TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

LƢU THỊ THANH BÌNH

THƠ THANH THẢO

TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội, 2016

LỜI CẢM ƠN

Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn

cô giáo TS. LA NGUYỆT ANH - người đã tận tình hướng dẫn, động viên và

giúp đỡ chúng em hoàn thành khóa luận này.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016

Người thực hiện

Lƣu Thị Thanh Bình

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

- Khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của

cô giáo TS. LA NGUYỆT ANH

- Khóa luận không sao chép từ tài liệu có sẵn.

- Kết quả nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của bất cứ tác

giả nào.

Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016

Tác giả khóa luận

Lƣu Thị Thanh Bình

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 4

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 4

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4

7. Đóng góp của khóa luận .......................................................................................... 5

8. Kết cấu của khóa luận ............................................................................................. 5

NỘI DUNG .................................................................................................................... 6

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 6

1.1. Những tiền đề khoa học ............................................................................ 6

1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học .................................................................... 6

1.1.1.1. Khái niệm văn hóa .............................................................................. 6

1.1.1.2. Khái niệm văn học .............................................................................. 7

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học ...................................................... 7

1.2. Thanh Thảo và quá trình sáng tác ............................................................. 8

1.2.1. Vài nét về tác giả ..................................................................................... 8

1.2.2 Quá trình sáng tác của Thanh Thảo .......................................................... 9

1.3. Khảo sát sáng tác của thơ Thanh Thảo trong trường THPT ................... 15

CHƢƠNG 2. VĂN HÓA TÂY BAN NHA QUA HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT

16

2.1. Lorca - người con, người chiến sĩ, người nghệ sĩ tự do Tây Ban Nha........ 16

2.1.1. Lorca – ngườ i con ưu tú củ a đất nướ c Tây Ban Nha xinh đe ̣p ............. 16 2.1.2. Lor ca- người nghệ sĩ ............................................................................ 18

2.1.3. Lorca - người chiến sĩ chiến đấu cho tự do ........................................... 21

2.2. Cô gái Digan – biểu tươ ̣ng củ a lối sống con người Tây Ban Nha ........... 27

2.2.1. Một số đặc trưng địa văn hóa của người Di-gan ................................... 27

2.2.2. Cô gái Di-gan như là biểu tượng của niềm tin và sự thủ y chung ............... 29 CHƢƠNG 3. KHÔNG GIAN VĂN HÓA XỨ SỞ TÂY BAN NHA ................ 32

3.1. Không gian văn hóa sinh thái ................................................................... 32

3.1.1 Hình ảnh vầng trăng - biểu tượng của cái đẹp, sự tự do ........................ 33

3.1.2. Hoa lilac - biểu tượng cho sự sống của con người Tây Ban Nha ......... 36

3.1.3. Dòng sông - nét văn hóa tâm linh Tây Ban Nha ................................... 39

3.1.4 Đường chỉ tay trong tín ngưỡng Tây Ban Nha ..................................... 41

3.2. Không gian văn hóa sinh hoạt, lễ hội ....................................................... 42

3.2.1. Không gian của những trận đấu bò tót ................................................. 42

3.2.2. Không gian của điệu nhảy Flanmico ................................................... 45

3.2.3. Đàn ghita và nốt nhạc li la li la la ........................................................ 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,

phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu

văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì

văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để

có được những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn

thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh

và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện

con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành.

Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.

Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá.

Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và

tái hiện của nhà văn. Trong chương trình học Văn ở THPT có rất nhiều tác

phẩm mở rộng văn hóa đó có thể là văn hóa dân gian qua thơ của Hồ Xuân

Hương, đó còn là không gian văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Duy,

Nguyễn Bính…Và cả văn hóa của nước ngoài qua bài “Đàn ghi ta của Lor-

ca” của Thanh Thảo.

Thanh thảo là một gương mặt tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ trẻ

thời kì chống Mỹ. Bằng tài năng và tâm huyết của mình, Thanh Thảo đã sớm

khẳng định phong cách thơ và đem đến cho nền thơ ca chống Mỹ nói riêng,

thơ ca dân tộc nói chung một tiếng thơ, một cách tiếp cận và khám phá hiện

thực, một phương thức biểu hiện mới mẻ độc đáo. Thơ Thanh Thảo đã góp

phần làm phong phú và đa dạng nền thơ ca của dân tộc, góp phần làm phong

1

phú và đa dạng nền thơ ca của dân tộc, góp một tiếng nói làm nên diện mạo

đời sống tinh thần cao cả của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ

quốc giành độc lập, tự do dân chủ.

Từ năm 2008, bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca (Thanh Thảo) chính thức

được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Cho đến nay nó

vẫn thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học, giáo viên

và học sinh bởi Đàn ghi ta của Lor- ca là bài thơ hay cả về nội dung và nghệ

thuật và điều đặc biệt ở bài thơ còn giúp cho học sinh nhìn về văn hóa của

một đất nước với nhiều nét đẹp truyền thống

Xuất phát từ góc nhìn mới mẻ về văn hóa xứ sở của một đất nước với vẻ

đẹp đa dạng, phong phú. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài “Thơ Thanh Thảo

trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa”, chúng tôi hi vọng góp

phần xác định cơ sở khoa học để đánh giá những nét đặc sắc trong thơ Thanh

Thảo và phục vụ cho việc học tập, giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học Phổ

thông sau này.

2. Lịch sử vấn đề

Đa số các nhà nghiên cứu, phê bình văn học khi đánh giá về Thanh Thảo

đều thống nhất về cái “mới” và “lạ” trong thơ ông, đặc biệt là một bản lĩnh

thơ luôn táo bạo, gai góc, quyết liệt đầy sức thuyết phục, thể hiện ý thức cách

tân thơ ca rõ nét.

Trong Văn Chương, cảm và luận - Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “Thơ

Thanh Thảo không lạnh, thậm chí nóng bỏng, là giọt cồn ở nồng độ cao”.

Thơ anh là “những tia chớp từ trời cao làm hiện lung linh tất cả sự vật chung

xung quanh ta” [16, tr.75]

Thiếu Mai trong bài Thanh Thảo - thơ và trường ca (1980) đã khẳng định:

“Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng

ấy (…) thơ Thanh Thảo là thơ của tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ (…)

đầy đặn cả hai mặt cảm xúc và suy nghĩ” [13- tr.97, 98].

2

Ở bài viết Thanh Thảo – gương mặt tiêu biểu sau 1975, tác giả Bích Thu

đã đưa ra ý kiến khá sắc sảo: “ Thanh Thảo đã đem đến cho người đọc một thực

đơn tinh thần mới mẻ và độc đáo làm phong phú tiếng nói của thơ hôm nay”

[20, tr.422]

Tác giả Lại Nguyên Ân với Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh

Thảo đã đưa ra những ý kiến khá sắc sảo về thơ anh khi viết về người lính:

“Thanh Thảo đã tìm được khá nhiều cung bậc, nhiều sắc thái để tô đậm nét

vô danh, bình thường ở những người lính cùng thế hệ (…) và những nét vô

danh bình thường này “như báo trước một thầm thì gì nữa, một xác nhận về

đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một thứ tuyên ngôn” [2, tr.135].

Trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca và nỗ lực đổi mới thơ của Thanh Thảo,

tác giả Nguyễn Văn Bính nhận xét: Đây là bài thơ giàu nhạc tính và nhạc tính

được tạo nên bởi thể thơ, cấu trúc trùng điệp, âm hưởng tiếng đàn… Bên cạnh

đó, đặc sắc của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh, những hình ảnh tượng

trưng gợi nhiều suy tưởng. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” nằm trong mạch

cảm xúc của nhà thơ Thanh Thảo về cuộc đời và số phận ngang trái của

những con người sống có nhân cách và nghĩa khí

Bài viết Một tìm tòi thú vị của Thanh Thảo in trong tập Thơ – điệu hồn

và cấu trúc, tác giả Chu Văn Sơn cũng có những phát hiện đầy hấp dẫn về bài

thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Tác giả nhâ ̣n xét: Thanh Thảo “vay mượn” không ít vốn liếng âm nhạc để đầu tư cho thơ mình. Mạch triển khai của thi phẩm

tuân theo cấu trúc của một ca khúc, nhập cấu trúc ca khúc vào cốt tự sự để

chúng đồng thể với nhau. Bài thơ là sự “đồng bệnh tương lân” của Thanh

Thảo với F.G.Lor-ca và là thành quả đặc sắc về cách tân nghệ thuật thơ của

Thanh Thảo.

Các bài viết tuy ở mức độ khác nhau song phần nào đề cập được nét

chung nhất về thơ Thanh Thảo: thơ Thanh Thảo có chiều sâu, ông có cách nói

3

cách khám phá về con người, hình tương nhân vật và vẻ đẹp văn hóa thiên

nhiên đất nước con người qua sáng tác của nhà thơ. Ở phần lịch sử vấn đề, tác

giả khóa luận dành sự quan tâm đặc biệt tới những ý kiến liên quan đến đề tài.

Bên cạnh sự phong phú về nội dung cũng như hình thức thì cùng với yếu

tố văn hóa con người thiên nhiên xứ sử đất nước Tây Ban Nha, khóa luận tiếp

tục nghiên cứu chuyên sâu về Thơ Thanh Thảo trong nhà trường phổ thông

từ góc nhìn văn hóa.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu tìm hiểu thơ Thanh Thảo trong trường phổ thông từ góc nhìn

văn hóa giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục sinh hoạt, hình

tượng con người ở đất nước Tây Ban Nha.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu về Thanh Thảo - nhà thơ của sự tìm tòi đổi mới, đi tìm hiểu về

đất nước Tây Ban Nha qua không gian văn hóa và qua hình tượng nhân vật.

- Thấy được nét độc đáo và đặc sắc trong thơ Thanh Thảo và khẳng định

những đóng góp của ông đối với thơ ca hiện đại Việt Nam.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài khóa luận đặt ra vấn đề nghiên cứu: Thơ

Thanh Thảo trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa, cho nên chúng tôi

chọn xuất phát điểm từ vấn đề có ý nghĩa khái quát văn hóa, từ đó đi vào tìm

hiểu bài thơ Đàn ghi ta của Lor - ca trong chương trình sách giáo khoa Ngữ

văn 12, tập 1.

- Phạm vi tư liê ̣u: Tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là sách giáo khoa Ngữ văn ở THPT , bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca trong chương trình sách

giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Bên cạnh đó, để làm nổi bật vấn đề này, khi cần

thiết, khóa luận còn có sự liên hệ đến những sáng tác của các nhà thơ khác.

4

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học, kháo luận

sử dụng phối hợp các phương pháp:

- Phân tích và tổng hợp

- Phương pháp so sánh,hệ thống - Phương pháp nghiên cứu liên ngành

7. Đóng góp của khóa luận

- Khóa luận đã tiến hành nghiên cứu một phần nội dung từ góc nhìn

văn hóa qua bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca của Thanh Thảo.

- Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định tài năng

độc đáo của Thanh Thảo và góp phần vào vi ệc tiếp nhâ ̣n tác phẩm văn ho ̣c cũng như việc – học tác phẩm thơ của Thanh Thảo trong nhà trường ở bậc

THPT.

8. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

của khóa luận gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Văn hóa Tây Ban Nha qua hình tượng nhân vật

Chương 3: Không gian văn hóa sứ xở Tây Ban Nha

5

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Những tiền đề khoa học

1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học

1.1.1.1. Khái niệm văn hóa

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về

văn hóa. Mỗi một định nghĩa, quan niệm về văn hóa đó được được hiểu một

cách khác nhau.

Theo UNESCO, văn hóa bao gồm: Tổng thể các giá trị về vật chất và

tinh thần; tổ chức xã hội, đó là các phương thức sống; những quyền cơ bản về

con người; đức tin tự nguyện của con người, đó là các truyền thống tín

ngưỡng [22,tr.43].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích

của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,

đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ

cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ

những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.Văn hoá là sự tổng hợp của

mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản

sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"

[22, tr.43].

PGS - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng cho cho rằng văn hóa là một hệ

thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, nó thể hiện trình độ của mỗi dân

tộc trong quá trình lịch sử của mình. Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh điểm thống

nhất căn bản mang tính nhân loại khi nhận thức về văn hóa là tính sáng tạo,

đó là cốt lõi của văn hóa. Điểm khác biệt giữa các nền văn hóa của mỗi cộng

6

đồng dân tộc là ở mức độ của tinh thần nhân văn của nền văn hóa ấy

[22,tr.45]

Như vậy hiểu theo một cách khái quát nhất: “Văn hóa là những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống

nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người. Các giá trị văn hóa được lưu

giữ và truyền thụ từ đời này qua đời khác”.

1.1.1.2. Khái niệm văn học

Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã

hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư

cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ [8,tr.401]

Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương

và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học

thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ

nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn

ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng

hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống.

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học

Trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ.

Thứ quan hệ ngang bằng của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng

tầng kiến trúc, cùng phản ánh một số cơ sở hạ tầng. Bởi thế, nghiên cứu văn

hóa thù văn học được coi như một nguồn tài liệu, còn nghiên cứu văn học thì

lại tìm thấy ở nó những chủ đề văn hóa, cũng là một kiểu tài liệu. Như

vậy,văn hóa và văn học làm tài liệu nghiên cứu cho nhau. Quan hệ này mang

tính bề ngoài, đôi khi tình cờ không bộc lộ bản chất của nhau.

Ngày nay, hẳn ai cũng thừa nhận văn hóa là một tổng thể, một hệ

thống, bao gồm nhiều yếu tố trong đó có văn học. Như vậy, văn hóa chi phối

văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận.

7

Đây là quan hệ bất khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là

một yếu tố mạnh và năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài

hệ thống. Trong khi đó thì hệ thống nhất là hệ thống văn hóa, luôn có xu

hướng duy trì sự ổn định. Như vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối

với văn hóa là không thể tránh khỏi. Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo.

Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì

có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống.

