ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------------

HÀ THỊ ANH

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG THẾ GIỚI VÀ

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------------

HÀ THỊ ANH

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG THẾ GIỚI VÀ

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị

Mã số

: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hồng Điệp

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của TS. Lê Thị Hồng Điệp.

Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính

khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014.

Tác giả luận văn

Hà Thị Anh

MỤC LỤC

Trang Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................... . i

Danh mục bảng biểu ....................................................................................... . ii

Danh mục biểu đồ………………………………………………………..…..iii

Danh mục hình vẽ….…………………………………………………..…….iii

MỞ ĐẦU………………………………………………………………….. .. ..1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ CÔNG VÀ

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG…………………………………………… . .8

1.1. Những khái niệm……………………………………………………… ... .8

1.1.1. Nợ công……………………………………………………………… .. .8

1.1.2. Khủng hoảng nợ công…………………………………………… .. ….10

1.2. Những dấu hiệu nhận diện khủng hoảng nợ công………………….… . .12

1.2.1. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo quan điểm của Reihart và

Rogoff……………………………………………………..………… .......... .12

1.2.2. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo quan điểm của Caner, Grennes và

Koehler- Geil………………..………………………………….. ............... ...13

1.2.3. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo một số quan điểm khác…… . ...13

1.3. Các yếu tố tạo nên khủng hoảng nợ công………………...………….. .. .17

1.3.1. Mức thâm hụt ngân sách lớn……………………………………… ... ..17

1.3.2. Kiểm soát và quản lí nợ của nhà nước kém……………………… .. …19

1.3.3. Sử dụng vốn vay không hiệu quả………………………………….. …19

1.3.4. Không minh bạch trong các hoạt động tài chính và niềm tin của các nhà đầu tư giảm sút………………………………...……………………… ......... 20

1.4. Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế của các quốc gia .. .21

1.4.1. Suy giảm tăng trưởng kinh tế………………………………………. . .21

1.4.2. Giảm khả năng huy động vốn của Chính phủ…………………… .. ….21

1.4.3. Gây ra những bất ổn tài chính…………………………………… .. ….21

Chương 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG THẾ

GIỚI.................................................................................................. ......... ....23

2.1. Tình hình khủng hoảng nợ công của thế giới……………………..... . ....23

2.1.1. Khủng hoảng nợ công Châu mỹ la tinh những năm 1980………… .. ..23

2.1.2. Khủng hoảng nợ công Châu Âu………………………………… .. ….25

2.2. Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ công của các nước và khu vực trên thế

giới………………………………………………………………… ................. ..37

2.2.1. Thâm hụt ngân sách quá lớn…………………………………… . ……37

2.2.2. Sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả…………………………. . ..….39

2.2.3. Không minh bạch trong các hoạt động tài chính……………… . …….40

2.2.4. Kiểm soát và quản lí nợ của Chính phủ yếu kém……………… . ……41

2.3. Tác động của khủng hoảng nợ công tới nền kinh tế thế giới………… .. …...42

2.3.1. Suy giảm tăng trưởng kinh tế…………………………………….. …..42

2.3.2. Giảm khả năng huy động vốn…………………………………… .. ….44

2.3.3. Gặp những bất ổn về tài chính…………………………………… . ….45

Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM NHẰM TRÁNH KHỦNG

HOẢNG NỢ CÔNG CHO VIỆT NAM………………………… ......... ….47

3.1. Tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay……………………… .. ……47

3.1.1. Quy mô nợ công………………………………………………… . …..47

3.1.2. Cơ cấu nợ công………………………………………………… . ……50

3.1.3. Sử dụng nợ công……………………………………………… .. …….53

3.1.4. Trả nợ công…………………………………………………… .. …….55

3.2. Đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam…………………………… .. …..57

3.2.1. Tác động tích cực của nợ công………………………………… . ……57

3.2.2. Những nguy cơ về khủng hoảng nợ công……………………… . ……62

3.2.3. Nguyên nhân tạo nên những nguy cơ của khủng hoảng nợ công . ……64

3.3. Những bài học kinh nghiệm của thế giới nhằm tránh khủng hoảng nợ

công cho Việt Nam trong tương lai …………………… ......... ……………..73

3.3.1. Tăng nguồn thu ngân sách, cắt giảm chi tiêu công………… . ……..73

3.3.2. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay.................. . .............74

3.3.3. Hoàn thiện bộ máy quản lý, tăng cường giám sát và quản lí rủi ro nợ công………………………………………………………………… .. ……...75

3.3.4. Công khai, minh bạch hóa thông tin trong quản lí nợ………… .. ……76

KẾT LUẬN.......................................................................................... .. ........78

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... .. .......79

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

DNNN Doanh nghiệp nhà nước 1

ECB Ngân hàng trung ương Châu Âu 2

EU Liên minh Châu Âu 3

Euro Đồng tiền chung Châu Âu 4

Eurozone Khu vực đồng tiền chung Châu Âu 5

GDP Tổng sản phẩm quốc nội 6

IMF Quỹ tiền tệ thế giới 7

ODA Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức 8

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 9

WB Ngân hàng thế giới 10

i

USD Đồng đôla Mỹ 11

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Bảng Nội dung Trang

Ý nghĩa xếp hạng tín dụng Moody’s 1 15

Bảng 1.1

Số liệu nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới 26 2

Bảng 2.1

3 27

Bảng 2.2 Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS (2006- 2011)

Bảng so sánh rủi ro nợ công của các nước 4 37

Bảng 2.3

5 48

Bảng 3.1 Nợ công tính trên đầu người của một số quốc gia ngày 12/10/2010

6 50 Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010 Bảng 3.2

7 54

Bảng 3.3 Chỉ số ICOR của Việt Nam so với các nước trong khu vực

Thống kê tình hình thâm hụt ngân sách qua các năm 58 8

Bảng 3.4 (2000-2-10)

Số tiền vay trong nước để bù đắp thâm hụt NSNN 9 59

Bảng 3.5

Số tiền vay nước ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN 60

10 Bảng 3.6

Quyết toán chi ngân sách nhà nước 61

11 Bảng 3.7

Chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực 67

12 Bảng 3.8

72

ii

13 Bảng 3.9 Nợ công Việt Nam theo định nghĩa Việt Nam và định nghĩa quốc tế (2012)

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Biểu đồ Nội dung Trang

1 Biểu đồ Tỉ lệ nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới 27

2.1

2 Biểu đồ Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2007-2012 47

3.1

3 Biểu đồ Chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2001-2009 55

3.2

4 Biểu đồ Tình hình trả nợ và viện trợ của Việt nam năm 56

3.3 2006 – 2010

5 Biểu đồ Gánh nặng trả nợ của Việt Nam (2003- 2013) 56

3.4

DANH MỤC HÌNH VẼ

Nội dung STT Hình Trang

1 Hình Thông số nợ công trên Global debt clock ngày 49

iii

3.1 28/9/2012

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Nợ công đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp

đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như toàn cầu trong giai đoạn hiện

nay. Hy Lạp là quốc gia đầu tiên trên thế giới rơi vào tình trạng khủng hoảng

nợ công và đã kéo theo nhiều quốc gia rơi vào vòng xoáy này. Hy Lạp chỉ là

một quốc gia nhỏ nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đã khiến các

nền kinh tế trên thế giới phải xem xét lại tình hình tài chính của mình cũng

như tìm biện pháp để chèo lái sao cho mức nợ công không vượt quá ngưỡng

an toàn.

Mức nợ công cao đã buộc các chính phủ phải điều chỉnh lại các chính

sách tài khóa, tiền tệ. Các quốc gia phải xây dựng lại lộ trình phát triển kinh

tế, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay và tính toán nguồn vốn trả nợ hợp lí

hay thậm chí phải nhờ đến sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế. Như

vậy, bất chấp là nền kinh tế lớn hay nhỏ nếu không kiểm soát được nợ công

thì đó chính là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế chậm phát triển và có nguy

cơ sụp đổ trong tương lai

Theo các chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

không chỉ có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh tế của các nước Châu Âu

mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới các nền kinh tế khác.

Trong báo cáo: “ Điều tra triển vọng toàn cầu” của tập đoàn dịch vụ

thông tin tài chính toàn cầu Markit, tháng 6/2012 thì có tới 16 trong 22 quốc

gia được khảo sát cho thấy có sự sụt giảm về sản lượng sản xuất. Do sự suy

giảm của sản lượng và các đơn đặt hàng mới, tỷ lệ thất nghiệp ở Eurozone đã

tăng lên mức kỷ lục với 17,56 triệu người ở 17 nước thành viên Eurozone thất

nghiệp, chiếm 11,1% của lực lượng lao động ở khu vực này, cao nhất kể từ

1

khi Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu tiến hành thống kê vào năm 1995.

Trong khi các nước phải xoay xở để trả các khoản nợ công ngày càng

khổng lồ thì lãi suất trái phiếu chính phủ của các quốc gia tăng nhanh

chóng. Tháng 08/2011, lãi suất trái phiếu chính phủ của Tây Ban Nha kỳ

hạn 10 năm đã tăng 6,45%, của Italia tăng 6,78%.....Trái phiếu được phát

hành liên tục cùng lãi suất tăng nhanh lại khiến cho niềm tin của các nhà

đầu tư bị sụt giảm, giới đầu tư nhanh chóng bán ra trái phiếu của các chính

phủ này nên làm cho vấn đề nợ công càng trầm trọng hơn. Đỉnh điểm của

cuộc khủng hoảng nợ công là Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland

và Síp đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ. Đồng Euro liên tục mất

giá, cuộc khủng hoảng tài chính đã làm tổn thất hàng nghìn tỷ USD thu

nhập tài chính của các nước thành viên EU. Từ năm 2010, diễn biến nợ

công của khu vực đồng Euro ngày càng xấu đi khi nợ công tăng từ 65%

năm 2007 lên 85% năm 2010 và ngân sách liên tục trong tình trạng thâm

hụt vượt quá mức giới hạn 3% mà EU đã đề ra.

Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng này, các quốc gia đã phải yêu cầu

nhận viện trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế và cam kết thực hiện các chính

sách “thắt lưng, buộc bụng” để giảm mức thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên khi

thực hiện các điều khoản này thì lại có tác động không nhỏ tới đời sống của

nhân dân, nhiều cuộc biểu tình phản đối chính phủ đã nổ ra, nguy cơ bị mất

khả năng tự chủ về tài chính và phải phụ thuộc vào các thể chế tài chính quốc

tế đang đe dọa nhiều quốc gia.

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang thực hiện sự nghiệp

công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước nên cần phải có một lượng vốn đầu

tư, trong đó bao gồm lượng vốn đầu tư công rất lớn. Để đáp ứng được đủ

nguồn vốn cần có thì Việt Nam phải tìm trên thị trường tài chính thế giới, từ

các tổ chức tài chính quốc tế và từ các quốc gia khác. Trong những năm qua,

2

Việt Nam là quốc gia được đánh giá là có tiềm năng phát triển và nằm trong

khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nên đã thu hút được một nguồn vốn

lớn từ bên ngoài.

Theo Đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) trên trang The

Economist.com, tính đến 10h00 (giờ Việt Nam) ngày 13/6/2014, nợ công của

Việt Nam đang ở mức trên 81,885 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người

là 905,18 USD; nợ công chiếm 47,7% GDP, tăng 10,9% so với năm 2013. Nợ

công toàn cầu thời điểm này đang ở mức trên 53.551 tỷ USD.

