TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI   

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM TAI NẠN NGHỀ NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên

: Hoµng ThÞ Thƣơng

Lớp

:

Khoá

: 44

Giáo viên hướng dẫn

: Ph¹m Thanh Hµ

Hà Nội, tháng 5 năm 2009

MỤC LỤC

Mục lục ........................................................................................................

Danh mục từ viết tắt .....................................................................................

Danh mục đồ thị, bảng biểu ..........................................................................

Lời nói đầu ................................................................................................. 1

Chương I .................................................................................................... 4

Khái quát chung về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp .............................. 4

I. Khái quát chung về bảo hiểm trách nhiệm ............................................... 4

1. Khái niệm bảo hiểm trách nhiệm ............................................................ 4

2. Đặc điểm của BHTN .............................................................................. 6

3. Phân loại BHTN ..................................................................................... 9

II. Khái quát chung về BHTN nghề nghiệp .............................................. 10

1. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. ............ 10

2. Sự ra đời và phát triển của BHTN nghề nghiệp .................................... 16

3. Sự cần thiết khách quan của BHTN nghề nghiệp .................................. 21

III. Những nội dung cơ bản của hợp đồng BHTN nghề nghiệp ................. 25

1. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm ........................... 25

2. Phạm vi bảo hiểm ................................................................................. 27

3. Thời hạn bảo hiểm ................................................................................ 31

4. Hạn mức trách nhiệm (số tiền bảo hiểm) .............................................. 32

5. Phí bảo hiểm......................................................................................... 33

6. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường: ........................................ 33

7. Một số điều kiện của Đơn BHTN nghề nghiệp ..................................... 36

Chương II ................................................................................................. 39

Thực trạng BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam ........................................... 39

I. Giới thiệu về một số công ty kinh doanh loại hình BHTN nghề nghiệp tại

1

Việt Nam .................................................................................................. 39

II. Tình hình hoạt động kinh doanh BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam từ

năm 2001 đến nay. ................................................................................... 46

1. Công tác khai thác ................................................................................ 46

2. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất ..................................................... 60

3. Công tác giám định và giải quyết bồi thường ....................................... 61

4. Doanh thu và thị phần bảo hiểm ........................................................... 67

III. Đánh giá chung về tình hình kinh doanh BHTN nghề nghiệp trong

những năm vừa qua. ................................................................................. 75

1. Tích cực ............................................................................................... 75

2. Hạn chế ................................................................................................ 77

Chương III ............................................................................................... 82

Định hướng và một số giải pháp nhằm phát triển BHTN nghề nghiệp tại

Việt Nam .................................................................................................. 82

I. Xu hướng phát triển BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam.......................... 82

1. Tiềm năng phát triển loại hình BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam ......... 82

2. Định hướng phát triển BHTN nghề nghiệp đến năm 2015. ................... 87

II. Một số kinh nghiệm trong triển khai BHTN nghề nghiệp trên Thế giới ..... 91

III. Một số giải pháp nhằm phát triển BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam ...... 91

1. Các giải pháp vĩ mô .............................................................................. 91

2. Các giải pháp vi mô .............................................................................. 95

Kết luận .................................................................................................. 110

2

Tài liệu tham khảo ....................................................................................... .

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bảo hiểm BH

Bảo hiểm trách nhiệm BHTN

Bộ Tài Chính BTC

Công chứng viên CCV

Công ty chứng khoán CTCK

Doanh nghiệp DN

Doanh nghiệp bảo hiểm DNBH

Hợp đồng bảo hiểm HĐBH

HHBHVN Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam

KDBH Kinh doanh bảo hiểm

KTS Kiến trúc sư

KSXD Kỹ sư xây dựng

KSTV Kỹ sư tư vấn

NBH Người bảo hiểm

NĐBH Người được bảo hiểm

NT Nhân thọ

PNT Phi nhân thọ

TĐG Thẩm định giá

TNDS Trách nhiệm dân sự

3

VPCC Văn phòng công chứng

TT Bảng 1 DANH MỤC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU Tên bảng Một số loại hình BHTN được thực hiện bắt buộc ở một số

nước trên thế giới.

Bảng 2 Tổng hợp Luật điều chỉnh nhóm BHTN nghề nghiệp.

Bảng 3 Danh sách các công ty bảo hiểm phi nhân thọ đã được cấp

giấy phép và đang hoạt động tại Việt Nam.

Bảng 4 Quy trình khai thác BHTN nghề nghiệp.

Bảng 5 Quy trình khai thác BHTN nghề nghiệp trên phân cấp.

Bảng 6 Danh sách các công ty môi giới bảo hiểm đã được cấp giấy

phép và đang hoạt động tại Việt Nam.

Bảng 7 Quy trình bồi thường nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp.

Bảng 8 Tỷ lệ chi bồi thường/ phí BH thực thu của nghiệp vụ BHTN

nghề nghiệp trong hai năm 2007 & 2008.

Bảng 9 Doanh thu và thị phần BHTN nghề nghiệp trong hai năm

2007 và 2008.

Bảng 10 Doanh thu BHTN nghề nghiệp trong năm 2008 của công ty cổ

phần BH Bảo Minh.

Bảng 11 Kết quả doanh thu một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của

Bảo Việt năm 2008.

Bảng 12 Kết quả doanh thu một số loại hình BHTN nghề nghiệp mới

4

của Bảo Việt năm 2008.

LỜI NÓI ĐẦU

Trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt động kinh tế, xã hội hay cụ

thể hơn là trong công việc của mỗi người thường có những tai nạn, sự cố

bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản. Đằng sau vô số

những công việc, sự kiện tương lai nguy cơ gặp rủi ro vẫn tiềm ẩn. Không

cần phải xét đến những rủi ro khách quan, xa vời mà con người chỉ có thể

hạn chế, không thể loại trừ - đó là rủi ro thiên tai; chỉ cần xét đến thứ rất

gần với mình thôi, đó là công việc hàng ngày đang làm, là chuyên môn của

mình cũng đã chứa đựng vô vàn những rủi ro. Cho dù mỗi người đều cho

rằng mình rất giỏi trong công việc, có tay nghề cao, kỹ năng tốt, hiểu rõ về

công việc, mình có đạo đức nghề nghiệp nhưng rủi ro vẫn xảy ra…Vì mọi

người tất cả đều như nhau, đều có lúc sơ suất, đều có lúc sai lầm và đều

không dự đoán được hết những hậu quả mình có thể gây ra, dù là từ những

hành động rất nhỏ nhặt.

Một y tá khi theo dõi bệnh nhân truyền dịch chỉ thiếu cần mẫn quan

sát một chút thôi cũng có thể dẫn đến bệnh nhân bị sốc thuốc và tử vong.

Một hành động rất nhỏ nhưng hậu quả thì thật nặng nề. Hay nhà tư vấn

thiết kế công trình công viên trên đồi, do tính toán sai góc độ và lượng xi

măng làm cho tường bị đổ ngay trong ngày khánh thành,…Mỗi một ngành

nghề đều có một đặc điểm riêng, nhưng đứng trên góc độ rủi ro thì ngành

nào cũng có, với tính chất và mức độ khác nhau. Có những nghề nghiệp

chịu tác động rất lớn bởi tự nhiên, thiên tai như vận tải, xây dựng, nông

nghiệp,…Có những ngành khác lại phụ thuộc nhiều vào máy móc kỹ thuật

như y tế, thiết kế, sản xuất,….Những ngành như kế toán, kiểm toán, luật sư

lại dễ gặp rủi ro đối với giấy tờ, văn bản và các quy phạm pháp luật,…Có

thể thấy rằng mỗi ngành nghề có đặc điểm rủi ro riêng nhưng tần suất xảy

1

ra các rủi ro nghề nghiệp là như nhau.

Tất cả các điều trên đều chỉ ra rằng trong mỗi công việc chuyên môn,

dù tài năng và đạo đức của bạn có tốt đến đâu thì nguy cơ gặp rủi ro dẫn

đến tổn thất vẫn là không nhỏ. Hậu quả sau những sự cố đó là sự thiệt hại

về vật chất, tiền của, và sự mệt mỏi thậm chí suy kiệt về tinh thần và không

còn tập trung được vào chuyên môn nữa. Đó quả là những tổn thất rất lớn,

không chỉ đối với bản thân họ mà còn là tổn thất đối với những khách hàng

tương lai, và đối với xã hội, gây thiệt hại đối với nền kinh tế,…Trong

những trường hợp đó thì BHTN nghề nghiệp được xem là một biện pháp

chống rủi ro có nhiều ưu điểm nhất so với bất kỳ biện pháp nào khác. Nó

không chỉ bảo vệ tốt các quyền lợi của khách hàng, của người có liên quan,

mà còn là tấm lá chắn, là chỗ dựa vững chắc giúp người hành nghề yên tâm

làm việc trong điều kiện cuộc sống nghề nghiệp có nhiều bất trắc.

Trên Thế giới, BHTN nghề nghiệp là một loại hình bảo hiểm phát

triển, mua BHTN nghề nghiệp đã trở thành thói quen của các cá nhân và

doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây vẫn đang là một nghiệp vụ rất

mới, ít người biết đến sự có mặt cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó.

Tuy nhiên, với cơ sở pháp lý ngày càng chặt chẽ, cùng với tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao và xu hướng mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế

ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, thì dự đoán, trong một vài năm tới

BHTN nghề nghiệp sẽ rất phát triển và phát huy đúng vai trò của nó.

Nhận thấy được tiềm năng phát triển của sản phẩm bảo hiểm này, em

đã quyết định chọn đề tài “ Thực trạng BHTN nghề nghiệp tại Việt

Nam”, với mong muốn tìm hiểu, đưa ra cái nhìn tổng quan về nghiệp vụ

bảo hiểm này tại Việt Nam, cũng như xu hướng phát triển của sản phẩm

trong thời gian tới.

Trong thời gian thực hiện bài khóa luận này em đã nhận được sự

động viên, giúp đỡ từ rất nhiều phía. Trước hết, em xin chân thành cảm ơn

các thầy cô trường đại học Ngoại Thương đã chỉ bảo, dạy dỗ để em có

2

được ngày hôm nay. Và đặc biệt, em xin vô cùng cảm ơn cô Phạm Thanh

Hà, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành tốt bài khóa luận. Em

cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị trong Hiệp hội bảo hiểm

Việt Nam, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, chi nhánh Bảo Việt tại Hà

Nội, công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA, công ty Cổ phần bảo hiểm dầu khí

Việt Nam,…đã giải thích những thắc mắc, tạo mọi điều kiện giúp đỡ em

nghiên cứu đề tài này.

Do điều kiện thời gian và tài liệu có hạn, đề tài khá mới mẻ, kinh

nghiệm và khả năng của bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em

không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong các thầy cô xem xét,

đánh giá để khóa luận tốt nghiệp của em có tính thiết thực và toàn diện hơn

3

nữa. Em xin chân thành cảm ơn!

CHƢƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ

NGHIỆP

I. Khái quát chung về bảo hiểm trách nhiệm

1. Khái niệm bảo hiểm trách nhiệm

Trong cuộc sống, mỗi cá nhân hay mỗi tổ chức đều phải chịu trách

nhiệm trước pháp luật cho từng hành động, hành vi của mình. Nhìn chung,

khi một người gây ra thiệt hại cho người khác do sự bất cẩn của mình thì

phải chịu trách nhiệm trước những thiệt hại đó.

Đối với một cá nhân, có rất nhiều nguyên nhân có thể làm phát sinh

trách nhiệm pháp lý. Ví dụ, khi một cá nhân sử dụng một chiếc xe ô tô,

người đó có thể gây tai nạn cho người khác, theo quy định của pháp luật,

thì khi đó cá nhân đó phải có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại cho phía

nạn nhân. Hoặc một cá nhân cũng có thể phải bồi thường các thiệt hại do

động vật nuôi của anh ta gây ra cho người khác. Hay những người làm

công tác chuyên môn như bác sỹ, kế toán viên, luật sư,…đều phải chịu

trách nhiệm về nghề nghiệp của mình. Nếu họ bất cẩn trong chuyên môn

dẫn đến hậu quả gây ra thiệt hại về thân thể cũng như tài chính cho khách

hàng (chẳng hạn đưa ra lời tư vấn không chính xác, chữa bệnh sai phương

pháp,…gây thiệt hại) thì họ phải bồi thường.

Đối với một DN, theo quy định của luật pháp nhiều nước, chủ sử dụng

lao động phải có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền bồi thường và chi

phí y tế cho người lao động họ sử dụng, khi những người lao động đó bị tai

nạn trong quá trình lao động hoặc bị mắc các bệnh do nghề nghiệp mà

không phải do lỗi của bản thân người lao động.

Một DN cũng có thể sẽ phải bồi thường các thiệt hại do tài sản của

DN đó gây ra cho người khác (bất kể do lỗi của người chủ DN hay của

4

người làm thuê).

Trong quá trình sản xuất, các DN (các nhà máy hóa chất, nhà máy

công nghiệp,…) có thể gây ra ô nhiễm môi trường và khi đó, DN đó phải

có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại về thương tích hoặc tài sản đối với

người khác.

Các nhà sản xuất hoặc phân phối phải chịu trách nhiệm bồi thường các

thiệt hại do hàng hóa, sản phẩm của họ cung cấp gây ra cho khách hàng

hoặc cho những người khác (phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm) do

lỗi sản xuất, lỗi thiết kế, không có đủ các thiết bị an toàn, không có chỉ dẫn

hay chú ý đầy đủ (“hút thuốc có thể có hại cho sức khỏe”, “sử dụng thuốc

không đúng chỉ dẫn có thể nguy hiểm cho sức khỏe”,…). Đối với một số

sản phẩm, rủi ro trách nhiệm có thể là rất lớn, ví dụ các sản phẩm liên quan

đến ngành vận tải, máy móc thiết bị công nghiệp, đồ chơi, các sản phẩm

cho trẻ sơ sinh,…

Các thiệt hại trách nhiệm ở trên có thể phát sinh theo hợp đồng (giữa

các bên có liên quan trong hợp đồng, ví dụ theo hợp đồng lao động giữa

người lao động và người chủ sử dụng lao động, theo hợp đồng vận chuyển

giữa hãng vận chuyển và hành khách, theo hợp đồng mua bán giữa nhà sản

xuất và khách hàng,…); hay phát sinh ngoài hợp đồng (ví dụ các thiệt hại

phát sinh đối với một bên thứ ba). Nhưng cho dù là phát sinh theo hợp

đồng hay ngoài hợp đồng thì các trách nhiệm pháp lý đều dẫn tới thiệt hại

tài chính một cách gián tiếp cho cá nhân hay DN phải chịu trách nhiệm.

Tùy theo mức độ lỗi và thiệt hại thực tế của bên thứ ba mà thiệt hại trách

nhiệm phát sinh có thể là rất lớn hoặc không đáng kể. Trong trường hợp

thiệt hại trách nhiệm phát sinh là rất lớn, nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến

tài chính của cá nhân hay DN. Do đó các cá nhân và DN cần phải tham gia

BHTN, để khi trách nhiệm pháp lý phát sinh, họ sẽ được công ty BH bồi

thường những thiệt hại về mặt TNDS.

Như vậy, BHTN thực chất là một loại hợp đồng BH bảo vệ cho

5

NĐBH khi có khiếu nại của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là pháp nhân

hoặc cá nhân bị thương tật về thân thể hoặc thiệt hại tài sản do một tai

nạn, sự cố mà do NĐBH gây ra.

* Chú ý một số khái niệm đặc biệt trong bảo hiểm trách nhiệm

a/ Bên thứ ba: Bên thứ ba trong BHTN thông thường được nhận diện như

sau:

Bên thứ 1: Người hoặc công ty được bảo hiểm (NĐBH).

Bên thứ 2: Người bảo hiểm (NBH).

Bên thứ 3: Bất kỳ người nào hoặc bên nào khác có liên quan đến sự cố

tổn thất thuộc trách nhiệm của NĐBH.

b/ Trách nhiệm pháp lý: là những trách nhiệm của NĐBH theo quy định

của pháp luật, nó xác định NĐBH có trách nhiệm pháp lý bồi thường hay

không. Nếu NĐBH không có trách nhiệm pháp lý bồi thường, HĐBH sẽ

không đáp ứng.

Trách nhiệm pháp lý không phải là trách nhiệm theo đạo đức, hoặc

trách nhiệm thương mại, hoặc những trách nhiệm khác được NĐBH tự

nguyện gánh chịu mà luật pháp không ràng buộc.

2. Đặc điểm của BHTN

BHTN là một loại hình đặc biệt trong nhóm BHPNT. Nó có những

đặc điểm khác biệt so với các loại hình BH khác, thể hiện ở hình thức, đối

tượng BH, hay mức giới hạn trách nhiệm.

a/ Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng

Đối tượng BH của các hợp đồng BHTN là phần trách nhiệm hay nghĩa

vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa, trách nhiệm đó

là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia BH. Thông

thường, trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau:

- Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba;

- Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức được BH;

- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay

6

của tổ chức được BH với thiệt hại của bên thứ ba.

Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn

toàn do sự phán xử của tòa án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa

trên mức độ lỗi của người gây ra thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy

nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp tòa án sẽ không căn cứ vào

mức độ lỗi để phán xử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra

thiệt hại. Những trường hợp này thường hay gặp ở các nước áp dụng hệ

thống luật gọi theo tên tiếng Anh là common law, ví dụ như ở nước Mỹ.

b/ BHTN thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc

BHTN, ngoài việc nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho NĐBH, còn

có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích

công cộng và an toàn xã hội. Do vậy, loại hình BH này thường được các

nước quy định bắt buộc và được thể hiện rõ trong Luật KDBH của từng

nước (đây là một đặc điểm có lợi thế rất lớn đối với các nhà BH). Nhìn

chung, các loại hình BHTN được thực hiện dưới hình thức bắt buộc thông

thường có liên quan đến ba nhóm hoạt động chủ yếu sau:

- Thứ nhất, những hoạt động có nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn

nhân trong cùng một sự cố (ví dụ: kinh doanh vận chuyển hành

khách, sử dụng khí gas lỏng);

- Thứ hai, những hoạt động mà chỉ cần có một sơ suất nhỏ cũng có thể

dẫn đến thiệt hại trầm trọng về người (hoạt động của các y bác sỹ,

hoạt động có liên quan đến các loại dược phẩm);

- Thứ ba, những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể gây ra thiệt

7

hại lớn về tài chính, như: môi giới BH, tư vấn pháp luật.

Bảng 1

Một số loại hình BHTN được thực hiện bắt buộc ở một số nước trên

thế giới

Nước Các loại hình bảo hiểm bắt buộc

- BHTN của KTS, luật sư, chủ thầu xây dựng, kiểm

toán, đại lý BH, đại lý du lịch, công chứng viên.

Cộng hòa - BHTN của các cửa hàng dược phẩm.

Pháp - BHTN đối với hoạt động truyền máu, hoạt động nghiên

cứu y sinh.

Cộng hòa - BHTN của KTS, công chứng viên, thám tử.

Liên bang - BHTN đối với hoạt động tư vấn thuế, kiểm toán, chế

Đức biến dược phẩm.

- BHTN của chủ xe cơ giới đối với thương tật và chết

Indonesia gây ra cho bên thứ ba.

- Chương trình bồi thường cho người lao động, bao gồm

cả hưu trí và sức khỏe.

- BHTN của chủ xe đối với bên thứ ba.

- BH bồi thường cho người lao động.

Ma Cao - BHTN nghề nghiệp của đại lý du lịch.

- BHTN công cộng trong việc quảng cáo bằng đèn nê -

ông.

Nguồn: - Điều tiết và kiểm soát bảo hiểm ở Châu Á. OECD. 1999

- Bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự ở Châu Âu.

Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng, Tạp chí Tài chính tháng

11/1999.

Ở Việt Nam, Luật KDBH số 24/2000/QH10 ban hành ngày 09/12/2000

(có hiệu lực từ ngày 01/04/2001) đã nêu rõ các loại hình BHTN bắt buộc

8

bao gồm:

- Bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận

chuyển hàng không đối với hành khách;

- BHTN nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;

- BHTN nghề nghiệp của DN môi giới BH.

c/ Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không

Trong BHTN, chưa thể xác định được ngay thiệt hại TNDS phát sinh

tại thời điểm tham gia BH, và thông thường thiệt hại đó có thể là rất lớn.

Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia BH, các công ty BH

thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa

của BH (số tiền BH). Nói cách khác, thiệt hại TNDS có thể phát sinh rất

lớn nhưng công ty BH không bồi thường toàn bộ thiệt hại TNDS phát sinh

đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền BH. Đây là hình thức chủ yếu,

tuy nhiên cũng có những trường hợp BHTN không áp dụng giới hạn trách

nhiệm, mà điều này còn tùy thuộc vào từng nghiệp vụ và đặc điểm kinh tế

xã hội trong mỗi thời kỳ.

Ví dụ, hạn mức trách nhiệm được áp dụng trong hầu hết các nghiệp vụ

bảo hiểm TNDS như: bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ

ba, bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động với người lao động, trách

nhiệm của chủ hãng vận chuyển đối với hành khách, hàng hóa,…Nhưng

cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS không áp dụng giới hạn trách

nhiệm (thiệt hại TNDS phát sinh bao nhiêu, công ty BH bồi thường bấy

nhiêu), ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ tàu.

3. Phân loại BHTN

Hiện nay loại BHTN đang được triển khai dưới nhiều nghiệp vụ như:

- BHTN chung;

- Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba;

- Bảo hiểm TNDS của chủ tàu thuyền;

- BHTN gây ô nhiễm (Pollution Liability Insurance);

9

- BHTN người buôn bán nhỏ (Small business Liability Insurance);

- BHTN nhà thầu chính (General Contractor Liability Insurance);

- Bảo hiểm TNDS của nhà vận chuyển trong ngành hàng không dân

dụng;

- Bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động

(Employer Liability Insurance);

- BHTN công cộng (Public Liability Insurance);

- BHTN sản phẩm (Product Liability Insurance);

- BHTN nghề nghiệp (Professional Liability Insurance);

- BHTN cho các chủ nuôi gia súc,…

II. Khái quát chung về BHTN nghề nghiệp

1. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp

Trong số những nghiệp vụ của BHTN thì BHTN nghề nghiệp là một

trong những loại hình BH quan trọng và phổ biến nhất. BHTN nghề nghiệp

(có tên tiếng Anh là Professional liability insurance hay được hiểu là

Chuyên viên BHTN pháp lý) là loại hình BH cho NĐBH là chuyên gia của

một nghề nghiệp nhất định như chuyên viên kế toán, tư vấn pháp luật,

KTS, giám định viên, môi giới chứng khoán - bảo hiểm, bác sỹ, nha sỹ,

người hành nghề y,…hoặc các tổ chức nghề nghiệp như vậy. NBH bồi

thường cho các trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ ba phát sinh từ bất cẩn

của NĐBH hoặc nhân viên của họ dẫn đến tổn thất cho khách hàng.

Một số ví dụ về trách nhiệm nghề nghiệp:

- Thiết kế công trình sai gây thiệt hại về tài sản hoặc thương tật về

người cho bên thứ ba.

- Nhà môi giới BH tư vấn không đúng hoặc không đầy đủ cho khách

hàng gây hậu quả không được bồi thường hoặc bồi thường không

thỏa đáng.

- Bác sỹ chuẩn đoán sai bệnh, phẫu thuật nhầm bộ phận cơ thể hoặc

10

gắn nhầm kính sát trùng trong mắt trẻ em.

- Đại lý du lịch đăng ký nhầm tour du lịch cho khách hàng dẫn đến

khách hàng phải hoãn chuyến đi và phát sinh thêm chi phí khác.

Những người hành nghề chuyên môn phải thực hành công việc, thao

tác nghề nghiệp chuyên môn với sự cẩn thận và tay nghề đảm bảo yêu cầu

chuyên môn. Tuy nhiên, thực tế vì nhiều lý do vẫn có thể gây thiệt hại cho

bên thứ ba từ những hành động bất cẩn, những sai phạm hoặc thiếu sót

trong quá trình thực hiện các công việc chuyên môn, vì vậy cần phải có

BHTN nghề nghiệp.

Ở đây, cần phân biệt trách nhiệm nghề nghiệp với trách nhiệm chung

(general liability). Chẳng hạn: một bệnh nhân gặp tai nạn do dây điện nội

bộ mắc trong cây cối trong khu vực lối đi của cơ sở y tế đổ gãy, trường hợp

này có thể phát sinh trách nhiệm của chủ cơ sở y tế nhưng đó chưa phải là

loại trách nhiệm gắn với các công việc chuyên môn của nghề y; nhưng khi

bệnh nhân bị sốc thuốc do y tá đã thiếu mẫn cán trong việc theo dõi ca

truyền dịch -> trường hợp này thuộc về trách nhiệm nghề nghiệp của bác

sỹ, y tá.

Gắn với đặc tính của các lĩnh vực hoạt động chuyên môn khác nhau,

các sản phẩm BHTN nghề nghiệp cũng rất đa dạng: BHTN nghề nghiệp

KTS, kỹ sư trong xây dựng; BHTN nghề nghiệp môi giới BH; BHTN nghề

nghiệp môi giới chứng khoán; BHTN nghề nghiệp kiểm toán, tư vấn tài

chính; BHTN nghề nghiệp bác sỹ; BHTN nghề nghiệp nhân viên thẩm định

giá;...Có rất nhiều khác biệt trong quy định cụ thể của từng loại sản phẩm

đó, tuy nhiên cũng có một vài điểm chung rất cơ bản, đó là:

- Thứ nhất, thông thường bảo đảm có giới hạn cho NĐBH trách

nhiệm bồi thường theo luật đối với thiệt hại về tài sản hoặc tính mạng, sức

khỏe của bên thứ ba và chi phí pháp lý liên quan. Điều này có nghĩa là

DNBH chỉ bồi thường có giới hạn cho NĐBH, chỉ BH theo một mức giới

hạn trách nhiệm nhất định mà NĐBH phải đăng ký với DNBH khi tham gia

11

BH. Ngoài việc bồi thường những thiệt hại do vi phạm trách nhiệm nghề

nghiệp của NĐBH gây ra đối với bên thứ ba ra, DNBH còn chi trả những

chi phí pháp lý liên quan như chi phí trong quá trình kiện tụng, chi phí y tế,

chi phí phòng ngừa hạn chế tổn thất,…

- Thứ hai, BHTN nghề nghiệp có xu hướng bảo vệ khách hàng khỏi

những khiếu nại của bên thứ ba - bên không liên quan đến HĐBH và việc

chi trả tổn thất cũng không phải dành cho NĐBH mà cho người bị thiệt hại,

không phải là một bên của hợp đồng. Trách nhiệm của DNBH chỉ phát sinh

khi có khiếu nại, chỉ khi người thứ ba có dấu hiệu khiếu nại hoặc đã khiếu

nại thì DNBH mới vào cuộc.

- Thứ ba, cơ sở xác định trách nhiệm bảo hiểm:

+ Phải là hành động bất cẩn, lỗi hay sai sót: Nếu DNBH chứng

minh được rằng người tham gia BH cố ý gây tổn thất thì NĐBH sẽ

không được bồi thường, và NĐBH phải chịu hoàn toàn trách

nhiệm. Nhưng thường thì khi xảy ra sự cố, cơ quan công an sẽ vào

cuộc đầu tiên để xem các tình tiết có liên quan đến trách nhiệm

hình sự không. Nếu không có dấu hiệu hình sự thì cơ quan BH

mới vào cuộc, và trách nhiệm của cơ quan BH lúc này là xác định

tổn thất có phải do rủi ro được BH gây ra không, và phải là hành

động bất cẩn, lỗi hay sai sót của NĐBH thì cơ quan BH mới bồi

thường.

+ Phải xảy ra trong khi cung cấp dịch vụ chuyên môn: BHTN

nghề nghiệp bảo vệ trách nhiệm pháp lý của các nhà chuyên môn

khi cung cấp dịch vụ chuyên môn. Nếu như rủi ro gây ra tổn thất

không thuộc phạm vi BH, không phải xảy ra trong quá trình thực

hiện công việc chuyên môn nghề nghiệp thì DNBH sẽ không có

trách nhiệm bồi thường. Nếu tổn thất như vậy xảy ra nó sẽ nằm

trong phạm vi BH của sản phẩm BH khác, ví dụ như một bác sỹ

đã mua BHTN nghề nghiệp, đâm vào một người đi đường gây tai

12

nạn. Khi đó DN bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp sẽ không bồi

thường mà nó thuộc phạm vi của “BHTNDS đối với người thứ

ba”.

+ Phải hành động trong phạm vi ranh giới của nghề chuyên môn

nêu trong Giấy yêu cầu BH: khi tham gia BH, nhà chuyên môn

phải đăng ký với DNBH những rủi ro được BH, và ghi trong Giấy

yêu cầu BH. Tổn thất xảy ra trong khi cung cấp dịch vụ chuyên

môn nhưng không đăng ký trong Giấy yêu cầu BH thì cũng không

được bồi thường. Ví dụ như một bác sỹ chỉ yêu cầu BH trách

nhiệm pháp lý phát sinh khi cung cấp dịch vụ phẫu thuật, khi xảy

ra rủi ro liên quan đến việc bác sỹ kê nhầm thuốc cho bệnh nhân

không phẫu thuật thì bác sỹ đó tự chịu trách nhiệm về mình.