Nếu văn học chỉ là một bộ phận của văn hóa, một yếu tố trong hệ thống

văn hóa thì nó không thể và không có quyền “vượt mặt” hệ thống để tiếp xúc

với hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội, mà phải gián tiếp qua hệ thống

văn hóa. Từ đây có thể thấy văn học nếu có chức năng phản ánh hiện thực thì

cũng không thể phản ánh trực tiếp được mà chỉ có thể phản ánh thông qua “

lăng kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà

tránh được sự phản ánh “gương phản ánh” một cách trần trụi, có lẽ cũng nhờ

thế mà tạo cho văn học một lối phản ánh đặc trưng, phản ánh như người ta

thường nói ,có nghệ thuật. Nhưng liệu một tia sáng phản chiếu mà phải đi qua

một bầu khí quyển văn hóa với nhiều khúc xạ như vậy thì có còn nguyên giá trị

phản ánh hay.

Như vậy giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ

lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Là nền tảng tìm kiếm những cái hay, đặc sắc cho

mỗi tác phẩm văn học.

1.2. Thanh Thảo và quá trình sáng tác

1.2.1. Vài nét về tác giả

Thanh Thảo, tên thật là Hồ Thành Công sinh năm 1946, quê xã Tân Đức,

huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội, tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nanm.

8

Sau năm 1975, ông hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ báo chí. Giữ chức

vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ, Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học

nghệ thuật Quảng Ngãi. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến

chống Mĩ cứu nước. Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Xuân

Quỳnh,… Thanh Thảo đã góp phần tạo nên và hoàn thiện gương mặt của thế

hệ trẻ chống Mĩ.

Sau đại thắng 1975, Thanh Thảo vẫn tiếp tục con đường thơ của mình,

đây là chặng đường của những trăn trở trong cuộc kiếm tìm và đổi mới tư duy

nghệ thuật trong giai đoạn mới của văn học Việt Nam.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông viết tới 9 trường ca: Những

người đi tới biển (1976), Trẻ con ở Sơn Mỹ (1976-1978), Những nghĩa sĩ

Cần Giuộc (1978-1980), Bùng nổ của mùa xuân (1980-1981), Đêm trên cát

(1982), Trò chuyện vói nhân vật của mình (1983), Cỏ vẫn mọc (1983),

Khối vuông Rubich (1985), Mêtrô (2009). Và 5 tập thơ: Tàu sắp vào ga

(1986), Bạch đàn gửi bạch dương (1987), Từ một đến một trăm (1988),

Thanh Thảo 1 2 3 (2007), Thanh Thảo 70 (2008). Ngoài thơ ca, Thanh

Thảo còn viết tiểu luận, phê bình văn học, từ đó khẳng định vị trí cũng như

đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà.

Tác giả được nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979 cho

tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ; Giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng

An ninh, Hội Nhà văn Việt Nam cho tập trường ca Những ngọn sóng mặt

trời (1955).

1.2.2 Quá trình sáng tác của Thanh Thảo

- Con đườ ng thơ của Thanh Thảo trướ c 1975 Với gia tài khá đồ sộ là những tập thơ, trường ca và tiểu luận phê bình của

Thanh Thảo, có thể kết luận rằng nghệ thuật là một chủ đề tư tưởng lớn trong sáng

tác của tác giả sau năm 1975. Là nhà thơ có ý thức sâu sắc về nghệ thuật về sứ

9

mạng của người nghệ sĩ luôn khao khát mở đường, Thanh Thảo bày tỏ quan niệm

nghệ thuật thể hiện rõ nét trên ba phương diện thẩm mỹ, bản chất và hình thức.

Về mặt thẩm mỹ Thanh Thảo tìm đến cái đẹp “thô sơ và hực sáng” trong

vô vàn vẻ đẹp khác vốn có của cuộc sống này. “Thô sơ” trước hết là vẻ đẹp

tiềm ẩn trong những gì giản dị nhất, mộc mạc nhất, đời thường nhất có khi đó

chỉ là “tiếng gà bất chợt”, vang lên “bên bờ kinh hoang tàn” để khẳng định sự

sống, là “ánh sáng bí ẩn” của “búp xà lách” xanh non như một sự khởi đầu, là

hoa nhài tinh khiết, thơm một cách tự tin” giữa chợ đời xô bồ, là “tiếng khóc

tiếng cười tan rất mau” của trẻ thơ để lại cho cuộc đời những dư vị nguyên sơ,

thuần phác và trong trẻo. Cái đẹp thô sơ là cái đẹp từ bản chất, không giả dối

và chân thành.

Phẩm chất thứ hai trong quan niệm thẩm mĩ của Thanh Thảo đó chính là

sự “hực sáng” vẻ đẹp của ánh sáng của sức nóng, bất ngờ, bùng nổ và quyết

liệt. Có thể coi đó là khoảng khắc huy hoàng nhưng có sức soi chiếu và lan

tỏa khôn cùng. “Thô sơ và hực sáng” vừa tương phản vừa bao hàm như vẻ đẹp

của hoa cúc đã được tôn vinh trong thơ Thanh Thảo “đầy dáng vẻ tầm thường

đến tuyệt vời tinh tế/ kiêu hãnh vì đạm bạc”. Bên cạnh đó, cái đẹp trong thơ

Thanh Thảo còn “lấp lánh chất người” đó là một vẻ đẹp sáng và thẳng.

“Trải qua rét buốt lửa nồng

Gia tài còn lại tấm lòng ấy thôi

Những người mọc thẳng giữa đời

Như rừng dương chắn ngang trời cát bay”

(Những ngọn song mặt trời - Thanh Thảo)

Những con người trong thơ Thanh Thảo đều ít nhiều có phẩm chất của

một người nghệ sĩ, đặc biệt những nhà thơ rạng ngời vẻ đẹp nghĩa khí, vẻ đẹp

của sự xả thân hi sinh vì tự do, vì cái đẹp như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình

Chiểu, L.Aragor, F.GLorca. Và bản thân Thanh Thảo cũng là một nhà thơ

10

nghĩa khí bởi khát vọng được cống hiến với cuộc đời và nghệ thuật. Có thể

thấy, cái đẹp thơ Thanh Thảo là những vẻ đẹp bình thường nhưng cao cả, lặng

lẽ mà âm vang. Nó đánh thức cảm xúc, khơi gợi suy nghĩ của người đọc, mở ra

đa tầng suy nghĩa của cuộc sống nó là “những vệt bùn làm vinh hạnh cho thơ”.

Thanh Thảo quan niệm bản chất của thơ “mãi mãi là bí mật”. Có thể ta “mãi

mãi dò tìm” nhưng “mãi mãi không thể nào chạm đáy”. Nhà thơ khẳng định thơ là

sự đối lập căng thẳng giữa tâm hồn và không có tâm hồn”. Nhưng tâm hồn thơ

phải mang bản chất chân thành. Đó là sự thành thực của cảm xúc thơ.

“Tôi sẵn sàng gặp gió, gặp bão, gặp em

Riêng sự hững hờ là tôi không chờ gặp”

(Trăm mảnh gỗ vuông - Thanh Thảo)

Đó còn là tính chất vô tư lợi của thơ “sinh ra từ lao động, thơ là kẻ thù

của lười nhác. Sống thật thà vô tư, thơ không sao chịu nổi thói giả dối và vụ

lợi” (Trò chuyện với nhân vật của mình - Thanh Thảo). Thơ còn sống bởi

những điều giản d ị, kì lạ cảm xúc và sự khám phá bản chất chiều sâu của sự

vật hiện tượng. Đối với Thanh Thảo, điều đó là cả một khát vọng trong thơ.

“Bạn ơi tôi làm sao tới được

Những khoảng rừng nguyên sinh trong tâm hồn bạn

Nơi cành lá um tùm dây leo chằng chịt

Lớp lớp rễ ngầm với những giọt nước đầu tiên”

(Thơ bốn câu - Thanh Thảo)

Có khi thơ chỉ cần một khoảnh khắc nhưng nó có thể đồng cảm, an ủi và

nâng đỡ con người trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hơn thế còn lay động

và thức tỉnh tâm hồn. Có thể thấy, Thanh Thảo đã thể hiện một cái nhìn vừ a khách quan vừa trân trọng, vừa tự hào về bản chất, chức năng và vai trò của thơ

để từ đó, thơ là người giữ ngọn lửa niềm tin để Thanh Thảo và những nguời

làm thơ tiếp tục sáng tạo và cống hiến.

11

Yếu tố thứ ba trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo đó là hình

thức thơ. Không có hình thức thì cũng chẳng bao giờ có nghệ thuật. Cách

nhìn, cách cảm về thế giới và con người cần có một hình thức tương ứng để

biểu hiện. Thanh Thảo đã đưa ra nhiều quan niệm nghệ thuật mới về thẩm mĩ

và bản chất thơ, những cách tân mạnh mẽ nhất của thơ Thanh Thảo là trên

phương diện hình thức. Ông quan niệm: “Rubíc là cấu trúc thơ” bởi “tôi xoay

quanh ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất Rubíc là trò chơi kì lạ. Chúng

ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp nhiều ý nghĩ. Có hàng tỉ cách sắp xếp”.

Phải chăng thơ cũng là một trò chơi đầy bí ẩn mà mỗi lần thay đổi diện mạo

thơ lại xuất hiện đầy bất ngờ? Nhưng điều quan trọng là thơ phải có một trục

quay vô hình, đó là điểm tựa để thơ khởi phát và sinh tồn. Vì vậy, cấu trúc,

quan niệm về ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, thể loại thơ mang đậm cá tính

của một cái đầu tỉnh táo và trái tim lửa cháy, đã làm nên một gương mặt thơ

Thanh Thảo không thể trộn lẫn.

Lời thơ của Thanh Thảo cũng là tuyên ngôn nghệ thuật không chỉ của

riêng mình mà còn dành cho cả một thế hệ đương thời. Con đường thơ mà

những nhà thơ trẻ theo đuổi, nằm ở thế đối lập và tương phản với thơ ca của

những thời kì trước. Đối với Thanh Thảo, thơ như một đối tượng thẩm mĩ

xuất hiện theo cấp số cộng trong sáng tác của nhà thơ. Nhưng nàng thơ đỏng

đảnh, chẳng chịu ở yên để nhà thơ hoàn thiện bức chân dung, nên Thanh Thảo

vẫn mải miết tìm kiếm gương mặt đích thực của thi ca. Thứ hai,Thanh Thảo

phát biểu trực tiếp quan niệm nghệ thuật trong những bài báo, những tập tiểu

luận bàn về thơ và trả lời người đọc. Dù có thể chỉ bàn tới một hay vài khía

cạnh của thơ ca nhưng tất cả đều thể hiện những suy nghĩ nghiêm túc, khao

khát tìm kiếm và khái quát về thơ Thanh Thảo.

Thứ ba, bàn về thơ người khác cũng là cách Thanh Thảo lựa cho ̣n để bộc

lộ quan niệm thơ của mình. Nhà thơ nghĩ và viết về thơ và những nhà thơ

12

trong quá khứ - hiện tại và tương lai. Nhưng dù viết về đối tượng nào thì

Thanh Thảo vẫn tiếp cận bằng con mắt kiếm tìm đau đáu “như thỏi nam chân

hút tìm những mạt quý kim của bạn sở hữu đồng nghiệp”.

Thơ Thanh Thảo ẩn sau sự cộng hưởng của những sắc nhọn, những đùa

chơi, những mềm mại, là một năng lượng thơ hay nói đúng hơn là một ám ảnh

thơ của một cuộc đời, mà cho đến bây giờ nhà thơ vẫn luôn khao khát đi tìm.

- Thanh Thảo một con đường thơ mới sau 1975

“Thơ hay là chết”, “chết” trong tâm hồn hay “sống” để được chết cho

thơ? Đối với Thanh Thảo, không có một sự lựa chọn nào khác. Nếu Federico

Garcia Lorca từng nói khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta, thì người

ngưỡng mộ ông – nhà thơ Thanh Thảo cũng “sẵn sàng tử vì đạo” hiến dâng

cuộc đời một cách vô điều kiện cho cuộc hành trình theo đuổi những ám ảnh

day dứt về nghệ thuật thi ca.

Đổi mới và dấn thân đó là con đường duy nhất cho các nghệ sĩ chân

chính, cho dù đó là con đường mờ mịt, chông gai và đơn độc. Đổi mới trong

sáng tác nghệ thuật nói chung đã khó, đổi mới trong thơ lại càng khó hơn.

“Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo ảo, vừa là cài gì ta vừa bắt được đó lại tuột đâu

mất thơ vẫn là hình bóng, đôi khi là bóng của bóng nữa” (Thanh Thảo). Và dù

có tới được hay không, thì Thanh Thảo vẫn luôn chọn cho mình vị trí tiên

phong với tinh thần táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân. “Số phận của một

nhà thơ cách tân là luôn phải ở vạch xuất phát. Và luôn phải biết quên”

(Thanh Thảo). Bắt đầu với Dấu chân qua trảng cỏ, Người đi tới biển, Những

ngọn só ng mặt trời,… Thanh Thảo đã trở thành một tiếng thơ mới mẻ, ấn tượng trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Nhưng vì “ngoài xa còn xa nữa”

(Tvardopxki). Thanh Thảo đã không dừng lại, nhà thơ là một hiện tượng đặc

biệt, vì sau những bước đi ban đầu của mình, Thanh Thảo vẫn không ngừng

theo đuổi những dự định sáng tạo mới.

13

Sáng tạo và đổi mới là sứ mệnh cay đắng và vinh quang của những

người nghệ sĩ chân chính, trong đó có Thanh Thảo. Đối với nhà thơ, dấn thân

trên con đường sáng tạo không chỉ là ý thức trách nhiệm, là bản lĩnh mà còn

là niềm đam mê không thể lý giải. Nhà thơ đổi mới là nhà thơ đang lầm lũi, tự

đày ải mình trên “con đường người không khôn ngoan gập ghềnh lầy thụt/

Sao anh không con đường đã dọn sạch/ Hành hạ thân mình như thế để làm

chi” (Từ một đến trăm - Thanh Thảo). Tuy nhiên không thể dừng bước quay

lại, vì không thể đành long là một kẻ ngủ quên.