Mặc dù nợ công Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn tuy nhiên hiệu

quả sử dụng vốn vay của nước ta lại chưa cao nên áp lực trả nợ đối với nước ta là

rất lớn. Ngân sách bị thâm hụt liên tục trong một thời gian dài, các khoản chi của

chính phủ nhiều làm cho quy mô nợ công ngày càng gia tăng. Trong khi đó, hệ

thống các văn bản pháp lý, các quy định về quản lý, đánh giá về nợ công hiện

nay còn nhiều thiếu sót, chưa phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Quy

mô nợ công lớn, cơ cấu nợ công phức tạp, còn đầu tư dàn trải cho các dự án lớn

nên chậm giải ngân nguồn vốn. Nhà nước đã có những thay đổi tích cực để quản

lý nợ công và đầu tư công song chưa thực sự có hiệu quả…

Như vậy, hiện tại Việt Nam ở Việt Nam chưa có nhiều dấu hiệu của

khủng hoảng nợ công nhưng trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt

với nguy cơ khủng hoảng nợ công nếu cách thức quản lý và sử dụng vốn vay

cho đầu tư công vẫn kém hiệu quả như trong thời gian qua

Trước những diễn biến của khủng hoảng nợ công thế giới và tình hình

nợ công của Việt Nam, câu hỏi đặt ra là, Việt Nam có thể học hỏi được gì từ

những cuộc khủng hoảng nợ công của các quốc gia trên thế giới nhằm tránh

phải đối mặt với khủng hoảng nợ công trong tương lai?

Câu hỏi này đã định hướng cho tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “

Khủng hoảng nợ công thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề

3

tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề nợ công đã được nhiều nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá đặc

biệt là từ sau cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp năm 2009. Mỗi bài

nghiên cứu lại đề cập đến vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau. Có thể kể

đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

Cuốn sách “Chính sách công và phát triển bền vững”, do các tác giả

của Đại học kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội làm chủ biên, NXB chính trị

quốc gia- sự thật, 2012. Cuốn sách đã đề cập đến vấn đề nợ công trong mối

quan hệ với đầu tư công và phát triển bền vững của quốc gia, xem xét vấn đề

ở từng khía cạnh như mối quan hệ giữa nợ công và chính sách tài khóa,

phương pháp tính nợ công….nhằm đưa ra những gợi ý về cách tiếp cận vấn

đề nợ công Việt Nam.

Cuốn sách “Khủng hoảng nợ công trên thế giới và hàm ý đối với Việt

Nam” do PGS. TS Chu Đức Dũng và TS. Nguyễn Mạnh Hùng (đồng chủ

biên), đã cung cấp bức tranh chung về nguy cơ khủng hoảng nợ công trên thế

giới hiện nay và tình trạng nợ công của các nền kinh tế lớn Mỹ, Nhật Bản và

Trung Quốc…từ đó rút ra một số hàm ý cho vấn đề nợ công của Việt Nam.

Cuốn sách trình bày 9 vấn đề: nợ công trong một thế giới rủi ro và khủng

hoảng, khủng hoảng nợ ở Achentina năm 2001, khủng hoảng nợ công ở mọt

số nước Châu Âu, thực trạng, đối sách và bài học kinh nghiệm… nhằm cố

gắng cho thấy tính chất đa chiều, phức tạp của vấn đề nợ công thế giới, đồng

thời các tác giả cũng rút ra những bài học thực tiễn mà Việt Nam có thể xem

xét áp dụng trong quản lí và xử lí nợ công như: công khai, minh bạch thông

tin nợ, gia tăng vai trò của nhà nước trong quản lí nợ công…

Cuốn sách “Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học kinh nghiệm đối

với Việt Nam” (05/ 2014) của TS Đặng Hoàng Linh đã đưa ra bức tranh tổng

4

quát diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu. Phân tích nguyên

nhân, tác động của nó cũng như đánh giá về hệ thống giải pháp ứng phó của

Châu Âu. Qua đó có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về bản chất, mức độ

nghiêm trọng của khủng hoảng nợ công từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam trong việc kiểm soát nợ công, đề xuất chính sách phòng ngừa, đối

phó với vấn đề nợ công, hạn chế rủi ro khi khủng hoảng xảy ra.

Luận văn thạc sĩ kinh tế trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh

“ Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” của Phạm Văn Dũng

đã đề cập đến các vấn đề như khái niệm về nợ nước ngoài, các tiêu chí đánh

giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia, đi sâu vào phân tích

thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị

nhằm nâng cao hiệu quả quản lí nợ ở nước ta như: hoàn thiện cơ chế quản lí

nợ nước ngoài, cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, xây dựng một chiến lược

quản lý nợ thích nghi với bối cảnh hiện nay….

Ngoài ra còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như: “ Nợ công Hy

Lạp, nguyên nhân và thực trạng” của Phạm Thị Thanh Bình và Lê Minh Tâm;

“Luận bàn về vấn đề nợ công ở Việt Nam” của Nguyễn Quốc Nghi…….

Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu nói trên đều tiếp cận vấn

đề nợ công ở các góc độ khác nhau. Tất cả các công trình nghiên cứu này là

nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả luận văn từng bước tìm hiểu và đi sâu

vào vấn đề nợ công thế giới và nợ công Việt Nam trong giai đoạn vừa qua và

trong tương lai.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng về khủng

hoảng nợ công của một số quốc gia trên thế giới, luận văn nhằm rút ra

những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để tránh rơi vào tình trạng khủng

5

hoảng nợ công và đảm bảo an toàn nợ công trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nợ công, khủng hoảng nợ công.

- Phân tích thực trạng và đánh giá chung về thực trạng khủng hoảng nợ

công trên thế giới.

- Phân tích và đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay.

- Rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để tránh rơi vào tình

trạng khủng hoảng nợ công và đảm bảo nợ công bền vững trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình khủng hoảng nợ công của

một số quốc gia trên thế giới. Đối tượng này được nghiên cứu nhằm rút ra bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam để Việt Nam tránh bị rơi vào tình trạng khủng

hoảng nợ công trong tương lai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Khu vực Châu Âu, Mỹ La Tinh và Việt Nam

- Thời gian: từ 1980 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, và các luận điểm khoa học

của các nhà khoa học về những vấn đề liên quan đến luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp luận

duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp phân

tích - tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp so sánh đối

6

chiếu…

6. Đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về nợ công và khủng hoảng

nợ công.

- Phân tích và đánh giá được tình hình khủng hoảng nợ công trên thế giới

- Phân tích và đánh giá được thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay.

- Trên cơ sở tình hình khủng hoảng nợ công trên thế giới và tình hình nợ

công của Việt Nam, rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong

việc đảm bảo an toàn nợ công, tránh khủng hoảng nợ công trong tương lai.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nợ công và khủng hoảng nợ công

Chương 2: Thực trạng khủng hoảng nợ công của thế giới

Chương 3: Bài học kinh nghiệm nhằm tránh khủng hoảng nợ công cho

7

Việt Nam

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG

1.1. Những khái niệm :

1.1.1 Nợ công:

Nợ công hay nợ chính phủ là vấn đề được rất nhiều các nhà kinh tế học

nghiên cứu và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau.

Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes cho rằng

việc vay nợ của chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích lũy

vốn vì số thuế cắt giảm được bù đắp bằng cách vay nợ nên khuyến khích thế

hệ hiện tại tiêu dùng nhiều hơn. Số người thất nghiệp giảm đi mặc dù lạm

phát có thể cao hơn. Tuy nhiên, vay nợ để lại gánh nặng nợ cho thế hệ tương

lai. Các thế hệ tương lai phải sống trong một quốc gia vay nợ nước ngoài lớn

hơn và vốn tích lũy từ nội bộ nhỏ hơn.

Quan điểm kinh tế học vĩ mô cổ điển mà tiêu biểu là Ricardo Barro cho

rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích

thích chi tiêu trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của

các cá nhân mà chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai và việc tài

trợ bằng vay nợ sẽ không gây ra những tác động thực sự đối với nền kinh

tế.Việc chấp nhận giảm thu trong thời kì suy thoái và tăng thu trong giai đoạn

hưng thịnh và vay nợ cũng là cách để dịch chuyển thuế để giảm thiểu những

tác động tiêu cực của thuế đối với chu kì kinh doanh.

Như vậy, ngay từ rất sớm vấn đề vay nợ của chính phủ đã được đề cập đến.

Mặc dù vậy khái niệm về nợ công vẫn là một khái niệm chưa có sự thống nhất.

Trong kinh tế học vĩ mô, nợ công được định nghĩa là “ mức tích tụ của

8

những cái mà chính phủ vay mượn để trang trải cho thâm hụt trong quá khứ”.

Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, nợ công là tổng giá trị

các khoản tiền vay của chính quyền thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa

phương nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước.

Theo hệ thống quản lí nợ và phân tích tài chính của hội nghị của Liên

hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ công bao gồm các

nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao

gồm các doanh nghiệp nhà nước) ở tất cả các cấp chính quyền.

Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) thì nợ công được hiểu

toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ

bảo lãnh. Trong đó:

- Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài

của chính phủ và các đại lí của chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ

chức chính trị trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các

doanh nghiệp nhà nước.

- Nợ của chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước

ngoài của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.

Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công là nghĩa vụ trả nợ của khu vực

công. Khu vực công bao gồm khu vực chính phủ và khu vực các tổ chức

công. Trong đó:

- Khu vực chính phủ gồm các chính phủ trung ương, chính quyền liên

bang, chính quyền địa phương.

- Khu vực các tổ chức công gồm các tổ chức công tài chính và phi tài chính.

Theo luật quản lí nợ công của Việt Nam được ban hành năm 2009 thì

nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính

quyền địa phương.

- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,

9

nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, nhân danh chính phủ

hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài Chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát

hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các khoản nợ

do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ

trong từng thời kì.

- Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức

kinh tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.

- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương phát hành, kí kết hoặc ủy quyền phát hành.

Như vậy, các khoản vay như vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức

(ODA), phát hành trái phiếu chính phủ (trong và ngoài nước), trái phiếu công

trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo

lãnh đều được xem là nợ công.

Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản nợ

công là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương

đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các hoạt động kinh tế và bù đắp sự

thiếu hụt ngân sách.

1.1.2. Khủng hoảng nợ công

Thuật ngữ khủng hoảng nợ công là thuật ngữ được sử dụng khá phổ

biến trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Có rất nhiều các nghiên cứu, các học

thuyết đưa ra nhằm tìm hiểu quá trình hình thành của một cuộc khủng hoảng

nợ công cũng như cách thức dự báo và ngăn chặn nó. Tuy nhiên,cho đến nay

vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về khủng hoảng nợ công.

Theo Đại từ điển Tiếng việt- nhà xuất bản văn hóa thông tin (1998),

thuật ngữ “ khủng hoảng” là tình trạng rối loạn, mất sự cân bằng bình ổn do

nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết hoặc khủng hoảng là tình trạng thiếu

10

hụt gây mất cân bằng nghiêm trọng.

Theo từ điển Anh – Việt của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn

quốc gia, “khủng hoảng” là thời gian rất khó khăn hoặc nguy hiểm, thời điểm

quyết định trong ốm đau, bệnh tật, cuộc đời, lịch sử….

Theo IMF, khủng hoảng nợ là việc một quốc gia không có khả năng

chi trả các khoản nợ của mình hay bị vỡ nợ. Tuy nhiên định nghĩa này chỉ

đúng trong những năm 1980, thời kì mà nhiều quốc gia không thể thanh toán

được các khoản vay ngân hàng của họ. Đến những năm 1990, khi mà thị

trường trái phiếu chính phủ nổi lên thì định nghĩa này không còn hoàn toàn

chính xác.

Dựa trên nhiều nghiên cứu của IMF, hai nhà kinh tế Andrea Pescatory

và Amadou N.R.Sy đã tổng hợp ra các hình thức chủ yếu của khủng hoảng nợ.

Khủng hoảng nợ xảy ra khi: một quốc gia bị vỡ nợ; có khoản nợ xấu lớn; có

khoản vay quy mô lớn từ IMF hoặc có điềm báo tai họa.

Thứ nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi một quốc gia bị vỡ nợ. Định

nghĩa này được các tổ chức tín dụng tập trung xây dựng dựa vào khả năng

không chi trả được nợ với các dấu hiệu như: Có sự chậm trễ trong việc thanh

toán lãi hoặc gốc, ngay cả khi việc thanh toán chậm được thanh toán trong

thời gian ân hạn, không có khả năng chi trả khi việc thanh toán nợ hàng năm

theo lịch trình không được thực hiện vào ngày đáo hạn, hoặc khi đề nghị hoán

đổi khoản nợ mới bao hàm những điều kiện kém thuận lợi hơn so với việc

phát hành ban đầu…..