+ Phải xuất phát từ một bên thứ ba không có liên quan: DNBH sẽ

không bồi thường nếu đối tượng bị tổn thất chính là nhà chuyên

môn hay chính là người được BH và nhân viên của họ.

+ Trên cơ sở khiếu nại phát sinh: nghĩa là nếu gây ra tổn thất

nhưng nạn nhân không khiếu nại hoặc hai bên giải quyết bằng

cách riêng không phải là khiếu nại thì DNBH sẽ không có liên

quan. Đây chính là điểm đặc biệt của các sản phẩm BHTN. Một

khi xảy ra khiếu nại thì NĐBH phải thông báo ngay cho DNBH để

DNBH thực hiện các biện pháp nghiệp vụ bảo vệ quyền lợi của

khách hàng.

+ Trong thời hạn hồi tố: tức là, nếu tổn thất xảy ra đối với bên thứ

ba phát sinh trước thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố thì khiếu nại

liên quan sẽ không thuộc phạm vi BH.

- Thứ tư, những điểm loại trừ điển hình:

+ Những trách nhiệm do chấp nhận thực hiện các công việc

13

chuyên môn một cách không phù hợp với những tiêu chuẩn nghề

nghiệp hợp lý được chấp thuận (ví dụ, công việc cần một tháng là

hợp lý lại làm trong hai tuần). Hay tiêu chuẩn thiết kế căn nhà là

phải chịu được chấn động 7 độ nhưng khi có chấn động 3 độ đã đổ

rồi thì đây hoàn toàn là trách nhiệm của người thiết kế.

+ Các công việc thực hiện trong các lĩnh vực ngoài phạm vi lĩnh

vực chuyên môn.

+ Các loại tiền phạt: khi NĐBH mắc lỗi thì DNBH chỉ BH trách

nhiệm của NĐBH đối với tổn thất gây ra bởi rủi ro được BH cho

bên thứ ba, còn các khoản tiền phạt thì NĐBH phải tự gánh chịu.

* Chú ý một số khái niệm đặc biệt trong BHTN nghề nghiệp

- Sơ xuất, bất cẩn: được hiểu là NĐBH hoặc nhân viên của NĐBH

đã không thực hiện kỹ năng và sự cẩn trọng cần thiết trong khi thao tác

nghiệp vụ hoặc cung cấp tư vấn mà pháp luật hay các quy định nghề nghiệp

yêu cầu dẫn đến thiệt hại cho bên khác mà họ có trách nhiệm bồi thường

theo pháp luật. Hiện nay ở nhiều nước như Anh, Hoa Kỳ, Newzeland,

Australia, Canada, Hongkong,…áp dụng hệ thống Westminster về sơ xuất

và bất cẩn. Theo đó, sơ xuất và bất cẩn được hiểu là sai phạm dân sự phải

bồi thường, tức là, khi một người khác bị thiệt hại do lỗi của bạn thì theo

quy định của pháp luật bạn phải có trách nhiệm bồi thường cho họ  đây

được coi là cơ sở của BHTN nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng.

- Thời hạn hồi tố: ngày hồi tố là thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố.

Quy định về thời hạn hồi tố có nghĩa là: nếu tổn thất xảy ra đối với bên thứ

ba phát sinh trước thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố thì khiếu nại liên quan

sẽ không thuộc phạm vi BH. Một tổn thất chỉ có thể được xem xét bồi

thường khi nó xảy ra sau thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố và trước thời

điểm kết thúc thời hạn BH. Đồng thời khiếu nại liên quan phải được lập

trong thời hạn BH (có thể mở rộng cho 36 tháng tiếp theo kể từ ngày

14

HĐBH kết thúc với điều kiện là thông báo về sự cố có thể dẫn đến khiếu

nại phải được gửi cho NBH trong vòng 30 ngày sau khi kết thúc thời hạn

BH).

Cách thức quy định ngày hồi tố tùy thuộc vào 2 trường hợp sau:

+ BH có thời hạn BH theo năm: không áp dụng ngày hồi tố khi ký hợp

đồng năm đầu tiên hoặc đã ký trước đấy nhưng gián đoạn. Trong những

năm tiếp theo, đối với khách hàng tái tục hợp đồng và có thời gian tham gia

BH liên tục, thời gian hồi tố được phép tính từ ngày bắt đầu thời hạn BH

của đơn đầu tiên (thường là 3 năm trước đó), không hồi tố cho những thỏa

thuận mới không thuộc phạm vi BH trước đó hoặc có mức trách nhiệm thấp

hơn.

+ BH có thời hạn BH theo dự án: chỉ hồi tố cho những hợp đồng khi

không có tổn thất hoặc tổn thất tiềm tàng được biết đến cho đến khi HĐBH

có hiệu lực.

Như vậy, NĐBH phải chú ý thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường

hợp phát hiện tổn thất, cụ thể:

+ Trong thời hạn sớm nhất có thể được, nhưng trong mọi trường hợp

không được chậm hơn 30 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn BH ghi trong

giấy chứng nhận BH/ phụ lục hợp đồng, NĐBH phải gửi thông báo bằng

văn bản cho NBH hoặc người đại diện được ủy quyền của NBH với đầy đủ

thông tin về thời gian, địa điểm và tình huống phát sinh tổn thất, tên và địa

chỉ của những người bị thương và của nhân chứng nếu có.

+ Gửi ngay cho NBH mọi thư yêu cầu, thông báo, trát triệu tập hoặc

các yêu cầu khác mà NĐBH hoặc đại diện của họ đã nhận nếu có khiếu nại

phát sinh hay khiếu kiện chống lại NĐBH. NĐBH hay đại diện của họ

không được thừa nhận, hứa hẹn hoặc chi trả bất kỳ khoản tiền nào nếu

không được sự đồng ý bằng văn bản của NBH. NBH có quyền đứng tên

NĐBH tiến hành bào chữa hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào hoặc vì lợi

15

ích của chính mình thay mặt NĐBH theo đuổi bất kỳ khiếu kiện nào và

được tự mình toàn quyền trong việc tiến hành bất kỳ thủ tục pháp lý và giải

quyết bất kỳ khiếu nại nào.

2. Sự ra đời và phát triển của BHTN nghề nghiệp

a. Trên Thế giới

Ở Anh, luật trách nhiệm chủ lao động được ban hành năm 1880 không

chỉ khai sinh ra loại hình BHTN chủ lao động mà còn tạo ra nhu cầu về

BHTN nghề nghiệp ở rất nhiều ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, các loại

hình BHTN nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng vẫn bị xem như đi

ngược lại những chuẩn mực đạo đức, với lý do loại hình BH này khuyến

khích sự cẩu thả. Ban đầu, trình độ giáo dục thấp đã khiến nhiều nạn nhân

các vụ tai nạn có thể đã bỏ qua việc khiếu kiện chỉ bởi vì chưa bao giờ họ

nhận thức được rằng, về mặt pháp lý họ có quyền khiếu nại đòi bồi thường

những thiệt hại. Tuy nhiên, sau một số vụ khiếu nại thành công thời gian đó

đã khuyến khích mọi người tìm cách đòi bồi thường cho nhiều vụ việc

khác, khiến BHTN nghề nghiệp trở thành nhu cầu cấp thiết, đặc biệt với

những trách nhiệm phát sinh từ việc tư vấn hoặc điều trị mang tính chuyên

môn cao.

Ở Anh, dường như bác sỹ là đối tượng đầu tiên trong số những người

hoạt động chuyên môn tìm kiếm loại hình BH này. Tổ chức “Northern

Accident” đã triển khai BHTN của dược sỹ (người bán thuốc) năm 1896 và

bán BHTN của luật sư vào đầu thế kỷ XX. Năm 1992, loại hình BHTN của

KTS & KSTV cũng bắt đầu được bán ở Lloyd’s. Trong thế kỷ XX, do

quyết định của luật pháp và quyết định của tòa án, trách nhiệm của các nhà

chuyên môn nói chung và của KTS, KSTV nói riêng đã tăng lên đáng kể.

Hơn nữa, cùng với sự phát triển của xã hội, của công nghệ thông

tin,…những nguy hiểm, rủi ro phát sinh trong các hoạt động chuyên môn

cao ngày càng lớn. Chính vì vậy, ở Anh nói riêng và ở các nước phát triển

nói chung, BHTN nghề nghiệp vẫn duy trì và ngày càng phát triển, chiếm

16

một vị trí quan trọng, và thành một thói quen của các cá nhân và tổ chức.

b. Ở Việt Nam

BHTN nghề nghiệp đã du nhập vào thị trường BH Việt Nam từ năm

1995, cùng với sự có mặt của các công ty BH nước ngoài như Allianz,

QBE. Tuy nhiên, mãi đến sau khi Luật KDBH ra đời ngày 09/12/2000,

cùng với quy định của BTC về BHTN nghề nghiệp bắt buộc đối với hoạt

động môi giới BH và tư vấn pháp luật, cũng như hàng loạt các văn bản luật

chuyên ngành khác quy định về nghĩa vụ mua BHTN nghề nghiệp thì

BHTN nghề nghiệp mới có giá trị pháp lý đầy đủ và chính thức được các

công ty BH Việt Nam nghiên cứu đưa vào triển khai.

BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH đặc thù, liên quan đến nhiều

ngành nghề, nhiều lĩnh vực nên ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật KDBH

cũng như các văn bản, thông tư hướng dẫn, BHTN nghề nghiệp còn chịu sự

điều chỉnh của rất nhiều luật chuyên ngành khác như Luật Xây dựng, Luật

Chứng khoán, Luật Công chứng,…Dưới đây là tổng hợp 8 loại sản phẩm

BH được quy định bởi các văn bản pháp luật hiện hành và đang áp dụng

trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam:

Bảng 2

Tổng hợp Luật điều chỉnh nhóm BHTN nghề nghiệp

STT Loại bảo hiểm Quy định pháp luật tương Ngày áp

ứng dụng

1 Bảo hiểm TNNN cho công Điều 8 Luật KDBH năm 01/04/2001

ty môi giới BH 2000

2 Bảo hiểm TNNN cho luật Điều 40 Luật Luật sư 01/01/2007

3 Bảo hiểm TNNN cho Điều 71 Luật Chứng 01/01/2007

CTCK khoán

4 Bảo hiểm TNNN cho công Điều 72 Luật Chứng 01/01/2007

17

ty quản lý quỹ khoán

5 Bảo hiểm TNNN của Nhà Điều 58 Luật Xây dựng 01/07/2004

thầu thiết kế xây dựng công

trình

6 Bảo hiểm TNNN của Nhà Điều 90 Luật Xây dựng 01/07/2004

thầu giám sát thi công công

trình xây dựng

7 Bảo hiểm TNNN cho công Điều 25 Nghị định 30/03/2004

ty kiểm toán 105/2004/NĐ-CP về

kiểm toán độc lập

8 Bảo hiểm TNNN cho DN Điều 11 Nghị định 03/08/2005

TĐG 111/2005/NĐ-CP về

TĐG

(Nguồn: webbaohiem.net)

b1. Sự ra đời của BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV

Tại Việt Nam, Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành kèm

theo Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ) cùng

với Thông tư số 137/1999/TT - BTC ngày 19/11/1999 của BTC hướng dẫn

BH công trình xây dựng, là những văn bản pháp luật đầu tiên có vai trò

quan trọng đối với sự ra đời của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp KTS &

KSTV tại Việt Nam. Cụ thể, trong điểm 3, mục I của Thông tư

137/1999/TT - BTC có quy định “Các tổ chức tư vấn xây dựng, nhà thầu

xây lắp phải mua BHTN nghề nghiệp cho các sản phẩm tư vấn, cho vật tư

thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công, BH tai nạn đối với người lao động,

bảo hiểm TNDS đối với người thứ ba trong quá trình thực hiện dự án. Phí

BH được tính vào chi phí sản xuất”.

Như vậy, theo quy định của Thông tư 137/1999/TT - BTC thì các tổ

chức tư vấn xây dựng phải mua BHTN nghề nghiệp cho các sản phẩm tư

18

vấn của mình. Hiện nay, đã có Thông tư 76/2003/TT - BTC thay thế Thông

tư 137/1999/TT - BTC của BTC hướng dẫn BH công trình xây dựng, tuy

nhiên điều khoản quy định về BHTN nghề nghiệp cho tổ chức tư vấn xây

dựng vẫn không thay đổi.

Sau khi Thông tư 137/1999/TT - BTC của BTC ra đời thì Bảo Việt là

công ty BH đầu tiên đã xúc tiến việc nghiên cứu loại hình BH này và đã áp

dụng mẫu đơn BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV của Munich Re có sự

điều chỉnh, biên soạn lại cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Sau một

thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, ngày 05/11/2001 Bảo Việt đưa ra Quyết

định số 3435/2001/BV/QĐ - TGĐ quyết định về việc cho phép các công ty

BHPNT thành viên của Bảo Việt triển khai BHTN nghề nghiệp KTS &

KSTV. Đây là mốc thời gian đánh dấu sự ra đời của BHTN nghề nghiệp

KTS & KSTV ở Việt Nam. Ngoài Bảo Việt, công ty cổ phần BH

Petrolimex (PJICO) là công ty tiếp theo triển khai loại hình BH này.

Như vậy, có thể nói BHTN nghề nghiệp cho KTS & KSTV là loại

hình BHTH nghề nghiệp ra đời sớm nhất ở Việt Nam. Đến nay, hầu hết

các công ty BHPNT đều kinh doanh loại hình BH này, nó là sản phẩm

chính, và phổ biến nhất của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam

(chiếm đến 80% doanh thu phí BHTN nghề nghiệp).

b2. Sự ra đời của BHTN nghề nghiệp luật sư

Ra đời sau loại hình BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV là loại hình

BHTN nghề nghiệp luật sư. Liên quan đến việc hành nghề tư vấn pháp luật

của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, điều 30, 31 Nghị định

92/1998/NĐ - CP ngày 10/11/1998 của Chính phủ có quy định “chi nhánh,

tổ chức luật sư nước ngoài phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật

chất do lỗi của luật sư của chi nhánh gây ra cho khách hàng; chi nhánh có

nghĩa vụ mua BHTN nghề nghiệp cho luật sư của mình hành nghề tại Việt

Nam”. Hướng dẫn thi hành nghị định 92 của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban

hành Thông tư số 08/1999/TT - BTP ngày 13/02/1999 trong đó quy định,

19

chi nhánh tổ chức luật sư và luật sư nước ngoài có thể mua BHTN nghề

nghiệp luật sư tại một công ty BH được phép hoạt động tại Việt Nam; hoặc

trong trường hợp tổ chức luật sư nước ngoài đã có BHTN nghề nghiệp cho

luật sư hành nghề tại Việt Nam, thì không phải mua BHTN nghề nghiệp tại

Việt Nam mà chỉ cần xuất trình Bộ Tư pháp giấy tờ xác nhận về việc BH

đó. Chính vì quy định thông thoáng này của Thông tư số 08 cho nên đến

trước năm 2001, loại hình BHTN nghề nghiệp cho luật sư vẫn chưa phát

triển tại thị trường BH Việt Nam. Chỉ sau khi Pháp lệnh về luật sư năm

2001 ra đời thì loại hình BH này mới được các công ty BHPNT Việt Nam

tiến hành nghiên cứu để triển khai. Điều 23 của Pháp lệnh này có quy định,

một trong những nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư là phải bồi thường

thiệt hại do lỗi của luật sư mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện

tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác và phải mua BHTN nghề nghiệp

cho luật sư. Tuy nhiên, Luật KDBH năm 2001 lại không có quy định gì về

nghiệp vụ BH này, và BTC cũng chưa soạn thảo ra bộ quy tắc và biểu phí

cho BH bắt buộc BHTN nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật

này. Vì vậy, 4 năm sau, sau khi Bảo Minh xây dựng và tung ra thị trường

“Quy tắc BHTN nghề nghiệp cho luật sư” thì loại hình BH này mới thực sự

đi vào hoạt động tại thị trường BH Việt Nam. Đến ngày 10/08/2005, văn

phòng luật sư Phan Trung Hoài đã là văn phòng luật sư đầu tiên tại Việt

Nam mua BHTN nghề nghiệp cho luật sư.

b3. Sự ra đời của BHTN nghề nghiệp bác sỹ

Đến nay, Luật khám chữa bệnh của chúng ta vẫn chưa có quy định gì

về việc các bác sỹ, y tá, kỹ thuật viên làm việc tại các cơ sở y tế phải mua

BHTN nghề nghiệp. Do đó, việc mua BH vẫn hoàn toàn không có ràng

buộc. Tuy nhiên, căn cứ vào nhu cầu của thị trường, các DNBH vẫn xây

dựng “Quy tắc BHTN nghề nghiệp bác sỹ” dựa trên những kinh nghiệm học

hỏi từ các DNBH nước ngoài tại Việt Nam và các DNBH trên Thế giới.

20

Khi có hợp đồng BHTN nghề nghiệp bác sỹ được ký thì DNBH và NĐBH

sẽ căn cứ theo quy tắc BHTN nghề nghiệp bác sỹ của DNBH và các văn

bản luật điều chỉnh hoạt động khám chữa bệnh để thực hiện hợp đồng.

b4. Sự ra đời của BHTN nghề nghiệp công chứng viên

Trong dự thảo Luật công chứng, Hội nghị đại biểu chuyên trách lần

thứ IX có đưa ra: CCV tại các Văn phòng công chứng phải mua BHTN

nghề nghiệp hay ký quỹ để đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm công việc

chuyên môn của mình. Điều 32, khoản 8, Luật công chứng có hiệu lực

ngày 01/07/2007 có quy định “Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua

BHTN nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình.” Hoạt động công chứng do

Luật công chứng điều chỉnh, BHTN nghề nghiệp cho hoạt động công

chứng sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật công chứng, Luật KDBH, các văn

bản điều chỉnh hoạt động KDBH và quy tắc BHTN nghề nghiệp cho CCV

được BTC chấp nhận.

b5. Sự ra đời của BHTN nghề nghiệp kiểm toán viên

Khoả n 4, đ iề u 25, Nghị định 105/2004/NĐ - CP về kiểm toán độc

lập có quy định: mua BHTN nghề nghiệp cho kiểm toán viên hoặc trích lập

Quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp theo quy định của BTC để tạo nguồn chi

trả bồi thường thiệt hại do lỗi của DN gây ra cho khách hàng. Chi phí mua

BH hoặc trích lập Quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp được tính vào chi phí

kinh doanh theo quy định của BTC.

* Riêng đối với BHTN nghề nghiệp của DN môi giới BH, và BHTN

nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật tuy đã được quy định bắt

buộc trong Luật KDBH số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000, nhưng đến nay

BTC vẫn chưa đưa ra quy tắc và biểu phí cho hai loại hình BH bắt buộc

này. Và cũng chưa có một chế tài cưỡng chế, xử phạt nào cụ thể được đưa

ra để buộc các bên phải thực hiện. Đó là vấn đề rất khó hiểu, và rất đáng

phải bàn trong cách đề ra và thực hiện Luật pháp của nước ta.

21

3. Sự cần thiết khách quan của BHTN nghề nghiệp

a. Tầm quan trọng của BHTN

Trong cuộc sống, vào một lúc nào đó, mỗi người do bất cẩn có thể

gây ra thiệt hại về người hoặc tài sản cho người khác. Khi nạn nhân chứng

minh được thiệt hại đó là do lỗi của chúng ta, chúng ta phải có trách nhiệm

bồi thường. Bất cẩn có thể hiểu là việc thiếu cẩn thận khi làm một việc gì

đó hoặc bỏ qua không làm một việc gì đó. Bất cẩn làm phát sinh trách

nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (sai phạm dân sự) dẫn đến việc khiếu nại đòi

bồi thường. Và người bất cẩn phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quyết

định của tòa án, đó cũng là một việc thỏa đáng, hợp tình hợp lý nhằm đảm

bảo công bằng cho mọi người trong xã hội. Cho dù một người có thể chứng

minh được rằng họ không gây nên thương tích về người hoặc tổn thất về tài

sản dẫn đến khiếu kiện thì người đó vẫn có thể phải chịu một số chi phí tư

vấn pháp luật hay bào chữa cho vụ kiện. Tất cả những vấn đề rắc rối liên

quan đến vụ kiện như vậy có thể được giải quyết ổn thỏa khi một cá

nhân hay tổ chức mua loại BHTN thích hợp. Chính vì vậy, BHTN là một

trong những loại BH chính có vai trò quan trọng trong đời sống kinh

doanh và xã hội.

BHTN ra đời là để giúp các cá nhân và các tổ chức ổn định cuộc sống

và hoạt động của mình khi không may phát sinh khiếu nại trách nhiệm

pháp lý. Và để phát huy được vai trò tích cực của mình, BHTN có một đặc

điểm đặc thù là thường quy định mức giới hạn trách nhiệm, tức là các mức

bồi thường tối đa của BH (số tiền BH). Nói cách khác, thiệt hại TNDS có

thể phát sinh rất lớn nhưng công ty BH không bồi thường toàn bộ thiệt hại

TNDS phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền BH. Quy định

này đã góp phần nâng cao trách nhiệm của những người tham gia BH

và đồng thời cũng phản bác được quan điểm là BHTN khuyến khích sự

cẩu thả.

22

b. Vai trò của BHTN nghề nghiệp

BHTN có nhiều loại như BHTN của chủ lao động, BHTN sản phẩm,

BHTN công cộng,…Mỗi loại BHTN có đối tượng BH tham gia khác nhau.

BHTN nghề nghiệp là loại hình BH cho NĐBH là chuyên gia của một nghề

nghiệp nhất định như chuyên viên kế toán, tư vấn pháp luật, KTS, giám

định viên, môi giới chứng khoán - bảo hiểm, bác sỹ, nha sỹ, người hành

nghề y,…Do yêu cầu chuyên môn cao của tính chất công việc, trong khi

làm việc họ có thể xao lãng hoặc mắc lỗi, hay tư vấn sai về chuyên môn

gây nên thiệt hại cho khách hàng hoặc bên thứ ba khác. Và thông thường,

những thiệt hại phát sinh này là rất lớn, có hậu quả nghiêm trọng, bản thân

người có trách nhiệm nhiều khi khó có thể tự mình đảm nhận được việc bồi

thường. Ngoài ra, còn gây nên hệ quả về mặt tâm lý, dẫn đến việc xao lãng

công tác chuyên môn và gây nên những hậu quả khôn lường khác. Trong

những trường hợp đó thì BHTN nghề nghiệp là một biện pháp chống rủi

ro có nhiều ưu điểm nhất so với bất kỳ biện pháp nào khác. Nó không

chỉ bảo vệ tốt các quyền lợi của khách hàng, của người có liên quan, mà

còn là tấm lá chắn, là chỗ dựa vững chắc giúp người hành nghề yên tâm

làm việc trong điều kiện cuộc sống nghề nghiệp có nhiều bất trắc.

Mỗi khi NĐBH gây thiệt hại cho khách hàng hoặc cho người nào đó

mà không do lỗi cố ý, NBH sẽ đứng ra bồi thường. Người bị thiệt hại

không phải mất nhiều thì giờ, công sức cho các vụ kiện cáo trực tiếp và kéo

dài mà có khi chẳng đi đến đâu, do người gây thiệt hại không có đủ tài sản

để thực hiện trách nhiệm vật chất.

Việc giao kết hợp đồng BH, nếu được thực hiện thông qua vai trò của

hội nghề nghiệp, còn cho phép thiết lập mối quan hệ tương trợ giữa các hội

viên, cả trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp phí BH và trong nghĩa vụ bồi

thường cho người bị thiệt hại. Bằng điều lệ, hội có thể quy định mức phí

BH phải nộp tùy theo thâm niên, doanh thu ổn định của hội viên. Như vậy,

người mới vào nghề, hoạt động trong những điều kiện khó khăn, doanh thu

23

thấp và nộp phí BH thấp, vẫn có thể được hưởng chế độ BHTN giống như

người đã vào nghề lâu năm, làm ăn trong những điều kiện thuận lợi và có

doanh thu cao. Quan trọng hơn hết, việc BHTN nghề nghiệp giúp NĐBH

tiếp tục đứng vững sau tai nạn nghề nghiệp. Một khi thiệt hại gây ra được

bồi thường thỏa đáng, NĐBH có thể tiếp tục hành nghề trong những điều

kiện bình thường; bài học đắt giá sẽ khiến người hành nghề càng thận trọng

trong hoạt động chuyên môn.

Trái lại, trong trường hợp không có chế độ BH, người hành nghề mà

gặp nạn có nguy cơ sụp đổ dưới gánh nặng của trách nhiệm vật chất, nói

nôm na là “tán gia bại sản”, và không thể gượng dậy được nữa. Nếu đó là

người thật sự có tài có đức thì xã hội sẽ phải gánh chịu tổn thất, bởi đào tạo

người thay thế xứng đáng là việc rất tốn kém, mất nhiều thời gian và không

hề dễ dàng.

Như vậy, có thể nói BHTN nghề nghiệp không chỉ có vai trò quan

trọng trong việc bảo vệ lợi ích cho các cá nhân - những người hành nghề

chuyên môn; mà còn có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế; với xã hội và với

những khách hàng - những đối tượng phục vụ của các nhà chuyên môn này.

c. Vai trò của BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam

Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế thế

giới. Các hoạt động kinh doanh đang diễn ra theo chiều hướng ngày càng

sôi động và mức sống của người dân cũng được cải thiện từng ngày.

Đường phố có nhiều xe cộ hơn, tốc độ xây dựng công trình, nhà cửa tại các

tỉnh thành tăng nhanh và số lượng khách nội địa đi du lịch nước ngoài cũng

tăng,...Thế nhưng, đằng sau những tín hiệu đáng mừng ấy là vô số những

rủi ro tiềm ẩn, và kèm theo đó là các yêu cầu hoàn thiện nghề nghiệp luôn

luôn tăng lên, các rủi ro chuyên môn mới bổ sung vào các rủi ro truyền

thống. Chẳng hạn như trong ngành xây dựng, bởi vì vật liệu xây dựng và

kỹ thuật xây dựng đang luôn luôn biến đổi, vì thế khi KTS hay KSTV sử

dụng những loại vật liệu mới nhất định nào đó, họ phải chịu trách nhiệm

24

trước chủ đầu tư về việc khẳng định những vật liệu nào phù hợp với mục

đích đã định. Do mong muốn có được sản phẩm tiện lợi và hiện đại, việc áp

dụng cái mới sẽ làm tăng mức độ rủi ro trong hoạt động của các KTS và

KSTV.

Sự tồn tại khách quan của rủi ro là lý do đưa đến sự hoạt động của

ngành BH. Sự gia tăng của những rủi ro nghề nghiệp khách quan là lý do

dẫn đến sự ra đời của sản phẩm BHTN nghề nghiệp. BHTN nghề nghiệp

tham gia vào thị trường BHPNT Việt Nam từ năm 2001 với mục đích bảo

vệ lợi ích của các nhà chuyên môn - những chuyên gia mà sự đóng góp của

họ đối với nền kinh tế, đối với xã hội là rất lớn. Vì vậy, có thể nói cùng với

sự phát triển của nền kinh tế xã hội thì vai trò của BHTN nghề nghiệp là

ngày càng quan trọng.

III. Những nội dung cơ bản của hợp đồng BHTN nghề nghiệp

1. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm

a. Đối tượng bảo hiểm

Một trong những đặc điểm cơ bản của BHTN là đối tượng BH rất trừu

tượng, vì đó là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại. Đối

tượng BH của BHTN nghề nghiệp cũng không nằm ngoài đặc điểm đó. Nó

BH cho trách nhiệm của các chuyên gia hoạt động trong những lĩnh vực đòi

hỏi chuyên môn như hoạt động tư vấn, môi giới, khám chữa bệnh,…Do

yêu cầu chuyên môn cao của tính chất công việc, trong khi làm việc họ có

thể xao lãng hoặc mắc lỗi, hay tư vấn sai về chuyên môn gây nên thiệt hại

cho khách hàng hoặc bên thứ ba khác. Khi đó, theo quy định của pháp luật

họ có trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại do lỗi hay sơ xuất, bất

cẩn của họ. Và loại hình BHTN nghề nghiệp chính là loại hình BH cho

những trách nhiệm hay nghĩa vụ đó.

b. Đối tượng tham gia bảo hiểm

BHTN nghề nghiệp là loại hình BH cho NĐBH là chuyên gia của một

nghề nghiệp nhất định. Vì vậy, đối tượng tham gia loại hình BH này là các

25

cá nhân hay tổ chức hoạt động nghề nghiệp trong những lĩnh vực đòi hỏi

tính chuyên môn cao, ví dụ như: bác sỹ, luật sư, KTS & KSTV, nhân viên

môi giới bảo hiểm - chứng khoán, kiểm toán viên,…Tùy từng loại BH cụ

thể, đối tượng tham gia BH được quy định chi tiết là khác nhau.

