TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN BÍNH
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
NGUYỄN THỊ HIỀN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN BÍNH
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ HIỀN
HỒ THỊ XUÂN QUỲNH NGUYỄN THỊ HIỀN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM TẠ
Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi đã gặp không ít khó khăn, nhưng nhờ
sự động viên chân thành và giúp đỡ tận tình từ thầy cô giáo và bạn bè mà tôi đã
vượt qua tất cả khó khăn đó.
Đặc biệt tôi xin ghi lại lòng cám ơn thật chân thành đến với cô Hồ Thị Xuân
Quỳnh với tư cách là một người cô, người hướng dẫn, đã tận tình hướng dẫn gợi mở
cho tôi rất nhiều thắc mắc, băn khoăn để định hướng cho tôi những hướng đi và
phương pháp thật cụ thể và đơn giản nhất trong quá trình viết tiểu luận này. Bên
cạnh đó tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo và anh chị trong Thư viện Thành phố
Cần Thơ, Trung tâm học liệu trường Đại học Cần Thơ, Thư viện Khoa Sư Phạm
trường Đại học Cần Thơ, Thư viện trường Đại học Võ Trường Toản… cảm ơn gia
đình, bè bạn đã nhiệt tình hỗ trợ, động viên tôi rất nhiều thứ trong quá trình hoàn tất
luận văn.
Sinh viên thực hiện
i
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
ii
Nguyễn Thị Hiền
PHIẾU ĐÁNH GIÁ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Giảng viên hướng dẫn)
--------------------
1. GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ....................... Hồ Thị Xuân Quỳnh ........................
2. SINH VIÊN THỰC HIỆN: ................................ Nguyễn Thị Hiền ..........................
MSSV: ................ 0956010196 ... .................... Khóa ..................... 02 ...........................
3. TÊN ĐỀ TÀI: Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám 1945
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
1. Đánh giá chung quá trình làm luận văn tốt nghiệp:
1.1. Chuyên cần: .........................................................................................................
1.2. Thái độ: ................................................................................................................
1.3. Khác:....................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2. Đánh giá luận văn:
2.1. Đặt vấn đề (theo 5 bước): ....................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2.2. Nội dung chính: ...................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
iii
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2.3. Chú thích, thư mục: .............................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2.4. Hình thức trình bày:.............................................................................................
2.4.1. Dung lượng (trang): ....................................................................................
2.4.2. Khuôn khổ: .................................................................................................
2.4.3. In ấn: ...........................................................................................................
2.4.5. Chính tả, ngữ pháp: ....................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
3. Đánh giá, xếp loại: ....................................................................................................
Đánh giá: ..............................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
Xếp loại: ...............................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
……………, ngày………tháng………năm 2013
Giảng viên hướng dẫn
iv
(Ký và ghi rõ họ tên)
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Luận văn có 3 chương chính:
Chương 1: Nêu một số vấn đề chung về tác giả Nguyễn Bính. Ở chương này bao
gồm hai nội dung chính sau:
- Thứ nhất: Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính,
cũng như quan niệm về thơ và một vài nét đặc điểm trong thơ Nguyễn Bính.
- Thứ hai: Nêu lên cơ sở lý luận về giọng đệu. Trong phần này chúng tôi nêu sơ
lược thuật ngữ giọng điệu, vai trò và những biểu hiện nghệ thuật của giọng điệu.
Sau đó đi sâu tìm hiểu trong phần vai trò giọng điệu để thấy được tại sao vai trò lại
là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách của tác giả và đồng thời
cũng góp phần tạo nên nét đặc sắc khi thể hiện chủ đề của tác phầm.
Chương 2: Biểu hiện giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính. Đây là phần nội dung
chính, quan trọng nhất của luận văn, chương này chúng tôi đi sâu vào hai vấn đề
chính như sau:
- Thứ nhất: Đi tìm hiểu cơ sở hình thành giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính qua
các phương diện như: đời sống văn chương, cuộc sống gia đình và bản thân tác giả
đã có những ảnh hưởng trong việc hình thành cơ sở giọng điệu trong thơ.
- Thứ hai: Tìm hiểu những giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính. Phần này làm rõ
trong thơ của Nguyễn Bính có bao nhiêu giọng điệu và phân tích hết tất cả những
giọng điệu như giọng điệu chân chất, “quê mùa”, giọng điệu lấp lửng, ngập ngừng,
bâng khuâng, lưu luyến, buồn bã, lỡ làng, chua cay, khinh bạc và cuối cùng là giọng
điệu trữ tình, đằm thắm, thiết tha, ngọt ngào… Để thấy được tài năng của Nguyễn
Bính trong việc thể hiện giọng điệu trong thơ.
Chương 3: Phương thứ thể hiện giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính. Sẽ nêu lên bốn
vấn đề chính.
- Thứ nhất: Thể thơ. Nêu lên các loại thể thơ mà Nguyễn Bính đã vận dung
trong thơ của mình.
- Thứ hai: Về ngôn ngữ thơ. Tôi sẽ đi sâu tìm hiểu khái niệm ngôn ngữ thơ của
một số nhà nghiên cứu. Sau đó tìm hiểu và phân tích Nguyễn Bính đã sử dụng ngôn
v
ngữ trong thơ của mình ra sao.
-Thứ ba: Cách ngắt nhịp trong thơ. Tìm hiểu cách ngắt nhịp truyền thống và
cách ngắt nhịp phá cách linh động để diễn tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Bính.
-Thứ tư: Hình ảnh thơ. Phát hiện những hình ảnh đơn giản, mộc mạc có trong
vi
thơ mà Nguyễn Bính đã dùng.
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 7
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8
B. PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 9
Chương 1. Một số vấn đề chung ........................................................................... 9
1.1. Tác gia Nguyễn Bính .................................................................................... 9
1.1.1. Cuộc đời ................................................................................................ 9
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................... 12
1.1.3. Quan niệm về thơ của Nguyễn Bính ................................................... 14
1.1.4. Vài nét về đặc điểm thơ Nguyễn Bính ................................................ 16
1.2. Lý luận chung về giọng điệu ...................................................................... 19
1.2.1. Thuật ngữ giọng điệu .......................................................................... 19
1.2.2. Giọng điệu - một biểu hiện nghệ thuật ................................................ 21
1.2.3. Vai trò của giọng điệu ......................................................................... 22
1.2.3.1. Giọng điệu-một trong những yếu tố tạo nên phong cách tác giả . 23
1.2.3.2. Giọng điệu góp phần tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm .............. 26
1.2.3.3. Giọng điệu góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm .................... 27
Chương 2. Biểu hiện giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính ................................. 30
2.1. Cơ sở hình thành giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính ................................. 30
2.1.1. Đời sống văn chương........................................................................... 30
2.1.2. Cuộc sống gia đình .............................................................................. 32
2.1.3. Bản thân ............................................................................................... 37
2.2. Những giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính ................................................. 41
2.2.1. Giọng điệu chân chất, “quê mùa” ........................................................ 41
2.2.2. Giọng điệu bâng khuâng, lưu luyến .................................................... 44
2.2.3. Giọng điệu lấp lửng, ngập ngừng ........................................................ 47
2.2.4. Giọng điệu buồn bã, lỡ làng ................................................................ 50
vii
2.2.5. Giọng điệu chua cay, khinh bạc .......................................................... 54
2.2.6. Giọng điệu trữ tình, đằm thắm, thiết tha, ngọt ngào ........................... 57
Chương 3. Phương thức nghệ thuật biểu hiện giọng điệu trong thơ Nguyễn
Bính ........................................................................................................................ 62
3.1. Thể thơ ........................................................................................................ 62
3.2. Ngôn ngữ thơ .............................................................................................. 67
3.3. Nhịp thơ ...................................................................................................... 71
3.4. Hình ảnh thơ ............................................................................................... 75
C. PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
viii
PHỤ LỤC
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào Thơ Mới đã sản sinh ra nhiều nhà thơ trẻ với nhiều bài thơ hay
đóng góp cho nguồn thơ ca dân tộc. Nguyễn Bính là nhà thơ nổi bật trong phong
trào Thơ Mới với cách thể hiện đề tài làng quê xuất sắc nhất, đã góp cho phong trào
Thơ Mới bảy tập thơ, một số truyện thơ và kịch thơ. Nguyễn Bính xứng đáng là nhà
thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói
chung. Nguyễn Bính đã tìm tòi tạo dựng cho mình một giọng điệu riêng trong thơ
ca đó là một giọng điệu giản dị, gần gũi, mộc mạc với dân gian. Như Hoài Thanh đã
từng đánh giá: “Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc mạc của những câu hát đồng quê”
[21, tr. 46] và nói như nhà nghiên cứu Văn Tân: “Nhà thơ Nguyễn Bính như là một
chú bướm…đã xâm nhập rồi bay lượn trên một vùng văn hóa dân gian đặc biệt của
dân tộc…ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể…” .
Trong hàng loạt các nhà Thơ Mới, thì Nguyễn Bính đã đem hồn thơ của
mình mà giao hòa cùng hồn quê vào hồn dân tộc. Thơ ông có sự tích hợp và phát
huy độc đáo những truyền thống thơ ca, văn hóa dân gian và tiếng thơ hiện đại, đã
tạo ra một phong cách thơ không trùng lặp với bất kỳ ai.
Với sự nghiệp sáng tác phong phú, đa dạng mang tính tư tưởng và thẩm mỹ
cao. Nguyễn Bính cùng với các nhà thơ lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử,
Chế Lan Viên được đánh giá là “Những nhà thơ vào bậc nhất nhì trong phong trào
Thơ Mới” [17, tr . 10].
Cùng với sự góp mặt của Nguyễn Bính đã góp thêm phần nào làm nên thắng
lợi của phong trào Thơ Mới. Với những câu thơ, ý thơ, vần thơ chất chứa hương vị
của đồng nội đã thấm đẫm tình yêu của ông đối với quê hương, đất nước, con người
Việt Nam. Bởi cái tâm hồn mộc mạc mang hương đồng gió nội, vượt qua mọi lớp
bụi trần của thời gian vẫn tỏa sáng trong thơ, tỏa sáng trong tâm hồn dân tộc, tỏa
sáng nét đẹp nhân bản của con người Việt Nam. Đồng thời tạo cho Nguyễn Bính
một gương mặt riêng trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Một phần Nguyễn Bính
tiếp nối những mạch thơ truyền thống của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân
Hương…bên cạnh đó ông tìm tòi, sáng tạo ra những vần thơ thấm đẫm phong vị
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 1
dân gian với một kho số lượng phong phú, đa dạng ngôn ngữ tiếng việt nhằm nâng
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
cao văn hóa truyền thống dân gian đồng thời thổi một sức sống mới vào thơ ca và
đưa thể thơ lục bát đến độ hoàn thiện hơn.
Những vần thơ của ông giàu chất trữ tình dân gian ngọt ngào như ca dao.
Những vần thơ “chân quê” thấm đẫm “hồn quê”, “tình quê” của ông vẫn đang tồn
tại trong cuộc sống hôm nay. Chính những vần thơ, trang thơ thấm đẫm “tình quê”,
“chân quê” ấy mà người đời ta thường gọi Nguyễn Bính bằng những cái tên hết sức
thân thương, dân dã đời thường như: “nhà thơ chân quê”, “thi sĩ của đồng quê”, “thi
sĩ của yêu thương”… Mặt khác, những bài thơ của Nguyễn Bính đã từng đưa vào
chương trình dạy học của Phổ thông và Đại học. Năm 2008 Nguyễn Bính được truy
tặng Giải thưởng HCM về Văn học - Nghệ thuật. Năm 1937, ông được Tự Lực Văn
Đoàn trao tặng giải khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi…Đó là những thành công
của ông trong suốt những năm tháng sống và cống hiến cuộc đời mình cho sự
nghiệp thơ văn mà Nhà nước nhìn lại và ghi nhận cho ông, một hồn thơ chất chứa
tình quê cho những xóm làng thân thương của đất Việt.
Từ những lý do trên tôi tiến hành khảo sát “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính
trước Cách mạng Tháng Tám 1945” để lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn
hút nhiều thế hệ người Việt đến vậy. Qua đó cũng muốn tìm ra dấu ấn riêng về
giọng điệu có trong thơ Nguyễn Bính để thấy được những đóng góp của Nguyễn
Bính đối với thơ ca dân tộc nói chung và đối với dòng thơ quê cảnh nói riêng. Đồng
thời khẳng định vị thế, tôn vinh giá trị nhà thơ Nguyễn Bính trong nền thi ca Việt
Nam. Để thấy được Nguyễn Bính là nghệ sĩ của làng quê và là nhà thơ của tình quê,
ý quê, hồn quê, chân quê.
2. Lịch sử vấn đề
Trong nhiều thập kỷ qua, thơ Nguyễn Bính đã trở thành một đối tượng khá
tiêu biểu và độc đáo trong phong trào Thơ Mới nói riêng và thơ ca hiện đại nói
chung. Khi Nguyễn Bính “trình làng” bài thơ Cô hái mơ từ đó đã trở nên thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình và lí luận văn học yêu thích thơ ông. Và
bắt đầu có nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ khác nhau viết về cuộc đời, tác
phẩm Nguyễn Bính với mục đích và phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Nguyễn Bính sáng tác chủ yếu về đề tài làng quê nên đa phần những nghiên
cứu, những bài viết của các nhà nghiên cứu dù ở khía cạnh này hay khía cạnh khác,
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 2
dù ít hay nhiều cũng đề cập đến đến vấn đề làng quê trong thơ Nguyễn Bính. Thơ
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nguyễn Bính dường như chứa cái phong vị quê hương đậm đà, mỗi bài thơ, mỗi
câu thơ, ý thơ tác giả ngầm đặt vào trong ấy một thứ tình yêu không ngoài ý nghĩa
nào cả đó là tình yêu quê hương thiết tha, ngọt ngào, một phần gợi lên, lay động
được phần nào nơi sâu thẳm, thiêng liêng nhất trong tâm hồn về một miền quê trong
ký ức tuổi thơ. Đó là những hình ảnh: cánh diều, cánh bướm, lá giầu, cây đa, đồng
nội…tất cả đã đi vào thơ Nguyễn Bính một cách tự nhiên và đầy ắp tình người, hình
ảnh ấy sẽ không tồn tại mãi cho hôm nay, nhưng ngàn đời sau quê hương Việt Nam
sẽ mãi còn lưu lại trong ký ức trái tim mỗi người. Đó là lí do mà trên thực tế đang
có rất nhiều công trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính ra đời như:
Trước Cách mạng Tháng Tám với thẩm định hay nhất, gợi đúng cái “chân
quê” của hồn thơ của Nguyễn Bính phải kể đến bài giới thiệu về Nguyễn Bính của
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942. Hoài Thanh là người đầu
tiên nhận ra vẻ đẹp kín đáo, đậm đà của hồn thơ Nguyễn Bính, đồng thời qua đó
Hoài Thanh cũng đã cắt nghĩa về sự quan tâm chưa thích đáng của giới nghiên cứu
đối với Nguyễn Bính. Hoài Thanh nhận định: “Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản
chất nhà quê nhiều lắm. Và Nguyễn Bính đã đánh thức được người nhà quê vẫn ẩn
náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và
những tính tình đơn giản của quê là những tính tình căn bản của ta…” hoặc là “Cái
đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được số đông công chúng mộc
mạc nhưng khó lọt vào con mắt của các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ
Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế này thì có gì? Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một
điều mà người ta không thể hiểu được bằng lí trí, một điều quý vô ngần - “Hồn xưa
của đất nước” - Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng
chúng ta” [21, tr. 283; 284]. Có thể cho rằng những vần thơ của Nguyễn Bính là
chất “chân quê” là “hồn xưa đất nước”, một phẩm chất “quý giá vô ngần” mà chúng
ta không thể hiểu được bằng lí trí. Cùng thời với Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan trong
cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại cũng chỉ ra thứ tình quê xác thực được toát lên từ
những câu thơ mang dáng vẻ “thực thà”, “hai lần hai là bốn” của Nguyễn Bính. Vũ
Ngọc Phan đã đánh giá cao thơ Nguyễn Bính, đặc biệt là mảng thơ viết về làng quê.
Trong bài viết Đóng góp của thơ Nguyễn Bính đăng trên báo giáo viên nhân
dân, số đặc biệt tháng 07/1969 của Vũ Quần Phương. Ông đã đưa ra những nhận
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 3
định sâu sắc và toàn diện về hồn thơ Nguyễn Bính, bên cạnh đó Vũ Quần Phương
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
còn làm rõ hơn một bước về thơ Nguyễn Bính: “Đó là hồn của làng mạc quê
hương, vườn cau mái rạ” [16, tr. 235]. Nguyễn Bính ca ngợi vẻ đẹp chân quê hết
mực với cảm xúc yêu thương của một con người xa quê. Ông miêu tả quê hương
thật sắc sảo và tinh tế, đẹp và trong sáng cả cảnh lẫn tình quê và duy chỉ có Nguyễn
Bính là có thể làm được như vậy. Ông là một nhà thơ của tình yêu nơi thôn xóm,
tình yêu của những đêm hội làng. Nguyễn Bính hiểu sâu sắc tâm lí của những chàng
trai làng, gái làng thời ấy, có những nét tâm lí gợi lên dáng dấp một thời. “Những
cô gái chăn tằm dệt vải chỉ đi từ khung cửi đến nương dâu và cô gái lái đò cũng chỉ
quen từ một khúc sông, một cái bến. Chỉ đêm hội làng là dịp hội tụ của trai thôn nọ,
gái thôn kia. Những mối tình quê nảy nở bao nhiêu vui buồn, mơ ước, nhớ mong,
đau khổ nhưng vẫn xốn xang trong sự tĩnh lặng của quê hương. Ngòi bút của
Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng ấy” [16, tr. 236].
Tạ Tỵ năm 1970 trong Mười khuôn mặt văn nghệ, Tạ Tỵ đã nhận định về
Nguyễn Bính là “một thiên tài lỡ dở”. Đồng thời ông đã phân tích từ trong thơ
Nguyễn Bính để thấy được những ảnh hưởng không nhỏ đến thi sĩ “chân quê” này.
Đoàn Thị Đặng Hương có bài Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca
(1993) đã phân tích thơ Nguyễn Bính trên phương diện thi pháp học và kết luận
rằng: “Thơ Nguyễn Bính là một “cách tân” trên thi đàn thơ mới”. Tô Hoài viết bài
Nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê năm 1996 lý giải về cái hay, cái thu hút
của thơ Nguyễn Bính với nhận định: “Thật rõ ở Nguyễn Bính, khi năng khiếu trong
thơ được khơi từ cuộc sống chân thực lý trí và bản năng nhà thơ hòa một tấm lòng”
[10, tr. 150]
Trần Mạnh Hảo năm 1998 viết: Nguyễn Bính nhà thơ hiện đại đã khẳng định
vai trò hiện đại hóa thơ lục bát của Nguyễn Bính cả về mặt tư tưởng, tình cảm,
giọng điệu, cách ngắt nhịp.
Việt Hùng trong bài Thơ mới và thơ Nguyễn Bính (1999) cho rằng: “Nguyễn
Bính là nhà thơ có khuynh hướng dân tộc sâu sắc” với cách phân tích thơ của
Nguyễn Bính trên ba phương diện: đề tài, kết cấu thể loại và ngôn ngữ.
Trong Một kỷ niệm riêng về Nguyễn Bính nhà văn Tô Hoài đã viết: “Khi nào
anh cũng là người của các xứ đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 4
thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
đời và tâm hồn thơ Nguyễn Bính. Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu
vết của đời mình” [10, tr. 9].
Trong lời giới thiệu tập Chân quê, Mã Giang Lân cũng có boăn khoăn giữa
tính chất “chân quê” với Thơ Mới trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính: “Trong thơ
Nguyễn Bính bên cạnh những câu thơ duyên dáng, thuần thục như ca dao ta thấy
xen vào những câu quá mới nên thơ ông giống ca dao mà cũng khác ca dao”.
Có thể cho rằng mỗi tác giả, mỗi nhà văn trên chỉ muốn nghiên cứu để có
những tìm tòi phát hiện riêng cho mình những phương diện khác nhau về lĩnh vực
đang nghiên cứu. Cũng như khi nhắc đến khía cạnh ngôn ngữ thì trong chuyên luận
Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê Hà Minh Đức cho rằng: “Nguyễn Bính thích
những ngôn ngữ nhiều màu sắc trong thơ. Nếu Hàn Mạc Tử nói nhiều đến hương vị
trong đời, trong thơ thì Nguyễn Bính lại chuộng màu sắc” và Hà Minh Đức kết luận
thêm: “Nguyễn Bính là người có công hơn cả trên mảng thơ viết về làng quê. Ông
đã khơi dậy ở mỗi người đọc tình cảm quê hương. Ông yêu mến và trân trọng giới
thiệu những hình ảnh đẹp, tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà mỗi cảnh vật con
người đều thắm đượm hồn quê. Nguyễn Bính cũng đã tạo được một phong điệu trữ
tình đằm thắm mang nhiều phong vị của câu ca, tiếng hát của làng quê” [5, tr. 23].
Về phương diện nghệ thuật sáng tạo thì Hà Minh Đức kết luận rằng: “Bút pháp và
giọng điệu thơ ca của Nguyễn Bính khá đa dạng. Trong thơ của Nguyễn Bính có
một dòng viết về làng quê giàu tính chất dân gian và một dòng trữ tình nhiều tâm
trạng trăn trở mà có màu sắc hiện đại” [5, tr. 46].
Nguyễn Tuấn Long và Nguyễn Hữu Trọng đã đưa Nguyễn Bính vào Việt
Nam thi nhân tiền chiến với một tư cách là một trong những tác giả tiêu biểu và họ
cho rằng: “Đối với các thi nhân, thơ và cuộc đời chỉ một. Không ca ngợi những vẻ
đẹp xa vời, những bóng dáng mỹ lệ, Nguyễn Bính đã đi sâu vào thế giới tâm tình
của những mảnh đời ngang trái, dở dang, phân cách, bẽ bàng, có thể nói với ngòi
bút của thi nhân, Nguyễn Bính đã tả chân thực được một nỗi u buồn trầm lắng giải
tỏa được tiếng kêu bi thương của những tâm hồn mộc mạc” [5, tr. 56].
Đoàn Hương có bài Nguyễn Bính thi sĩ nhà quê nhận định rằng: “Những bài
thơ của Nguyễn Bính không chỉ hay ở những nét tài hoa độc đáo của người thi sĩ
chân quê mà làm nặng lòng ta, đắng lòng ta là ở tình người, cái gốc rễ trong cảm
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 5
xúc của nhà thơ làm nên sức nặng cho thơ người là cái tình người mà ông tiếp nhận
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
từ trong cái cội rễ của đời sống tâm linh dân tộc Việt “Cái gốc chân quê” (… )
“Cái giọng thơ riêng của Nguyễn Bính rõ ràng không thể trộn lẫn vào các nhà thơ
khác, cái chất, cái hồn quê Việt Nam nguyên vẹn đậm đà như trong các bài dân
gian” [12, tr. 98; 102].
Qua nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu phê bình trên ta
thấy tác giả Nguyễn Bính đã trở thành một đề tài rất phong phú và đa dạng cho
nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Từ đó đã thu hút được phần đông sinh viên,
học viên Đại học, Cao đẳng lựa chọn thực hiện đề tài tác giả Nguyễn Bính cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
Tóm lại có thể nhận xét một cách khái quát về công trình nghiên cứu thơ
Nguyễn Bính là thơ ông đã được đưa vào công trình nghiên cứu từ rất sớm, song
quá trình đó tuy mỗi thời kỳ mỗi giai đoạn có cách nghiên cứu riêng nhưng không
để lại một mâu thuẫn hay tranh luận gay gắt nào. Từ những góc độ nghiên cứu, so
sánh, đối chiếu khác nhau cuối cùng các nhà nghiên cứu, phê bình thơ điều nhấn
mạnh và khẳng định được bản sắc dân tộc nét đẹp “chân quê ” trong thơ Nguyễn
Bính. Cũng như những đóng góp của ông trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Gần
đây các tác giả chú ý nhiều hơn đến sự kết hợp độc đáo giữa “cái mới” và “vẻ đẹp
chân quê”, “giữa tính dân tộc” và “tính hiện đại ” thể hiện ở cả nội dung và nghệ
thuật thơ Nguyễn Bính. Đỗ Lai Thúy có bài Đường về chân quê của Nguyễn Bính
đã khẳng định rằng: “Nguyễn Bính đã bộc lộ sâu sắc trong tâm hồn không chỉ của
một cá nhân mà của cả một dân tộc. Nguyễn Bính không phải là người “đáo bỉ
ngạn”. Ông chỉ là một kẻ quá giang, một người lái đò qua lại giữa hai bờ nông
thôn và thành thị, đông và tây, trên khúc sông buổi giao thời” [23, tr. 350]. “Thơ
Nguyễn Bính không phải bản khải hoàn ca của cái mới, hay khúc bi ca của cái cũ
(… ) Trong thơ ông cũ, mới cùng hiện diện, cùng tồn tại trong một sự tương tranh
không ngừng” [23, tr. 364; 365]. Nhưng với tôi thì, thơ Nguyễn Bính là nguồn nước
giếng thơi trong mát, ta chỉ thực sự thấy hết ý nghĩa của nó khi phải đối mặt với
mênh mông sa mạc. Vâng, sa mạc của chữ nghĩa và sa mạc của hồn người. Bởi thế
bảy tâp thơ của Nguyễn Bính ra đời vào thời gian đó đã phần nào khẳng định được
vị trí vững chắc của mình trong hàng ngàn những thi nhân tiêu biểu làm nên “một
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 6
thời đại trong thi ca”.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nhìn chung từ những năm gần đây các giới nghiên cứu, bình luận, phê bình
văn học đã đưa ra được nhiều kiến giải có giá trị. Vì thế mà những nét đặc sắc trong
thơ ông một lần nữa được soi rọi dưới nhiều góc độ, đặc sắc về nội dung, cách tân
sáng tạo về nghệ thuật, về hình thức thể hiện, cảm xúc dạt dào, chan chứa tình
quê… Qua đó chưa phát hiện được ý kiến nào nghiên cứu về mặt giọng điệu thơ
Nguyễn Bính. Nếu có thì chỉ nêu nhận định chung chung. Trên cơ sở đó tôi chọn đề
tài “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám 1945” để tập trung
khảo sát một cách có hệ thống để làm nổi bật những nét cơ bản của giọng điệu thơ
Nguyễn Bính nhằm đưa ra được nét mới, nét riêng độc đáo từ giọng điệu trong thơ
Nguyễn Bính đến cách thể hiện giọng điệu mang những nét đặc sắc riêng tạo nên
phong cách của tác giả, tác phẩm. Từ những ý kiến nêu trên của các nhà nghiên cứu
sẽ được đưa vào luận văn mục đích kế thừa, tham khảo, bổ sung đầy đủ hơn cho
luận văn đang viết.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua quá trình tìm tòi, học hỏi đã khám phá ra được những nét đặc trưng và
đặc sắc từ “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính” góp phần khẳng định vị thế, quan điểm
nghệ thuật qua những giọng điệu riêng của Nguyễn Bính trong nền thơ ca của dân
tộc.
