàng, rập khuôn, làm ào ạt theo phong trào mà không chuẩn bị kỹ

càng các điều kiện thực hiện.

- Tạo hành lang pháp lý cho tin học hoá, cho ứng dụng và phát triển công

nghệ thông tin.

- Tin học hoá không chỉ hướng vào bên trong mà phải hướng ra bên

ngoài, hướng vào các dịch vụ công. Tin học hoá ngoài việc trợ giúp các quy

trình hoạt động trong các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu suất công việc

còn phải hướng tới việc tổ chức lại để tạo ra các dịch vụ nhằm phục vụ tốt hơn

cho nhân dân.

- 24 bước cần thiết của một dự án ứng dụng công nghệ thông tin:

Xuất phát từ kinh nghiệm thực hiện dự án ứng dụng công nghệ thông

tin của công ty FPT trong nhiều năm qua, các cơ quan nhà nước có thể áp dụng

quy trình thực hiện dự án gồm 24 bước sau để có thể khắc phục được những

hạn chế và loại bỏ được những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tính kém hiệu

quả của các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà

nước.

8 bước hình thành công việc:

1. Khảo sát hiện trạng.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 92

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

2. Tham khảo mô hình tương tự (trong và ngoài nước).

3. Xác định nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin.

4. Xây dựng các mục tiêu, xác định phạm vi của dự án.

5. Xác định các nguồn lực cần thiết cho dự án.

6. Hình thành các bài toán với các mức độ ưu tiên.

7. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng.

8. Xây dựng lộ trình chung cho dự án.

8 bước xây dựng giải pháp cho công việc:

9. Lựa chọn nhân sự phù hợp cho dự án, đặc biệt là nhân sự then chốt.

10. Lựa chọn giải pháp và các công nghệ liên quan.

11. Lựa chọn đối tác tin cậy.

12. Phân tích thiết kế hệ thống.

13. Tái cấu trúc các quy trình không hợp lý.

14. Xây dựng các ứng dụng mẫu.

15. Tiếp tục đổi mới quy trình nghiệp vụ.

16. Xác định mô hình ứng dụng và giải pháp.

8 bước triển khai:

17. Xây dựng các ứng dụng diện rộng.

18. Từng bước mở rộng diện khai thác thử nghiệm.

19. Đánh giá sơ bộ hiệu quả sử dụng.

20. Đào tạo tiếp nhận và khai thác hệ thống.

21. Đo mức độ đáp ứng hệ thống chỉ tiêu dịnh lượng.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 93

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

22. Nghiệm thu, bàn giao hệ thống

23. Duy trì hệ thống.

24. Đánh giá hiệu quả ứng dụng, đưa ra hướng cải tiến.

2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam

Dựa trên kinh nghiệm phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước đã

nghiên cứu trong chương II và dựa vào điều kiện cơ sở vật chất của đất nước

ta, khoá luận sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở

Việt nam.

* Trước hết, để xây dựng Chính phủ điện tử, nước ta cần xây dựng cơ sở hạ

tầng, trong đó phải xây dựng những cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên. Có

thể xếp hạng ưu tiên các cơ sở hạ tầng như sau:

- Hạ tầng viễn thông: các thiết bị viễn thông và máy tính phải được đề

cập tới trong bất kỳ kế hoạch nào về Chính phủ điện tử. Mức độ phát triển hạ

tầng viễn thông phụ thuộc vào đề án Chính phủ điện tử.

- Kết nối sử dụng công nghệ thông tin viễn thông của Chính phủ: Tình

hình sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông của Chính phủ cho thấy mức

độ sẵn sàng quản lý thông tin và thực hiện đề án Chính phủ điện tử. Do vậy cần

phải xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đáp ứng tiêu chuẩn

quốc tế.

- Đội ngũ cán bộ trong Chính phủ. Đây là nhân tố quan trọng nhất trong

chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ở bất cứ quốc gia nào. Đội ngũ cán bộ

nhà nước phải hiểu rõ về tầm quan trọng của Chính phủ điện tử, và phải được

trang bị những kiến thức cần thiết nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển

Chính phủ điện tử.