Chẳng hạn, BHTN nghề nghiệp cho KTS & KSTV áp dụng cho đối

tượng tham gia là các cá nhân và DN trong nước hoạt động trong lĩnh vực

kiến trúc, tư vấn, giám sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả

thi,…; các công ty thiết kế, tư vấn liên doanh với nước ngoài; các công ty

thiết kế, tư vấn 100% vốn nước ngoài;… tất cả sẽ được sử dụng chung

thuật ngữ là “Các DN hành nghề thiết kế và tư vấn”. Ở Việt Nam, BHTN

nghề nghiệp KTS & KSTV áp dụng bắt buộc đối với các dự án đầu tư bằng

các nguồn vốn sau:

- Vốn ngân sách Nhà nước.

- Vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh.

- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.

Như vậy, các DN hành nghề thiết kế và tư vấn trong các dự án sử

dụng các nguồn vốn nói trên là đối tượng bắt buộc phải tham gia BHTN

nghề nghiệp KTS & KSTV.

BHTN nghề nghiệp cho luật sư áp dụng cho những đối tượng là các

luật sư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; các văn phòng luật sư hay

công ty luật hợp danh của Việt Nam được thành lập để hành nghề luật sư,

thực hiện tư vấn pháp luật hay cung cấp các dịch vụ pháp lý khác. (Nguồn:

Theo điều 23 của Pháp lệnh luật sư số 37/2001/PL - UBTVQH10).

BHTN nghề nghiệp cho công chứng áp dụng cho những VPCC tư

được thành lập từ tháng 07/2008 theo quyết định của Bộ tư pháp. (Theo

khoản 5, khoản 7 - điều 32 của Luật công chứng số 82/2006/QH11 được

ban hành ngày 29/01/2006 có quy định: Tổ chức hành nghề công chứng có

26

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công

chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng. VPCC có nghĩa vụ mua

BHTN nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình).

BHTN nghề nghiệp cho bác sỹ áp dụng cho NĐBH là các bác sỹ, y tá,

nhân viên y tế làm việc tại các bệnh viện, các trung tâm, cơ sở y tế,…

được gọi chung là “những người hành nghề y”.

2. Phạm vi bảo hiểm

Như đã đề cập ở trên, BHTN nghề nghiệp ra đời với mục đích hỗ trợ

về mặt tài chính cho các cá nhân, tổ chức hoạt động trong những lĩnh vực

đòi hỏi chuyên môn cao khi phát sinh các trách nhiệm pháp lý đối với bên

thứ ba mà họ phải bồi thường theo phán quyết của tòa án. Các công ty BH

khi triển khai loại hình BH này đều quy định phạm vi BH và cả những

điểm cần loại trừ một cách rõ ràng. Các quy định này được đưa ra, một mặt

buộc các đối tượng tham gia BH phải phát huy tinh thần trách nhiệm để đề

phòng, hạn chế các rủi ro mà họ có thể gặp phải, mặt khác tránh cho các

công ty BH khỏi những tổn thất từ việc trục lợi BH của NĐBH. Trách

nhiệm bồi thường của công ty BH nhìn chung được xác định dựa vào rủi ro

xảy ra thuộc rủi ro được BH hay nằm trong phạm vi loại trừ.

a. Các rủi ro được bảo hiểm

Cũng giống như các loại hình BH khác, trong loại hình BHTN nghề

nghiệp, trước hết, các công ty BH thường đưa ra phạm vi công việc của từng

lĩnh vực chuyên môn được BH. Căn cứ vào đó, khách hàng có thể lựa chọn

xem họ dự định mua BH cho những công việc nào.

Nhìn chung, trách nhiệm được BH trong loại hình BHTN nghề nghiệp

được xác định dựa trên những cơ sở sau:

- Phải là hành động bất cẩn, lỗi hay sai sót.

- Phải xảy ra trong khi cung cấp dịch vụ chuyên môn.

- Phải hành động trong phạm vi ranh giới của nghề chuyên môn đã

27

nêu trong Giấy yêu cầu BH.

- Phải xuất phát từ một bên thứ ba không có liên quan.

- Trên cơ sở khiếu nại phát sinh.

- Trong thời hạn hồi tố.

Tuy nhiên, đối với từng loại BHTN nghề nghiệp khác nhau có các

phạm vi được BH khác nhau

a1. BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV

Trong BHTN nghề nghiệp của KTS & KSTV, phạm vi công việc

được BH bao gồm: thiết kế, tư vấn - giám sát và lập báo cáo khả thi. Các

công việc này lại được phân loại cụ thể như sau:

 Công việc và sản phẩm thiết kế có thể tham gia BH bao gồm:

* Phân loại theo trình tự thiết kế:

+ Thiết kế kỹ thuật, thuyết minh, tổng dự toán công trình;

+ Thiết kế bản vẽ thi công, dự toán chi tiết;

+ Giám sát tác giả.

* Phân loại theo nội dung thiết kế:

+ Thiết kế công nghệ (sản xuất hoặc sử dụng) bao gồm: giải

pháp công nghệ sản xuất (sử dụng); thiết kế dây chuyền sản xuất (sử

dụng), lắp đặt thiết bị; thiết kế hệ thống kỹ thuật theo dây chuyền sản

xuất như: cấp nhiệt, điện, hơi, thông gió, an toàn sản xuất, phòng

chống cháy nổ, độc hại,…;

+ Thiết kế xây dựng công trình (thiết kế kiến trúc và xây dựng)

bao gồm: giải pháp kiến trúc, giải pháp kỹ thuật xây dựng, thiết kế bên

trong công trình, thiết kế bên ngoài công trình (cây xanh, sân đường,

vỉa hè,…); thiết kế hệ thống kỹ thuật cấp nhiệt, điện hơi, dầu, cấp -

thoát nước, thông gió, điều hòa không khí, chiếu sáng, âm thanh,

thông tin, tín hiệu, phòng chống cháy nổ,…

 Các hoạt động tư vấn - giám sát, lập báo cáo khả thi,…

+ Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi;

28

+ Lập báo cáo nghiên cứu khả thi;

+ Lập báo cáo đầu tư;

+ Thẩm định dự án đầu tư, thẩm định thiết kế kỹ thuật; thẩm định tổng

dự toán (trường hợp thuê các chuyên gia hoặc các tổ chức tư vấn thực

hiện các công việc này);

+ Lập hồ sơ mời thầu xây lắp và phân tích, đánh giá hồ sơ dự thầu xây

lắp;

+ Lập hồ sơ mời thầu mua sắm vật tư - thiết bị và phân tích, đánh giá

hồ sơ dự thầu mua sắm vật tư - thiết bị;

+ Giám sát thi công xây dựng;

+ Giám sát lắp đặt thiết bị.

a2. BHTN nghề nghiệp luật sư

BHTN nghề nghiệp luật sư là loại hình BH bồi thường cho NĐBH

những thiệt hại tài chính mà họ có trách nhiệm phải bồi thường cho khách

hàng, thân chủ của mình phát sinh từ những sai sót hay bất cẩn mà các

cộng sự, luật sư và nhân viên làm công cho NĐBH gây ra trong quá trình

thực hiện công việc, dịch vụ tư vấn pháp lý, tranh tụng,...

Trong BHTN nghề nghiệp cho luật sư, công ty BH sẽ bảo hiểm cho

những trách nhiệm sau:

- Trách nhiệm pháp lý phát sinh vì những điều lăng mạ hoặc vu khống

do những văn bản hoặc lời nói của NĐBH, hoặc nhân viên của

NĐBH.

- Trách nhiệm pháp lý phát sinh từ sự kiện mất mát, bị tịch thu hoặc bị

hư hỏng đối với các tài liệu thuộc quyền nắm giữ hoặc kiểm soát của

NĐBH hoặc từ bất kỳ một cơ sở hoạt động nào; hoặc đang trong quá

trình chuyển giao cho người nhận hay người đại diện của họ ở bất kỳ

nơi nào bằng đường bưu điện.

Công ty BH sẽ chi trả toàn bộ chi phí bồi thường và các phí tổn chi trả

cho NĐBH đối với mỗi một sự cố BH đã nêu ở trên. Công ty BH sẽ thực

29

hiện trách nhiệm bồi thường đối với các khiếu nại phát sinh trong thời hạn

quy định của đơn BH; NĐBH thông báo bằng văn bản cho công ty BH.

(Nguồn: Quy tắc BHTN nghề nghiệp luật sư của Bảo Việt).

a3. BHTN nghề nghiệp bác sỹ

Những “tai nạn nghề nghiệp” của bác sỹ thuộc phạm vi BH gồm:

- Sai sót trong chuẩn đoán, điều trị, xét nghiệm, gây mê, hồi sức, phẫu

thuật, kê nhầm đơn thuốc.

- Không thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo đảm vệ sinh.

- Sai sót trong quá trình bảo dưỡng, vận hành các thiết bị máy móc,

dẫn đến hư hỏng, trục trặc trong quá trình khám chữa bệnh.

(Nguồn: Quy tắc BHTN nghề nghiệp cho bác sỹ của Bảo Việt).

b. Các rủi ro loại trừ

Ngoài các rủi ro được BH nói trên, các công ty BH cũng đưa ra các

điểm loại trừ trong Đơn BHTN nghề nghiệp. Thông thường, những điểm

loại trừ được các công ty BH quy định chi tiết hơn các rủi ro được BH, một

mặt nâng cao trách nhiệm của những NĐBH, mặt khác tránh cho các công

ty BH khỏi những tổn thất từ việc trục lợi BH của NĐBH. Những điểm loại

trừ này cũng có thể được BH nếu có các điều khoản sửa đổi kèm theo đơn

hoặc không, tùy thuộc vào thỏa thuận giữa công ty BH và NĐBH.

Những loại trừ điển hình được quy định chung cho tất cả các loại

BHTN nghề nghiệp, đó là:

+ Những trách nhiệm do chấp nhận thực hiện các công việc chuyên

môn một cách không phù hợp với những tiêu chuẩn nghề nghiệp hợp lý

được chấp thuận (ví dụ: công việc cần một tháng là hợp lý lại làm

trong hai tuần).

+ Các công việc thực hiện trong các lĩnh vực ngoài phạm vi lĩnh vực

chuyên môn.

+ Các loại tiền phạt.

Tùy từng loại BHTN nghề nghiệp khác nhau quy định chi tiết các

30

điểm loại trừ khác nhau. Chẳng hạn, trong Đơn BHTN nghề nghiệp cho bác

sỹ có quy định công ty BH sẽ không bồi thường cho NĐBH trong các

trường hợp sau:

- Thiệt hại xảy ra liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của

NĐBH (nhân viên trong bệnh viện);

- Các dịch vụ y tế được cung cấp ngoài phạm vi chuyên môn của

nhân viên y tế (ví dụ: bác sĩ chuyên khoa tim mạch thực hiện các

ca phẫu thuật thần kinh);

- Trong quá trình thực hiện công việc, nhân viên y tế vi phạm các

quy định nghề nghiệp như: chịu tác động của các chất say hoặc ma

túy, vi phạm y đức...;

- Các thương tật, tử vong phát sinh trong quá trình truyền máu, triệt

sản, chữa vô sinh, phẫu thuật thẩm mỹ, hoặc liên quan đến một số

loại bệnh như viêm gan, AIDS,...

- Những rủi ro do hành động có chủ ý của bác sỹ, rủi ro liên quan

đến chiến tranh, phóng xạ,...(Nguồn: Quy tắc BHTN nghề nghiệp

cho bác sỹ của Bảo Việt).

* Những rủi ro loại trừ trong Đơn BHTN nghề nghiệp cho KTS &

KSTV, những rủi ro loại trừ trong Đơn BHTN nghề nghiệp cho luật sư

theo quy tắc BHTN nghề nghiệp của Bảo Việt được trình bày ở Phụ lục I

và II kèm theo.

3. Thời hạn bảo hiểm

Các đơn BHTN nghề nghiệp có thể được cấp mới hoặc được gia hạn

theo thời hạn cố định là một năm (gọi tắt là BH theo năm) hoặc cũng có thể

được BH theo từng vụ việc, từng dự án cụ thể.

- BH theo năm có nghĩa là BH mọi trách nhiệm nghề nghiệp của

NĐBH trong năm BH phát sinh từ bất kỳ dự án nào họ thực hiện

31

trong năm đó.

- BH theo vụ việc, dự án chỉ BH trách nhiệm chuyên môn của

NĐBH phát sinh từ một vụ việc, dự án cụ thể, thời hạn BH phụ

thuộc vào thời gian kéo dài dự án hay vụ việc.

4. Hạn mức trách nhiệm (số tiền BH)

BHTN nghề nghiệp có đặc điểm đặc thù là mang tính trừu tượng do

tính trừu tượng của bản thân thuật ngữ “trách nhiệm”, số tiền phải thanh

toán đối với trách nhiệm pháp lý phát sinh đối với bên thứ ba, vì thế hoàn

toàn phụ thuộc vào sự phán xử của tòa án dựa trên mức độ thiệt hại phát

sinh. Tuy nhiên, thiệt hại làm phát sinh trách nhiệm pháp lý có thể không

xác định được ngay tại thời điểm tham gia BH và thiệt hại đó có thể rất lớn.

Vì thế, để “tự bảo vệ mình”, cũng như nâng cao trách nhiệm của NĐBH,

các công ty BH thường thỏa thuận trước với NĐBH về hạn mức trách

nhiệm. Hạn mức trách nhiệm trong BHTN nghề nghiệp được xác định phụ

thuộc vào phạm vi và quy mô hoạt động dịch vụ của NĐBH, được ấn định

cho mỗi khiếu nại và tổng cộng cho toàn bộ thời hạn BH, căn cứ theo các

trường hợp: sự cố khiếu nại bồi thường một lần và sự cố khiếu nại bồi

thường nhiều lần theo hạn mức trách nhiệm. Theo đó, trách nhiệm bồi thường

của NBH đối với các khoản chi phí phải trả liên quan đến các khiếu nại bồi

thường trong thời hạn hợp đồng sẽ không vượt quá hạn mức trách nhiệm quy

định trong Giấy chứng nhận BH. Trường hợp có khiếu nại hàng loạt, hai hay

nhiều khiếu nại phát sinh từ một hành vi bất cẩn (ví dụ từ cùng một lỗi tính

toán, lỗi hoạch định hoặc giám sát trong BHTN nghề nghiệp) thì bất kể số

người bị thiệt hại, tất cả các khiếu nại này được coi là một khiếu nại và

ngày xảy ra tổn thất là ngày mà khiếu nại đầu tiên trong một loạt khiếu nại

được phát ra bằng văn bản chống lại NĐBH.

* Hiện nay, giới hạn bồi thường cho BHTN nghề nghiệp bác sỹ đang

được áp dụng tại Việt Nam không vượt quá USD 200.000/ vụ và tổng cộng

(hoặc đồng Việt Nam tương đương) và giới hạn riêng cho một người/ vụ

32

không vượt quá USD 5.000 (hoặc đồng Việt Nam tương đương). Đây là

một con số khá khiêm tốn, trong khi một rủi ro xảy ra có thể gây ra tổn

thất rất lớn, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, do chúng ta chưa có kinh

nghiệm thực hiện, số liệu thống kê rủi ro, cũng như hệ thống các bệnh viện

và cơ sở y tế của nước ta chưa đạt tiêu chuẩn cao nên các các công ty BH

chỉ áp dụng một giới hạn bồi thường thấp.

5. Phí bảo hiểm

Thông thường phí BHTN nghề nghiệp được tính như sau:

Phí BHTN nghề nghiệp = Tỷ lệ phí (%) x tổng doanh thu phí dịch

vụ theo năm hoặc theo dự án/ vụ việc.

Trong đó, tỷ lệ phí phụ thuộc vào những yếu tố sau:

- Công việc chuyên môn của NĐBH: luật sư, bác sỹ, KTS hay

KSTV,…

- Số lượng, trình độ và kinh nghiệm của nhân viên, cán bộ được BH;

- Hạn mức trách nhiệm (giới hạn bồi thường);

- Mức khấu trừ do khách hàng lựa chọn;

- Lịch sử tổn thất,…

* Trong BHTN nghề nghiệp bác sỹ, phí BH thông thường được tính trên cơ

sở: tỷ lệ phí thích hợp (%) x tổng hạn mức bồi thường của đơn BH. Tỷ lệ

phí BH áp dụng phụ thuộc vào quy mô số lượng bác sỹ, nhân viên của cơ

sở; chủng loại dịch vụ y tế được thực hiện; trình độ, kinh nghiệm của bác

sỹ, người cung cấp dịch vụ; thống kê tổn thất; điều kiện trang thiết bị của

cơ sở,...Tỷ lệ phí thông thường có thể dao động từ 1,5% - 2,0% giới hạn bồi

thường.

6. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường

Cũng như trong các loại hình BH khác, công tác giám định tổn thất và

giải quyết bồi thường trong BHTN nghề nghiệp phải tuân thủ theo một số

nguyên tắc nhất định để đảm bảo quyền lợi cho NBH cũng như NĐBH. Đó

là, việc giám định và giải quyết bồi thường phải đảm bảo kịp thời, chính

33

xác, khách quan và thỏa đáng.

a. Giám định tổn thất

Nếu NĐBH nhận thấy sự cố có thể dẫn đến khiếu nại đòi bồi thường

hoặc trong trường hợp có bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến sự cố đó mà

có lý do để suy đoán rằng có thể phát sinh khiếu nại thì phải lập tức thông

báo bằng văn bản cho NBH. Ngay khi nhận được thông báo, NBH phải cử

nhân viên giám định đến hiện trường thực hiện công tác giám định. Tùy

tính chất và đặc thù của từng loại nghề nghiệp được BH, các công ty BH

thuê các giám định viên cho phù hợp.

Công việc của giám định viên là phải xem xét, chụp ảnh hiện trạng tổn

thất hoặc dấu hiệu có thể gây ra tổn thất, thu thập các số liệu xác định mức

độ tổn thất; tìm hiểu nguyên nhân gây ra tổn thất. Trong trường hợp phát

sinh thiệt hại về người hoặc dấu hiệu thiệt hại về người có khả năng thuộc

phạm vi BH, giám định viên sẽ phải xác định thiệt hại về tính mạng, sức

khỏe con người. Thực chất, nhiệm vụ của giám định viên là đi thu thập

bằng chứng cũng như tài liệu để đề phòng trường hợp phát sinh khiếu nại

thì NBH sẽ dùng những tài liệu này để bào chữa cho phần trách nhiệm phải

chịu của NĐBH. Công tác giám định cần được tiến hành khẩn trương và

chính xác, kết quả giám định có chứng nhận của nhân chứng để tạo điều

kiện thuận lợi cho NĐBH sau này trong trường hợp có khiếu nại phát sinh.

b. Giải quyết bồi thường

Cũng giống như các nghiệp vụ BHTN khác, cơ sở của việc giải quyết

bồi thường tổn thất của BHTN nghề nghiệp là “khiếu nại được lập”. Vì thế,

không phải cứ có tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm nghề nghiệp của NĐBH

trong phạm vi BH thì đã chắc chắn NBH phải giải quyết bồi thường, vì nếu

không có khiếu nại thì NBH sẽ không phải thanh toán gì cả, tất nhiên kể cả

chi phí tố tụng. Trên cơ sở có sự cố xảy ra gây tổn thất, thiệt hại về tài sản

hoặc thân thể cho bên thứ ba, khi có khiếu nại được lập, NBH sẽ thay mặt

cho NĐBH bào chữa và/ hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào trước tòa án

34

(nếu có) theo luật pháp áp dụng đã được ghi rõ trong Đơn BH.

Dựa trên sự kết luận và phán xét của tòa án, nếu NĐBH thừa nhận

trách nhiệm thì NBH sẽ phải bồi thường căn cứ vào trách nhiệm liên đới về

pháp lý đối với các tổn thất và thiệt hại về tài sản hoặc thân thể cho bên thứ

ba theo các chi phí chủ yếu như sau:

- Đối với những tổn thất, thiệt hại về tài sản: NBH sẽ bồi thường cho

những chi phí sau:

+ Chi phí phục hồi lại tài sản bị hư hỏng, thiệt hại có thể sửa chữa,

bù đắp;

+ Chi phí mua lại hoặc làm lại tài sản bị hư hỏng, thiệt hại hoàn toàn;

+ Chi phí bù đắp khoản lợi nhuận bị mất của bên thứ ba, mà việc mất

khoản lợi nhuận này là do lỗi của NĐBH gây ra trong phạm vi công

việc được BH;

+ Những chi phí hợp lý khác để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục

thiệt hại về tài sản.

- Đối với thiệt hại về thân thể: việc xác định thiệt hại về tính mạng,

sức khỏe con người là một công việc phức tạp, bởi tính mạng con người là

vô giá, sức khỏe con người cũng không thể xác định được giá trị. Vì thế,

thiệt hại về thân thể, về tính mạng, sức khỏe con người chỉ có thể tính toán

được nếu thống nhất trên một quan điểm, đó là dựa vào những hao phí vật

chất để tạo điều kiện cho nạn nhân và gia đình họ có thể khắc phục được

hậu quả, ổn định đời sống. Theo quan điểm như vậy, để xác định thiệt hại

về người thuộc trách nhiệm bồi thường, NBH sẽ bồi thường theo sự phán

quyết của tòa án theo các khoản chi cơ bản sau:

+ Trường hợp nạn nhân bị thương (vẫn có thể cứu chữa): các chi phí

hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức

năng; các chi phí bồi thường thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút

của người bị thiệt hại;

+ Trường hợp nạn nhân bị chết: phải bồi thường các chi phí hợp lý

35

cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết; chi

phí mai táng; bồi thường hao hụt thu nhập hàng tháng của gia đình

nạn nhân.

* Khi tính thiệt hại về người chỉ tính đến những chi phí thực tế, hợp

lý. Thu nhập của nạn nhân làm căn cứ để tính thu nhập bị mất hoặc giảm

sút phải là thu nhập chính đáng, có tính chất thường xuyên, ổn định và bao

gồm cả thu nhập chính và thu nhập phụ.

Như vậy, toàn bộ chi phí giải quyết khiếu nại của NBH sẽ bao gồm

chi phí tổn thất, thiệt hại về người, tài sản, và chi phí tố tụng.

7. Một số điều kiện của Đơn BHTN nghề nghiệp

Mặc dù đã có những quy định cụ thể về phạm vi BH, thời hạn BH,

giới hạn trách nhiệm,…nhưng để làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của các

bên trong HĐBH nhằm hạn chế khả năng xảy ra tranh chấp, đảm bảo cho

việc thực hiện HĐBH được thống nhất, trong Đơn BHTN nghề nghiệp

người ta thường đưa ra những điều kiện BH cho NĐBH và NBH thực hiện

khi giải quyết các trường hợp như giải quyết khiếu nại, hủy bỏ BH hay phát

sinh tranh chấp,…

(1) NĐBH không được thừa nhận trách nhiệm, giải quyết, thực hiện hay

hứa hẹn thanh toán đối với bất kỳ khiếu nại nào có thể thuộc trách

nhiệm của Đơn BH hoặc bỏ ra bất kỳ chi phí nào có liên quan tới

khiếu nại đó nếu chưa được sự đồng ý bằng văn bản của NBH. NBH

có quyền tiếp nhận và nhân danh NĐBH thực hiện việc bào chữa và/

hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào và để thực hiện công việc này,

NĐBH phải cung cấp mọi thông tin và trợ giúp thích hợp theo yêu

cầu của NBH. NBH sẽ không giải quyết bất kỳ khiếu nại nào nếu

không được sự đồng ý của NĐBH. Tuy nhiên, nếu NĐBH không

đồng ý với cách giải quyết mà NBH đã đề xuất mà thực hiện việc

kháng nghị hoặc tiếp tục tiến hành kiện tụng thì trách nhiệm của

NBH sẽ không vượt quá số tiền để giải quyết khiếu nại đó theo cách

36

mà NBH đã đề xuất cộng thêm các chi phí mà NBH đã chấp nhận

thanh toán phát sinh tính đến thời điểm mà NĐBH không nhất trí với

cách giải quyết của NBH.

(2) Mọi bất đồng liên quan đến việc diễn giải các điều khoản, điều kiện,

giới hạn và/ hoặc các điểm loại trừ trong HĐBH sẽ được phân xử chỉ

trên cơ sở luật pháp lãnh thổ được nêu trong Giấy chứng nhận BH.

Hai bên thỏa thuận đưa các bất đồng ra một tòa án có thẩm quyền ở

nước đó giải quyết và tuân thủ các yêu cầu cần thiết của tòa án đó.

(3) Nếu có bất kỳ khoản bồi thường nào được thanh toán theo Đơn BH

cho một khiếu nại thì sau đó NBH phải được chuyển giao lại mọi

quyền hạn từ NĐBH để thực hiện các biện pháp nhằm làm giảm nhẹ

tổn thất có liên quan đến khiếu nại đó.

(4) Nếu NĐBH thực hiện bất kỳ khiếu nại nào trong khi biết khiếu nại đó

là gian lận hoặc giả mạo về số tiền khiếu nại hoặc về những khía

cạnh khác thì Đơn BH sẽ mất hiệu lực và mọi khiếu nại liên quan đến

Đơn BH sẽ không được giải quyết.

(5) Đơn BHTN nghề nghiệp không buộc phải tuân theo bất kỳ điều kiện

nào về đóng góp bồi thường của những Đơn BH khác, và sẽ chỉ bồi

thường cho những tổn thất trong điều kiện và trong mức độ mà tổn

thất đó không được bồi thường theo bất kỳ Đơn BH nào khác.

(6) Bồi thường theo Đơn BHTN nghề nghiệp được thực hiện đối với:

- Việc bồi thường theo phán quyết của một tòa án có đủ thẩm quyền

ở lãnh thổ được nêu trong Giấy chứng nhận BH.

- Các chi phí, phí tổn và các chi phí pháp lý đã phát sinh và có thể

thu hồi lại được ở lãnh thổ được nêu rõ trong Giấy chứng nhận BH.

(7) Trong trường hợp không có quy định luật pháp nào của địa phương

liên quan đến việc huỷ bỏ BH, NĐBH có thể hủy bỏ BH vào bất kỳ

thời điểm nào bằng cách gửi văn bản thông báo cho NBH. NBH hoặc

đại diện hợp pháp của NBH cũng có thể huỷ bỏ BH bằng cách gửi

37

văn bản thông báo cho NĐBH theo địa chỉ của NĐBH nêu tại Giấy

chứng nhận BH, trong đó nêu rõ khi nào việc hủy bỏ có hiệu lực,

nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày thông báo được gửi đi, hoặc

vào một ngày cụ thể nêu tại văn bản thông báo.

- Nếu BH bị NĐBH hủy bỏ, NBH sẽ giữ lại số phí BH cho thời gian

BH đã có hiệu lực tính theo biểu phí BH ngắn hạn theo thông lệ mà

NBH vẫn áp dụng.

- Nếu BH bị NBH hoặc đại diện cho NBH hủy bỏ, NBH sẽ hoàn lại

cho NĐBH số phí được tính theo tỷ lệ tương ứng với thời gian BH

38

bị hủy bỏ.

CHƢƠNG II

THỰC TRẠNG BHTN NGHỀ NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

I. Giới thiệu về một số công ty kinh doanh loại hình BHTN nghề

nghiệp tại Việt Nam

Ngành BH Việt Nam được khai sinh từ năm 1965 với sự ra đời của

Bảo Việt. Tuy nhiên, thị trường BH Việt Nam chỉ chuyển mình dần kể từ

khi Nghị định 100/NĐ - CP của Chính Phủ ngày 18/12/1993 về KDBH ở

Việt Nam ra đời, và đặc biệt là Luật KDBH ngày 09/12/2000 đã tạo hành

lang pháp lý cho hoạt động KDBH tại Việt Nam. Nếu như trước năm 1993,

thị trường BH Việt Nam chỉ có một công ty Bảo Việt thì đến nay đã xuất

hiện 47 công ty BH, trong đó có 27 công ty BHPNT, 11 công ty BHNT, 1

công ty tái BH và 8 công ty môi giới BH, với nhiều hình thức sở hữu khác

nhau như: sở hữu nhà nước, công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty

tương hỗ, công ty 100% vốn nước ngoài.

BHTN nghề nghiệp là loại hình BH thuộc nhóm BHPNT, vì vậy chỉ

có những công ty BHPNT mới kinh doanh loại hình BH này. Hiện nay, ở

Việt Nam có 27 công ty BHPNT, cùng khoảng 350 công ty trực thuộc, chi

39

nhánh (gấp 2,5 lần so với BHNT - chỉ có 11 DN).

