intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh

Chia sẻ: Võ Tấn Quyên | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:102

211
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh đã khái quát hóa những lý thuyết chung nhất về tín hiệu ngôn ngữ nói chung và tín hiệu thẩm mĩ nói riêng, từ đó đem lí thuyết tín hiệu thẩm mĩ vào nghiên cứu trong thơ Xuân Quỳnh, mà cụ thể ở đây là trường từ vựng chỉ hiện tượng tự nhiên như mưa, mây, sấm, biển, sóng,...trong thơ Xuân Quỳnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh

  1. LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm  ơn sâu sắc đến Ths. Nguyễn Thị  Vân Anh người đã   nhiệt tình, tận tâm và chu đáo giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin chân thành cảm  ơn Ban chủ  nhiệm khoa, các thầy, cô trong   khoa Ngữ văn trường Đại học Quy nhơn  đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.  Mặc dù, có nhiều cố gắng để hoàn thành khóa luận hoàn chỉnh nhất. Song  do buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như  thời gian và   kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế  nên không thể  không mắc thiếu sót. Em  rất mong nhận được sự  góp ý của quý thầy, cô giáo để  khóa luận hoàn chỉnh   hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Bình Định, ngày 25 tháng 05 năm 2015 Sinh viên Võ Tấn Quyên
  2. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5 6. Bố cục đề tài..............................................................................................5 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1:                    NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Mối quan hệ bộ ba: tín hiệu ­ tín hiệu ngôn ngữ ­ tín hiệu thẩm mĩ 1.1.1Tín hiệu..............................................................................................6 1.1.1.1  Khái niệm tín hiệu................................................................6 1.1.1.2  Phân loại tín hiệu..................................................................7 1.1.2  Tín hiệu ngôn ngữ...........................................................................9 1.1.3  Tín hiệu thẩm mĩ...........................................................................11 1.1.3.1 Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ................................................11 1.1.3.2  Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ...........................................13 1.1.3.3 Một số vấn đề về tín hiệu thẩm mĩ văn chương..............18 1.2 Những vấn đề cơ bản về trường nghĩ............................................20 1.2.1 Khái niệm về trường nghĩa...........................................................20
  3. 1.2.2 Các tiêu chí phân lập trường nghĩa................................................21 1.2.3 Các loại trường nghĩa....................................................................22 1.2.4 Ngữ nghĩa của trường nghĩa.........................................................23 1.3 Một số vấn đề về ngữ cảnh............................................................24 1.4 Xuân Quỳnh –Tác giả và tác phẩm..................................................25 Tiểu kết...........................................................................................................27 CHƯƠNG 2:             BIỂU HIỆN HÌNH THỨC CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ ĐIỂN HÌNH THUỘC TRƯỜNG NGHĨA  HIỆN TƯỢNG TỰ NHÊN TRONG THƠ XUÂN QUỲNH 2.1 Dẫn nhập..............................................................................................28 2.2 Hình thức ngôn ngữ biểu đạt của các tín hiệu thẩm mĩ...............30 2.2.1 Tín hiệu thẩm mĩ gió......................................................................32 2.2.2 Tín hiệu thẩm mĩ trời ....................................................................35 2.2.3 Tín hiệu thẩm mĩ mưa...................................................................38 2.2.4 Tín hiệu thẩm mĩ biển...................................................................40 2.2.5 Tín hiệu thẩm mĩ sông...................................................................42 Tiểu kết...........................................................................................................44 CHƯƠNG 3: Ý  NGHĨA THẨM MĨ CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ ĐIỂN HÌNH THUỘC TRƯỜNG NGHĨA HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN  TRONG THƠ XUÂN QUỲNH 3.1 Dẫn nhập..............................................................................................46 3.2 Ý nghĩa thẩm mĩ của các tín hiệu: gió, trời, mưa, biển, sông........47 3.2.1 Ý nghĩa của tín hiệu gió..................................................................47