“Bãi cát, bãi cát dài

dù phía trước chân trời mù mịt

dù bước chân dẫn về cõi chết

không thể không đi”

(Những ngọn sóng mặt trời - Thanh Thảo)

Có những lúc dường như Thanh Thảo cũng cảm thấy thất bại, đã hoài

công vô ích đau xót và bất lực:

“con chim vẫn quyên lỡ vận

lang thang trên mặt đất

tiếng kêu sao nghẹn ngào

ta đã phí hoài quá nhiều sức lực

gót chân mòn những bước không đâu”

(Đêm trên cát - Thanh Thảo)

Và cái giá phải trả cho đổi mới thật đắt. Đó không chỉ là đau khổ, là

hiểm nguy như “trước mõm chó, trước vó ngựa” mà còn có thể là cái chết

“tóc bạc trắng chờ lưỡi dao chưa - biết- bao- giờ - đến”. Nhưng Thanh Thảo

vẫn ném thơ của mình vào thác xiết, sẵn sàng trả bất cứ giá nào để nhích lên

dù chỉ một bước trên con đường sáng tạo và tự hào vì được là người mở

đường “dù phải húc đầu vào đá, để mở cửa” là “những con còng không hối

14

tiếc đã mở những con đường bí mật giữa mênh mông”. Thanh Thảo có đủ

niềm tin vào con đường mình đã chọn, vì như nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã từng

nói “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người

biết thất bại mà dám mở đường, bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ

nghệ thuật”.

1.3 Khảo sát sáng tác của thơ Thanh Thảo trong trƣờng THPT

Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12

Văn bản giảng 0 0 1

dạy chính

Văn bản đọc thêm 0 0 0

Như vâ ̣y, qua khảo sát thơ Thanh Thảo trong trường Trung học Phổ thông

chúng tôi nhận thấy, thơ Thanh Thảo có một bài Đàn ghita của Lorca là một

bài thơ viết theo phong cách mới, theo lối tượng trưng siêu thực, đây là một bài

thơ rất khó tiếp cận đối với cả giáo viên và học sinh và làm thế nào để cho học

sinh nắm bắt được tác phẩm thì giáo viên cũng phải am hiểu được phông văn

hóa của bài học để học sinh dễ hiểu bài hơn.

Từ thực tế trên có thể thấy việc học sinh tiếp nhận thơ Thanh Thảo còn

khá mới mẻ và gặp nhiều khó khăn chính vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề

tài nghiên cứu về “Thơ Thanh Thảo trong nhà trường phổ thông từ góc

nhìn văn hóa” nhằm giúp cho việc giảng dạy và tiếp nhận thơ Thanh Thảo

trong trường phổ thông một cách dễ dàng hơn.

15

CHƢƠNG 2

VĂN HÓA TÂY BAN NHA QUA HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT

2.1. Lorca - ngƣời con, ngƣời chiến sĩ, ngƣời nghệ sĩ tƣ̣ do Tây Ban Nha

2.1.1. Lorca – ngườ i con ưu tú củ a đấ t nướ c Tây Ban Nha xinh đe ̣p Toàn bộ bài thơ, bên cạnh nét đẹp về nền văn hóa có từ lâu đời của Tây

Ban Nha như lễ hội đấu bò tót, điệu nhảy Flanmico, nhạc cụ truyền thống cây

đàn ghi ta muôn thủa. Hình tượng nhân vật ngườ i con, người chiến sĩ, người nghệ sĩ Lorca xuyên suốt toàn bộ tác phẩm - nhà thơ nổi tiếng, nhạc sĩ, họa sĩ,

kịch tác gia, nhà hoạt động sân khấu thiên tài, đồng thời là người chến sĩ chống

phát xít kiên cường của xứ sở Espagna. Quê hương Granada miền Nam Tây

Ban Nha là nơi khởi đầu cũng là nơi kết thúc sự sống của một con người có

nhân cách cao đẹp, tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do nhưng số phận oan khuất.

Ngày 5 tháng 6 năm 1898, Granada – một trong bốn thành phố lớn của

xứ Andalucia ở miền Nam Tây Ban Nha, vốn đã làm say đắm lòng người bởi

không khí mê cuồng của những điệu nhảy, bài ca và những ngày hội đấu bò

tót rực lửa; bởi sức sống bất tận của những rặng ôliu ngăn ngắt, những vườn

cam trĩu quả; bởi sự quyến rũ của những vườn bạc hà, hoa nhài ngát hương

đêm hè và bởi cả một không gian mơ hồ, xa xăm, huyền bí – đã trở thành

chứng nhân lịch sử cho sự ra đời của Federico Garcia Lorca. Người sau này

đã vinh danh Granada và Tây Ban Nha trên bản đồ của nền văn minh nhân

loại. “Nếu có ngày, nhờ Trời, tôi được vinh quang, thì vinh quang ấy phân

nửa thuộc về Granada, nơi đã tạc nặn nên cái tạo vật tôi: thi sĩ bẩm sinh

không thể cải hồi” (F.G.Lorca). Ngày 19 tháng 8 năm 1936, “con chim họa mi

xứ Andalucia” đã bị sát hại ngay trên mảnh đất quê hương mình Granada –

nơi khởi nguồn và cũng là nơi kết thúc cuộc đời ấn tượng như mùa hè rực rỡ

và chan hòa ánh nắng không thể nào quên của một Con Người Thơ chân

chính. Con Người ấy là một mạch ngầm mát rượi trước mọi giếng khơi, một

sự trong suốt từ cội nguồn giữa những cội nguồn của thế giới, rất sáng tạo và

16

cũng rất truyền thống. Cùng với F.G.Lorca, mặt trời của tự nhiên cũng được

chính ánh sáng của nhà thơ tỏa rạng, khi ấy không có cái lạnh lẽo mùa đông,

cũng không còn cái nóng nực của mùa hè mà chỉ có Federico Garcia Lorca!

Đó là một tài năng khởi xuất tự nguồn cội, một sản vật của sự sáng tạo, hòa

tan trong sự sáng tạo, nơi gặp gỡ của sự sáng tạo, là một nhân tố tạo thành

những dòng chảy sáng tạo không bao giờ khô kiệt và sự hứng khởi kỳ lạ

F.G.Lorca không chỉ là người con ưu tú mà còn là tiếng nói, là niềm vui và

nỗi buồn của đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp. Trong những vần thơ tài hoa

đậm chất dân ca của anh, có tiếng hoàng hôn than khóc ánh bình minh, có

tiếng đôi thằn lằn thầm thì bên tảng đá ven sông, có tiếng cát lạo xạo dưới

chân cặp tình nhân đang dạo bước, có tiếng đàn ghi ta xao xuyến cả không

gian.Và thế giới biết đến chiều dài sâu thẳm của lịch sử Tây Ban Nha, với

những sắc màu nồng nhiệt nhưng vẫn phảng phất một nỗi buồn mênh mang

cũng chính từ những vần thơ ấy. Không có riêng mộ phần, thể phách

F.G.Lorca như đã hòa quyện vào mỗi ngọn cỏ, mỗi tấc đất, mỗi dòng sông

của đất nước Tây Ban Nha mà trước đó anh đã thầm ước nguyện

“Bao giờ tôi chết,

hãy chôn tôi cùng cây đàn ghi ta

trong cát.

Bao giờ tôi chết,

giữa những cây cam

và cây bạc hà tốt lành.

Bao giờ tôi chết,

xin vui lòng chôn tôi

trong ngọn phong tiêu.

(Ghi nhớ - Hoàng Hưng dịch)

Sự đối lập nghiệt ngã giữa tài năng và số phận của F.G.Lorca gợi đến

thuyết “tài mệnh tương đố” đã tồn tại trong tư tưởng văn học phương Đông từ

ngàn đời nay: “Tinh anh phát tiết ra ngoài. Nghìn thu bạc mệnh một đời tài

17

hoa”. Phải chăng, điều đó nối gần hơn khoảng cách xa xôi giữa Phương Tây

và Phương Đông, giữa hai nền văn học Tây Ban Nha và Việt Nam, đặc biệt là

giữa hai tâm hồn thi nhân F.G.Lorca và Thanh Thảo? Để rồi, câu nói như một

lời trăng trối của F.G.Lorca, đã ám ảnh suốt cuộc đời thơ Thanh Thảo Khi tôi

chết, hãy chôn tôi cùng cây đàn ghi ta - đó cũng là câu đề từ đầy ấn tượng

trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, vốn được coi như khúc tưởng mộ của

Thanh Thảo với “một sản vật vĩ đại của thế giới” – F.G.Lorca! Mang một số

phận bi thảm, nhưng về mặt sự nghiệp sáng tạo, Lorca không chỉ để lại sự yêu

mến trong lòng người dân Tây Ban Nha mà còn là sự ngưỡng mộ đối với bạn

bè quốc tế trong đó có Việt Nam.

2.1.2. Lor ca - ngƣời nghệ sĩ

Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban

Nha. Sinh ra ở làng Fuente Vaqueros, trong một gia đình nông dân bậc trung

thuộc một dòng họ lâu đời của xứ sở Andalucia ở miền Nam Tây Ban Nha,

thừa hưởng tâm hồn thiết tha gắn bó với đất đai, thiên nhiên của cha, trí thông

minh, những năng khiếu nghệ thuật của mẹ, và một tuổi thơ với những đàn

cừu, đồng ruộng, bầu trời, sự cô tịch nơi thôn dã đã kết tinh thành một

F.G.Lorca “có sức quyến rũ lạ lùng, từ con người anh với phong độ thanh

quý, vẻ vui hoạt, đôi mắt u tối nhưng lại tươi cười, nước da màu đồng, giọng

nói như đồng”, “một cái gì đó như chớp lóe trong thể chất, một năng lượng

luôn luôn chuyển động, một niềm vui, một sự bộc phát mãnh liệt, một vẻ trìu

mến hoàn toàn siêu việt” (Pablo Neruda); đến kỳ tài ngẫu hứng của anh về

nhạc, về họa, về sân khấu, về thơ, cả sáng tác lẫn thể hiện (F.G.Lorca là một

họa sĩ có nét vẽ duyên dáng và một người chơi dương cầm đặc sắc)”. Như

một số phận đã định trước, F.G.Lorca là “người được tuyển chọn” để làm thơ

về xứ Andalucia của mình với những vần thơ tuyệt vời nhất, trong sáng nhất,

mê hồn nhất mà một “thần đồng thi ca” có thể kiến tạo nên. Và bầu trời, núi

18

non, sông suối, cỏ cây, con người, kể cả những bóng ma của xứ sở này đã trở

thành một thế giới hoàn mỹ trong thơ Lorca. Nhưng anh không mô phỏng mà

tưởng tưởng, mà sáng tạo, mà ca hát về nó. Và Lorca làm thơ ca ngợi thế giới

ấy bằng “một giọng điệu đích thực – giọng con người” mà Andalucia như đã

dành cho riêng anh. Giữa không gian Tây Ban Nha tự nhiên mà đầy mê hoặc,

cuộc đời F.G.Lor-ca được phác thảo qua những hình ảnh thật lạ:

“những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chuếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn”

Bắt đầu bằng “tiếng đàn”, nhưng không đơn thuần để tả âm thanh phát ra

từ sáu dây của cây đàn ghi ta hay còn gọi là “Tây Ban cầm”, mà Thanh Thảo

đề cập đến những ám ảnh xa gần về tài năng và số phận của Lor-ca. Bẩm sinh

là một thi sĩ không thể cải hồi, cuộc đời Lor-ca lại gắn với cây đàn của dân

tộc như một định mệnh.

“Tiếng khóc của phím đàn

bắt đầu

Những ly rượu bình minh

tan vỡ

……………………..

Đàn ơi!

(Đàn ghi ta – Nguyễn Phước Nguyên dịch từ La guitarra của Lor-ca)

Trong khúc bi ca của những tiếng đàn, nổi bật lên hình ảnh một người

nghệ sĩ lãng du, chàng hát rong thời trung cổ với trái tim nồng cháy yêu

người, yêu đời nhưng vẫn là người lữ khách đơn độc cùng “con ngựa đen /

19

vầng trăng đỏ” trên hành trình vô định. Những “chếnh choáng”, “mỏi mòn”

trong không gian mờ ảo, lãng đãng, như ám cả vào cuộc đời và thơ ca của

Lor-ca.

Cũng cần phải nhận thức rõ rằng: Lor-ca là nhà thơ chứ không phải nhạc

sĩ, càng không phải là ca sĩ, dù Lor-ca học âm nhạc từ bé, chơi piano và ghi ta

rất hay, và đặc biệt am hiểu âm nhạc, nhất là am hiểu nhạc dân ca miền

Andalucia quê hương ông. Nhưng Lor-ca là nhà thơ, nhà thơ vĩ đại không chỉ

của Tây Ban Nha mà của thế giới, một trong những gương mặt thơ ca lớn

nhất trong thế kỉ hai mươi.

Với tư cách là nhà thơ, Lorca luôn luôn giữ được lòng trung thành với

thiên chức sẵn có của mình, không hề dao động, thay đổi. Sau khi mất, thơ

anh tiếp tục đạt tới đỉnh cao của vinh quang, được cả nhân loại ca tụng. Cùng

với năm tháng, thơ Lor-ca ngày càng được đọc nhiều hơn, được dịch ra tiếng

nước khác nhiều hơn. Và nhịp cầu tri âm nối những tâm hồn đồng điệu của thi

ca, đã khiến F.G.Lor-ca trở thành đề tài nghiên cứu và sáng tác đầy hấp dẫn

của giới văn – nghệ sĩ Việt Nam. Có thể kể đến những trang viết giá trị và tập

thơ F.G.Lor-ca chuyển ngữ tiếng Việt của Hoàng Hưng, hay ca khúc nổi tiếng

của nhạc sĩ Thanh Tùng – “Nếu tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” đặc

biệt là tất cả vinh quang và bi kịch của “chim họa mi xứ Andalucia” qua

những vần thơ Thanh Thảo

“Lor-ca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói,

một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những

linh cảm thành ngôn ngữ” [1,tr.34]. Thơ trữ tình của Lor-ca minh chứng cho

sự trác việt trong tưởng tượng, sự lấp lánh trong chất liệu, sự uyển chuyển

trong âm điệu. Nhưng nổi bật hơn cả là những giá trị âm nhạc đích thực,

mang đậm dấu ấn về bản thể tự nhiên Andalucia – cội nguồn dân gian của thơ

Lor-ca. Tính đa dạng và thanh thoát của nhịp điệu đã tạo nên những sắc màu

20

hội họa kỳ ảo, những chất liệu kiến trúc độc đáo đậm chất siêu thực và tượng

trưng trong sáng tác nghệ thuật của anh.