Bảng 3

Danh sách các công ty BHPNT đã được cấp giấy phép và đang hoạt động

tại Việt Nam

TT Tên công ty Trụ sở chính Ngày thành Vốn Hình thức sở

lập điều lệ hữu

Tầng 16,

1 Bảo Việt Việt VietTower, số 1964 1000 tỷ Cổ phần

Nam 1A Thái Hà, đồng

Hà Nội, Việt

Nam

Lầu 4, 26 Tôn

Thất Đạm,

2 Tổng công ty cổ Phường 28/11/1994 1.100 Cổ phần

phần Bảo Minh Nguyễn Thái tỷ đồng

Bình, Quận 1

TP Hồ Chí

Minh

E-Town

Công ty TNHH Building, 364

3 bảo hiểm Tổng Cộng Hòa, 2001 6,2 100% vốn

hợp Groupama Phường 13, triệu nước ngoài

Quận Tân Bình USD (Pháp)

TP HCM

Công ty Cổ phần 185 Điện Biên

4 bảo hiểm Nhà Phủ, Quận 1 11/7/1995 300 tỷ Cổ phần

Rồng (Bảo Long) TP Hồ Chí đồng

Minh

Công ty cổ phần 532 Đường

40

5 bảo hiểm Láng, Quận 08/06/1995 140 tỷ Cổ phần

Petrolimex (Pjico) Đống Đa, Hà đồng

Nội

Công ty cổ phần 154 Nguyễn

6 bảo hiểm Dầu khí Thái Học, Hà 1996 1000 tỷ Cổ phần

(PVI) Nội đồng

Tầng 3, Petro

Công ty liên Việt Nam 6,2 Liên doanh

7 doanh bảo hiểm Tower, 1-5 Lê 1996 triệu (Việt Nam-

Quốc tế Việt Nam Duẩn, Quận 1 USD Nhật Bản)

(VIA) TP HCM

Tầng 11, Hanoi

Công ty liên Tung Shing Liên doanh

8 doanh bảo hiểm Square, 2 Ngô 11/1997 6 triệu (Việt Nam-

liên hiệp (UIC) Quyền, Quận USD Nhật Bản-Hàn

Quốc) Hoàn Kiếm Hà

Nội

Công ty cổ phần Tầng 8, 4A

9 bảo hiểm bưu điện Láng Hạ, Quận 01/09/1998 105 tỷ Cổ phần

(PTI) Đống Đa, Hà đồng

Nội

Tầng 19 tháp

10 Bảo hiểm tiền gửi B, Tòa nhà 09/11/1999 5000 tỷ Nhà nước

Việt Nam (DIV) Vincom, 191 đồng

Bà Triệu Hà

Nội

Phòng 901,

Công ty liên Tầng 9,

41

11 doanh TNHH bảo Diamond 30/08/2002 5 Triệu Liên doanh

hiểm Samsung- Plaza, 34 Lê USD

Vina (SVI) Duẩn, Phường

Bến Nghé TP

HCM

99 Trần Hưng

Công ty cổ phần Đạo, phường

12 bảo hiểm Viễn Ông Lãnh, 7/11/2003 600 tỷ Cổ phần

Đông (VASS) Quận 1 TP đồng

HCM

2 Bis Trần Cao

13 Công ty cổ phần Vân, Đa Kao, 28/02/2005 380 tỷ Cổ phần

bảo hiểm AAA Quận 1 TP đồng

HCM

Công ty bảo hiểm Tầng 10, Tháp

14 Ngân hàng Đầu tư A Vincom, 191 28/12/2005 500 tỷ Nhà nước

và phát triển Việt Bà Triệu Hà đồng

Nam (BIC) Nội

Phòng 1603,

5 triệu 100% vốn Tầng 16,

15 Công ty TNHH Metropolitan 12/2005 USD nước ngoài

bảo hiểm QBE Tower, 235 (Úc)

Việt Nam Đồng Khởi,

Quận 1, TP

HCM

Phòng 501,

Công ty TNHH Tầng 5, Hanoi 10 triệu 100% vốn

16 Bảo hiểm phi nhân Tower, 49 Hai 12/2005 USD nước ngoài

thọ AIG Việt Nam Bà Trưng Hà (Mỹ)

42

Nội

106-108 Cống

Công ty cổ phần Quỳnh, phường

17 bảo hiểm toàn cầu Phạm Ngũ Lão, 19/06//2006 300 tỷ Cổ phần

(GIC) Quận 1 TP đồng

HCM

Công ty cổ phần

18 bảo hiểm Ngân Số 2, Láng Hạ, 18/10/2006 380 tỷ Cổ phần

hàng Nông nghiệp Quận Ba Đình, đồng

Agribank Hà Nội

(Agrinco)

Tầng 8, Trung

tâm tài chính

Công ty TNHH Sài Gòn, số 9 10 triệu 100% vốn

19 bảo hiểm ACE Đinh Tiên 16/11/2006 USD nước ngoài

Việt Nam Hoàng, Phường (Mỹ)

Đa Kao, Quận

1 TP HCM

Tầng 6, Tòa

Công ty TNHH nhà ETown, 20 triệu 100% vốn

20 bảo hiểm Liberty 364 Cộng Hòa, 11/2006 USD nước ngoài

Quận Tân Bình (Mỹ)

TP HCM

Số 9, Trần

Công ty cổ phần Quốc Thảo, 80 tỷ

21 bảo hiểm Bảo Tín phường 6, 12/12/2006 đồng Cổ phần

(BTA) Quận 3 TP

43

HCM

Tầng 5, Tòa

Công ty cổ phần nhà Vigracela,

22 bảo hiểm Quân số 1 đường 08/10/2007 300 tỷ Cổ phần

đội (MIC) Láng Hòa Lạc, đồng

Từ Liêm Hà

Nội

Tầng 16,

Công ty cổ phần VietTower, số

23 bảo hiểm hàng 1A Thái Hà, 25/04/2008 500 tỷ Cổ phần

không Việt Nam Hà Nội, Việt đồng

(VNI) Nam

Công ty bảo hiểm 141 Lê Duẩn,

24 Ngân hàng Công Quận Hoàn 17/12/2008 Nhà nước

thương Việt Nam Kiếm, Hà Nội

Số 58-60 Nam

25 Công ty cổ phần Kỳ Khởi 19/05/2008 300 tỷ Cổ phần

bảo hiểm Hùng Nghĩa, Q1-TP đồng

Vương (HKI) HCM

Công ty TNHH 100% vốn

26 Bảo hiểm Mitsui Hà Nội 18/09/2008 300 tỷ nước ngoài

Sumitomo (MSIG) đồng (Nhật Bản)

Công ty TNHH 100% vốn

27 bảo hiểm Fubon TP HCM 07/2008 300 tỷ nước ngoài

Việt Nam đồng (Đài Loan)

(Nguồn: Vụ bảo hiểm - Bộ tài chính)

Vào tháng 3 năm 2008, Việt Nam đã có công ty liên doanh BHPNT

đầu tiên tại nước ngoài - đó là công ty liên doanh BH Lào-Việt (LVI), trong

44

đó phía Việt Nam là công ty BH Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

(BIC) góp 51% vốn điều lệ, phía Lào là Ngân hàng ngoại thương Lào, và

ngân hàng Liên doanh Lào - Việt góp 49%. LVI đã chính thức đi vào hoạt

động từ tháng 06/2008, đúng vào dịp kỷ niệm 9 năm thành lập Ngân hàng

Liên doanh Lào - Việt. Dự kiến, đến năm 2012, LVI sẽ đạt 30% thị phần

BH tại Lào, trở thành một trong hai nhà BHPNT lớn nhất thị trường này,

ngoài ra LVI còn mở rộng đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác liên

quan đến lĩnh vực tài chính, bất động sản,…

Hiện nay, Bảo Việt là công ty dẫn đầu thị trường BHPNT Việt Nam,

chiếm gần 40% thị phần; xếp thứ hai là Bảo Minh, chiếm 28% thị phần;

xếp ở các vị trí tiếp theo là PVI và Pjico với khoảng hơn 10% thị phần.

Trong các công ty BHPNT tại Việt Nam không phải công ty nào cũng

kinh doanh loại hình BHTN nghề nghiệp. Có những công ty chỉ kinh doanh

ở một số lĩnh vực chuyên môn nhất định, như: công ty BH tiền gửi Việt

Nam (DIV) chỉ nhận BH cho các loại tiền gửi vào ngân hàng tại Việt Nam;

công ty liên doanh quốc tế Việt Nam chỉ chuyên về các loại BH tài sản;

công ty BH hàng không VNI chỉ cung cấp một số sản phẩm cơ bản như BH

trong lĩnh vực hàng không, hàng hải, xây dựng - lắp đặt, xe cơ giới và BH

tai nạn con người. Một số công ty khác như Liberty, PTI, IAI có kinh

doanh loại hình BHTN nhưng chủ yếu là BHTN công cộng và BHTN sản

phẩm, chứ không kinh doanh loại hình BHTN nghề nghiệp.

Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay BHTN nghề nghiệp không phải là

một loại hình phát triển, các công ty kinh doanh loại hình BH này chỉ đếm

được trên đầu ngón tay, và đó cũng chủ yếu là những công ty BH lớn, hàng

đầu của Việt Nam như: Bảo Việt, Bảo Minh, PVI, VIA; hay là những công

ty 100% vốn nước ngoài như: QBE, AIG, ACE. Tại Bảo Việt, nghiệp vụ

BHTN nghề nghiệp do Phòng bảo hiểm Cháy và Rủi ro kỹ thuật quản lý,

tại Bảo Minh nghiệp vụ này do Phòng bảo hiểm tài sản và kỹ thuật quản lý.

Một thực tế là tại Việt Nam, các công ty BH 100% vốn nước ngoài có

45

nhiều kinh nghiệm hơn so với các công ty trong nước trong việc triển khai

loại hình BHTN nghề nghiệp. Bởi vì, ở nước ngoài BHTN nghề nghiệp là

một loại hình phổ biến, thường được áp dụng bắt buộc và đã trở thành một

thói quen của các cá nhân cũng như của các DN. Trong số đó, trước hết

phải kể đến công ty TNHH BH QBE Việt Nam, tuy mới được thành lập từ

tháng 12/2005, nhưng QBE được đánh giá là chuyên gia kỹ thuật cao trong

BHTN nghề nghiệp, đặc biệt là BH sơ suất trong khám chữa bệnh (BHTN

nghề nghiệp cho bác sỹ).

Hiện nay, tại Việt Nam chủ yếu phổ biến loại hình BHTN nghề nghiệp

cho luật sư, bác sỹ, KTS & KSTV, môi giới BH, ngoài ra các công ty BH

có thể xem xét BH thêm cho các nghề nghiệp chuyên môn khác như, công

chứng viên, thẩm định giá, công ty bảo vệ, người điều hành cảng biển,…

II. Tình hình hoạt động kinh doanh BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam

từ năm 2001 đến nay

BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH mới ra đời chưa đầy 8 năm,

nó là một trong những nghiệp vụ BH còn non trẻ trên thị trường BH Việt

Nam.

Để thấy rõ tình hình hoạt động kinh doanh BHTN nghề nghiệp tại các

công ty BHPNT Việt Nam từ năm 2001 đến nay, trước hết phải phân tích

hiệu quả của tất cả các khâu trong quy trình triển khai sản phẩm: từ khai

thác; đề phòng và hạn chế tổn thất; đến giám định và giải quyết bồi thường.

Ba khâu này không phải độc lập hoàn toàn với nhau mà chúng có mối liên

hệ tác động qua lại, nếu một khâu được thực hiện tốt thì nó sẽ tạo tiền đề

cho việc thực hiện các khâu còn lại có hiệu quả. Vì vậy, để làm rõ hiệu quả

kinh doanh nghiệp vụ này chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng khâu để thấy

được những kết quả đạt được trong thời gian qua, cũng như những hạn chế

còn tồn tại và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá về

quá trình triển khai sản phẩm BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam.

46

1. Công tác khai thác

Khai thác là khâu đầu tiên của quy trình triển khai một sản phẩm BH,

nó đóng vai trò tiền đề và là cơ sở cho toàn bộ quá trình kinh doanh sản

phẩm BH đó. Giải quyết nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh tế BH - "số

đông bù số ít", khai thác có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của mỗi

một nghiệp vụ BH.

Riêng đối với một nghiệp vụ mới như BHTN nghề nghiệp thì khai

thác lại càng có ý nghĩa quan trọng. Vì về cơ bản, các cá nhân và DN Việt

Nam chưa có những hiểu biết tối thiểu về loại hình BH này, chưa nói đến ý

thức về việc mua nó. Do đó, việc khai thác, tuyên truyền quảng cáo để thu

hút người tham gia loại hình BH này là cần thiết và quan trọng hơn bao giờ

hết.

Hiện nay, để làm tốt công tác phân phối sản phẩm, đạt hiệu quả kinh

doanh cao, các doanh nghiệp BHPNT Việt Nam thường sử dụng ba lực

lượng khai thác chủ yếu là: lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp (hưởng

lương của công ty), và lực lượng khai thác trung gian - bao gồm đại lý và

các nhà môi giới (hưởng hoa hồng).

Theo các DNBH, sở dĩ có sự tồn tại của các lực lượng phân phối trên

là do những nguyên nhân sau:

- Những nghiệp vụ cần chuyên môn cao thì đại lý không thể đảm

đương nổi.

- Lực lượng môi giới quá mỏng và phạm vi hoạt động còn hạn chế.

- Các DNBH trong nước có xu hướng sử dụng lực lượng bán hiện

có hơn là đào tạo mới hoặc chuyển đổi hình thức kênh phân phối.

- Năng lực đáp ứng nhu cầu dịch vụ có chất lượng hoàn hảo của

các DNBH chậm hơn tốc độ phát triển của thị trường nên chưa

kịp hoàn thiện và chuyển giao công nghệ cho đại lý.

- Do chưa kịp đầu tư cho lực lượng phân phối sản phẩm, trước tình

hình tăng trưởng đột biến, đội ngũ đại lý ở lĩnh vực PNT không

47

đáp ứng nổi nhu cầu thị trường.

Vì vậy, phải sử dụng kết hợp cả ba lực lượng khai thác để nhằm đạt

hiệu quả khai thác cao nhất. Tuy nhiên, tùy từng nghiệp vụ BH và đặc điểm

của thị trường mà các DNBH lựa chọn kênh phân phối nào là chủ yếu. Đối

với những nghiệp vụ BH mới và có tính phức tạp như BHTN nghề

nghiệp thì kênh phân phối đòi hỏi phải được đào tạo bài bản, đầu tư kỹ

lưỡng, và có kinh nghiệm, chuyên môn. Do đó, để triển khai có hiệu quả

sản phẩm BH này, các công ty BH thường lựa chọn 2 kênh phân phối chủ

yếu là: lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp - hưởng lương của công ty,

và lực lượng khai thác qua trung gian là các công ty môi giới - hưởng

hoa hồng (hạn chế, hay ít khai thác qua đại lý).

a. Lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp

Tại Tổng công ty BH Việt Nam (Bảo Việt), hoạt động khai thác

BHTN nghề nghiệp do Phòng bảo hiểm Hỏa hoạn và Rủi ro kỹ thuật quản

lý, và chủ yếu được triển khai ở trụ sở Bảo Việt Hà Nội, cũng như các chi

nhánh lớn như Bảo Việt Sài Gòn, Bảo Việt Hải Phòng, Bảo Việt Cà Mau,

Bảo Việt Đà Nẵng,…Theo bà Phan Thanh Hà, phó Phòng bảo hiểm Hỏa

hoạn và Rủi ro kỹ thuật, Tổng công ty BH Việt Nam (Bảo Việt): “BHTN

nghề nghiệp là một sản phẩm BH cao cấp nhất trong tất cả các sản phẩm

BH”. Vì có thể thấy, chưa có một nghiệp vụ BH nào trước nay yêu cầu hàm

lượng chuyên môn, kỹ thuật cao như sản phẩm BH này. Không chỉ đối

tượng tham gia BH là những nhà chuyên môn, những chuyên gia trong

nghề nghiệp của họ, mà những nhân viên nghiệp vụ cũng yêu cầu một trình

độ chuyên môn ngang tầm để có thể quản lý được rủi ro, kiểm soát được

khách hàng, từ đó mới thuyết phục được khách hàng mua sản phẩm BH.

Do đó, có thể nói công tác khai thác sản phẩm BH này là một công việc

48

không hề đơn giản.

BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH còn non trẻ tại Việt Nam, cơ

sở pháp lý chưa chặt chẽ, chưa có chế tài cưỡng chế đối với trường hợp vi

phạm,…do đó ý thức của người dân tham gia loại hình BH này chưa cao.

Vì thế, để làm tốt công tác khai thác, các khai thác viên phải chủ động tìm

đến các khách hàng tiềm năng, giới thiệu các công văn, quy tắc, chào phí

cho khách hàng, nói chuyện về nghiệp vụ của họ và chỉ ra cho họ thấy

những rủi ro mà họ có thể gặp phải trong khi làm công tác chuyên môn, và

hậu quả của những rủi ro đó. Để thuyết phục được khách hàng tham gia

loại hình BH này, các khai thác viên còn phải trình bày, giải thích sao cho

họ hiểu tầm quan trọng của BHTN nghề nghiệp - đó không chỉ là một biện

pháp “tự bảo vệ" tối ưu, mà còn là biện pháp nhằm nâng cao uy tín nghề

nghiệp, và việc mua BHTN nghề nghiệp đang là một xu hướng phát triển

của kinh tế và xã hội, thể hiện sự văn minh của con người mới.

Tại các công ty BH Việt Nam, công tác khai thác sản phẩm BH này

49

thường được tiến hành theo quy trình sau:

Bảng 4

Quy trình khai thác BHTN nghề nghiệp

Trách nhiệm Tiến trình Mô tả công việc

Ghi sổ theo dõi cá - Khai thác viên

nhân

Nhận thông tin Thu thập thông tin

Bản điều tra đánh

giá rủi ro - Khai thác viên

Phân tích, tìm hiểu Đánh giá rủi ro

- Khai thác viên Từ chối Phân cấp khai thác

- Lãnh đạo Phòng Hồ sơ, số liệu của - Xem xét I Trên

đề nghị BH phân cấp

nghiệp vụ khách hàng

- Khai thác viên Điều khoản, Biểu

Đàm phán,Chào phí

+ Tái BH - II Tiến hành - Lãnh đạo phí BH của nghiệp

vụ BTHN nghề

- Lãnh đạo nghiệp Khách hàng phải có Giấy yêu cầu BH

Cấp Đơn BH

+ Chấp nhận bảo hiểm bằng văn bản

Thu phí BH

- Khai thác viên Quy chế quản lý ấn

chỉ

Tái BH

Thông báo

Theo dõi thu phí

Tiếp nhận và

giải quyết sự vụ mới

- Khai thác viên Vào sổ khai thác/ Thông - Kế toán viên thống kê báo Theo dõi thu phí và Tái BH tái tục

50

(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)

Công việc cụ thể từng giai đoạn trong quy trình khai thác BHTN nghề

nghiệp được quy định như sau:

B1: Nhận thông tin từ khách hàng

- Khai thác viên có nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với khách

hàng, gửi hoặc trao đổi các thông tin về BH nhằm giới thiệu

nghiệp vụ BH và đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.

- Khai thác viên chủ động khai thác nguồn tin từ khách hàng

(hoặc qua các cơ quan quản lý, đại lý, cộng tác viên, môi giới,

cơ quan thông tin đại chúng).

- Kiểm tra các thông tin do khách hàng trả lời trong bảng câu

hỏi.

B2: Phân tích, tìm hiểu và đánh giá rủi ro

- Khai thác viên thông qua các số liệu thống kê về khách hàng để

tư vấn cho lãnh đạo về chính sách khách hàng, về công tác

quản lý rủi ro.

- Căn cứ vào các thông tin được cung cấp, khai thác viên tự đánh

giá rủi ro để có thể đưa ra một mức chào phí BH cho đối tượng

tham gia BH.

- Đề xuất cho lãnh đạo phòng nghiệp vụ hoặc lãnh đạo đơn vị

khi thấy cần thiết có sự tham gia của giám định viên đánh giá

rủi ro từ các cơ quan chuyên môn khác hoặc của tổ chức nước

ngoài.

* BHTN nghề nghiệp là một nghiệp vụ mang tính phức tạp và kỹ thuật cao

nên việc đánh giá rủi ro một cách chính xác có tác dụng rất lớn đến việc

tính phí BH hợp lý cho từng đối tượng. Để thực hiện điều này, trên cơ sở

các câu hỏi trên phiếu điều tra, khai thác viên phải xác định:

+ Loại công việc (ví dụ, thiết kế, thi công hay giám sát đối với

51

BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV; phẫu thuật hay chữa bệnh trị

nội khoa đối với BHTN nghề nghiệp bác sỹ; tư vấn luật hay bào

chữa đối với BHTN nghề nghiệp luật sư,…);

+ Kinh nghiệm chuyên môn;

+ Quy mô đơn vị;

+ Lịch sử tổn thất;

+ Tỉ lệ phí cần áp dụng;…

B3: Xem xét đề nghị BH.

- Trên cơ sở các thông tin nhận được từ khách hàng kết hợp với

báo cáo đánh giá rủi ro và các số liệu thống kê cũng như các

chính sách khách hàng, khai thác viên phải đề xuất và lập

phương án BH hoặc tờ trình từ chối nhận BH để lãnh đạo

Phòng nghiệp vụ hoặc lãnh đạo công ty duyệt cấp Đơn BH.

- Trong trường hợp khách hàng đề nghị phạm vi BH quá lớn

hoặc số tiền BH vượt mức phân cấp khai thác, các công ty, chi

nhánh trực thuộc phải chuyển hồ sơ khai thác về hội sở (Tổng

công ty) để xem xét và quyết định. Trong trường hợp đó, các

bước sẽ được tiến hành theo quy trình khai thác trên phân cấp

(Bảng 5).

B4: Sau khi được lãnh đạo phê duyệt phương án BH, cán bộ khai thác

tiến hành chào phí và điều kiện BH cho khách hàng.

B5: Nếu khách hàng đồng ý mức phí BH, điều kiện BH thì phải gửi

Giấy yêu cầu BH đến công ty BH để công ty BH tiến hành chấp nhận BH.

B6: Khi được khách hàng đồng ý, cán bộ khai thác tiến hành cấp Đơn

BH cho khách hàng và tiến hành thu phí BH.

B7: Theo dõi thu phí và giải quyết sự vụ mới

- Phòng khai thác lưu đơn và theo dõi các phát sinh mới.

- Phòng kế toán lưu đơn để theo dõi thu phí.

- Chuyển đơn về hội sở của công ty BH để thống kê và tái BH.

52

- Hồ sơ thuê giám định viên đánh giá rủi ro bên ngoài (nếu có).

- Thông báo tái BH.

Trong trường hợp phức tạp thì có thể chuyển lên cấp trên để khai thác

53

theo quy trình xử lý khai thác trên phân cấp như bảng 5.

Bảng 5

Quy trình khai thác BHTN nghề nghiệp trên phân cấp

Trách nhiệm Tiến trình Mô tả công việc

I

- Ghi sổ theo dõi cá

Nhận thông tin

từ Đơn vị cơ sở

- Khai thác viên nhân

Xem xét

- Tình hình thị trường,

đề xuất của Đơn vị

thống kê tổn thất của - Khai thác viên

đối tượng BH - Lãnh đạo phòng

- Xem xét +

- Phân cấp khai thác

Chào phí

- Hồ sơ, số liệu của nghiệp vụ - Khai thác viên - Lãnh đạo Phòng

ý kiến của

khách hàng Nghiệp vụ

các bộ phận liên quan

- Các bộ phận liên

(nếu cần)

quan

- Chấp nhận

- Lãnh đạo Tổng

bảo hiểm

Công ty (nếu cần)

Thông báo

- Khai thác viên

h cho Đơn vị

phòng nghiệp vụ

II

- Khai thác viên

- Lãnh đạo đơn vị

54

(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)

Trên đây là quy trình khai thác BHTN nghề nghiệp theo tiêu chuẩn

ISO đã được Bảo Việt thông qua.

Nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ của các khai

thác viên, các công ty BHPNT cũng đã tổ chức những buổi hội nghị, buổi

nói chuyện chuyên về BHTN nghề nghiệp, hay phối hợp với các cơ quan,

tổ chức chuyên ngành BH như: HHBHVN, học viện BH Việt Nam

(VITC),…mở các lớp đào tạo, tập huấn cán bộ. Vào tháng 03/2008,

HHBHVN cùng với khoa Ngân hàng BH - Học viện Tài chính tổ chức 5

lớp học đào tạo Giám đốc chi nhánh, Trưởng phòng nghiệp vụ BH hỏa

hoạn và các rủi ro đặc biệt gián đoạn kinh doanh, BH kỹ thuật, BH xe cơ

giới, BH con người và BH hàng hải. Lớp học đã thu hút được hơn 250 học

viên từ các công ty BH tại Hà Nội, và gần 450 học viên từ các công ty BH

ở TP Hồ Chí Minh. Cũng trong năm này, HHBHVN cũng đã cử 02 cán bộ

của công ty BH toàn cầu (GIC) và công ty cổ phần BH quân đội (MIC)

tham gia khóa đào tạo học viên BHPNT (có cả nghiệp vụ BHTN nghề

nghiệp) tại Nhật Bản do hiệp hội BHPNT tại Nhật Bản tài trợ.

Ngoài ra, để hỗ trợ cho các khai thác viên trong công tác phân phối

sản phẩm BHTN nghề nghiệp sao cho hiệu quả, các công ty BH còn tiến

hành nhiều hoạt động tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện truyền

thông như: tivi, đài báo, báo chí, internet,…

Hiện nay, hầu hết các công ty BH đều đã xây dựng trang web riêng

của mình. Thông thường, trên giao diện mỗi web có các moodle giới thiệu

về công ty, sản phẩm BH, địa chỉ liên hệ,…và đặc biệt, có cả tiện ích tìm

kiếm theo chủ đề, vì vậy nếu khách hàng muốn tìm hiểu về sản phẩm

BHTN nghề nghiệp của bất kỳ công ty nào thì đều có thể truy cập vào trang

web của công ty đó để có những thông tin cần thiết về phạm vi BH, thời

hạn BH và số tiền BH,…Các web BH tiêu biểu được nhiều người biết đến

là: “www.baoviet.com.vn” của Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt,

55

“www.baominh.com.vn” của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh,

“www.aaa.com.vn” của Công ty cổ phần bảo hiểm AAA,

“www.gic.com.vn” của Công ty cổ phần bảo hiểm toàn cầu, “www.bic.vn”

của Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam,

“www.pjico.com.vn” của Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex,

“www.pvi.com.vn” của Công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí,…Các webside

này đã thực hiện được sứ mạng của mình là trở thành một công cụ quảng

bá hữu hiệu, giúp cho khách hàng tiếp cận nhanh chóng và đầy đủ đến các

sản phẩm BH nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng của công ty.

Đồng thời, các bài viết trên các trang tin điện tử này cũng đã truyền tải

được phương châm hoạt động của các công ty BH, thể hiện được sức mạnh

thương hiệu và giúp khách hàng giải đáp được những thắc mắc về sản

phẩm, cũng như về nghiệp vụ.

Với nỗ lực nhằm phổ biến sâu rộng sản phẩm BH này, các công ty BH

còn tiến hành quảng cáo, viết bài giới thiệu về sản phẩm trên các tờ báo,

tạp chí, tạp san chuyên ngành như, Thời báo kinh tế, Tạp chí BH và tái BH,

báo Đầu tư,…Đặc biệt, Tổng công ty BH Bảo Việt cũng đã phát hành Tạp

chí BH của riêng mình nhằm cung cấp đầy đủ hơn, chi tiết hơn các thông

tin về các sản phẩm BH, cũng như hoạt động và uy tín của công ty.

Ngoài ra, các công ty BH còn áp dụng các hình thức quảng cáo truyền

thống như pano, áp phích, quảng cáo trên truyền hình,…nhằm thu hút sự

chú ý của những khách hàng tiềm năng vốn không có nhiều thời gian rảnh

rỗi. Công ty cổ phần BH AAA được coi là DNBH có nhiều nỗ lực nhất

trong việc triển khai dịch vụ BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam. AAA đã

phối hợp với đài truyền hình thực hiện các chương trình giới thiệu dịch vụ

tiện ích (như chương trình “Sức sống mới” phát sóng lúc 11h đến 11h45 từ

thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần trên VTV1), hay tổ chức các chương trình giới

thiệu, các buổi nói chuyện trên truyền hình nhằm phổ biến những kiến thức

về BHTN nghề nghiệp và tầm quan trọng của nó. Đây được coi là phương

56

tiện quảng cáo đáng tin cậy nhất và đạt hiệu quả cao nhất, giúp cho nhiều

người xem thấy được lợi ích to lớn của BHTN nghề nghiệp, tò mò muốn

tìm hiểu thêm về sản phẩm này.

Đặc biệt, một số công ty BH lớn như Bảo Việt, Bảo Minh,…đã phối

hợp với các cơ quan, tổ chức hành nghề chuyên môn liên quan, giới thiệu

và thực hiện thí điểm để chính những NĐBH tiềm năng có cái nhìn và hiểu

biết chân thực nhất, sâu sắc nhất về vai trò và lợi ích của sản phẩm BHTN

nghề nghiệp này.

Thực hiện các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo này, các công ty BH

nhằm nỗ lực mang đến cái nhìn ban đầu về một dịch vụ BH mới, hỗ trợ có

hiệu quả cho công tác khai thác. Thời gian đầu triển khai sản phẩm này, các

công ty BH chỉ nhằm đúc kết kinh nghiệm, chứ không có tham vọng ký

được thật nhiều hợp đồng BHTN nghề nghiệp. Vì đây là một loại hình BH

không chỉ mới đối với người tham gia BH mà còn mới đối với chính các

công ty BH. Việc tính phí và quản lý hoạt động của người tham gia BH là

không hề đơn giản, nên cần có những bước đi dần dần.