  4. 3.2.2 Ý nghĩa của tín hiệu trời................................................................51 3.2.3 Ý nghĩa của tín hiệu mưa..............................................................59 3.2.4 Ý nghĩa của tín hiệu biển..............................................................63 3.2.5 Ý nghĩa của tín hiệu sông...............................................................68 Tiểu kết...........................................................................................................72 KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................73 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................76 BẢN PHỤ LỤC...............................................................................................79
  5. QUI ƯỚC VIẾT TẮT ­ BTKH: Biến thể kết hợp ­ BTQH: Biến thể quan hệ ­ BTTV: Biến thể từ vựng ­ Cbđ: Cái biểu đạt ­ Cđbđ: Cái được biểu đạt ­ TH: Tín hiệu ­ THTM: Tín hiệu thẩm mĩ ­ THVC: Tín hiệu văn chương ­ THNN: Tín hiệu ngôn ngữ ­ THNNTM: Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ ­ Ts: Tần suất ­ YNBT: Ý nghĩa biểu trưng ­ YNTM: Ý nghĩa thẩm mĩ
  6. 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là chất liệu của văn chương, cũng giống như màu sắc đối với  hội họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc... một ngôn  ngữ thông thường khi đi vào tác phẩm văn chương sẽ được chuyển hóa thành  một tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ – ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu  văn chương (THVC). Tín hiệu ngôn ngữ  (THNN) nói chung và tín hiệu ngôn  ngữ thẩm mĩ nói riêng (THNNTM) vừa là phương tiện, vừa là công cụ, vừa là  thể  chất của tác phẩm văn học. Hệ  thống cấu trúc ý nghĩa của THNN và   THNNTM sẽ góp phần cấu thành nên giá trị tư tưởng, giá trị  nghệ thuật của  tác phẩm văn học.  Nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ tín hiệu học sẽ  giúp đọc giả tiếp cận tác phẩm  ở  một khía cạnh mới, khía cạnh THTM gắn   liền với ngôn ngữ mà tác giả sử dụng, qua đó thể hiện tư tưởng, phong cách   sáng tác của tác giả và cụ thể ở đây là tiếp cận tư tưởng, phong cách của nhà  thơ  Xuân Quỳnh. Vì vậy, chúng tôi chọn đề  tài nghiên cứu: “ Tín hiệu ngôn   ngữ thẩm mĩ  thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh”  khóa luận sẽ  đóng góp những tiền đề  cơ  bản nhất cho việc nghiên cứu về  THTM nói chung và THTM trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng. Hiện tượng tự nhiên là những hiện tượng tồn tại trong xã hội loài người   nhưng các hiện tượng này hoàn toàn không phụ  thuộc vào sự  chi phối và  quyết định của con người, có nghĩa là dù có sự  tồn tại của con người hay   không thì các hiện tượng tự  nhiên vẫn tồn tại. Từ  xưa đến nay, các hiện  tượng tự nhiên luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người, nó như là  người bạn tâm giao, tâm tình của con người trong mọi hoạt động từ lao động   sản xuất đến sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt cộng đồng, xã hội. Mượn các hiện   tượng tự nhiên để nói đến tâm tư, tình cảm của con người, mượn sự đổi thay   của hiện tượng tự nhiên để nói đến sự đổi thay của con người là một chủ đề 
  7. 7 lớn luôn được các nhà thơ, nhà văn từ xưa đến nay quan tâm và đưa vào trong   sáng tác của mình. Xuân Quỳnh cũng là nhà thơ không nằm ngoài quỹ đạo ấy.  Các hiện tượng tự  nhiên là đối tượng phản ánh thường được Xuân Quỳnh   đưa vào trong sáng tác của mình, các hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong thơ  Xuân Quỳnh vừa mang những đặc điểm chung vừa mang những đặc điểm  riêng, độc đáo thể  hiện phong cách, cá tính sáng tạo riêng của Xuân Quỳnh,  đó cũng là lí do thứ hai để chúng tôi lựa chọn đề tài này nghiên cứu với mong   muốn sẽ  tìm hiểu những đặc điểm độc đáo trong phong cách sáng tác của   Xuân Quỳnh khi nhà thơ  đưa cả  một thế  giới tự  nhiên phong phú vào trong   thơ của mình. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một tác giả nữ đã  khẳng định được tên tuổi của mình. Trải qua năm tháng sống và viết, yêu  thương và lao động nghệ thuật hết mình,  Xuân Quỳnh đã để lại cho đời một   di sản văn học thật đáng quý. Ngòi bút của Xuân Quỳnh đã được thử thách qua  thời gian với nhiều chủ đề  khác nhau. Trong đó có những bài thơ tình yêu đạt  đến đỉnh cao. Dù đi vào những vấn đề lớn của đất nước hay trở về với những   tình cảm riêng tư, thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một   tâm hồn phụ  nữ  thông minh, sắc sảo, đầy nữ  tính. Tình yêu và thiên nhiên đi  vào thơ  Xuân Quỳnh rất tự  nhiên và tràn đầy sức sống. Điều này được thể  hiện rất rõ nét qua hệ thống THNN mà nữ sĩ đã sử dụng. Đặc biệt là hệ thống  THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh. Với những lí do trên chúng tôi chọn đề  tài: “ Tín hiệu ngôn ngữ thẩm  mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự  nhiên trong thơ  Xuân Quỳnh” để  tiến hành nghiên cứu và với những kết quả  đạt được, chúng tôi mong muốn   góp thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học nói chung, cụ  thể   ở  đây là tác  phẩm thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh nói riêng từ góc độ tín hiệu học. 2. Lịch sử vấn đề  