2.1.3. Lorca - ngƣời chiến sĩ chiến đấu cho tự do

Với tư cách trung thực, một tâm hồn yêu tự do, yêu cái đẹp và một khát

vọng về một cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân mình, việc Lorca đến với cuộc

đấu tranh chống áp bức như một tất yếu. Ông đã cùng với những người cùng

chí hướng trong đó có những đảng viên đảng cộng sản đã thành lập liên đoàn

trí thức chống chủ nghĩa phát xít năm 1936. Ngày 17/6/1936 trên đường về

quê hương Granada để dự hội thánh Phederico, Lorca đã bị bọn vệ dân bắt và

xử bắn tại một nơi gần mảnh đất quê hương mình vào một sáng tháng 8 năm

1936 cạnh một gốc cây Olive. Cái chết của Lorca không chỉ làm chấn động cả

thế giới bấy giờ mà còn âm vang đến tận hôm nay. Mang một bản năng sống

đích thực, Lor-ca đã từng thảng thốt kêu lên trong “Bi ca cho Ignacio Sanchez

Mezias” rằng: “!Que no quiero verla!” – “Tôi không muốn nhìn thấy máu!”,

nhưng máu của chính anh cùng bao người dân vô tội vẫn chảy tràn trên đất

Tây Ban Nha khi chế độ phát xít độc tài Franco bắt đầu ra tay tàn phá nền văn

minh nhân loại bằng những cuộc thảm sát đẫm máu từ mùa thu năm 1936.

Dâng hiến cả đời mình cho thơ, F.G.Lor-ca nhập vai chàng danh ca

Orpheus của thần thoại Hy Lạp, nhưng không phải với cây đàn Lyre bảy dây

nhiệm màu qui ước mà là tiếng đàn ghi ta của một trái tim con người sẵn sàng

ngân lên trước những rung động nhỏ nhất của tâm hồn, của tự nhiên. Lời thơ

là ca từ. Dòng thơ là khuông nhạc. Nhịp thơ là giai điệu, nhà thơ xứ

Andalucia đã giao tiếp với cuộc đời bằng những bản tình ca thơ mê đắm và

kiêu hãnh như tiếng hót của loài chim họa mi huyền thoại, bằng trái tim mà

mỗi nhịp đập như chỉ dành riêng cho con người và đất nước mình.

Tình yêu, Cái đẹp và Cái chết là ba nỗi ám ảnh lớn trong trong thơ Lor-

ca, nó hoán đổi, làm tiền đề cho nhau và kết thành một vòng tròn vĩnh hằng.

21

Lor-ca đã chấp nhận và tôn vinh cái chết như đã tôn vinh tình yêu và cái đẹp,

vì anh nhận thấy trong cái đẹp đã có bóng hình cái chết, và trong cái chết tình

yêu lại nẩy mầm, cái đẹp được hồi sinh. “Bởi cái chết đã dựng hình tượng

trong cõi sống. Con người chỉ là một loài thiêu thân vô tội bay mãi vào ảo –

tưởng – tình – yêu. Chỉ có trong tình yêu, ta mới bắt gặp được cái chết của

chính mình. Tình yêu cũng mở ngõ cho những lần hóa kiếp. Hãy thử bước

vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết thật vô cùng yêu dấu” – Trịnh

Công Sơn.

“không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng”

Hình ảnh thơ đẹp một cách siêu thực mà thân thiết đến nghẹn ngào trước

đôi mắt đang dần khép lại vĩnh viễn của nhà thơ “Khi tôi chết, hãy chôn tôi

với cây đàn ghi ta” – Lor-ca đã đón trước định mệnh của mình từ lâu lắm, và

đón bằng chính những bài thơ của anh. Tôi chợt nhớ câu chuyện về hai chàng

trai trong Bài ca mộng du của Lor-ca, cứ mải miết “leo mút lan can xanh / lan

can của vầng trăng / nơi nước gieo vang dội”, “để lại một vệt máu / để lại vệt

nước mắt” cũng như tất cả những điều bình dị mà thân thiết nhất với cuộc đời

để được đi đến tận cùng khát vọng tình yêu, cái đẹp cho dù đó cũng là cái chết

của chính mình. Trong khoảnh khắc cuối cùng họ chứng kiến sự hòa quyện

hoàn hảo đến nghiệt ngã của cái đẹp và cái chết.

Bỏ lại “vầng trăng Digan”, “con ngựa trong núi mờ”, trên tay là cây đàn

thơ, khoác tấm áo choàng đỏ gắt Lor-ca bước vào đấu trường trong cuộc tử

chiến với định mệnh – một “con bò cô đơn với trái tim cao thượng”, và sẵn

sàng chết vì “những vết thương bốc cháy như mặt trời”.

“đường chỉ tay đã đứt

22

dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Digan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la…”

Bình thản đến ngạo nghễ, Lor-ca giáp mặt với bạo tàn và cái chết, rồi

hòa vào nó để trở thành bất tử. Như truyền thuyết về loài chim phượng hoàng

lửa - tự hủy rồi tái sinh, Lor-ca ươm những hạt giống của cái đẹp và tình yêu

vào tận đáy sâu cái chết, để từ đó sự sống trổ hoa “li-la li-la li-la” như một “cú

vê ghi ta” ngẫu hứng đầy xao xuyến trong bản đàn bất tử, hay cũng chính là

muôn ngàn đóa hoa sự sống đang bừng nở từ cõi vĩnh hằng, khẳng định sức

sống bất diệt của Chân – Thiện – Mỹ. Giữa lúc còn rất trẻ và tài năng tràn

đầy, F.G.Lor-ca đã trở thành vật hy sinh của cơn cuồng bạo phát xít, anh ngã

xuống mà không hề biết rằng mình được thế giới coi là một trong những

chiến binh đầu tiên chết trên mặt trận chống chủ nghĩa phát xít của toàn thể

nhân loại tiến bộ. Và ngay tại cái nơi, vào thế kỷ trước, kẻ thù đã muốn buộc

bạn đọc quên anh đi - tức Tổ quốc anh, ngày nay những tác phẩm thi ca của

Lor-ca vẫn được tiếp tục tìm đọc:

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

23

Chọn thời khắc bi phẫn nhất trong cuộc đời Lor-ca để cảm hứng trào

dâng. Có thể là số phận bi thảm của Lor-ca nói riêng và thơ ca nói chung?

Hay là cái “tiếng đàn bọt nước” lúc hiện lúc tan như sự tự hủy và tái sinh liên

tục của thơ? Hoặc là khát vọng tự do mà Thanh Thảo cảm nhận được qua thơ

Lor-ca? Vì những điều có thể này, đã khiến bài thơ được viết rất nhanh và hầu

như không phải sửa chữa gì thêm nhờ một lời thơ của Lor-ca dẫn dắt. Dường

như nỗi ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết của chính mình, vốn là điều tương

ngộ của những nghệ sĩ thiên tài trên cõi đời này.

Chết thì chẳng bao giờ có cuộc hẹn hò nào trước. Vậy mà, dù luôn dự

cảm về cái chết, nhưng Lor-ca cũng không ngờ đến một ngày mình bị sát hại

phũ phàng đến vậy:

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Những “tiếng ghi ta” tồn tại ám ảnh và bất tử như khát vọng sống mãnh

liệt của chính chủ nhân. Một “màu nâu” trầm lắng mà bao dung như mảnh đất

quê hương trù phú, trẻ trung như bầu trời mỗi buổi bình minh, rạng ngời như

niềm hạnh phúc trên khuôn mặt cô gái căng tràn sức sống “Màu nâu” ấy nuôi

dưỡng nguồn thơ Lor-ca, làm nên “con người anh kỳ diệu, màu nâu, kêu gọi

sự toàn phúc” (Pablo Neruda).

Từ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”, lúc hiện lúc tan, nhưng tan rồi lại

hiện, nó mong manh nhưng không thể hủy diệt, đến “tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy”, đau đớn, vỡ ra thành màu sắc, đường nét, hình khối. Tất cả là nỗi

ngậm ngùi cho số phận của cái Đẹp, của nghệ thuật đích thực, dù ở thời đại

24

nào, ở nơi đâu cũng song hành với truân chuyên, sóng gió: “Chi phấn hữu

thần liên tử hận. Văn chương vô mệnh lụy phần dư” - Nguyễn Du. Lời thơ

như cung đàn đứt ngang dây dang dở, không tin nổi vào hiện thực nghiệt ngã

đang tồn tại. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái.

Dòng cảm xúc bi tráng như bật ra từ tiềm thức Thanh Thảo bởi sự ám ảnh

khôn nguôi của một ước nguyện mang tên F.G.Lor-ca: – “Bao giờ tôi chết, hãy

chôn tôi cùng cây đàn ghi ta”…

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

Lời thỉnh cầu được chôn “cùng cây đàn ghi ta trong cát”, “giữa những

cây cam và cây bạc hà tốt lành” với một tình yêu và sự hy sinh cao cả dành

cho nghệ thuật của Lor-ca không bao giờ được thực hiện. Bởi nhân loại yêu,

vinh danh và tôn thờ Lorca, chẳng ai có thể nhẫn tâm chôn đi “đàn ghi ta của

Lor-ca” cho dù đó là di nguyện của chính! Hình ảnh “tiếng đàn như cỏ mọc

hoang” đã đặc tả một sự sống âm thầm mà mãnh liệt, không gì có thể hủy

hoại được. “Dù cho mấy chục con người chen chúc nhau trong một vùng chật

hẹp, có tàn hủy đến mấy mảnh đất họ đang giày xéo dưới chân, dù cho họ có

lấy đá lát kín đi để không một mầm non nào hòng chồi lên được, dù cho họ

vặt kỳ hết từng ngọn cỏ mới nhú, dù cho họ đốt than, đốt dầu, hun khói mù

mịt cả bầu trời; dù cho họ phạt trụi cây cối, đuổi hết chim muông, mặc, mùa

xuân vẫn cứ là mùa xuân, ngay cả trong thành phố. Trời nắng ấm, cỏ sống lại,

mọc lên xanh rờn ở khắp nơi” – L. Tolstoi. Phải chăng, trong sâu thẳm tim

mình, Thanh Thảo đã nhận thấy nỗi đau lớn của cuộc đời Lor-ca lại là một nỗi

đau đẹp đến diệu kỳ.

“giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng”

25

Và vì lẽ đó, những câu thơ diễn tả cuộc hành trình định mệnh đối mặt

với cái chết của người thi sĩ thiên tài trở nên bình thản và giản đơn như đời

sống luôn có cái chết hầu cận, cái chết luôn tháp tùng đời sống, cả hai cùng

“nối liền một vòng tử sinh”, coi sự sống và cái chết như “một cõi đi – về”,

quan trọng là sống thế nào cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi

hư không. Con người phải đi đến tận cùng hai cõi sống – chết để làm tan biến

đi những giấc mơ và mộng đời không thực.

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghi-ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la...

“Đường chỉ tay đã đứt” như những gì linh giác Lor-ca mách trước. Và

dòng sông vắt ngang đôi bờ sinh- tử thật mênh mông, không có lấy một cây

cầu, người ta sẽ vứt lại sau lưng tất cả những hệ lụy trần ai, để đi tiếp đến thế

giới vĩnh hằng. Lor-ca đã dứt khoát “ném lá bùa cô gái Di-gan / vào xoáy

nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt”, như ném lại sau lưng

những đớn đau, những khát vọng, những nuối tiếc của đời người, để cây đàn

thơ – “chiếc ghi ta màu bạc” đưa chàng qua dòng sông Hữu Hạn đến bến bờ

Vĩnh Viễn. Bằng cái chết của mình, Lor-ca đã khẳng định Cái Đẹp thật mong

manh nhưng không gì có thể hủy diệt, cũng như tôn vinh sự bất tử của Thơ.

Đàn ghi ta của Lor-ca ngập tràn xúc cảm về một cuộc đời vinh quang và

bi kịch của thi sĩ thiên tài F.G.Lor-ca trong bão táp thời đại, đặc biệt là sự hủy

26

diệt những giá trị Chân – Thiện – Mỹ đích thực của các thế lực bạo tàn. Khi

cái cũ đã mất đi và chưa có chút gì của cái mới để thay thế, con người chỉ là

khả năng của một cái gì sẽ có thật trong tương lai và là một ảo ảnh trong hiện

tại. Đó là lúc con người cảm thấy rõ nhất cái cá nhân – cái tôi của chính mình.

Lor-ca là “một cơ quan của Thiên Nhiên được sinh ra để làm thơ” cho đến

phút giây những viên đạn phát xít xé toang lồng ngực. Người nằm xuống.

Giản dị và bình tâm, bởi “cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong

cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống” –

N. Kusin

2.2. Cô gái Digan – biểu tƣơ ̣ng củ a lối sống con ngƣời Tây Ban Nha 2.2.1. Một số đặc trƣng địa văn hóa của ngƣời Di-gan

Trong văn hóa của người Tây Ban Nha người ta còn nói rất nhiều đến

-gan xuất hiê ̣n thông

tộc Di-gan. Trong thơ Thanh Thảo hình ảnh cô gái Di qua hình ảnh lá bù a hô ̣ mê ̣nh:

chàng ném lá bùa cô gái Di- gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li- la- li-la-li-la

Dân tô ̣c Di-gan còn có tên gọi khác là người Bô- hê- miêng, một tộc

người thích sống lang thang, tự do, mưu sinh bằng múa, hát, xem tướng và

bùa chú [Dẫn theo Ngữ văn 12T1. tr.165].