Sau gần 8 năm được tung ra thị trường, công tác khai thác sản phẩm

BH này cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Số lượng hợp đồng

được ký kết do các nhân viên khai thác của các DNBH mang về tính trên

toàn thị trường đạt 1500 hợp đồng, với doanh thu phí BH gần 30 tỷ đồng

(Nguồn: Vụ bảo hiểm - Bộ tài chính). Các hợp đồng BH được ký tập trung

chủ yếu ở những đơn BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV, BHTN nghề

nghiệp luật sư, bác sỹ. Trong đó, BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV chiếm

65%, BHTN nghề nghiệp luật sư chiếm 15%, bác sỹ - 10%, và 10% còn lại

của các nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp khác (Theo thống kê nghiệp vụ của

HHBHVN). Và các hợp đồng này cũng được phân bố không đều, tập trung

chủ yếu ở một số công ty BHPNT lớn như: Bảo Việt, Bảo Minh, PVI, VIA

hay ở các công ty BH nước ngoài như QBE, AIG.

Mặc dù đó là những con số cực kỳ khiêm tốn nhưng so với nhiều

57

nghiệp vụ BH mới triển khai thì đó là những kết quả đáng khích lệ. Con số

này cũng là kết quả sự cố gắng của các cán bộ phụ trách nghiệp vụ trong

khai thác.

b. Khai thác qua trung gian - Môi giới bảo hiểm

Hiện nay, để thực hiện tốt công tác phân phối và phổ biến các sản

phẩm BH, ngoài việc tận dụng lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp, các

công ty BHPNT còn liên kết chặt chẽ với các công ty môi giới BH và coi

đây là một kênh phân phối có vai trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược -

chủ đạo trong công tác khai thác. Đối với loại hình BH cao cấp như BHTN

nghề nghiệp thì việc liên kết khai thác qua trung gian - môi giới BH lại

càng quan trọng, đặc biệt là những công ty môi giới BH nước ngoài như,

Aon, Gras Savoyve Willis.

Theo thống kê, tính đến thời điểm hiện nay tại Việt Nam có 8 công ty

môi giới BH đã được thành lập và cấp giấy phép.

Bảng 6

Danh sách các công ty môi giới BH đã được cấp giấy phép và đang hoạt

động tại Việt Nam.

Năm Vốn điều Hình thức TT Tên công ty Trụ sở chính thành lập lệ sở hữu

Phòng 707-

Công ty TNHH 710,Tầng 100% vốn

môi giới BH Gras 7,Saigon Trade nước

1 Savoye Willis Center,37 Tôn 1993 300.000 ngoài

Việt Nam (Gras Đức Thắng,Quận USD (Anh-

Savoye) 1,TP HCM Pháp)

Tầng 14, Tòa nhà

Công ty TNHH Vietcombank, 100% vốn

2 Aon Việt Nam 198 Trần Quang 1993 300.000 nước

58

(Aon) Khải,quận Hoàn USD ngoài

Kiếm,HN (Mỹ)

Công ty cổ phần

môi giới BH Việt 28 Trần Nhật 6 tỷ

3 Quốc (Việt Quốc) Duật,quận Hoàn 2001 đồng Cổ phần

Kiếm,HN

Tầng 5,tòa nhà

Công ty cổ phần CARIC,số 17 6 tỷ

4 môi giới BH Á Tôn Đức 2003 đồng Cổ phần

Đông (Á Đông) Thắng,TP HCM

Công ty cổ phần 814/3 Đường

5 môi giới BH Đại Láng,Quận Đống 2003 Cổ phần 6 tỷ

Việt Đa,HN đồng

Tầng 10,số 8

Công ty TNHH Nguyễn 100% vốn

6 môi giới BH Huệ,P.Bến 2004 300.000 nước

Marsh Việt Nam Nghé,Quận 1,TP USD ngoài

(Marsh) HCM (Mỹ)

Số 67 Xepolun,

Công ty cổ phần Đinh Tiên

7 môi giới BH Thái Hoàng,phường 2005 Cổ phần 6 tỷ

Bình Dương 3,Quận Bình đồng

(PIB) Thành,TP HCM

Công ty cổ phần

môi giới BH Số 7,Đào 4 tỷ

8 Cimeico Tấn,Quận Ba 2006 đồng Cổ phần

(Cimeico) Đình,HN

(Nguồn: Vụ bảo hiểm - Bộ tài chính)

BHTN nghề nghiệp đã xâm nhập vào thị trường BH Việt Nam được

59

hơn 8 năm, tuy còn nhiều hạn chế song công tác khai thác sản phẩm cũng

đã đạt được những thành tựu nhất định. Đóng góp vào những thành tựu đó

có vai trò rất quan trọng của các công ty môi giới BH. Theo thống kê của

HHBHVN, trong tổng số hợp đồng BHTN nghề nghiệp được ký kết trong

năm 2008 thì có 50% hợp đồng được ký kết thông qua môi giới, trong đó

có tới 85% là qua môi giới nước ngoài (Theo thống kê nghiệp vụ của

HHBHVN). Và thực tế cũng cho thấy, các nhà môi giới nước ngoài như

Aon và Gras Savoyve Willis đã mang về cho các công ty BH rất nhiều hợp

đồng BHTN nghề nghiệp có giá trị lớn.

* Ngoài hai kênh phân phối chủ yếu trên (lực lượng nhân viên khai

thác trực tiếp và khai thác trung gian - các công ty môi giới BH (hưởng hoa

hồng), hiện nay các công ty BH đang sở hữu thêm một kênh phân phối mới

nhưng cũng không kém phần hiệu quả, đó là - kênh phân phối qua các ngân

hàng. Ví dụ, Bảo Minh phát triển kênh phân phối qua ngân hàng

Sacombank và Techcombank, Bic tận dụng kênh phân phối qua ngân hàng

đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), mới đây vào ngày 09/01/2009 Bảo

Việt cũng đã chính thức thành lập và phát triển kênh phân phối qua ngân

hàng Bảo Việt,…Đây được coi là kênh phân phối có tiềm năng và đạt được

hiệu quả phân phối lớn trong tương lai.

2. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất:

Trong quy trình triển khai một sản phẩm BH, các DNBH không chỉ

dừng lại ở khâu khai thác mà còn phải chú ý đến việc kiểm soát tổn thất,

hay còn gọi là công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đây là một khâu quan

trọng, nó vừa đảm bảo an toàn tài chính cho người tham gia BH, vừa liên

quan trực tiếp đến trách nhiệm, quyền lợi và hiệu quả hoạt động kinh doanh

của chính DNBH. Nếu thực hiện tốt khâu này, số vụ tổn thất và mức độ tổn

thất sẽ giảm đi đáng kể và như vậy DNBH sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí

bồi thường, quỹ BH ổn định, và việc đầu tư có thể được mở rộng sinh

nhiều lợi nhuận.

Đối với mỗi nghiệp vụ BH khác nhau sẽ có các phương pháp đề

60

phòng, hạn chế tổn thất khác nhau. Riêng trong BHTN nghề nghiệp thì

công tác này đặc biệt quan trọng và cũng vô cùng khó khăn. Bởi vì rủi ro

được BH ở đây thực chất là những lỗi bất cẩn của NĐBH mà NBH là chủ

thể bên ngoài không thể kiểm soát được những rủi ro đó. NĐBH cũng

không bao giờ muốn có sự cố xảy ra vì nếu NBH chi trả cho những tổn thất

thì chỉ là những tổn thất về mặt tài chính mà thôi, còn uy tín bị ảnh hưởng

thì không gì có thể cứu vãn được. Vì thế những rủi ro được BH ở đây là

những rủi ro thuần tuý không thể biết trước. Công ty BH bảo hiểm cho

trách nhiệm của các nhà hoạt động chuyên môn thường chỉ có thể thực hiện

công tác đề phòng, hạn chế tổn thất bằng việc hỗ trợ khi cần thiết và

thường xuyên nhắc nhở NĐBH thực hiện đúng trách nhiệm của mình đối

với công việc. Ví dụ, đối với nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV,

NBH có thể thường xuyên cung cấp các thông tin về công nghệ trong xây

dựng cho NĐBH để giúp NĐBH tránh được những sai sót có thể xảy ra về

mặt thiết kế; hoặc thường xuyên đến hiện trường thi công để kiểm tra, nhắc

nhở các kỹ sư thực hiện công việc giám sát. NBH cũng có thể tham gia

kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng thêm các nhân viên của NĐBH, đảm

bảo về trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức của họ để tránh

những bất cẩn hoặc các tổn thất về sau.

Hàng năm, các DNBH đều phải chi ra một khoản nhất định trong

tổng số phí BH thu được để đề phòng, hạn chế tổn thất (riêng đối với

BHTN nghề nghiệp, tại Bảo Việt khoản chi này là 0,81% doanh thu phí, tại

Bảo Minh - là 0,72%). Mặc dù đây là con số rất nhỏ nhưng công tác đề

phòng hạn chế tổn thất đối với nghiệp vụ này không đòi hỏi nhiều chi phí

nên tại các DNBH khoản chi này luôn nằm trong giới hạn cho phép. Vì thế

quỹ này sẽ được tích tụ lại và sẽ được sử dụng vào chương trình đề phòng

hạn chế tổn thất có quy mô hơn khi số Đơn cung cấp được đã đạt đến một

độ lớn nhất định.

61

3. Công tác giám định và giải quyết bồi thường:

Công tác giám định và giải quyết bồi thường là khâu cuối cùng trong

quy trình triển khai một sản phẩm BH, và được thực hiện tùy theo vụ việc,

tuy nhiên nó cũng không kém phần quan trọng. Đây chính là khâu thể hiện

uy tín, danh tiếng, cũng như thương hiệu của DNBH, vì trách nhiệm của

NBH thể hiện rõ nhất khi có thông báo về sự cố hoặc tổn thất của NĐBH.

Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của công tác giám định bồi

thường là phải nhanh chóng, kịp thời, khách quan và trung thực. Thực hiện

tốt khâu này sẽ là cơ sở vững chắc cho các DNBH tạo được niềm tin ở

khách hàng trong điều kiện tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng cao.

Đối với loại hình BHTN nghề nghiệp, công tác giám định và giải

62

quyết bồi thường được tiến hành theo quy trình sau:

Bảng 7:

Quy trình bồi thường nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp

Tiếp nhận hồ sơ

Kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ

Tính toán bồi thường

Ý kiến đóng góp

Trình duyệt

Thông báo bồi thường

Báo tái bảo hiểm

Xử lý tài sản hỏng (nếu có)

(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)

B1: Tiếp nhận hồ sơ bồi thường.

Trong trường hợp nhận được khiếu nại của NĐBH, chuyên viên

bồi thường phải ghi sổ tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra các chứng từ được cung

cấp cho công ty:

63

- Công văn/ thư thông báo khiếu nại/ đòi bồi thường của bên thứ ba.

- Bản sao Giấy chứng nhận BH/ Đơn BH.

- Các biên bản giám định tai nạn (kèm theo sơ đồ xảy ra tai nạn, nếu

có).

- Xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (nếu cần thiết).

- Bản điều tra tai nạn của cơ quan chức năng nhằm phân rõ trách nhiệm.

- Biên bản hoà giải (nếu có).

- Quyết định của toà án.

- Các tài liệu liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba (nếu có).

B2: Kiểm tra, hoàn thiện hồ sơ:

Sau khi đối chiếu với các điều kiện, điều khoản, các điểm loại trừ

của Đơn BH và các điều khoản BH bổ sung, chuyên viên BH xem xét

khiếu nại có thuộc trách nhiệm BH hay không.

Nếu xét thấy khiếu nại không thuộc phạm vi BH, phải lập tức thông

báo cho khách hàng bằng văn bản.

Nếu khiếu nại có khả năng thuộc phạm vi BH, cần phải trao đổi với

NĐBH về phương hướng giải quyết vụ việc, khả năng hoà giải hay vấn đề

thuê mướn luật sư, lấy ý kiến nhân chứng, bảo lưu vật chứng, khi vụ việc

được đưa ra toà án,...Luôn luôn lưu ý rằng điều kiện tiên quyết của Đơn BH

này là NĐBH không được phép thương lượng, chấp nhận trách nhiệm hoặc

bồi thường cho người thứ ba khi chưa có sự cho phép của NBH.

(I) Trong trường hợp khiếu nại phát sinh có hạn mức trách nhiệm

ước tính cao hoặc nguyên nhân, diễn biến vụ việc phức tạp, các công ty, chi

nhánh phải báo cáo hoặc chuyển hồ sơ khiếu nại ban đầu về hội sở (Tổng

Công ty) để xem xét và quyết định.

B3: Tính toán bồi thường:

Trên cơ sở xem xét trách nhiệm BH, việc tính toán bồi thường có thể

64

được thực hiện như sau:

- Nếu vụ việc có khả năng hoà giải, cơ sở tính toán bồi thường được

thực hiện dựa trên cơ sở khiếu nại của bên thứ ba và các khoản chi phí đối

với thương tật thân thể và đối với thiệt hại về tài sản.

- Nếu vụ việc phải đưa ra toà án, cơ sở bồi thường được dựa trên

phán quyết của toà án và phạm vi bồi thường của Đơn BH (lưu ý là chi phí

thuê mướn luật sư cũng thuộc trách nhiệm BH).

B4: Trình duyệt:

Phòng nghiệp vụ trình lãnh đạo Công ty xem xét và ký duyệt bồi

thường. Trường hợp lãnh đạo có ý kiến chỉ đạo xem xét lại, Phòng giải

trình lại và tham khảo thêm ý kiến đóng góp của các Phòng liên quan.

B5: Thông báo bồi thường:

Trường hợp có tái BH chỉ định cho các công ty BH nước ngoài thì

trước khi thông báo số tiền bồi thường cho khách hàng phải thông báo cho

các công ty nhận tái BH biết trước và chỉ thông báo cho khách hàng khi có

xác nhận của các công ty nhận tái BH.

- Thông báo cho khách hàng về số tiền bồi thường.

- Chuyển thông báo bồi thường cùng tờ trình bồi thường đã được lãnh

đạo duyệt cho phòng kế toán để chuyển tiền bồi thường. Chỉ chuyển trả tiền

bồi thường sau khi đã nhận được giấy bãi nại của khách hàng.

- Làm công văn thông báo về hội sở (Tổng Công ty) để theo dõi

thống kê và đòi tái BH (nếu có).

B6: Xử lý tài sản hỏng (nếu có)

Một đặc điểm nổi bật của BHTN nghề nghiệp là tỷ lệ chi bồi thường/

phí BH thực thu hằng năm là rất thấp, thường chỉ dao động ở dưới 10%.

Thậm chí ở một số DNBH tỷ lệ này là 0%, ví dụ như Viễn Đông hay ACE

- vào năm 2007, AIG - vào năm 2008, điều này có nghĩa là trong năm đó

không hề có một khiếu nại bồi thường nào liên quan đến BHTN nghề

65

nghiệp xảy ra.

Bảng 8:

Tỷ lệ chi bồi thường/ phí BH thực thu của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp

trong hai năm 2007 & 2008.

Đơn vị: Triệu đồng

Phí BH thực thu Bồi thường thực Tỷ lệ chi bồi

chi thường/ BH gốc TT DNBH

Năm Năm Năm Năm Năm Năm

2007 2008 2007 2008 2007 2008

1 Bảo Minh 14.240 17.483 1.300 1.798 9,12% 10,28%

2 Bảo Việt 6.487 8.564 101 214 1,56% 2,5%

3 PVI 2.879 3.944 107 248 3,73% 6,3%

4 QBE 15.712 18.702 307 179 1,95% 0,96%

5 VASS 781 1.367 0 664 0% 48,57%

6 Pjico 1.437 2.307 93 211 6,47% 9,15%

7 6 AIG 3.024 0,19%

8 0 ACE 1.542 3.023 30 0% 0,99%

9 AAA 700 1.542 10 0 1,43% 0%

Tổng 46.802 56.932 1.924 3.344 4,11% 5,87%

(Nguồn: Hiệp hội BH Việt Nam)

* Phí BH thực thu ở đây đã được tính bao gồm: (phí BH gốc + phí nhận tái

BH trong nước + phí nhận tái BH nước ngoài) - (phí nhượng tái BH trong

66

nước + phí nhượng tái BH nước ngoài + giảm phí, hoàn phí BH).

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy tỷ lệ chi bồi thường/ phí

BH thực thu hằng năm của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tính trên toàn thị

trường mặc dù đã có chiều hướng tăng từ 4,11% năm 2007 lên 5,87% năm

2008, tuy nhiên đây vẫn là một mức tăng không đáng kể và so với nhiều

nghiệp vụ BH khác thì tỷ lệ này vẫn còn đang ở mức thấp (BH nông nghiệp

- 101,26%, BH xe cơ giới - 80%, BH thân tàu và TNDS chủ tàu - 62,88%,

BH con người - 50,40%). Nguyên nhân của tình trạng này là do nghiệp vụ

BHTN nghề nghiệp chưa đảm bảo được quy luật số lớn trong BH. Xác suất

xảy ra rủi ro thường là một vài phần trăm hoặc phần nghìn. Trong khi số

người tham gia BHTN nghề nghiệp còn rất hạn chế, nếu không muốn nói là

quá ít.

Tuy nhiên vẫn có trường hợp cá biệt tại công ty cổ phần BH Viễn

Đông VASS, trong năm 2007, tỷ lệ chi bồi thường là 0%, đến năm 2008

con số này đã lên đến 48,57% trong khi đó doanh thu phí BH chỉ đạt ở mức

1.367 triệu đồng - một con số khá khiêm tốn so với các DNBH khác trên

thị trường (QBE - 18.702 triệu đồng, Bảo Minh - 17.483 triệu đồng, Bảo

Việt - 8.564 triệu đồng). Điều này chứng tỏ công tác đề phòng và hạn chế

tổn thất ở VASS chưa thật sự hiệu quả, dẫn đến tỷ lệ chi bồi thường ở mức

cao. Vì vậy cần phải khẳng định rằng, mặc dù người tham gia BHTN nghề

nghiệp với số lượng nhỏ, tần suất xảy ra rủi ro ở mức thấp, tuy nhiên các

công ty BH cũng cần phải quan tâm, làm tốt công tác đề phòng, hạn chế tổn

thất, không được lơ là, tránh để khiếu nại bồi thường có thể xảy ra. Đồng

thời, các DNBH cũng cần phải cố gắng trong khâu khai thác nhằm đảm bảo

phí thu đủ lớn để bồi thường cho một số ít khách hàng gặp tổn thất. Bởi vì

hạn mức trách nhiệm của mỗi đơn BHTN nghề nghiệp hiện nay thông

thường là hàng tỷ đồng, trong khi phí BH thu được trên toàn thị trường đến

nay mới chỉ đạt gần 57 tỷ đồng.

67

4. Doanh thu và thị phần bảo hiểm:

BHTN nghề nghiệp là một nghiệp vụ BH mới và vẫn còn đang trong

giai đoạn triển khai thử nghiệm tại thị trường BH Việt Nam, vì vậy khi

kinh doanh nghiệp vụ BH này các công ty BH không mong thu được nhiều

lợi nhuận mà chỉ nhằm đúc rút kinh nghiệm, tạo tiền đề, cơ sở để phát triển

trong tương lai. Và thực tế, doanh thu phí BH hằng năm của dịch vụ BH

này là không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 1,81% tổng doanh thu phí BH của

Bảo Minh, 1,57% - tổng phí BH của Bảo Việt và 0,99% - tổng phí BH của

Pjico,… (Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam).

Bảng 9:

Doanh thu và thị phần BHTN nghề nghiệp trong hai năm 2007 và

2008.

Đơn vị: Triệu đồng.

TT DNBH Năm2007 Năm 2008

Doanh thu Thị phần Doanh thu Thị phần

1 QBE 15.712 33,57% 18.702 32,85%

2 Bảo Minh 14.240 30,43% 17.483 30,7%

3 Bảo Việt 13,86% 8.564 15,04% 6.487

4 3.024 AIG 6,46%

5 2.879 PVI 6,15% 3.944 6,93%

6 1.542 ACE 3,29% 3.023 5,31%

7 1.437 Pjico 3,07% 2.307 4,05%

8 700 AAA 1,49% 1.542 2,71%

9 781 VASS 1,68% 1.367 2,41%

Tổng 46.802 56.932

(Nguồn: Tập hợp từ báo cáo của QBE, Bảo Minh, Bảo Việt, AIG, PVI,

68

ACE, Pjico, AAA, VASS )

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy dẫn đầu thị trường BHTN

nghề nghiệp là công ty TNHH bảo hiểm QBE (100% vốn nước ngoài của

Úc), với doanh thu phí BH trong năm 2008 là 15.712 triệu đồng, chiếm

32,85% thị phần. Tại Việt Nam, QBE được đánh giá là chuyên gia kỹ thuật

cao với BHTN công cộng, BHTN sản phẩm, và BHTN nghề nghiệp - mà

đặc biệt là BH sơ suất trong khám, chữa bệnh (BHTN nghề nghiệp bác sỹ).

Các sản phẩm BHTN nghề nghiệp được QBE cung cấp đều mang tính

chuyên nghiệp cao, đặc biệt có ưu thế trên thị trường BH Việt Nam khi các

DNBH trong nước vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm đối với loại hình BH

này. Và khi sản phẩm BHTN nghề nghiệp bác sỹ vẫn chưa được các

DNBH trong nước khai thác thì sản phẩm BH sơ suất trong khám chữa

bệnh của QBE được coi là tiêu chuẩn cho việc xây dựng quy tắc BH của

các DNBH Việt Nam, và là địa chỉ tin cậy cho các DN môi giới giới thiệu

sản phẩm đến khách hàng.

Với bề dày kinh nghiệm và phong cách làm việc chuyên nghiệp, QBE

đánh giá được chính xác các rủi ro, đưa ra mức phí hợp lý. QBE từ đó cũng

có những biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất dựa trên công nghệ và kinh

nghiệm, công nghệ quản lý thông tin, đánh giá rủi ro và kinh nghiệm đề

phòng hạn chế tổn thất, hạn chế tối đa thiệt hại, nâng cao hiệu quả kinh

doanh. Khi xảy ra tổn thất QBE có sự hậu thuẫn của các chuyên gia đánh

giá rủi ro và bồi thường trong nước và từ hệ thống mạng lưới toàn khu vực

châu Á, đảm bảo phân tích chính xác và giải quyết nhanh chóng khiếu nại

và tổn thất.

Có thể nói, trước không ít những khó khăn mang tính cố hữu trong

việc triển khai loại hình BHTN nghề nghiệp của các DNBH Việt Nam thì

trước mắt, thị trường các sản phẩm BHTN nghề nghiệp vẫn là ưu thế của

các DNBH nước ngoài, mà cụ thể là QBE. Đưa ra sản phẩm là mới và khó

69

khăn với các DNBH Việt Nam nhưng không là khó khăn với QBE, vì trên

thực tế QBE đã có nhiều kinh nghiệm trong việc triển khai loại hình BH

này. Vấn đề của QBE hiện nay là đến được với khách hàng, làm cho khách

hàng tìm đến sản phẩm và lựa chọn sản phẩm.

Đứng thứ hai trên thị trường BHTN nghề nghiệp là công ty cổ phần

BH Bảo Minh. Với tổng doanh thu phí BH trong năm 2008 là 1.981 tỷ

đồng, Bảo Minh được đánh giá là công ty BHPNT lớn thứ ba trên toàn thị

trường (sau Bảo Việt - 3.305 tỷ đồng và PVI - 2.016 tỷ đồng). Riêng đối

với loại hình BHTN nghề nghiệp thì Bảo Minh được đánh giá là nhà cung

cấp trong nước chuyên nghiệp nhất, chỉ sau công ty TNHH bảo hiểm QBE

Việt Nam (100% vốn nước ngoài của Úc) với doanh thu phí BH - 17.483

triệu đồng, chiếm 30,7% thị phần.

Bảng 10:

Doanh thu BHTN nghề nghiệp trong năm 2008 của công ty cổ phần BH

Bảo Minh.

TT Loại BH Doanh thu Mức trách nhiệm cao nhất

1 BHTN nghề nghiệp 13.000.000.000 USD 5.000.000

KTS &KSTV VNĐ

2 BHTN nghề nghiệp 700.000.000 USD 1.000.000

bệnh viện/ bác sỹ VNĐ

3 BHTN nghề nghiệp 150.000.000 USD 1.000.000

luật sư VNĐ

4 BHTN nghề nghiệp 33.500.000 USD 100.000

môi giới BH VNĐ

5 BHTN nghề nghiệp 3.298.000.000 USD 1.000.000

khác VNĐ

(Nguồn: Trích “Báo cáo tổng kết công tác kinh doanh năm 2008” của Bảo

70

Minh).

Đặc biệt, Bảo Minh là DNBH đầu tiên xây dựng quy tắc BHTN nghề

nghiệp cho luật sư và cũng là công ty đầu tiên tại Việt Nam ký kết hợp

đồng BHTN nghề nghiệp luật sư. Ngày 10/08/2005 Bảo Minh đã ký kết

hợp đồng BHTN nghề nghiệp luật sư đầu tiên với văn phòng luật sư Phan

Trung Hoài. Theo đó, Bảo Minh nhận BH cho văn phòng luật sư Phan

Trung Hoài trách nhiệm phát sinh từ việc văn phòng luật sư Hoài bảo vệ

quyền lợi hợp pháp cho khách hàng của mình trong quá trình giải quyết

tranh chấp quan hệ hợp đồng kinh tế với đối tác của khách hàng và các đơn

vị liên quan trước Tòa sơ thẩm có thẩm quyền. Giới hạn bồi thường cho

mỗi vụ kiện là 10.000 USD (hay 160 triệu đồng) cho toàn thời gian BH.

Mức phí mà văn phòng luật sư Hoài đóng là 3 triệu đồng, cộng 10%VAT.

Thời hạn BH không quá 3 năm kể từ ngày hồi tố. Ngày hồi tố là ngày

21/06/2005, điểm mốc quy định nếu những tổn thất xảy ra với bên thứ ba -

tức khách hàng của văn phòng luật sư Phan Trung Hoài xảy ra trước ngày

này thì khiếu nại liên quan sẽ không thuộc phạm vi trách nhiệm của hợp

đồng.

Ngoài ra, Bảo Minh cũng là công ty đầu tiên ký hợp đồng BHTN nghề

nghiệp cho CTCK (ký với CTCK Đại Việt). Ngày 15/05/2007, tại

TP.HCM, thông qua sự thu xếp của Công ty môi giới BH Gras Savoye

Willis, công ty bảo hiểm TP.HCM (Bảo Minh) đã ký hợp đồng BHTN

nghề nghiệp với CTCK Đại Việt (DVSC), với giới hạn trách nhiệm BH

trong một năm là 1 triệu USD.

Xếp thứ ba trên toàn thị trường là Tổng công ty BH Việt Nam - Bảo

Việt. Với vai trò là anh cả trong ngành BH Việt Nam, Bảo Việt luôn đi đầu

trong mọi hoạt động tung ra sản phẩm BH mới. Sau khi Thông tư

137/1999/TT - BTC của Bộ tài chính ra đời thì Bảo Việt là công ty BH đầu

tiên đã xúc tiến việc nghiên cứu loại hình BHTN nghề nghiệp KTS &

KSTV. Tuy nhiên, tính đến nay mặc dù đã được triển khai 8 năm nhưng

71

hiệu quả kinh doanh cũng như doanh thu phí BH của nghiệp vụ BH này đạt

được là không cao. Riêng trong năm 2008, Bảo Việt chỉ khai thác được gần

30 hợp đồng BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV, với doanh thu thực hiện là

2.469 triệu đồng, giảm gần một nửa so với doanh thu của loại hình BH này

trong năm 2007 là 4.526 triệu đồng, dẫn đến mức tăng trưởng của sản

phẩm là -20,57% -> mức tăng trưởng âm và là thấp nhất trong số các

nghiệp vụ BHTN của Bảo Việt.

Bảng 11:

Kết quả doanh thu một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của Bảo Việt

năm 2008.

Đơn vị: Triệu đồng.

Doanh thu năm Tỷ lệ

TT Nghiệp vụ Bảo 2008 Doanh Tăng hoàn

hiểm thành thu năm trưởng KH Thực

KH 2007 hiện

BHTN tàu 10.500 12.828 122,17% 8.626 4202 1

biển

BHTN tàu 700 465 109,29% 512 253 2

sông

BHTN chủ 1.500 1.580 105,33% 894 686 3

đóng tàu

4 BHTN chủ sân 4.000 2.379 59,48% 2.325 54

bay

BHTN sản 1.100 331 30,09% 1.039 -708 5

phẩm

BHTN công 340 413 121,47% 187 226 6

cộng

7 BHTN Hole in 380 316 83,16% 333 -17

72

one

8 BHTNNN 6.500 2.469 37,98% 4.526 -2057

KTS & KSTV

BHTNNN với

9 bệnh viện, bác 470 418 88,94% 405 13

sỹ

10 BHTN khác 900 782 86,88% 752 30

(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)

Qua bảng trên chúng ta có thể thấy, doanh thu trong năm 2008 của

nghiệp vụ BHTN tàu biển là cao nhất, đạt mức tăng trưởng 42,02%, một

con số rất ấn tượng. Tuy nhiên đối với nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp KTS

& KSTV thì tình hình lại hoàn toàn trái ngược, mặc dù doanh thu kế hoạch

đạt mức cao, chỉ xếp sau BHTN tàu biển, nhưng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch

và mức tăng trưởng lại ở mức thấp nhất. Điều này cho thấy hiệu quả kinh

doanh nghiệp vụ BH này là rất kém, và đang có chiều hướng thụt lùi. Tuy

nhiên, đối với BHTN nghề nghiệp bệnh viện và bác sỹ lại đang có chiều

hướng phát triển tốt. Tuy doanh thu kế hoạch và doanh thu thực hiện đạt

được không cao nhưng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch và mức tăng trưởng lại ở

mức tương đối tốt, dự báo sản phẩm BH này có nhiều tiềm năng phát triển

trong những năm tới.