Thứ hai, khủng hoảng nợ xảy ra khi có khoản nợ xấu hơn. Có thể là:

- Khoản nợ xấu về gốc hoặc lãi về nghĩa vụ bên ngoài đối với các chủ

nợ thương mại (ngân hàng hoặc người nắm giữ trái phiếu) lớn hơn 5% tổng

dư nợ thương mại

- Có thỏa thuận gia hạn hoặc cơ cấu lại nợ với các chủ nợ thương mại

11

được liệt kê trong báo cáo tài chính phát triển của ngân hàng thế giới.

Nếu xác định theo tiêu chí này thì đã có khoảng 54 cuộc khủng hoảng

nợ xảy ra. Các cuộc khủng hoảng này có xu hướng tập trung vào những năm

1980, khi hầu hết các nước Mỹ La Tinh và một số nước Châu Phi không thể

thanh toán các khoản vay ngân hàng quá mức của họ trong những năm 1970.

Thứ ba, khủng hoảng nợ xảy ra khi có các khoản vay quy mô lớn từ

IMF, một quốc gia đang trải qua khủng hoảng nợ nếu: Quốc gia đó được xếp

vào trường hợp vỡ nợ như trong định nghĩa của Andrea Pescatory và Amadou

N.R.Sy . Hoặc nhận được một khoản cho vay lớn (có điều kiện) vượt quá

100% hạn mức ấn định trước từ IMF.

Trong các định nghĩa này thì định nghĩa thứ 3 là định nghĩa được sử

dụng phổ biến nhất trên thế giới. Nhìn chung, khủng hoảng nợ là tình trạng

một quốc gia không thể chi trả được các khoản nợ của mình, phải đề nghị

thương thảo lại về các thỏa thuận vay nợ, hoàn trả gốc và/hoặc lãi và phải

nhận một khoản tài trợ chính thức có quy mô lớn từ IMF.

1.2 Những dấu hiện nhận diện khủng hoảng nợ công:

Có nhiều cách để nhận biết dấu hiệu của khủng hoảng nợ công, tuy

nhiên, cách phổ biến và lượng hóa được vẫn là cách đo xem khoản nợ này

bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Một tỉ lệ nợ

công trên GDP cao thường được xem là một dấu hiệu báo động rõ nét nhất

đối với khủng hoảng nợ công. Vậy tỷ lệ nợ công trên GDP như thế nào thì sẽ

trở thành dấu hiệu nhận biết của khủng hoảng nợ công?

1.2.1. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo quan điểm của Reihart

và Rogoff (2010)

Dựa trên số liệu thu thập được từ 44 nền kinh tế phát triển và mới nổi

trong khoảng hai thế kỉ, Reihart và Rogoff (2010) đã đưa ra thuật ngữ ngưỡng

nợ nguy hiểm. Ngưỡng nợ nguy hiểm được hiểu là khi quốc gia có khối lượng

12

nợ (tính trên phần trăm GDP) vượt quá ngưỡng này thì nền kinh tế quốc gia

gặp phải vấn đề trong việc thanh toán các khoản nợ, sẽ đứng trước nguy cơ

khủng hoảng nợ công đồng thời gặp nhiều rủi ro bất ổn vĩ mô.

Ngưỡng nợ nguy hiểm được hai nhà khoa học tính toán và chỉ ra là:

Tổng số nợ công trên GDP bằng 90%. Các nhà khoa học cũng chỉ ra là đối

với các nền kinh tế đang phát triển, nếu trong tổng số nợ công, nợ nước ngoài

vượt 60% GDP, thì nền kinh tế đó, quốc gia đó rơi vào ngưỡng nợ nguy hiểm.

1.2.2. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo quan điểm của Caner,

Grennes và Koehler – Geil (2011)

Vẫn sử dụng thuật ngữ Ngưỡng nợ nguy hiểm, nhưng theo nghiên cứu

của Caner, Grennes và Koehler- Geib (2011) đối với 101 quốc gia (75 quốc

gia đang phát triển và 26 quốc gia đã phát triển) trong giai đoạn 1980 – 2008,

ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình cho tất cả các quốc gia đã lấy số liệu là 77%

GDP. Riêng các quốc gia đang phát triển thì con số này là 64% GDP.

Như vậy, theo cách tính của Caner, Grennes và Koehler – Geib, mặc dù

ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình của các quốc gia nói chung khá chênh lệch

so với cách tính của Reihart và Rogoff (77% so với 90 %). Tuy nhiên, ngưỡng

nợ nguy hiểm trung bình của các quốc gia đang phát triển là khá tương đồng ở

cả hai cách tính (64% và 60%).

1.2.3. Nhận diện khủng hoảng nợ công theo một số quan điểm khác

1.2.3.1. Kumar và Woo (2010) nghiên cứu 38 nền kinh tế phát triển và

đang phát triển trong thời gian 4 thập kỉ đã chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công

và tăng trưởng nếu như nợ công vượt quá 90% GDP. Tác động của nợ công

đối với nền kinh tế đang phát triển lớn hơn so với các nền kinh tế phát triển.

Nếu nợ công tăng thêm 10%,tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm từ 0,15 đến

0,2% tại các nền kinh tế phát triển, từ 0,3 đến 0,4% tại các nền kinh tế đang

phát triển. Ngoài ra mức nợ cao cũng sẽ tạo nên nhiều rủi ro hơn và gây ra

13

khủng hoảng nợ công. Đối với các quốc gia mà nợ công đã vượt quá 90%

GDP, một mức gia tăng nợ công thêm 10% GDP sẽ đi kèm với tăng trưởng

giảm 0,19%, gây ra khủng hoảng nợ công. Còn nếu mức nợ ban đầu chỉ từ

30% GDP đến 60% GDP thì nợ công vẫn còn nằm trong ngưỡng an toàn.

1.2.3.2. Nghiên cứu của Presbitero (2010) dựa trên số liệu thống kê

tổng nợ công tại 92 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong khoảng thời

gian từ 1990- 2007 đã tìm ra nếu nợ công vào mức khoảng 90% GDP thì nền

kinh tế sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tăng trưởng và đứng trước

nguy cơ khủng hoảng nợ công.

1.2.3.3. Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của cơ quan nghiên cứu

kinh tế quốc gia Mỹ (NBER) khảo sát 44 quốc gia đã cho kết quả: khi tỉ lệ

nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế, gây ra

khủng hoảng nợ công và sẽ làm giảm 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc

gia đó. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, khi tỉ lệ nợ /GDP vượt ngưỡng

60% GDP sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm là 2%.

Như vậy, trong khi nghiên cứu ngưỡng nợ công an toàn chung cũng

như ngưỡng nợ nguy hiểm – dấu hiệu của khủng hoảng nợ công cho các

quốc gia thì các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều con số khác nhau. Thực tế

cho thấy rằng rất khó có thước đo cụ thể bởi vì có sự khác biệt về nền kinh

tế cũng như các thể chế kinh tế đi kèm. Dựa trên nhiều tính toán thì có nhà

nghiên cứu kinh tế cho rằng đối với các quốc gia đang phát triển thì mức

nợ công đối với nợ nước ngoài trên GDP sẽ vượt ngưỡng nợ nguy hiểm khi

tỷ lệ đó vượt quá 60% GDP.

Nhà báo người Đức David Froje đã rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng

nợ công Châu Âu là nếu quốc gia nào lơ là quản lý đều có thể bị sụp đổ vì nợ

nần. Ông còn minh chứng bằng cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra

14

năm 1997, Thái Lan đã bị rơi vào khủng hoảng khi mà chỉ có khoản nợ

khoảng 15% GDP – tức là một chỉ số nợ trên GDP còn rất xa mới vượt qua

ngưỡng nợ nguy hiểm.

Ngoài ra, để nhận diện những dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nợ

công thì có thể căn cứ vào hệ số tín nhiệm của quốc gia.

Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số phản ánh khả năng và sự sẵn sàng

hoàn trả đúng hạn tiền gốc, lãi trong tương lai đối với danh mục nợ của một

quốc gia. Đây là chỉ số cơ bản được các nhà đầu tư xem xét như là một yếu tố

để xác định mức độ rủi ro và khả năng sinh lời trước khi có quyết định đầu tư

vào quốc gia đó. Như vậy có thể khẳng định một quốc gia có mức xếp hạng

tín nhiệm càng cao thì thể hiện khả năng và sự sẵn sàng thực hiện các nghĩa

vụ nợ tốt hơn so với quốc gia có mức xếp hạng tín nhiệm thấp hơn. Quốc gia

có mức xếp hạng tín nhiệm cao hơn thì mức độ rủi ro trong việc thực hiện các

nghĩa vụ nợ sẽ thấp hơn.

Hiện nay ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín nhất là Moody’s, Fitch,

Standard & Poor’s (S&P). Mặc dù dựa trên các tiêu chí khác nhau nhưng về

cơ bản là đều đánh giá khả năng trả nợ của các quốc gia.

Bảng 1.1: Ý nghĩa xếp hạng tín dụng Moody’s

Aaa

Aa1 Aa2

Aa3 A1

A2

A3

Baa1 Baa2 Baa3

Xếp

hạng

Ý

Chất

lượng cao

Chất lượng cao

Khả năng

trả nợ

Đủ khả năng trả nợ

nghĩa

nhất

được cao

Xếp

Ba1 Ba2 Ba3 B1

B2

B3 Caa1 Caa2 Caa3 Ca

C

D

hạng

Ý

Nhiều khả năng sẽ

Những khoản nợ có

Có nhiều rủi ro vỡ nợ Gần hoặc trong tình

trạng phá sản hoặc

nghĩa

trả được nợ, có

rủi ro cao

không trả được nợ

những rủi ro đang

tồn tại

15

Nguồn: Global Finalcial Stability Report, IMF.

Việc xếp hạng tín nhiệm quốc gia được căn cứ vào tình hình thực tế của

nền kinh tế quốc gia, cho nên khi một quốc gia bị hạ mức tín nhiệm thì có

nghĩa nền kinh tế đó đang gặp những khó khăn về tài chính hoặc đang tiềm ẩn

những rủi ro có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ.

Trong thực tế, khi những dự báo cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng

từ mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121-125% GDP trong năm 2010. Hàng loạt

tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trường tài

chính. Ngày 7/12/2009, Standard &Poor’s cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với

triển vọng kém lạc quan. Ngay sau đó, Fitch đánh tụt điểm số của nền kinh tế

này từ A- xuống còn BBB+. Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để có tiền cho ngân

sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ của Hy Lạp liên tục tăng cao.

Cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách

với dự báo thâm hụt 9,1%. Standard & Poor’s hạ mức tín nhiệm quốc gia này

về mức BBB-. Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách về

8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài

bất ổn xã hội do làn sóng biểu tình phản đối của người dân.

Tháng 2/2012, Standard &Poor’s tiếp tục hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp

và xem như Hy Lạp đã vỡ nợ một phần.

Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy

Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ euro nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này.

Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ

nợ. Như vậy, việc bị hạ mức tín nhiệm quốc gia đã cho thấy những dấu hiệu

bất ổn của nền kinh tế Hy Lạp đã bộc lộ ra bên ngoài và Hy Lạp đang bị đánh

giá thấp về khả năng thanh toán các khoản nợ.

Ngoài ra, Trong cơ cấu nợ công của các quốc gia mà vay nợ nước ngoài

chiếm tỉ lệ lớn, các khoản vay ngắn hạn là chủ yếu thì cũng tiềm ẩn nhiều rủi

16

ro cho nền kinh tế. Nếu các khoản vay được sử dụng hiệu quả, khả năng trả

nợ được đảm bảo thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra, nhưng nếu như các khoản

vay về khi đầu tư không sinh lợi sẽ gây áp lực rất lớn về việc thanh toán các

khoản nợ. Điển hình là trường hợp của Hy Lạp, khi mà các khoản vay chủ

yếu là ngắn hạn, số nợ phải trả trong năm 2010 chiếm 16% tổng số nợ. Khi

các khoản vay ngắn hạn này chưa phát huy được hiệu quả thì chính phủ đã

phải lo trả nợ. Điều này đã làm gia tăng áp lực nợ lên chính phủ.