Bên cạnh người viết tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kỹ năng và nhiều
phương pháp để nghiên cứu một vấn đề khoa học, đồng thời củng cố những kiến
thức đã được học để phục vụ cho công tác chuyên môn sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng
Tám 1945 ” được chúng tôi nghiên cứu giới hạn ở phạm vi thơ Nguyễn Bính từ khi
ông sáng tác đến năm 1945 với các tập thơ chính như: Lỡ bước sang ngang (1940),
Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941), Một nghìn cửa sổ (1941), Mười hai bến
nước (1942), Mây tần (1942), Người con gái ở lầu hoa (1942) và một số bài thơ có
liên quan khác. Do điều kiện và thời gian còn hạn hẹp nên vấn đề nghiên cứu còn
giới hạn. Những sáng tác của ông từ sau năm 1945 chúng tôi chỉ khảo sát những bài
thơ nào đã đưa vào chọn lọc trong tuyển tập Nguyễn Bính.
Tuy nhiên, người viết còn tìm tòi và khảo sát thêm những tác phẩm của
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 7
những tác giả cùng thời (như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…) để một phần
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
so sánh, đối chiếu từ đó rút ra được những cái nhìn mới mẻ, tổng quát về vấn đề mà
luận văn đang cần đến.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã áp dụng các phương pháp khoa học
sau:
Phương pháp so sánh đối chiếu: phương pháp này nhằm so sánh sự khác biệt
và tương đồng giữa Nguyễn Bính với các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới khi
viết về làng quê để thấy được nét riêng, nét độc đáo từ trong “Giọng điệu thơ
Nguyễn Bính”. Qua đó thấy được vai trò, vị trí và đóng góp của ông đối với nền thi
ca Việt Nam.
Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống để nhìn nhận vấn đề đặt ra trong
quan điểm nghệ thuật, quan điểm thẩm mỹ, hệ thống nhân vật, giọng điệu, không
gian, thời gian, ngôn ngữ, hình ảnh thơ, hệ thống kết cấu văn bản và vân vân…
Ngoài hai phương pháp trên chúng tôi còn kết hợp sử dụng các thao tác phân
tích, chứng minh, bình giảng theo lối diễn dịch, quy nạp để chứng minh làm rõ vấn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 8
đề đang nghiên cứu.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tác gia Nguyễn Bính.
1.1.1. Cuộc đời.
Nguyễn Bính thuở nhỏ tên là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xóm
Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Sinh ra trong
một gia đình nhà nho nghèo.
Năm 1937, Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi tới dự thi và được giải
khuyến khích của Tự lực Văn Đoàn. Cũng trong thời gian này bài thơ Cô hái mơ
xuất hiện trên thi đàn và được dư luận chú ý, đây cũng là thời điểm cái tên Nguyễn
Trọng Bính lấy bút danh là Nguyễn Bính bắt đầu xuất hiện và từ đó theo đuổi sự
nghiệp văn chương. Họa sĩ Nguyệt Hồ nhớ lại: “Tôi quen với Nguyễn Bính từ khi
anh chưa có tiếng tăm gì, ngày ngày ôm tập thơ đến làm quen với các tòa soạn báo.
Tôi thích thơ anh và đã giới thiệu anh với Lê Tràng Kiều, chủ bút Tiểu thuyết Thứ
Năm, đã đăng bài “Cô hái mơ”, bài thơ đầu tiên của anh đăng báo. Tôi khuyên anh
gửi thơ dự thi, và anh đã chiếm giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn…chúng tôi thân
nhau từ đó, khoảng 1936 - 1940, quãng đầu đời thơ của anh…”
Vào những năm 1937 - 1942 đây là thời điểm đánh dấu bước ngoặt lớn lao
nhất cũng là điểm sáng nhất trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng Tám.
Đây là những năm Nguyễn Bính chưa hết cái bỡ ngỡ từ quê ra tỉnh, được đi nhiều
nơi, biết thêm nhiều thứ làm cho một tâm hồn trẻ vừa chớm nở bắt gặp những điều
kiện thuận lợi đã tăng nguồn cảm hứng dạt dào, từ những suy tư của lối sống, sự xa
hoa của đô thị, xa cách quê hương…đã tạo nên một hoài niệm day dứt một điểm
nhìn nghệ thuật đặc biệt trong suy nghĩ của bản thân ông đối với quê hương, vì lẽ đó
thời gian này hai tập thơ Xuân tha hương và Oan nghiệt của ông phần nào viết ra
nhằm bộc bạch những suy tư, cái cảm xúc chân thật ngay ở chính suy nghĩ trong trái
tim mình từ bản sắc “chân quê” của “hương đồng gió nội” mà thôi.
Tới năm 1943, Nguyễn Bính cùng với Vũ Trọng Can và nhà thơ Tế Hanh ở
Huế rồi cả ba trình diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân, buổi diễn bị thất thu về tài
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 9
chính, và Nguyễn Bính nằm lại cố đô, thắm thía với mưa dầm xứ Huế. Cơn phấn
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
chấn ngày ra đi nay lụi đần và giọng điệu thơ Nguyễn Bính bắt đầu có chất gì đó
chua cay, khinh bạc, với những năm tháng phiêu lưu trên bước đường vô định ấy.
Hỡi ơi! Trời đất vô cùng rộng
Nào biết tìm đâu một mái nhà
(Đêm mưa đất khách)
Năm 1944. Nguyễn Bính tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.
Năm 1946 - 1947 ông được giao phụ trách Hội Văn nghệ Cứu quốc tỉnh Rạch Giá.
Từ năm 1948 - 1951, Nguyễn Bính công tác ở liên khu miền Tây. Thời kỳ
này Nguyễn Bính sáng tác đều đặn, kịp thời động viên tinh thần kháng chiến của
các chiến sĩ, đồng bào thời đó. Năm 1952, Nguyễn Bính về U Minh sống trong nhà
một bà má có cô con gái tên là Hồng Châu. Từ đó Hồng Châu trở thành vợ của
Nguyễn Bính và có với nhà thơ hai đứa con gái là Hồng Cầu và Hương Mai
Năm 1953, Nguyễn Bính trở lại Đồng Tháp Mười. Năm 1954, Nguyễn Bính
tập kết ra Bắc, lên bến Sầm Sơn (Thanh Hóa), sau đó về Hà Nội, ở nhà anh cả Trúc
Đường và công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1956, ông làm chủ bút báo Trăm Hoa nhưng do không đủ tiền tự túc
mua giấy in báo nên báo chỉ ra được 3 số. Tới năm 1958, Nguyễn Bính túng thế
phải quay về cư trú ở Nam Định, làm việc tại Ty Văn hóa Thông tỉnh Nam Định,
dưới sự kềm cặp của “nhà văn” Chu Tấn và quan chức địa phương.
Cuối năm 1965, anh em Ty văn hóa nhân dịp chuẩn bị số báo tết đón xuân
Bính Ngọ (1966). Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, Nguyễn Bính làm
việc sôi nổi, hào hứng đặc biệt. Nguyễn Bính thuộc Truyện Kiều từ đầu chí cuối,
vốn coi cụ Tiên Điền như một vị tổ sư nên chuẩn bị việc kỷ niệm này. Nguyễn Bính
viết không mỏi, ông viết Bài ca quê hương, ca ngợi đất nước mình có nền nhạc, nền
thơ, kho tàng văn học dân gian đồ sộ. Tình yêu của thi sĩ giờ đây đã hóa thành tình
yêu của quê hương đất nước, đồng bào dân tộc.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi
Quê hương tôi có bà Trưng bà Triệu
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 10
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa trả thù chung
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến
Hưng Đạo Vương đã mở hội Diên Hồng
Quê hương tôi có hát xòe, hát dúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có Bình Ngô đại cáo
Có Nguyễn Du và có một Truyện Kiều.
Nguyễn Bính thuộc Truyện Kiều từ đầu chí cuối và mong mình có thể được
“là học trò nhỏ của Nguyễn Du”. Cái hôm duyệt báo Tết, Nguyễn Bính khoe, tươi,
tay thủ một tập giấy mỏng. Anh khoe trong một đêm, đã viết được một bài tập Kiều,
vịnh cụ Tiên Điền, không cho ai xem, chờ lúc ra hội đồng đủ mặt, mới trịnh trọng
mở trang giấy viết công phu, chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngâm nga:
Cảo thơm lần giở trước đèn
Là nhiều vàng lá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.
………………………………………
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui bởi tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng người nên lại thấy người về đây…
(Kính gửi cụ Nguyễn Du với Truyện Kiều)
Cả hội đồng duyệt bài báo Tết hôm ấy cũng lặng người đi. Một bài tập Kiều
thật hay. Lời Chu Văn: “Rằng hay thì thật là hay” nhưng “nghe ngậm đắng nuốt cay
thế nào”. Để tặng cụ Tiên Điền mà sao cứ như tâm sự của Nguyễn Bính, tổng kết
cái cuộc đời thơ tài hoa long đong lận đận về…những câu sau cùng, sao mà nó sái
quá…“Một lời là một vận vào, khó nghe”. Nguyễn Bính cười trừ, các ông mê tín,
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 11
cứ hay là được. Tôi xin nộp bài này, một câu cũng không sửa.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Ngày 20/01/1966 ngày cuối cùng năm Ất Tỵ, Nguyễn Bính ra đi đột ngột khi
chưa kịp sang tuổi 49. Cuộc đời của Nguyễn Bính đã đi một đoạn đường tuy không
dài không ngắn nhưng những vần thơ ông để lại đậm tình quê hương. Vẫn còn đâu
đó “một thi sĩ đồng quê”, vẫn còn đó trong những áng thơ được gìn giữ trân trọng
cho những người yêu thơ các thế hệ sau đón nhận muôn đời.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác.
Nguyễn Bính bắt đầu cầm bút và sáng tác cho đến nay đã để lại cho đời nói
không nhiều nhưng cũng không ít những thơ văn. Nhưng cái quan trọng là Nguyễn
Bính đã để lại cho đời những vần thơ đậm chất “chân quê” một giọng thơ rất dân dã
bình thường mà lại rất riêng không trùng lặp với bất kỳ nhà thơ nào. Điều đặc biệt
là Nguyễn Bính đã chiếm được một tình cảm rất lớn trong lòng những người yêu
thơ và cả những nhà phê bình thơ văn.
Với tài thơ bẩm sinh từ bé, vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra thơ, năm 13 tuổi
Nguyễn Bính đã làm được nhiều bài thơ hay. Bài thơ được đăng đầu tiên và sau này
được nhiều người biết đến cũng là bài thơ Cô hái mơ. Năm 19 tuổi, Nguyễn Bính
gửi tâp thơ Tâm hồn tôi tới dự thi và nhận giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn.
Và Nguyễn Bính thực sự nổi tiếng khi tờ tiểu thuyết thứ năm liên tiếp trong ba kì
đăng ba đoạn của bài thơ dài Lỡ bước sang ngang. Từ đó không có số báo nào
không có thơ Nguyễn Bính. Lỡ bước sang ngang trở thành tên của một tập thơ sau
này (1940).
Năm 1941, Nguyễn Bính giới thiêu bạn đọc tập thơ Một nghìn cửa sổ nhưng
gây ấn tượng hơn là tập Hương cố nhân. Nguyễn Bính đi Thường Tín rồi vào Vinh
viết Xuân tha hương, Thu rơi tường cánh, Vài nét Huế, Hoa với rượu, Giời mưa ở
Huế, Lửa đò, Tựu trường, Xóm Ngự Viên.
Năm 1942, Nguyễn Bính bắt đầu cho ra đời tập thơ Người con gái ở lầu hoa,
Mười hai bến nước, Mây Tần. Đồng thời giai đoạn này cũng có một sự kiện đáng
ghi nhận là vở kịch thơ Bóng giai nhân của Nguyễn Bính viết cùng Yến Lan (tức
Xuân Khai) được dựng và biểu diển ở nhà hát lớn Hà Nội, Hải Phòng và Huế. Chỉ
trong vòng ba năm, từ năm 1940 đến năm 1942, Nguyễn Bính đã ra mắt bạn đọc
khắp ba miền Bắc, Trung, Nam bảy tập thơ: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi,
Hương cố nhân, Một ngàn của sổ, Người con gái lầu hoa, Mười hai bến nước, Mây
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 12
Tần.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Năm 1943, ngoài thơ Nguyễn Bính còn sáng tác kịch thơ Ngải, truyện thơ Cô
gái Ba Tư, Xuân tha hương, Ái khanh hành, Anh về quê cũ, Mắt nhung, Đi giữa
khinh thành, Trải bao nhiêu núi song rồi ngoài ra còn có thêm một số bài thơ đối
đáp với Tôn nữ Hoàng Trân.
Vào năm 1944 là năm mà ngòi bút Nguyễn Bính chuyển mạch sang chuyện
thơ và văn xuôi. Nguyễn Bính viết truyện Thạch Xương Bồ, truyện Không đất cắm
dùi đã đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của tờ Thanh niên Đồng Tháp, một tờ báo
có uy tín ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Năm (1946 - 1954) Nguyễn Bính cho ra mắt Tập
thơ yêu nước và tập thơ Sáng biển cỏ. Đặc biệt là bài Tiểu đoàn 307 đã được nhạc sĩ
Nguyễn Hữu Trí phổ thành nhạc.
Trở lại Đồng tháp Mười năm 1953, nhà thơ liên tục cho ra đời các tập thơ:
Ông Lão mài gươm, Trăng kia đã đứng ngang đầu, Những dòng tâm huyết, Mừng
Đảng ra đời.
Năm 1954 - 1955 Nguyễn Bính sáng tác liên tiếp ba tập thơ: Đồng Tháp
Mười, Trả về ta, Gửi người vợ miền Nam.
Năm 1958, về sống ở quê nhà Nguyễn Bính viết được hai truyện khá dài đó
là bài Tiếng trống đêm xuân (2.000 câu), Trong bóng cờ bay (1026 câu) và bắt đầu
cho ra mắt tập thơ Nước giếng thơi. Hai tập thơ Tình nghĩa đôi ta (1960) và Đêm
sao sáng (1962), được viết với tâm trạng chủ đạo là khát vọng thống nhất đất nước,
hướng về ngày thống nhất Bắc Nam.
Cuối năm 1965, Nguyễn Bính viết bài thơ dài Bài thơ quê hương như muốn
báo hiệu sự khởi sắc trở lại “con người thơ” Nguyễn Bính ở giai đoạn “chân quê”.
Thời gian sau vào khoảng gần tết Nguyên Đán năm Bính Ngọ cũng nhân kỷ niệm
200 năm ngày sinh Nguyễn Du, Nguyễn Bính đã thức trắng một đêm viết bài tập
Kiều tặng cụ Tiên Điền, đó cũng là bài thơ cuối cùng của Nguyễn Bính bài Kính gửi
cụ Nguyễn Du với Truyện Kiều.
Nhìn tổng quan, những sáng tác của Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng
Tám thì có rất nhiều, không riêng lĩnh vực thơ mà còn có cả truyện thơ, kịch thơ,
chèo…Nguyễn Bính đã góp phần làm cho phong trào Thơ Mới ngày càng đa dạng
hơn. Nhưng nhìn chung thơ vẫn là lĩnh vực tiêu biểu nhất đối với Nguyễn Bính. Với
bảy tập thơ tiêu biểu như:
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 13
- Lỡ bước sang ngang (1940)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
- Tâm hồn tôi (1940)
- Hương cố nhân (1941)
- Một nghìn cửa sổ (1941)
- Người con gái ở lầu hoa (1942)
- Mười hai bến nước (1942)
- Mây Tần (1942)
Sau Cách mạng tháng Tám Nguyễn Bính tham gia cách mạng, Nguyễn Bính
trở thành nhà văn chiến sĩ, toàn bộ thơ ông hướng về đời sống cách mạng của dân
tộc bao gồm các tác phẩm như:
- Ông Lão mài gươm (1947)
- Sóng biển cỏ (1947)
- Trả về ta (1955)
- Gửi người vợ miền Nam (1955)
- Đồng Tháp Mười (1955)
- Đêm sao sáng (1962)
Ngoài sáng tác thơ, truyện thơ. Nguyễn Bính còn sáng tác thêm một số kịch
thơ, chèo và một số tác phẩm văn xuôi…Tiêu biểu như:
- Bóng giai nhân - kịch thơ (1942)
- Không nhan sắc - truyện (1942)
- Trong bóng cờ bay - truyện thơ (1957)
- Tiếng trống đêm xuân - thơ (1958)
Nguyễn Bính làm thơ, viết chèo rồi cả kịch thơ…Nhưng Nguyễn Bính có
duyên với thơ hơn và ông thật sự bộc lộ được tài năng của mình ở lĩnh vực thơ.
Nguyễn Bính một cuộc đời thi sĩ trải qua biết bao sóng gió thăng trầm của biển đời
trước và sau Cách mạng Tháng Tám ông đã để lại cho đời rất nhiều thơ văn có giá
trị. Hai chặng đường thơ trước và sau 1945 là một kho văn học quý báu, nhưng thơ
văn là một tài năng vì ông đã bộc lộ được tâm hồn mình trong thơ, giàu cảm xúc,
gắn bó được với quê hương, đất nước. Mạch thơ của ông được thơ ca truyền thống
khơi nguồn, nuôi dưỡng ngày một thêm đậm đà bản sắc của dân tộc hơn để có giá
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 14
trị lâu bền đến muôn đời sau.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
1.1.3. Quan niệm về thơ của Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là một nhà thơ mới, một nhà thơ lãng mạn, một nhà thơ hiện
đại. Trong khi các nhà thơ mới sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn, thậm chí có nhà
thơ đi vào chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực, thì Nguyễn Bính lại ngược gió, quay về
tìm hương cố nhân trong văn hóa dân gian. Nguyễn Bính đã tạo cho mình một lối đi
nghệ thuật riêng, biết cày xới và ươm trồng cho mình một vườn thơ nhà quê hiện
đại mà đặc sắc. Sở dĩ Nguyễn Bính được thành công như vậy là do nhà thơ có một
tâm hồn yêu thơ thực sự và có tài năng để có một lối đi riêng cho quan niệm nghệ
thuật thơ ca của mình. Chính quan niệm nghệ thuật thơ ca này sẽ là nguồn sáng để
dẫn đường, làm hướng soi tỏ ánh sáng cho chính ông, đồng thời qua đó khẳng định
được một phong cách thơ độc đáo rất riêng cho bản thân mình.
So với các nhà thơ trước Cách mạng tháng Tám thì Nguyễn Bính là một
đỉnh cao riêng biệt. Ông đã mang đến cho thơ mới cái hương vị đậm đà của làng
quê, và thật sự không nói quá chút nào khi nói nếu thiếu đi Nguyễn Bính, Thơ Mới
sẽ thiếu đi một phong vị riêng, một khuynh hướng thơ thuần Việt.
Nguyễn Bính sinh ra từ làng quê thôn dã nên hồn thơ của Nguyễn Bính khác
với Thế Lữ rộng mở với Cây đàn muôn diệu, thật rắn rỏi, mãnh liệt với Nhớ rừng,
thật bay bổng với Tiếng sáo thiên thai, Lưu Trọng Lư mơ màng với Tiếng thu, bâng
khuâng với Nắng mới và lặng buồn với Một mùa đông, còn Huy Thông có giọng
thơ thật hùng tráng trong Con vòi gà, Tiếng địch Sông Ô. Lời của Nguyễn Nhược
Pháp thật trong sáng, đáng yêu với Chùa Hương… Đặc biệt Xuân Diệu đã mang tới
“Một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài
Thanh). Những bài “Giục giã, Vội vàng, Thơ duyên” cho thấy người thơ ấy say đắm
biết bao với tình yêu, thiết tha nồng nàn biết bao với sự sống, với cuộc đời…Giữa
biết bao cái tôi trữ tình độc đáo ấy để khẳng định được mình là không phải dễ dàng,
thế nhưng một bông hoa trọn đời chỉ tỏa ra không gian một mùi hương độc nhất cho
tất cả tinh hoa của nó nên những bài thơ Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi, Hương
cố nhân… Nguyễn Bính đã làm cho cả thi đàn và bạn đọc phải ngỡ ngàng.
Nguyễn Bính chỉ làm thơ “chân quê”, viết về làng quê, về những con người
thôn dã bằng cách viết và cách nhìn của một người trong cuộc. “Thơ ông là tiếng
lòng phát đi từ trái tim mình, nhất thiết phải đi tới trái tim người khác. Nếu trái tim
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 15
người khác hờ hững thì dù cho là “tiếng lòng” của mình chăng nữa cũng không
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
phải là thơ” [29, tr. 152]. Từ đó mà Nguyễn Bính viết bài thơ Chân quê ngụ ý của
tác giả cũng muốn tuyên ngôn cho toàn thể mọi người biết về quan niệm thơ của
mình chỉ là chân thực giống như “chân quê”.
“… Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê”
Chân quê là tiếng lòng, là bài thơ mang thông điệp thẩm mỹ, thể hiện rõ
quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Chân quê là tuyên ngôn nghệ thuật của một
trường thơ dân gian – hiện đại mà Nguyễn Bính chắp bút viết nên. Theo nhà thơ,
thơ hiện đại dù khoác chiếc áo hiện đại đi chăng nữa thì cũng cần giữ nét đẹp
nguyên sơ quê mùa. Chiếc áo thơ hiện đại đừng đơm nút “cài khuy bấm” sỗ sàng, lộ
liễu. Chiếc áo thơ hiện đại nên là sự cách điệu của “chiếc áo lụa sồi”, “cài dây lưng
đũi nhuộm hồi sang xuân”. Cây thơ hiện đại dù thế nào cũng phải mọc lên từ mảnh
đất dân tộc, phải mang hương đồng gió nội như hoa chanh mọc từ vườn chanh thuở
nào.
Với một tài năng bẩm sinh cộng thêm một giọng thơ “chân quê” sinh sôi,
phát triển tự nhiên trong mạch trải con tim Nguyễn Bính mà không cần học hỏi, trao
dồi. Nên Nguyễn Bính vốn có những câu thơ “giống hệt ca dao” nhưng vẫn thật là
Thơ Mới.
“Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
(Qua nhà)
Tóm lại quan niệm nghệ thuật trong thơ của Nguyễn Bính là quan niệm
“chân quê” với một tâm hồn mộc mạc, gần gũi của nông dân.
1.1.4. Vài nét về đặc điểm thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa, đồng thời cũng là một con người giàu
lòng yêu quê hương đất nước, một con người có tâm hồn trong sáng và thanh cao.
Nguyễn Bính yêu quê hương, ông sợ mất đi cái đẹp chân quê, giản dị, mộc mạc mà
trong sáng và thơ mộng của chốn thôn quê. Bằng tài năng của một thi sĩ với tấm
lòng yêu quê hương chung tình son sắc. Nguyễn Bính đã lưu trữ trong thơ ông
những nét đẹp tinh tế và cổ điển của nơi làng quê. Thơ Nguyễn Bính cũng thật mộc
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 16
mạc, song ẩn sau cái mộc mạc bình dị đó là cả một hồn quê, hồn dân tộc.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nguyễn Bính yêu quê hương, yêu con người nơi thôn quê, vì vậy mà quê
hương đã nhuộm thắm tâm hồn thi sĩ, ấn định bản sắc chính của một phong cách thơ
chân quê. Hình ảnh quê hương sẽ không bao giờ vắng bóng trong thơ ông. Cảnh quê
hương trong thơ Nguyễn Bính rất đẹp, rất thơ mộng nhưng cũng mang hồn “chân
quê” sâu sắc. Thơ viết về cảnh quê của Nguyễn Bính không hiện thực mà lãng mạn,
ông ít miêu tả số phận cay đắng, những cảnh nhọc nhằn cơ cực mà hình ảnh làng
quê trong thơ ông thường tươi xanh, thơ mộng
“Sáng giăng chia nửa vườn chè
Một gian nhà cỏ đi về có nhau”
(Thời trước)
Trong phong trào Thơ Mới có nhiều nhà thơ góp phần vào việc tô đậm thêm
vẻ đẹp của bức tranh quê. Như Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ và Lời
quê của Hàn Mặc Tử, Quê hương của Tế Hanh và nhiều bài thơ của Bàng Bá Lân,
Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ…, đó là những tác giả chuyên chú về đề tài làng quê đã tạo
nên một mảng thơ quê hương đậm đà màu sắc dân tộc và có giá trị. Nhưng đó vẫn là
bề ngoài của bức tranh quê, chưa phải là cái nhìn và cách nghĩ, cách cảm xúc của
người nông dân chân lấm tay bùn thời đó, những bài thơ, những câu thơ thật đẹp
nhưng cũng vẫn là tiếng thơ lãng mạn của những tâm hồn ngoài đồng ruộng. Còn
đối với Nguyễn Bính thì ông luôn có một cách cảm nhận sâu sắc đối với làng quê
như một người trong cuộc, ông đã thả hồn mình vào làng quê mà cảm nhận. Vì vậy
mà Nguyễn Bính được gọi là “thi sĩ của đồng quê”. Trong một kỷ niệm riêng về
Nguyễn Bính, nhà văn Tô Hoài đã viết: “Khi nào anh cũng là người của các xứ
đồng, của cái diều bay, của dãy hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn
việc làm vất vả sương nắng. Bởi đây là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn
Bính. Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình” [5, tr. 9]. Kể cả
nhận xét về Nguyễn Bính, Hoài Thanh cũng viết: “Và thơ Nguyễn Bính đã đánh
thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta vẫn thấy vườn cau, bụi chuối là
hoàn cảnh tự nhiên của ta và những hình thức đơn giản của dân quê là những tính
tình căn bản của ta” [21, tr. 9].