- Khả năng tài chính đang và sẽ có. Chính phủ nên dành riêng một phần

ngân sách để đảm bảo khả năng tài chính phục vụ cho quá trình xây

dựng và phát triển Chính phủ điện tử.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 94

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

- Môi trường kinh doanh điện tử như khung pháp lý, an toàn thông

tin…Ngoài những hỗ trợ về tài chính, nhà nước cần xây dựng một khung pháp

lý chính thức và hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Chính phủ

điện tử.

* Tiếp đến là xây dựng và quản lý đề án Chính phủ điện tử, bao gồm:

- Thiết lập cơ quan chuyên trách về Chính phủ điện tử trong Chính phủ.

Thực tế cho thấy rằng khó có thể thực thi được đề án Chính phủ điện tử mà

không có một đội ngũ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Những cơ

quan như vậy cần được hỗ trợ về tài chính, nhân lực và quản lý để thực hiện

nhiệm vụ được giao.

- Đảm bảo trao đủ quyền lực cho cơ quan quản lý đề án: Sẽ rất khó khăn

cho cơ quan quản lý đề án nếu bất cứ quyết định nào cũng phải chờ cơ quan

cấp trên thông qua rồi mới được thực hiện. Điều này sẽ làm chậm tiến độ thực

hiện đề án. Do vậy, cơ quan quản lý đề án cần được trao đủ quyền lực để có

thể tự quyết định những vấn đề nằm trong phạm vi nhiệm vụ để rút ngắn thời

gian và chi phí không cần thiết.

- Xây dựng một kế hoạch làm việc để thực hiện đề án Chính phủ điện tử.

Kế hoạch làm việc nên tập trung vào 6 thành phần chính sau:

Phát triển nội dung: bao gồm phát triển ứng dụng, mở rộng tiêu

chuẩn, xây dựng các giao diện ngôn ngữ địa phương, hướng dẫn sử

dụng và đào tạo điện tử.

Nguồn nhân lực và các chương trình đào tạo ở tất cả các cấp.

Kết nối mạng nội bộ và mạng Internet.

Khung pháp lý.

Các giao diện tương tác với công dân đảm bảo dễ dàng truy cập và

phù hợp với tất cả các đối tượng.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 95

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Nguồn vốn: Kế hoạch phải xác định được nguồn doanh thu như phí

sử dụng hay ngân sách để có thể đảm bảo cân bằng về tài chính.

* Vượt qua những trở ngại tâm lý trong Chính phủ:

Trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, các quan chức chính phủ

thường cho rằng công nghệ sẽ làm cho họ mất việc làm, mất quyền lực, một

số còn lo sợ sẽ phải làm nhiều việc hơn, vất vả hơn, lo sợ sẽ không thích ứng

được với công nghệ mới...

Những tư tưởng như vậy hạn chế rất nhiều tiến trình thực hiện đề án

Chính phủ điện tử. Do vậy, Chính phủ cần phải giải thích cho họ hiểu mục đích

của đề án, giải toả những lo lắng, đào tạo họ thành những "nhân viên tri thức".

Đây chính là nội dung của quản lý tri thức, một thành phần quan trọng trong bất

cứ đề án Chính phủ điện tử nào. Chính phủ cũng nên đề ra những phần thưởng

để tuyên dương những cán bộ có thành tích trong quá trình thực hiện đề án.

* Xây dựng phương pháp đo hiệu quả hoạt động của Chính phủ dựa trên

những tiêu chuẩn sau:

- Tiêu chuẩn đo sự thích ứng của Chính phủ với Chính phủ điện tử:

1, Khối lượng giao dịch điện tử;

2, Thời gian thực hiện yêu cầu của người sử dụng;

3, Số lượng hoặc phần trăm các dịch vụ điện tử do Chính phủ

cung cấp;

4, Số lượng các dịch vụ điện tử mới;

5, Một dịch vụ điện tử được thực hiện ở bao nhiêu tỉnh, thành

trong cả nước.