Hiện nay, Bảo Việt cũng đã nghiên cứu triển khai thêm nhiều loại

hình BHTN nghề nghiệp mới như: BHTN nghề nghiệp Giám đốc và người

điều hành, BHTN nghề nghiệp công ty bảo vệ, BHTN nghề nghiệp người

điều hành cảng biển, BHTN nghề nghiệp công ty kiểm toán,…nhưng doanh

73

thu đạt được cũng chưa cao.

Bảng 12:

Kết quả doanh thu một số loại hình BHTN nghề nghiệp mới của

Bảo Việt năm 2008.

TT Loại BH Doanh thu Mức trách nhiệm cao nhất

1 Giám đốc và người điều 800.000.000 USD 1.000.000

hành VNĐ

2 Công ty bảo vệ 300.000.000 USD 1.000.000

VNĐ

3 Người điều hành cảng 1.400.000.000 USD 2.000.000

biển VNĐ

4 Công ty kiểm toán 1.100.000.000 USD 9.700.000

VNĐ

(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội).

Ngoài QBE, Bảo Minh, Bảo Việt - là những công ty hoạt động tích

cực nhất trong việc triển khai loại hình BHTN nghề nghiệp, tại Việt Nam

còn có một số công ty khác kinh doanh loại hình BH này như PVI, Pjico,

AAA nhưng hầu hết mới chỉ là “đưa chân bước theo thị trường”, chưa có

mục tiêu phát triển cụ thể. Cho đến nay, PVI mới chỉ cung cấp sản phẩm

BHTN nghề nghiệp KTS và các tổ chức tư vấn, Pjico chỉ kinh doanh

BHTN nghề nghiệp tổ chức tín dụng và CTCK. Riêng đối với công ty cổ

phần BH AAA, tuy đã cung cấp ra thị trường bộ sản phẩm BHTN nghề

nghiệp gồm ba dịch vụ: BHTN nghề nghiệp bác sỹ, BHTN nghề nghiệp

luật sư, BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV; ngoài ra cũng được đánh giá là

một trong những DNBH có nhiều nỗ lực nhất trong việc triển khai loại hình

BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam, tuy nhiên doanh thu nghiệp vụ của AAA

đạt được là chưa cao, thậm chí là thấp nhất nếu như tính trên toàn thị

trường, và chỉ chiếm 1,49% thị phần. Đây là một điểm hạn chế mà AAA

cần tìm rõ nguyên nhân và khắc phục kịp thời để có được bước tiến mới

74

trong việc triển khai sản phẩm trong thời gian tới.

Nhìn chung, doanh thu của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tính trên

toàn thị trường là chưa cao, mới chỉ đạt gần 57 tỷ đồng- một con số cực kỳ

khiêm tốn. Tuy nhiên, so với nhiều nghiệp vụ BH mới triển khai thì đây

vẫn là một kết quả đáng khích lệ. Trong thời gian tới, khi kết thúc thời kỳ

triển khai thử nghiệm sản phẩm, các công ty BH cần phải cố gắng nhiều

hơn nữa để đạt được doanh thu nghiệp vụ cao hơn, dần dần đưa BHTN

nghề nghiệp trở thành một loại hình BH phổ biến và là một trong những

sản phẩm BH chủ yếu của các DNBH.

III. Đánh giá chung về tình hình kinh doanh BHTN nghề nghiệp trong

những năm vừa qua.

1. Tích cực

Ra đời lần đầu vào năm 2001, với sản phẩm đầu tiên là BHTN

nghề nghiệp KTS & KSTV, và khi đó chỉ có một công ty bảo hiểm Việt

Nam cung cấp sản phẩm này là Bảo Việt, tính đến nay BHTN nghề nghiệp

đã được phát triển đa dạng về chủng loại, cũng như số lượng các nhà

cung cấp. Hiện nay, ngoài Bảo Việt thì hầu hết các công ty bảo hiểm phi

nhân thọ tại Việt Nam đều cung cấp sản phẩm bảo hiểm này, tiêu biểu là

Bảo Minh, Pjico, AAA,...Mỗi doanh nghiệp trên cơ sở những quy định

chung của Bộ tài chính đã xây dựng riêng cho mình những quy tắc, biểu

phí BHTN nghề nghiệp thể hiện được tính linh hoạt trong thực tế kinh

doanh bảo hiểm; bên cạnh đó còn phát hành những tài liệu hướng dẫn

nghiệp vụ rất chi tiết nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quá trình triển khai

thực hiện.

BHTN nghề nghiệp là một nghiệp vụ bảo hiểm mới, có tính đặc thù và

phức tạp, vì vậy rất khó để phổ biến tại Việt Nam, tuy nhiên các công ty

bảo hiểm cũng đã khá linh hoạt trong khâu khai thác nhằm giới thiệu cho

nhiều người biết đến sản phẩm này. Không chỉ sử dụng các phương pháp

tuyên truyền, quảng cáo truyền thống như: báo chí, pano, áp phích, internet

75

và truyền hình,… các công ty bảo hiểm còn chủ động tổ chức các buổi gặp

mặt, giới thiệu trực tiếp và thực hiện thí điểm tại một số nơi để khách hàng

có thể hiểu rõ nhất về lợi ích cũng như tầm quan trọng của BHTN nghề

nghiệp. Hiểu rõ được tính phức tạp của nghiệp vụ, các công ty bảo hiểm

cũng đã chú trọng đến khâu đào tạo, tập huấn về kỹ năng nghiệp vụ khai

thác, quản lý rủi ro, kiểm soát tổn thất, cũng như thái độ phục vụ khách

hàng cho đội ngũ cán bộ nhân viên để đáp ứng được yêu cầu của công tác

triển khai - khai thác sản phẩm. Ngoài ra, nhằm nâng cao hiệu quả khai

thác, các công ty bảo hiểm Việt Nam cũng đã liên kết chặt chẽ với các công

ty môi giới bảo hiểm, đặc biệt là các công ty môi giới nước ngoài, có nhiều

kinh nghiệm trong BHTN nghề nghiệp như Aon, Gras Savoye Willis,….đã

mang về cho các doanh nghiệp bảo hiểm rất nhiều hợp đồng lớn.

Để tăng cường, củng cố niềm tin của khách hàng và đảm bảo tài chính

cho NĐBH, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã phối hợp với

một số doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài và thực hiện tái bảo hiểm cho

các hợp đồng có giá trị lớn. Trong hoạt động giám định tổn thất các công ty

bảo hiểm cũng đã xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với các công ty

giám định có uy tín như Cunningham, Crawford, Garco, Mc Larens Young

Int,…để tiến hành giám định tổn thất khi cần thiết. Do đó, trong thời gian

qua các doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam như Bảo Việt, Bảo Minh,

AAA,…cũng đã thực hiện khâu giám định tổn thất kịp thời, nhanh chóng

và chính xác.

Hiện nay BHTN nghề nghiệp đã được phát triển phong phú, đa dạng

về chủng loại, ngoài BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV, các công ty bảo

hiểm còn cung cấp thêm nhiều sản phẩm BHTN nghề nghiệp khác như:

BHTN nghề nghiệp luật sư; BHTN nghề nghiệp bác sỹ; BHTN nghề

nghiệp của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; BHTN nghề nghiệp

của công chứng viên; BHTN nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới

chứng khoán, doanh nghiệp thẩm định giá. Ngoài ra, còn xem xét bảo hiểm

76

trách nhiệm nghề nghiệp cho bảo vệ, nhân viên tuyển dụng, giám

đốc,…Như vậy, có thể nói, so với năm 2001 thì đến nay đối tượng tham gia

BHTN nghề nghiệp đã được mở rộng thêm rất nhiều.

Sau gần 8 năm được đưa vào triển khai và khai thác, tuy số lượng hợp

đồng bảo hiểm không nhiều, và tỷ lệ bồi thường nghiệp vụ trên toàn thị

trường là chưa cao (mới chỉ đạt 7.94%), nhưng BHTN nghề nghiệp cũng đã

phần nào phát huy được vai trò của mình là đảm bảo được quyền lợi của

các bên (NĐBH và bên thứ ba); hỗ trợ tích cực cho người tham gia bảo

hiểm trong công tác phòng tránh rủi ro và giúp họ có thể yên tâm hành

nghề trong điều kiện cuộc sống nghề nghiệp có nhiều bất trắc,…

2. Hạn chế

Bên cạnh số ít những thành tựu đạt được, quá trình triển khai BHTN

nghề nghiệp tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục để sớm

có thể đưa loại hình bảo hiểm này thành một sản phẩm bảo hiểm phổ biến

tại Việt Nam.

Trước hết, quy mô khách hàng tham gia BHTN nghề nghiệp vẫn

còn rất hạn chế, bởi trong số lượng ít ỏi các đơn bảo hiểm ký được trên

toàn thị trường, thì có những khách hàng đã tham gia tới 2, 3 đơn. Ví dụ

như: Công ty tin học xây dựng - 37 Lê Đại Hành và Công ty Kiến trúc Việt

Nam, cả 2 công ty này đều đã ký 3 đơn BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV

với những hạn mức trách nhiệm khác nhau cho các công việc khác nhau tại

công ty bảo hiểm Bảo Việt Hà Nội. Điều này chứng tỏ, số lượng khách

hàng được thu hút tham gia loại hình bảo hiểm này là rất ít, trong khi đó,

những người hoạt động trong công tác chuyên môn, kỹ thuật tại nước ta

vào thời điểm hiện nay là rất lớn, chỉ riêng đối với nghề luật sư, theo thống

kê đến cuối năm 2008 đã lên tới con số 5000 người. Như vậy có thể thấy,

số lượng khách hàng tiềm năng thực tế là rất lớn nhưng các công ty bảo

hiểm vẫn chưa khai thác được là bao, hay nói cách khác hiệu quả của công

tác triển khai - khai thác nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam là

77

chưa cao, và điều này là do nhiều nguyên nhân sau:

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan là do cơ sở pháp lý chưa chặt chẽ,

mặc dù nhiều văn bản luật chuyên ngành có quy định bắt buộc, ví dụ như

Pháp lệnh luật sư năm 2001 quy định bắt buộc phải mua BHTN nghề

nghiệp cho luật sư; luật chứng khoán năm 2007 quy định bắt buộc mua

BHTN nghề nghiệp cho công ty chứng khoán; luật công chứng năm 2007

bắt buộc mua BHTN nghề nghiệp cho các tổ chức công chứng tư,… tuy

nhiên trong luật kinh doanh bảo hiểm lại không quy định cụ thể gì về các

loại hình BHTN nghề nghiệp này. (Trong luật kinh doanh bảo hiểm chỉ quy

định 2 loại hình BHTN nghề nghiệp bắt buộc là: BHTN nghề nghiệp đối

với hoạt động tư vấn pháp luật và BHTN nghề nghiệp của doanh nghiệp

môi giới bảo hiểm). Hơn nữa trong các văn bản luật này cũng chưa có quy

định về chế tài cưỡng chế đối với trường hợp vi phạm và thực tế, tại Việt

Nam cũng chưa có tiền lệ xử phạt nào liên quan đến BHTN nghề nghiệp.

Vì thế ý thức của những người làm công tác chuyên môn, kỹ thuật tham gia

loại hình bảo hiểm này là chưa cao, thậm chí khi được hỏi về vấn đề này

một cán bộ làm công tác chuyên môn lâu năm đã phát biểu: “Quy định thì

quy định nhưng có xử phạt đâu mà lo. Trước nay vẫn thế có sao đâu, mua

làm gì cho mất tiền mà thêm phức tạp”. Đây cũng là tâm lý chung, phổ

biến trong giới chuyên môn và đặc biệt ăn sâu vào những viên chức, công

chức Nhà nước, không có thói quen tự chịu trách nhiệm, trách nhiệm là của

Nhà nước, người mắc lỗi chỉ chịu phạt hay kỉ luật. Ngoài ra, tâm lý này còn

xuất phát từ việc các ngành nghề chuyên môn ở nước ta còn hoạt động rất

tự phát và không có kỷ luật, không có những tiêu chuẩn quy tắc làm việc rõ

ràng để phân định trách nhiệm chuyên môn và tính phí dịch vụ,…Chính vì

quy định không chặt chẽ và tâm lý “không tự chịu trách nhiệm” này đã gây

khó khăn rất lớn đến việc triển khai sản phẩm BHTN nghề nghiệp, các khai

thác viên rất khó có thể thuyết phục được khách hàng tham gia loại hình

78

bảo hiểm này.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan là hiện nay hầu hết các công ty bảo

hiểm phi nhân thọ kinh doanh loại hình bảo hiểm này đều chưa có một

phòng nghiệp vụ riêng cho BHTN nghề nghiệp. Ngay cả tại Bảo Việt -

công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam, nghiệp vụ này cũng do

Phòng Bảo hiểm Cháy và Rủi ro kỹ thuật quản lý. Do họ vốn phụ trách

những nghiệp vụ bảo hiểm khác như hỏa hoạn, cháy nổ, rủi ro kỹ

thuật,…chưa có kinh nghiệm, cũng như chuyên môn nghiệp vụ đầy đủ nên

trong quá trình khai thác họ vẫn chưa hoàn toàn thành thục về nghiệp vụ

này, không dám thẳng tay triển khai thực hiện mà chỉ bước những bước dò

dẫm, thử nghiệm. Chính sự kiêm nhiệm và không chuyên nghiệp này đã

làm cho BHTN nghề nghiệp không được đẩy mạnh.

Thứ ba, trong hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm thì kênh khai thác qua

đại lý là rất quan trọng, tuy nhiên riêng đối với nghiệp vụ BHTN nghề

nghiệp thì đến nay chưa có một đại lý nào được đào tạo chuyên môn để

triển khai nghiệp vụ. Kênh khai thác chính chủ yếu vẫn dựa vào các công

ty môi giới bảo hiểm và lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp của công

ty. Đây là một hạn chế rất lớn trong công tác khai thác một nghiệp vụ bảo

hiểm, vì theo thống kê đại lý là kênh khai thác hiệu quả và mang lại nhiều

hợp đồng bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm.

Thứ tư, mặc dù các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã biết tổ chức

các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo nhằm giới thiệu, phổ biến cho đông

đảo khách hàng và quần chúng biết đến loại hình BHTN nghề nghiệp,

nhưng hầu như các hoạt động này mới chỉ mang tính giới thiệu chung

chung. Tại webside của các doanh nghiệp bảo hiểm thông tin về các sản

phẩm dịch vụ còn rất nghèo nàn, nhiều đề mục chưa được cập nhật thông

tin. Riêng đối với BHTN nghề nghiệp, hầu như các webside chỉ mới đề cập

đến đối tượng bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, hay thời hạn bảo hiểm một

cách sơ sài, chứ chưa nói rõ về từng loại bảo hiểm, cách tính phí hay thời

79

hạn hồi tố,…Thậm chí, ngay chính tại webside của Bảo Việt nếu khách

hàng muốn tìm hiểu về sản phẩm BHTN nghề nghiệp thì cũng đành “ bó

tay”, vì chẳng có gì ngoài đề mục rằng Bảo Việt có cung cấp sản phẩm này.

Thứ năm, do được phép tự mình xây dựng quy tắc và biểu phí nên một

số doanh nghiệp đã xây dựng quy tắc BHTN nghề nghiệp một cách thiếu

cân nhắc, thiếu tỉ mỉ và không hề dễ hiểu, gây khó khăn cho người đi tìm

hiểu cũng như khách hàng (ví dụ như bộ quy tắc BHTN nghề nghiệp KTS

& KSTV của bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) với nhiều ngôn từ khó hiểu

và nội dung không rõ ràng). Thậm chí có nhiều doanh nghiệp chỉ đưa ra sản

phẩm rồi để đấy, không nỗ lực đẩy mạnh triển khai ví dụ như Bảo hiểm dầu

khí (PVI), Bảo hiểm bưu điện (PTI),…

Thứ sáu, do điều kiện cạnh tranh gay gắt đã làm cho các doanh nghiệp

bảo hiểm vì doanh thu và thị phần mà nhắm mắt hạ phí bảo hiểm gốc, thậm

chí còn hạ đến mức thấp hơn phí tái bảo hiểm để thu hút và giữ chân khách

hàng, nhất là các khách hàng lớn. Đứng trước một nghiệp vụ mới chưa

thành thục, chưa có nhiều lợi nhuận lại gặp phải trào lưu hạ phí khiến nhiều

doanh nghiệp bảo hiểm ngần ngại triển khai loại hình bảo hiểm này. Đây

cũng là vấn đề mà trong các cuộc họp của Hiệp hội bảo hiểm đều có đưa ra

nhưng vẫn không dập tắt được, và đến nay Hiệp hội cũng chưa đưa ra được

biện pháp giải quyết hiệu quả.

Thứ bảy, BHTN nghề nghiệp là một loại hình bảo hiểm cao cấp, và rất

phức tạp,đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn kĩ thuật, khả năng dự tính

trước rủi ro, quản lí rủi ro và kiểm soát tổn thất. Trong khi đó, hầu như các

doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam lại chưa có kinh nghiệm cũng như

chuyên môn đầy đủ để triển khai loại hình bảo hiểm này. Vì thế, khi xảy ra

khiếu nại hầu như các doanh nghiệp phải dựa hoàn toàn vào những người

đi thuê giám định và bào chữa. Công tác này rất phức tạp, tốn kém, và mất

nhiều thời gian, trong khi nguồn vốn của các doanh nghiệp vẫn còn rất hạn

chế, chưa có đủ tiềm lực tài chính để “thử”. Vì vậy một thực tế hiện nay

80

hầu như các doanh nghiệp đều tập trung mọi nguồn lực cho các sản phẩm

lâu đời, không chú trọng đến việc đầu tư phát triển sản phẩm này, vẫn

duy trì một tình trạng triển khai nửa vời, không tiến cũng không lùi, không

đem lại hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ.

Thứ tám, một nguyên nhân khách quan khiến cho sản phẩm BHTN

nghề nghiệp triển khai chậm trên toàn thị trường là do các cơ quan chủ

quản như Bộ tài chính, và hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã thiếu sự quan

tâm và chỉ đạo sát sao đối với việc triển khai sản phẩm, mặc nhiên đưa ra

vài quy định rồi để các doanh nghiệp bảo hiểm “tự biên tự diễn”, kết quả

thế nào Bộ tài chính và hiệp hội cũng không mấy quan tâm. Nói cách khác,

Bộ tài chính và hiệp hội bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa phát huy được vai trò

của mình trong việc duy trì hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với lợi

ích chung của toàn thị trường, cũng như khả năng giám sát các hoạt động

KDBH theo Pháp luật nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và tích cực.

Mặc dù đã phát triển đa dạng về chủng loại, tuy nhiên đến nay, vẫn

chỉ mới được xây dựng rồi bỏ ngỏ, không được chú trọng phát triển nhiều

loại BHTN nghề nghiệp có nhiều tiềm năng vẫn chưa được chú trọng, ví dụ

như BHTN nghề nghiệp cho công chứng viên.

Sau gần 8 năm triển khai BHTN nghề nghiệp, đến nay không chỉ quy

mô khách hàng còn hạn chế mà quy mô thị trường của sản phẩm này vẫn

còn đang rất hẹp, hay nói cách khác là sản phẩm này vẫn chưa có đất sống.

Tại Việt Nam, BHTN nghề nghiệp được coi là một sản phẩm bảo hiểm cao

cấp, chuyên cung cấp cho những cá nhân hoặc doanh nghiệp có tiềm lực tài

chính mạnh, có quy mô lớn,…nên các sản phẩm bảo hiểm này cũng chủ

yếu được bán tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, không phổ biến,

thậm chí là chưa xuất hiện tại các tỉnh, thành phố nhỏ, chứ chưa nói đến

vùng thị trấn, nông thôn. Đây là một hạn chế rất lớn về thị trường đối với

81

một nghiệp vụ bảo hiểm.

CHƢƠNG III:

ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN

BHTN NGHỀ NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

I. Xu hƣớng phát triển BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam.

1. Tiềm năng phát triển loại hình BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam.

BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH mới trên thị trường BH PNT

Việt Nam. Công tác triển khai sản phẩm BH này mới chỉ được tiến hành

trong vòng 8 năm trở lại đây, và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ đạt được

cũng chưa cao. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như

xu hướng phát triển của nước ta nói chung và toàn ngành BH nói riêng thì

trong một vài năm tới, BHTN nghề nghiệp được đánh giá là một trong

những loại hình BH có tiềm năng để phát triển mạnh và mang lại doanh

thu cao. Tiềm năng này trước hết được thể hiện qua những nhân tố trực

tiếp và gián tiếp có ảnh hưởng thuận lợi đến sự phát triển của loại hình BH

này, như: xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường; cơ sở pháp

lý ngày càng được hoàn thiện và chặt chẽ hơn; nền kinh tế Việt Nam ngày

càng phát triển, bên cạnh đó là sự phát triển nhanh và toàn diện của toàn

ngành BH.

a. Những nhân tố trực tiếp.

Những nhân tố có tác dụng thúc đẩy trực tiếp đến sự phát triển của

nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp trong thời gian tới bao gồm hai nhân tố chủ

yếu là: xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường; và hệ thống

cơ sở pháp lý ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ hơn.

a1. Hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường.

Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng được khẳng định. Đặc

biệt từ khi hiệp định về tài chính giữa Việt Nam và nhiều nước thông qua,

việc mở cửa thị trường và tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong

82

đó có lĩnh vực BH ngày càng trở nên cấp thiết. Sự kiện Việt Nam gia nhập

Tổ chức thương mại Thế giới WTO tháng 11/2006 đã đánh dấu một mốc

lớn trong nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh BH nói riêng.

Hàng loạt các DNBH nước ngoài đã và sẽ xâm nhập vào thị trường BH

Việt Nam (tính đến nay, toàn thị trường BH đã có 21 DNBH có vốn đầu tư

nước ngoài, trong đó, PNT có 11 DNBH có vốn nước ngoài (4 liên doanh),

NT có 10 DNBH 100% vốn nước ngoài, Môi giới BH có 4 DN 100% vốn

nước ngoài). Với bề dày kinh nghiệm và khả năng tài chính phong phú, các

công ty này sẽ cung cấp thêm nhiều sản phẩm mới và chuyên nghiệp.

Trong số đó, BHTN nghề nghiệp sẽ được tung ra với những ưu thế đặc biệt

và quy mô rộng khắp.

Ở đây cần nhấn mạnh, quá trình mở cửa thị trường BHVN không

những không làm suy giảm năng lực cạnh tranh của DNBH trong nước mà

còn là yếu tố buộc các DNBH trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh của

mình để tồn tại và phát triển; đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để các

DNBH Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm triển khai sản phẩm từ

các công ty BH nước ngoài. Bởi vì, ở nhiều nước trên Thế giới, đặc biệt là

các nước phát triển như: Anh, Mỹ, Úc BHTN nghề nghiệp đã được áp dụng

một cách phổ biến và là một thế mạnh, là nguồn thu chính của các công ty

BH (BH xe cơ giới chiếm 50% doanh thu BH PNT thì BHTN nghề nghiệp

chiếm số còn lại).

a2. Cơ sở pháp lý ngày càng chặt chẽ.

Chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh BH ngày càng

được hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Luật kinh doanh BH được ban hành năm

2000, NĐ 42, NĐ 43, TT 71, TT 72 được ban hành tháng 8 năm 2001 đến

nay được sửa đổi, bổ sung thành NĐ 45, NĐ 46, TT 155, TT 156 ban hành

năm 2007, hướng dẫn thi hành Luật KDBH. NĐ 103 về BH bắt buộc

TNDS chủ xe cơ giới; NĐ 130 BH Cháy nổ bắt buộc; NĐ 125 về BH bắt

buộc TNDS trong kinh doanh vận tải thủy nội địa; NĐ 118 về xử phạt vi

83

phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH; QĐ 153 - BTC về chỉ tiêu giám

sát tài chính DNBH, QĐ 175/TTg về chiến lược phát triển thị trường BH

Việt Nam đến năm 2010,…

Ngoài ra, cơ sở pháp lý của các chuyên ngành khác cũng dần dần

được hoàn thiện, và hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của ngành BH nói

chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng, ví dụ như: Luật công chứng năm

2007 quy định BHTN nghề nghiệp bắt buộc cho các tổ chức công chứng tư;

luật chứng khoán năm 2007 quy định bắt buộc BHTN nghề nghiệp của

công ty quản lý quỹ; nghị định 105/2004/NĐ - CP quy định BHTN nghề

nghiệp cho công ty kiểm toán,…

Những văn bản pháp quy nói trên là cơ sở pháp lý để hợp pháp hóa

và mở đường cho các dịch vụ BH phát triển. Đặc biệt, với sự ra đời của

hàng loạt các văn bản dưới luật, văn bản luật chuyên ngành về việc quy

định chế độ BH bắt buộc hay khuyến khích BHTN nghề nghiệp đối với

một số ngành nghề chuyên môn đã mở ra một thị trường rộng lớn và

tiềm năng phát triển cho nghiệp vụ này.

b/ Những nhân tố gián tiếp:

Tiềm năng phát triển của loại hình BHTN nghề nghiệp còn được thể

hiện qua những nhân tố có ảnh hưởng gián tiếp như: nền kinh tế Việt Nam

ngày càng phát triển; bên cạnh đó là sự phát triển nhanh và toàn diện của

toàn ngành BH.

b1. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu giảm mạnh

từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,2% năm 2008 (Nguồn: số liệu của Bộ tài

chính), tuy nhiên xét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì sự sụt

giảm này là hợp lý và nếu so sánh với các quốc gia đang phát triển khác ở

Đông Nam Á thì Việt Nam vẫn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao (Thái Lan: 3,6%; Malaysia: 3,7%; Philippines: 3%; Indonesia: 4,4%;

Singapore: 1,2 %). Và theo đánh giá của Hãng phân tích kinh tế SEE của

84

Tây Ban Nha, trong giai đoạn 2005 – 2025, Việt Nam nằm trong nhóm các

quốc gia (bao gồm cả Ấn Độ, Philippines, Trung Quốc, và Thổ Nhĩ Kỳ) sẽ

đạt tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, với mức tăng trưởng bình quân

hàng năm là 8%/năm. Trong đó, có nhiều lĩnh vực tăng trưởng mạnh như

chứng khoán, bảo hiểm, và các ngành có nhu cầu cao như thẩm định giá,

kiểm toán, công chứng,…cũng có nhiều sức ép đòi hỏi tính chính xác,

nhanh chóng và chuyên nghiệp. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp BH phát

triển loại hình BHTN nghề nghiệp đến những đối tượng khách hàng có quy

mô lớn. Mặt khác, đây cũng là môi trường để các doanh nghiệp BH hoàn

thiện hơn sản phẩm cũng như năng lực của mình trong bối cảnh cạnh tranh

ngày càng gay gắt.

Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng kéo theo nhiều hệ quả: những vấn

đề nhức nhối về tai nạn giao thông; thiên tai hoành hành; về sự thiếu hụt

trầm trọng cơ sở vật chất khám chữa bệnh hay hàng loạt sự kiện các công

trình xây dựng, lắp đặt lớn sập đổ, nứt, lún hay có vấn đề về an toàn,…đã

làm cho nhiều người ý thức hơn về những rủi ro có thể xảy đến, quan tâm

hơn đến việc thực hiện trọng trách của mình, bảo vệ quyền lợi của mình.

Do vậy, BHTN nghề nghiệp chắc chắn sẽ được chú ý hơn nữa trong thời

gian tới.

b2. Sự phát triển nhanh, toàn diện của toàn ngành bảo hiểm .

Trong bước đường 15 năm hoạt động (từ năm 1993 đến năm 2009),

ngành BH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: tốc độ tăng

trưởng đạt mức cao; quy mô thị trường ngày càng được mở rộng; số lượng

sản phẩm BH ngày càng nhiều; năng lực quản lý điều hành và chất lượng

cán bộ BH ngày càng chuyên nghiệp.

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng toàn ngành BH đạt mức cao. Năm

1993, doanh thu BH mới đạt 700 tỷ đồng, chiếm 0,37% GDP. Năm 2007,

doanh thu BH đạt 17.846 tỷ đồng, chiếm 2,11% GDP, trong đó NT đạt

9.486 tỷ đồng, PNT đạt 8.360 tỷ đồng. Năm 2008, doanh thu BH đạt

85

21.314 tỷ đồng, chiếm 2,22% GDP, trong đó NT đạt 10.489 tỷ đồng, tăng

trưởng 11%, PNT đạt 10.825 tỷ đồng, tăng trưởng 29%. Đặc biệt, BH PNT

đã về đích trước hạn trong việc thực hiện chỉ tiêu chiến lược phát triển

ngành BH giai đoạn 2003 - 2010 đề ra là 9.000 tỷ đồng và đạt mức tăng

trưởng bình quân là 20%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng cao, mang sức

hấp dẫn lớn đối với các công ty BH nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.