Như vậy, nếu chỉ dựa vào chỉ số nợ công /GDP không thể xác định

được mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công mà cần xem xét nợ công

một cách toàn diện. Khi đánh giá khủng hoảng nợ công phải đặt trong mối

quan hệ với các chỉ tiêu khác như: hệ số tín nhiệm quốc gia, cơ cấu nợ

công, lãi suất, thời gian trả nợ, tỉ lệ thâm hụt ngân sách, hiệu quả sử dụng

vốn vay…

1.3 Các yếu tố tạo nên khủng hoảng nợ công

Khủng hoảng nợ công xảy ra vì một số nguyên nhân như sau:

1.3.1 Mức thâm hụt ngân sách lớn

Nợ công trước hết là vấn đề mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc

gia hay tổng chi tiêu của chính phủ nhiều hơn tổng các nguồn thu của mình.

Nguồn thu ngân sách sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của quốc gia.

Việc tăng nguồn thu ngân sách góp phần giảm gánh nặng nợ công cho chính

phủ. Theo như ước tính của Reinhart và Rogoff (2009) thì nợ công thường

tăng khoảng hai phần ba trong khoảng thời gian ngay sau khi diễn ra khủng

hoảng tài chính. Đồng thời tác động kéo dài của khủng hoảng tài chính cũng

dẫn đến một giai đoạn tăng trưởng dưới mức trung bình, nền kinh tế bị thu

hẹp và bước vào giai đoạn suy thoái. Điều này làm cho nguồn thu ngân sách

của chính phủ bị sụt giảm trong khi nhu cầu chi tiêu lại tăng mạnh, đặc biệt là

cho các gói kích thích kinh tế. Để giải quyết tình trạng này thì chính phủ hoặc

17

là giảm chi tiêu hoặc là tìm cách gia tăng nguồn thu của mình. Cắt giảm chi

tiêu không dễ thực hiện trong ngắn hạn khi những kế hoạch chi tiêu của chính

phủ đã được định sẵn và vai trò của nhà nước trong nhiều lĩnh vực là không

thể thay thế.

Có hai cách để gia tăng nguồn thu chính phủ. Thứ nhất, chính phủ có

thể tăng thuế, vốn là nguồn thu trực tiếp và lớn nhất của Chính phủ. Thứ hai,

Chính phủ có thể tăng nguồn thu thông qua vay nợ, cả vay trong nước và

nước ngoài. Các khoản vay này sẽ làm gia tăng nợ công. Tuy nhiên cả hai

cách này đều khó thực hiện bởi nó ít nhiều sẽ gây những bất ổn trong xã hội.

Nếu như thâm hụt ngân sách và nợ công kéo dài sẽ làm niềm tin của

các nhà đầu tư bị suy giảm. Lượng vốn đầu tư vào bị hạn chế, hoặc họ sẽ bán

tháo tài sản đang sở hữu. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt

động sản xuất, điều này làm cho nguồn thu của chính phủ từ thu thuế các

doanh nghiệp bị giảm xuống. Chính phủ thực hiện gia tăng nguồn thu từ thuế

thông qua người dân hoặc thuế tài sản cũng không phải dễ dàng. Việc người

dân gánh trên vai một khoản thuế tăng thêm nhiều hơn trước đã khiến cho

chính phủ gặp phải sự phản đối từ nhân dân trong nước. Trước tình trạng như

vậy đã có nhiều quốc gia lựa chọn con đường in thêm tiền để bù đắp khoản

ngân sách bị thiếu hụt và trả nợ. Thực tế cho thấy một quốc gia có tỉ lệ nợ

công cao, mức thâm hụt ngân sách lớn nếu không xử lí tốt thì rất dễ rơi vào

khủng hoảng.

Trong các báo cáo đánh giá về tình hình tài chính công được công bố

ngày 14/5/2010, mức thâm hụt ngân sách chung toàn cầu trong năm 2010 đã

giảm xuống 6% GDP so với 6,7% (2009). Tuy nhiên, IMF cho rằng vấn đề

thâm hụt ngân sách của các nước phát triển chưa được cải thiện. Theo IMF

thâm hụt ngân sách trung bình của các nền kinh tế phát triển trong năm 2010

vẫn cao ở mức 8,4%, trong đó nhóm các nước phát triển G7 là 9,5% so với

18

mức 3,9% của các nền kinh tế đang nổi. Như vậy mức thâm hụt ngân sách là

vấn đề không chỉ của một quốc gia mà là vấn đề chung của tất cả các quốc gia

trên thế giới để tránh cho một cuộc khủng hoảng nợ mang tính quốc tế nổ ra.

1.3.2 Kiểm soát và quản lí nợ của nhà nước kém

Sự kiểm soát chi tiêu và quản lí nợ của nhà nước kém, không chặt chẽ,

thậm chí buông lỏng, cộng thêm tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu

tư….cũng trở thành nguyên nhân làm cho nợ công gia tăng.

Nhà nước thực hiện việc quản lí nợ thông qua hệ thống các ngân hàng.

Hệ thống các ngân hàng này yếu kém về quản lí đã để cho các dòng vốn đầu

tư chảy vào ồ ạt và thường xuyên phát sinh các khoản nợ khó đòi. Nhìn

chung, hệ thống tài chính – ngân hàng tại các nước bị khủng hoảng chưa đáp

ứng được yêu cầu của việc phát triển kinh tế với tốc độ cao. Sự yếu kém này

xuất phát từ một số nguyên nhân như: Chính phủ các nước chưa có sự can

thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính

nhằm hướng hoạt động của các ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát

triển kinh tế, dẫn tới việc quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá mức

khiến cho hiệu quả kinh tế thấp.

1.3.3 Sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả

Vốn vay trong nước hay nước ngoài đều được sử dụng cho mục đích phát

triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên ngay cả khi chủ thể vay nợ là chính phủ thì hiệu

quả sử dụng vốn không phải lúc nào cũng đạt được như kế hoạch đề ra.

Nguồn vốn được huy động ngoài việc chi tiêu cho những vấn đề như quốc

phòng – an ninh, an sinh xã hội… thì đầu tư cho các hoạt động kinh tế là chủ

yếu. Các hoạt động sản xuất diễn ra có hiệu quả thì sẽ đem lại nguồn thu lớn cho

ngân sách nhà nước, nguồn thu quan trọng để trả nợ cho chủ thể cho vay. Trong

nhiều trường hợp khoản vốn vay được đầu tư vào những hoạt động sản xuất

không có hiệu quả thì việc chính phủ có khả năng phải trả nợ thay cho những

19

đơn vị mà mình đứng ra bảo lãnh cho vay nợ là rất lớn. Chính vì chính phủ

không thu hồi lại được nguồn vốn bỏ ra và lợi nhuận là không có nên ảnh hưởng

đến việc thanh toán nợ. Việc xin gia hạn thời gian thanh toán nợ với những điều

khoản thỏa thuận mới bất lợi đã làm cho tình trạng nợ công ngày càng thêm trầm

trọng nếu như nguồn vốn vay về vẫn tiếp tục không sinh lời.

1.3.4 Không minh bạch trong các hoạt động tài chính và niềm tin của

các nhà đầu tư giảm sút

Các quốc gia cần huy động vốn thường tìm kiếm các dòng vốn trên thị

trường quốc tế. Nguồn vốn lớn với mức lãi suất hợp lí và các điều khoản có

lợi có thể tìm được ở các tổ chức tài chính thế giới như IMF, WB, ECB… và

các tổ chức này cũng như những nhà đầu tư khác chỉ đầu tư vào các quốc gia

có khả năng trả nợ. Khi nhận thấy dấu hiệu bất ổn đến từ các nền kinh tế thì

luồng vốn đầu tư sẽ bị chặn đứng hoặc suy giảm nhanh chóng. Các quốc gia

phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay sẽ chịu ảnh hưởng lớn, thậm chí các

hoạt động của nền kinh tế có thể bị tê liệt. Điều kiện của các tổ chức tài chính

quốc tế cũng như của các tổ chức, các quốc gia khi tiến hành cho vay vốn là

phải có sự minh bạch trong các báo cáo tài chính bởi vì có như vậy mới tránh

được các thông tin bất cân xứng. Các thông tin bất cân xứng đưa người cho

vay tới những kì vọng không chính xác về người đi vay và có thể nhà đầu tư

sẽ đưa ra một sự lựa chọn bất lợi cho sự đầu tư của mình.

Thực tế các quốc gia đã trải qua khủng hoảng nợ công cho thấy, một

khi những dấu hiệu của việc thiếu minh bạch trong các báo cáo tài chính bị

phát hiện thì đây là một trong những lực đẩy đưa quốc gia này đến bờ vực của

khủng hoảng. Các nhà đầu tư ồ ạt rút vốn khỏi thị trường đang tiềm ẩn nguy

cơ khủng hoảng. Nguồn vốn vay bên ngoài bị chặn lại, nguồn vốn vay trong

nước cũng không thể duy trì do người dân mất niềm tin vào sự điều hành của

20

chính phủ.

1.4. Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế của các

quốc gia

1.4.1 Suy giảm tăng trưởng kinh tế

Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh tế không

chỉ của doanh nghiệp nhà nước mà cả các doanh nghiệp tư nhân.Vốn tài chính

là nguồn vốn quan trọng mà chính phủ cần phải sử dụng cho các kế hoạch chi

tiêu của mình. Việc không tiếp cận được các nguồn vốn làm cho nhiều dự án

bị đình trệ, trong đó có đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất.

Để cứu vãn tình hình, chính phủ huy động vốn trong nước với lãi suất cao, lãi

suất trên thị trường trong nước cũng tăng theo lại làm cho khu vực kinh tế tư

nhân không vay được vốn. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên đã thu

hẹp sản xuất. Nguồn thu ngân sách giảm, tiêu dùng của chính phủ giảm, từ đó

làm cho tổng cầu của nền kinh tế giảm.

1.4.2 Giảm khả năng huy động vốn của chính phủ

Khi một quốc gia lâm vào tình trạng vỡ nợ không thực hiện được nghĩa

vụ trả nợ thì quốc gia đó ngay lập tức bị hạ mức tín nhiệm. Trái phiếu chính

phủ do quốc gia đó phát hành bị sụt giảm giá một cách nhanh chóng. Các nhà

đầu tư không mua trái phiếu chính phủ hoặc bán tháo trái phiếu chính phủ

đang sở hữu. Việc chính phủ huy động vốn trên thị trường quốc tế gặp nhiều

khó khăn với lãi suất vay cao hơn.

Khi tín nhiệm trái phiếu quốc tế của chính phủ bị sụt hạng, việc tiếp cận

nguồn vốn nước ngoài gặp trở ngại thì chính phủ thiên về huy động nguồn vốn

vay trong nước. Nguồn vốn vay trong nước từ các khoản tiết kiệm của dân cư, từ

các ngân hàng thương mại…. cũng bị hạn chế do có sự lo ngại về khả năng

thanh toán nợ của chủ thể đi vay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề.

1.4.3 Gây ra những bất ổn tài chính

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng tài chính quốc gia, khả năng

21

trả nợ quốc gia là chỉ sổ quan trọng để đảm bảo niềm tin của cộng đồng quốc

tế đối với nền kinh tế đó. Nghiên cứu của James Roaf (2007) và thực tế đã chỉ

ra rằng khủng hoảng nợ công thường kéo theo hoặc đi kèm khủng hoảng tiền

tệ ngân hàng. Niềm tin của dân chúng bị lung lay, các khoản tiền tiết kiệm bị

rút ra khỏi các ngân hàng. Nếu như hệ thống các ngân hàng bị đổ vỡ thì lại

đòi hỏi có sự cứu trợ của chính phủ, nợ công lại gia tăng. Trường hợp

Argentina là một ví dụ, mặc dù hệ thống ngân hàng được kiểm soát tốt nhưng

cũng không thể níu kéo được lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng.