  8. 8 Ở  nước ta, hiện nay nghiên cứu văn học dưới góc độ  lí thuyết tín hiệu  học đang rất phát triển thu hút nhiều nhà nghiên cứu , trong đó vấn đề THTM   tỏ ra rất có ưu thế, cũng đã có không ít các công trình, luận án viết về vấn đề  này, trong đó có thể  kể  đến các tác giả  như  Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Trần   Đình Sử, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Lai, Đào Thản, Đái Xuân Ninh, Đỗ  Hữu  Châu, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán… Trong   những   năm   gần   đây,   nhiều   luận   án,   luận   văn   triển   khai   theo  hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định được ý nghĩa thực tiễn của hướng   nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học, đồng thời đã có những đóng góp   quan trọng cho lí thuyết THTM.Việc vận dụng lí thuyết THTM vào nghiên  cứu văn chương phát triển nhanh với những luận án, luận văn của các tác giả:   Nguyễn Thị Vân Anh: Tín hiệu thẩm mĩ trái tim trong thơ  Xuân Diệu (2014),  Lê Thị  Hồng:  Tìm hiểu vấn đề  tín hiệu thẩm mĩ trong thơ  Huy Cận  (1993),  Đinh Văn Thiện: Khảo sát các nét nghĩa biểu trưng của các từ chỉ hiện tượng   thiên nhiên (1993), Trương Thị Nhàn: Tìm hiểu giá trị biểu trưng của một số   từ  chỉ hiện tượng thiên nhiên trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1984).  Những công trình nghiên cứu này đã góp những tiếng nói chung đối với các   vấn đề THTM văn chương. Luận án tiến sĩ của tác giả Trương Thị Nhàn:  Sự  biểu đạt bằng ngôn ngữ  của tín hiệu thẩm mĩ không gian trong  ca dao  cũng  đã vận dụng các cơ  sở  lí thuyết về  tín hiệu, về  hệ  thống, trường nghĩa, về  ngôn ngữ liên hội để  xem xét các THVC. Và đặc biệt Mai Thị Kiều Phượng   với cuốn sách Tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ  văn học (2008) đã có những  đóng góp nhất định vào nghiên cứu mảng THTM, đồng thời là bằng chứng  khẳng định ưu thế của hướng nghiên cứu này. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca nói chung và nghiên cứu ngôn ngữ của nhà  thơ Xuân Quỳnh nói riêng đã có rất nhiều công trình, bài viết : 1. Ngân Hà, (2001), Nữ sĩ Xuân Quỳnh ­ Cuộc đời để lại, Nxb Phụ nữ. 2. Vân Long, (2004), Xuân Quỳnh – Thơ và đời, Nxb Văn hóa thông tin. 3. Vũ Kim Tuyến, (2000), Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình, Nxb Văn  hóa thông tin. 
  9. 9 4. Thùy Trang, (2013),  Xuân Quỳnh – Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn  học. Tuy nhiên hướng nghiên cứu của các công trình trên về  thơ  ca Xuân  Quỳnh  chủ  yếu  dưới   góc  độ  văn  học. Còn  vấn  đề  nghiên  cứu  thơ  Xuân  Quỳnh dưới cái nhìn của THTM thì còn rất hạn chế,  trong đó nổi bật nhất là   công trình  “ Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân Quỳnh” (1990) của  tác giả Lê Thị Tuyết Hạnh có đi sâu nghiên cứu về THTM nhưng chỉ dừng lại   ở  việc khái quát một số  THTM xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh mà chưa đi  sâu tìm hiểu sự biểu hiện của bất kì một THTM cụ thể nào. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Dựa trên những cơ  sở  lí thuyết về  THTM, chúng tôi nghiên cứu tác  phẩm văn học mà cụ thể ở đây là tác phẩm thơ của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh với  mong muốn đóng góp tiếng  nói chung khẳng định thêm những thành công của  thơ  Xuân Quỳnh, một nhà thơ  nữ  tiêu biểu và đặc sắc trưởng thành trong   phong trào chống Mĩ cứu nước. Nhiệm vụ  nghiên cứu của khóa luận tập trung  ở  ba nhiệm vụ  cụ  thể  sau: Trước hết chúng tôi sẽ  hệ  thống hóa các lí thuyết về  tín hiệu, tín hiệu   ngôn ngữ, tín hiệu ngôn ngữ  thẩm mĩ, các nội dung về  trường nghĩa, ngữ  cảnh, mối quan hệ  giữa trường nghĩa với các vấn đề  văn học, ngôn ngữ  học,  tín hiệu thẩm mĩ… Tiếp đến, áp dụng lí thuyết vừa trình bày vào việc miêu tả  các đơn vị  ngôn ngữ  thuộc trường nghĩa hiện tượng tự  nhiên trong thơ  Xuân Quỳnh về  hình thức biểu đạt.   Dựa vào những biểu hiện hình thức của các THTM đã khảo sát và phân  tích ở bước thứ hai, chúng tôi sẽ đi phân tích, làm rõ biểu hiện ý nghĩa của các   THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự  nhiên để  xem chúng vận hành và  biến đổi như thế nào qua mỗi hình thức biểu đạt ở trong thơ Xuân Quỳnh. Từ  đó, chỉ  ra những nét đặc trưng trong phong cách sáng tác của nhà thơ  Xuân  Quỳnh.