- Tiêu chuẩn đo những ảnh hưởng của Chính phủ điện tử:

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 96

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

1, Số lượng người truy cập thông tin và dịch vụ điện tử của

Chính phủ;

2, Hiệu quả trong việc cung cấp thông tin và dịch vụ điện tử

24/24 giờ, 7/7 ngày như thế nào;

3, Thời gian người sử dụng có được hàng hoá, dịch vụ, thông tin là

bao nhiêu;

4, Giảm bao nhiêu chi phí mà người sử dụng và Chính phủ phải chịu.

* Tuyên truyền công cộng đối với công dân và doanh nghiệp, tuyên truyền

trong Chính phủ để nâng cao nhận thức về Chính phủ điện tử.

Trên thực tế, việc xây dựng Chính phủ điện tử rất tốn kém, thời gian đem

lại lợi ích cho công chúng không phải là ngắn, vì vậy có thể áp dụng phương

pháp triển khai nhanh. Việc này nhanh chóng tạo nên môi trường linh động và

cạnh tranh hơn trên thị trường. Đồng thời có thể tiến hành xây dựng các cổng

thông tin kinh tế trên cơ sở thông tin của Bộ Thương mại để hỗ trợ cho các doanh

nghiệp.

KẾT LUẬN

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 97

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Hiểu đúng nghĩa thì Chính phủ điện tử là ước mơ và có lẽ là ước mơ kỳ

diệu nhất của nền dân chủ, của một nhà nước của dân, do dân và vì dân trong

thời đại thông tin. Vì vậy bất cứ nước nào, dù là nước xã hội chủ nghĩa hay

nước tư bản chủ nghĩa đều cần phải xây dựng Chính phủ điện tử, bởi Chính phủ

điện tử không những không làm biến đổi bản chất chế độ mà nước đó đang

đeo đuổi, mà nó còn giúp cho nước đó nâng cao vị thế của mình.

Có nhiều cách để xây dựng Chính phủ điện tử. Mỗi nước có một

chiến lược phát triển Chính phủ điện tử khác nhau, phù hợp với điều kiện cơ sở

vật chất của nước đó. Một nước nghèo như nước ta không thể áp dụng chiến

lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ, Australia hay của Singapore. Nếu

áp dụng rập khuôn sẽ rất dễ dẫn đến thất bại vì nó không phù hợp với hoàn

cảnh kinh tế - xã hội nước ta. Vì vậy, có xây dựng Chính phủ điện tử thành công

hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc đề ra một chiến lược hợp lý và phải có

sự chuẩn bị kỹ càng.

Tuy nói là chúng ta không thể áp dụng chiến lược phát triển Chính phủ

điện tử của các nước đi trước, nhưng chúng ta vẫn có thể nghiên cứu chiến

lược phát triển Chính phủ điện tử của các nước này, từ đó rút ra những bài học

thành công và không thành công của họ để rút kinh nghiệm. Con đường mà các

nước đã đi qua trong lộ trình triển khai Chính phủ điện tử mất một khoảng thời

gian khá dài, hi vọng một nước đi sau như Việt nam sẽ không phải mất nhiều

thời gian như vậy. Muốn vậy, Việt nam phải tự tìm ra những hướng đi thích hợp

trong ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả

và hiệu lực của chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ

công cho người dân qua Internet nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian và sức

lực của người

dân trong quan hệ với Chính phủ.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 98

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

Chính phủ điện tử ở Việt nam mới chỉ đang trong giai đoạn đầu, tức là

giai đoạn ứng dụng công nghệ thông tin sao cho bộ máy Chính phủ điều hành

hiệu quả hơn, cung cấp các thông tin Chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin

học hoá quản lý hành chính nhà nước… Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của