Như vậy, khủng hoảng nợ công là vấn đề không chỉ của một quốc gia

mà của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hậu quả của khủng hoảng nợ công từ

các nước đã, đang xảy ra khiến cho nhiều nước phải xem lại cách quản lí các

khoản nợ công và năng lực xử lí khủng hoảng khi rơi vào tình trạng tương tự

hay cố gắng chèo lái để tránh ra vòng xoáy nợ nần đang làm suy giảm nền

22

kinh tế quốc gia.

Chương 2

THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CỦA THẾ GIỚI

2.1 Tình hình khủng hoảng nợ công của thế giới:

2.1.1 Khủng hoảng nợ châu mỹ la tinh những năm 1980

Khủng hoảng nợ của châu mỹ la tinh đã manh nha từ những năm 1970,

cho đến đầu những năm 1980 khi các nước mỹ la tinh gặp khó khăn trong

việc trả những khoản nợ khổng lồ thì dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nợ

đã thực sự xuất hiện. Trước đó các nước mỹ la tinh mặc dù đã có những bước

phát triển đáng kể về mặt kinh tế song các khoản nợ công thì vẫn ngày càng

gia tăng. Từ giữa năm 1975 đến 1982, các khoản nợ công của nước này này

đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế tăng nhanh từ 75 tỉ USD

năm 1975 lên đến 315 tỉ USD năm 1983. Cùng thời gian này, việc lãi suất tiền

vay tăng cao đã làm cho khu vực Châu âu, đặc biệt là Mỹ trở thành điểm đầu

tư hấp dẫn hơn so với khu vực Mỹ la tinh. Dòng vốn đầu tư trên thị trường tài

chính quốc tế chuyển dần ra khỏi khu vực mỹ la tinh. Các nước mỹ la tinh

ngay lập tức phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt vốn cho phát triển kinh tế và

khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Các nước đã phải huy động tối đa

các nguồn lực để trả nợ vay đã làm sản lượng và tiêu dùng trong nước bị suy

giảm. Thêm vào đó việc kinh tế thế giới suy giảm đã có tác động không nhỏ

đến tình hình xuất khẩu và sự tăng trưởng chung của các nước khu vực mỹ la

tinh. Những yếu tố này đã làm cho các quốc gia châu mỹ la tinh không thể

tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các khoản nợ nước ngoài cũng

với lãi suất của nó mà các quốc gia này phải trả đã vượt quá khả năng tích lũy

của nền kinh tế.

Khi thị trường tài chính thế giới nhận thấy các nước này khó có thể trả

các khoản nợ đã làm cho niềm tin từ các nhà đầu tư bị lung lay. Hầu hết các tổ

23

chức tài chính và ngân hàng thế giới đều từ chối cho vay mới hoặc giảm cho

vay đối với các nước thuộc khu vực này. Trong khi đó các khoản nợ đến thời

hạn thanh toán đều là vay ngắn hạn và không được gia hạn các khoản vay.

Các dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các quốc gia trong khu vực và các nước

không còn có thể vay thêm.

Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ La tinh là:

Việc đầu tư quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa

dẫn đến việc chính phủ bội chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng; Gia

tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu, cũng như công nghệ

sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa. Hai điều

trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn của chính phủ.

Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác và các

tổ chức tài chính quốc tế.

Việc vay nợ nước ngoài với quy mô lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro và không

thể tiếp diễn được mãi. Vào năm 1979, Mỹ thực hiện hàng loạt chính sách

thắt chặt và đẩy lãi suất gia tăng. Điều này tương tự xảy ra với các quốc gia

châu Âu, khiến dòng vốn đầu tư toàn cầu bắt đầu chảy ngược ra khỏi các quốc

gia đang phát triển. Đồng thời, lãi suất gia tăng làm cho nghĩa vụ nợ tại các

quốc gia Mỹ La tinh tăng lên. Ngoài ra, khả năng trả nợ nước ngoài của các

quốc gia Mỹ La tinh lại phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu. Do suy thoái kinh

tế đầu những năm 1980 làm thu hẹp thương mại quốc tế cũng như giá cả hàng

hóa thế giới, đặc biệt là giá cả các nguyên liệu thô, khiến nguồn thu từ xuất

khẩu tại các quốc gia này giảm mạnh.

Khủng hoảng nợ châu mỹ la tinh bắt đầu vào tháng 8/1982 khi Mexico

tuyên bố vỡ nợ, sau đó một loạt các nước trong khu vực như Brazil,

Venezuala, Argentina, Bolovia đều lần lượt bị cuốn vào vòng xoáy này.

Sau khủng hoảng những năm 1980 là quãng thời gian Mexico có mức

24

tăng trưởng kinh tế rất thấp. Chính phủ Mexico đã phải thực hiện hàng loạt các

biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như: tự do hóa thương mại, thực thi

kế hoạch bình ổn kinh tế, áp dụng thể chế kinh tế thị trường. Kinh tế Mexico có

dấu hiệu phục hồi, lạm phát đã dừng lại ở mức một con số. Những tín hiệu lạc

quan của nền kinh tế nước này đã giúp thu hút trở lại vốn đầu tư nước ngoài.

Từ năm 1984 đến năm 1994, Mexico đã thu hút được hơn 94 tỉ USD dòng vốn

nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ La tinh.

Tuy nhiên vào năm 1993 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mexico lại

giảm xuống do ảnh hưởng của việc đồng Peso tăng giá so với đồng USD, dẫn

đến thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Mức thâm hụt tương đương khoảng

6,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Suy thoái kinh tế cùng với tình trạng

nợ xấu bắt đầu gia tăng mạnh.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp

giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp

tục gia tăng trong năm 1994, lên tới 8% GDP. Cuộc bầu cử tổng thống

Mexico vào tháng 8 năm 1994 cộng với một loạt sự kiện an ninh trong nước

(sự nổi dậy của người Anh-điêng ở Chiapas, vụ ám sát ứng cử viên tổng

thống Luis Conaldo Colosio) và ngoài nước đã khiến chính phủ không tập

trung đủ cho xử lý thâm hụt. Nỗ lực lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư từ

chính phủ Mexico lại không đưa đến kết quả như mong muốn. Các nhà đầu tư

trở nên lo ngại về khả năng phát triển của nền kinh tế Mexico. Thêm vào đó,

trong năm 1994 đã xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư giảm đầu tư vào các quốc

gia đang phát triển nên dòng vốn bị rút nhanh ra khỏi thị trường Mexico.

2.1.2 Khủng hoảng nợ công Châu Âu

Năm 1992, sau khi liên minh Châu Âu phê chuẩn hiệp ước Maastricht

thì đồng tiền chung Châu Âu( Euro) đã ra đời. Đây là bước tiến lớn trong quá

trình hội nhập kinh tế ở Châu Âu. Để trở thành thành viên của của khu vực

25

đồng tiền chung Châu Âu thì các quốc gia phải đảm bảo được những yêu cầu

nhất định trên một số phương diện cơ bản như mức thâm hụt ngân sách, lạm

phát, lãi suất.

Khối liên minh Châu Âu ra đời thể hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế ở

mức độ cao của các nước tham gia. Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có chính

sách phát triển kinh tế riêng không phải lúc nào cũng có sự đồng nhất với các

chính sách của khối liên minh châu âu, cho nên việc đáp ứng những yêu cầu

chung khi gia nhập và khi đã là thành viên của liên minh đã phần nào làm

cho các chính sách vĩ mô của một số quốc gia không có hiệu quả. Có những

nước chỉ đáp ứng được các tiêu chí này khi mới gia nhập, còn việc theo dõi và

có biện pháp xử lí khi vi phạm các quy định này của EU lại chưa kịp thời.

Nhiều thách thức đặt ra trong việc điều hành và duy trì hoạt động ổn định của

khối liên minh châu âu.

Với dữ liệu từ hãng định mức tín nhiệm Moody’s , trang 24/7 Wall

Street đã điểm 10 quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất thế giới hiện nay

(2011) bao gồm các quốc gia: Nhật Bản, Hy Lạp, Italia, Đức….

Bảng 2.1: Số liệu nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới

Bồ Hy Nước Anh Đức Pháp Mỹ Bỉ Đào Ireland Italy Nhật Lạp Nha

Nợ công

/GDP 80,9 81,8 85,4 85,5 87,2 101,6 108,1 120,5 168,2 233,1

(%)

26

Nguồn: vneconomy.vn

Nguồn:vneconomy.vn

Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới

Cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng tiền chung Châu Âu bắt

đầu khi những thành viên không thể tự ứng phó khi vấn đề tài khóa trong

nước bị mất thăng bằng. Những dấu hiện đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ

của khu vực này đã bắt đầu từ năm 2009 với sự gia tăng mức nợ công của

nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha).

Bảng 2.2 : Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS (2006- 2011 (%GDP)

Nợ

Thâm

Nợ

Thâm

Nợ

Thâm

Nợ

Thâm

Nợ

Thâm

Nợ

Thâm

Công

Hụt

Công

hụt

công

hụt

công

hụt

Công

hụt

công

hụt

Bồ Đào

64,7

-3,9

63,6

-2,6

66,3

-2,8

76,8

-9,4

85,8

-8,5

91,1

-7,9

Nha

Ireland 24,9

3,0

25

0,1

43,9

-7,3

64

14,3

98,6

-32

Italia

106,5

-3,3

103,5

-1,5

106,1

-2,7

115,8

-5,3

118,2

-5,3

118,9

-5,0

Hy Lạp 97,8

-3,6

95,7

-5,1

99,2

-7,7

115,1

-13,6

133,3

-8,1

145,1

-7,6

39,6

2,0

36,2

1,9

39,7

-4,1

53,2

-11,2

64,9

-9,8

72,5

-8,8

Tây

Ban

Nha

Nguồn: vneconomy.vn

27

2006 2007 2008 2009 2010 2011

Tháng 12 năm 2009, khi Hy Lạp thừa nhận tổng dư nợ lên tới 236 tỉ

euro, chiếm khoảng 115% GDP đã cho thấy cuộc khủng hoảng nợ công

không còn là dự đoán mà đã xảy ra trong thực tế.

2.1.2.1 Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp

Hy Lạp vốn là nước đã từng gặp nhiều rắc rối về tài khóa. Khi trở thành

nước thành viên thứ 12 của Liên minh Châu Âu, nợ chính phủ của nước này đã ở

mức hơn 100% GDP. Nhiều nước thành viên đã lo ngại những vấn đề tài khóa

của Hy Lạp có thể gây tổn hại tới đồng tiền chung của cả khối. Ngược lại, đối

với Hy Lạp, việc trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu mang lại rất nhiều

điều kiện thuận lợi. Gia nhập khu vực đồng tiền chung Châu Âu năm 2001 là cơ

hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế . Tuy nhiên, Chính

phủ Hy Lạp hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.

Là một trong những nước có mức tăng trưởng cao (4,2%/năm) của khu

vực trong giai đoạn 2000 -2007 Chính phủ Hy Lạp có điều kiện để gia tăng

chi tiêu công và duy trì các lĩnh vực nhà nước đa ngành. Các lĩnh vực này

chiếm khoảng 40% GDP của Hy Lạp và bao gồm khoảng 800.000 công chức

trên tổng số 5 triệu người trong độ tuổi lao động. Vì thế, từ năm 1993, tỉ lệ nợ

công so với GDP của Hy Lạp đã vượt quá 100%. Thậm chí, trong thời điểm

tăng trưởng kinh tế tốt năm 2007 thì nợ công của Hy Lạp cũng không giảm,

trong khi kinh tế ngầm (chiếm 20-30% GDP) tiếp tục phát triển, nhất là trong

lĩnh vực dịch vụ và du lịch. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008

lại tác động mạnh đến ngành du lịch và vận tải biển – hai lĩnh vực họat động

chủ yếu của Hy Lạp. Thế nhưng, chính phủ Hy Lạp vẫn không siết chặt chi

tiêu ngân sách, kết quả là thâm hụt ngân sách nước này vượt trên 13% GDP

và nợ công lên tới 150% GDP. Tổng số nợ công của Hy Lạp đến tháng 6-

28

2011 lên tới 350 tỉ Euro và mức thâm hụt ngân sách lên hai con số, còn tăng

trưởng kinh tế tiếp tục âm. Mức thâm hụt đó đã khiến cho trái phiếu chính

phủ Hy Lạp bị các tổ chức định mức tín dụng lớn của thế giới đánh tụt hạng.