Thứ hai, quy mô thị trường ngày càng được mở rộng: từ chỗ chỉ có

một DNBH là Bảo Việt, đến nay trên thị trường BH Việt Nam đã có 27

DNBH Phi nhân thọ, 11 DNBH Nhân thọ, 8 DN môi giới BH cùng nhau

hoạt động và cùng tranh tài cung cấp sản phẩm BH để khách hàng có quyền

lựa chọn một cách tích cực. Bên cạnh đó, số lượng sản phẩm BH được

cung cấp cũng ngày càng nhiều, đa dạng, phong phú, về cơ bản đáp ứng

được nhu cầu và tạo được sự lựa chọn mang tính cạnh tranh cho khách

hàng. Năm 1999 mới có 20 sản phẩm BH, đến nay khối PNT đã có 3 sản

phẩm BH bắt buộc và 600 sản phẩm BH do DNBH đăng kí với BTC. Các

sản phẩm BH có sự khác biệt giữa DNBH này với DNBH khác mang tính

cạnh tranh cao để khách hàng lựa chọn.

Thứ ba, năng lực quản lý điều hành và chất lượng cán bộ BH ngày

càng chuyên nghiệp. Năm 1993, ngành BH mới có 500 cán bộ, công nhân

viên, đến nay, toàn ngành đã có tới 14.000 cán bộ, công nhân viên và

140.000 đại lý BH, trong đó có 90.000 đại lý BH NT chuyên nghiệp. Lãnh

đạo DNBH, các Trưởng phòng, Giám đốc chi nhánh đều được trải qua các

khóa đào tạo trong và ngoài nước đạt tiêu chuẩn quy định của BTC. Toàn

ngành có trên 90% cán bộ BH có trình độ đại học, trong đó, 5% có trình độ

trên đại học, có trên 1.000 cán bộ tốt nghiệp các khóa đào tạo BH nước

ngoài có trình độ đại học và sau đại học. Gần đây, trong quá trình cổ phần

hóa, các DNBH đã hướng tới chọn đối tác chiến lược là các công ty BH

hàng đầu quốc tế để tiếp thu phương pháp, kinh nghiệm, công nghệ quản

86

lý, điều hành của họ.

Nhìn chung, 15 năm qua là một chặng đường dài ngành BH đã

phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều và vượt qua nhiều thử thách để đạt được

nhiều thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Và sự phát triển của toàn

ngành là điều kiện thuận lợi để các công ty BH, các sản phẩm BH có

môi trường để phát triển, trong số đó, BHTN nghề nghiệp cũng không

phải là một ngoại lệ. Có thể nói, cùng với sự phát triển của toàn ngành

BH thì tiềm năng phát triển của sản phẩm BHTN nghề nghiệp cũng là

rất lớn.

Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy, sự hoàn thiện về cơ sở

pháp lý, sự thách thức từ hội nhập và tăng trưởng sẽ đòi hỏi yêu cầu tất yếu

của một biện pháp đảm bảo thực hiện trách nhiệm dân sự nghề nghiệp một

cách quy chuẩn. Và biện pháp tốt nhất để đáp ứng yêu cầu đó không gì

khác ngoài BHTN nghề nghiệp. Dự báo, trong thời gian tới đối tượng bắt

buộc tham gia BHTN nghề nghiệp sẽ còn được mở rộng và phạm vi triển

khai cũng sẽ không chỉ dừng lại ở các thành phố lớn mà sẽ mở rộng về

các tỉnh, các vùng có chi nhánh, đại lý bảo hiểm của DNBH hay của

công ty môi giới. Khi đó nhu cầu về BHTN nghề nghiệp sẽ còn tăng cao

hơn nữa, hứa hẹn một mảnh đất tiềm năng cho sự phát triển của ngành

BH nói chung và của DNBH nói riêng.

2. Định hướng phát triển BHTN nghề nghiệp đến năm 2015.

Thị trường BH Việt Nam năm 2009 đang gấp rút cố gắng hoàn thành

thắng lợi những chỉ tiêu chiến lược giai đoạn 2003 - 2010, và chuẩn bị cho

chiến lược phát triển ngành giai đoạn 2011 - 2015, có tính đến năm 2020.

Mặc dù chiến lược phát triển 2011 - 2015 vẫn chưa được các cơ quan chức

năng đề ra, còn chiến lược giai đoạn 2003 - 2010 không đưa ra mục tiêu cụ

thể cho BHTN nghề nghiệp, song các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào

87

đó, kết hợp với xu hướng phát triển của sản phẩm và dự báo nhu cầu của

thị trường để xây dựng định hướng và đưa ra mục tiêu cụ thể cho sự phát

triển của nghiệp vụ trong thời gian tới.

a/ Định hướng về thị trường:

Theo đánh giá, thị trường BH PNT Việt Nam còn 95% tiềm năng chưa

khai thác. Riêng đối với BHTN nghề nghiệp thì tiềm năng thị trường trước

mắt có thể coi là còn 100% (Nguồn: Theo “Báo cáo phân tích thị trường”

của HHBHVN). Vì vậy, thị trường vô cùng rộng mở đối với các DNBH khi

triển khai, phát triển sản phẩm này.

- Trước hết, các DNBH cần tiếp tục nắm giữ và khai thác có hiệu quả

hơn ở nhóm thị trường hiện tại, tức là ở những thành phố lớn như Hà Nội,

TP HCM, vì trong thời gian tới đây vẫn là khu vực thị trường chủ yếu, hứa

hẹn sẽ đem lại hiệu quả khai thác cao của sản phẩm.

- Bước đầu mở rộng quy mô thị trường ra các tỉnh, thành phố khác

trong cả nước, tức là xây dựng môi trường mới cho việc phổ biến, phát

triển sản phẩm. Cần phải xác định rằng, trong thời gian đầu mở rộng quy

mô thị trường thì hiệu quả kinh doanh đạt được chưa cao, do phải đầu tư và

chi nhiều cho việc tuyên truyền, quảng cáo. Thậm chí, nếu chi phí cho

tuyên truyền, quảng cáo quá lớn thì các công ty có thể sẽ phải chịu lỗ. Tuy

nhiên, nếu hoạt động này được thực hiện tốt thì đây là bước tạo đà cho

công tác khai thác đạt hiệu quả cao, tác dụng của quảng cáo sẽ thể hiện dần

ở số lượng người tham gia BH tăng lên theo quy mô thị trường vào những

năm sau.

- Tiến tới xâm nhập, mở rộng việc khai thác sản phẩm ra thị trường

quốc tế và khu vực, thông qua việc tham gia góp vốn vào các công ty BH,

môi giới BH, tái BH đang hoạt động thành công ở nước ngoài hay thành

lập các công ty con, các chi nhánh kinh doanh BH ở nước ngoài; và đặc

biệt hướng vào nhóm khách hàng tiềm năng là các kiều bào Việt Nam đang

sống và làm việc ở nước ngoài.

88

b/ Định hướng sản phẩm:

BHTN nghề nghiệp đã được đưa vào triển khai trên thị trường BH

Việt Nam gần 8 năm, tuy nhiên chưa đạt được thành tựu gì đáng kể. Về vấn

đề này, các công ty BH lý giải do đây là thời kỳ thử nghiệm sản phẩm nên

không nhằm mục đích thu lợi nhuận, mà chỉ để học hỏi kinh nghiệm. Đây

là lý do có thể chấp nhận được, tuy nhiên, trong thời gian tới các công ty

BH cần chấm dứt thời gian thử nghiệm sản phẩm, mà quan tâm đến việc

phát triển sản phẩm nhằm đưa sản phẩm trở thành một loại hình phổ biến,

và đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho công ty. Cụ thể:

- Cần tiếp tục công tác hoàn thiện các sản phẩm BHTN nghề nghiệp

đã được đưa vào triển khai; xây dựng các quy tắc và biểu phí BHTN nghề

nghiệp chặt chẽ, cụ thể và dễ hiểu hơn.

- Nghiên cứu triển khai thêm các sản phẩm BHTN nghề nghiệp mới,

đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bởi vì, khi nền kinh tế cũng như ngành BH

ngày càng phát triển thì sự đa dạng hóa các loại hình sản phẩm BH lại càng

được đẩy mạnh. Và không chỉ các ngành nghề chuyên môn như: luật sư,

bác sỹ, môi giới, thẩm định giá,…mới cần BHTN nghề nghiệp mà hầu hết

các ngành sẽ đều cần đến loại hình BH này.

- Đối với từng loại sản phẩm BHTN nghề nghiệp tiến tới phát triển

theo hướng mở rộng phạm vi BH và thời hạn BH. Ví dụ, trong BHTN nghề

nghiệp KTS & KSTV, hướng tới phát triển BH theo năm thay cho BH theo

dự án. Trong thời gian đầu triển khai do còn thiếu kinh nghiệm nên các

công ty thường chỉ nhận BH theo dự án, vì BH trên cơ sở năm sẽ gặp rất

nhiều khó khăn trong việc đánh giá và kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, trong 5

năm tới ngoài việc cung cấp sản phẩm BH theo dự án, các công ty BH

cần tư vấn cả về sản phẩm trên cơ sở năm. Bởi vì thực chất, mỗi văn

phòng KTS hoặc KSTV cần phải BH mọi hoạt động nghề nghiệp. Một đơn

BH theo năm là cực kỳ cần thiết cho bất kỳ một chuyên gia nào. Nếu

NĐBH chỉ mua BH cho các dự án lớn hoặc các dự án có những khó khăn

89

kỹ thuật đặc biệt, NĐBH sẽ không được BH cho công việc hàng ngày của

họ, và kinh nghiệm của các nhà BHTN chỉ ra rằng các lỗi lầm xảy ra không

chỉ trong trường hợp có những dự án phức tạp mà còn trong những công

việc bình thường hàng ngày. Đặc biệt là các dự án càng đơn giản khiến mọi

người càng bất cẩn. Vì vậy áp dụng BH trên cơ sở năm sẽ mở rộng phạm vi

BH, tức là bảo vệ và đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho NĐBH, trong khi phí

BH của BH theo dự án và BH theo năm cũng không chênh lệch nhau là

mấy.

c. Định hướng kênh phân phối.

Một trong những nguyên nhân chính khiến BHTN nghề nghiệp chưa

phát triển tại Việt Nam là do công tác khai thác còn kém hiệu quả. Vì vậy,

để thúc đẩy sự phát triển của loại hình BH này trong thời gian tới thì một

trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải nâng cao hiệu quả phân phối.

- Trước hết, đối với những kênh khai thác truyền thống như: lực lượng

nhân viên khai thác trực tiếp (hưởng lương của công ty), các công ty môi

giới (hưởng hoa hồng) thì cần phải nắm vững và đẩy mạnh hơn nữa để đạt

được hiệu quả khai thác tối đa trong thời gian tới. Bởi vì đây vẫn là hai

kênh khai thác chủ yếu của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam.

Đặc biệt, cần phải liên kết chặt chẽ hơn nữa với các công ty môi giới BH,

mà cụ thể là các công ty môi giới BH nước ngoài, vì thực tế cho thấy các

công ty môi giới BH nước ngoài đã mang về cho các DNBH không ít

những hợp đồng BHTN nghề nghiệp có giá trị lớn.

- Bước đầu đào tạo và xây dựng mạng lưới “đại lý BHTN nghề

nghiệp” nhằm hỗ trợ tích cực cho công tác khai thác. Trong một vài năm

tới, công tác đào tạo đại lý cần được thực hiện trước tiên tại các thành phố

lớn - thị trường tiềm năng của BHTN nghề nghiệp. Đào tạo đại lý cần phải

được tiến hành đầy đủ qua ba giai đoạn: đào tạo cơ bản, đào tạo thực tế và

đào tạo nâng cao. Trong đó, do đặc điểm của BHTN nghề nghiệp là một

90

nghiệp vụ “khó” nên các công ty BH cần đặc biệt chú trọng vào giai đoạn

đầu tiên, tức là giai đoạn đào tạo cho người đại lý có được kiến thức về sản

phẩm và đào tạo khả năng bán hàng.

- Xây dựng các ngân hàng BH theo mô hình Châu Âu: từ kinh nghiệm

của các ngân hàng BH Châu Âu, chúng ta có thể áp dụng hình thức này tại

Việt Nam, vì so với các tổ chức tài chính khác ở Việt Nam thì ngân hàng

rất có lợi thế, bởi vì đa số người dân Việt chỉ biết đến ngân hàng, họ chưa

biết đến các công ty BH. Hay nói cách khác, từ lâu ngân hàng đã có trong

tiềm thức và thói quen của người Việt, nếu so với các tổ chức khác thì ngân

hàng có uy tín và cũng nhận được sự tin cậy của mọi người hơn. Vì vậy, có

thể coi ngân hàng là một kênh phân phối gián tiếp rất quan trọng, thậm chí

còn quan trọng hơn cả hệ thống kênh phân phối truyền thống như đại lý,

môi giới BH.

II. Một số kinh nghiệm trong triển khai BHTN nghề nghiệp trên Thế giới:

BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH đang còn rất mới ở Việt Nam,

chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ở nhiều nước trên Thế giới,

đặc biệt là ở những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ,…BHTN nghề

nghiệp là một trong những nghiệp vụ BHPNT chủ yếu của các DNBH,

trong đó BH xe cơ giới chiếm 50% doanh thu BHPNT thì BHTN nghề

nghiệp chiếm số còn lại - một con số khá ấn tượng so với Việt Nam. Kết

quả này cho thấy, những nước này đã triển khai rất thành công sản phẩm

BHTN nghề nghiệp và chắc chắn cũng có rất nhiều kinh nghiệm mà chúng

ta có thể học hỏi trong việc triển khai thành công sản phẩm BH này.

Thứ nhất, đó là sự chuẩn bị tốt về mặt nguồn lực. Tại các nước Châu

Âu (đặc biệt là các nước phát triển), các DNBH đã mạnh dạn triển khai,

chấp nhận thử thách để đưa sản phẩm đến với mọi người, mọi ngành. Và

một khi đã sáng tạo nên một sản phẩm thì họ đều chuẩn bị tốt mọi nguồn

lực tài chính, cơ sở vật chất cũng như con người để triển khai. Đặc biệt

chú trọng đến tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa và có phòng nghiệp vụ

91

riêng đối với từng nghiệp vụ. Tại Châu Âu, các công ty BH có tiềm lực rất

lớn về vốn và công nghệ, họ có khả năng nhận biết rủi ro; kiểm soát, phân

tích nguyên nhân tổn thất; cho phép so sánh nguyên nhân gây ra tổn thất

trong từng vụ việc và nhận dạng được rủi ro và tổn thất nếu lặp lại tình

huống đó;…Nhờ vậy, các doanh nghiệp BH của Châu Âu có khả năng quản

lý tốt các rủi ro và kiểm soát được tổn thất. Họ có khả năng nhận biết được

hầu hết các tổn thất, phân tích được nguyên nhân và luôn luôn có những

biện pháp tốt nhất để tránh tổn thất cho lần sau. Sự chuyên nghiệp trong

phong cách làm việc, kinh nghiệm và sự phát triển của khoa học công nghệ

đã làm cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất hay nói cách khác là kiểm

soát tổn thất được thực hiện hết sức có hiệu quả, và vì vậy, việc giải quyết

khiếu nại bồi thường cũng trở nên đơn giản hơn. Ngoài ra, hệ thống lưu trữ

quản lý thông tin khách hàng chuyên nghiệp cũng cho phép các DNBH của

họ có nguồn cơ sở dữ liệu phong phú về mọi khách hàng, tình hình hoạt

động, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và thái độ thực hiện hợp đồng và

tình hình tái tục hợp đồng của từng khách hàng. Điều này giúp các DNBH

rất nhiều trong việc xác định tỷ lệ phí BHTN nghề nghiệp và quản lý việc

thực hiện hợp đồng BH của NĐBH, không để họ qua mặt, trục lợi BH.

Thứ hai, tại những nước này, cơ sở pháp lý và các quy định trong

từng ngành nghề đều có quy chuẩn nghề nghiệp rõ ràng và chuyên

nghiệp, có thể thấy rõ trách nhiệm của từng người, từng khâu, do vậy

quy trình khai thác BH và vấn đề tính phí vốn được coi là rất phức tạp

cũng trở nên không còn phức tạp chút nào. Đơn cử một ví dụ như: Trong

văn phòng luật sư ở Anh thông thường luật sư làm theo vụ việc, người quản

lý không được ép luật sư cộng sự nhận vụ việc nếu anh ta không đồng ý.

Về vấn đề thù lao được phân chia theo thỏa thuận, thông thường người

mang hồ sơ về hưởng 1/3, người thực hiện hưởng 1/3 và chi phí văn phòng

là 1/3. Thù lao đối với khách thường được tính theo giờ tương ứng với dịch

vụ hoặc tư vấn, mức thù lao được chia và tính theo thời gian khác nhau.

92

Luật sư sẽ có bảng tổng kết giờ làm việc và yêu cầu khách hàng thanh toán,

đồng thời dự toán giờ cho công việc sắp thực hiện. Ở Anh cấm không được

trả thù lao luật sư bằng hiện vật vì có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của

luật sư. Việc trao đổi hàng hóa với dịch vụ pháp lý và cơ sở để xác định

mức độ tương ứng giữa hai loại hàng hóa đó sẽ làm luật sư phụ thuộc

khách hàng. Nếu cổ phiếu là giá trị thanh toán thay dịch vụ pháp lý, luật sư

sẽ trở thành cổ đông của công ty, được hưởng cổ tức,...Lúc đó luật sư

không còn độc lập, vì kết quả và công việc của luật sư đã bị phụ thuộc khi

luật sư trở thành cổ đông của công ty. Ở Anh cũng cấm không được nhận

thù lao từ phần trăm của kết quả vụ việc, cũng không được yêu cầu khách

hàng thanh toán thù lao cố định theo từng tháng vì phải tùy theo vụ việc và

tiến độ giải quyết.

Như vậy, việc tính toán doanh thu phí dịch vụ và thống kê lịch sử tổn

thất là rất rõ ràng. Đồng thời, việc không tồn tại luật sư công, luật sư làm

việc tự nguyện và độc lập sẽ rất thuận lợi khi phân chia, xác định trách

nhiệm và việc giải quyết khiếu nại bồi thường sẽ đơn giản và tiết kiệm

nhiều chi phí cũng như công sức. Những điều kiện như vậy làm cho BHTN

nghề nghiệp ở Anh được triển khai hết sức thuận lợi và lành mạnh.

Hay như các y bác sỹ tại Châu Âu cũng có lịch trình làm việc rõ ràng

và công việc của họ được giao và ghi nhận một cách cụ thể, minh bạch nên

khi xảy ra sai sót việc đánh giá trách nhiệm là rõ ràng. Ngoài ra, các quy

định, các nguyên tắc công việc của họ cũng rõ ràng và tuân theo tiêu chuẩn

nghề nghiệp, vì vậy khi có sự sai lệch so với tiêu chuẩn thì việc giám định,

xác định nguyên nhân, trách nhiệm cũng không khó khăn. Cũng như vậy

việc ký tên xác nhận của người nhà bệnh nhân vào biên bản chấp nhận

phẫu thuật ở nước ngoài cũng chỉ là một hành động thể hiện sự cho

phép xâm phạm công cụ y tế dao, kéo,…đến cơ thể người thân của họ

còn việc phẫu thuật và sơ suất xảy ra tổn thất vẫn thuộc trách nhiệm của

bác sỹ, chứ không giống như Việt Nam ký tên đó là thể hiện nếu xảy ra

93

hậu quả gì thì gia đình hoàn toàn chịu trách nhiệm. Những quy định

kiểu như thế này làm cho hầu hết các bác sỹ thấy không cần thiết mua

BHTN nghề nghiệp. Ngoài ra, việc hoạt động tương đối tự do của những

người hành nghề chuyên môn ở Việt Nam cũng gây khó khăn rất lớn cho

việc quản lý của các cơ quan Pháp luật và cơ quan BH. Đây cũng là điều

mà ngành BH cũng như các ngành liên quan của ta phải học tập và phấn

đấu thực hiện theo.

Thứ ba, tại các nước Châu Âu, BHTN nghề nghiệp thường được áp

dụng bắt buộc, một số ngành nghề bắt buộc phải có BHTN nghề nghiệp thì

mới được hành nghề, ví dụ như môi giới BH, luật sư, bác sỹ, CTCK, kiểm

toán viên, nhân viên TĐG, CCV, công ty du lịch mạo hiểm, giám định

viên,…Vì được áp dụng bắt buộc từ lâu nên đến nay, tại những nước này

việc mua BHTN nghề nghiệp đã trở thành một thói quen của các cá nhân

cũng như của các doanh nghiệp. Họ mua BHTN nghề nghiệp không phải vì

nghĩa vụ nữa mà vì chính lợi ích của mình, vì vậy không có một sự gò ép

hay nguyên tắc nào trong việc mua BH. Chẳng hạn như ở Bỉ, luật sư không

phải là một nghề rủi ro, vì người ta quan niệm, “sói không ăn thịt nhau”,

không ai giúp khách hàng đi kiện ngược lại một luật sư khác. Tuy nhiên, ở

nước này, mỗi luật sư đều được BHTN nghề nghiệp, chỉ cần trở thành

thành viên của Đoàn luật sư, phí BH do đoàn luật sư mua từ phí thành viên

do các luật sư khác đóng góp. Vì thế, được BHTN nghề nghiệp đã trở thành

một thói quen của bất kỳ luật sư nào ở Bỉ.

Như vậy, theo kinh nghiệm của những nước phát triển, để tạo môi

trường cho BHTN nghề nghiệp phát triển thì nên quy định nó là loại hình

BH bắt buộc, để người dân thích nghi dần với nó và tạo thành một thói

quen trong từng lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn.

Thứ tư, căn cứ xác định mức độ thiệt hại linh hoạt. Trong BHTN

nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng, mức độ thiệt hại do trách

nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của tòa án.

94

Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra

thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, ở Mỹ và nhiều nước Châu

Âu, tòa án sẽ không căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử, mà căn cứ vào khả

năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Xét về một góc độ nào đó, quy

định này là không công bằng, tuy nhiên nó lại linh hoạt hơn và tùy từng

trường hợp nó đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho cả hai bên: người bị thiệt hại

và người gây ra thiệt hại.

Qua những tìm hiểu trên có thể thấy nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại

các nước Châu Âu đã rất phát triển và rất chuyên nghiệp, họ đã đi trước ta

nhiều bước và có rất nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, ngành BH Việt Nam nói

chung và các DNBH Việt Nam nói riêng cần phải cố gắng hơn nữa, học hỏi

nhiều hơn nữa để theo kịp Thế giới và có những bước phát triển vượt bậc

trong việc triển khai sản phẩm.

III. Một số giải pháp nhằm phát triển BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam:

Sau 8 năm được đưa vào triển khai và khai thác, loại hình BHTN

nghề nghiệp tuy đã đạt được một số ít thành tựu nhất định, nhưng vẫn còn

rất nhiều hạn chế. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển thì loại hình BH

này còn cần phải hoàn thiện nhiều hơn nữa. Công tác hoàn thiện sản phẩm

không chỉ thuộc về trách nhiệm của các công ty BH mà còn phụ thuộc vào

các chính sách cũng như sự hỗ trợ, hợp tác, chỉ đạo từ phía các cơ quan

chức năng Nhà nước và các Bộ, Ngành, tổ chức có liên quan.

1. Các giải pháp vĩ mô:

Để đạt được hiệu quả cao trong việc triển khai nghiệp vụ BH này,

thì các biện pháp can thiệp mang tính chất hỗ trợ từ phía các cơ quan chức

năng Nhà nước, cũng như các Bộ, Ngành, tổ chức có liên quan như Bộ tài

chính, Hiệp hội bảo hiểm,…sẽ là rất cần thiết. Các biện pháp tích cực của

Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo hành lang pháp lý cũng như những điều kiện thuận

lợi để các doanh nghiệp hoàn thiện và phát triển sản phẩm.

95

a/ Từ phía Chính phủ:

Một trong những nguyên nhân lớn nhất khiến BHTN nghề nghiệp

chưa được phát triển tại Việt Nam là do cơ chế chính sách chưa chặt chẽ,

chưa có sự thống nhất giữa các văn bản luật chuyên ngành (pháp lệnh luật

sư, luật chứng khoán, luật công chứng,…) với luật KDBH. Một số loại hình

BHTN nghề nghiệp tuy đã được quy định bắt buộc trong từng lĩnh vực

chuyên biệt, nhưng trong luật KDBH lại không có quy định gì về việc triển

khai thực hiện, cũng như chế tài cưỡng chế đối với trường hợp vi phạm.

Đây là thiếu sót tạo ra lỗ hổng lớn trong hành lang pháp lý, và nhiều cá

nhân, doanh nghiệp đã vin vào đó để thoái thác hay từ chối mua BHTN

nghề nghiệp, với tư tưởng “vi phạm thì có xử phạt gì đâu mà phải mua”.

Chính vì vậy, để phổ biến và phát triển loại hình BH này tại Việt Nam thì

công tác đầu tiên và quan trọng nhất là cần phải xây dựng, bổ sung và

hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ làm môi

trường sống cho sản phẩm.

Trước hết cần phải ban hành danh mục những loại hình BHTN nghề

nghiệp bắt buộc, kèm theo đó là quy định cụ thể về đối tượng bắt buộc

tham gia BH, phạm vi hoạt động bắt buộc phải mua BH. Những điều khoản

này cần được quy định một cách cụ thể, dễ hiểu, đồng thời bên cạnh đó

cũng cần xây dựng các chế tài xử phạt vi phạm thích hợp, tránh để trường

hợp “luật ban hành rồi bỏ ngõ”, không ai thi hành. Để tăng tính cưỡng chế

cũng có thể quy định thêm rằng BHTN nghề nghiệp là một tiêu chuẩn để

được cấp Giấy phép hành nghề trong những lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn

cao như luật sư, bác sỹ, KTS & KSTV,…

Để thúc đẩy công tác phổ biến, khai thác BHTN nghề nghiệp thì ngoài

những biện pháp cưỡng chế, cũng có thể áp dụng những biện pháp khuyến

khích người dân tham gia loại hình BH này. Chẳng hạn như quy định việc

mua BHTN nghề nghiệp là một tiêu chuẩn để xếp hạng các doanh nghiệp.

Biện pháp này đã được nhiều nước phát triển trên Thế giới áp dụng và thực

96

tế cho thấy hiệu quả đạt được cũng rất cao.

Ngoài việc xây dựng hành lang pháp lý, từ phía Chính phủ cũng cần

có những biện pháp hỗ trợ các DNBH trong việc kinh doanh loại hình BH

này. Vì đây là một loại hình BH cao cấp, đòi hỏi kinh nghiệm và phải có

nguồn vốn lớn, trong khi đó các DNBH Việt Nam lại đang bị hạn chế về

vốn, và không hề có kinh nghiệm trong việc triển khai sản phẩm. Đáp ứng

yêu cầu này, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp sau:

- Tạo điều kiện thuận lợi để các DNBH tự bổ sung vốn điều lệ cho phù

hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của DN. Trong trường

hợp cần thiết cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn phù hợp cho các DNBH

Việt Nam.

- Bên cạnh đó cho phép các DN có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng

nội dung, phạm vi hoạt động, tăng vốn điều lệ nếu đủ điều kiện theo quy

định của pháp luật. Chú trọng đến các công ty BH có năng lực tài chính,

trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động BHTN nghề nghiệp và có đóng

góp vào sự phát triển thị trường BH Việt Nam như QBE, AIG, Liberty.

Như vậy, các DNBH trong nước sẽ học hỏi được kinh nghiệm triển khai

sản phẩm này từ các công ty nước ngoài.

- Tạo mọi điều kiện pháp lý cũng như có các chính sách khuyến khích

các DNBH mở rộng quy mô khách hàng, cũng như quy mô thị trường, chú

trọng mở rộng phạm vi khai thác sản phẩm đến nhiều tỉnh, thành phố khác

trong cả nước; và không chỉ cung cấp sản phẩm trong nước mà mở rộng ra

thị trường BH quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào các công ty BH,

môi giới BH, tái BH đang hoạt động thành công ở nước ngoài hay thành

lập các công ty con, các chi nhánh KDBH ở nước ngoài.

- Khuyến khích các DNBH hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh

doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo

các chuẩn mực quốc tế; được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để

97

quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.

- Tạo mọi điều kiện để DN mở rộng triển khai sản phẩm, chú trọng

việc xây dựng BHTN nghề nghiệp cho những lĩnh vực chuyên môn mới

chưa được khai thác như: công chứng, kế toán, thẩm định giá,…

- Hỗ trợ tích cực cho các DN trong việc phát triển mạng lưới đại lý

BH chuyên nghiệp, DN môi giới BH và các kênh phân phối khác, đặc biệt

là kênh phân phối qua Ngân hàng.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động KDBH để thị

trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo

đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các DN kinh doanh BH.