Việt nam là phải thực hiện những bước đi hợp lý, thực hiện những biện pháp

cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo của Chính

phủ điện tử. Để thực hiện được điều này, Việt Nam cần phải xây dựng cơ sở

hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông, xây dựng và có

kế hoạch quản lý chặt chẽ đề án Chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâm

lý trong Chính phủ và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi

tầng lớp dân chúng về Chính phủ điện tử. Những giải pháp trên được khoá luận

rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước đi trước và tình hình thực tế của Việt

Nam, hi vọng sẽ nhanh chóng được áp dụng nhằm giúp nước ta tiến nhanh

trên con đường phát

triển Chính phủ điện tử.

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B 99

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng1, 2, 4/2002

2. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Số 3(33) tháng

6/2001

3. Thông tin Kinh tế - Xã hội, số tháng 10 và 12/2002

4. PCWorld B Việt nam, các số năm 2000, 2001, 2002

5. Tạp chí BCVT kỳ II - Internet tháng 8/2003

6. Public Agenda for a Digital World - Leslie David Simon

7. E-Commerce and Development Report 2001

8. Electronic Governance & Electronic Democracy: Living & working in

the Wired World - Professor Thomas Briley, 2000

9. Administrative Corruption: How Does E-Government Help? -

Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management,

Ahmedabad, India.

10. A Framework for Pricing Government E-Services - Dr. Craig L.

Johnson, Indiana University, 2003

11. Investment, Access, and Security: A Policy Environment For E-

Government - US Internet Industry Association -

http://www.usiia.org

12. E-government Best Practices an Implementation manual - Robert H.

Smith, School of Business University of Maryland, College Park, May

2001

13. Prototyping e-Government Applications - Richard Heeks, IDPM,

University of Manchester, UK, 2001

14. What citizens want from E-Government - Meghan E-Cook, Center for

Technology in Government, University at Albany, SUNY,

10/2000

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

15. E-government - E-citizen - Birgit Wilder, Chief Information Office

Austria

16. Joint IEG Statement- Suffolk Accessible Government Partnership,

2001, 2002 - http://www.suffolkcc.gov.uk/central/e-government/ieg-

index1.html

17. Benchmarking the E-Government Revolution: Year 2000 Report on

Citizen and Business demand - http://www.nicusa.com/NIC-

flash/index-flash2.htm

18. E-Government: The Next American Revolution - Hart - Teeter,

Council for Excellence in Government the E-Government,

http://www.excelgov.org/egovpoll/index.htm

19. http://noie.gov.au

20. http://www.infosoc.fi/PublicServices.pdf

21. Global E-government full report, sept, 2003 -

http://www.insidepolitics.org/

22. E-government: The Singapore - http://www.infitt.org/

23. Roadmap for e-government in the developing world -

http://www.pacificcouncil.org/

24. Applying the e-government framework to transitional countries -

Theodore Tsekos - http://www.untcentre.org/

25. E-government handbook for Developing nations -

http://www.cdt.org/

26. E-government Project - The kingdom of Thailand -

http://unpan1.un.org/

27. What citizens want from E-govenrnment, Macghan E-Cook, Center for

Technology in Government, University at Albany, SUNY

28. E-Government Strategy - http://www.whitehouse.gov/

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B

Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam

29. E-government case studies: P.S.Portals - http://unpan1.un.org/

30. E-government Bulletin - http://www.headstar.com/

- workflow software solution

http://www.handysoft.com

E-government Strategy 2003 - http://www.whitehouse.gov/ 31. E-government 32.

33. Office of E-government, Western Australia -

http://egov.dpc.wa.gov.au/

34. E-government in Europe - http://www.unpan.org/

35. What is e-government? - http://www.webfaqt.com/

36. Japanese E-Government Timetable - http://www.manaboo.com/

37. Kinh tế học Internet: Từ Thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử -

Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001

38. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003)

39. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động

2003

Khoá luận tốt nghiệp - Trần Thị Liên, Anh 5 K38B