Như vậy, Sau khi gia nhập khu vực đồng tiền chung Châu Âu từ giữa

năm 2001 đến năm 2008- khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra ngân sách

Hy Lạp luôn trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình là 5%GDP / năm

trong khi tính trung bình cho toàn khu vực sử dụng đồng tiền chung Châu Âu

chỉ là 2%. Đồng thời thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai trung bình chiếm

khoảng 9% GDP hàng năm- mức thâm hụt tương đối cao so với mức trung

bình của toàn khu vực Eurozone là 1%. Cả hai mức thâm hụt này đều vượt

quá mức quy định của khu vực Eurozone khi mức trần thâm hụt ngân sách

được đưa ra chỉ là 3% GDP và tỷ lệ nợ công phải dưới mức 60%GDP.

Theo số liệu nghiên cứu, nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới 400 tỷ USD,

riêng nợ đến hạn năm 2010 là 73 tỷ USD. Hy Lạp phải trả lãi suất cao tới 9%

cho các khoản nợ vay có kì hạn. Nguy cơ mất khả năng thanh toán đang đè

nặng lên Hy Lạp khi mà quốc gia này gặp rất nhiều khó khăn với việc thanh

toán các khoản nợ cũ và các khoản nợ mới ở mức giá hợp lí. Thêm vào đó,

năm 2010 khi tổ chức thống kê Châu Âu (Eurostat) đưa ra con số ước tính của

thâm hụt ngân sách Hy Lạp năm 2009 là 13,6% thay cho con số ước tính của

chính phủ Hy Lạp được thông báo trước đó . Tỉ lệ nợ/ GDP là gần 126,8% đã

làm cho niềm tin của các nhà đầu tư càng lung lay.

Trước tình hình này, các nhà kinh tế thế giới lo sợ sự sụp đổ của nền

kinh tế Hy Lạp sẽ tạo ra một hiệu ứng dây chuyền ảnh hưởng đến các quốc

gia khác trong khu vực và nền kinh tế thế giới. EU và IMF đã có những động

thái tích cực để đối phó với nguy cơ cuộc khủng hoảng lan rộng như lập quỹ

chống khủng hoảng trị giá 750 tỷ Euro. FED đã có những hỗ trợ để ECB tiếp

29

cận được các nguồn tài chính bằng USD.

Hy Lạp đã phải kêu gọi sự hỗ trợ từ Quỹ tiền tệ quốc tế và các quốc

gia thành viên khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Gói cứu trợ 110 tỉ Euro với

mức lãi suất ưu đãi 5% đã được giành cho Hy Lạp để giải cứu nền kinh tế

nước này. Trong gói cứu trợ này thì các nước Eurozone bỏ ra 80 tỷ Euro và

IMF là 30 tỷ.

Để nhận được sự giúp đỡ tài chính này thì điều khoản ràng buộc Hy

Lạp là phải cam kết cắt giảm mức thâm hụt ngân sách xuống còn 11% GDP

năm 2011 và xuống dưới mức quy định 3% năm 2013. Hy Lạp đã phải thực

hiện các biện pháp như cắt giảm chi tiêu và lương của khu vực công, tăng

thuế, cắt giảm lương hưu.

Khu vực công phải cắt giảm tối thiểu 1,000 Euro các khoản thưởng nửa

năm, cắt giảm hoàn toàn đối với những người có thu nhập 3,000 Euro mỗi

tháng; Cắt giảm 8% trợ cấp, 3% chi tiêu cho khu vực công. Không tăng lương

cho khu vực công trong vòng 3 năm; chi trả tối đa 800 Euro cho khoản

thưởng tháng 13 và 14 đối với những người về hưu. Ngoài ra, chính phủ cũng

phải tăng thuế VAT đánh vào các mặt hàng xa xỉ và các mặt hàng không

khuyến khích tiêu dùng để tăng nguồn thu cho ngân sách. Những biện pháp

này đã tác động rất lớn đến đời sống nhân dân nên sự phản đối quyết liệt của

người dân cũng khiến cho việc giải quyết khủng hoảng gặp nhiều khó khăn.

Sau khi nhận được gói cứu trợ 110 tỷ Euro, cùng hàng loạt các biện

pháp đã được chính phủ Hy Lạp thực hiện song quốc gia này vẫn tiếp tục ở

trong nguy cơ bị vỡ nợ.

Tháng 7/2011, lãnh đạo 17 nước thuộc Eurozone và IMF quyết định

cho vay 159 tỷ euro với lãi suất 3,5 % , đồng thời có hình thức bảo lãnh đối

với trái phiếu chính phủ Hy Lạp để tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tài chính từ

30

ngân hàng trung ương Châu Âu.

Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp,

giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ euro nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập

tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ.

2.1.2.2. Khủng hoảng nợ công của Ireland

Quốc gia tiếp theo rơi vào cơn bão khủng hoảng nợ công là Ireland khi

mà Ireland chính thức kêu gọi sự hỗ trợ từ EU và IMF để xử lí các khoản nợ

lên tới 70 tỷ Euro (tương đương 99 tỷ USD) nhằm giải cứu các ngân hàng

của nước này.

Sau khi thị trường bất động sản nước này rơi vào khủng hoảng, giá nhà

đất tụt giảm tới 60% với tổng giá trị lên tới 1.800 tỷ USD đã làm cho cả hệ

thống ngân hàng đứng trước nguy cơ sụy đổ. Chính phủ phải đi vay từ bên

ngoài để hỗ trợ 5 ngân hàng lớn nhất. Ireland đã vay của ngân hàng trung

ương châu âu gần 180 tỉ USD. Nợ công đã trở thành vấn đề mà quốc gia này

phải tìm cách giải quyết nhanh chóng.

Cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland đã có những dấu hiệu báo trước

khi thị trường bất động sản có sự tăng giá một cách đột biến. Giá nhà đất tại

Ireland đã tăng gấp 4 lần chỉ trong vòng mười năm từ 1997 đến 2007. Khi thị

trường bất động sản bị sụp đổ, các khoản vay cho vay bất động sản trong các

ngân hàng đã trở thành nợ xấu, đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ với hoạt động tài

chính của nước này. Ngân hàng Trung ương Ireland thông báo bốn trung tâm

tài chính lớn của Ireland cần khoảng 24 tỉ Euro để bù đắp khoản thâm hụt do

cho vay mua bất động sản quá nhiều. Để thoát khỏi tình cảnh này, Các ngân

hàng Ireland đã bán các khoản nợ xấu cho chính phủ để đổi lấy trái phiếu

chính phủ. Chính phủ Ireland buộc phải cứu hệ thống ngân hàng theo cách

riêng của mình, đó là tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA

(National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết tất cả

31

các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ireland. Chính phủ Ireland đã

biến các khoản nợ tư nhân thành tài sản công và lấy ngân sách nhà nước để

bù đắp phần thiếu hụt này.

Để nhận được sự hỗ trợ từ IMF và EU, Ireland cũng phải thực hiện

hàng loạt các cam kết như: giảm ít nhất 10% mức lương tối thiểu, tăng thuế

giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000 biên chế trong cơ quan nhà nước, giảm lương

tối thiểu của một giờ làm việc xuống còn 7,65 euro/giờ, tăng thuế và mở rộng

đối tượng chịu thuế, tăng học phí đại học lên gấp 3 lần…Ireland hy vọng rằng

với các biện pháp này có thể giải quyết được cuộc khủng hoảng nợ công. Mức

thâm hụt ngân sách giảm từ 32%GDP (2010) xuống mức 3%, giảm tỉ lệ thất

nghiệp từ trên 13% xuống dưới 10% vào năm 2014. Để thực hiện cam kết

này, Ireland dự định tăng thu giảm chi nhằm tiết kiệm khoảng 8 tỷ USD,

nhằm giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 9,5- 9,7% GDP trong năm 2011.

Báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế Ireland trong năm 2011 được Ủy

ban châu Âu công bố cho biết: Ireland đã cam kết tuân thủ các điều khoản

trong chương trình cứu trợ mà Liên minh châu Âu dành cho nước này. Do đó,

tính đến nay, về cơ bản, các bước cải cách tài chính của Ireland đã đi đúng

mục tiêu. Thâm hụt ngân sách của nước này năm 2011 xét trên toàn diện đã

giảm dưới 10,6%- mức trần về GDP mà Liên minh châu Âu đề ra.

Ngày 11/2/2013, hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế S&P (Standard and

Poor's) và Fitch đã cùng điều chỉnh đánh giá về triển vọng nợ công của

Ireland từ mức "tiêu cực" lên "ổn định" (BBB+).

Khi những quốc gia đầu tiên tại khu vực Châu Âu lâm vào cuộc khủng

hoảng nợ công và đang tìm cách ứng phó thì rất nhiều quốc gia khác trong

khu vực cũng đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng khi mà mức

thâm hụt tài chính tương đối cao.

2.2.2.3. Khủng hoảng nợ công ở Bồ Đào Nha

Bồ Đào Nha là quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng khi tuyên bố mức

32

thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5 % GDP, nợ công đã xấp xỉ 90% GDP

(2010). Mặc dù Bồ Đào Nha có mức nợ công thấp hơn Hy Lạp nhưng lại có

tỷ lệ thâm hụt ngân sách lớn, nợ tư nhân cao. Tổng nợ chính phủ và tư nhân

của Bồ Đào Nha (không tính nợ liên ngân hàng) vào khoảng 300% GDP.

Bồ Đào Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu nhất trong khu vực

đồng Euro. Những khó khăn về kinh tế mà Bồ Đào Nha gặp phải đã hình

thành từ thập kỷ trước khi tăng trưởng của Bồ Đào Nha chỉ đạt mức trung

bình 1,3% trong giai đoạn 2000 – 2008 (so với mức 4 – 5% của Hy Lạp và

Ireland), song nước này vẫn chi trả phúc lợi cho người dân tương đương với

mức của các nước châu Âu giàu và có mức tăng trưởng cao. Mức nợ của các

hộ gia đình Bồ Đào Nha được coi là cao nhất trong khối đồng Euro. Nghiêm

trọng hơn, 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài, có nghĩa Bồ

Đào Nha khó lòng xoay xở hay trì hoãn nợ khi đáo hạn.

Chi phí vay của Bồ Đào Nha hiện đang ở gần mức cao nhất kể từ khi

đồng Euro ra đời. Tình trạng tài chính bấp bênh và bài học của Hy Lạp và

Ireland là những lý do đẩy tỷ lệ lãi suất trái phiếu chính phủ 10 năm lên tới

7,8%, mức cao kỷ lục trong khu vực đồng Euro.Vì vậy, chính phủ Bồ Đào

Nha buộc phải phát hành trái phiếu để vay tiền, ước tính lên đến gần 70 tỉ

Euro. Mặc dù chưa vượt quá khả năng tài chính, nhưng điều lo ngại của EU là

khủng hoảng Bồ Đào Nha sẽ tạo ra hiệu ứng đô-mi-nô với các quốc gia còn

lại trong khu vực.

Mặc dù thâm hụt ngân sách của Bồ Đào Nha không cao như của Hy

Lạp (130% GDP) và giới hạn có thể chấp nhận được, song những yếu tố bất

lợi trên cùng với 70% các khoản nợ là nợ nước ngoài và mức tăng trưởng

kinh tế chậm, khả năng cạnh tranh thấp khiến Bồ Đào Nha khó tiếp cận các

nguồn vốn vay. Đồng thời, cuộc khủng hoảng đã tác động rất lớn tới tình hình

chính trị nước này. Quốc hội Bồ Đào Nha đã phải hủy bỏ chương trình kinh tế

33

thắt lưng buộc bụng của Chính phủ.