  10. 10 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Thơ Xuân Quỳnh có không ít các tín hiệu thẩm mĩ nhưng trong phạm vi   đề tài này, chúng tôi chỉ chọn những  THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự   nhiên làm đối tượng để khảo sát. Tuy nhiên, đây cũng là một trường nghĩa rộng, chứa nhiều tín hiệu thẩm  mĩ. Vì thế, chúng tôi chỉ  tập trung vào những tín hiệu có tần suất và giá trị  thẩm mĩ cao trong số  các THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự  nhiên. Và  những THTM này sẽ  được xác định trên cơ  sở  thống kê, phân tích, đối sánh,  tổng hợp dữ liệu trong 47 bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh. Nguồn tư liệu được sử dụng để khảo sát trong khóa luận:  1.Vân Long, ( 2010), Thơ Xuân Quỳnh ( tuyển chọn), Nxb Văn hóa thông  tin. 2. Thùy Trang, (2013), Xuân Quỳnh – tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học. 3. Mạnh Linh. (2014), Thơ Xuân Quỳnh, Nxb Văn học. 5. Phương pháp nghiên cứu Để  giải quyết nhiệm vụ  nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi sử  dụng  các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1 Phương pháp miêu tả, phân tích: chúng tôi sử dụng phương pháp  này để  miêu tả  các hình thức ngôn ngữ, các bình diện nghĩa; phân tích ngữ  nghĩa, ngữ cảnh; phân tích mối quan hệ biện chứng giữa các mặt của từng đơn   vị, giữa các bình diện, đặc biệt để tìm sự đồng nhất và đối lập giữa các nghĩa  trong hệ  thống và nghĩa trong hoạt động, nghĩa từ  điển và nghĩa nghệ  thuật  của các tín hiệu thẩm mĩ đang nghiên cứu. 5.2 Các thủ pháp thống kê, phân loại:  Chúng tôi sử dụng các thao tác  này nhằm thống kê tần số  xuất hiện của các THTM thuộc trường nghĩa hiện   tượng tự  nhiên trong thơ  Xuân Quỳnh trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của   chúng – dưới dạng hằng thể, biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất  hiện với các THTM này. Từ đó, tiến hành nhận diện và phân loại các câu thơ  có chứa tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên­ đối tượng   chúng tôi nghiên cứu.
  11. 11 6.Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khóa luận của chúng tôi được chia  làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ   điển hình  thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh. Chương 3:  Biểu hiện ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc  trường nghĩa hiện tượng tự trong thơ Xuân Quỳnh. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Mối quan hệ của bộ ba: tín hiệu – tín hiệu ngôn ngữ ­ tín hiệu  thẩm mĩ 1.1.1 Tín hiệu 1.1.1.1 Khái niệm tín hiệu Trước hết, như  ta đã biết, THTM vốn là một loại TH cho nên nó cũng  mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì? Khái niệm TH được nhắc đến lần đầu tiên trong học thuyết về  THNN   của F.de Sausre. Theo ông, TH có hai mặt cái biểu đạt (cbđ – hình thức vật   chất cảm tính) và cái được biểu đạt (cđbđ – nội dung ý nghĩa). Hai mặt này “  gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là có cái kia” [37, 12]. Sau này,   Ch.S.Pierce đã đưa thêm vào cấu trúc nhị  diện nhân tố  thứ  ba là cái lí giải   (interpretant). Nhưng phải đến khi Ch.W.Morris hệ thống hóa và xây dựng một  lí thuyết tổng quan về  TH thì ba chiều của TH mới thực sự  có ý nghĩa trong   nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học và đặc biệt với ngành tín hiệu hoc. Cả  Ch.W.Morris cũng như  Ch.S.Pierce chia ra ba chiều của tín hiệu: thứ  nhất là  chiều kết học nghiên cứu các TH trong mối quan hệ với các TH khác, thứ hai  là chiều nghĩa học nghiên cứu các TH trong mối quan hệ với các sự vật ở bên  ngoài hệ  thống TH, thứ ba là chiều dụng học nghiên cứu các TH trong những   mối quan hệ với người sử dụng nó.