Hầu như trong phong trào Thơ Mới, bên cạnh những nhà thơ tên tuổi như
Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ… khi nói đến ảnh hưởng của thơ Pháp đến thơ Việt.
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 17
Thì trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh nhận xét: “Mỗi nhà thơ Việt hình như
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp” [5, tr. 24]. Nếu điều này là đúng với
một số người thì trong đó không có Nguyễn Bính, “Nguyễn Bính đi tìm tính chất
Việt Nam lại trở về cao dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vỏ mộc mạc của những câu
hát đồng quê” [5, tr. 24], khi mà người ta háo hức hiện đại hóa, đua nhau cách tân,
lao vào tìm hiểu những cái mới lạ của phương Tây, thì Nguyễn Bính cứ hồn nhiên
giữa làng thơ với chất quê mộc mạc của mình như:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
(Tương tư)
Vì vậy mà trong cuộc sống hôm nay giữa nhiều bộ mặt đổi thay từ quan niệm
sống, đến thị hiếu cả nếp sống thẩm mỹ hằng ngày dần dần thay đổi theo thời gian.
Điều đó kéo theo văn chương cũng chịu nhiều ảnh hưởng ngoại lai, giữa cái xu
hướng phát triển xô bồ phức tạp ấy, Nguyễn Bính muốn tìm về với cội nguồn. Cái
gốc làng quê trong con người Nguyễn Bính luôn nhắc nhở tác giả trở về với dân tộc.
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
(Chân quê)
Hai tiếng “chân quê” từ đây đã trở thành một từ ngữ quen thuộc nói lên một
phẩm chất trong đời, trong thơ. Nó thuộc về gốc, về ngọn nguồn, chưa hề pha tạp,
biến chất, đổi thay. Nguyễn Bính rất chân trọng những cảm hứng thơ được khơi
nguồn từ đời sống của quê hương, của dân tộc với những chất liệu phong phú và
thanh cao, với những tình cảm bình dị, gần gũi mà xiết bao quý báu. “Sống với giản
dị ra dưới sáng/ Tìm thấy cho lòng một cảnh tiên?”.
Nguyễn Bính còn là một nhà thơ mang đậm bản sắc dân tộc rõ nét nhất. Dân
tộc nhưng không thô kệch, quê mùa, ngược lại rất tinh tế, thanh cao nữa, Nguyễn
Bính không bị rơi vào chủ nghĩa phản ánh minh họa như một vài nhà thơ khác, toàn
bộ thơ Nguyễn Bính hợp thành một “tổ khúc đồng nội”, không lẫn với ai, không lẫn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 18
vào đâu được. Xuyên suốt mạch thơ của Nguyễn Bính từ nội dung, hình thức nghệ
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
thuật đều mang tính “dân tộc”, mang tính “chân quê”, đôi lúc cũng có sự cách tân
cho phù hợp với giọng điệu thơ, nhưng cuối cùng giọng điệu chính cũng chỉ là
giọng điệu “chân quê”. Vì con người có sống như thế nào đi nữa thì cái chân quê
vẫn là nguồn cội, là gốc rễ, là tình nghĩa của người và người không sao phai nhòa
được.
Bên cạnh nét đặc điểm thơ Nguyễn Bính là thơ của “chân quê” thì song song
đó ta còn phát hiện một tài năng thơ lục bát trong cái “chân quê”. Bằng những hình
ảnh chân quê sinh động, Nguyễn Bính bộc lộ được khía cạnh ca dao dân ca quê
hương qua những bài thơ lục bát hết sức thú vị mà không kém phần hấp dẫn, lay
động được tâm hồn giới đọc. Chính thể thơ lục bát đã mang lại vẻ hồn nhiên, tươi
thắm của chất trữ tình đồng quê cho thơ Nguyễn Bính. Nhằm tạo cho Nguyễn Bính
có một giọng điệu riêng. Mà giọng điệu này như là một mạch máu lưu thông chảy
mãi để nuôi sống tâm hồn nhà thơ với một giọng điệu “chân quê” hồn nhiên, hồn
hậu.
1.2. Lý luận chung về giọng điệu.
Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong việc xác định phong cách của một
tác giả. Một nhà văn muốn có phong cách riêng nhất thiết phải có giọng điệu riêng.
Giọng điệu không chỉ mang nội dung tình cảm mà còn thể hiện thái độ của
tác giả về đời sống. Giọng điệu văn chương là một yếu tố tạo nên phong cách nghệ
thuật, nó cho phép ta hiểu sâu hơn sự phong phú của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu
vừa là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo của nhà văn vừa là một hiện tượng ảnh
hưởng không nhỏ đến các thời đại văn học. Do đó, chúng tôi thấy cần cảm nhận về
giọng điệu nghệ thuật của tác giả Nguyễn Bính để qua đó chúng tôi hiểu rõ hơn và
cảm nhận được sâu hơn về con người và thơ của Nguyễn Bính.
1.2.1. Thuật ngữ giọng điệu.
Cảm hứng trong sáng tác luôn gắn liền với giọng điệu nhà văn. Mà giọng
điệu thì có tác dụng thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về
đối tượng được nói đến. Điều đó chứng minh rằng để nắm được cốt lõi vấn đề của
một tác phẩm thì người đọc cần nắm bắt chính xác giọng điệu của tác phẩm đó
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học thì “Giọng điệu phản ánh lập trường xã
hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 19
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc”.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Giọng điệu trong Tiếng Việt là một từ ghép gồm hai thành tố: giọng và điệu,
nếu giọng chủ yếu biểu thị âm thanh, khí lực của người nói, thì điệu chủ yếu biểu
thị đường nét màu sắc của giọng. Sự kết hợp giữa chúng không mang tính cộng sinh
mà là sự kết hợp để mang một nội dung khác, hoàn chỉnh. Không thể có giọng điệu
nếu như không có những rung động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân
phận con người, không chia sẻ với họ niềm vui hay tình yêu trong cuộc sống. Trong
nghệ thuật ngôn từ giọng điệu không chỉ bộc lộ qua âm thanh, nhịp điệu mà còn bộc
lô qua màu sắc, đường nét hình ảnh.
Còn GS. Trần Đình Sử trong Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại cũng
cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần quan
trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”. Theo Trần Đình Sử giọng điệu là: “Là
sự biểu thị lập trường tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lí giải và chiếm lĩnh
hiện thực của thi nhân” [19, tr. 22; 23]. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì nhận
định “Cảm hứng nào giọng điệu ấy, nhưng cũng có thể ngược lại giọng điệu định
hướng hình thành cảm hứng”. Còn Nguyễn Đăng Mạnh thì giọng điệu là “Một yếu
tố quan trọng tạo nên phong cách nghệ sĩ”.
Trong Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000) định nghĩa
giọng điệu như sau: “Giọng điệu là “giọng nói”, lối nói biểu thị một thái độ nhất
định”.
Với tên gọi giọng văn (thơ) trong Từ điển Văn học (Nhà xuất bản Thế giới,
năm 2004), nhà lý luận Lê Ngọc Trà đã định nghĩa một cách khái quát: “Giọng văn
hay giọng thơ là phạm trù của thi pháp học, nghiên cứu một trong những hình thức
bộc lộ chủ quan của nhà văn trong tác phẩm nghệ thuật (…Trong giọng thể hiện cả
nhận thức, thái độ lối sống và cả nội lực của nhà văn (giọng nhiều khi cũng có
nghĩa là hơi văn, văn khí). Đồng thời, giọng cũng là cái không lẫn được. Chính tính
tổng hợp và độc đáo ấy làm cho giọng trở thành nhân tố mang phong cách rất rõ”
[25, tr. 152]. Qua định nghĩa chúng ta thấy được, giọng điệu không chỉ là một trong
những yếu tố quan trọng tạo nên hình thức nghệ thuật của tác phẩm mà đặc biệt nó
còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt trong phong cách tác giả.
Nguyễn Đăng Điệp đã nhận thức đúng rằng: “Giọng điệu thể hiện thái độ,
lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 20
tượng mà lời văn ấy hướng vào. Vì thế, giọng điệu là một thuộc tính có vẻ bề ngoài
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
nhưng rất là bản chất của văn học”. Giọng điệu là “tân chi thanh” mỗi nhà văn do
cá tính, hình ảnh mà có thể chế tạo giọng điệu riêng.
Tóm lại giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật
của văn học. Đây là thứ hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thước đo
không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà văn, nhà
thơ. Nên trong luận văn này tôi sẽ theo quan niệm giọng điệu của Gs. Trần Đình Sử
để “Cảm nhận vấn đề giọng điệu trong thơ và từ đó lí giải tại sao giọng điệu lại là
một yếu tố tạo nên nét riêng của tác giả”
1.2.2. Giọng điệu - một biểu hiện nghệ thuật.
Giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của
văn học. Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả, là
sản phẩm mang tính cá biệt, độc đáo kết tinh sự sáng tạo độc đáo của nhà văn,
giọng điệu là một phương tiện bộc lộ hình tượng tác giả. Nói cách khác, hình tượng
tác giả, cái nhìn của nhà văn thể hiện hết sức rõ nét qua giọng điệu.
Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không
phải là ngẫu hứng. Tùy vào hoàn cảnh mà việc phân chia giọng điệu trong tác phẩm
cũng không giống nhau vì thế mà giọng điệu không chỉ có một biểu hiện mà giọng
điệu có rất nhiều biểu hiện. Căn cứ vào sắc thái tình cảm thì có thể nói đến giọng
gay gắt hay tình cảm, trang trọng hay suồng sã, mạnh hay yếu, kính cẩn hay châm
biếm…Căn cứ vào dạng thức cảm hứng chủ đạo thì có giọng bi, giọng hài, giọng
anh hùng ca…Nếu như chú ý đến khuynh hướng tư tưởng thì có các giọng: thông
cảm hay lên án, yêu thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định…có khi từ cái
nhìn ngôn ngữ học chia thành giọng trần thuật, giọng nghi vấn, giọng cảm thán. Về
cơ bản giọng điệu bộc lộ các sắc điệu tình cảm của chủ thể phát ngôn. Giọng điệu
được thể hiện hết sức linh hoạt và phong phú, để bắt trúng giọng điệu, người đọc
phải thể hiện cách nhìn sắc sảo, đòi hỏi sự tinh tế trong cảm nhận. Trong văn học
dân gian, giọng điệu cá nhân chưa bộc lộ rõ cái tôi như trong thơ ca hiện đại. Trong
thơ trung đại cái nhìn chủ thể cũng chưa thể hiện đậm nét. Trong tác phẩm trữ tình
tác giả thường thay lời của một ai đó, người nói trong thơ để thể hiện cảm xúc, thái
độ, cách nhìn của tác giả. Đó chính là hình thức và giọng điệu của nhân vật trữ tình,
có khi nhà thơ thể hiện những cảm xúc, thái độ kinh nghiệm của cá nhân, lúc ấy sẽ
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 21
bắt gặp cái “tôi” nội tâm của nhà thơ. Rõ ràng giọng điệu thường thể hiện tâm tính
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
con người, phản ánh tâm trạng của họ. Âm thanh giọng điệu cũng phù hợp với nội
dung cảm xúc, khi vui giọng vang rõ, khi buồn giọng lắng lại, thấp xuống.
Tóm lại, tìm hiểu giọng điệu trong thơ ca, vấn đề đầu tiên cần phải quan tâm
là chú ý mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể được phản ánh. Vì giọng
điệu gắn với tâm hồn nghệ sĩ và đối tượng được miêu tả.
1.2.3. Vai trò của giọng điệu.
Như chúng ta đã định nghĩa giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng
của chủ thể tác giả, giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị
hiếu thẩm mỹ của tác giả. Vì thế mà giọng điệu có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm người đọc. Như vậy, điểm nổi bật của
giọng điệu là qua đó nhà văn thể hiện thái độ, lập trường tình cảm của chính mình.
Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả.
Trong tác phẩm có thể có nhiều nhân vật giả tạo, dối trá, giọng tác giả có vai trò và
bổn phận vạch trần sự dối trá đó. Giọng điệu có một vai trò rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn. Mỗi nhà văn có giọng điệu riêng sẽ hình thành phong cách
riêng. Giọng điệu có khi mang nhưng sắc thái như: hào hùng, đanh thép, vui tươi, tự
hào, trang trọng, tin tưởng…có khi sâu xa thâm thúy, có khi mộc mạc giản đơn, có
khi dí dỏm hài hước, hoặc kín đáo trang nhã, hoặc buồn thương… Vì thế mà giọng
điệu trong tác phẩm có vai trò rất lớn trong việc tạo dựng kết cấu cũng như trong
tiếp nhận văn học. Như Lê Ngọc Trà: “Giọng điệu vừa liên kết các yếu tố hình thức
khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung một
khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ
lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng
ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy dủ hơn, thậm chí mới mẻ hơn” [25, tr. 152].
Trong tiếp nhận, cảm thụ văn học, ngoài những nhãn tự, thần cú, cấu trúc…có thể
hấp dẫn người đọc thì giọng điệu cũng có khả năng tác động lớn đến độc giả. người
ta có thể bị lôi cuốn ngay ở câu thơ đầu tiên bởi giọng điệu của nó, và cũng chính sự
độc đáo về giọng điệu mà bài thơ cũng trở nên dễ nhớ, dễ thuộc hay không.
Mỗi nhà văn nhà thơ muốn tác phẩm của mình được công chúng độc giả ưa
thích, thì trước hết mình phải đặt vào trong mỗi tác phẩm của mình một giọng điệu
mà giọng điệu ấy phải phù hợp với nội tâm, tình cảm, cách suy nghĩ của mình vào
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 22
trong tác phẩm, nhưng phải làm sao cho càng đơn giản, càng mộc mạc thì sẽ biến
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
giọng điệu càng đi sâu vào nội tâm người thưởng thức bấy nhiêu. Nhưng đâu phải
lúc nào chúng ta cũng dễ dàng tiếp nhận hết cả hai yếu tố giọng điệu phù hợp với
suy nghĩ của tác giả, người đọc rất khó nắm bắt được ngụ ý tác giả đã đặt ngầm ẩn
sâu trong mỗi bài thơ vừa viết nên là mang ý nghĩa gì. Vì thế giọng điệu trong thơ
văn không hoa mỹ, không cao xa thậm chí giọng điệu chỉ đơn thuần là nét riêng của
một phong cách nhà thơ mà thôi, nhưng không có giọng điệu thì ta không thể biết
được bài thơ đó hay hay dở. Giọng điệu giúp người đọc lĩnh hội, hiểu thấu được hết
cái ẩn ý sâu trong bài thơ của tác giả đó mới chính là vai trò của giọng điệu, và
giọng điệu còn có vai trò góp phần tạo nên phong cách tác giả, nét đặc sắc cho tác
phẩm hay là chủ đề của tác phẩm.
1.2.3.1. Giọng điệu - một trong những yếu tố tạo nên phong cách tác giả.
Phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau tùy theo tính chất của ngành khoa học đó. Và Mác cũng đã có lần nói “Phong
cách chính là người”.
Nói đến phong cách là nói đến dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ được in
đậm lên tác phẩm: từ cách tổ chức tác phẩm, cách xử lí đề tài, cách xây dựng nhân
vật, tạo tình huống đến giọng điệu, ngôn ngữ… Nói đến phong cách là nói đến sự
thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Khi nghiên cứu các lý thuyết về phong cách và soi chiếu vào các văn bản
nghệ thuật cụ thể, chúng tôi hiểu rằng phong cách là một thực thể ẩn hiện mà vẫn có
hình thù, được hình thành ngay từ lúc nhà văn mới cầm bút, nhưng lại vận động,
phát triển và chịu ảnh hưởng của thế giới quan, của môi trường sống, của bối cảnh
thời đại, của các nhà văn mà họ yêu thích. Phong cách được hình thành trên cơ sở
tài năng nhưng nếu nhà văn không khổ công trong lao động nghệ thuật thì tài năng
cũng mới chỉ ở thế tiềm năng bẩm sinh. Quá trình mỗi người viết tạo nên được cho
mình một phong cách là quá trình đòi hỏi sự nỗ lực trong sáng tạo, là cuộc hành
trình để khẳng định cái bản ngã cá nhân của người cầm bút. Phấn đấu để có được
một phong cách nghệ thuật cá nhân, đó là sự đóng góp đích thực của mỗi người viết
cho sự phát triển chung của cả nền văn học. Và Phạm Văn Đồng từng nói rằng:
“Phải lắng nghe cái gì sâu xa nhất trong con người mình, bồi dưỡng cho mình một
bản lĩnh vững vàng, một phong cách độc đáo, vì nghệ thuật không phải là sản xuất
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 23
hàng loạt như sản xuất công nghiệp”. Cho nên, phong cách là chỗ độc đáo về tư
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của
những nhà văn ưu tú, nghĩa là nó phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mỹ
cảm dồi dào. Chính vì thế mà không phải nhà văn nào cũng có phong cách, mặc dù
xét cho cùng nhà văn nào cũng có đặc điểm riêng.
Trên cơ sở nhận thức về phong cách như vậy, chúng tôi cố gắng tìm hiểu
giọng điệu - một trong những yếu tố đã tạo nên phong cách của Nguyễn Bính là như
thế nào.
Chúng ta cũng đã định nghĩa vai trò của giọng điệu rất quan trọng trong việc
định hình phong cách của tác giả. Và một nhà thơ muốn mình tồn tại, bén gốc được
trên thi đàn văn học thì ít nhất những sáng tác của mình phải có một phong cách
riêng, mới mẻ không chỉ ở phương diện nội dung, hình thức nghệ thuật mà đặc biệt
là phải có một giọng điệu đặc sắc. Để có được một phong cách riêng thì đó là một
vấn đề rất là quan trọng, nó đòi hỏi cả một quá trình tìm tòi, khám phá, mài mò hết
sức vất vả của nhà thơ. Nhưng nếu chỉ có phong cách riêng thì vẫn chưa đủ để
chứng minh một tài năng, một bản lĩnh của nhà thơ, vì hầu như mỗi tác giả đã tồn
tại trên thi đàn văn học thì chắc chắn đã tạo được riêng cho mình một phong cách.
Nên Nguyễn Bính đã tìm ra được cho mình một con đường thơ riêng trên thi đàn
Việt Nam hiện đại, con đương thơ ấy rất phù hợp với giọng điệu “Chân quê”, quê
mùa trong phong cách của thơ ông. Và ông đã tự mình đi trên con đường thơ ấy,
biết là phải nhọc nhằn, tất phải vất vả, tất là cay đắng và đau đớn lắm, nhưng ông đã
vượt qua được và tự khẳng định mình trong vô vàng những nhà thơ cùng thời với
mình, cũng chính đều đó mà Nguyễn Bính đã có đời sống riêng, một vị trí riêng trên
thi đàn Việt Nam. Một góc nhỏ của một hồn quê bình dị tha thiết, sâu nặng, ngọt
ngào và đắng cay. Ta nhớ một câu nói của M. Gorki: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là
riêng của mình, làm sao cho nó phát triển tự do. Lúc một người không có cái gì là
riêng của mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”.
Trong thời kỳ này có rất nhiều bài thơ, câu thơ viết về quê hương của những
nhà Thơ Mới như: Xuân Diệu, một người được coi là một nhà thơ Tây nhất nhưng
vẫn có những câu thơ man mác về phong vị xóm thôn quê kiểng:
“Trăng ở đó, đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 24
(Hoa đêm)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Huy Cận cũng ngất ngây với hương thơm mộc mạc của hoa dại, rơm khô,
lòng xao xuyến tưởng như cảnh quê của bao đời:
“Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa hè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ”
(Đi giữa đường thơm)
Hàn Mặc Tử gợi vẻ đẹp vừa thực vừa ảo của làng quê vào lúc đúng mùa
xuân đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất:
“Trong làn nắng ửng: khói mờ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”
(Mùa xuân chín)
Và đặc biệt, một dòng chảy về chốn thôn quê mạnh mẽ và rộng lớn trong
phong trào Thơ Mới với những tên tuổi như: Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ,
Nguyễn Bính…Thì suy cho cùng dù ngòi bút thi nhân rất tài hoa, dù đã dựng được
những hình ảnh sinh động về làng quê nhưng cả Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn
Cừ đều chỉ mới tả được cảnh quê. Còn ngược lại ở Nguyễn Bính, ông đã gửi vào
những vần thơ cuộc sống, tâm hồn mình, những am hiểu sâu sắc của mình về làng
quê, cho nên phong cảnh làng quê hằng ngày vốn quen thuộc qua những dòng thơ
của ông đã trở nên có hương, có sắc, có linh hồn và trở nên vô cùng thân thiết.
Không chỉ tả cảnh quê mà còn gợi được một cách thấm thía cái hồn quê, cái chân
quê. Đó là những đóng góp của Nguyễn Bính đối với phong trào Thơ Mới, hay nói
khác là, ông đã tìm được một phong cách riêng, một mảnh đất nương náu riêng cho
tâm hồn mình trong cơn gió bụi kinh thành.
Nguyễn Bính không chỉ có được một phong cách riêng khá đặc biệt khi viết
về làng quê, cảnh quê hay những mối tình e ấp của cô gái quê mà bên cạnh đó
Nguyễn Bính còn có một nét riêng về phong cách thơ đó là cách thể hiện cái tôi.
Như ta đã biết cái tôi của Nguyễn Bính, đấy là cái tôi thi sĩ: “Mình tôi giời bắt làm
thi sĩ” (Hoa với rượu), “Tôi là thi sĩ của yêu thương”.
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 25
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
(Cô hái mơ)
Đấy cũng là cái tôi thôn dân. Còn cái tôi của Nguyễn Bính trong thơ cũng
vẫn là cái tôi nội cảm như bao nhiêu nhà thơ lãng mạn khác. Như cái tôi nội cảm
của Nguyễn Bính cũng có nét riêng độc đáo, đó là cái tôi tình quê luôn đồng vọng
hồn quê, tâm lí dân quê. Trong mảng thơ viết về làng quê, “cái tôi” của tác giả
không đứng ngoài mà luôn chia sẻ hòa đồng với cảnh vật, con người của làng quê.
Tuổi trẻ lớn lên trong hương đồng gió nội, Nguyễn Bính luôn tự xem mình cũng là
một thành viên của cộng đồng. “Cái tôi” ấy thắm thía trong Người hàng xóm, “Nhà
nàng ở cạnh nhà tôi”, “Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng” và tràn đầy thương
nhớ trong Tương tư:
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
“Cái tôi” cảm thông với những khó khăn trắc trở trong tình yêu:
“Tình tôi mở giữa mùa thu
Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm”
(Đêm cuối cùng)
1.2.3.2. Giọng điệu góp phần tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm.
Cũng như ta đã phân tích ở trên. Thơ của Nguyễn Bính không chỉ có một
giọng điệu riêng, một phong cách riêng, một quan điểm nghệ thuật riêng mà thơ
Nguyễn Bính còn lột tả được tận cùng những số phận vui buồn, đắng cay hay những
hạnh phúc nhỏ nhoi của nhiều mảnh đời khác nhau trong cuộc sống. Cũng cùng
xuất hiện trên thi đàn Việt Nam (1932 - 1945) cũng viết về làng quê Việt Nam với
những vần thơ hết sức gần gũi quen thuộc, mộc mạc với những con người chân lấm
tay bùn, giản dị, quê mùa. Nhưng ở Nguyễn Bính có cái nét riêng khi viết về làng
quê ở trong thơ mình. Thơ làng quê của Nguyễn Bính không chỉ có hình ảnh quê
mùa mà ở ngay trong thơ tác giả thầm đặt vào trong ấy những cung bậc tình cảm
khác nhau qua mỗi dòng chảy của thời gian. Có thể nói Nguyễn Bính đã để lại một
dấu ấn riêng trên thi đàn Thơ Mới là dấu ấn của một trái tim chân quê để hát những
lời ca trữ tình của một hồn quê lãng mạn, mà hầu như trong giai đoạn (1932 - 1944)
không có ai hát giống như nhà thơ ấy. Nguyễn Bính giống như một con chim sơn ca
đồng nội bình dị, nó hót một cái giọng điệu riêng của mình trong bản giao hưởng thi
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 26
ca buổi sáng của thế kỷ này trong văn chương Việt Nam. Và một nữa thế kỷ trôi qua
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
rồi mà người đọc vẫn nhớ, vẫn đọc giọng thơ ấy, Nguyễn Bính có một khả năng
riêng, ông đã nói một cách giản dị những cảm xúc phức tạp của con người hiện đại.
Văn hóa dân gian và đặc biệt là thơ ca dân gian đã bắt rễ trên mảnh đất thơ ca màu
mỡ trong tâm hồn nhà thơ, và bản thân nhà thơ đến lượt mình chịu ảnh hưởng một
cách tự nhiên gần như vô thức của nó. Để rồi cuối đời ông đã viết một bài thơ:
“Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ”
Rõ ràng với sáng tạo độc đáo của mình, Nguyễn Bính đã mang đến cho thơ
hiện đại một dáng vẻ mới, một sinh lực mới và một sự đa dạng mới không thể phủ
nhận được. Bởi vậy, Nguyễn Bính luôn có một vị trí riêng, thơ Nguyễn Bính luôn đi
sâu và diễn tả cái “tình yêu” thấm đẫm hồn quê, có thể nói nét đặc sắc trong toàn bộ
tác phẩm thơ của Nguyễn Bính đó chính là nét “chân quê” và cũng chính bài thơ
Chân quê là một bài thơ tiêu biểu về cái hồn quê của Nguyễn Bính.Với ông chân
quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hóa dân tộc, là nét đẹp nhân bản của con người
Việt nam, phải biết bảo vệ và gìn giữ nó. Tuy cái hồn thơ quê tài ba ngày xưa chỉ
còn len lói trong một vài bài thơ, một ít tứ thơ và câu thơ thôi nhưng Nguyễn Bính
vẫn mãi mãi là Nguyễn Bính sẽ tồn tại trong trái tim mỗi con người qua bao năm
tháng không bao giờ phai, khi người ta đọc thơ ông thì tức khắc người ta sẽ nhớ đến
một nét đặc sắc trong thơ ông đó chính là nét đẹp “chân quê” mà hầu như không
bao giờ và sẽ không bao giờ đọc giả nhầm lẫn với bất kỳ ai.