Về nguồn gốc của tộc ngườ i Di -gan, có rất nhiều bằng chứng di truyền học và ngôn ngữ học cho thấy người Di-gan có nguồn gốc ban đầu từ một

nhóm người nói tiếng Hin-di ở phía bắc Ấn Độ. Nhiều từ ngữ và quy tắc ngữ

pháp trong ngôn ngữ của người Di-gan có những đặc điểm gần như giống y

hệt tiếng Hin-di.

27

Theo một nghiên cứu được tiến hành năm 2012 và công bố trên tạp chí

Cell Biology, các dữ liệu gene được phân tích từ 13 cộng đồng người Di-gan

ở khắp châu Âu cho thấy những người Di-gan rời miền bắc Ấn Độ khoảng

1.500 năm trước. Những người Di-gan hiện sống ở châu Âu đã di cư qua

vùng Balkans bắt đầu từ khoảng 900 năm trước.

Sau khi đi khỏi vùng đất phía bắc Ấn Độ, hầu hết người Di-gan đều di cư

đến một số nước đông Âu như Romani và Bulgari, tổng số người Di-gan chiếm

khoảng 12% dân số khu vực. Người Di-gan cũng sống nhiều ở Thổ Nhĩ Kỳ với

số dân khoảng 2,75 triệu người. Một vài quốc gia khác có người Di-gan sinh

sống bao gồm Nga, Slovakia, Hungary, Berbia, Tây Ban Nha và Pháp.

Mặc dù tập trung chủ yếu ở châu Âu, người Di-gan vẫn được phát hiện ở

những lục địa khác. Theo con số thống kê, có khoảng 1 triệu người Di-gan

sống ở Mỹ và khoảng 800.000 người sống ở Brazil. Tuy nhiên, cho dù ở đâu,

người Di-gan dường như đều không được chào đón.

Dân tộc Di – gan từ ng b ị đàn áp dã man. Không lâu sau khi di cư đến châu Âu, người Di-gan trở thành nô lệ ở nhiều quốc gia và kéo dài tình trạng

nô lệ cho đến thế kỷ 19 tại Romania. Người Di-gan bị giết hại trong suốt giai

đoạn trung cổ tại Anh, Thụy Sĩ, Đan Mạch. Các nước như Đức, Italy và Bồ

Đào Nha từng ban lệnh trục xuất tất cả những người Di-gan.

Về văn hó a , nét đặc sắc và đa dạng của người Di-gan được thể hiện ở phong cách âm nhạc độc đáo mà sau này có những ảnh hưởng nhất định đến

nhạc jazz, bolero, nhạc Flanmico cũng như tác động đến các nhà soạn nhạc cổ

điển như Franz Liszt.

Xã hội Di-gan truyền thống vẫn giữ phong tục kết hôn từ 12 tuổi. Các cô

dâu nhỏ đôi khi trở thành vật trao đổi và buôn bán giữa các cộng đồng người

Di-gan, cảnh báo tình trạng buôn bán người ở châu Âu. Theo một báo cáo của

Tổ chức An ninh và Hợp tác tại châu Âu (OSCE), một số cộng đồng người

28

Di-gan còn có hoạt động buôn bán trẻ em bất hợp pháp. Rất nhiều người Di-

gan tự cô lập để tránh đồng hóa với những cộng đồng người lớn hơn ở các

quốc gia mà họ di cư và sinh sống. Tuy nhiên, điều này khiến trẻ em Di-gan

không được phép đến trường, người Di-gan nói chung không có việc làm ổn

định, không được ở nhà giá rẻ, không được nhận hỗ trợ chăm sóc y tế và các

dịch vụ xã hội khác. Những hệ quả này khiến người Di-gan bị đói, mắc bệnh

tật, lạm dụng thuốc hay trở thành tội phạm. Cùng với nhiều lý do khác, người

Di-gan vẫn bị coi là một nhóm người thiểu số dù sống ở các quốc gia châu Âu

giàu có với các dịch vụ xã hội tuyệt vời. Các quan chức của Italy từ chối hỗ

trợ nhà ở cho các gia đình Di-gan dù họ được sinh ra tại đây. Sau khi các nhà

trại sinh sống của người Di-gan bị chính quyền Pháp đập phá, khoảng 10.000

người Di-gan đã bị trục xuất khỏi nước này trong năm qua. Pháp cũng ban

lệnh cấm một nữ sinh người Di-gan gốc Kosovo đến trường hồi đầu tháng 10.

Trong văn hóa Di -gan, lá bùa thư ờng được làm bằng giấy hoặc vải, có những dấu hiệu đặc biệt, được tin là có phép thiêng trừ ma quỷ, tránh được tai

nạn. Lá bùa tượng trưng là vật may mắn, bình an có lá bùa ở trong người thì đi

đâu yên tâm. Bởi vậy mà hầu hết ở Tây Ban Nha mỗi người đều có mô ̣t miếng

bùa luôn mang theo ở trong người mình. Lá bùa là bi ểu tượng cho sức mạnh

huyền bí của cái đẹp, có thể trấn an và xóa tan mọi hiểm nguy của cuộc sống .

2.2.2. Cô gái Di-gan nhƣ là biểu tƣợng của niềm tin và sƣ̣ thủy chung Lối sống củ a ngườ i Di -gan chủ yếu là lối sống di cư , lối sống phóng

khoáng, thích ca hát nhảy múa cũng bởi vậy mà người dân Tây Ban Nha vào

các ngày lễ hội thì cũng biến mình thành những cô gái Di-gan vui vẻ cùng với

âm nhạc của tiếng đàn ghita, điệu nhảy sôi động Flanmico đã xóa đi những

mệt mỏi u buồn bởi những ngày làm việc mệt nhọc.

chàng ném lá bùa cô gái Di- gan

vào xoáy nước

29

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li- la- li-la-li-la

Trong tâm thứ c ngườ i Di – Gan, lá bùa là vật có phép thiêng để trừ tà và

tránh tai hoạ. Ném “lá bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng đối mặt với hiểm

hoạ và định mệnh trong cuộc đời - hành động làm bật lên tư thế đầy kiêu hãnh

(“xoáy nước” là hiểm hoạ trên dòng sông số phận, “ném lá bùa” là ném sự

bảo vệ về sinh mạng). “Ném trái tim” lại là sự dâng hiến trọn vẹn trong thanh

thản và vô tư những rung cảm trong sáng, chân thành và thiêng liêng nhất của

chính mình - hành động làm bật lên sự cao cả của tấm lòng, sự cao thượng

trong tình cảm. Cả tư thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng đều là dấu hiệu của

cốt cách nghệ sĩ- hiệp sĩ, nó làm tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng Lorca (hai

lần Thanh Thảo dùng từ “ném”. Lần thứ nhất là hành động của một hiệp sĩ

dám coi khinh cái chết bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản

tư tưởng, tâm hồn Lorca hòa vào sự sống bất tử của nhân dân. Lần thứ hai là

hành động của một nghệ sĩ sẵn sàng và tự nguyện dâng trọn tâm hồn mình

cho cuộc đời để ra đi trong yên lặng. Cô gái Digan còn mang biểu tượng của

niềm tin và tình yêu chung thủy có lẽ khi nhắc tới cô gái Di- gan ở đây, Thanh

Thảo muốn nhắc tới hình ảnh người con gái mà Lorca yêu khi còn sống đó là

nàng An- na Ma -ri-a. Sau cái chết của Lorca An - na Ma-ri-a ở vậy, không

một lần lên xe hoa nó cũng thể hiện tình yêu đẹp và chung thủy giữa cô gái

Di-gan và người chiến sĩ Lor-ca. Bên cạnh đó lá bùa cùng với cô gái Digan

như vật linh thiêng bảo vệ người chiến sĩ Lorca trên suốt cuộc hành trình đấu

tranh chống chế độ độc tài của chàng mà cô gái Digan luôn cầu mong tấm bùa

ấy sẽ là vật sẽ đem lại may mắn cho nguời mình yêu.

30

31

CHƢƠNG 3

KHÔNG GIAN VĂN HÓA XỨ SỞ TÂY BAN NHA

3.1. Không gian văn hóa sinh thái

Sinh thái trong tiếng Hi Lạp là “oikos” có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi

sinh sống của mọi sinh vật, trong đó có con người.

Văn hóa sinh thái là khái niệm rộng , hiểu một cách khái quát thì: “Văn

hóa sinh thái là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

ra trong quá trình tác động và cải biến tự nhiên nhằm tạo ra một môi trường

sống tốt hơn” [21,tr.18]

Theo TS Trần Thị Hồng Loan: “Văn hóa sinh thái là tất cả những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy và phát triển trong quá

trình ứng xử với các loài sinh vật khác, nhằm tác động và cải biến tự nhiên vì

sự tồn tại của con người và giới thiệu tự nhiên ở cả hiện tại và tương lai. Nó

được thể hiện thông qua trình độ nhận thức của con người về môi trường tự

nhiên ở cả hiện tại và tương lai. Nó được thể hiện thông qua trình độ nhận

thức của con người về môi trường tự nhiên trong hoạt động thực tiễn của

chính bản thân con người” [21,tr.35]

Trước hết văn hóa sinh thái được hiểu là những sản phẩm vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến tự

nhiên. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển của tự nhiên, con người

cũng giống như vô vàn các loài sinh vật khác trên Trái Đất muốn tồn tại và

phát triển thì không thể không có mối liên hệ nào với tự nhiên. Những nhu

cầu cơ bản nhất của con người như ăn, uống cũng cần có sự tác động đến tự

nhiên. Cùng với sự phát triển của con người, đã có giai đoạn con người quan

niệm rằng mình là bá chủ của muôn loài, là kẻ thống trị giới tự nhiên bằng

những hành động, những tác động vào môi trường tự nhiên một cách thái quá,

32

con người cho rằng tự nhiên phải khuất phục trước trí tuệ con người. Nhưng

không đó là một quan niệm hết sức sai lầm của con người trong mối quan hệ

tự nhiên.

Tuy nhiên không phải mọi hoạt động, tác động của con người cải biến môi

trường tự nhiên đều trở thành giá trị văn hóa sinh thái. Những giá trị văn hóa

sinh thái được hình thành và lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải tương đối ổn định, thể hiện

được bản sắc của dân tộc người thông qua cách ứng xử với môi trường tự nhiên.

3.1.1 Hình ảnh vầng trăng - biểu tƣợng của cái đẹp, sự tự do

Trong không gian văn hóa của mỗi đất nước, mỗi quốc gia, ánh trăng trở

thành cái đẹp không thể thiếu, không chỉ là ánh sáng với vẻ đẹp của tự nhiên,

là sự tồn tại vĩnh cửu mà ở trăng còn là soi sáng cho vẻ đẹp của tâm hồn con

người, rọi sáng, chiếu bóng. Và có lẽ vậy, cho nên trong tác phẩm đàn ghita

của Lorca, hình ảnh vầng trăng của đất nước Tây Ban Nha được tác giả Thanh

Thảo khắc họa rõ nét qua những câu thơ.

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la-li-la-li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

………………………

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

33

Đặt “vầng trăng” ở hai thời điểm khác nhau nhưng Thanh Thảo không

chỉ cho thấy hình ảnh của vầng trăng với vẻ đẹp thông thường vốn có của nó

là “rọi sáng” mà còn bao hàm cả một không gian văn hóa của đất nước Tây

Ban Nha, biểu hiện cho vẻ đẹp của một xứ sở phồn hoa “vầng trăng chếnh

choáng” là sự say đắm của vầng trăng hay của con người với vầng trăng;

“vầng trăng” là hiện thân của cái đẹp. Bên cạnh đó thì vầng trăng còn là hiện

thân, soi bóng cho người nghệ sĩ say đắm với cái đẹp là điều bình thường.

Nhưng ngay cả cái đẹp cũng bị quyến rũ, bị cuốn hút theo những khát vọng và

cảm xúc của nghệ sĩ mới thật là điều kì lạ, độc đáo. Nó chứng tỏ cảm xúc ấy

phải thật sâu sắc và khát vọng ấy phải thật mãnh liệt, thật cao cả. Nếu như

vầng trăng trong tác phẩm được tác giả nhắc tới không chỉ bởi vẻ đẹp mang

tính chất đời thường là của thiên nhiên mà còn là hàm ẩn cho vẻ đẹp của

người nghệ sĩ Tây Ban Nha.

Trong nền văn học Việt Nam, trăng là nguồn cảm hứng vô tận của người

Việt ta, kho tàng văn học bình dân cũng như của biết bao văn nhân, thi sĩ

trong nền văn chương bác học. Ngoài danh từ thông thường là “trăng”, trăng

còn được người Việt ta gọi bằng nhiều tên khác, rất thi vị thì có: gương nga,

bóng nga, bóng nguyệt, nguyệt thiềm, huy hoàng đài các thì có: cung Quảng,

cung Thiềm, cung Hằng, cung Quế. Chúng ta còn tưởng tượng ra các nhân vật

cư ngụ trên mặt trăng như Hằng Nga (hay chị Hằng), chú Cuội, thỏ ngọc,

cùng các giai thoại lý thú về các vị này như: Hằng Nga cùng các tiên nữ múa

hát điệu Nghê Thường vào đêm rằm tháng Tám, chú Cuội ngồi dưới gốc cây

đa nhớ nhà chú ở địa cầu, v.v…

Trong toàn khúc Chinh phụ ngâm ta thấy rải rác đó đây chữ “trăng”, chữ

“nguyệt”. Trăng gợi lên những tình cảm khác nhau của chinh phụ, khi nhớ

thương, khi lo lắng, khi đau đớn, khi mong ngóng chờ chồng ở phương xa,

34

người chinh phụ mượn trăng để gửi gắm nỗi nhớ thương của mình đối với

chồng ở nơi phương xa.

- Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,

Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San.

- Chàng từ đi vào nơi gió cát,

Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?

- Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

-Xông pha gió bãi trăng ngàn,

Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.

Mỗi một bài thơ, một hình ảnh về vầng trăng lại mang một hàm ý riêng.