  12. 12 Theo F.Guiraud: “ Một TH là một kích thích mà tác động của nó đến cơ   thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác” [17,51]. Theo cách hiểu như  vậy thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả năng gợi ra trong kí ức của con  người một hình ảnh nào đó thì đều được coi là TH cả, không phân biệt nguồn  gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay không .  Ví  dụ:  Chuồn chuồn bay thấp, hoặc con cóc nghiến răng, theo quan  niệm trong dân gian của người Việt Nam ta sẽ  có khả  năng dự  báo về  ngày   hôm sau trời có mưa, một hồi chuông, tiếng kẻng, tiếng trống báo hiệu giờ ra   chơi đã đến. Câu hỏi trong câu ca dao sau là lời tỏ tình tế nhị, kín đáo: Đêm trăng anh mới hỏi nàng: Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Với câu trả lời nhưng cũng là lời đồng ý tế nhị cho lời tỏ tình:  Chàng hỏi thì thiếp xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. Theo A.Schaff TH được hiểu: “ Một sự vật, vật chất hay thuộc tính của   nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành TH nếu như trong quá trình giao tiếp,   nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ để   truyền đạt một tư  tưởng nào đó về  thực tế, tức về  thế giới bên ngoài hay về   những cảm thụ nội tâm” [17,51]. Như vậy, A.Schaff chỉ thừa nhận là TH khi nó   mang những chức năng giao tiếp được con người sử  dụng nhằm trao đổi tư  tưởng, tình cảm của mình trong đời sống. Dù TH được hiểu theo nghĩa hẹp hay rộng thì các ý kiến đều thống nhất   cho rằng TH là khái niệm quan hệ không phải là khái niệm tự thân, muốn một   cái gì đó trở thành TH thì nó phải nằm trong một hệ thống nhất định và có mối  quan hệ  với các sự  vật khác. Để  thuận tiện trong quá trình nghiên cứu, chúng  tôi lấy định nghĩa rộng của F.Guiraud làm xuất phát điểm bởi vì nó phát hiện  ra những đặc trưng TH học của các TH ngôn ngữ. Kế  thừa thành quả  của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả  Đỗ  Hữu  Châu đã chỉ ra những đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một TH, gồm các  nhân tố sau: thứ nhất, nó phải có một hình thức cảm tính ­ Tức là TH phải cho 
  13. 13 phép con người cảm nhận được bằng các giác quan thông thường.Thứ hai, nó  phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó hay còn gọi là phải  mang một nội dung ý nghĩa “một TH là một khái niệm về quan hệ giữa cbđ và  cđbđ (ý nghĩa)”. Thứ  ba, TH phải được nhận thức bởi một chủ  thể  nào đó.   Thứ tư, TH phải nằm trong một hệ thống TH nhất định. 1.1.1.2 Phân loại tín hiệu Các nhà nghiên cứu TH học đã phân các TH thành các loại khác nhau:  Ch.S.Pierce phân chia TH thành ba loại chính: Hình hiệu (icons), chỉ hiệu  (index), và ước hiệu (symbol) dựa theo tiêu chuẩn quan hệ  giữa cbđ và cđbđ  mà F.de Saussure đã đưa ra. Theo đó, đại đa số THNN là thuộc loại ước hiệu,   loại TH mà mối quan hệ  cbđ và cđbđ là hoàn toàn võ đoán, không giải thích  nguyên do. Loại TH này sẽ mất tư cách là TH nếu không có người lí giải. K.Buhler   chia   các   TH   thành:  symbole  (TH   chỉ   ra   sự   vật,   đối   tượng),  symptome (TH bộc lộ trạng thái tâm sinh lí, tư tưởng, tình cảm của người nói),  signal (TH gây tác động tâm sinh lí cho người nghe). Morris dựa vào mối quan hệ giữa TH với các loại sự vật mà chúng biểu  thị  để  chia TH thành hai loại: chỉ  hiệu (Single indexes) và định hiệu (Singnes  caracterisant). Tiếp theo, ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và  biểu trưng (symbole). A.Chaff xuất phát từ cơ sở chỉ xem TH gắn liền với chức năng giao tiếp,  nên ông tiến hành phân loại  TH như sau: đầu tiên ông phân TH thành TH  nhân  tạo và TH tự  nhiên (TH đích thực). TH tự  nhiên lại chia thành TH hư và TH  thực có khả năng bộc  lộ nhất định. TH thực có khả năng bộc lộ nhất định lại  được chia thành:  lệnh hiệu  và  định hiệu. Các  định hiệu  lại được chia thành:  định hiệu đích thực và Symbole. P.Guiraud từ năm 1950 đã đưa ra bảng phân loại TH. Ông phân chia TH   dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con người. Trong đó tác   giả  quan tâm tới những TH biểu hiện (TH không giao tiếp). Những TH biểu  hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công   cụ  giao tiếp mà là công cụ  để  phản ánh, miêu tả  thực tế  khách quan. Ví dụ 