1.2.3.3. Giọng điệu góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Chúng ta cũng biết giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo nên phong
cách của nhà văn, nhà thơ, mà qua đó giọng điệu còn góp phần tạo nên nét đặc sắc
cho những chủ đề của tác phẩm. Vì mỗi một nhà thơ muốn có một phong cách riêng
thì nhất thiết phải tự tạo cho mình một giọng điệu riêng và giọng điệu riêng ấy sẽ là
giọng điệu chung chủ đạo trong những tác phẩm của mình.
Từ xưa đến nay mỗi khi người ta nhắc đến cái tên Nguyễn Bính trên thi đàn
Việt Nam thì hầu như ai cũng biết Nguyễn Bính là nhà thơ của “chân quê”, “hồn
quê”. Không phải ngẫu nhiên hay vô cớ mà người ta lại gọi Nguyễn Bính như vậy,
vì người ta thấy len lỏi, sâu thẳm đằng sau những bài thơ của Nguyễn Bính có một
giọng điệu chân chất đẫm màu phong vị quê hương trong thơ ông, như khi ta đọc
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 27
mấy câu thơ sau:
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau”
(Chờ nhau)
Hoặc là:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê”
(Chân quê)
Cũng bởi làng quê đã sinh ra Nguyễn Bính và đã ban cho Nguyễn Bính một
tâm hồn mang đầy đủ bản chất thôn dã của nó, cùng với toàn bộ tinh hoa văn hóa,
tinh thần được chung đúc từ bao đời. Đồng thời làng quê cũng tiên lượng cho
Nguyễn Bính một số phận “ngọt ngào thì ít đắng cay thì nhiều”. Nhờ bản sắc riêng
của làng quê đã hun đúc nên một con người làng quê trong Nguyễn Bính không chỉ
có hình hài mà cả nội tâm suy nghĩ trong thâm tâm biểu hiện lẫn cả trong thơ,
Nguyễn Bính được mệnh danh là tài hoa cho nên những vần thơ của ông lúc nào
cũng có phần duyên dáng và đáng yêu như một cô gái thôn quê. Cũng chính nhờ
làng quê nên đã góp phần làm cho thơ của Nguyễn Bính ngày càng thêm nhiều chủ
đề mang nhiều giọng điệu khác nhau. Đặc biệt ta bắt gặp trong thơ của ông xuất
hiện rất nhiều giọng điệu như: giọng điệu trữ tình ngọt ngào, bâng khuâng, lưu
luyến hay giọng điệu buồn bã, chua cay, khinh bạc…và cuối cùng vẫn cái giọng
điệu “chân quê”, quê mùa sẽ là giọng điệu chính trong thơ ông. Nguyễn Bính luôn
xem trọng giọng điệu có trong thơ của mình. Vì chỉ có giọng điệu thì mỗi tác phẩm
mới có được một chủ đề hoàn chỉnh. Nếu như, khi ta đọc một bài thơ, bài văn với
một giọng điệu bình thường thì bản thân ta chưa thể hiện hết được vai trò của giọng
điệu trong tác phẩm đó. Cũng như chưa thể hiện được chủ đề mà tác giả đặt ra cho
ta. Cho nên điều cốt lõi quan trọng nhất đối với ta là trước khi đọc một tác phẩm thơ
văn nào dù là điếu văn, hay thơ trữ tình chúng ta cũng phải thể hiện cho hết cái
giọng điệu có trong câu văn, câu thơ đó để thể hiện chủ đề mà tác giả đặt ra. Nên vì
lí do đó mà Nguyễn Bính luôn xem trọng giọng điệu của thơ, dù cho mỗi giọng điệu
đó có vui buồn, có cay đắng hay hạnh phúc… thì thơ văn Nguyễn Bính vẫn không
bao giờ thiếu đi giọng điệu, vì giọng điệu chính là điểm nhấn mà ông cố tạo nên để
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 28
mỗi người đọc phân biệt được tác phẩm thơ ca đó là của riêng ông.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Qua khái niệm về vai trò của giọng điệu, ta thấy giọng điệu không những có
một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra tiếng nói riêng cho thơ mà vừa là tiếng
lòng riêng tư của tác giả. Cho nên, nếu bất kỳ thơ văn nào không có một âm điệu,
giọng điệu riêng tư thì sẽ không bao giờ tác động đến thị hiếu của người đọc. Bởi
vậy, qua đó ta hiểu giá trị của giọng điệu trong thơ của Nguyễn Bính là vô cùng
quan trọng, giúp mạch thơ của riêng bản thân ông trở thành một trong những yếu tố
tạo nên phong cách, bản lĩnh cho cá nhân mà cũng từ giọng điệu đã góp một phần
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 29
nào tạo nên nét riêng, nét đặc sắc cho chủ đề của những tác phẩm trong thơ.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
CHƢƠNG 2
BIỂU HIỆN GIỌNG ĐIỆU TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
2.1. Cơ sở hình thành giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính.
2.1.1. Đời sống văn chƣơng.
Nguyễn Bính vốn là một nhà thơ của đồng quê, của thôn xóm của những gì
thân thuộc nhất đối với nông dân. Vì vậy mà trong đời sống văn chương hầu như
khi viết về quê hương, rất nhiều nhà văn trong đó có Nguyễn Bính đã lấy đề tài thôn
quê là đề tài chính trong sáng tác văn chương của mình. Đặc biệt là trong phong
trào Thơ Mới (1932- 1941), Nguyễn Bính nổi lên như một ngôi sao sáng. Ông đóng
góp một vai trò hết sức to lớn trong phong trào Thơ Mới. Cùng với một số nhà thơ
tiêu biểu khác như: Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ…, Nguyễn Bính đã tạo
nên một dòng thơ đồng quê mượt mà và trữ tình. Thơ của Nguyễn Bính mang bản
chất những dòng ca dao trữ tình đôn hậu, nhẹ nhàng chan chứa tình cảm đích thực
hiền hòa của đôi trai gái đồng quê yêu nhau. Trong thơ Nguyễn Bính chúng ta
không cảm thấy ngôn từ hoa mỹ điệu nghệ bóng bẩy văn hoa của thị thành. Đã từ
lâu nhiều nhận xét trên thi đàn văn học qua bộ môn thi ca tiền chiến hầu như mọi
người đều đồng ý cho rằng. Thơ Nguyễn Bính gần gũi với dân chúng nhất, biểu lộ
được tính chất sinh hoạt đơn giản hàng ngày, những phong tục bình dân, những sắc
thái phong cảnh mộc mạc của làng xóm, của những cảm nghĩ chân chất như giọt
sương trên cành lá sớm mai, như tiếng chim hót trên hàng tre ban trưa và làn khói
lam chiều. Bởi vậy, mà trong suốt chặng đường sáng tác văn chương của mình
Nguyễn Bính chọn đề tài là chốn thôn quê, vì trong thơ ông luôn ngập tràn những
hình ảnh của chốn thôn quê chòm xóm. Ở đó có những tình cảm chân chất nồng ấm
của những người dân quê hồn hậu, mến thương, nên người ta luôn gọi Nguyễn Bính
là nhà thơ của chân quê, hồn quê, tình quê và thi sĩ của đồng quê. Trong thơ của
Nguyễn Bính thôn quê luôn là cái gì đó bất biến trong không gian và thời gian. Do
đó, ngay hình ảnh những người quê đương thời nhưng cũng mang nét điển hình,
tiêu biểu cho con người quê ở mọi thời đại. Thơ Nguyễn Bính làm rung động tới
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 30
những gì cổ xưa, mến thương nhất của tâm linh người Việt là vì thế.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ những hình ảnh của đời sống dân dã của tuổi thơ đến những hình ảnh của
hôm nay qua bao thời đại nó vẫn ẩn hiện trong thơ Nguyễn Bính mà không bao giờ
phai mờ. Ta có khi nào chợt nhận ra rằng chính những điều thơ ngây, giản dị của trẻ
thơ như một lần tắm mưa, đuổi bắt bướm, hay thả diều…những điều giản dị kia một
thời của trẻ thơ đã qua đi nhưng hôm nay và ngay trong những vần thơ, trang thơ
của Nguyễn Bính được ghi lại và được vẽ nên thành một bức tranh thủy mộc. Thiết
tha biết bao nhiêu dẫu biết rằng thời thơ ấu đã đi qua nhưng mà những kỷ niệm đó
sẽ in đậm trong ký ức mãi tuổi thơ hồn nhiên của những chú bé, cô bé làng quê như:
“Còn nhớ năm xưa đuổi bướm vàng
Mải vui quên cả nắng chang chang”
(Sống lại)
“Có hai em bé học trò
Xem con kiến gió đi đò lá tre”
(Tiền và lá)
Chính nhờ cái bản sắc riêng của làng quê thân thương mà thơ Nguyễn Bính
tài hoa duyên dáng, trinh bạch và đáng yêu như cô gái quê. Thơ Nguyễn Bính
không có cái hào hoa lãng tử như Thế Lữ, cái bay bổng háo hức của Xuân Diệu, cái
vẻ kì bí của Chế Lan Viên, cái điên rồ vật vã của Hàn Mặc Tử, hay là những bức
tranh quê cụ thể như Anh Thơ, hoặc tỉ mỉ với cảnh, với người như Đoàn Văn Cừ.
Thơ của Nguyễn Bính chỉ đơn giản là mang nặng mối tình quê đằm thắm với xứ
quê, người quê và chứa chất muôn vàn tâm sự của một đời thi sĩ lang bạt kì hồ đầy
khổ đau, đắng cay và thất vọng. Toàn bộ đời sống văn chương của Nguyễn Bính tựa
như một áng văn chương tuyệt đẹp, là tiếng nói của một tâm hồn yêu quá tha thiết
và tình cảm quá đầy đến nỗi không còn dành một góc đáng kể nào cho tư tưởng và
lí trí. Đặc biệt là thơ của ông đã khơi gợi nhiều ở thế giới nội tâm, ở tình đời, tình
người. Phần lớn các nhà phê bình đã từng nhận xét là: “Thơ của Nguyễn Bính
không lãng mạn, nồng cháy như Xuân Diệu, không chứa chan như Huy Cận, nhưng
đều đặc biệt là thơ của Nguyễn Bính nhẹ nhàng và mộng tưởng”. Từ đời sống văn
chương và nét đặc sắc của con đường thơ Nguyễn Bính đã góp phần vào việc hình
thành cơ sở giọng điệu trong thơ của Nguyễn Bính có những điều khác lạ trong văn
chương, ngay từ hoàn cảnh bản thân đến con đường sáng tác văn chương cũng
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 31
mang một giọng điệu riêng so với các nhà thơ cùng thời có tên tuổi hơn ông.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
2.1.2. Cuộc sống gia đình.
Chúng ta cũng đã cho rằng đời sống văn chương đã là một cơ sở để hình
thành nên giọng điệu trong thơ của Nguyễn Bính. Thì bên cạnh đó cuộc sống gia
đình cũng là một cơ sở thứ hai rất quan trọng góp phần tạo tiền đề cho những sáng
tác của Nguyễn Bính thêm nhiều giọng điệu trong thơ hơn. Từ những người thân
trong gia đình như cha, cậu, anh trai và bên cạnh đó không bao giờ thiếu đi hình
bóng của người nông dân... tất cả sẽ làm tiền đề và cơ sở cho Nguyễn Bính sáng tác
nên những bài thơ mang nhiều giọng điệu hơn. Cũng chính với cái giọng điệu riêng
ấy mà Nguyễn Bính đã có được một tiếng nói riêng trên thi đàn của văn học.
Cơ sở đầu tiên là bắt đầu từ cuộc sống của gia đình ông. Có thể khẳng định
rằng gia đình của Nguyễn Bính ngay từ khi còn mẹ thì có thể nói là “cơm ăn đủ
bữa, áo lành đủ thay”. Nhưng đến khi Bính được ba tháng tuổi thì mẹ Bính qua đời,
cuộc sống gia đình từ đó trở nên túng thiếu, khó khăn. Nên Nguyễn Bính không có
điều kiện để đi học ở nhà trương như bao đứa bạn cùng trang lứa. Nguyễn Bính chỉ
được học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình (thường gọi là ông cả
Biền) làm nghề dạy học, tính tình điềm đạm, hiền lành, trọng chữ nghĩa hơn cả vật
chất. Ông cả Biền thường dạy các con rằng:
“Nhà ta coi chữ hơn vàng
Coi tài hơn cả giàu sang ở đời”
(Con nhà nho cũ)
Chính cuộc sống gia đình nghèo khó đã phần nào tác động đến những nghĩ suy
trong lòng Nguyễn Bính. Từ đó dần dần về sau mỗi khi ông sáng tác thơ văn thì
chính giọng điệu văn chương trong đời sống của cha đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến những giọng điệu sau này mỗi khi Nguyễn Bính sáng tác. Và có lẽ chính cảnh
nhà bi thương như thế mà ông đã bắt đầu có một giọng điệu buồn bã ngay từ sáng
tác đầu tiên trong bài thơ Nhà tôi có đoạn như sau:
“Thày tôi dạy học chữ nho
Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh
Có gì tiếng cả nhà tranh
Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay
Còn tôi sống sót là may
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 32
Mẹ hiền mất sớm, giời đầy làm thơ!”
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nguyễn Bính thấy gia cảnh mình ngày càng túng thiếu, điều kiện học hành
thì cùng không có. Ông thấy buồn cho mình, buồn cho cuộc đời, từ đó hầu như
mạch thơ của ông bắt đầu có một giọng điệu chua cay, khinh bạc trước số phận đen
đủi của mình.
Mặc khác, cũng bởi gia cảnh nghèo khó mà 3 anh em của Nguyễn Bính được
bà cả Giần, chị ruột của mẹ và là người giàu có, đem ba cháu về cưu mang và cho
tiếp tục việc học. Ở một làng đồng chiêm hẻo lánh ven đô, đẹp như một bức tranh
“Thôn Vân có biếc có hồng/ Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều”. Lần
này, thầy dạy học chính là anh ruột của mẹ (mà anh em Nguyễn Bính thường gọi là
bác), tên là Bùi Trình Khiêm. Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính và là
cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn. Cụ Khiêm nổi tiếng hay chữ khắp vùng nhưng thi
cử không đỗ, một nhà nho nổi tiếng cụ từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thục, là thầy dạy học chữ Nho của ông Trần Huy Liệu. Bùi Trình Khiêm vào Nam
Kỳ định làm báo nhưng bị thực dân Pháp bắt giải về quản thúc ở quê nhà cho tới
năm 1945.
Ông Khiêm dạy chữ Hán cho ba anh em, Bính học được nhiều hơn. Thời kỳ
này Bính bắt đầu tập tễnh làm thơ và dịch thơ, có bài được bác Khiêm khen hay,
nên được nuông chiều. Cũng chính nhờ người cậu giỏi chữ Nho này mà Nguyễn
Bính có điều kiện tiếp xúc sớm với chữ nghĩa nghệ thuật thơ phú. Nguyễn Bính bắt
đầu vào lớp sơ học trường huyện, mười ba tuổi Nguyễn Bính làm mọi người kinh
ngạc về tài làm thơ của mình về bài thơ Chọi gà vào dịp tháng ba âm lịch của lễ hội
Phủ Giầy tỉnh Nam Định và được giải nhất cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội
làng, từ đó Nguyễn Bính nổi tiếng và được mọi người xem là một thần đồng.
Ngoài việc học chữ Quốc ngữ, chữ Nho và cả chữ Hán. Nguyễn Bính còn
được cậu kể cho nghe nhiều câu chuyện. Thơ phú văn chương cổ, thói người tình
đời là nhiều hơn cả. Những chuyện như nghĩa quân chống Tây từng cắm cờ ở núi
Già, chợ Mụa...những đôi câu đố viếng ông Nghè Giao Cù, bài thơ Động Hoa Sen
của Phạm Văn Nghị, bài thơ Bỏ thi của Phan Chu Trinh ...v.v. Gần như được
Nguyễn Bính và bạn ngày xưa học chữ Nho thuộc lòng. Thời kỳ ở Thôn Vân,
Nguyễn Bính cũng có làm thơ và dịch thơ Hán sang tiếng Việt (có khi ngược lại),
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 33
những câu như:
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Cười như anh khóa hỏng thi
Khóc như cô ả ngày đi lấy chồng”
Nguyễn Bính đã lớn lên và được học tập nhiều từ người cậu Khiêm của mình
không chỉ có thơ văn, chữ nghĩa cho đến những lễ giáo của gia phong... Nguyễn
Bính gần như tiếp thu và học tập từ cậu một cách trọn vẹn nên đó là lí do mà sau
này những mạch thơ của Nguyễn Bính hầu như phần lớn cũng ảnh hưởng từ giọng
điệu của người cậu truyền đạt cho Nguyễn Bính từ tấm bé.
Bên cạnh đó, ta thấy những vần thơ của Nguyễn Bính cũng có một phần ảnh
hưởng từ người anh trai là Trúc Đường. Năm 1932, thì Trúc Đường thi đỗ thành
chung và làm gia sư, tự nuôi được chính mình. Ông đem Nguyễn Bính đi theo, cho
em vào học tiểu học và bên cạnh đó ông còn dạy thêm tiếng Pháp cho em, truyền
đạt văn học Pháp cho Bính, Nguyễn Bính vào trường tiểu học:
“Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ”
(Trường huyện)
Bính có vốn thơ Đường, nay hiểu thêm thơ Pháp. Trúc Đường thay mẹ chăm
sóc em có thể nói rằng suốt cuộc đời của Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường về
văn chương và cả cuộc sống. Trúc Đường hay thường đem em đi khắp các vùng quê
để giữ cho mạch thơ của em được chân chất. Nguyễn Bính thường đi tới các vùng
miền khác như Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, vào động Hương Tích và bắt đầu xuất
hiện bài thơ Cô hái mơ.
Trúc Đường rủ Nguyễn Bính đi chơi thuyền trên sông Nhuệ ở Hà Đông.
Cảm hứng, Bính làm hai bài thơ dài: Mười hai bến nước và Lỡ bước sang ngang
năm 1939.
“Dừng chân trên bến sông buồn
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang”
(Lỡ bước sang ngang)
Nguyễn Bính ở với Trúc Đường, Nguyễn Bính không phải lao động nặng
nhọc, nên không biết quý trọng đồng tiền, nếu có tiền tiêu là phung phí. Nguyễn
Bính thông minh nhưng không chăm học, có hôm vờ ốm, nghỉ ở nhà làm thơ, có lần
đi đâu đó mấy ngày và khi trở về cùng mấy bài thơ khoe với anh. Vừa mừng, vừa
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 34
thương, mến, giận, hai anh em lại ngồi đàm đạo thơ văn. Nhưng không phải lúc nào
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
cũng suôn sẻ, có bài Trúc Đường chê dở phải sửa chữa nhiều lần. Bính nể Trúc
Đường, sợ cậu Khiêm và bác cả Giần, nhưng cá tính thì không sửa được. Đôi lúc
sống bạt tử, nhất là khi đã tự lực kiếm sống bằng ngòi bút của mình. Học xong tiểu
học lên trung học, Trúc Đường đành để Nguyễn Bính theo đuổi nghiệp thơ. Nguyễn
Bính thích đi Hà Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thanh Hóa đến đâu Bính cũng sáng
tác thơ.
Sau này, khi Trúc Đường chuyển ra Hà Nội viết chuyện dài Nhan sắc, Bính
tỏ ý muốn đi Huế để tìm đề tài sáng tác, Trúc Đường tán thành nhưng không có
tiền, bèn cho em chiếc máy ảnh, rồi về quê bán dãy thềm đá xanh, vật báu duy nhất
còn lại của gia đình, đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính với giao ước: “Anh sẽ viết
xong Nhan sắc vào năm 1941”. Vào Huế, Bính gửi thơ ra cho anh đọc trước, rồi
đăng báo sau. Và cuối cùng là Trúc Đường đã nhận được rất nhiều bài thơ của
Nguyễn Bính, trong đó có bài Xuân tha hương và Oan nghiệt. Những ngày dịp giáp
tết đọc lại Xuân tha hương rồi Xuân vẫn tha hương của em, Trúc Đường lại thương
nhớ khắc khoải.
Sau này khi tập kết ra Hà Nội, Nguyễn Bính về ở với gia đình Trúc Đường.
Hai anh em lại bàn bạc, chuyển đề tài viết, Nguyễn Bính làm thơ Gửi người vợ miền
Nam, Đêm sao sáng, Bức thư nhà... Có thể nói sự nghiệp văn chương và cuộc sống
gia đình thì Nguyễn Bính cũng đã học tập từ người anh trai không ít. Nguyễn Bính
vốn lớn lên bên cạnh Trúc Đường từ bé đến lớn. Ông đã học tập từ con người anh
cả cách sống và lối hành văn, được anh dạy dỗ, chăm sóc trong cuộc sống và còn
trong cách làm thơ, viết văn. Trúc Đường đã dạy Nguyễn Bính làm thơ, viết văn
thậm chí còn sửa câu chữ văn chương cho Nguyễn Bính...Từ đó mạch giọng điệu
trong thơ văn của anh trai cũng dần dần được anh trai truyền đạt sang những bài thơ
của Nguyễn Bính làm. Tuy nhiên mạch giọng điệu có được trong thơ của Nguyễn
Bính cũng nhờ những chuyến đi giang hồ mà ông có cơ sở hình thành thêm ngày
một phong phú, đa dạng giọng điệu trong thơ.
Suy cho cùng cơ sở giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính điều có ảnh hưởng
của gia đình như cha, cậu, anh trai... đã làm cho những sáng tác của Nguyễn Bính
mang nhiều hơn hướng giọng điệu khác nhau. Thì bên cạnh đó giọng điệu trong thơ
của Nguyễn Bính cũng bị ảnh hưởng từ những người nông dân. Chính những ngày
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 35
Nam tiến vào miền Nam, Nguyễn Bính có cơ hội sống cùng với những người dân,
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
những chiến sĩ đấu tranh, ông hòa mình vào trong cuộc sống chiến tranh đẫm máu
của dân tộc, cùng sống với những giây phút sinh tử của bom đạn hay những phút
giây hạnh phúc, niềm vui của chiến thắng bên anh em, đồng bào với sự che chở
đùm bọc của nông dân. Nguyễn Bính như tiếp thêm niềm tin, nghị lực, chính những
giây phút chiến đấu quên mình, mạnh mẽ, kiên cường, bất khuất của nông dân, đã
phần nào làm cho ngòi bút của nguyễn Bính thêm mạnh mẽ và nghị lực hơn. Từ
những chiến thắng lớn lao như: trận đánh chìm tàu Pháp trên sông Sở Phượng, đoạt
tàu Thanh Vân ở Chợ Gạo, hạ đồn Ông Vẽ ở Mỹ Tho, đánh địch tơi bời ở Tháp
Mười, Mộc Hóa, La Bang,...và đặc biệt là chiến dịch Mùa xuân năm 1950, những
chiến thắng đó đã làm cho đồng bao vô cùng phấn khởi đó cũng là động cơ thực
tiễn khích lệ tinh thần sáng tác của anh em văn nghệ sĩ, mà trong đó Nguyễn Bính là
một. Chính nhờ cái không khí ấy, mà trong những ngày ở Đồng Tháp Mười,
Nguyễn Bính mới có được những câu thơ rất hay, rất mạnh và rất nghệ thuật mà cho
đến bây giờ nhiều chiên sĩ, nông dân mỗi khi ra trận điều ngân nga:
“Quê các anh ở miền Trung đá núi
Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co
Đêm trăng thanh cao vút tiếng ai hò
Trên bến vắng một dòng sông nổi bạc
Quê các anh ở miền Nam bát ngát
Trái dừa xiêm nước ngọt buổi trưa nồng
Đôi ba cô gái bán hàng bông
Chèo yểu điệu một xuồng đầy vú sữa
Theo đường kinh đi sâu vào biển lúa”
(Những người của ngày mai)
Hay là những câu trong Tiểu đoàn 307:
“Trận Tháp Mười, trận Mộc Hóa
Vang tiếng đồn với trận La Bang
Lưỡi gươm vung dưới cánh tay sắt
Đầu giặc rung
Nổ súng đồn, đồn giặc vỡ tan”
Và những câu trong bài Trường ca Đồng Tháp Mười:
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 36
“Mùa nắng đất khô cỏ cháy
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Mùa mưa nước ngập lau tràn
Cò trắng nghìn năm bay chẳng dứt
.................................................
Nao nao mạch máu dòng kinh chảy
Loang loáng mồ hôi luống đất cày
...............................................