Nhưng có lẽ là trăng chính là nơi có thể bộc bạch cảm được cảm xúc của

người. mà cũng chính bởi vậy mà vầng trăng chếnh choáng kia không chỉ là

vẻ đẹp thuần khiết vốn có của trăng mà ở quốc gia nào cũng có, vầng trăng ấy

là hiện thân cho số phận của nghệ sĩ - chiến sĩ Tây Ban Nha.

Kết hợp với những hình ảnh vầng trăng, yên ngựa gợi bóng dáng chàng

nghệ sĩ lãng tử cùng tiếng đàn cứ mải miết trong một cuộc lãng du. Câu thơ:

“với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn’’có thể được hiểu là

con người cùng với vầng trăng chếnh choáng, cùng trong trạng thái say sưa

dâng hiến. Đó là hình ảnh một thi sĩ Lor-ca đầy nhiệt huyết say sưa trong sáng

tạo. Nhưng càng nồng nhiệt thì càng dấn sâu vào “miền đơn độc”. Hình ảnh

“vầng trăng” xuất hiện như một biểu tượng gắn liền với những năng lượng

tinh thần đặc biệt. Lần thứ nhất, trong trạng thái “chếnh choáng” rất nghệ sĩ.

Lần thứ hai, lại được gợi ra trong một nỗi đau rất con người mà cũng thẳm

sâu như vũ trụ. Ở câu thơ này, vầng trăng thuộc về vũ trụ bát ngát với ánh

sáng dịu dàng và vẻ đẹp mĩ lệ, đối lập là đáy giếng, nơi tăm tối mịt mùng,

không sao soi thấu được, nơi lưu giữ đau thương và tội ác xấu xa. Hai hình

35

ảnh tương phản này gợi hai thế giới hoàn toàn cách biệt, xa lạ và không thể

nào tìm mối liên hệ. Vậy mà Thanh Thảo đã phát hiện ra mối liên hệ giữa

chúng bằng một liên tưởng độc đáo. Trước hết, “giọt nước mắt vầng trăng”

vừa có thể hiểu là giọt nước mặt của vầng trăng (trăng khóc cho cái chết oan

khuất của Lorca hay chính là vũ trụ đã cảm thấu nỗi đau khôn cùng của con

người), vừa có thể hiểu rằng là giọt nước mắt của vũ trụ rơi vào đáy giếng để

soi sáng sự thật bị chôn vùi. “Đáy giếng” là nơi chôn vùi thân xác Lorca, nơi

cất giấu một bí mật về tội ác của chế độ độc tài, “đáy giếng” cũng là nơi đón

nhận sự toả sáng của mối đồng cảm sâu xa từ vũ trụ.

Từ hai hình ảnh tương phản, gợi hai thế giới hoàn toàn cách biệt, Thanh

Thảo đã có một liên tưởng nghệ thuật hết sức độc đáo. Hình ảnh này, theo lời

gợi ý của nhà nghiên cứu văn học – TS. Chu Văn Sơn, người đọc có thể hiểu

theo nhiều cách: “giọt nước mắt” và “vầng trăng”; “giọt nước mắt” với “vầng

trăng”; “giọt nước mắt” như “vầng trăng”; “giọt nước mắt” của “vầng trăng”;

“giọt nước mắt” là “vầng trăng” đọc theo cách nào thì câu thơ vẫn hay và đẹp.

Tóm lại: Trong không gian văn hóa của mỗi quốc gia hình ảnh trăng

ngoài vẻ đẹp thuần khiết của tự nhiên vốn có thì lại mang ý nghĩa khác, trăng

có thể biểu tượng cho yêu thương cho sự chờ mong. Trăng còn là niềm tin, sự

tự do nhưng dù hiểu theo cách nào thì cũng thể hiện sự tư duy của từng dân

tộc ở các khía cạnh như văn hóa, đạo đức và có lẽ ngay cả trong các tác phẩm

văn học cũng mang trình độ khác nhau.

3.1.2. Hoa lilac - biểu tƣợng cho sự sống của con ngƣời Tây Ban Nha

Trong không gian văn hóa của một đất nước thì hoa có lẽ là không thể

thiếu, không chỉ đơn thuần để ngắm và thưởng thức bằng thị giác hay xúc giác

mà còn là sự cảm nhận từ phía bên trong của người thưởng thức. Mỗi một loài

hoa lại mang một màu sắc và cũng mag một ý nghĩa, biểu tượng khác nhau. Có

loài hoa mang trong mình biểu tượng của tình yêu, của sự thủy chung, của tình

36

yêu vĩnh cửu, của sự hòa bình,hay cả là sự u buồn và đúng như tên gọi thì

những loài hoa này sẽ mang cho mình một màu sắc khác nhau có thể là xanh,

hồng, đỏ, tím, vàng để đúng như ý ngĩa mà con người đặt cho nó.

Minh chứng cho điều đó thì trong bài thơ Đàn ghita của Lor-ca, Thanh

Thảo con người của ông không chỉ am hiểu văn hóa củ a dân tô ̣c mình mà còn . Lấy điểm tựa từ nền văn hóa Tây am tườ ng c ả văn hóa củ a ba ̣n bè quốc tế Ban Nha, Thanh Thảo đã đưa b ạn đọc đến với một đất nước, qua mô ̣t hình ảnh tự nhiên bình dị – Hoa lilac:

những tiếng đàn bọt nước

Tây-Ban-Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la...

Đọc thấy được cả vẻ đẹp của xứ sở của loài hoa thơm ngát hàm ẩn bao ý

nghĩa chỉ qua sự lập lại hai lần trong bài: “li - la - li- la- li- la..…” với câu thơ

không chỉ mang âm thanh du dương của tiếng đàn mà còn mang biểu tượng

cho loài hoa lilac hay còn gọi là hoa Đinh Tử Hương. Loài hoa này thuộc

nhóm Syringa, trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là ống,thuộc họ Ô liu (Oleaceae).

Đinh Tử Hương đến từ vùng đất Ba Tư, nơi nó được gọi là “lilag”. Lilac được

đem vào châu Âu từ thế kỉ 16 và ngay sau đó đem đến Bắc Mỹ bởi những

người hành hương. Đinh Tử Hương là loài cây mọc thành bụi có khả năng

chịu được giá rét hoặc điều kiện khắc nghiệt, nở ra những chùm hoa nhỏ màu

tím nhạt hay màu trắng, có mùi thơm dễ chịu.

37

Hoa Đinh Tử Hương được rất nhiều quốc gia ưa chuộng và trồng, ở mỗi

nơi hoa này có ý nghĩa khác nhau. Người Anh coi Đinh Tử Hương là bông

hoa của xui rủi và bệnh tật,có lẽ người ta liên tưởng tới màu tím u buồn của

nó. Ngạn ngữ cổ ở Anh có câu: "Cô gái nào cầm hoa Đinh Tử Hương sẽ

không bao giờ được mang nhẫn cưới". Đã từng có tục lệ trao tặng một cành

Đinh Tử Hương cho người yêu như một cách nói tế nhị rằng mối quan hệ của

hai người đã chấm dứt. Tục lệ này có lẽ xuất phát từ câu chuyện xa xưa về

một nhà quý tộc người Anh, dụ dỗ một cô gái trẻ ngây thơ rồi sau đó ruồng bỏ

nàng khiến nàng chết vì đau buồn. Những người bạn của nàng đã đặt một

vòng hoa Đinh Tử Hương lên ngôi mộ, kì lạ thay chỉ trong một đêm vòng hoa

đã hóa thành màu trắng và chẳng mấy chốc hoá thành một cây bụi lớn.

Nhiều người dân vùng thôn dã châu Âu thường kiêng kỵ đem hoa Đinh

Tử Hương vào nhà, đặc biệt là đối với các hoa màu trắng vì họ cho là chúng

liên hệ đến cái chết. Tuy nhiên, ngày nay, hoa Đinh Tử Hương ở các nước

Châu Âu có màu tím mang ý nghĩa "xúc cảm đầu tiên của tình yêu" vì không

có gì vui sướng hơn khi xuân về cùng với những bông hoa tử đinh hương xuất

hiện. Những bó hoa thơm nở rộ, Đinh Tử Hương tím khó lòng thoát khỏi sự

chiêm ngưỡng ca tụng của các nhà thơ và những kẻ yêu nhau. Đối với họ,

Đinh Tư Hương tím là biểu hiện của những cảm xúc thú vị, choáng ngợp khi

mối tình đầu bộc lộ một cách e lệ và thơ mộng.

Vì Đinh Tử Hương có hương thơm dịu ngọt và sâu lắng đến độ tinh khiết

nhưng lại rất mau úa tàn nên nó trở thành biểu tượng của tuổi thanh xuân, lứa

tuổi mà khoảng thời gian tươi đẹp và thú vị đó không có tiền bạc nào mua được

cũng như không có quyền lực nào chi phối, thay đổi được. Ở Tây Ban Nha lilac

nở vào mùa xuân, với màu tím trắng được người dân ưa chuộng. Không chỉ bởi

vẻ đẹp thuần khiết giống như bên ngoài của nó mà người dân ưa chuộng (theo

38

truyền thuyết Tây Ban Nha hoa Đinh Tử Hương là sự hóa thân của người con

hiếu thảo để bảo vệ mẹ trước sự tấn công của loài rồng).

Đó chính là loài hoa Đinh Tử Hương. Loài hoa ấy đang làm đẹp cho biết

bao mảnh vườn. Một loài hoa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của người con. Như

vậy có thể nói Đinh Tử Hương đối với người Tây Ban Nha tượng trưng cho

sự hiếu thảo, cho sự sống tiềm ẩn bởi lẽ với tấm lòng hiếu thảo nguời con

như vậy nó sẽ khăc sâu trong mỗi con người nơi đây và đây cũng chính là bài

học cho mỗi người.

3.1.3. Dòng sông - nét văn hóa tâm linh Tây Ban Nha

Trong dòng chảy của văn hóa tinh thần của mỗi đất nước lại có văn hóa

tâm linh vốn song song tồn tại như một ngã rẽ của dòng sông cuộc đời. Nó

còn được ví như một thiếu nữ hay đúng hơn là một nàng công chúa thâm

trầm, gần mà xa, bí hiểm, kiêu sa và khó gần...

Con người vốn có tâm hồn, tư tưởng và tâm linh cùng tồn tại như anh em

ruột thịt họ hàng mà có khi lại không gần nhau, còn xung khắc nhau.

“Tâm linh trước hết là niềm tin linh thiêng của con người vào thế giới vũ

trụ đầy bí ẩn và đời sống xã hội đỏ đen với những ước vọng cao xa” [14, tr.76]

Chừng nào con người còn khát vọng một cuộc sống hoàn mỹ và còn

niềm tin vào thế giới thần linh bởi sức mạnh siêu nhiên vũ trụ mới có thể hóa

giải được khát vọng niềm tin thì chừng ấy còn đời sống tâm linh và cả những

tín ngưỡng dân gian truyền thống.

Đời sống tâm linh của con người, trong đó văn hóa tâm linh vốn là một

yếu tố tích cực, một nét văn hóa đặc sắc có ý nghĩa nhân văn. Nếu đời sống

tâm linh là vàng sa khoáng thì văn hóa tâm linh là vàng thỏi hay sợi chuyền

vàng óng mà bàn tay tài nghệ của người thợ kim hoàn đã tạo nên đặng tô

điểm cho nhu cầu cuộc sống con người.

39

Trong dòng chảy của mỗi đất nước, dòng sông có lẽ là cội nguồn để con

người ta biết mình ở đâu, là quê hương sinh ra mình. Bên cạnh đó dòng sông

cũng mang những nét văn hóa khác nhau của từng đất nước. Dòng sông còn

cho ta trở về với kí ức tuổi thơ, dòng sông là dòng sữa mẹ cho ta nhớ gốc rễ

của mình. Những ca từ chân chất, mộc mạc mà chan chứa bao cảm xúc được

các nhà văn nhà thơ Việt khắc họa rất nhiều về dòng sông thân yêu:

Ai cũng có một dòng sông vắng xa

Trong nỗi nhớ trong kỷ niệm thiết tha

Tôi cũng có riêng tôi dòng sông

Bao mơ ước bên dòng sông nước trong

Bao cay đắng vui buồn trên bến sông…..

(Dòng sông mùa thu - Trần Tiến)

Sông nước hiện diện ở khắp mọi nơi trên mảnh đất Việt Nam và ai cũng

mang trong mình hình ảnh một con sông quê hương, một dòng sông tuổi thơ,

dù có quá nửa đời phiêu dạt vẫn khát khao trở về, trở về để úp mặt vào dòng

sông quê (Nguyễn Trọng Tạo), vào lòng mẹ bao dung vô bờ. Sông nước trong

tâm thức người Việt không chỉ phản ánh môi trường sống, tiến trình lịch sử

của dân tộc mà còn hình thành nên phong tục tập quan, tâm tính, kiểu tư duy,

cách ứng xử của từng con người cụ thể.

Không chỉ về cội nguồn mà dòng sông còn mang nét văn hóa tâm linh.

Điều này được Thanh Thảo phác bóng qua câu thơ:

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

Thông qua hình ảnh số phận của người chiến sĩ Lor-ca ta thấy không chỉ

đối với văn hóa phương Đông cho rằng dòng sông là sự trở về, tìm đến sự yên

40

bình và giải thoát. Tư tưởng này ở xứ sở Tây Ban Nha mộng mơ xinh kia con

người cũng tâm niệm rằng khi người nhà có người mất họ thường đem tro của

người đã mất thả trôi trên dòng sông nghĩa là ra đi trong sự thanh bình, bỏ lại

tất cả và không vướng mắc gì ở trần gian, sự thả trôi như vậy còn mong là

nhanh được hồi sinh ở kiếp sau. Không chỉ am hiểu văn hóa Tây Ban Nha mà

Thanh Thảo còn gắn kết nền văn hóa phương Tây xa xôi với văn hóa phương

Đông. Nếu bài thơ là lời ai điếu nghẹn ngào trước cái chết bi thương của

Lorca thì thông qua điệu lòng ấy chúng ta sẽ bắt gặp được những tiếng nói

quen thuộc, đầy sẻ chia trước sự ra đi đó. Tứ thơ dịch chuyển từ “áo choàng

bê bết đỏ” (văn hóa Tây Ban Nha) đến “đường chỉ tay đã đứt” (cả phương

Đông lẫn phương Tây đều tin vào dấu hiệu thần bí này) và sau cùng là “dòng

sông rộng”, “sang ngang” (gợi triết lí nhà Phật: sang sông là giải thoát khỏi

bến mê, là sự siêu thoát vĩnh hằng, là về với cõi bình yên và thanh thản..)