  14. 14 như bức  ảnh, bản nhạc… chúng là sản phẩm của các loại hình nghệ  thuật và  thuộc đối tượng nghiên cứu của nghệ  thuật học P.Guiraud tiếp tục phân chia  TH thành TH tự  nhiên và TH nhân tạo. Trong TH nhân tạo ông lại phân chia  thành TH giao tiếp và TH không giao tiếp. Ông còn dựa theo đặc tính thể chất  của TH mà phân chia TH thành các TH  thị  giác, TH  thính giác, TH  xúc giác.  Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành TH  thứ  cấp (còn gọi là kí hiệu) và TH sơ  cấp… P.Guiraud cũng chỉ  ra sự  xâm nhập  lẫn nhau của các loại tín hiệu. Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại TH theo quan điểm  riêng của mình. Theo ông, TH là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các   phương diện khác nhau có thể  định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Mỗi   lần vận dụng một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu   chí phân loại mà Đỗ Hữu Châu đưa ra là: 1/ Dựa vào đặc tính thể chất của cái  biểu hiện. 2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu. 3/ Dựa vào mối quan hệ  giữa   cbđ và cđbđ. 4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu. Dựa vào mặt thể chất của TH có thể phân chia ra được các loại TH như:   TH màu sắc, TH âm thanh…. Trong đó, THNN được coi là một loại TH đặc  biệt. 1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ  Trên cơ  sở  lí thuyết TH học, mỗi TH gồm có hai mặt là cbđ (tức hình  thức vật chất cảm tính) và cđbđ (tức nội dung ý nghĩa) F.de Saussure xác định  THNN như sau: “THNN kết liền thành một không phải một sự vật với một tên   gọi mà là một khái niệm với một hình  ảnh âm thanh. Hai yếu tố  này gắn bó   khăng khít với nhau và đã có cái này sẽ  có cái kia. Trong đó khái niệm được   gọi là cái được biểu đạt (cđbđ) và hình ảnh âm thanh được gọi là cái biểu đạt   (cbđ)” [30,121]. Nó như hai mặt của một tờ giấy, hễ mất mặt này thì mặt kia   không thể tồn tại, hay nói cách khác, THNN là một tổng thể hai mặt không thể  tách rời. Từ đó, F.de Saussure đã chỉ  ra hai đặc điểm của THNN đó là tính võ  đoán và tính hình tuyến của THNN. Tính võ đoán của F.de Saussure được hiểu   là mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ là hoàn toàn không có một lí do xác đáng nào.  
  15. 15 Nghĩa là nếu không có cbđ này thì có thể sử dụng cbđ khác làm vỏ cho các đơn  vị ngôn ngữ mà người ta vẫn có thể hiểu nếu như cấp cho chúng các thế  đối  lập cần thiết nhằm xác định giá trị của đơn vị đó. Ch.S.Pierce cũng có quan niệm tương tự. Ông cho rằng đại đa số THNN  thuộc loại  ước hiệu, loại TH mà mối quan hệ  giữa cbđ và cái cđbđ là hoàn  toàn võ đoán, không giải thích được nguyên do. Loại TH này sẽ mất tư cách là   TH nếu không có cái lí giải. F.de Saussure chỉ rõ rằng : “ Thường người ta không nói bằng TH riêng   lẻ, mà bằng từng nhóm TH, từng khối có tổ  chức, vốn cũng là TH ” [26,221].  Sau này, Ch.W.Morris cũng đồng tình với F.de Saussure về quan điểm cho rằng  tất cả  các tín hiệu đều nằm trong quan hệ  với các tín hiệu khác và quy định   lẫn nhau. Do đó, các tín hiệu luôn nằm trong một hệ  thống nhất định. Ngôn   ngữ là một loại TH đặc biệt, nó lập thành một hệ thống với những cấp độ  và   quan hệ đặc thù của ngôn ngữ. Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là  hệ thống tín hiệu sơ  cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật   chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người tạo ra. Ông đặc   biệt lưu ý vấn đề  chức năng và đặc tính đa chức năng của các THNN so với   các hệ  thống TH nói chung và TH mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu   như các TH khác ở từng hệ thống chỉ thực hiện được một chức năng TH học  thì ngôn ngữ không chỉ thuần túy mang chức năng giao tiếp mà đồng thời còn  là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để  duy trì sự  sống của con người và   còn mang chức năng thi pháp… Trong đó, chức năng giao tiếp được coi là chức  năng xã hội quan trọng nhất của ngôn ngữ. Vì vậy, THNN vừa là TH giao tiếp, vừa có thể  là TH nhận thức, TH   biểu hiện… Riêng đối với chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức   năng khác nhau có liên quan đến các nhân tố  khác nhau của hoạt động giao  tiếp: chức năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng  cú học.