Bên cạnh những chính sách hỗ trợ các DNBH, Nhà nước cũng cần

áp dụng những biện pháp nhằm đổi mới và nâng cao năng lực quản lý

Nhà nước đối với hoạt động KDBH, tiến tới thực hiện các nguyên tắc và

chuẩn mực quản lý BH quốc tế: Tăng cường giám sát hoạt động KDBH

thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các DNBH, thường xuyên

kiểm tra, đốc thúc các DN, không để diễn ra tình trạng “có dịch vụ, không

phục vụ”; và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm;...Kiện toàn bộ máy

tổ chức của HHBHVN để Hiệp hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa

DNBH và các cơ quan quản lý Nhà nước.

Nói tóm lại, một khung pháp lý hoàn thiện về các vấn đề xung quanh

nghiệp vụ BH này là rất cần thiết cho việc triển khai có hiệu quả BHTN

nghề nghiệp trong thời gian tới. Đây là vấn đề cần nhanh chóng thực hiện

đặt ra từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nước, cụ thể là BTC hay

HHBHVN - là những cơ quan có liên quan trực tiếp đến hoạt động KDBH.

b/ Bộ tài chính:

Trong công tác hoàn thiện sản phẩm BHTN nghề nghiệp thì vai trò

của Bộ tài chính (BTC) được đánh giá là không nhỏ. BTC chịu trách nhiệm

soạn thảo quy tắc, biểu phí các loại BHTN nghề nghiệp bắt buộc, và duyệt

đăng ký của các DNBH về các sản phẩm BHTN nghề nghiệp không bắt

98

buộc khác. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất và hiệu lực của Luật KDBH,

BTC phải nhanh chóng soạn thảo và đưa ra bộ quy tắc, biểu phí cũng như

hướng dẫn thi hành việc triển khai bắt buộc đối với hai dịch vụ BHTN nghề

nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật và BHTN nghề nghiệp của DN

môi giới BH. Còn đối với các dịch vụ BHTN nghề nghiệp khác thì phải

quản lý chặt chẽ và hiệu quả, không để tình trạng các DNBH đăng ký tràn

lan rồi không triển khai hoặc triển khai không hiệu quả, làm rối loạn thị

trường khi khách hàng không biết DNBH nào cung cấp dịch vụ và có năng

lực tốt để đảm bảo quyền lợi của họ.

Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá, các tiêu chuẩn chung về năng lực tài

chính của DNBH và khả năng triển khai xâm nhập thị trường của sản phẩm

BHTN nghề nghiệp căn cứ theo một số yếu tố như: quy trình triển khai

nghiệp vụ, lượng khách hàng, tỷ lệ giữ lại, so sánh các khiếu nại chưa thanh

toán và các khoản dự phòng,…Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, giao chỉ tiêu

cụ thể để DNBH phấn đấu thực hiện. Từ đó giám sát chặt chẽ tình hình

triển khai dịch vụ của DNBH, tránh để tình trạng sản phẩm được tung ra thị

trường nhưng dậm chân tại chỗ, không phát triển.

Là cơ quan chức năng của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến việc

phát triển sản phẩm BH này, BTC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra

những biện pháp, chính sách hỗ trợ DNBH trong việc triển khai sản phẩm,

như:

- Không ngừng nghiên cứu đưa ra hành lang pháp lý thông thoáng, tạo

điều kiện cho DNBH tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ và cung cấp

thêm nhiều dịch vụ BHTN nghề nghiệp cho nhiều ngành chuyên môn khác

như: công chứng viên, thẩm định giá,…

- Làm cầu nối phối hợp ngành BH với các ngành, các lĩnh vực chuyên

môn liên quan như xây dựng, y tế, chứng khoán, kiểm toán, công chứng,

thẩm định giá,…để việc triển khai đưa dịch vụ BHTN nghề nghiệp đến với

99

từng ngành, từng nghề một cách có hiệu quả nhất.

- Khuyến khích các DNBH không ngừng sáng tạo để đưa ra sản phẩm

mới, phục vụ nhiều khách hàng mới, mở rộng kênh phân phối mới, đem lại

hiệu quả kinh tế và xã hội.

- Tạo mọi điều kiện để DNBH triển khai tốt nhất nghiệp vụ, không

gây khó khăn cho DN. Đặc biệt hỗ trợ pháp lý cho DNBH trong các đơn

BH có giá trị lớn.

- Tuyên truyền đến người dân ý thức mua BH như một quyền lợi thân

thiết và cần phải nhận thức đúng vai trò của nó. Tuyên truyền, hướng dẫn

để đông đảo người dân, đặc biệt là những người làm công tác chuyên môn

có những kiến thức sơ đẳng về BHTN nghề nghiệp, từ đó họ sẽ tự tìm đến

với sản phẩm BH bảo vệ quyền lợi cho mình.

c/ Hiệp hội bảo hiểm:

Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập vào ngày 24/12/1999 tại

Hà Nội, là tổ chức tự nguyện xã hội - nghề nghiệp của các DNBH Việt

Nam, ra đời nhằm mục đích đóng vai trò là người hướng dẫn, tư vấn, cầu

nối giữa các DNBH; và là người đại diện của DNBH trước các cơ quan

quản lý Nhà nước và công chúng. Đóng góp vào công tác hoàn thiện sản

phẩm BHTN nghề nghiệp tại thị trường BH Việt Nam, Hiệp HHBHVN cần

thực hiện tốt những biện pháp sau:

- Thứ nhất, mở rộng phạm vi hợp tác giữa các DNBH trong việc đào

tạo, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro,

tính phí BH, đồng BH, tái BH, đề phòng hạn chế tổn thất,…Đặc biệt cần

tạo điều kiện thuận lợi, tổ chức các buổi hội thảo để các công ty BH trong

nước có thể học hỏi các công ty BH nước ngoài về kinh nghiệm triển khai

sản phẩm BHTN nghề nghiệp.

- Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các thành

viên, DNBH trong hiệp hội, thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập

100

huấn nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp cho các cán bộ; hỗ trợ, cắt cử cán bộ

của các DNBH tham gia các khóa đào tạo về BHTN nghề nghiệp ở nước

ngoài.

- Thứ ba, luôn giám sát chặt chẽ suốt quá trình triển khai sản phẩm

của các DN, không để diễn ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, các

DN vì muốn lôi kéo khách hàng mà giảm phí BH, dẫn đến làm giảm hiệu

quả kinh doanh của sản phẩm; đồng thời Hiệp hội cũng cần có những chế

tài xử phạt thích hợp đối với các DN vi phạm.

- Thứ tư, dựa vào những báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo kinh

doanh hàng quý, hàng tháng của các DN, các chuyên gia của hiệp hội phải

phân tích, đánh giá để chỉ ra xu hướng, khả năng phát triển của cả DN nói

chung và của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp nói riêng. Điều này giúp đưa

ra được những khảo sát và dự báo thực tế, góp phần hỗ trợ DN xác định

được phương hướng phát triển sản phẩm.

2. Các giải pháp vi mô

a. Giải pháp từ phía các DNBH (NBH).

Sản phẩm BH là con đẻ của DN, vì vậy công tác hoàn thiện sản phẩm

trước tiên thuộc về trách nhiệm của chính DNBH. Để hoàn thiện sản phẩm,

trước tiên các DNBH phải hoàn thiện các khâu trong quy trình triển khai

sản phẩm, từ khai thác; đề phòng, hạn chế tổn thất đến giám định và giải

quyết bồi thường.

a1. Công tác khai thác:

BHTN nghề nghiệp là một sản phẩm BH mới và phức tạp nên công

tác khai thác sản phẩm này gặp rất nhiều khó khăn và vẫn còn đang rất

nhiều hạn chế. Vì vậy, các công ty BH cần chú ý quan tâm, và đầu tư hơn

nữa để khai thác đạt hiệu quả cao.

Trước tiên, phải quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền,

quảng cáo phổ biến sản phẩm, cụ thể là việc quảng bá sản phẩm cần phải

hiệu quả hơn hiện tại để thật nhiều khách hàng tiềm năng biết đến nó hơn

101

nữa. Có thể quảng cáo qua báo chí, đài phát thanh với tần số tương đối để

có hiệu quả nhất. Và phương tiện quảng cáo trên truyền hình dưới dạng

một chương trình tiện ích mới như “Sức sống mới” (VTV1), TV Shopping

(VCTV11), hoặc tổ chức dưới dạng một diễn đàn, talk show,…cũng được

xem là một phương pháp tương đối có hiệu quả. Ngoài ra, cũng có thể tăng

tần suất quảng cáo qua các đài truyền hình địa phương nhằm nâng cao hiệu

quả khai thác thông qua việc mở rộng quy mô thị trường và đối tượng tham

gia BHTN nghề nghiệp ra nhiều tỉnh, thành phố khác. Việc quảng cáo nên

được tiến hành vào thời gian nghỉ như giờ ăn cơm hoặc buổi tối khi những

nhà chuyên môn - đối tượng tham gia BHTN nghề nghiệp không còn làm

việc. Lý do khác nữa là những người thân của họ cũng có thể qua những

chương trình như vậy nói lại cho họ biết về sản phẩm bảo vệ quyền lợi của

họ, đây được xem là hiệu ứng của Marketing lan tỏa. Ngoài ra, còn cần

phải chủ động hơn nữa trong công tác tổ chức các buổi nói chuyện, hội

thảo giới thiệu sản phẩm tại các cơ quan, tổ chức hành nghề chuyên môn

như công ty tư vấn đầu tư, xây dựng; công ty thiết kế kiến trúc; các bệnh

viện, phòng khám; công ty, văn phòng luật sư, hay CTCK, công ty quản lý

quỹ;…để các khách hàng tiềm năng tiếp cận thông tin một cách rõ ràng, cụ

thể và chính xác nhất.

Thứ hai, cần phải tận dụng tối đa hiệu quả khai thác của các kênh

phân phối sản phẩm BHTN nghề nghiệp.

 Đối với lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp của công ty cần chú

ý hơn nữa đến công tác đào tạo nhằm nâng cao chuyên môn, trình độ

nghiệp vụ của các cán bộ khai thác để họ có đủ tầm thuyết phục, đàm phán

ký kết hợp đồng BHTN nghề nghiệp với các khách hàng vốn là những

chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu này, các

DNBH có thể thực hiện một số biện pháp sau:

- Đầu tư có hiệu quả hơn vào việc đào tạo để có được đội ngũ cán bộ

102

giỏi, chuyên sâu hiểu biết nghiệp vụ;

- Tổ chức thêm nhiều cuộc hội thảo về chủ đề BHTN nghề nghiệp, có

thể mời các chuyên gia của các công ty BH nước ngoài phổ biến kinh

nghiệm nghiệp vụ;

- Các DNBH cũng có thể cắt cử cán bộ đi học tập nghiên cứu sâu hơn

về nghiệp vụ ở nước ngoài.

Liên quan đến vấn đề này, các công ty BH cũng cần phải xây dựng

ngay một phòng nghiệp vụ chuyên biệt dành cho BHTN nghề nghiệp,

không để tiếp diễn tình trạng các cán bộ ở những phòng nghiệp vụ khác,

vừa không có kinh nghiệm, vừa không có chuyên môn “đá chân” sang

BHTN nghề nghiệp.

Ngoài ra, các công ty BH cũng cần có những chế độ đãi ngộ, ưu tiên

đối với các cán bộ làm công tác khai thác sản phẩm BHTN nghề nghiệp

một cách tương xứng và hợp lý. Vì đây là một nghiệp vụ mới và khó nên

các khai thác viên BH thường ngại hoặc ít quan tâm đến việc khai thác sản

phẩm này. Do đó, ngoài hoa hồng khai thác, các công ty BH cần có chế độ

khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần đối với các cán bộ khai thác tốt,

khiến họ nhiệt tình, gắn bó với công việc của mình hơn nữa.

 Đối với kênh khai thác qua môi giới cần phải liên kết chặt chẽ hơn

nữa, vì riêng với BHTN nghề nghiệp thì khai thác qua môi giới là vô cùng

quan trọng. Các công ty môi giới, đặc biệt là những công ty môi giới nước

ngoài như Aon, Gras Savoye Willis,…đã mang về cho các DN rất nhiều

hợp đồng BHTN nghề nghiệp có giá trị.

 Đặc biệt, cần xây dựng và phát triển kênh khai thác qua đại lý BH.

Đối với hầu hết các nghiệp vụ BH, đại lý được đánh giá là kênh phân phối

nhanh và hiệu quả. Tuy nhiên, riêng với BHTN nghề nghiệp thì tính đến

nay chưa có một đại lý nào được đào tạo bài bản về nghiệp vụ. Đây là hạn

chế lớn trong công tác khai thác loại hình BH này.

 Ngoài ra, để tối đa hóa hiệu quả khai thác, các DNBH cần phải mở

103

rộng kênh phân phối qua hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là những Ngân hàng

có uy tín, có quan hệ hợp tác lâu dài để cùng phát triển. Đây là kênh phân

phối mới tại Việt Nam, nhưng đã được áp dụng rất phổ biến tại các nước

trên Thế giới và đem lại hiệu quả không chỉ cho phân phối mà còn cho

khâu tiếp xúc khách hàng; không chỉ đem lại lợi ích cho DNBH mà còn

mang đến những lợi ích không nhỏ cho Ngân hàng. Chìa khoá thành công

của hoạt động Marketing là phải dựa vào đổi mới sản phẩm và khả năng kết

hợp sản phẩm với các kênh phân phối để tiếp cận với khách hàng tiềm

năng, sử dụng song song các kênh Markerting (multi-chanel). Trong thời

gian qua, dù có nhiều thành quả khả quan của các nhà BH Việt Nam, song

hầu hết doanh thu của họ cũng vẫn đa số thực hiện qua hệ thống bán hàng

truyền thống như đại lý, nhân viên khai thác, công ty môi giới. Kinh

nghiệm từ thị trường Châu Âu cho thấy, nếu muốn tiếp tục tăng trưởng thị

trường BH Việt Nam một cách nhanh chóng và vững chắc, thì các DNBH

cần phải phát triển thêm nhiều kênh phân phối mới như bán BH qua mạng,

qua ngân hàng ,…

Thứ ba, để nâng cao hiệu quả khai thác loại hình BH này, các công ty

BH cần phải có những chính sách phù hợp quan tâm đến khách hàng,

làm cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm, từ đó nhận thấy tầm quan trọng

cũng như những lợi ích của sản phẩm. Khi đưa ra bộ quy tắc BHTN nghề

nghiệp hay xây dựng cách tính phí thì cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đưa ra

những điều khoản rõ ràng, dễ hiểu tránh để xảy ra trường hợp “khách hàng

đọc mãi mà không hiểu, thấy lằng nhằng nên ngại tham gia”. Khi khách

hàng thắc mắc hay hiểu sai lệch về một vấn đề nào đó thì công ty BH cần

phải gấp rút giải thích rõ ràng và chặt chẽ hơn các nội dung của nghiệp vụ,

hoặc bằng cách in tài liệu về nội dung của sản phẩm để cung cấp cho khách

hàng. Hành động này cũng sẽ thể hiện cho họ thấy được sự tôn trọng, sự

quan tâm của công ty đối với khách hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc phổ biến

sản phẩm cho những khách hàng trong nước, các công ty BH cũng cần phải

104

mở rộng quy mô khách hàng, quan tâm đến các khách hàng nước ngoài

đang sống và làm việc tại Việt Nam. Đây là nhóm khách hàng rất tiềm

năng, vì các cá nhân và cả DN nước ngoài thường có ý thức về BH rất cao

và đối với họ, việc mua BH, đặc biệt là các loại BHTN đã trở thành thói

quen. Tiếp cận với họ, giới thiệu về sản phẩm mới này chắc chắn sẽ đáp

ứng được nhu cầu của họ về BH và đạt được hiệu quả khai thác cao.

Thứ tư, ngoài việc mở rộng quy mô khách hàng thì các công ty BH

cũng cần phải chú tâm đến việc mở rộng quy mô thị trường. Không chỉ bó

hẹp việc cung cấp sản phẩm ở các thành phố trực thuộc TW như Hà Nội,

TP HCM mà trong những năm tới các công ty BH còn cần phải làm tốt

công tác tuyên truyền, quảng cáo và phổ biến sản phẩm đến nhiều thành

phố khác trong cả nước như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế,…có như vậy mới

tạo môi trường phát triển bền vững cho sản phẩm. Mặc dù việc tuyên

truyền, quảng cáo có thể phải chi ra một khoản kinh phí lớn nhưng nếu hoạt

động này được thực hiện tốt thì đây là bước tạo đà cho công tác khai thác

đạt hiệu quả cao. Trong một vài năm đầu, các công ty có thể sẽ phải chịu lỗ

nếu chi phí cho tuyên truyền, quảng cáo lớn, nhưng tác dụng của quảng cáo

sẽ thể hiện dần ở số lượng người tham gia BH tăng lên theo quy mô thị

trường vào những năm sau. Ngoài ra, không chỉ mở rộng quy mô thị

trường trong nước, thậm chí các công ty BH còn cần phải mở rộng quy

mô thị trường ra nước ngoài (bằng cách góp vốn, thành lập công ty con,

chi nhánh,…) nhằm tập trung vào nhóm khách hàng tiềm năng là

những kiều bào Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài, có nhu

cầu lớn về BHTN nghề nghiệp,…

Thứ năm, không ngừng nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước

trên Thế giới, đặc biệt là các nước có chung vị thế, trình độ phát triển để có

những bước triển khai sản phẩm phù hợp và có khả năng ứng dụng cao.

105

a2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất:

Để phát triển sản phẩm, bên cạnh công tác khai thác, thì những biện

pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất

cũng không kém phần quan trọng.

Trước tiên, các công ty BH cần phải chú ý và cẩn thận hơn nữa trong

công tác đánh giá rủi ro. Cụ thể, các khai thác viên BH cần phải đánh giá

cao vai trò của Giấy yêu cầu BH hơn nữa, và điều quan trọng là phải làm

cho khách hàng cũng nhận thức được vai trò đó. Điều này trước hết thể

hiện ở việc Giấy yêu cầu BH phải được khai đầy đủ, rõ ràng. Những câu

hỏi mở trong Giấy yêu cầu BH nên để khoảng trống rộng hơn, và có thể

đánh dấu chú ý vào câu hỏi đó để khách hàng khai cụ thể và chính xác hơn,

chẳng hạn như những thông tin về công việc chủ yếu thực hiện trong 5 năm

gần nhất, các chi tiết kỹ thuật, tài sản xung quanh,...trong Giấy yêu cầu

BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV.

Ngoài ra, các công ty BH cũng cần phải thực hiện tốt việc lưu trữ

thông tin, thống kê các rủi ro, và phân tích cặn kẽ các tổn thất, các nguyên

nhân gây ra tổn thất để đưa ra những biện pháp ứng phó, phòng tránh kịp

thời, đảm bảo không xảy ra lần sau hoặc có xảy ra nhưng với tần số thấp và

mức độ nhẹ hơn. Để thực hiện tốt công tác này, các công ty BH cần đầu tư

áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến hơn nữa vào việc quản lý (ví dụ như

quản lý bằng cơ sở dữ liệu hay bằng phần mềm chuyên biệt đánh giá rủi ro,

phát hiện rủi ro,…). Đây đang là một công cụ quản lí rất hiệu quả mà hầu

hết các công ty BH trên Thế giới đều muốn nâng cấp, phát triển năng lực

của mình theo hướng đó. Và vì BHTN nghề nghiệp là dịch vụ BH phức tạp

và đòi hỏi chuyên môn cao nên nếu có một hệ thống cơ sở dữ liệu phong

phú về khách hàng và rủi ro nghề nghiệp của khách hàng thì việc phát triển

dịch vụ hơn nữa sẽ là không mấy khó khăn.

Không chỉ chú trọng đến việc đầu tư công nghệ, các công ty BH còn

106

cần phải quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ

quản lý rủi ro, kiểm soát tổn thất, để giải quyết tốt các tình huống nghiệp

vụ và không bị khách hàng lợi dụng chuyên môn trục lợi BH.

Bên cạnh đó, cũng cần phải thông qua các dịch vụ tiện ích của các

công ty môi giới, tư vấn để có những biện pháp, những quyết định đúng

đắn trong việc ký kết hợp đồng BHTN nghề nghiệp. Thông qua các hoạt

động của họ, đặc biệt là những công ty môi giới, tư vấn lớn của nước ngoài

học tập được nhiều kinh nghiệm về phong cách làm việc, về kỹ năng đánh

giá rủi ro, kiểm soát tổn thất và kỹ năng giải quyết tình huống,…

a3. Công tác giám định và giải quyết bồi thường:

Để làm tốt công tác giám định và giải quyết bồi thường, các công ty

BH cần chú ý quan tâm đến những vấn đề sau:

Hợp tác với các công ty giám định chuyên nghiệp để giải quyết nhanh

gọn những trường hợp phức tạp và học hỏi từ họ những kỹ năng đặc biệt

trong công tác giám định. Cắt cử nhân viên của công ty tham gia những

khóa đào tạo chuyên nghiệp (có thể là trong nước hoặc ở nước ngoài) về

giám định để dần dần công ty có ngay cán bộ giám định chuyên nghiệp tại

công ty, như vậy sẽ vừa tiết kiệm được chi phí hoạt động, vừa nâng cao

hiệu quả giám định, thu được kết quả nhanh chóng, chính xác, khách quan,

tạo niềm tin cho khách hàng, từ đó nâng cao uy tín của công ty.

Chuyên nghiệp hóa, nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi

thường. Rút bớt những khâu thủ tục rườm rà không cần thiết, giải quyết

nhanh chóng khiếu nại và tổn thất để người tham gia BH cũng như bên thứ

ba yên tâm, có lòng tin ở DN. Củng cố mặt này cũng là củng cố uy tín và

hình ảnh của công ty.

Đặc biệt có thái độ nghiêm túc, nhã nhặn, có đạo đức trong quá trình

giải quyết khiếu nại bồi thường khi có sự kiện BH xảy ra, và việc liên kết

với Ngân hàng sẽ làm cho khâu thanh toán bồi thường trở nên đơn giản,

gọn nhẹ hơn. Và điều này rõ ràng là tác động không nhỏ đến tâm lý của

107

khách hàng, tạo được niềm tin của khách hàng, thực tế không ít khách hàng

đã tham gia tái tục hợp đồng với số tiền BH cao hơn so với hợp đồng đáo

hạn.

Quản lý và sử dụng nguồn thu từ phí BH theo đúng Luật và có hiệu

quả, đảm bảo nguồn tài chính ổn định để thực hiện nghĩa vụ thanh toán bồi

thường khi sự kiện BH xảy ra. Đặc biệt là các hợp đồng BHTN nghề

nghiệp thường có giá trị không nhỏ, nhất là các trách nhiệm về tư vấn thiết

kế, thi công trong xây dựng, trách nhiệm của CTCK,…đều có giá trị rất

lớn.

Đối với những đơn BH có giá trị lớn thì nên thực hiện tái BH để đảm

bảo sự an toàn về tài chính, và nâng cao hiệu quả của đơn BH. Giữ lại ở

mức hợp lý để đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ chính của công ty.

b. Giải pháp từ phía các cơ quan hành nghề chuyên môn (NĐBH):

Mục đích của BHTN nghề nghiệp là bảo vệ và hạn chế rủi ro cho các

cá nhân, tổ chức nghề nghiệp đòi hỏi chuyên môn cao, vì vậy để “tự bảo

vệ" - đảm bảo tốt lợi ích của mình thì các cá nhân, tổ chức này cũng cần có

những biện pháp hỗ trợ để sản phẩm BHTN nghề nghiệp phát triển trên thị

trường BH Việt Nam.

- Trước tiên, các cơ quan, tổ chức hành nghề chuyên môn cần có

những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của nhân viên về vai trò, cũng

như tầm quan trọng của BHTN nghề nghiệp, ví dụ như có thể mời các

chuyên gia BH của những công ty BH có uy tín về nói chuyện, giới thiệu

sản phẩm, cũng như giải đáp các thắc mắc,…trên cơ sở đó hình thành cho

cơ quan, tổ chức mình thói quen mua BHTN nghề nghiệp như một nội quy,

quy tắc nghề nghiệp tiêu chuẩn.

- Trước khi ký hợp đồng BHTN nghề nghiệp thì phải tìm hiểu kỹ quy

tắc BH, các điều khoản, điều kiện BH mà DNBH đưa ra để tránh hiểu lầm,

tránh gây tranh cãi mất quyền lợi của mình.

- Và khi đã ký hợp đồng BHTN nghề nghiệp thì phải tuân thủ các điều

108

khoản trong hợp đồng, trung thực, không tìm cách lợi dụng những hiểu biết

về chuyên môn để lừa dối, trục lợi BH; bên cạnh đó cũng không được có

tâm lý “ỷ lại”, cho rằng đã có DNBH đứng ra lo thì không cần tuân thủ các

tiêu chuẩn an toàn chuyên môn, nghiệp vụ để xảy ra sơ suất. Nói chung, ở

mọi lúc mọi nơi phải luôn làm việc chuyên nghiệp, thực hiện đầy đủ

chuyên môn với tinh thần “phục vụ hết mình, cống hiến hết sức”. Đồng

thời, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất để hạn chế rủi ro là không ngừng

nâng cao tay nghề chuyên môn nghiệp vụ để tránh thiệt hại cho tất cả các

109

bên nói riêng và cho nền kinh tế, sự ổn định xã hội nói chung.

KẾT LUẬN

Hai năm sau khi gia nhập WTO ngành bảo hiểm hòa theo nhịp độ của

nền kinh tế đã có những thay đổi và tiến bộ rõ rệt. Các cam kết khi trở thành

thành viên WTO cộng với những quy định về mở cửa thị trường bảo hiểm

trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện gần như

toàn diện, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Việt Nam đã được xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hiệu quả trong những

năm gần đây. Thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục phát triển nhanh và hiệu quả

với đầy đủ các yếu tố của thị trường nhằm đa dạng hóa các loại hình nghiệp

vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn, thúc đẩy nền

kinh tế phát triển. Ngành bảo hiểm trong những năm tới ngoài việc hướng

đến các mục tiêu kinh tế còn có tham vọng đi sâu đi sát đến từng người,

từng ngành để trở thành người bạn đường không thể thiếu của họ. Nhóm sản

phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là khởi đầu cho công cuộc này sẽ

không chỉ mang đến sự an toàn tài chính, uy tín cho đông đảo đội ngũ

chuyên gia, chuyên viên, nhân viên tác nghiệp mà còn là bước khởi đầu cho

một xu hướng lớn, xu hướng phát triển.

Nhưng thực tế những khó khăn về kinh nghiệm và năng lực đã làm cho

nhiều DNBH bị lung túng khi triển khai. Các cơ quan tổ chức hành nghề

chuyên môn cũng chưa thật hiểu rõ, chưa quan tâm đến loại hình bảo hiểm

này và hầu như là bỏ quên trách nhiệm tham gia bảo hiểm của mình. Hiện

nay các cơ quan có liên quan đang gấp rút soạn thảo, trình các cấp có thẩm

quyền ban hành các văn bản hướng dẫn về sản phẩm bảo hiểm và nghĩa vụ

tham gia bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức. Tuy bước khởi đầu còn nhiều

khó khăn nhưng tin chắc rằng Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tương

lai sẽ là một sản phẩm chủ đạo trong danh mục sản phẩm dịch vụ của

DNBH. Trong thời gian tới ngành bảo hiểm sẽ phát triển rất sôi động, các

110

DNBH sẽ bận rộn với các khách hàng mới, sẽ phải chủ động và nâng cao

sức cạnh tranh trong môi trường kinh doanh của cơ chế thị trường và hội

nhập với khu vực và thế giới. Hy vọng những giải pháp được nêu ra sẽ được

thực hiện đồng bộ để triển khai có hiệu quả dịch vụ bảo hiểm trách nhiệm

111

nghề nghiệp này, và đem lại cục diện mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam .

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình:

1. GS, TS Hoàng Văn Châu, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh,

Nhà Xuất bản Lao động xã hội (2006)

Tạp chí:

1. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 1 tháng 1/2007

2. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 2 tháng 5/2007

3. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 3 tháng/2007

4. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 1 tháng 4/2008

5. Tạp chí Bảo Việt

6. Thời báo kinh tế Sài gòn

7. Thời báo kinh tế Việt Nam

8. Tạp chí tài chính

Văn bản pháp luật:

1. Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 9 tháng 12 năm 2000, BTC

2. Luật chứng khoán

3. Luật luật sư

4. Dự thảo luật công chứng

5. Các văn bản dưới Luật khác

Trang web:

1. Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam webbaohiem.net

2. INSURANCE INFORMATON CENTER baohiem.pro.vn

3. Thông tấn xã Việt Nam vnanet.vn

4. Bộ Tài Chính mof.org.vn

5. Bộ công thương mot.org.vn

6. Bộ KH&ĐT moi.org.vn

7. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam avi.org.vn

8. Luật Việt Nam luatvietnam.vn

112

9. Thư viện pháp luật thuvienphapluat.com

Và website các công ty BH

baoviet.com.vn

aaa.com.vn

baominh.com.vn

qbe.com.vn

pvi.com.vn

pjico.com.vn

bidv.com.vn

113

gic.com.vn