Quân đi tác chiến quên năm tháng
Súng diệt xâm lăng nổ tối ngày
Tháp Mười mang sức trai mười tám
Nắm vững đường gươm rộng lối cày”
Nguyễn Bính rất yêu những người nông dân, vì họ là những con người thật
thà dễ mến, mộc mạc, thân thương. Nhiều khi những lời ăn tiếng nói hằng ngày
trong sinh hoạt của họ, Nguyễn Bính đã học hỏi và đưa vào thơ văn, ông luôn dành
một vị trí riêng đặc biệt trong thơ để viết về người nông dân. Chính những đều giản
dị, chân chất, quê mùa qua những suy nghĩ, câu nói, giọng nói của nông dân,
Nguyễn Bính cũng khái quát thành thơ. Nên từ đó khó tránh khỏi tại sao thơ
Nguyễn Bính lại có một giọng điệu quê mùa, chân quê như là một câu nói trong
sinh hoạt ở mấy câu thơ sau:
“Viết cho chị lá thư này
Giữa đêm hăm bốn rạng ngày hăm nhăm”
(Xây hồ bán nguyệt)
“Tầm tầm trời cứ đổ mưa
Đêm hôm nay nữa là vừa bốn hôm”
(Người hàng xóm)
2.1.3. Bản thân.
Nguyễn Bính cũng như một số nhà thơ, nhà văn đương thời ít nhiều cũng
nhiễm phải máu giang hồ, ra đi để tìm chỗ, tìm cảm hứng mới, mở mang kiến thức.
Vì vậy, mà Nguyễn Bính đã có mặt ở những thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn
và ở mỗi nơi Nguyễn Bính điều có thơ ghi nhận lại chuyện đời vui buồn của chuyến
đi. Từ cảm hứng lên đường có lúc thôi thúc Nguyễn Bính như một niềm hứng khởi:
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 37
“Sống là sống để mà đi
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Con tàu bạn hữu, chuyến xe nhân tình”
(Nữa đêm nghe tiếng còi tàu)
Ông luôn nghĩ rằng bốn phương đang có người chờ đợi mình:
“Không đi cũng uổng một đời
Nhổ sào lên chứ khi trời rạng đông!”
(Con nhà nho cũ)
Nguyễn Bính cũng hiểu rõ ra đi là phụ tấm lòng, không có điều kiện để gần
gũi phụng thờ hai thân. Cụ đồ thân sinh đã cho phép anh cậy những phiến đá xanh
bó thềm nhà lên bán để lấy tiền đi giang hồ, vậy mà:
“Một thân lận đận nơi trời xa
Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà
Gió bắt vào thu đầy tiếng lá
Đời tàn, mộng đẹp, tiếc xuân qua...”
(Đêm mưa đất khách)
Đau cho mình, anh lại thương cha cảm thấy mình có tội với cha:
“...Nghìn lạy cha già lượng thứ cho
Trót thân con vướng nợ giang hồ”
Hay là:
“Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn
Ngày mai con lại lên đường ra đi “
(Lại đi)
Cái “nợ giang hồ” ấy không chỉ bắt Nguyễn Bính phải lìa xa người cha già,
hai người anh ruột, bà mẹ kế và đám em dại mà còn bắt ông phải rời bỏ những
người bạn chí cốt của ông như: Trúc Sơn, Hoàng Tấn, Phạm Ngọc Điển, Bùi Hạnh
Cẩn... trong những ngày lưu lạc tại phương Nam Nguyễn Bính nhớ:
“...Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi! buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy...”
(Hành phương Nam)
Nửa đêm nghe tiếng còi tàu, Con nhà nho ai, Lá thơ về Bắc, Chú rể là anh...,
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 38
rồi bao nhiêu bài thơ khác anh viết là về bạn, cho mình. Đó phải chăng cũng là tấm
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
bi kịch của tấm hồn thơ Nguyễn Bính khi từ bỏ “Chiếc áo nâu” để khoác vào
“Chiếc áo lãng tử”:
“Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh
Tôi đi dan díu với kinh thành”
(Hoa với rượu)
Để rồi:
“Chết dần từng nấc rồi mai mốt
hết cả mùa xuân chết cả đời”
(Sao chẳng về đây).
Thu hoạch của những chuyến đi dài ngày này của Nguyễn Bính là bài học
đường đời, ông hiểu rõ bản chất của đời sống thị thành. Người con của quê hương
dấn thân ở nơi trời xa càng có dịp hiểu rõ mình, hiểu rõ cuộc đời. Trước hết là
Nguyễn Bính cảm nhận sâu sắc thân phận của người thi sĩ trong cuộc đời cũ, không
thể ảo tưởng mãi về sứ mệnh của nhà thơ. Căn bệnh nghèo lưu niên liệu có tước mất
đi lòng tự tin trước cuộc sống đua chen ở thành thị?. Nhà thơ trước sau vẫn tự hào ở
tấm lòng nhân hậu và giàu có về tình cảm của mình trước cuộc đời?
“Châu Ngọc làm sao hái được nhiều
Tôi là thi sĩ của thương yêu”
(Một trời quan tái)
Nguyễn Bính rất thương người, thương mình, nhưng cũng thương những
cảnh đời đau khổ đó đây. Hành trình giang hồ của nhà thơ là cuộc hành trình đầy
vất vả, gian truân. Các bài thơ: Xuân tha hương, Giờ mưa ở Huế, Một trời quan tái,
Đêm mưa đất khách, Hành phương nam,... ghi lại khá sâu sắc tâm trạng của nhà thơ
trước cuộc đời, không khỏi nhiều lúc buồn với cảnh ngộ:
“Thuốc lào hút mãi người ra khói
Thơ đọc suông tình hết cả hay”
(Giờ mưa ở Huế)
Hay là một tâm trạng vương vấn, day dứt bỏ tình quê, cảnh quê tâm thức
luôn luôn chia xé, giằng co giữa sức hút, sức đẩy từ cả 2 phía:
“Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 39
(Xóm Ngự Viên)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Và đau khổ hơn là đường đi nhiều khi nghẽn lối. Hành phương nam là bài
thơ mang tâm trạng chán chường của một người đã thấu hiểu sự đời muốn nhận ra
và đúc kết giá trị của thời gian và công việc mong muốn và hiệu quả, hôm nay và
ngày mai:
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!”
(Hành phương Nam)
Nguyễn Bính ở vào tâm trạng da diết hơn của người biệt xứ, kẻ xa quê. Cô
đơn xa lạ giữa thành phố đua chen. Tiếng mưa rơi như nhắc nhở đến một mái ấm,
một tình yêu thương và trải rộng thêm, khơi sầu thêm nỗi buồn cô quạnh.
“Hỡi ơi! trời đất vô cùng rộng
Nào biết tìm đâu một mái nhà?
Mưa mãi, mưa hoài, mưa bứt rứt
Đêm dài dằng dặc, đêm bao la…”
(Đêm mưa đất khách)
Có lẽ thích đi là một phần, nhưng cái chính là cuộc đời đã xô đẩy nhà thơ
bước vào đường lưu lạc. Sớm tiếp xúc với cuộc sống đô thị phồn hoa nhưng cũng
rất lạnh lùng khắc nghiệt rồi qua những ấm lạnh tình đời, tình người, nơi phương
trời xa lạ, nhà thơ nhận rõ bản thân mình không hòa nhập nỗi với nó nên xót xa, ân
hận, tiếc nhớ không nguôi về một quê hương thanh bình, tuyệt vời ân nghĩa. Trong
ý nghĩa ấy, thơ tha hương của Nguyễn Bính không chỉ là những buồn thương của
một con người xa xứ, nó còn là khác vọng tình yêu, hạnh phúc, tình yêu quê hương
nồng nàn:
“Con đò thì nhớ sông xa
Con người thì nhớ quê nhà bao nhiêu”
(Trải bao nhiêu núi sông rồi)
Hoặc là tâm trạng luyến tiếc thời gian qua sao không sớm về quê hương để
tâm hồn được thanh thản, mà cứ lao mãi vào nơi gió bụi chốn kinh thành:
“…Sao chẳng về đây nỡ lạc loài
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 40
Giữa nơi thành thị gió mưa phai
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Chết dần từng nấc, rồi mai mốt
Chết cả mùa xuân, chết cả đời!
………………………………
Kinh kỳ bụi quá, xuân không đến
Sao chẳng về đây? chẳng ở đây?”
(Sao chẳng về đây)
Những xúc cảm và tâm trạng riêng trên hành trình đến với cuộc đời và cũng
là tìm ra chính mình của Nguyễn Bính đã tạo ra cho thơ ông một mạch riêng xúc
động và sâu sắc ân tình. Thơ của ông không nhạt dần theo năm tháng tha hương trái
lại càng đậm đà hơn. Nguyễn Bính đưa vào thơ ông không chỉ tâm sự của mình mà
còn tâm sự của thời đại trong xã hội giao thời - một xã hội với bao kiếp người trôi
dạt, bao buồn thương bế tắc, bao khát khao hạnh phúc, bao tình yêu tha thiết với xứ
sở quê hương, đã hình thành một mạch thơ tha hương với giọng điệu buồn thương
cho bao tâm trạng đắng cay, tình đời.
Nhìn chung lại, thì qua đời sống văn chương, cuộc sống gia đình và bản thân
của Nguyễn Bính đã là một cơ sở hình thành rất quan trọng trong cuộc sống và sáng
tác thơ của ông. Đã giúp cho những mạch thơ của Nguyễn Bính có được nhiều
giọng điệu mới hơn. Nguyễn Bính đã tích lũy cho mình những kiến thức từ gia đình,
từ cậu, anh trai…mà kết thành một chuỗi những vần thơ mang tâm trạng chung của
thời đại. Là do phần lớn những vần thơ của Nguyễn Bính mang âm điệu hay giọng
điệu được hấp thụ từ những người thân. Vì đối với Nguyễn Bính đó là cơ sở đầu
tiên và cũng là cơ sở tiêu biểu cho việc hình thành mạch giọng điệu tồn tại trong thơ
của cá nhân mình.
2.2. Những giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính.
2.2.1. Giọng điệu chân chất, “quê mùa”.
Bút pháp và giọng điệu thơ ca của Nguyễn Bính khá đa dạng. Trong thơ của
Nguyễn Bính có một dòng viết viết về làng quê giàu tính chất dân gian và một dòng
trữ tình nhiều tâm trạng trăn trở, bâng khuâng hay dòng trữ tình đằm thắm, thiết tha,
ngọt ngào với một giọng điệu lấp lửng ngập ngừng.
Khi viết về làng quê Nguyễn Bính là người am hiểu về cuộc sống và con
người của quê hương, cái chất liệu của thơ được ông khai thác trực tiếp trong cảnh
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 41
vật sinh hoạt, lời ăn tiếng nói ở làng quê, và được ông chắt lọc ra những nét tiêu
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
biểu. Chính vì lẽ đó mà trong thơ của Nguyễn Bính có một trang thơ lớn nói đến
một giọng điệu chân chất “quê mùa” của tác giả khi nói về làng quê, và đồng thời
giọng điệu “quê mùa” đó cũng là thứ giọng điệu chủ chốt, giọng điệu chính nó
dường như là bản tuyên ngôn nghệ thuật cho con đường sáng tác thơ văn của ông.
Chính cái vùng quê chiêm trũng của đồng bằng châu thổ sông Hồng đã làm
nên hồn thơ của Nguyễn Bính, một nhà thơ chân quê của phong trào Thơ Mới, để
rồi mỗi lần đọc thi phẩm chân quê của ông, cứ thấy một chàng trai khăn xếp đợi ai
đầu làng thấy như lời tỏ tình cứ e ấp mãi, cứ thấy như đau đáu ánh mắt trách móc cô
gái nào bỏ lỡ cái chân quê để làm khổ ai. Những vần thơ giản dị, mộc mạc mà thắm
đượm cái hồn quê và tình quê thắm thiết. Nguyễn Bính đã cất lời của đồng ruộng
của hoa nhài, hoa ngâu, của “Mưa xuân phơi phới bay”, của “Hoa xoan lớp lớp
rụng vơi đầy”, của “Giậu mùng tơi với cánh bướm ngập ngừng”…, Nguyễn Bính
đã hát khúc hát của thôn quê bằng một tính tình chân thực, nguyên khôi trầm lắng.
Thơ của Nguyễn Bính không phải được người bạn đọc biết là ở số lượng bài nhiều
mà thơ Nguyễn Bính đã in được một dấu son không bao giờ phai nhạt trong lòng
người đọc là bởi cái chất quê, chân thành, mộc mạc như là lời ăn tiếng nói của
người dân quê, có trong câu hát ru của bà, của mẹ hay là trong lời giao duyên của
đôi trai gái đang yêu nhau, thêm vào đó là tình quê đằm thắm của tác giả.
Nguyễn Bính chẳng khác gì một người tài kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về
mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến người ta phải chú ý. Ở mỗi xóm, mỗi
làng thường thấy những bác thợ cày, bà hàng nước, những người nói tiếu lâm, pha
trò cho mọi người nghe làm cho mỗi người như cuốn vào câu chuyện ấy, thì
Nguyễn Bính cũng vậy từ những cảnh vật ấy, việc ấy qua ngòi bút mộc mạc, dân dã
của Nguyễn Bính đã trở nên thú vị và hấp dẫn người đọc. Để hiểu được tại sao thơ
Nguyễn Bính lại có một nét bình dị kỳ lạ đến thế, thì ta hãy trở về với cái không khí
xã hội, không khí văn học Việt Nam. Thời Nguyễn Bính mới xuất hiện giữa làng
thơ, khi mà một thời kì của phương Tây thổi vào người ta háo hức hiện đại hóa, đua
nhau cách tân và tìm hiểu những mới lạ của phương Tây. Thì Nguyễn Bính cứ hồn
nhiên giữa làng quê với chất quê mộc mạc của mình, như là:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 42
(Tƣơng tƣ)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Hay là:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn”
(Ngƣời hàng xóm)
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1940, nhà nghiên cứu phê bình
Văn học Hoài Thanh đã quả quyết rằng: “Trong lịch sử thi ca Việt Nam, chưa bao
giờ có một hồn thơ “quê mùa” như Nguyễn Bính” [7, tr. 284]. Quê mùa mà nổi
tiếng, vì quê mùa ở đây chính là cái gốc nhân bản của con người Việt Nam, cái
hương vị thanh tao của đồng quê, cái hồn mộc mạc của quê hương. Nguyễn Bính đã
đưa vào hồn thơ của mình cái chất quê mùa của hương đồng gió nội một cách có ý
thức sâu sắc. Trong bài thơ Chân quê, tác giả mượn lời trách nhẹ nhàng cô người
yêu đi tỉnh về đã để cho hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Để bộc lộ quan điểm về
cái chân quê của mình:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm. Em làm khổ tôi”
Mà:
“Nói ra sợ mất lòng em”
Nên:
“Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa”
Bởi vì:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê”
Với ông, chân quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hóa dân tộc, là nét đẹp là
nhân bản của con người Việt Nam phải bảo vệ và giữ gìn nó. Và tình yêu của trai
gái quê vốn giản dị, gắn bó với những truyền thống thôn quê từ lời ăn tiếng nói đến
cách ăn mặc cũng như lối sống của người miền quê. Cái chất quê mùa lại chính là
cái nét đẹp của “em”, là cái làm cho anh yêu, anh thương, anh nhớ. Chỉ cần em giữ
lại chút quê đó thôi là đủ làm anh ấm lòng yên dạ: “Như hôm em đi lễ chùa / Cứ ăn
mặc thế cho vừa lòng anh”. Anh chỉ cần thấy vừa lòng khi thấy em của ngày xưa
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 43
với áo tứ thân giản dị, thi sĩ đã đưa ra những lí lẽ giản đơn mà rất đỗi chân quê để
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
thuyết phục người yêu. Vì một cô “tân thời” giữa những người dân quê giản dị
không những không hòa đồng mà còn trở nên xa lạ, khó chấp nhận trước mắt dân
quê, nhất là khi cô “tân thời” đó vốn là cô gái chân quê. Nhận thức rõ được điều đó,
chàng trai bèn thay đổi thái độ, ứng xử phù hợp với thực tế:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê”
Nguyễn Bính đã dũng cảm lựa chọn “giữ nguyên quê mùa” như bông hoa
chanh nở giữa vườn chanh, giữ mãi sắc hương bình dị, mộc mạc, trắng trong, tinh
khiết của mình. Đọc chân quê ta không thấy cái nồng nàn, tha thiết, rạo rực và băn
khoăn như Xuân Diệu, không phải là những dòng thơ có cách tân mới lạ. Thơ
Nguyễn Bính chỉ đơn giản là những câu thơ tưởng đã đọc từ xa xưa, đã đi vào lòng
bao thế hệ từ những ngày còn thơ ấu và gần gũi với đời sống tâm hồn của người dân
thôn quê. Khi mà Thế Lữ đã rời bỏ trần thế để thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư đã chối
bỏ thực tại để mơ màng trong quá khứ xa xôi, những nẻo phù hoa ấy không thấy
dấu chân Nguyễn Bính, ông gói hồn mình nơi làng quê Việt Nam xanh xanh lũy tre,
xanh xanh màu lúa đồng nàng, đồng anh, tím rặng mồng tơi trong hồn hậu những
con người thôn quê chất phác, thật thà, trong mối tình với cô thôn nữ “chân quê”.
2.2.2. Giọng điệu bâng khuâng, lƣu luyến.
Thơ Nguyễn Bính không chỉ mang giọng điệu chân chất, “quê mùa” mà còn
có giọng điệu bâng khuâng, lưu luyến. Để có được giọng điệu chân chất, “quê mùa”
ấy là do Nguyễn Bính sinh ra ở làng quê, là đứa con của thôn quê. Nguyễn Bính rất
yêu quê hương của mình nên trong hầu hết các tác phẩm của ông luôn xuất hiện
những hình ảnh quê hương. Mà quê hương bao giờ cũng mộc mạc, thân thương, gần
gũi với những người nông dân chân chất quê mùa. Đến khi những tháng phiêu bạt
giang hồ, những ngày sống lang bạt ấy, Nguyễn Bính đi rất nhiều nơi bắt gặp rất
nhiều cảnh, nhiều việc tình cờ Nguyễn Bính gặp một cảnh tượng khiến người ta
phải não lòng, xé ruột một cuộc chia ly đầy nước mắt trong bài thơ Những bóng
người trên sân ga là một bài thơ nói đến sự chia ly giữa người đi và kẻ ở lại với một
trạng thái bâng khuâng, bịn rịn làm người đi kẻ ở nước mắt đầm đìa, đi không nỡ.
Bởi chúng ta biết rằng trong cuộc sống này không có gì đau khổ hơn bằng những
giây phút chia ly, sự chia ly của tình yêu, tình mẫu tử, tình bằng hữu hay sự chia ly
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 44
của chính bản thân mình... tất cả đã làm nên một nỗi buồn vô vọng. Nhưng chia ly ở
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
đây không hoàn toàn là vĩnh biệt mà là tâm trạng đưa tiễn một người đi và kẻ ở lại.
Cả hai như muốn bịn rịn, luyến lưu không muốn chia lìa và đồng thời đã tạo nên
một nỗi buồn ray rức ở chính sân ga, con tàu mà nhà thơ đã có đôi lần chứng kiến.
Tuy hình ảnh con tàu, sân ga trong thơ ông có lúc thật và không thật nhưng tất cả đi
vào lòng người là một khúc nhạc buồn trĩu nặng tâm hồn, chỉ có cuộc chia ly tâm
trạng ta mới rơi vào cảnh bâng khuâng mà thôi. Và cuộc chia ly bắt đầu diễn ra tại:
“Những cuộc chia lìa khởi từ đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày...”
Và hình ảnh hai cô bé tiễn biệt nhau ở sân ga. Hai cô bé ở tuổi học trò nhưng
tại sao phải chia xa, không biết có phải cảnh người em tiễn người chị về nhà chồng
với cảnh áp má, chung lưng, gợi cho ta một cảm giác vô cùng lưu luyến, day dứt,
thơ ngây khi họ phải tiễn đưa nhau. Tình cảm hai chị em đã hòa quyện vào nhau và
sự chia xa, giằng xé làm cho hai trái tim non nớt kia phải chơi vơi. Không biết con
tàu kia sẽ đưa một trong hai cô bé về đâu, đi đâu? Một cảnh lưu luyến làm sao.
“Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
Đường về nhà chị chắc xa xôi”
Và rồi:
“Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm!
Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu”
Đây là cuộc chia ly của một người tình với một người tình, một nỗi buồn
man mác, bùi ngùi, đơn lẻ, một cuộc chia ly vào thời gian chiều tà, thật nặng nề.
Hình ảnh họ cầm tay nhau thật mong manh. Bóng xiêu xiêu có lẽ tình yêu, hạnh
phúc đã hết, giờ chia ly đã đến và tình yêu sắp vuột ra khỏi tầm tay họ mà chỉ biết
luyến lưu thôi. Cũng trên sân ga ấy, Nguyễn Bính cũng bắt gặp đôi bạn thân tiễn
đưa nhau. Họ quyến luyến như không muốn rời xa nhau người đi đã yên vị trên tàu,
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 45
còn người ở như muốn níu kéo lại cho tới khi:
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu”
Lại một hình ảnh cũng diễn ra tâm trạng lưu luyến, bâng khuâng của một
người vợ tiễn người chồng đi biên ải ở sân ga. Họ thẹn thùng không dám cùng nhau
sánh bước, để người chồng đi trước và người vợ bẽn lẽn theo sau, “thẹn thẹn đưa
nhau, bóng chạy dài/ chị mở khăn giầu, anh thắt lại/ Mình về nuôi lấy mẹ mình ơi”
hình ảnh này đã lột tả hết tình thương họ dành cho nhau. Nếu như sự chia ly, bịnh
rịnh của đôi vợ chồng kia là não ruột, xé lòng thì một hình ảnh người mẹ tiễn đưa
con ra trấn ải cũng là một cảnh tượng cảm động xót xa, rơi nước mắt rất nhiều,
dường như người mẹ vẫn còn lưu luyến mãi vẫn không tin là con mình đã đi xa. Bà
đứng như trời trồng mà nhìn mãi theo con tàu quyến luyến chưa chịu về. Nỗi đau tột
cùng khiến bà ngã xuống sân ga, có lẽ do lưng bà còng hay vì bà đứng từ bóng ban
trưa cho đến xế chiều tối bóng mặt trời, hay là bóng bà đổ xuống:
“Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”
Bao giờ cuộc chia ly cũng có hai người và cũng chỉ có hai người mới làm
nên cuộc chia ly đẫm nước mắt, còn một cuộc chia ly chỉ có một người thì làm sao
gọi là cuộc chia ly? Nhưng trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh chỉ bản thân ông lặng
lẽ, âm thầm ra sân ga chờ đợi một mình không người nào đưa tiễn, dường như
không có nỗi đau nào bằng nỗi đau chính mình đưa tiễn mình mà tâm trạng cứ bâng
khuâng lòng không có người chia sẻ, ông cảm thấy rất lẻ loi, chơi vơi trên cõi đời
này, lòng muốn bâng khuâng, lưu luyến lắm nhưng biết làm sao hơn. Buổi tiễn đưa
chỉ riêng mình ta.
“Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu, nghĩ ngợi gì!
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Có thể cho rằng toàn bộ bài thơ là một mạch cảm xúc chia ly với tâm trạng
bâng khuâng, lưu luyến như không muốn rời xa nhau.Tất cả đã tạo thành một nỗi
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 46
buồn man mác trong cả bài thơ. Qua đó cho thấy tài năng miêu tả nội tâm nhân vật
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
rất tài tình của Nguyễn Bính. Mặc dù không biết những chuyến tàu, sân ga và cùng
những hình ảnh đưa tiễn chia ly, bịnh rịnh ấy thật hay ảo, nhưng qua đó cũng cho
thấy Nguyễn Bính rất có tài trong việc đọc được ở sâu trong nội tâm của con người
một trạng thái buồn thương, và để rồi giúp Nguyễn Bính thành công hơn khi viết
nên những trang thơ với một giai điệu riêng cho một buổi chia ly với một giọng
điệu bâng khuâng, lưu luyến.
2.2.3. Giọng điệu lấp lửng, ngập ngừng.
Chúng ta cũng biết, thơ thuộc về phương thức trữ tình nên thơ lấy điểm tựa ở
sự bộc lộ thế giới nội tâm của bản thân mà bộc bạch giãi bày. Đúng là trong cuộc
sống này ai cũng cần được yêu và cần được mộng mơ tình yêu, nhưng một khi tình
yêu đến thi đó mới trở nên quan trọng. Vì tình yêu không bao giờ lên tiếng chỉ có
con tim ta lên tiếng mà thôi, làm sao để lên tiếng, để cất thành lời khi ta là con gái.
Chẳng lẽ yêu mà chỉ biết lặng im và nhìn chầm chậm tình yêu đến rồi đi hay sao?
Bởi vậy, tình yêu đến thì dễ nhưng quan trọng là người đón nhận tình cảm có những
biểu hiện gì để níu giữ tình cảm hay không hay chỉ biết e thẹn, ngập ngừng chưa
dám thổ lộ, giãi bày.
Đến với thơ tình Nguyễn Bính cũng vậy, Nguyễn Bính rất tài hoa đã dùng
ngòi bút của mình để thể hiện mọi cung bậc khác nhau của tình yêu. Những tình
cảm trong thơ Nguyễn Bính là những tình cảm có kiếm tìm, có chờ đợi, có lo âu và
xen lẫn vào đó là một giọng điệu ngập ngừng, lấp lửng chưa nói thành lời, thành câu
khi đối diện với tình yêu. Chỉ dám e thẹn rồi thôi, nhưng đó là một nét đẹp, một sự
mới lạ trong thơ Nguyễn Bính, làm cho những chùm thơ tình của Nguyễn Bính
ngày càng đa dạng và thành công. Hơn nữa, Nguyễn Bính đã nói lên được những gì
trong cuộc sống hiện thực, những vẻ đẹp kín đáo, giản dị của một thứ tình cảm e
thẹn, rụt rè của biết bao nhân vật chưa dám cất lên tiếng mà đưa vào thơ. Qua
những bài thơ như: Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang, Chờ mong, Tương tư, Cánh
buồm nâu, Chờ nhau, Qua nhà, Vẩn vơ… đó là những bài thơ nói đến tình yêu đẹp
nhưng tất cả những nhân vật trong thơ của ông điều chưa dám cất lên tiếng lòng mà
chỉ dám tâm sự nội tâm và đôi khi cất lên tiếng nhưng chỉ là một giọng điệu lấp
lửng, ngập ngừng chưa dám nói hết nỗi lòng con tim ra.