  16. 16 Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định  ý nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang ý nghĩa ( tức các đơn  vị  có hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ  hay một câu  nói nào đó có thể  vừa mang những thông tin về  sự  vật, hiện tượng được nói  đến, vừa bộc lộ  những đặc điểm về  địa phương, về  nghề  nghiệp, về  trạng   thái tâm lí của người nói… Chẳng hạn, khi đọc những câu thơ  sau trong bài   thơ  Việt Bắc của Tố Hữu, chúng ta có thể biết nhà thơ  đang đề  câp đến các  địa danh của vùng núi rừng Tây Bắc: Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Ở  bất kì cấp độ  nào, mỗi THNN đều phải bao hàm một hình thức ngữ  âm (cbđ) tương  ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbđ) và giá trị  của THNN   cũng do những mối quan hệ  thuộc hệ  thống ngôn ngữ  quy định. Vậy những  mối quan hệ hệ thống của THNN là những quan hệ nào? F.de Saussure đã nêu  hai loại quan hệ  chung nhất: thứ nhất, quan hệ  đồng nhất – đối lập và quan  hệ khác biệt. Thứ hai, quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến [30,145]. Trong ngôn ngữ  học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề  cập đến các  loại quan hệ  như: quan hệ  tôn ti (giữa các cấp độ  của ngôn ngữ) và quan hệ  hiện thực hóa (giữa bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng  và hiện dạng). Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và  liên tưởng (hay trực tuyến), điển dạng (hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến  thể) trong hệ  thống ngôn ngữ  sẽ  là những cơ  sở  lí thuyết quan trọng giúp  chúng ta lí giải về  các THNN trong quá trình hoạt động thực hiện các chức   năng của ngôn ngữ trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp   của văn học) có liên quan đến những nhiệm vụ mà đề tài này cần giải quyết. Chính vì vậy mối quan hệ  giữa hai mặt của THNN đã được Đỗ  Hữu   Châu đặt trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng xã  
  17. 17 hội của ngôn ngữ được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ  hệ  thống; qua  những mối quan hệ ngang (tuyến tính, ngữ đoạn, tiếp đoạn cú đoạn: khả năng  kết hợp của các yếu tố  ngôn ngữ  với nhau để  tạo thành một đơn vị  cao hơn)   và mối quan hệ giữa các cấp độ của hệ thống ngôn ngữ. Trong các kết hợp cụ  thể, mối quan hệ  giữa hình thức ngôn ngữ  (cbđ) và ý nghĩa (cđbđ) rất khác  nhau.  1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ  1.1.3.1 Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ Ở  mỗi ngành nghệ  thuật đều có một cách thức riêng để  thể  hiện. Nếu   tác phẩm hội họa là sự phô diễn của những đường nét, màu sắc, tác phẩm âm   nhạc là sự  hòa thanh, tác phẩm điêu khắc là cách tổ  chức các hình khối… thì  tác phẩm văn học là “ nghệ  thuật” tổ  chức ngôn từ. Bước vào thế  giới nghệ  thuật, các TH thông thường chuyển hóa thành THTM, mang những đặc thù của  nghệ thuật. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu tác phẩm văn chương, thuật   ngữ   THTM   cũng   chính   là   TH   ngôn   ngữ   thẩm   mĩ   (THNNTM).   Khái   niệm  THNNTM khác với TH và THNN ở chỗ THNNTM vừa là quan hệ, vừa là khái  niệm vật tự thân có nghĩa là bản thân nó đã mang tính thẩm mĩ. Để  thuận lợi   cho việc nghiên cứu chúng tôi thống nhất tên gọi ngôn ngữ  thẩm mĩ cũng là   THTM. Từ  sự phân tích ý  nghĩa thực sự  của phương tiện nghệ thuật, Đỗ  Hữu  Châu đã có kiến giải cụ  thể  về  THTM ngôn ngữ:  THTM là phương tiện sơ   cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ ­ THTM, cú pháp   – THTM. THNN tự  nhiên trong văn học chỉ  là hình thức – cbđ của THTM   [13,18]. Để  trả  lời cho câu hỏi: Thế  nào là một THTM? Đỗ  Hữu Châu chủ  trương căn cứ vào sự  tương  ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc thế  giới hiện thực:  THTM phải tương  ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong   thế  giới hiện thực. Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay một  nỗi buồn nào đó[12,576].
  18. 18 Từ  đó có thể  hiểu THTM chính là toàn bộ  những yếu tố  hiện thực,   những chi tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm  vì mục đích biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định. Từ những điều đã được trình bày trên đây, để hiểu rõ mối quan hệ giữa  THNN và THTM, ta có sơ đồ sau:                           Cbđ             Âm thanh                         Cbđ TH ngôn ngữ                              Cđbđ           Ý nghĩa ngôn ngữ THTM                 Cđbđ               Ý nghĩa thẩm mĩ Từ  sơ  đồ  này, có thể  thấy rằng cả  cái hợp thể  cbđ và cđbđ tạo thành   THNN đã trở thành cbđ cho một cđbđ mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM trong   tác phẩm văn học. Chính vì thế, trong văn học không được đồng nhất phương  tiện văn học THTM và THNN thông thường được sử dụng làm chất liệu của   tác phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết   định của chủ  thế  sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch.Bally, giữa cách  dùng ngôn ngữ  hàng ngày và ngôn ngữ  của nhà văn có một vực thẳm không  vượt qua được [21,9]. Điều đáng chú ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong ngôn   ngữ tự nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong tín hiệu  thẩm mĩ lại luôn có lí do và là lí do liên hội. THNN tự  nhiên muốn trở  thành  THTM trong tác phẩm nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa   nghệ thuật mang tính biểu trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định. Như  vậy có thể  thấy, trong ngôn ngữ  văn chương THNNTM cũng tồn   tại ba mối quan hệ chính: quan hệ giữa các TH với nhau trong ngôn ngữ, quan  hệ giữa các TH trong ngôn ngữ văn học với thực tế, quan hệ giữa TH với các  nhân vật giao tiếp trong tác phẩm ngôn ngữ văn học.