Tháng 4/2010, Bồ Đào Nha đã phải đề nghị sự hỗ trợ về tài chính từ

bên ngoài. Theo giới phân tích đánh giá, Bồ Đào Nha cần phải có 100 tỷ USD

để giải quyết những khó khăn này. Trước mắt, Bồ Đào Nha phải trả 4,2 tỷ

Euro tiến trái phiếu đến hạn vào ngày 15/4 và 4,9 tỷ USD vào tháng 6 cùng

năm. Dự báo nợ công của Bồ Đào Nha sẽ tiến đến mốc khoảng gần 100%

GDP vào năm 2020.

2.1.2.4. Khủng hoảng nợ công ở Tây Ban Nha

Sau khi những vấn đề tài chính của Hy Lạp tạm thời được giải quyết thì đến

lượt Tây Ban Nha- nền kinh tế lớn thứ tư của khu vực rơi vào khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone đã lắng dịu đi đáng kể trong

những tháng đầu năm 2012 nhờ chương trình tái cấp vốn dài hạn của Ngân

hàng Trung ương châu Âu (ECB) cuối năm 2011 và đầu năm 2012. Việc ECB

bơm hơn 1 nghìn tỷ euro (1,3 nghìn tỷ USD) các khoản vay lãi suất thấp vào

hệ thống ngân hàng khu vực đã khuyến khích các ngân hàng mua trái phiếu

chính phủ của các nước đang gặp khó khăn về tài chính như Tây Ban Nha,

giúp lãi suất trái phiếu của nước này giảm. Các thị trường chứng khoán tại các

nước phát triển trong quý I/2012 tăng trưởng mạnh nhất trong nhiều năm qua,

tâm lý đầu tư, niềm tin người tiêu dùng và doanh nghiệp đã được cải thiện.

Tuy nhiên, sau khi Chính phủ Tây Ban Nha nâng chỉ tiêu thâm hụt

ngân sách năm 2012 lên 5,8% GDP, cao hơn so với cam kết đưa ra trước đó là

4,4% GDP. Mặc dù chính phủ nước này sau đó đã hạ mục tiêu xuống 5,3%

GDP cũng như thực hiện nhiều biện pháp kinh tế để đạt mục tiêu này, song

Tây Ban Nha vẫn gặp nhiều khó khăn khi muốn huy động vốn trên thị trường

tài chính.

Eurozone đã huy động 800 tỷ euro để có thể hỗ trợ các nước thành

34

viên không thể huy động vốn từ thị trường, nhưng số tiền này vẫn được cho là

không đủ để giải cứu một nền kinh tế lớn như Tây Ban Nha. Việc cứu trợ Tây

Ban Nha sẽ đòi hỏi phải có sự giúp sức của các nền kinh tế lớn trong khu vực.

Như vậy, nhiều nước trong khu vực Châu Âu đang gặp phải những khó

khăn do không kiểm soát được mức nợ công của mình. Tình hình này nếu tiếp

tục kéo dài thì không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế các nước trong khu vực

mà sẽ kéo theo sự suy thoái của cả nền kinh tế thế giới. Các Chính phủ của 27

quốc gia Châu Âu trong đó có 17 nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu đã

cùng hợp sức tháo gỡ những vướng mắc này.

Năm 2010 khu vực đồng euro đã xóa bỏ nguyên tắc cơ bản là cấm các

thành viên giúp đỡ nhau về tài chính, còn hiện nay nhiệm vụ hàng đầu là đối

phó với những hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công, đồng thời tăng cường

các thể chế, cơ chế nhằm tránh lặp lại một cuộc khủng hoảng tương tự. Để

làm được việc này, Quỹ Cứu trợ tạm thời do các thành viên và IMF góp vốn

sẽ được ra đời, trở thành một quỹ thường xuyên. Các thành viên cũng đã

thống nhất mỗi nước phải có sự thay đổi nhất định để tạo điều kiện cho cơ chế

của quỹ hoạt động.

Năm 2011, Liên minh Châu Âu còn sửa đổi Hiệp ước Li-xbon để duy

trì một cơ chế hỗ trợ tài chính, tăng cường kỷ luật về ngân sách và đưa ra

những biện pháp trừng phạt đối với những thành viên vi phạm kỷ luật ngân

sách. Có thể nói đây chính là bước khởi đầu cho sự hình thành một dạng ngân

sách chung của EU.

EU cũng đã thông qua một số giải pháp nhằm đối phó với khủng hoảng

nợ công tại khu vực đồng tiền chung châu Âu như: xác định quy mô và mục đích

phát triển cơ chế viện trợ hiện tại, hạ thấp chi phí vay nợ cho những nước nhận

viện trợ như Hy Lạp, tiến hành sát hạch tình hình tài chính cho các ngân hàng.

Quỹ Bình ổn châu Âu được coi là một công cụ để ổn định tài chính

35

nhằm bảo đảm năng lực bơm vốn thực tế cho các nước khu vực đồng euro,

đồng thời cung cấp đủ tín dụng viện trợ cho các nước thuộc khu vực có nguy

cơ rơi vào khủng hoảng như Ireland, Hy Lạp, hay Bồ Đào Nha. Quỹ này có

thể trực tiếp thu mua trái phiếu chính phủ của những nước khu vực đồng Euro

đang gặp khó khăn về phát hành trái phiếu nhằm xoa dịu tình trạng khẩn cấp.

Ngày 9/12/2011, tại hội nghị thượng đỉnh EU(Bỉ) thì lãnh đạo tất cả 17

nước khu vực đồng tiền chung euro thống nhất kí một hiệp ước liên chính

phủ. Hiệp ước mới này đưa ra sáu biện pháp chính nhằm phòng chống khủng

hoảng nợ công, ngăn ngừa Eurozone đổ vỡ.

Thứ nhất, thâm hụt ngân sách hàng năm của mỗi nước không được

vượt quá 0,5% GDP. Thứ hai, áp dụng cơ chế xử phạt tự động với nước có

mức thâm hụt vượt quá 3% GDP. Thứ ba, những nguyên tắc này cần được

đưa vào trong hiến pháp. Thứ tư, Quỹ cứu trợ cơ chế ổn định Châu Âu (ESM)

sẽ được tăng cường và chính thức hoạt động từ tháng 7-2012. Thứ năm, sẽ

định mức lại số vốn tối đa của ESM. Thứ sáu, eurozone và các nước EU khác

sẽ cung cấp tối đa 200 tỷ euro ( tương đương 268 tỷ USD) cho Quỹ tiền tệ

quốc tế để giúp những thành viên eurozone trang trải một phần nợ nần.

Cuối tháng 02/2014, Ủy ban châu Âu (EC) đưa ra dự báo về tốc độ tăng

trưởng kinh tế của các nước trên thế giới, trong đó 28 nền kinh tế thuộc EU

dự kiến đạt tốc độ tăng trưởng trong năm nay là 1,5% và 2% vào năm 2015.

Trong khi các quốc gia đang tìm cách xử lí vấn đề nợ công thì các con

số nợ công vẫn chưa thấy có dấu hiệu giảm xuống mà còn tăng lên. Theo Văn

phòng Thống kê quốc gia Italia (Istat) ngày 3/3/2014, hiện nợ công của Italia

đã tăng lên đến 2,07 nghìn tỷ Euro (tương đương 2,84 nghìn tỷUSD), bằng

132,6% GDP năm 2013, so với 127% của năm 2012. Tỷ lệ nợ công của Hy

Lạp dự kiến tăng lên mức 200% GDP trong năm 2014 so với 115,2% năm

2007. Trong khi đó, Bồ Đào Nha dự kiến có tỷ lệ nợ công đạt 134,6% GDP

năm 2014 so với mức 75% năm 2007. Tây Ban Nha dự báo chạm ngưỡng

36

105% trong năm 2014 so với 42% của năm 2008...

Mặc dù những nỗ lực cải cách kinh tế của các nước Eurozone đã bước

đầu được cải thiện nhưng dường như các chính sách của những nước này vẫn

chưa phát huy tác dụng làm giảm bớt gánh nặng nợ, thay vào đó áp lực thuế

đối với người dân tại các quốc gia này ngày càng lớn. Các chủ nợ là ECB,

IMF…. đã thực hiện mở rộng kỳ hạn nợ từ 30 năm lên 50 năm, giảm lãi suất

thanh toán 0,5 điểm phần trăm và có thể tăng thêm 15 tỷ euro vào năm 2014.

2.2 Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ công của các nước và

khu vực trên thế giới

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công của các quốc gia rất khác

nhau nhưng có thể thấy nổi bật lên các nhóm nguyên nhân sau:

2.2.1. Thâm hụt ngân sách quá lớn

Việc chi tiêu của các chính phủ lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia đã làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách thêm trầm trọng, nền

kinh tế tiềm ẩn những rủi ro đặc biệt là trong vấn đề vay và trả nợ công.

Bảng 2.3: Bảng so sánh rủi ro nợ công của các nước

Quốc gia Thâm hụt Nợ GDP Nợ nước Nợ ngắn Tài khoản

ngân sách 2013 ngoài hạn vãng lai

2013 tổng (%GDP) 2013 (%

nợ) (%GDP)

Hy Lạp -12,2 77,5 20,8 124,9 -10,0

Bồ Đào Nha -8,0 73,8 22,8 84,6 -9,9

Ireland -14,7 57,2 47,3 82,6 -1,7

Italia -5,3 49,0 5,7 116,7 -2,5

Ban -10,1 Tây 37,0 5,8 66,3 -6,0

Nha

-12,9 Anh 22,1 3,3 80,3 -2,0

-12,5 Mỹ 26,4 8,3 93,6 -2,6

37

Nguồn: European Commission, World Bank IMF

Số liệu trong bảng 2.3 cho thấy các quốc gia có mức thâm hụt ngân

sách lớn là Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ. Trong số các quốc gia

này thì Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha đã rơi vào khủng hoảng nợ công vì

thâm hụt ngân sách lớn. Anh, Mỹ có thâm hụt ngân sách cao nhưng vấn đề nợ

công không trầm trọng như các quốc gia còn lại vì trong cơ cấu nợ của các

nước này thì nợ nước ngoài chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nợ. Các khoản

vay không phải là vay ngắn hạn mà chủ yếu là trung hạn và dài hạn.

Hy lạp là một trường hợp điển hình của việc chi tiêu của chính phủ lớn

hơn nhiều so với nguồn thu của chính phủ. Trước khi gia nhập vào Eurozone,

Hy Lạp đã có những dấu hiệu bất ổn về vấn đề ngân sách. Tuy nhiên trên giấy

tờ thì Hy Lạp lại cố gắng cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách.

Khi ngân hàng trung ương Châu Âu tỏ ra lo lắng về mức nợ của Hy Lạp vượt

quá yêu cầu để tham gia vào Eurozone thì chính phủ Hy Lạp gây áp lực bằng

cách nhấn mạnh đã có quốc gia cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu nhưng

vẫn được gia nhập vào khối.

Ngân sách Hy Lạp thu vào không được nhiều bởi chỉ có khoảng 15.000

cá nhân nộp thuế trong tổng số 11 triệu dân có thu nhập trên 100.000

euro/năm với mức thuế là 4%. Số thuế bị trốn trong 10 năm qua lên tới 35 tỉ

euro. Số tiền thu được từ hành vi trốn thuế chỉ vào khoảng 20% tổng số tiền

phạt. số còn lại bị thất thu và bị các cán bộ thuế bỏ túi. Tệ nạn tham nhũng tại

Hy Lạp gây thiệt hại khoảng 8% GDP của quốc gia này.

Từ năm 2001 đến năm 2007, tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca

ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% so với mức trung bình của

khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong 6 năm này, trong khi chi tiêu

chính phủ tăng 87% thì thu chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách

38

thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.

Như vậy, thâm hụt ngân sách quá lớn khiến cho nền kinh tế bị suy yếu,

sức mạnh bên trong của nền kinh tế không đảm bảo nên gặp nhiều khó khăn

trong việc xử lí vấn đề nợ công.