Trong bài thơ Người hàng xóm là một câu chuyện tình yêu thầm kín nhưng
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 47
rất mãnh liệt của một chàng trai với cô hàng xóm của mình. Tình yêu của chàng trai
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
dành cho cô gái rất mực giản dị, mộc mạc nhưng không kém phần mãnh liệt. Tình
cảm ấy cứ ngày một lớn lên, chàng trai mong ước được đến với cô gái, thế nhưng
mãi mà không vượt qua được sự rụt rè, nhút nhát. Những yêu đương của chàng trai
chỉ dám gửi theo cánh bướm trắng mà thôi. Những tình cảm không được trao và
nhận lại cứ dày vò chàng trai, lúc nhớ mong với tâm trạng ngập ngừng khi đang
nghi ngờ tình cảm trong lòng mình:
“Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi?…Hay tôi yêu nàng?”
Hay là:
“Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!”
Để rồi khao khát đợi chờ ai mãi mà không thấy:
“Bên hiên vẫn vắng bóng nàng
Rưng rưng…, tôi gục xuống bàn rưng rưng…
Nhớ con bướm trắng lạ lùng!
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng”
Cuối cùng lại rơi vào cô đơn tột độ:
“Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc…Quả tôi yêu nàng”
Bao nhiêu cung bậc cảm xúc của tình yêu được miêu tả một cách tinh tế, để
cuối cùng sự nhút nhát của chàng trai không dám nói ra tình yêu với cô gái và cái
chết bất ngờ của cô gái đã đẩy chàng trai đến: “Rưng rưng…tôi gục xuống bàn rưng
rưng” hay “Nghẹn ngào tôi khóc…Quả tôi yêu nàng” kết thức bằng một giọng điệu
lấp lửng. Ban đầu cũng là một giọng điệu lấp lửng, ngập ngừng do chưa dám nói là
mình đã yêu, rồi cuối cùng khi biết người mình yêu đã chết thì cũng lấp lửng, ngập
ngừng tự thú nhận rằng mình đã yêu. Những giọt nước mắt lấp lửng cuối tác phẩm
cùng với câu khẳng đinh “Quả tôi yêu nàng” là một minh chứng rất rõ cho nỗi đau
khổ của chàng trai sao yêu mà không dám nói, chỉ nhút nhát chi để rồi người yêu
chết bất ngờ mới hối tiếc. Sự rụt rè của chàng trai đã khiến anh không thể đến được
với yêu đương. Những băn khoăn, những ngập ngừng suy tư cứ nghĩ ngợi hoài
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 48
không biết mình có yêu không, mình có nên nói không hay mình chưa yêu nàng,
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
những suy nghĩ vừa nhút nhát vừa đáng yêu, vừa đáng thương, đáng giận của chàng
trai rụt rè yêu mà không dám nhận, cứ do dự, nghĩ ngợi:
“Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: Hay tôi yêu nàng?”
Câu chuyện tình yêu trong bài Người hàng xóm là một tình cảm rụt rè của
một chàng trai đối với một cô gái vừa nhẹ nhàng, giản dị, vừa đáng yêu, đáng trách
của chàng trai. Cũng chính sự đắn đo ấy cuối cùng đã nói không thành lời, cứ lấp la,
lấp lửng từ khi bắt đầu yêu cũng do dự đến khi người yêu chết cũng chưa dám mạnh
dạng mà vẫn còn ngập ngừng để rồi nói ra tình cảm khi người yêu đã chết.
Bên cạnh sự chưa dám thổ lộ tình cảm đối với người yêu, với tình cảm rụt rè
thì bài thơ Qua nhà, Chờ nhau, Vẩn vơ… cũng mang giọng điệu ấy, nhưng tình cảm
của họ dù như thế nào thì cuối cùng cũng dám thổ lộ bộc bạch tình cảm với e dè.
“Cái ngày cô chưa có chồng
Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa
Lối này lắm bưởi nhiều hoa…
Đi vòng để được qua nhà… đấy thôi”
(Qua nhà)
Hay là tự sự một cách trực tiếp với người yêu với một giọng điệu thật đáng
yêu, tuy có phần e dè nhưng cũng dám thổ lộ:
“Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ, vội vàng chi anh?
Nghe người ta nói mong manh
Hình như hai đứa chúng mình…với nhau”
(Chờ nhau)
Hoặc:
“Đã quyết không…không…được một ngày
Rồi yêu, yêu cả buổi chiều nay
………………………………
Như có tơ vương đến một người
Người ấy…nhưng mà tôi chả nói”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 49
(Vẩn vơ)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Có thể cho rằng thơ tình của Nguyễn Bính dàn trải rất nhiều giọng điệu lấp
lửng, ngập ngừng. Sau những vần thơ bộc bạch, mạnh dạn trực tiếp tiến đến tình
yêu thì bên cạnh đó lại không ít những mối tình e ngại chưa dám thú nhận tình cảm
mà chỉ sợ sệt trải dài và xen lẫn vào trong rất nhiều câu thơ tình của Nguyễn Bính.
Như khi một người mẹ ngồi bên khung cửi xe tơ, thường nhắc đến đứa con gái Lỡ
bước sang ngang và hỏi: “Chị mày giờ ra sao?/ Chị bây giờ…Nói thế nào…?”
Hay là:
“Rồi…rồi…chị nói sao đây?
Em ơi nói nhỏ câu này với em”
Vâng, có thể nói có rất nhiều câu thơ với giọng điệu ấy trong tuyển tập thơ
tình của Nguyễn Bính. Dường như ngụ ý của tác giả muốn cài đan xen vào những
giọng điệu buồn bã, lỡ làng chua cay, khinh bạc với giọng điệu ngập ngừng vừa
đáng yêu, đáng giận mà không kém phần mộc mạc, dễ thương. Để cho từng số phận
nhân vật tự tìm ra những lối đi riêng hoặc tự để bản thân nhân vật suy nghĩ những
câu trả lời sau những lần đắng đo kia.
2.2.4. Giọng điệu buồn bã, lỡ làng.
Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người. Thơ tình Nguyễn
Bính chính là tình duyên lỡ dở của bản thân ông, rất chân thật và xúc động. Có lẽ vì
lỡ dở mà bao trùm lên hầu hết các tác phẩm của ông đều mang một giọng điệu
buồn, tự sự một mình, phân li, đau khổ… Trong đời người ai chẳng từng yêu và
được yêu và tránh sao khỏi những cuộc tình tan vỡ. Thơ Nguyễn Bính vì thế không
chỉ nói lên tiếng lòng của mình mà con thác lời cho những thân phận tình yêu khác:
“Yêu yêu yêu mãi thế này!
Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”
(Lòng yêu thương)
Thơ Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn của trái tim đang thổn thức yêu đương,
và đến với người đọc như một cô gái quê kín đáo, duyên dáng. Khi yêu là bắt đầu
chuốc lấy tương tư, nhớ mong, khắc khoải, đợi chờ và cuối cùng đến lỡ làng. Khi
tình yêu không trọn vẹn người ta thường bảo rằng: “Tình yêu như một sức mạnh
thầm kín, luôn đẩy nhân vật vào trạng thái yêu đương, xao xuyến, theo đuổi những
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 50
cuộc tình duyên nồng cháy và cũng nhiều khi dang dở, đắng cay”.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Trong tuyển tập thơ Nguyễn Bính có rất nhiều bài thơ nói về tình yêu nhưng
phần lớn đó là tình yêu tan vỡ, lỡ làng nên thơ tình của Nguyễn Bính ít có giọng
vui. Như hoàn cảnh người con gái trong bài thơ Lỡ bước sang ngang bước chân đi
lấy chồng mà đầy…tử biệt sinh ly: “Chị đi một bước trăm đường xót xa”. Tương lai
một cuộc sống mới sao đầy đe dọa: “Rồi đây song gió ngang sông”. Câu kết của
bài thơ đã thành tiếng nấc tuyệt mệnh:
“Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò”.
Nguyễn Bính đã viết rất nhiều bài thơ nói lên duyên phận lỡ dở của những cô
gái quê hay những chàng trai thất tình buồn bã như: Lỡ bước sang ngang, Cô hái
mơ, Cô lái đò, Mưa xuân… Vì tâm sự của người con gái trong tác phẩm Lỡ bước
sang ngang của ông cũng là tâm sự của rất nhiều người con gái Việt Nam thời kỳ
đó. Hình ảnh những cô thôn nữ trong trắng, những chàng trai quê mùa chất phác
luôn được Nguyễn Bính mô tả trong tình yêu lãng mạn nhưng đều dang dở, chua
xót đã đi vào lòng độc giả. Nguyễn Bính mô tả chân tình và xúc động làm sao
những mối tình quê. Hình ảnh những cô gái quê trong thơ Nguyễn Bính gây nhiều
ấn tượng đẹp với người đọc. Người con gái dệt cửi (Mưa xuân), Cô lái đò, Cô hái
mơ... là những người lao động cần mẫn có cuộc sống giản dị, kín đáo và tế nhị trong
đời sống tình cảm…nhưng cuối cùng vẫn bị dở dang.
Bài thơ Mưa xuân gợi lên bao thương xót ở người đọc, nỗi buồn, sự thất
vọng nằm kề ngay bên niềm vui và sự hy vọng. Tình yêu của những cô gái quê sau
lũy tre xanh vẫn mỏng manh như chính thân phận của họ, nhưng đau đớn nào hơn
bằng đau đớn ở tình cảm Lỡ bước sang ngang. Hôn nhân trong cuộc đời cũ đã chịu
nhiều sự ràng buộc của địa vị xã hội, thành kiến và tập tục cũ. Người con gái về nhà
chồng trong tâm trạng ai oán xót xa:
“Người ta pháo đỏ rượu hồng
Mà trên hồn chị một vòng hoa tang”
Nguyễn Bính cũng không mô tả cụ thể cảnh ngộ nhà chồng, mà chủ yếu nói
đến cái bi kịch xót xa, đau đớn của người con gái lỡ bước trong đời mà không thể
đổi thay được số phận. Nén chịu xót xa trong chuỗi ngày đằng đẵng cô đơn buồn
chán ấy cũng có những phút rạng lên với những mối tình đi qua nhanh chóng:
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 51
“Chị từ dan díu với tình
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng
Tim ai khắc một chữ “Nàng”
Mà tim chị một chữ “Chàng” khắc theo”
Tuy chút ánh sáng đó đem lại niềm vui và làm bớt đi những cô đơn trống
trải, nhưng đó cũng không là lối thoát và số phận người con gái như càng chìm vào
những khổ đau, buồn đau mà thôi. Lỡ bước sang ngang một cuộc tình lầm lỡ đã dẫn
đến duyên phận lỡ làng của người con gái. Những mối tình quê tin cậy, trong sáng,
những cô gái quê chân thật làm sao tránh khỏi bi kịch đời thường mà họ không thể
đoán định trước tương lai quá mù mịt, cuối cùng chỉ biết tự trách đời, trách mình
sao quá đắng cay:
“Năm ấy sang sông lỡ chuyến đò
Đò đầy, gió lớn, sóng sông to
Mười hai bến nước xa lăng lắc
Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ”
(Mười hai bến nước)
Phải chăng ân hận vì sự lầm lỡ và cũng như trách ai đã gây sự lầm lỡ, đây là
một ám ảnh đối với cuộc đời nhân vật.
Nguyễn Bính sử dụng khá thành công giai điệu buồn trong thơ qua những
tâm trạng đau khổ, những cảnh ngộ thương tâm và cả những tình huống bi kịch. Các
tác giả Việt Nam thi nhân tiền chiến đã nhận xét rằng: “Đối với các thi nhân, thơ và
cuộc đời chỉ là một, không ca ngợi những vẻ đẹp xa vời, những bóng dáng mỹ lệ,
Nguyễn Bính đã đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái, dở
dang, chia cách bẽ bàng. Có thể nói với ngòi bút của thi nhân, Nguyễn Bính đã tả
chân thực một nỗi u buồn trầm lắng, giải tỏa được tiếng kêu bi thương của những
tâm hồn mộc mạc” [5, tr. 54; 55].
Trong thơ của Nguyễn Bính có sự thở than xuất hiện là chính sự ngang trái
trong duyên phận, sự lỡ làng của tình duyên. Bởi thế cho nên trong rất nhiều những
bài thơ của Nguyễn Bính có những câu chuyện chứa đựng những uất ức những éo le
trong chuyện tình duyên của một trái tim đang thổn thức yêu đương:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 52
Gió mưa là bệnh của trời
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
(Tương tư)
Bởi vì giọng điệu buồn bắt nguồn từ tương tư là một phần, phân li đau khổ
của những cuộc tình tan vỡ:
“Anh giồng cả thảy hai vườn cải
Tháng Chạp hoa non nở cánh vàng
Lũ bướm láng giềng đang khát nhụy
Mách dùm gió sớm rủ rê sang”
(Hết bướm vàng)
Hay là cái lần bị lỗi hẹn ngay trong cuộc hẹn đầu đời của một cô gái chân
quê, nó như là một sự phũ phàng, một lỡ làng, một tổn thương. Bài thơ Mưa xuân
nói lên tình yêu của một cô gái trong trắng, ngây thơ “Bên khung cửi dệt lụa quanh
năm với mẹ già” để rồi tự khi nào em bỗng ao ước có một tình yêu nồng cháy. Khi
tình yêu đã bắt đầu nhen nhóm trong trái tim ngây thơ kia:
“Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh”
Chính tình cảm đó đã dẫn đến hành động. Tiếng trống chèo và lời hò hẹn của
chàng trai khiến cô gái có thêm, động lực vượt qua tất cả. Dù đường xa, gió lạnh và
cơn mưa bụi đêm xuân, e ấp rụt rè nhưng tình yêu đã thành sức mạnh, đi trong đêm
khuya để tìm người yêu.
“Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
....................................
Thế nào anh ấy chẳng sang xem
....................................
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm”
Nhưng thật éo le, thật phũ phàng làm sao khi chờ mãi, chờ mãi mà người yêu
không đến.
“Chờ mãi anh sang anh chả sang
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 53
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Năm tao bảy tiết anh hò hẹn
Để cả màu xuân cũng bẽ bàng”
Ôm mối tình cay đắng, tủi hờn mà thui thủi lầm lụi trở về:
“Mình em lầm lụi trên đường về
Có ngắn gì đâu bốn dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với đêm khuya”
Hứa hẹn và trớ trêu làm sao vừa mới từ giã khung cửi bình yên của tuổi nhỏ,
chớm bước ra giữa đời, em gặp ngay sợi dây oan trái của tình duyên. Có lẽ, bên
ngoài khung cửi là bể khổ mà em nào ngờ tới, chưa kịp nếm ngọt đã liền ngậm đắng
cay. Hạnh phúc vừa nhen nhóm lên thì đau khổ đã giáng xuống. “Tình chữa sánh
đôi đã vội lỡ làng”…tất cả chỉ trong một bữa ấy.
2.2.5. Giọng điệu chua cay, khinh bạc.
Nếu nói đến giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính là giọng điệu buồn bã, lỡ
làng bắt nguồn từ những cảnh ngộ éo le trong duyên số, tình cảm của chính mình
cũng như tình cảm long đong của những số phận. Thì thơ ông sẽ có một giọng điệu
buồn thương cho những số phận đó. Song song đó thơ Nguyễn Bính còn có một
giọng điệu buồn thương đau đớn hơn giọng điệu buồn bã, lỡ làng nữa, đó là giọng
điệu chua cay khinh bạc. Có lẽ không phải phần lớn điều bắt nguồn từ những tình
yêu không thành, sự ngang trái của duyên phận mà phần lớn có giọng chua cay,
khinh bạc. Mà chính những ngày tháng Nguyễn Bính đi lưu lạc “giang hồ” ông như
nếm hết tất cả những vị đắng ngọt, chua chát của thế sự tình đời vào cuộc sống hiện
tại và dần dần được ông cho vào trong thơ với những dư đắng, bi thương đó. Những
kinh bạc của cuộc đời đã dành cho ông từng chút một.
Bắt đầu từ những ngày lưu lạc tha phương thì trong thơ Nguyễn Bính cũng
bắt đầu hiện lên sự chua cay như chính trong cuộc đời của ông. Ông lưu lạc vào
Huế và khi trình diễn vở kịch Bóng giai nhân ở hội trường Acceuil không được
suôn sẻ, Nguyễn Bính đã nằm lại cố đô, thắm thía với cái mưa dầm xứ Huế. Những
cơn mưa làm não lòng bao du khách và để lại một kỉ niệm khó quên cho những ai
đã đến Huế, được chứng kiến cảnh đất trời nơi đây trong những ngày mưa tầm tã.
“Giờ mưa ở Huế sao buồn thế
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 54
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày”
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
(Giờ mưa ở Huế)
Ở Sài Gòn, lại với những đêm mưa. Đêm mưa đất khách là một bài thơ hay,
người viết đã từ ngoại cảnh đi sâu vào tâm trạng. Đặc biệt, cũng từ đêm mưa đã
từng gợi cho Huy Cận một nỗi buồn da diết, hòa cùng tiếng mưa với tiếng lòng ảo
não làm cho Xuân Diệu cảm thấy đắng cay, chua chát làm sao:
“Rơi rơi…dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nói lời vu vơ”
Cô đơn xa lạ giữa đất trời bao la giữa những ngày đua chen, phiêu bạt càng
làm cho tâm trạng da diết bi thương, thấm thía nỗi đau lưu lạc với những bi thương
của cuộc đời vốn ban tặng cho ông và ban tặng trong thơ Nguyễn Bính có những
giọng điệu chua cay ấy. Cũng chính cơn phấn chấn ngày ra đi nay bắt đầu lụi dần
từng tí và giọng điệu thơ Nguyễn Bính đã bắt đầu thấm đẫm đời buồn.
Cuộc đời phong trần, phiêu bạc không nghề nghiệp, không gia cư, không
khỏi để lại ít nhiều dư vị đắng cay, có lúc bi thảm như ở bài Hành phương nam:
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say rồi gọi thế nhân ơi!”
Chính cuộc đời đã sớm đẩy Nguyễn Bính vào con đường lưu lạc chứ không
phải tại cái phần ham muốn giang hồ trong con người Nguyễn Bính. Cũng chính vì
cuộc sống thiếu thốn khó khăn, nghèo khổ và điều quan trọng là những đắng cay
những tiếng lòng từ cuộc đời, từ những con người mà từ lâu đã để lại dấu ấn trong
trái tim của Nguyễn Bính. Thấm thía những khinh bỉ từ người đời dành cho mình.
Nguyễn Bính muốn lưu lạc, muốn đi tha hương để mà quên lãng đi những buôn
thương ấy, nhưng kết quả càng đi càng thấm thía sự khinh khi lại càng nhiều hơn.
Từ những ngày lưu lạc phương Bắc rồi đến vô Nam đâu đâu ông cũng thấy cuộc đời
mình chỉ có một giọng điệu chung là thấm đẫm chua cay và chất ngất khinh bạc
nhiều hơn mà thôi. Cũng không phải yêu nhiều, hạnh phúc nhiều mà trong thơ
Nguyễn Bính có giọng điệu buồn bã, chua cay. Mà giọng điệu ấy có là vì: cuộc đời
của Nguyễn Bính quá nghèo khổ, bất hạnh còn bị người đời coi thường nên ông
muốn tìm đến sự tha hương để mong muốn tìm đến những hạnh phúc nhỏ nhoi
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 55
trong bao la cuộc đời mà lượm nhặt những mảnh nhỏ yêu thương cho bản thân
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
mình. Nhưng kết quả lại càng là những đắng cay của cuộc đời như muốn đến ngày
một nhiều hơn đối với bản thân ông.
Những đau xót, buồn thương từ cuộc đời đã sớm ban tặng cho Nguyễn Bính,
từ đó cái nhìn đời của Nguyễn Bính là cái nhìn buồn sâu sắc, thấm thía, nhìn vào
đâu ông cũng chắt lọc ra cái khía cạnh xót thương, ly tán, đau buồn, vô định, chua
cay:
“Gió lạnh sương sa hạt nặng rồi”
Thuyền ta đậu lại bến này thôi
Sớm mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Xuôi ngược về đâu kẻ ngược xuôi”
(Không đề)
Thật là buồn thương làm sao khi gió lạnh sương sa mà sớm mai phải xuôi
ngược lại không biết về đâu, đi đâu nữa? Một tình cảnh bi thương, xót xa của một
kiếp giang hồ với lắm đắng cay. Hạnh phúc trong tình thương gia đình lại không êm
đềm, suôn sẻ với ông thì làm gì ông dám nhắc chi đến tình yêu hạnh phúc lứa đôi,
chắc cũng mấy gì được trọn vẹn chỉ toàn là buồn bã, lỡ làng trong duyên phận nữa
mà thôi. Cuộc đời như không muốn dừng lại với Nguyễn Bính ở hai đâu thương kia
mà còn keo dài thêm với ông là những năm tháng lưu lạc tha hương. Nguyễn Bính
lại một lần nữa nếm thêm sự khinh khi từ cuộc đời ban tặng tiếp cho ông. Chính
những đau thương đó thử hỏi tại sao trong thơ Nguyễn Bính phần lớn có những
giọng điệu trầm buồn lại nhiều đến thế. Cuộc đời không trao tặng Nguyễn Bính một
hạnh phúc nào được trọn vẹn dù chỉ là nhỏ nhoi, mà toàn là đắng cay, chua chát thử
hỏi sao Nguyễn Bính không buồn thương, không chán ngán đến thế, một hạnh phúc
nhỏ nhoi cũng chưa bao giờ có được. Trong khi tình yêu thương từ mẹ của Nguyễn
Bính, ông cũng chưa bao giờ hưởng lấy. Nguyễn Bính đã phải hứng lấy những giọt
sữa từ cuộc đời mà nuôi sống bản thân, nhưng có bao giờ được trọn vẹn khi phải
chiụ bao sự coi thường của thế gian.
Đến khi Nguyễn Bính bắt đầu biêt yêu thì tình yêu đó chỉ là một tình cảm
mộng mị, thoáng qua chứ có bao giờ thành hiện thực. Buồn đau tuyệt vọng, Nguyễn
Bính muốn tìm đến một sự chia sẻ, cần một tình yêu nhưng nghĩ lại cũng không
trọn vẹn. Sau ngày Nguyễn Bính mất Trúc Đường đã nói rằng: “Bính như người
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 56
khát nước mùa hè. Yêu nhiều thất bại cũng ít, có lúc thất tình nhưng chỉ trong thơ
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
thôi. Vì người, trong mộng, trong thơ đến ngoài đời là một khoảng cách khó khăn.
Do đó thơ tình yêu của Bính có đôi bài đượm chua chát, đắng cay và nuối tiế: Tiếc
làm chi giấc chiêm bao một mình” [29, tr. 290]. Có lẽ từ những chua cay của tình
yêu và những khinh bạc của cuộc đời làm cho thơ tình của Nguyễn Bính có một
giọng điệu chua cay khinh bạc từ đó.