3.1.4 Đƣờng chỉ tay trong tín ngƣỡng Tây Ban Nha

Bên cạnh những lễ hội sôi động thì văn hóa tín ngưỡng ở Tây Ban Nha

được người dân rất quan tâm. Một lần nữa Thanh Thảo cho độc giả biết đến

nét văn hóa với các hình ảnh đường chỉ tay, lá bùa xuất hiện ở cuối bài thơ

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

Đường chỉ tay có nghĩa những đường rãnh trên bàn tay. Theo tướng số

học, những đường rãnh trên bàn tay mỗi người thể hiện ngững điều bí mật về

tính cách, số phận và sinh mệnh của họ. Đường chỉ tay đứt, ấn định cái chết

được báo trước qua điềm triệu thể hiện trên đường rãnh của bàn tay.

Đường chỉ tay đã đứt, ẩn dụ về số phận nghiệt ngã, ngắn ngủi giữa dòng

sông mà cũng là dòng đời vô tận, các hành động ném lá bùa, ném trái tim, bơi

41

sang ngang, có ý nghĩa tượng trưng cho một cuộc đời giã từ, một sự chọn

lựa.Cũng thấy rằng Thanh Thảo cũng sắp đặt hình ảnh tượng trưng theo lối

tương phản đường chỉ tay >< dòng sông; lá bùa >< xoáy nước; trái tim ><

lặng yên đã đem đến sự chua xót của một kiếp người trong dòng thời gian vô

chung, vô thủy, chua xót cho kiếp sống ngắn ngủi của Lor- ca . Đối diện với

cái chết có ba lần hình ảnh Lor-ca xuất hiện trong vai trò chủ thể của hành

động thể hiện tâm thế, tư thế của một người anh hùng thanh thản, nhẹ nhỏm

đến với cái chết, bơi sang ngang, ném lá bùa, ném trái tim. Động từ bơi kết

nối với dòng sông đặt ra Lor-ca một sự chọn lựa có thể bơi xuôi dòng, bơi

ngược dòng, có thể bơi sang ngang, Lor-ca không xuôi dòng để bám lấy sự

sống, không ngược dòng để vũng vẫy để chống chọi, ông đã chọ con đường

nhanh nhất, ngắn nhất – bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Đối diện

với cái chết chàng dứt khoát, dứt bỏ, ném cả lá bùa hộ mệnh, ném cả trái tim

với những vương vấn, yếu mềm, hệ lụy của trần gian.

3.2. Không gian văn hóa sinh hoạt, lễ hội

3.2.1. Không gian của những trận đấu bò tót

Khi sáng tác bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, Thanh Thảo đã nắm chắc

được những nét văn hóa trở thành biểu tượng không thể tách rời trong đời sống

Tây Ban Nha đó. Viết về sự sống và cái chết trong khoảng khắc không có biểu

tượng nào hơn chuyện tấm áo choàng của đấu sĩ đấu bò tót. Trong bài thơ tác

giả không trực tiếp nhắc tới lễ hội đấu bò tót mà chỉ thông qua hình ảnh:

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la-li-la-li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

42

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt là có thể nghĩ tới lễ hội đấu bò tót và

cũng chỉ có xứ sở Tây Ban Nha kia mới có, chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh

những chú bò tót hung hăng trong các trận đầu bò nhưng ít ai biết nguồn gốc

của lễ hội có một không hai này.

Đấu bò tót là một lễ hội truyền thống của Tây Ban Nha ở thành phố

Pamplona. Hàng năm lại có rất nhiều du khách từ khắp mọi nơi không hẹn mà

gặp tại đây để được tận mắt chứng kiến những chú bò dũng mãnh.

Lễ hội này đã tồn tại được hơn 400 năm và có từ thời Trung Cổ xa xưa,

nguồn gốc của lễ hội mang tính chất tôn giáo.Trước đây, lễ hội kéo dài một

tuần này được tổ chức vào tháng mười hàng năm để tôn vinh vị thánh bảo hộ

San Fermin của thành phố.Trải qua bao nhiêu thời gian, những người tham

gia lễ hội dần dần đã cho thêm những hoạt động khác vào sự kiện này như hội

chợ, ca nhạc, các cuộc thi nhào lộn, đua bò và đấu bò tót.

Thời gian của lễ hội cũng được thay đổi và trở thành lễ hội thường niên

của thành phố Pamploma cũng như của cả đất nước Tây Ban Nha. Từ năm

1952, lễ hội đấu bò đã được chuyển sang tổ chức vào tháng bảy thay vì tháng

mười như trước kia để hợp nhất với một lễ hội khác cũng trong tháng bảy. Từ

đó trở đi, sự kiện này đã trở thành tâm điểm cho mùa hè ở Tây Ban Nha.

Một trong những đặc trưng của lễ hội đấu bò tót là thời gian ngắn ngủi,

sự nguy hiểm và màu đỏ bí ẩn trên tấm vải của người võ sĩ. Những con bò

chạy đằng sau và người tham gia buộc chiếc khăn đỏ biểu tượng xứ Basque

chạy đằng trước, chỉ cách chúng không xa. Họ tìm cách để những con bò tót

đuổi mình trên chặng đường dài 850 mét từ rìa thị trấn tới trung tâm đấu bò

tót. Tại đây, những con bò tót sẽ đối mặt với những người chuyên nghiệp hơn

các đấu sĩ bò tót (matador). Họ chờ sẵn chúng ở sân đấu bò để tham chiến.

Những con bò này có thể nặng tới 625 kg và đều là loại hung dữ.

43

Mọi người thường cho rằng mỗi khi nhìn thấy màu đỏ là bò lại tức giận.

Vì vậy mỗi lần đấu bò, người đấu sĩ cũng cầm mảnh vải đỏ để gây kích động

cho nó. Tuy nhiên đây không phải là sự thật. Trên thực tế, bò không bị kích

động bởi bất kỳ màu sắc nào mà chính do sự di chuyển của vật thể mới làm nó

sôi máu. Do đó, việc bò đuổi người là do sự chuyển động của họ chứ không

phải là màu sắc.

Chính vì thế, đấu bò tót tuy là lễ hội sôi động, hào hứng nhưng cực kỳ

nguy hiểm, những con bò tót dũng mãnh có thể trở thành những con “Bò

điên” bất kể lúc nào. Và mỗi trận đấu kéo dài ít nhất nửa tiếng đồng hồ thì có

lẽ khi chứng kiến tận mắt, bạn sẽ thấy bị hẫng vì không ngờ nó lại diễn ra

nhanh như vậy. Dù được tổ chức trong suốt cả mùa lễ nhưng thông thường

các cuộc đấu bò kết thúc rất nhanh chóng, chỉ vài phút sau khi trận đấu bắt

đầu vào 8 giờ sáng. Thời gian còn lại trong ngày, những người tham dự lễ hội

sẽ tham gia hội chợ và có thể tiệc tùng đến tận đêm.

Lấy hình ảnh áo choàng đỏ gắt để nói lên phông văn hóa của đất nước

Tây Ban Nha nhưng ở đó tác giả còn cho ta thấy từ một hành động được xem

là biểu tượng của lòng dũng cảm, hành động đấu bò được nâng lên mức nghệ

thuật, trở thành “đạo” của người Tây Ban Nha. Ở đó mỗi cú lượn vòng của

chú bò kiêu hùng, một cú khẽ lắc người của đấu sĩ để tránh cú húc chí mạng

từ con bò đang say máu giết chóc đều được ngưỡi xem chiêm ngưỡng như

những vũ điệu nghệ thuật phi phàm, vũ điệu của thần chết, vũ điệu dường như

chỉ gặp trong những giấc mơ.

Nhưng ẩn đằng sau không gian văn hóa ấy chính là nhà thơ đang gợi ra

bối cảnh chính trị ngột ngạt, căng thẳng, đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó

đấu trường của cuộc đấu tranh giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân

dân nói chung, của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh

vực nghệ thuật, đó là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với

44

nền nghệ thuật già nua. Ở đó thể chế chính trị độc tài chính là những con bò

tót hung bạo và đối lại chúng chính là chiến sĩ, kiếm sĩ Lorca.

Màu “đỏ gắt” trong tự nhiên là cộng hưởng của màu áo đỏ với màu nắng

rực cháy trên không gian đầy cát bỏng, trong ý nghĩa biểu tượng lại gợi liên

tưởng đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt- nơi diễn ra những

xung đột gay gắt giữa khát vọng dân chủ và nền chính trị độc tài, giữa khát

vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật già nua.

Với câu thơ ngắn nhưng Thanh Thảo không chỉ cho thấy được lễ hội rực

lửa của trận đấu bò tót của đất nước Tây Ban Nha mà còn biết được tình hình

của Tây Ban Nha thế kỉ XX và tấm lòng của người chiến sĩ Lorca.

3.2.2. Không gian của điệu nhảy Flanmico

Khi nhắc tới lễ hội ở Tây Ban Nha, người ta nhớ tới điệu nhảy Flanmico,

đó là nét văn hóa tiêu biểu của người dân nơi đây. Ở trong bài thơ Thanh Thảo

không trực tiếp nói tới điệu nhảy mà chỉ thông qua câu thơ:

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Ẩn sau đó là điệu nhảy Flanmico sôi động, như một món ăn tinh thần

không thể thiếu đối với người dân Tây Ban Nha.

- Nguồn gốc của từ Flanmico Không có sử sách nào ghi lại nguồn gốc của

từ Flanmico nhưng cũng có một số giả thuyết. Có người cho rằng từ này là một

dạng biến thái của từ felag mengu, trong tiếng ảrập có nghĩa là “người nông

dân u sầu”, ám chỉ hoàn cảnh những người Zitan bị hoàng gia Tây Ban Nha

đuổi đi sau khi các vương quốc hồi giáo thất thủ. Một số giả thuyết khác cho

rằng Flanmico ám chỉ vùng đất Flamand, lãnh thổ nước Bỉ + Hà Lan ngày nay.

Vùng Flamand vào thế kỉ XV đã từng là chư hầu của hoàng gia Tây Ban Nha.

45

- Vũ điệu Flanmico Có thể nói âm nhạc và vũ điệu Flanmico mang đậm

phong cách đặc trưng của nền vǎn hóa Tây Ban Nha hơn bất kỳ loại hình

nghệ thuật nào khác. Trong tiếng đàn guitar réo rắt, những cô gái Tây Ban

Nha xinh đẹp cống hiến cho du khách những điệu múa hết sức nồng nhiệt và

rực lửa.

Cùng các vũ công và nhạc sỹ, nữ đạo diễn sẽ truyền tải cảm xúc thông

qua buổi diễn và đem đến người xem cảm nhận mới nhất về loại hình nghệ

thuật Flanmico. Điệu nhảy mê hoặc, uyển chuyển này được so sánh với điệu

nhảy của những chú chim.

Flanmico là một loại hình nghệ thuật xuất phát từ Andalusia, một khu

tự trị thuộc miền Nam Tây Ban Nha, là sự kết hợp của các hoạt động như ca

hát, nhảy múa, chơi guitar và vỗ tay theo điệu nhạc. Được biểu diễn với nhiều

hình thức khác nhau như những bài hát buồn da diết về cái chết và sự thống

khổ hay những ca khúc nhẹ nhàng hơn ca ngợi tình yêu và hạnh phúc. Từ thế

kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ XIV, dưới sự cai trị của Ả Rập và Tòa án dị giáo

Tây Ban Nha, điệu nhảy Flanmico đã trở thành phương tiện để quần chúng bị

áp bức phản kháng và bày tỏ niềm mong ước, hi vọng của mình.

Flanmico là điệu nhảy sexy của những người phụ nữ Tây Ban Nha với

tà váy bồng bềnh nhiều tầng và cặp đùi thon thả. Là biểu tượng của Tây Ban

Nha và là niềm tự hào của họ nhưng có lẽ người dân vùng Andalusia sẽ là

những người tự hào hơn cả vì điệu nhảy này sinh ra tại chính vùng đất của họ.

Điệu Flanmico là sự pha trộn giữa vũ đạo của dân Digan, kết hợp với

múa Ả Rập và âm nhạc dân gian miền Andalucia. Đặc điểm của điệu nhảy

Flanmico là những tư thế riêng biệt, tiếng búng hay vỗ tay và tiếng giày gõ

nhịp điệu trên sàn nhảy (thường là sàn gỗ). Các động tác của Flanmico được

xem là gắn liền với phong cách và điệu nhảy của người Đông Ấn như xoay

chân ra phía trước, tay tạo thành góc nhọn, các ngón tay mở rộng và gót giày

46

gõ nhịp liên tục. Điệu nhảy cũng sử dụng những nhạc cụ truyền thống của

người Andalusia như cái chũm chọe, trống lục lạc và những bộ trang phục

được thiết kế tỉ mỉ, công phu. Những bộ trang phục đầy màu sắc giúp thu hút

sự chú ý không chỉ đối với từng bước nhảy uyển chuyển mà còn cả giai điệu

du dương của ca khúc làm nhạc nền.

Du khách đến Tây Ban Nha có thể thưởng thức điệu nhảy này ở bất cứ

nơi đâu trên đất nước này. Chủ đề của vũ điệu Flanmico thường là Thượng

đế, phụ nữ và tình yêu. Người nhảy sẽ gõ chân xuống nền và đánh ngón tay

để phát ra tiếng kêu có tiết tấu và thể hiện điệu nhảy sôi động bằng hình thế.

Có thể nói âm nhạc và vũ điệu Flanmico mang đậm phong cách đặc

trưng của nền vǎn hóa Tây Ban Nha hơn bất kỳ loại hình nghệ thuật nào khác.