  19. 19 Từ sự phân tích như trên thì trong nội dung của khóa luận này, chúng tôi  thống nhất sử  dụng khái niệm THTM của Bùi Minh Toán: THTM là loại TH   có chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc   về cái đẹp. Nó cũng như mọi loại TH khác, cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái   được biểu đạt nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ [25,1].   1.1.3.2 Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ a. Đặc tính về  nguồn gốc: việc chỉ  ra nguồn gốc của THTM là bước  đầu để  xác định hai phương diện quan trọng của nó là: mặt thể  chất và mặt  tinh thần. THTM được sinh ra từ  nhiều nguồn gốc, trước hết là từ  thế  giới hiện   thực đa sắc màu với những sự  vật, hiện tượng phong phú tồn tại một cách   hiển nhiên không phụ  thuộc vào ý thức con người và một thế  giới mang màu   sắc chủ  quan rõ nét đó là thế  giới tâm trạng – thế  giới của cảm xúc, suy tư,   những buồn vui, trăn trở… được người nghệ  sĩ lựa chọn vào tác phẩm nghệ   thuật của mình nhằm mục đích thẩm mĩ. THTM còn có nguồn gốc từ những tưởng tượng logic hoặc phi logic của  người nghệ  sĩ. Đó là phút thăng hoa nghệ  thuật, phút xuất thần của những   điều phi thường, kì diệu mà đôi khi nếu lấy những tri thức của đời sống đời  thường khó lòng lí giải nổi. THTM còn có nguồn gốc từ  các sự  kiện ngôn ngữ như  từ  địa phương,  đoạn đối thoại , những yếu tố    ngôn ngữ  như  âm, vần, thanh;  cấu trúc ngữ  pháp câu; cách trình bày ngôn bản... trong tác phẩm. b. Đặc tính về cấp độ: tùy theo từng nhà nghiên cứu mà quan điểm về  phân chia cấp độ THTM cũng khác nhau. Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai   cấp độ cơ bản: Cấp độ cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, hiện tượng thuộc thế gi ới   khách quan: Biển, mặt trời, con thuyền... Đó là những THTM đơn hay THTM  cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở cấp độ cao hơn trong   tác phẩm. THTM đơn được tạo nên bằng các từ  hay cụm từ, có thể  là những  từ ngữ, thành ngữ, điển cố hay những hình ảnh đơn lẻ, mang ý nghĩa thẩm mĩ. 
  20. 20 Đỗ  Hữu Châu viết : “ Phương tiện sơ  cấp của văn học là tín hiệu thẩm mĩ.   Rồi   cái   THTM   đó   được   thể   hiện   bằng   các   tín   hiệu   ngôn   ngữ   thông   thường...”[11,564] Cấp độ xây dựng (TH phức): là loại THTM ứng với nhiều sự vật, hiện   tượng được xây dựng từ  những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức   được tạo ra để  biểu hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn  chương. THTM được  chúng tôi nghiên cứu  là những TH đơn. Mỗi TH  ứng với   một yếu tố hiện thực ( yếu tố của các hiện tượng tư nhiên như biển, núi, mây,   mưa, gió...) và được cụ  thể, đa dạng, phức tạp hóa bằng các hình thức ngôn   ngữ nhất định. Nghiên cứu các hình thức biểu đạt này sẽ là cách thức để phát   hiện ra các ý nghĩa thẩm mĩ của các THTM. c. Đặc tính tác động: đặc tính này có cơ sở từ bản chất của TH như ý  kiến của P. Guiraud mà chúng tôi đã từng dẫn  ở  trên: “   Một TH là một kích   thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích   khác”.  Hiệu quả tác động của THTM trước hết là hình thành nên những hình  tượng nghệ  thuật. Như  vậy có thể  hiểu, hình tượng nghệ  thuật, đó là sản  phẩm của thế  giới tinh thần được THTM làm đầy lên trong thế  giới chủ  thể  tiếp nhận. Đặc tính tác động của THTM còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp   nghệ thuật mang tính đối thoại hoặc đặc thù của nó. Khi đó THTM là TH đặc  biệt có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới, tư tưởng của chúng ta, do đó nó   trở  thành yếu tố  kích thích của sự  điều chỉnh sống động những tâm trạng xã  hội khác nhau.[24,17] d. Đặc tính biểu hiện: đây là đặc tính quan trọng liên quan đến sự hiện  thực hóa chức năng chung của nghệ  thuật – đó là chức năng phản ánh hiện  thực. THTM phải mang nội dung hiện thực nhất định, phải gắn với hiện thực.   Điều này có nghĩa là mỗi THTM ứng với sự vật hiện tượng thuộc thế giới vật   chất hay tinh thần.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1