2.2.6. Giọng điệu trữ tình, đằm thắm, thiết tha, ngọt ngào.
Đi vào thế giới thơ tình Nguyễn Bính, chúng ta có thể nhận chia những vùng
ảnh hưởng tình cảm khác nhau, ở đó có tình yêu quê hương, tình bằng hữu và cuộc
sống trôi nổi giang hồ và đặc biệt là khi nói đến tình yêu thì thật sự thơ Nguyễn
Bính đã chiếm lĩnh được ngọn đỉnh tuyệt vời trong thi đàn Việt Nam qua nhiều thế
hệ. Có thể cho rằng thế giới thơ tình của Nguyễn Bính là một đóng góp thành công
trong việc phát hiện và thể hiện những ngôn ngữ tình yêu sâu kín, thể hiện mọi cung
bậc tình cảm: nhớ nhung, tương tư, mong chờ, giận hờn, trách móc, xót xa, biệt ly,
mộng mơ, ước mơ hạnh phúc đến thất tình tan vỡ…Tất cả những biểu hiện trên đã
làm thành một cung bậc tình yêu tuyệt đẹp trong những bài thơ tình của Nguyễn
Bính, mặc dù trong thơ Nguyễn Bính có những giọng điệu hằn học hay rên rẩm, bi
thiết, tuy có những phẫn nộ đắng cay, chua chát, khinh bạc, lỡ làng…nhưng cốt lõi
của những giọng điệu ấy cũng chỉ bắt nguồn từ yêu mà ra. Cũng chính tình yêu mà
thơ tình của Nguyễn Bính thêm nhiều cung bậc, thêm nhiều trạng thái biểu hiện và
rồi trở về với giọng điệu chung là trữ tình, ngọt ngào, tha thiết, đằm thắm. Bởi bao
giờ yêu là bắt đầu chuốc lấy tương tư, nhớ mong, khoắc khoải chờ đợi. Như Xuân
Diệu cũng đã từng diễn tả trạng thái tương tư như lơ lửng, như quyến luyến trong
tình cảm yêu thương đôi lứa:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Nhị hồ)
Hay là:
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 57
(Đây mùa thu tới)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Cũng trong khung cảnh mùa thu, Nguyễn Bính đã khéo léo phát hiện tình
cảm trong lòng và những khao khát yêu đương rạo rực của người con gái như đang
chờ đợi, nhớ mong khát khao một điều gì đó xa xăm:
“Xử nữ đôi cô buồn tựa cửa
Nghe mùa gió lạnh cắn môi tơ”
(Bắt gặp mùa thu)
Tình yêu bao giờ cũng có khát vọng hạnh phúc, ước mong được bên cạnh
nhau, gắn bó nhau cho dù đó chỉ là thoáng nghĩ qua, chỉ trong tưởng tượng cũng
thấy hạnh phúc, cũng thấy lòng náo nức, thấy vui vui như:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”
(Tƣơng tƣ)
Những mối tình ở chốn làng quê thật sự mộc mạc, nhẹ nhàng sâu lắng của
những đôi trai gái yêu nhau nhưng chưa dám thổ lộ, bộc bạch mà chỉ dám bảo rằng:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chin nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
(Tương tư)
Những câu nói hồn nhiên kia mà như chất chứa một tình cảm thật ngọt ngào,
đằm thắm, thiết tha của một chàng trai dành cho cô gái. Bởi hương vị tình yêu trong
thơ Nguyễn Bính là một hương vị trữ tình, ngọt ngà, dịu êm, đằm thắm, mộc mạc
như con bướm lượn vu vơ trong khu vườn êm hiền hòa. Không có những bộc lộc rỗ
ràng, không có những tỏ tình bén nhạy qua những giây phút đầu tiên. Chứ không
phải là một kiểu tình yêu Tây Phương như trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận…Hình
ảnh những người con gái, con trai hay những mối tình điều hiện lên những giai điệu
ngọt ngào, trữ tình như đi vào lòng của người đọc:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 58
Hai người sống giữa cô đơn
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi”
(Người hàng xóm)
Nguyễn Bính dành khá nhiều những bài thơ nói đến tình yêu với một giọng
điệu thật ngọt ngào để thay vào đó là những giọng điệu đắng cay, buồn bã của
những cuộc đời hay là những duyên phận lỡ làng. Nếu nói đến tình yêu thì tình yêu
đó phải thật hạnh phúc, phải thật đằm thắm, còn nếu nói về đau khổ phải ê chề, phải
đắng cay, đôi lúc có khinh bạc mới hoàn hảo. Dường như ta bắt gặp đâu đó thấp
thoáng trong những vần thơ tình của Nguyễn Bính là những bài thơ với những ước
mong khao khát có được một tình yêu toàn bích, vợ chồng hạnh phúc, con cái vui
vẻ, lứa đôi được kết thành phu thê…Nguyễn Bính cũng thầm khát khao có một gia
đình hạnh phúc, một hạnh phúc đơn sơ giản dị, vợ chồng con cái được yêu thương
đùm bọc lẫn nhau:
“Vợ tôi giăng võng gốc dừa
Đặt con tôi ngủ giữa trưa mùa hè
Sáng giăng chia nửa vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
(Trưa hè)
Hoặc là những mối tình chung thủy của người con gái với một mối tình đoàn
viên mỹ mãn:
“Như chuyện Tương Như với Trác Thị
Yêu nhau trở lại đất làm Cùng
Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng”
(Hoa với rượu)
Yêu thì bao giờ chẳng muốn được hạnh phúc, đôi lứa được kết tóc se duyên
đó là kết quả cuối cùng của một tình yêu hạnh phúc cho nên trong muôn vàng
những hạnh phúc đó thì Nguyễn Bính luôn cố gắng viết lên được những bài thơ với
mong muốn, với khát vọng của những đôi trai gái làm sao có được tình yêu viên
mãn, có được hạnh phúc tròn đầy. Chứ không phải như Vũ Hoàng Chương luôn
xem tình yêu, hôn nhân như một thứ gì đó bẩn thỉu đã làm dơ dáy bao nhiêu mộng
đẹp của tuổi hoa niên cho nên ông luôn có một giọng điệu khinh bỉ thay vì Nguyễn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 59
Bính thi luôn ca ngợi trân trọng tình yêu, luôn có một giọng điệu đồng hành cùng
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
tình yêu đó là một giọng điệu trữ tình, ngọt ngào, đằm thắm, thiết tha. Với Vũ
Hoàng Chương tình yêu, hôn nhân là:
“Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải
Chút ngây thơ còn lại cũng vừa chôn
Khi tỉnh dậy, buồn nhớ nơi hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn”
(Đêm tân hôn)
Tóm lại trong thơ Nguyễn Bính có nhiều giọng điệu như chân chất “quê
mùa”, bâng khuâng, lưu luyến, lấp lửng, ngập ngừng, buồn bã, lỡ làng hay giọng
điệu chua cay, khinh bạc hoặc giọng điệu trữ tình, đằm thắm, thiết tha, ngọt ngào…
ẩn hiện đâu đó thấp thoáng trong toàn bộ những tập thơ của Nguyễn Bính. Nhưng
cho dù là giọng điệu gì đi chăng nữa thì Nguyễn Bính cũng luôn thầm đặt trong thơ
của mình một giọng điệu yêu thương, ngọt ngào tràn ngập nhiều trong thơ của ông.
Vì ông biết đằng sau những số phận hẩm hiu, bất hạnh, đắng cay của cuộc đời và
duyên số thì cũng cần phải có một hạnh phúc bé nhỏ của tình cảm để xoa dịu những
bất hạnh, đắng cay kia. Để cho nhân vật cũng như chính ông một hướng đi tươi
sáng hạnh phúc hơn trong cuộc đời. Bởi vì bất kỳ nỗi đau lớn nhỏ nào trong cuộc
đời dù là to lớn, mạnh mẽ đến đâu chỉ cần trong trái tim ta còn một sự sống, còn
một niềm tin vào tình yêu vì chỉ có tình yêu mới làm người ta mạnh mẽ vượt qua dù
ta đang rơi vào vực thẳm bi thương nhất trong cuộc đời.
Có thể kết luận chung rằng, trong thơ của Nguyễn Bính biểu hiện rất nhiều giọng
điệu khác nhau. Bởi vì, thơ Nguyễn Bính toát lên được tình yêu mảnh liệt của nhiều
mảnh đời. Thơ ông như đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái,
dở dang, phân cách, bẽ bàng, chua cay, khinh bạc…, Với ngòi bút thi nhân thì từ
những nỗi buồn ấy được khái quát lên thành nhiều giọng điệu khác nhau, như giải
tỏa những nỗi buồn trầm lắng, những tiếng kiêu bi thương cho những tâm hồn mộc
mạc. Qua đó thấy được những tâm huyết, tài năng người đã dành trọn cho thơ mình,
biến một tâm hồn dung dị nhẹ nhàng đi vào tâm hồn người đọc một cách gần gũi
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 60
hơn.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN GIỌNG ĐIỆU
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học bao gồm các phương thức biểu
hiện nghệ thuật kết hợp hài hòa với hình tượng nghệ thuật nhằm hướng đến phạm
trù thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà
văn.
Là một nhà Thơ Mới, Nguyễn Bính vừa kế thừa nhiều hình thức của thơ ca
dân tộc nhưng lại là một nhà cách tân, sáng tạo trên mô hình truyền thống có sẵn.
3.1. Thể thơ.
Nhìn một cách khái quát thì toàn bộ thơ ca của Nguyễn Bính trước Cách
mạng Tháng Tám, ta dễ nhận thấy là thơ ông không có sự xuất hiện thơ tự do, thơ
văn xuôi như các nhà Thơ Mới khác. Nhà thơ sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất vẫn
là thể thơ lục bát với số lượng nhiều nhất là 50 bài (47,16%), tiếp đến là thể thơ 7
chữ 48 bài (45,28%). Ngoài ra để góp phần làm tăng sự phong phú cho thể loại thơ
tình, Nguyễn Bính còn sáng tác một số bài thơ 5 chữ (4,71%) và thơ Đường luật
trong đó thơ Đường luật chiếm số lượng ít nhất 3 bài (2,83%) trong tổng số 106 bài
thơ tình Nguyễn Bính. Bên cạnh đó thơ của Nguyễn Bính còn xuất hiện thêm thể
loại ca dao trữ tình.
Nguyễn Bính là người đầu tiên trên thi đàn thơ hiện đại của thế kỷ này đã
dùng hình thức của thơ ca dân gian (đặc biệt của ca dao, dân ca) để chuyển tải nội
dung thẩm mỹ của thơ mình. Nguyễn Bính đã vận dụng thành công thể thơ lục bát
và ca dao dân ca một cách nhuần nhuyễn trong thể thơ của mình. Có thể nói so các
nhà thơ lãng mạn trước cách mạng Nguyễn Bính đứng riêng một cõi. Nếu có lẫn lộn
với các tác giả vô danh từ bao thời đã làm nên kho tàng ca dao vô giá của dân tộc.
Nổi bật lên ở Nguyễn Bính là ca dao ở cảm xúc lẫn tư duy, ở cả ý, tình, điệu.
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 61
(Tương tư)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Thơ Nguyễn Bính mang nhiều hơi hướng và giọng điệu của ca dao, nhưng
Nguyễn Bính không làm ca dao như Tản Đà trươc đó. Nguyễn Bính đã nâng ca dao
là thứ văn học “chưa thành văn” thành thứ văn chương thành văn đích thực. Bằng
giọng điệu ca dao ấy, Nguyễn Bính nói về cuộc sống, con người hiện đại, nói về cái
“tôi”, về những sản phẩm cụ thể, một cô gái quê thấp thỏm mong đợi tình yêu, một
chàng trai thất tình chỉ vì nghèo, một anh học trò mơ đỗ trạng, một mối tình đầy nhớ
mong nhưng lại lỡ làng...Nguyễn Bính viết rất nhiều bài rất giống ca dao, chính vì
lẽ đó mà một số ít nhà nghiên cứu tỏ ra băn khoăn sợ rằng một ngày nào đó chất ca
dao kia sẽ làm mất đi cái “chân quê” của tác giả. Cũng có trường hợp như Hoài
Thanh đã nhắc đến:“Giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi
lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện
trên bàn thờ Phật. Cái lối gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng” [21, tr.
284]. Nhưng Nguyễn Bính đã tìm được sự hòa hợp giữa hồn quê, chân quê qua
những bài ca dao quê mùa kia. Đồng thời qua đó tác giả còn nêu lên được những ý
tưởng và tình cảm của cuộc đời Thơ Mới. Thơ của Nguyễn Bính mang bản chất của
những dòng ca dao trữ tình hồn hậu, nhẹ nhàng nhưng chan chứa tình cảm đích thực
hiền hòa của đôi trai gái đồng quê yêu nhau.
“Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng yêu em”.
(Xa cách )
Trong thơ Nguyễn Bính, âm hưởng của thơ ca dân gian còn vang vọng ở thể
thơ lục bát (thể loại điển hình nhất của ca dao dân ca). Nguyễn Bính đã biết cách
làm giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hóa dân gian, từ đó khai thác và
khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới. Do vậy, ta cứ thấy trong thơ
Nguyễn Bính phảng phất hình bóng của những câu ca dao.
Nếu ca dao có câu:
“Em về dọn quán bán hàng
Để anh là khách đi đàng trú chân”
(Ca dao)
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 62
Thì ta gặp lại trong thơ Nguyễn Bính :
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Lòng em là quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi”
(Em với anh)
Nếu câu ca dao:
“Có con phải khổ vì con
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay”
(Ca dao)
Thì câu thơ Nguyễn Bính:
“Vì tằm tôi phải chạy dâu
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay”
(Thời trước)
Bên cạnh những bài ca dao trữ tình đôn hậu thì thể thơ lục bát của Nguyễn
Bính mang đậm hồn quê Việt Nam. Thơ lục bát biểu hiện cho tinh thần văn hóa dân
tộc. Từ ngàn xưa, thơ lục bát đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong
cuộc sống của người bình dân Việt Nam. Bởi thơ lục bát là thể loại đặc trưng của ca
dao, mà ca dao là nền tảng khởi nguồn của dân tộc, nó phản ánh, nuôi dưỡng đời
sống tinh thần của người bình dân. Nói đến thơ lục bát dân gian là phải nhắc đến ca
dao, nhắc đến ca dao không thể không nói đến thơ lục bát dân gian. Bởi thế cho nên
khi tìm hiểu những đặc trưng của thể thơ lục bát dân gian thì ta phải chọn hướng đi
tìm hiểu từ ca dao.
Nguyễn Bính là đứa con được sinh ra khi ca dao ngầm giao duyên cùng Thơ
Mới. Nhưng trong đứa con ấy gen trội vẫn thuộc về ca dao nên Nguyễn Bính là
tiếng đàn bầu vẫn lặng lẽ ngân rung trong lúc giàn giao hưởng tân nhạc của thơ
đương thời đang diễn tấu mải mê dưới chiếc đũa chỉ huy của người nhạc trưởng
toàn năng là cái tôi cá thể. Trong lúc phần đông đang cuốn theo sức hút khó cưỡng
lại được của thơ tự do, thơ hiện đại, và cải cách thơ mình theo lối mới thì Nguyễn
Bính lại về với câu lục bát dân gian vẫn chìm nổi bao đời nay nơi đồng quê. Về với
lục bát, đối với Nguyễn Bính là về với cội nguồn, với hương đồng gió nội, với chân
quê.
Chính thể thơ lục bát đã mang lại vẻ hồn nhiên, tươi thắm của chất trữ tình
đồng quê cho thơ ông. Những sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng thì thơ
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 63
lục bát chiếm 45% và còn lại là thơ bảy chữ chiếm 48%, khi lựa chọn thơ lục bát,
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nguyễn Bính đã phát huy cao độ sự phù hợp của đặc trưng thể thơ này (mền mại,
uyển chuyển, giàu nhạc điệu...). Nếu như lục bát ca dao mang vẻ hồn nhiên tươi
thắm của chất trữ tình đồng quê, nếu lục bát truyện Kiều mềm mại uyển chuyển thì
những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính như Lỡ bước sang ngang, Chân quê, Người
hàng xóm, Tương tư... vừa thánh thoát, gợi cảm, vừa trau chuốt, điêu luyện. Điểm
mặt những cây bút lục bát nổi bật nhất trong phong trào Thơ Mới người ta vẫn nhắc
nhiều đến hai khuôn mặt với hai phong cách khác nhau là Huy Cận và Nguyễn
Bính. Nếu tác giả Lửa thiêng nghiêng về lục bát cổ điển điệu ngâm thì tác giả Lỡ
bước sang ngang lại nghiêng về lục bát dân gian điệu nói.
Thơ lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Đọc thơ
Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao. Nhà
thơ Mộng Tuyết đã nhận xét “Bính viết lục bát nhanh hơn văn xuôi” [5, tr. 49].
Nguyễn Bính cũng đã từng viết một cuốn sách nhỏ dạy cách làm thơ lục bát và ông
cho rằng cái khó của lục bát là vần, thơ lục bát phải làm cho đúng vần, nếu sai vần
thì không thể thành thơ được. Thơ lục bát của Nguyễn Bính rất tự nhiên, mượt mà,
không ép vần, vần điệu đến tự nhiên trên dòng trôi của từ ngữ, không phải vất vả
lựa chon sắp xếp nhưng đồng thời cũng không rơi vào diễn ca, vần vè dễ dãi. Điều
quan trọng là mạch suy tư được tạo ra như một khiếu năng, một mạch chảy và vần
điệu đến một cách phù hợp. Ngọc Giao cũng nhận xét: “Điều khiến tôi lạ là Nguyễn
Bính chưa bao giờ phải đăm chiêu vò tóc về việc hoàn chỉnh một thi phẩm dài ngắn
và khó dễ. Anh thường ứng khẩu đọc trước mọi người, coi việc sáng tạo một bài thơ
dễ dàng như tớp rượu” [5, tr. 49]. Thơ lục bát của Nguyễn Bính mang màu sắc của
ca dao khác với chất lục bát đậm đà ý tứ cá nhân của Huy Cận, mà còn chứa chan
phong vị đồng quê.
“Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ hoa”
(Chờ nhau)
Hay là:
“Hồn anh như hoa cỏ mây
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 64
(Hoa cỏ mây)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Điểm nổi bật là những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính rất gần gũi với ca
dao, lấy hương, lấy nhụy của ca dao để làm điểm tựa tinh thần và tạo hồn cho thơ
mình. Khi chọn lựa thể thơ lục bát, Nguyễn Bính không đóng khung tình cảm trong
câu chữ trong thể thơ này. Lục bát trong thơ Nguyễn Bính là một dòng chảy của
tình cảm, của ngôn từ. Người đọc cũng khó đoán định được bến bờ mà mạch thơ
trôi chảy hoặc dừng lắng.
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua của tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”
(Cánh buồm nâu)
“Tình tôi là giọt thủy ngân
Dù nghiêng chẳng nát dù lăn vẫn tròn
Tình cô là đóa hoa đơn
Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn”
(Tình tôi)
Cũng có khi cảm xúc đứt đoạn, câu thơ như gãy làm đôi bởi lối chấm câu
giữa dòng:
“Vũng khô năm đợi mười chờ
Mưa sang xứ khác. Ai ngờ hồn tôi”
(Vũng nước)
Với lối ngắt dòng, chấm câu giữa dòng, câu thơ tình lục bát của Nguyễn
Bính đã “mềm” đi rất nhiều so với ca dao. Đây cũng cũng chính là một hiện tượng
phổ biến của thi pháp Thơ Mới
Ở bài thơ Người hàng xóm là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ lục
bát dân gian và những đặc trưng tiêu biểu của thơ lục bát dân gian. Qua bài thơ
Người hàng xóm cho ta thấy được một tài năng thiên bẩm về thơ lục bát của
Nguyễn Bính mà TS. Chu Văn Sơn đã gọi Nguyễn Bính là “Con đẻ của câu lục bát
chìm nổi nơi đồng quê”, chỉ ở lục bát, hồn vía của Nguyễn Bính mới nhập vào hồn
quê đến như vậy, cả hai mới đồng thể, cất lên tiếng nói, nhuần nhị nhất, hồn vía của
Nguyễn Bính đã kí thác nhiều nhất vào lục bát, chỉ ở lục bát Nguyễn Bính được là
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 65
mình hơn cả. Nguyễn Bính tìm đến lục bát như tìm thấy phương tiện chuyển tải
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
được những cảm xúc vừa bảo tồn được những giá trị văn hóa. Chỉ qua lục bát nhà
thơ mới thể hiện được cái duyên đáng chân quê cũng như những tình cảm và điệu
quê da diết của mình. Vì thơ lục bát là thể thơ thích hợp hơn cả để nói về tình yêu,
nỗi nhớ bởi thơ lục bát giàu nhạc điệu và nhạc tính. Nguyễn Bính là dẫn chứng tiêu
biểu xuất sắc, là đại diện cho một khuynh hướng rất đáng trân trọng của phong trào
Thơ Mới, khuynh hướng quay về cội nguồn dân tộc. “Ở nguyễn Bính là sự hội tụ
tính dân tộc và tính thời đại, Nguyễn Bính đã vay mượn những yếu tố của ca dao
trữ tình. Nó chứng tỏ rằng việc tiếp thu học tập văn hóa dân tộc, tìm tòi những cách
thể hiện gần gũi với thơ ca dân gian và sự tập chung sinh động, đậm đà những biểu
đạt truyền thống của ca dao trữ tình” (Nguyễn Hạnh Cẩm).
Lục bát của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc
nhưng nét mới nhất của lục bát Nguyễn Bính là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã
làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh
động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Qua đó ông đã thổi “hồn quê” và lục bát, điều
này đã làm cho lục bát của Nguyễn Bính mang bản sắc và diện mạo riêng so với ca
dao và lục bát trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát
Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang bản sắc cá nhân. Trong khi đó cũng mang “hồn
quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ quát còn trong thơ lục bát của Nguyễn
Bính, không gian đồng quê đã được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại, nét
hiện đại của cái tôi Thơ Mới Nguyễn Bính đầy nỗi niềm trước hiện tượng những nét
đẹp chân quê đang dần bị lấn át bởi văn minh đô thị.
3.2. Ngôn ngữ thơ.
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu con người dùng để giao tiếp bao gồm các
từ kết hợp lại với nhau. Ngôn ngữ tồn tại trong ý thức chung của tất cả mọi người
cùng sử dụng nó. Còn ngôn từ thực chất là ngôn ngữ nhưng là ngôn ngữ trong thực
tiễn giao tiếp và nói năng của con người. Nếu như ngôn ngữ là của chung thì ngôn
từ là riêng. Ngôn từ là lời nói hoặc viết của một cá nhân cụ thể nào đó, do đó ngôn
từ luôn luôn có tác giả, có chủ thể phát ngôn. Khi sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu
xây dựng lời nói của mình, người nói luôn luôn đưa vào đấy tình cảm, tác giả cá
nhân của mình. Văn chương là nghệ thuật ngôn từ chứ không phải nghệ thuật ngôn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 66
ngữ.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nếu như giọng điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc, màu sắc, đường nét
là ngôn ngữ của hội họa, mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn ngữ là chất
liệu của tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, tùy vào đặc trưng thể loại, ngôn ngữ
trong mỗi loại thể văn học có những đặc điểm riêng, là nghệ thuật “lấy ngôn ngữ
làm cứu cách” (Jakobson), ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ.
Đó là thứ ngôn ngữ được trưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao
của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là một
phương tiện hình thức luôn được coi trọng, là một giá trị không thể phủ nhận trong
yếu tính thơ, vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là thứ
ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm xúc phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu
hình ảnh, sắc màu (tính họa), vừa giàu nhạc điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa
quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa. Ngôn ngữ là ngôn ngữ
giàu hình ảnh, màu sắc, thơ không phải là một mớ lý thuyết mà là một thực thể
ngôn ngữ, và thơ ca ám ảnh người đọc phải chăng cũng vì vẻ đẹp toát ra từ “thực
thể ngôn ngữ” ấy. Vũ trụ tâm hồn thi nhân có hòa điệu với tâm hồn người đọc
không có “tri âm” với người tiếp nhận hay không, tất cả phải thông qua chiếc cầu
ngôn ngữ. Nói như Bùi Giáng “Thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền
nhiệm của cuộc sống. Ngôn nhữ thơ bao giờ cũng là hóa công của người nghệ sĩ.
Mỗi chữ trong thơ đều là sự vang vọng từ tâm hồn thi nhân”. Vì “thực chất của thơ
là cái linh hồn, là sự sống của những chữ ta dùng. Làm văn xuôi, chữ không có sức
mạnh ma quái như vậy (...) thi nhân là một thần linh nói một thứ chữ riêng mà thế
nhân phải diễn tả dài dòng thô hậu” (Nguyên Sa).
Trong bài viết Thi pháp dân gian trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Quốc Túy
cho rằng: “Ngôn ngữ thơ mới dân gian Nguyễn Bính trước hết là ngôn ngữ của ca
dao của thơ ca dân gian nói chung và rộng hơn nữa là ngôn ngữ trong đời sống
hằng ngày của quảng đại quần chúng nhân dân được nhà nghệ sĩ dân gian Nguyễn
Bính chọn lọc mài giũa và tinh luyện”.
Ngôn ngữ thơ là một trong những lĩnh vực hấp dẫn mà ít ai nghiên cứu thơ
Nguyễn Bính lại không đề cập đến. Có lẽ Nguyễn Bính chân quê, hồn quê trước hết
ở lĩnh vực này. Nguyễn Bính sử dụng thuần thục đến tự nhiên ngôn ngữ, hình ảnh
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 67
dân dã, quê mùa.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn”
(Người hàng xóm)
“Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng trầu em sang”
(Chờ nhau)
Những hình ảnh ấy, từ ngữ ấy thật vô cùng thân thuộc với người quê, cảnh
quê – song dễ gì đưa vào thơ, thành thơ mà đến nửa thế kỉ sau đọc lên vẫn thấy
mới? Giậu mùng tơi, giàn giầu có thể ngày càng ít, nhưng cách nói của Nguyễn
Bính thì vẫn vẹn nguyên vẻ đẹp duyên dáng, uyển chuyển, tế nhị. Cho nên, nói
“Nguyễn Bính khác với Tản Đà, Xuân Diệu và thơ Nguyễn Bính nổi tiếng bởi ông
đứng vững trên cái nền dân tộc” là vì vậy.
Thơ Nguyễn Bính không chỉ sử dụng thuần thục hình ảnh, ngôn ngữ thôn
quê mà còn đậm đà phong tục truyền thống:
“Sáng ngày mùng một sớm tinh sương
Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường
Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi
Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”
(Tết của mẹ tôi)
“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm, trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt, miệng nam vô...”
(Xuân về)
Có thể nói về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ
trong thơ Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe
như có tiếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người mình
thương:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
(Tương tư)
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 68
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau”
(Cánh buồm nâu)
Hay những lời kể chân thật:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
(Tương tư)
Trong thơ, Nguyễn Bính sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân một cách
thuần thục, tự nhiên, đặc biệt là trong cách trò truyện, tỏ tình của những đôi trai gái
quê.
“Nói ra sợ mất lòng em
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh”
(Chân quê)
Ngôn ngữ thơ ca của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian là
bởi gì nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu
hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung
quanh, những cảnh quan bình dị với nông thôn dân đã gần gũi thân quen, đó là thế
giới của giàn giầu, hàng cau. Nguyễn Bính thích hợp với thứ ngôn ngữ nhiều màu
sắc như trong ca dao, do vậy trong thơ ông cả cảnh trong mơ và trong đời thực đều
được Nguyễn Bính thêu dệt bằng những màu sắc tươi thắm Lại đi, Cho tôi li nữa,
Một chiều say.
“Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn
Có đàn trâu trắng lội ngang sômg
Có cô thợ nhuộm về ăn tết
Sương gió đường xa rám má hồng”
(Không đề)
Bên cạnh đó thơ Nguyễn Bính được mến mộ còn nhờ ngôn ngữ giàu nhạc
điệu, đó là cái nhạc điệu trong của nội tâm, chứa chan tâm trạng:
“Thấy tình duyên của đôi ta
Đến đây là...đến đây là...là thôi!”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 69
(Rượu xuân)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Thơ của Nguyễn Bính là thơ của những cái cụ thể, những hiện thực của đời
sống tồn tại xung quanh chúng ta và trong bản thân chúng ta. Ngôn ngữ thơ của
Nguyễn Bính đã mở rộng hiện thực thơ từ những chi tiết lên tới mức khái quát cao
nhất mở ra những khả năng biểu hiện mới cho thơ. Tất cả con người và sự vật hằng
ngày ở xung quanh chúng ta qua thơ ông trở thành hiện thân của cái đẹp, cái đẹp
của đời sống dân dã và cái đẹp của thi ca, của nghệ thuật.