Trong tiếng đàn guitar réo rắt, những cô gái Tây Ban Nha xinh đẹp cống hiến

cho du khách những điệu múa hết sức nồng nhiệt và rực lửa.

Cùng các vũ công và nhạc sỹ, nữ đạo diễn sẽ truyền tải cảm xúc thông

qua buổi diễn và đem đến người xem cảm nhận mới nhất về loại hình nghệ

thuật Flanmico. Điệu nhảy mê hoặc, uyển chuyển này được so sánh với điệu

nhảy của những chú chim.

Có tới hơn 50 điệu hát khác nhau, gọi là Palos, điệu hát nào cũng bốc

lửa và mãnh liệt. Phần quan trọng nhất trong điệu nhảy này là sự kết hợp giữa

những bước dậm chân dứt khoát, tung váy, tiếng vỗ tay và tiếng gõ giày theo

nhịp điệu. Flanmico thường được biểu diễn trong đám cưới hoặc những sự

kiện quan trọng.

Thời gian tổ chức của lễ hộ i vào tháng 9 hàng năm t ại Tây Ban Nha.

Người ta thường tổ chức những festival quan trọng, đó là ngày hội để thể hiện

những tinh hoa của dòng nhạc Flanmico.

ục. Trang Lễ hội Fla nmico cũng có những qui đi ̣nh riêng về trang ph

phục Flanmico có những đặc điểm riêng giúp phân biệt với những loại trang

47

phục khác. Chiếc váy thường ôm sát ở phần cơ thể và xòe rộng ra ở khu vực

dưới hông hoặc ở đầu gối. Các mảnh vải hình tròn (gọi là godget) được may

thêm vào chiếc váy nhằm tạo hiệu ứng tinh tế. Đôi khi những bộ trang phục

chỉ được may thành hai mảnh, ít rườm rà hơn để phù hợp với những bước di

chuyển phức tạp của điệu nhảy Flanmico. Những chiếc váy có thể dài phủ cả

đôi giày. Hầu hết các bộ trang phục hay váy dành cho bộ môn nghệ thuật

Flanmico đều có những diềm xếp nếp hình tròn hay hình chữ nhật.

Các bộ trang phục Flanmico thường có tay áo dài trên hoặc dưới

khuỷu tay, hoặc có thể dài xuống tới cổ tay. Tay áo thường được may vừa vặn

và cân đối, phù hợp với các cử động tay của vũ công. Đôi khi những diềm xếp

nếp cũng được may thêm ở tay áo để tạo độ phồng. Phần cổ áo được thiết kế

với nhiều hình dáng khác nhau như cổ chữ V, cổ vuông, cổ tròn hoặc cổ tim.

Bên trong có lớp vải lót, giúp các vũ công thấm mồ hôi khi biểu diễn. Lớp vải

lót này chỉ dài đến vị trí của các diềm xếp nếp để tránh cản trở sự di chuyển

của các vũ công.

3.2.3. Đàn ghita và nốt nhạc li la li la la

Có thế nói đàn ghi ta một loại nhạc cụ truyền thống lâu đời ở Tây Ban

Nha.Thanh Thảo một lần nữa lại cho thấy một nét văn hóa nổi bật và truyền

thống có từ lâu đời thông qua một loạt các hình ảnh

48

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Văn hóa Tây Ban Nha gồm nhiều nền văn hóa sôi động, trong đó ảnh

hưởng nhiều từ những nước khác. Âm nhạc truyền thống của Tây Ban Nha có

nguồn gốc từ người La Mã cổ đại, đã đưa âm nhạc của Hy Lạp đến Tây Ban

Nha, và những người Visigoth, người Do Thái, Kitô giáo, và âm nhạc của

người Moor. Các vùng khác của Tây Ban Nha đã phát triển âm nhạc riêng

biệt của họ cùng với các nhạc cụ.

Từ "ghita" (guitar) bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn ghita đầu tiên có

lẽ xuất hiện ở Ai Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải qua

nhiều biến đổi, nó được những đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng

thế kỷ thứ 8 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 14, đặc biệt tại Tây Ban Nha.

Người ta không biết từ guitar xuất hiện ở Tây Ban Nha từ khi nào. Tuy

nhiên, trong suốt thế kỷ 14, có hai loại nhạc cụ mang tên guittara là đàn

guittara Latina và guittara Moisca đã chiếm ngôi vị độc tôn ở xứ sở bò tót

này,là loại đàn phát ra âm thanh từ sáu dây.

Đàn ghita như là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hàng

ngày của người dân Tây Ban Nha. Và cũng chính bởi vậy mà Lor-ca đã mượn

hình ảnh tiếng đàn nói lên suy nghĩ của mình dù có gặp khó khăn.Hình tượng

49

tiếng đàn được xuất hiện được nhiều lần trong bài thơ: Tiếng đàn bọt nước,

tiếng đàn ghi ta nâu, tiếng ghi ta đá xanh, tiếng ghi ta tròn bọt, nước vỡ tan,

tiếng ghi ta ròng ròng, tiếng đàn như cỏ mọc hoang.

Tiếng đàn ghi ta ở đây được thể hiện với vô vàn cung bậc khác nhau.

Khi là âm thanh vui tươi, khi là âm thanh chia cắt, tan vỡ, khi là âm thanh của

cái chết, khi là giai điệu của tình yêu. Tiếng đàn ghi ta là sự hài hoà của rất

nhiều trạng thái cảm xúc. Trước hết đó là cảm xúc của Lor - ca. Cuộc đời

Lor- ca như tiếng ghi ta, những âm thanh, cung bậc của nó khi réo rắt về niềm

yêu đời thiết tha, khi hùng tráng, mạnh mẽ về những ngày tháng chiến đấu sôi

nổi, khi trầm lặng, đau buồn về khoảnh khắc phải chia lìa sự sống. Tiếng “li -

la li - la li - la” như một chuỗi âm buông do người đệm đàn lướt qua hàng dây

những âm thanh ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Hai lần chuỗi âm thanh này

xuất hiện đều tạo nên những điểm nhấn làm nổi bật hình tượng tiếng đàn. Lần

thứ nhất nó vang lên lãng đãng, ngân nga trong một không gian dữ dội của

đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật trên xứ sở Tây Ban Nha. Lần

thứ hai nó vang lên như những dư âm không dứt của tiếng đàn, những dư ảnh

không tan của sự sống. Ở vị trí mở đầu và kết thúc bài thơ, chuỗi âm thanh

này góp phần hoàn tất hình tượng tiếng đàn như một sự sống mãnh liệt mà mơ

hồ, kiêu bạc và lãng đãng, ngân vang da diết mà lặng lẽ để gợi mở những cảm

nhận, hình dung thậm chí là những ám ảnh về một hình tượng khác- hoàn

chỉnh và trọn vẹn hơn hình tượng Lor-ca. Những âm thanh ấy cũng là âm

thanh biểu hiện dòng cảm xúc mãnh liệt của tác giả.Tác giả đã sống cùng với

khoảnh khắc cận kề cái chết của Lor- ca, niềm tiếc thương đau đớn, chua xót,

sự ngưỡng mộ tôn vinh được đan kết hài hòa vào những cung bậc thanh ầm

của tiếng đàn ghi ta. Tiếng ghi ta là ẩn dụ hay nói đúng hơn là bài ca về cuộc

đời, số phận và cái chết của Lor- ca. Cuộc đời của con người ấy như liếng đàn

ghi ta với thanh âm trong trẻo làm lay động lòng người.

50

Màu nâu xuất hiện suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây

đàn, màu nâu của đất đai, màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những

vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li, chàng đã ngước nhìn lên bầu trời

xanh tha thiết “bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời yêu

thương nơi có bóng hình nàng Maria thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm

tĩnh là màu xanh của “tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân

của Lor-ca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của

những vườn cam, màu xanh của thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng

bạch dương nơi Lorca đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối câu vừa là

sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ

đẹp của tuổi trẻ Lor-ca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh.

Thông qua hình ảnh tiếng đàn, Lor-ca người nghệ sĩ đã mươ ̣n tiế ng đàn

để giãi bày nỗi buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân Tây Ban Nha

trước chế độ độc tài phát xít Praco đầu thế kỉ XX.

51

KẾT LUẬN

Đàn ghita của Lorca là một bài thơ hay. Hay ở chỗ không chỉ tạo dựng

chân dung người nghệ sĩ - chiến sĩ Phêđêricô Gaxia Lorca một cách trung

thực và gợi cảm mà còn giúp người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn và

tính cách đậm chất Tây Ban Nha của Lorca. Bài thơ giàu nhạc điệu - kết quả

của sự hòa nhập chất nhạc đặc biệt của thơ Lorca và năng lượng sáng tạo đặc

biệt của hồn thơ Thanh Thảo (những câu thơ không viết hoa đầu dòng tạo

mạch thơ liên tục, xâu chuỗi với nhau để kết nối các biểu tượng vốn rời rạc và

đầy sức ám ảnh; những liên tưởng thơ bất ngờ, phóng khoáng tạo một gợi mở

độc đáo về tiếng đàn ghita của Lorca; những tương phản gay gắt được xây

dựng liên tiếp để làm nổi bật những ấn tượng đậm nét về con người, cuộc

sống và sức sống bất diệt của những giá trị tinh thần mà Lorca tạo nên trong

bối cảnh xã hội và thời đại dữ dội lúc bấy giờ; những hình dung từ được dùng

một cách tình cờ, không cố ý song đều gắn một cách vô thức với số phận và

cuộc đời Lorca để tạo nên một ám ảnh và làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài

thơ...). Nhạc điệu của bài thơ không phải là chất nhạc do âm, vần hay thanh

điệu đem lại là giai điệu của tâm hồn, của trái tim đồng điệu trong lí tưởng và

khát vọng nên khó thấy hơn và cũng dễ ám ảnh hơn.

Đàn ghita của Lorca là tiếng nói tri âm của người nghệ sĩ với một người

nghệ sĩ, một người chiến sĩ với một người chiến sĩ. Sự đồng cảm của Thanh

Thảo và Lorca trong bài thơ vừa cho người đọc hiểu về Lorca vừa cho người

đọc một cái nhìn trọn vẹn hơn về con người Thanh Thảo - một trí thức giàu

suy tư và một người nghệ sĩ tràn đầy nhiệt huyết, lí tưởng Đàn ghita của

Lorca như là sự tiếp nối trọn vẹn cái mạch thơ đã được khơi dòng từ trường

ca Những người đi tới biển.

52

Đàn ghita của Lorca cũng chứa đựng trong nó triết lí về nghệ thuật của

nhà thơ Thanh Thảo: triết lí về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, về

sức sống của nghệ thuật và về mối quan hệ giữa sức sống của nghê thuật với

sự tồn tại về mặt tinh thần của nghệ sĩ trong cuộc đời.

Xuất phát từ quan điểm nhìn nhận về bài Đàn ghita của Lorca là một bài

vừa khó dạy lại khó, mong muốn có sự hiểu sâu sắc , thấu đáo về tác phẩm đã thôi thú c chú ng tôi lựa cho ̣n nghiên cứu đề tài Thơ Thanh Thảo trong nhà trường PT từ góc nhìn văn hóa. Qua khóa luâ ̣n chú ng tôi kỳ vo ̣ng nâng cao sự hiểu biết củ a bản thân về nền văn hóa của đất nước Tây Ban Nha xinh đe ̣p, có thêm nguồn trữ lươ ̣ng tri thứ c để hiểu sâu sắc hơn tác phẩm Đà n ghi ta của Lorca.

53

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Tú Anh (2009), “Lời đề từ trong Đàn ghita của Lor-ca”, Tạp

chí Văn học và tuổi trẻ, số 6.

2.Lại Nguyên Ân (1998), Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh

Thảo, Nxb VH.

3. Lê Huy Bắc chủ biên (2008), Trọng tâm kiến thức Ngữ Văn 12, Nxb

Đa ̣i ho ̣c Quốc gia.

4. Nguyễn Văn Bính chủ biên (2008), Thẩm bình tác phẩm ngữ văn 12,

Nxb Giáo dục.

5. Phan Huy Dũng (2008), “Đàn ghi ta của Lor – ca của Thanh Thảo

dưới góc nhìn liên văn bản”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12.

6. Lê Bá Hán chủ biên (1998), Tinh hoa thơ Mới thẩm bình và suy ngẫm,

Nxb Giáo dục.

7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1998), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

8. Nguyễn Trọng Hoàn (2009), “Trò chuyện với tác giả bài thơ Đàn

ghita của Lor- ca”, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số 3.

9. Hoàng Hưng (1993), “Thơ mới và hôm nay”, Tạp chí Văn học, số 2.

10. Nguyễn Thị Thanh Hương chủ biên (2009), Bình giảng 28 tác phẩm

văn học ngữ văn 12, Nxb Giáo dục Việt Nam.

11. Lê Thị Hường (2008), Chuyên đề dạy Ngữ văn 12. Đàn ghi ta của

Lor-ca, Nxb Giáo dục

12. Phan Trọng Luận chủ biên (2008), Ngữ văn 12 cơ bản ( SGK) - T1, Nxb

Giáo dục.

13. Thiếu Mai (1980), Thanh Thảo thơ và Trường ca, Tạp chí Văn học

tập 2.

14. Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, Nxb Văn học.

15. Nhiều tác giả (1986), Lí luận văn học (3 tập), Nxb Giáo dục.

16. Nguyễn Trọng Tạo (1998) Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hóa

Thông tin.

17. Thanh Thảo (1985), Khối vuông Rubic, Nxb Tác phẩm mới.

18. Thanh Thảo (1987), Bạch Đàn gửi Bạch Dương, Nxb Tổng hợp

Nghĩa Bình.

19. Thanh Thảo (2002), Trò truyện với nhân vật của mình, Nxb Quân đội

nhân dân.

20. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.

21. Dương Mạnh Thắng (2014), Văn hóa sinh thái của người Dao Quần

Chẹt tại vườn quốc gia Ba Vì- xã Ba Vì- huyện Ba Vì- Hà Nội, Khóa luận tốt

nghiệp Đại học, Đại học Văn Hóa Hà Nội.

22. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.