Nếu như bạn đọc đặt mình vào hoàn cảnh xuất hiện của thơ ông vào nửa cuối
thế kỷ ba mươi ấy, trong thực trạng văn hóa của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Khi một thứ ngôn ngữ của thành thị đang hình thành và được áp đặt lên văn chương
bấy giờ như một thứ ngôn ngữ duy nhất chính thống và cao quý thì Nguyễn Bính đã
đưa vào trong bản thân nó một thứ ngôn ngữ nôm na dân dã tưởng chừng như cục
mịch quê mùa ấy đã để lại một vẻ đẹp, một âm hưởng lạ và bất ngờ cho thi đàn thơ
mới Việt Nam. Hoài Thanh kể lại: “Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn
Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà
thông thái thời này. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính, họ sẽ bảo: “Thơ như thế này
thì có gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được
bằng lý trí, một điều quý vô ngần, hồn xưa của đất nước” [21, tr. 284]. Đó chính là
Nguyễn Bính đã dùng ngôn ngữ nói trong đời sống dân dã để làm thơ. Nếu như
những nhà thơ không tiếp nhận được hết vẻ đẹp của văn hóa dân gian thì không thể
hiểu được cái vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ bình dị kia. Và chỉ có Nguyễn Bính mới có
thể có những câu thơ giản dị và đẹp như thế thôi. Giản dị tự nhiên như lời nói hằng
ngày mà lại vẫn mang vẻ đẹp của thi ca.
3.3. Nhịp thơ.
Nói đến yếu tố tạo tính nhạc cho thơ phải kể đến vai trò của nhịp điệu.
Maiacovki từng khẳng định: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản
của câu thơ. Câu thơ và vần thơ có một cái duyên mà thậm chí khi lời, ý dở, nhà thơ
vẫn quyến rũ người nghe bằng nhịp điệu và sự cân đối”. Theo Giáo sư Hà Minh
Đức “Nhịp điệu là kết quả của một sự chuyển động nhịp nhàng, sự lặp lại đều đặn
những âm thanh nào đó ở trong câu thơ”. Nhịp thơ có thể dài, ngắn, đọc lên có thể
nhanh hay chậm phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc. Còn Bùi Công Hùng lại cho
rằng: “Nhịp điệu trong thơ xuất hiện trên cơ sở nhịp điệu lao động. Nhịp điệu là hơi
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 70
thở của con người, là nhịp đập của trái tim. Nó lặp lại đều đặn, nhịp nhàng những
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
đoạn tiết tấu được quy luật thanh điệu chi phối. Như vậy, nhịp điệu là kiểu tổ chức
ngôn ngữ thơ ca, là phương tiện biểu đạt ý nghĩa, biểu đạt cảm xúc và làm nên
giọng điệu của thi ca.
Nhịp điệu là “Một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật
trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên các
yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trình nhằm chia tách và kết
hợp các ấn tượng thẩm mỹ”. Vì vậy mà ngắt nhịp là một thao tác khó, nó đòi hỏi
người đọc thơ vừa phải nắm vững tổ chức ngôn ngữ, vừa phải thấu đáo cảm xúc và
ý nghĩa lại vừa có một cảm quan nghệ thuật sâu sắc. Ở lĩnh vực ngôn ngữ học, nhịp
thơ là một tổ chức tinh vi và diệu kỳ của ngôn ngữ thơ.
Tìm hiểu thơ tình Nguyễn Bính trước năm 1945, ta thấy thơ lục bát của ông
có những dấu ấn riêng. Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn
Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hòa của lục bát cổ đặc biệt là về nhịp điệu.
Lục bát trong thơ Nguyễn Bính mền mại, uyển chuyển, giàu nhạc điệu, nhà thơ
thường ngắt nhịp 2 chữ, kiểu ngắt nhịp này tạo nên âm hưởng trầm buồn, tha thiết.
Vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống 2/2/2; 2/4 nhịp chẵn (câu lục) và 2/2/2/2; 4/4
(câu bát) đồng thời vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn tả tâm hồn
của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình.
Nhịp 2/4/2 ở câu bát mà nhà thơ sử dụng để diễn tả nỗi tuyệt vọng của chàng
trai:
“Dở dang/ đã dở dang gì
Dở dang/ cho đến thế thì/ dở dang”
(Xây hồ bán nguyệt)
Chàng trai trong bài thơ tuyệt vọng chán chường đến phó mặc cho cái dở
dang của định mệnh. Hoặc là nhịp 2/2/2; nhịp 3/3:
“Em nghe/ họ nói/ mong manh
Hình như họ biết/ chúng mình/ với nhau”
(Chờ nhau)
“Cũng là thôi/ cũng là đành
Sang sông lỡ bước/ riêng mình chị sao”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 71
(Lỡ bước sang ngang)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Bên cạnh câu lục bát phối thanh và nhịp cổ điển thì Nguyễn Bính còn sáng
tạo thêm về thanh điệu và nhịp điệu. Như tác giả sử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu
bát là cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột
của tình huống:
“Bao giờ/ bến mới gặp đò
Hoa khuê các/ bướm giang hồ/ gặp nhau”.
(Tương tư)
“Dừng chân trước cửa nhà nàng
Thấy hoa vàng/ với bướm vàng/ hôn nhau”
(Dòng dư lệ)
Hoặc những bài thơ đã phá cách về quy luật thanh điệu, tạo một tiết tấu mới:
“Hôm nay/ dưới bến/ xuôi đò
Thương nhau/ qua cửa tò vò/ nhìn nhau
Anh đi đấy/ anh về đâu?
Cánh buồm nâu, / cánh buồm nâu, / cánh buồm...”
(Cánh buồm nâu)
“Thu đi/ trên những cành bàng
Chỉ còn/ hai chiếc lá vàng/ mà thôi”
(Cây bàng cuối thu)
Những lối ngắt nhịp phá vỡ tính cân xứng hài hòa, trong thơ Nguyễn Bính
nhiều khi chẻ nhỏ câu thơ đến một tiếng tạo nên những nhịp lẻ gấp khúc đứt đoạn
như các kiểu nhịp 1/1/4; 1/1/2/2; 2/1/3 (câu lục) và các kiểu nhịp 2/1/5; 2/1/3/2;
1/1/1/1/2/2 (câu bát). Thể hiện sự bất ổn chông chênh của con người mãi đắm say
trong bể khổ yêu đương:
“Rồi/ rồi/ chị nói sao đây
Em ơi/nói nhỏ câu này/ với em”
(Lỡ bước sang ngang)
“Yêu/ yêu/ yêu/ mãi thế này
Tôi như một kẻ/ sa lầy trong yêu
Cao bao nhiêu/ thấp bấy nhiêu
Một/ hai/ ba/ bốn/ năm chiều/ rồi thôi”
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 72
(Lòng yêu đương)
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Câu thơ ngắt nhịp theo niềm xúc động xốn xang của cô gái, sự thẹn thùng
với bao ngập ngừng khó nói về chuyện tình cảm riêng tư.
Trong bài Tương tư Nguyễn Bính đã có cách ngắt nhịp rất lạ. Nguyễn Bính
muốn thông qua cách ngắt nhịp đó để thể hiện tâm trạng chờ đợi mỏi mòn tình yêu
của một chàng trai đối với cô gái, cứ mãi đợi chờ để rồi trách móc sao người yêu
quá hờ hững với mình. Chính đều đó đã tạo thành một nhịp điệu yêu thương.
“Ngày qua/ ngày lại/ qua ngày
Lá xanh nhộm/ đỏ thành/ cây lá vàng”
(Tương tư)
“Ngày qua ngày lại qua ngày” một câu thơ với những từ ngữ bình thường và
lối nói tưởng như rất giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác
của con người mang bệnh tương tư, trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài
lê thê, chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ “ngày” được
nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thế được
đếm từng ngày. Nhịp 2/2/2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống đã được ngắt
thành nhịp 3/3: “Ngày qua ngày/ lại qua ngày” chia ý nghĩa câu thơ thành hai vế
với nội dung song trùng, ý của vế sau lập lại vế trước và sự nhấn mạnh chữ “lại”
gợi tả sự chán ngán trong lòng kẻ đa tình, tương tư trước dòng thời gian vô tình,
đơn điệu cứ chậm chạm mà vô tình trôi qua đi. Hoặc là với câu thơ sau đây:
“Bỗng dưng/ tôi thấy/ bồi hồi
Tôi buồn/ tự hỏi: /Hay tôi yêu nàng?”
Cả câu thơ có 14 tiếng thì có tới mười tiếng là vần bằng. Lời thú nhận ấy cho
thấy tình cảm chàng trai dành cho cô gái rất là chân thành nhưng vẫn còn giấu kín
trong lòng. Nó như một khúc nhạc lòng thật đằm thắm, thêm vào đó là câu thơ được
ngắt nhịp theo nhịp thơ 2/2/2 đều đặn cho thấy tâm trạng ngập ngững của chàng trai
khi đang nghi ngờ tình những tình cảm trong lòng mình, cách ngắt nhịp này đúng
với cách ngắt nhịp truyền thống, ổn định vẫn thường thấy trong ca dao, một trong
những đặc trưng cơ bản của thơ lục bát dân gian. Qua đó góp phần tạo tính nhạc cho
thơ. Và rồi những câu thơ lục bát của Nguyễn Bính làm cho người đọc phải khán
phục trước những thành công tuyệt diệu của nhà thơ, khi có một từ “không” ở giữa
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 73
câu thơ, diễn tả trạng thái phân vân, lưỡng lự trong tình cảm của chàng trai đối với
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
người hàng xóm, được nhà thơ diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp khúc, chàng trai đã
nói:
“Cái gì như thể/ nhớ mong?
Nhớ nàng/? Không!/ Quyết là không/ nhớ nàng”
Câu thơ trên được ngắt theo nhịp: 2/1/3/2. Đây là nhịp của khẩu ngữ, thể
hiện mâu thuẫn tâm lí của chủ thể, câu thơ cố phủ định và rồi tự khẳng định tình
cảm của mình, cả bài thơ được gieo vần chính, những câu thơ lục bát cứ quấn quýt
với nhau tạo thành cả một bản nhạc lớn với những cung bậc cảm xúc chan chứa.
Ở nhịp 2/1/3 tác giả còn có những câu thơ diễn tả trạng thái chếnh choáng
của những người du khách một chiều dừng chân nơi bến sông xa:
“Chưa say/ em/ đã say gì
Chúng tôi còn uống/ còn nghe em đàn”
(Một con sông lạnh)
Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách, không tuân theo những quy tắc truyền
thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, diễn tả tâm trạng chủ quan của cái
tôi cá thể, đào sâu vào thế giới nội tâm của con người. Do vậy nhịp điệu trong thơ
Nguyễn Bính là nhịp điệu tâm hồn. Lối ngắt nhịp trong thơ Nguyễn Bính rất tự do,
mới mẻ, xốn xang, hơi thở thời đại, đã tạo cho thơ lục bát của ông những dấu ấn
riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những cảm xúc mới mẻ cho người đọc.
3.4. Hình ảnh thơ.
Việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối
với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà thơ mới khác như Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên... thơ Nguyễn Bính trở về với những hình ảnh
gần gũi quen thuộc trong ca dao, ta như trở về với tuổi thơ của chính mình, trở về
với lũy tre làng quê hương thân thuộc. Từ những hình ảnh thôn Đông, thôn Đoài,
con đò, giếng nước, cây đa, sân đình...đến dậu mùng tơi, cánh bướm, cánh diều, lá
giầu, cây cau. cỏ may, đồng nội...Tất cả đã đi vào thơ Nguyễn Bính một cách tự
nhiên và đầm ấm tình người. Nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình
ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới.
Hình ảnh quen thuộc nhưng cách sắp xếp, diễn tả của tác giả rất mới mẻ. Cũng ao
bèo, giầu không, giếng thơi thường thấy trong ca dao nhưng Nguyễn Bính đã dựng
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 74
lên không gian trống vắng, không có bóng dáng con người mà đầy ắp tâm trạng.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
“Lợn không nuôi đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
(Qua nhà)
Đó là tâm trạng buồn, trống rỗng trong tâm hồn của kẻ đang thất vọng trong
tình yêu.
Trong cao dao trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa
trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai cô gái:
“Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang”
(Ca dao)
“Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh nhớ thương nàng, trối kệ thị phi”
(Ca dao)
Còn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình vào
thiên nhiên, các hình ảnh trong thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian
quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
(Tương tư)
Những hình ảnh như “bến – đò” là những hình ảnh có tính chất truyền thống
để chỉ người nam và người nữ. Hình ảnh “hoa khuê các bướm giang hồ” lại rất đặc
trưng cho phong cách các nhà thơ mới. Nó thể hiện tâm trạng lỡ làng, bất an của
nhân vật trữ tình bởi sự chờ đợi mòn mỏi với nỗi tương tư trĩu nặng trong lòng. Cặp
hình ảnh này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nét mới và nét lãng mạn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 75
trong phong cách Nguyễn Bính.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Hình ảnh dòng sông, con thuyền đi vào thơ Nguyễn Bính cũng có sự khác
biệt so với ca dao. Cánh buồm hư ảo xuất hiện trong thơ ông như một sự mở rộng
đến cao độ. Một cánh buồm mở rộng cả không gian, thời gian và chất chứa tâm
trạng của sự chia xa.
“Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...”
(Cánh buồm nâu)
Cũng là hình ảnh ngọn mồng tơi quen thuộc nhưng nếu trong cao dao, ngọn
mồng tơi cũng như giải yếm, cành hồng là những nhịp cầu thể hiện khát vọng gắn
kết đôi lứa lại với nhau.
“Ở gần sao chẳng sang chơi
Để anh cắt ngọn mùng tơi bắc cầu
Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang
(Ca dao)
Thì trái lại hình ảnh trên trong thơ Nguyễn Bính lại trở thành biểu tượng cho
sự ngăn cách tâm hồn, là khoảng cách tâm lí mà con người không thể vượt qua
được. Chàng trai, cô gái trong thơ yêu nhau nhưng chỉ vì cách nhau bởi giậu mồng
tơi mà đành thu hẹp mình trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ngập tràn.
“Giá đừng có giậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng”
(Người hàng xóm)
Bên cạnh đó Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của thơ bằng việc
sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà thơ dân gian thường dùng. Những hình
ảnh ẩn dụ thường xuyên đi về trong thơ ông, nói đến tình yêu đôi lứa tác giả thường
nhắc đến những hình ảnh sóng đôi như: “hoa – bướm”, “cau – trầu”, “bến – đò”...
với những tưởng tượng và liên tưởng dồi dào, Nguyễn Bính tạo ra những hình ảnh
ví von, so sánh, nhân hóa sinh động – đó thật sự là những kết hợp mới lạ bất ngờ,
thú vị. Nguyễn Bính đã thổi hồn cảnh sắc thiên nhiên để tạo nên những hình ảnh thơ
sống động: “bướm lười, tơ gạo lẳng lơ, những cành cây nói cười nhau...”. Ngoài
những hình ảnh như cây đa, bến nước con đò...thì trong thơ Nguyễn Bính còn xuất
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 76
hiện thêm một số hình ảnh con bướm trắng, hình ảnh tơ vàng...mỗi hình ảnh đó
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Nguyễn Bính gán ghép cho nó có một ý nghĩa riêng. Như giậu mùng tơi thì gợi ra
một không gian thơ mộng, hiền hòa của làng quê, còn hình ảnh con bướm trắng
tượng trưng cho một sợi dây để chỉ những nhớ mong, những yêu thương của chàng
trai dành cho cô gái. Từ vàng thì mang lại cho ta cảm giác như đang chìm vào một
làng nghề dệt vải với những cô thôn nữ, đảm đan khéo léo...những hình ảnh trên
xuất hiện nhiều trong những bài ca dao của Nguyễn Bính. Điều đáng quý là việc sử
dụng những hình ảnh đậm chất quê mùa kia khiến cho thơ Nguyễn Bính gần gũi với
dân gian với những con người bình dân hơn.
Hơn nữa Nguyễn Bính còn ngầm đặt thêm những hy vọng vào trong hình
ảnh là những niềm tin, ước mơ đơn giản hay những hạnh phúc mong manh cho
những đôi lứa yêu nhau sẽ có một ngày được hạnh phúc như chính cái hạnh phúc
mong manh mà tác giả cũng đang kiếm tìm. Đại khái là hình ảnh một ước mơ về
những đám cưới đẹp với “Những mâm cau phủ lụa điều với xe cưới ngời hoa
trắng”, “Cửa kính huy hoàng vạt áo thiêu”...Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất nên
thơ mà tác giả luôn cố dành một ít những bài thơ gợi lên những hình ảnh vui vẻ,
hạnh phúc cho những mối tình yêu được viên mãn.
Nói chung, Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, hồn quê và cũng là nhà thơ
của chân quê. Trong thơ, Nguyễn Bính sử dụng điêu luyện thể thơ lục bát thông qua
một số hình ảnh quen thuộc gợi lên tình cảm với quê hương, cách ví von so sánh
của thơ ông gần với ca dao, cảm xúc trữ tình nhuần nhuyễn trong nghệ thuật diễn
đạt.
Nguyễn Bính vốn gần gũi, gắn bó với đời thường, có nói về mình cũng là cái
mình gắn liền với cuộc sống và những con người quê hương. Chỉ riêng việc thơ
Nguyễn Bính len lỏi vào tận nông thôn, đi vào lời ru tiếng hát của những con người
bình dị là điều mà thơ mới, tuy tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhạc điệu có thể tài tình,
đột xuất hơn nhưng hiếm hoi lắm mới đạt tới được – cũng đủ làm nên giá trị đặc
biệt của Nguyễn Bính. Với lại xét cho cùng, cái chính không phải ở phong vị nông
thôn hay thành thị, không phải như thiên về thị hiếu thôn dân hay thị dân, mà ở cái
hồn dân tộc của thơ Nguyễn Bính đã cảm nhận sâu sắc và gửi gắm vào thơ mình.
Nguyễn Bính vừa có kế thừa những yếu tố nghệ thuật truyền thống, nhưng
phần cách tân sáng tạo của ông vẫn là chủ yếu. Đặc biệt ông làm mới lối thơ xưa
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 77
của dân tộc bằng cách cấu tứ thiên về trình bày, diễn tả, cách thức và ý nghĩa dùng
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
từ ngữ, hình ảnh mới lạ, nhịp thơ đầy biến hóa linh hoạt, giọng điệu phong phú. Có
khi ngay cả những câu thơ lục bát của Nguyễn Bính mà câu chữ, nhịp điệu không
có gì mới mẻ, người ta vẫn nhận ra cái hồn cốt của câu thơ mới bởi nó đã diễn tả
những “bâng khuâng khó hiểu” của tâm hồn con người hiện đại. Có thể nói với
nguồn cảm xúc thơ mới dồi dào, Nguyễn Bính như “nhập” thể thơ lục bát và góp
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 78
phần hiện đại hóa lối thơ truyền thống.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
C. PHẦN KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng tháng
Tám 1945” một cách toàn diện về hai phương diện nội dung và hình thức nghệ
thuật. Chúng tôi đưa ra kết luận sau:
Các bài thơ được chúng tôi khảo sát trong luận văn này vào thời kỳ trước
Cách mạng tháng Tám. Đồng thời qua đó đã giúp ta hiểu được những tâm huyết, tài
năng và sức mạnh trong cuộc đời của nhà thơ rất lớn đối với phong trào Thơ Mới
(1932- 1945). Khi triển khai đề tài “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng
tháng Tám 1945”, bản thân tôi đã đi vào giải quyết ba vấn đề chính trong thơ
Nguyễn Bính. Thứ nhất là đi vào khái quát về giọng điệu qua những yếu tố, vai trò
và nét đặc sắc của giọng điệu đã ảnh hưởng đến thơ Nguyễn Bính ra sao. Thứ hai
tìm hiểu cơ sở nào, lý luận nào có ảnh hưởng đến giọng điệu trong thơ của Nguyễn
Bính, ông đã sử dụng những giọng điệu gì và biểu hiện trong thơ như thế nào? Thứ
ba chốt lại vấn đề trên, như đi vào tìm hiểu phương thức nghệ thuật biểu hiện giọng
điệu trong thơ.
Xét cho cùng khi nghiên cứu nội dung cũng như hình thức biểu hiện nghệ
thuật trong thơ Nguyễn Bính cũng là muốn tìm ra được những giọng điệu trong thơ
của Nguyễn Bính trước và sau Cách mạng tháng Tám có khác nhau về giọng điệu
không. Có thể thấy rằng, Nguyễn Bính là một nhà thơ “chân quê”, một con người
quê. Cho nên phần nào những giọng điệu có trong thơ của Nguyễn Bính cũng bắt
nguồn từ nông dân, với những lời lẽ bình dị. Nếu ta đặt thơ Nguyễn Bính giữa dòng
“thơ quê”, thơ viết dưới ánh sáng của đề tài thôn dã, cánh hoa thơ ông vẫn tự tin với
sắc màu riêng của mình. Bởi trong những áng hoa thơ đó, nếu Anh Thơ xúc cảm
diệu dàng trước cảnh quê, Đoàn Văn Cừ tái hiện sinh động nếp quê, Bàng Bá Lân
rung động về đời quê, thì Nguyễn Bính dù viết về những cảnh sắc hương thôn hay
những mảnh đời lở dở, về những mối duyên quê hay những tấm tình quê, về cố
nhân hay cố hương, về quê hương hay quê người,...ở đâu ông cũng làm dậy lên
được cái hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố nội dung và hình
thức, nhưng nổi bật là gọng điệu quê, lối nói quê và lời quê.
Mặc khác, Nguyễn Bính còn tìm ra được những giọng điệu mới cho thơ của
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 79
ông. Chỉ trong thể lục bát hòa vào là những cung bậc tâm trạng, cảm xúc chân thật
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
của nhà thơ cũng đủ làm cho thơ ông mang nhiều biểu hiện giọng điệu khác nhau
như: giọng điệu vui buồn, ngậm ngùi, đắng cay và như thấp thoáng đâu đó trong thơ
có những mối tình yêu đương ngọt ngào nhưng lại mang một giọng điệu ngập
ngừng, bâng khuâng. Tùy vào nội dung mà có những cảm xúc giọng điệu phù hợp
với tâm trạng nhân vật trữ tình. Qua đó thấy được giá trị của Nguyễn Bính trong
việc đào sâu thế giới nội tâm của nhân vật mà biểu hiện thành những giọng điệu để
thay lời giải bày những tâm sự chưa cất thành lời như: những cảm xúc nhớ mong,
tương tư, giận hờn, ghen tuông, trách móc, biệt ly, thất tình rồi tan vỡ…dường như
thơ của Nguyễn Bính đa dạng, phong phú nhiều cảm xúc. Cho nên rất nhiều nhân
vật tìm đến thơ ông để nói lên giọng điệu riêng của lòng mình.
Xét đến phương diện nghệ thuật biểu hiện đến giọng điệu như thể thơ, ngôn
ngữ thơ, nhịp thơ và hình ảnh thơ là một vấn đề hết sức quan trọng để góp phần vào
việc tìm ra những cơ sở, căn cứ biểu hiện giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính. Như
nhịp điệu ông vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống bên cạnh cũng có cách tân, sáng
tạo linh động để diễn tả tâm trạng nhân vật và cái tôi ẩn náu trong lòng nhân vật với
một ngôn ngữ đa dạng, muôn màu muôn vẻ, để diễn tả cái sắc thái tình cảm hay tâm
trạng xôn xao trong cảm xúc cái tôi trữ tình, với một hình ảnh mộc mạc, giản dị,
quê mùa.
Tóm lại, việc nghiên cứu “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng
tháng Tám 1945” mà đặc biệt là tìm ra được những giọng điệu ẩn sau những bài thơ
của Nguyễn Bính đã giúp tôi khẳng định được một tài năng của Nguyễn Bính trên
thi đàn văn học Việt Nam (1932- 1945), là một nhà thơ có một lối giọng điệu riêng,
hết sức đặc biệt mà khó trộn lẫn với bất kỳ ai. Qua đó tôi muốn góp một phần công
sức, một tiếng nói nhỏ vào việc khẳng định vị trí và sức sống của thơ Nguyễn Bính
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền 80
trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Bính (2011), “90 bài thơ tình chọn lọc”, Nxb Văn học.
2. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Minh Đức - Bùi Văn Nguyên (1968), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Hà Minh Đức (1974), Thơ mấy vấn đề trong thơ hiện đại, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
5. Hà Minh Đức (1994), Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê, Nxb Văn học, Hà
Nội.
6. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại của thơ ca về phong trào Thơ mới, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (2002), Nguyễn Bính thi sĩ của làng quê, Nxb văn học, Hà
Nội.
8. Hà Minh Đức, Đoàn Phương (2001), Nguyễn Bính về tác giả và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục.
10. Tô Hoài (1968), Tuyển tập Nguyễn Bính, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa
học Xã hội.
12. Đoàn Thị Đặng Hương (2000), Nguyễn Bính thi sĩ nhà quê, Nxb Khoa học
Xã hội.
13. Trần Ngọc Lân (2005),“130 bài thơ tình và những lời bình”, Nxb Thanh
Niên.
14. Nhiều tác giả (1986), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
15. Nhiều tác giả (2002), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Vũ Quần Phương (1969), Đóng góp của thơ Nguyễn Bính, Báo Giáo viên
nhân dân.
17. Chu Văn Sơn (1997), Ba đỉnh cao Thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền
Mặc Tử.
Giọng điệu thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng Tháng Tám 1945
18. Tác giả trong nhà trường (2011), Nguyễn Bính phê bình và bình luận văn
học, Nxb Văn học.
19. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp hiện đại, Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
20. Trần Đình Sử (2001), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
21. Hoài Thanh - Hoài Chân (1998), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
22. Tuấn Thành - Anh Vũ (2003), Thơ Mới “Tác phẩm và dư luận”, Nxb Văn
học.
23. Đỗ Lai Thúy (1991), Đường về chân quê của Nguyễn Bính, Tạp chí Văn
học.
24. Trần Mạnh Tiến (2008), Lí luận phê bình Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX,
Nxb Đại học Sư phạm.
25. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb trẻ.
26. Hoài Việt (1993), Tuyển tập thơ tiền chiến, Nxb Văn học.
27. Thanh Việt (1999), Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, Nxb Văn hóa Thông
tin.
28. Vũ Thanh Việt (2000), Thơ mới lãng mạn - những lời bình, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Nguyễn Thị Hiền
29. Hoàn Xuân (1994), Nguyễn Bính - Thơ và đời, Nxb Văn học.