2.2.2 Sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), vào năm 2004,

chi tiêu cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn

nhiều so với các nước thành viên OECD khác, mà không có bằng chứng nào

cho thấy chất lượng hay số lượng dịch vụ ở nước này cao hơn hẳn.

Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy

Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế bởi việc sử dụng một đồng tiền

được những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp là một sự đảm bảo cho Hy Lạp

cũng như các quốc gia khác trong khối. Dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước

ngoài với mức lãi suất thấp, trong gần một thập kỷ qua, chính phủ Hy Lạp

liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể

giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý.

Nhưng điều này không xảy ra, Chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá nhiều cho

xây dựng cơ sở hạ tầng mà không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ, trong đó

có thể kể đến như thế vận hội Olympic 2004 - kỳ thế vận hội hoành tráng nhất

và cũng tốn kém nhất trong lịch sử nhưng chính phủ lại không cho phép sự

xuất hiện của bất kỳ một biển hiệu quảng cáo nào trên đường phố, các dịch vụ

phục vụ thế vận hội cũng bị hạn chế.

Không thể phủ nhận rằng để có vốn tiến hành công nghiệp hoá và hiện

đại hoá, việc vay nợ nước ngoài là cần thiết. Nhiều quốc gia có những bước

phát triển kinh tế đáng nể như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phải

vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu

tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xoá đói

39

giảm nghèo. Tiền vay được họ quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. Hạ

tầng cơ sở ở những quốc gia này một khi đã được xây dựng thì chất lượng rất

tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài hạn chứ không phải ngay lập tức hay

một thời gian ngắn sau đã phải làm lại, cải tiến hay mở rộng. Họ không vay

tiền nước ngoài để dùng vào những dự án nhỏ lẻ, không thực sự đem lại nhiều

giá trị lợi ích xã hội. Họ cũng không dùng những món nợ phải trả trong tương

lai này để theo đuổi những siêu dự án trong khi hạ tầng kỹ thuật thiết yếu

trong nước còn chưa đầy đủ...

Có lẽ cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập

Eurozone đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên mất những

nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia

đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ

tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua,

chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ.

2.2.3. Không minh bạch trong các hoạt động tài chính

Trong hoạt động quản lí tài chính của quốc gia, có những chính phủ

không tuân theo nguyên tắc quan trọng trong quản lí là phải minh bạch trong

các hoạt động tài chính. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới niềm tin của các nhà

đầu tư khi họ nắm được các số liệu thật.

Khi tham gia vào thị trường quốc tế, Hy Lạp đã công khai các con số

thể hiện mức thâm hụt ngân sách của quốc gia, tuy nhiên các số liệu này luôn

thay đổi, không nhất quán theo thời gian công bố và giữa các tổ chức công bố.

Các nhà đầu tư bắt đầu lo ngại khi vào tháng 10/2009, chính phủ Hy Lạp mới

lên cầm quyền đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm 2009

là 12,9% GDP, tăng lên gần gấp đôi so với con số ban đầu là 6,7%. Các khoản

chi của Chính phủ cho hoạt động quân sự, quốc phòng… đã bị che giấu và

40

không tính vào cơ cấu chi của ngân sách nên thâm hụt ngân sách không nhiều.

Đến tháng 4/2010, Cục thống kê Châu Âu lại đưa ra con số ước tính thâm

thụt ngân sách của Hy Lạp cao hơn nữa, khoảng 13,6% GDP. Các nhà đầu tư

ngày càng trở nên lo lắng hơn về khả năng hoàn trả các khoản nợ đến hạn.

Như vậy việc công khai nhưng thiếu minh bạch trong số liệu thống kê

của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo

dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và giới đầu tư nhanh

chóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình

trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Trong

thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các

nhà đầu tư và Hy Lạp là một minh chứng cho thấy niềm tin của thế giới với

một quốc gia sẽ giảm sút nhanh chóng như thế nào khi sự minh bạch trong số

liệu kinh tế của quốc gia đó không được đảm bảo.

2.2.4. Kiểm soát và quản lý nợ của chính phủ yếu kém

Nhà nước thực hiện việc quản lí nợ của mình thông qua hệ thống các

ngân hàng. Hoạt động của các ngân hàng không hiệu quả dẫn đến việc cho

vay tràn lan, hoặc các khoản vốn bị ồ ạt rút ra…sẽ làm tăng nợ xấu của các

ngân hàng. Để tình trạng này xảy ra đã chứng minh việc yếu kém trong khâu

quản lí của chính phủ cũng như của hệ thống ngân hàng.

Khủng hoảng nợ công ở Ireland được bắt đầu từ khu vực tư nhân với

hành vi cho vay ồ ạt của một số ngân hàng và Chính phủ không kịp thời

khống chế. Ireland từng là một trong những nền kinh tế tăng trưởng tốt nhất

của khối EU với GDP tăng trưởng hàng năm khoảng 10%. Tuy nhiên khi kinh

tế toàn cầu bị suy thoái thì nền kinh tế nước này cũng bị ảnh hưởng nghiêm

trọng và nhanh chóng bị suy giảm. Nợ công của Ireland tăng hơn 500% trong

41

giai đoạn 2001 - 2010.

Sau khi các ngân hàng thương mại cho vay nợ nhiều mà lại tập trung

vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như thị trường bất động sản thì nền kinh

tế nước này đã gặp phải những khó khăn đầu tiên.

Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, phần lớn các khoản vay bất

động sản trở thành nợ xấu và hệ thống ngân hàng đối mặt với nguy cơ sụp đổ.

Chính phủ đã phải dùng ngân sách để cứu trợ cho các ngân hàng. Để giúp hệ

thống ngân hàng, Chính phủ Ireland đã tài trợ 50 tỷ euro để quốc hữu hóa

ngân hàng và tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Ireland đã biến

nợ xấu của các ngân hàng, những khoản nợ tư nhân thành nợ công. Điều này

đã dẫn đến mức thâm hụt tài chính công tăng lên cao gấp 10 lần mức cho

phép. Nợ công của Ireland là do Chính phủ phải xuất tiền cứu trợ cho hệ

thống ngân hàng, biến nợ xấu từ khu vực tư nhân trở thành gánh nặng nợ nần

của Chính phủ.

Như vậy, Việc lúng túng của chính phủ trong việc quản lí, xử lí các vấn đề

tài chính sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc gia tăng nợ công. Nếu không tìm ra

biện pháp thích hợp thì rất khó tránh khỏi một cuộc khủng hoảng nợ công.

2.3 Tác động của khủng hoảng nợ công tới nền kinh tế thế giới

2.3.1 Suy giảm tăng trưởng kinh tế.

Cuộc khủng hoảng nợ công tại Châu Âu đã ảnh hưởng rất lớn tới nền

kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước trong khối Eurozone. Đồng euro

liên tục bị trượt giá so với các đồng tiền khác, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt

động nhập khẩu hàng hóa, giá trị xuất khẩu bị sụt giảm..

Các số liệu thống kê mới nhất cho thấy, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

của Eurozone đã giảm liên tiếp trong hai quý cuối năm 2011 và quý đầu năm

2012, lần lượt ở mức 0,3% và 0,2%. Ðức - nền kinh tế số một Eurozone, tuy

tăng trưởng 0,1% trong quý 1/2012, nhưng vẫn không đủ bù đắp cho sự sụt

42

giảm của toàn khu vực.

Trong khi đó, nợ công của 17 nước trong Eurozone đã tăng lên mức

trung bình tương đương 87,2% GDP, mức cao nhất kể từ năm 1999. Trong

đó, Hy Lạp dù đã nhiều lần nhận được cứu trợ nhưng vẫn đứng đầu danh sách

nợ công của châu Âu với tổng nợ bằng 165,3% GDP. Italy là nước có tỷ lệ

nợ/GDP cao thứ hai châu Âu ở mức 120,1%. Tây Ban Nha đứng thứ ba với

mức 68,5%, được cho là đã rơi vào đợt suy thoái mới và khó đạt mục tiêu hạ

thâm hụt ngân sách xuống dưới 3% GDP .

Trước khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, GDP của Hy Lạp

liên tục tăng qua các năm. Tháng 12/2008, GDP của Hy Lạp đạt tới 355,66 tỉ

USD. Cuối năm 2009, khi khủng hoảng nợ công xảy ra thì GDP nước này đã

giảm xuống chỉ còn 330 tỉ USD và bình quân GDP hàng năm của Hy Lạp liên

tục giảm. Tháng 12/2010 đã giảm xuống mức -6,6 %.

Kinh tế châu Âu suy thoái càng làm tình hình thất nghiệp thêm trầm

trọng. Theo Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), tỷ lệ thất nghiệp tại

Eurozone đang đứng ở mức 10,9%, mức cao nhất kể từ khi đồng euro được

đưa vào sử dụng năm 1999. Trong đó, tính đến tháng 4/2012, khoảng 17,4

triệu lao động tại Eurozone ở trong tình trạng thất nghiệp.

Tỷ lệ thất nghiệp của các nước cũng có sự khác biệt lớn. Tại Áo hay Hà

Lan, tỷ lệ thất nghiệp chỉ là 4,2% và 4,9%. Đức đứng hạng ba, với một tỷ lệ

được coi là ổn định ở mức 5,7%. Trong khi tỷ lệ này tại Italia và Pháp lần lượt

là 9,3% và 10%.

Trong khi đó tình trạng thất nghiệp tại Ireland (14,7%), Bồ Đào Nha

(15%), Hy Lạp (21%). Riêng Tây Ban Nha đang là nước có tỷ lệ thất nghiệp

cao nhất tại Eurozone (23,6%), với hơn một nửa thanh niên trong độ tuổi từ

16-25 bị gạt ra ngoài thị trường lao động.

Tuy nhiên khó khăn mà các nước đang phải đối mặt đó là muốn giải bài

43

toán nợ công thì phải cắt giảm chi tiêu trong đó có cả chi trả lương cho lao

động, như vậy sẽ có khoảng 15-25% dân số trong tuổi lao động thất nghiệp và

tỉ lệ này luôn có xu hướng gia tăng trong thời gian tới. Một lực lượng lao

động lớn không có cơ hội tìm kiếm việc làm, không có thu nhập sẽ ảnh hưởng

không nhỏ tới nhu cầu tiêu dùng cá nhân và tổng cầu của nền kinh tế. Nguồn

vốn con người không được phát huy nên đã làm suy giảm năng suất lao động

xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

2.3.2. Giảm khả năng huy động vốn

Khi một quốc gia bị hạ mức tín nhiệm thì niềm tin của các nhà đầu tư bị

lung lay, khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính thế giới bị suy giảm.

Trong cuộc khủng hoảng ở khu vực Mỹ La Tinh những năm 1980, tăng

trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%. Để có tiền trả nợ, họ đã

cầu viện những tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng

Thế giới (WB). Đổi lại, các nước phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng, phá giá

nội tệ hay tự do hóa thương mại để cải thiện nền tài chính. Hậu quả là kinh tế

tăng trưởng trì trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm và chênh lệch giàu

nghèo ngày càng tăng. Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ La tinh

mới lắng dịu.

Đến lúc đó, hầu hết các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới đều đã

từ chối hoặc giảm cho vay các nước châu Mỹ La tinh khác. Trong khi đó, các

khoản nợ vay của chính phủ các nước lại chủ yếu là ngắn hạn và các nước gặp

khó khăn trong thanh toán nợ khi các tổ chức cho vay từ chối gia hạn các

khoản vay.

Tương tự là hoàn cảnh của các nước thuộc nhóm PIIGs, khi khủng

hoảng nợ công đang tác động mạnh làm suy giảm tăng trưởng kinh tế quốc

gia cũng như đưa đến những bất ổn về mặt xã hội thì việc khó tiếp cận các

44

nguồn vốn vay đã làm cho tình trạng này càng thêm trầm trọng. Các nhà đầu

tư rất thận trọng khi đưa ra các quyết định thậm chí từ chối cho vay, hoặc cho

vay với những cam kết bất lợi với chủ thể đi vay

Đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor's hạ

bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập

tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát

hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ

phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy : tiếp tục bị

tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm,

dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm

trầm trọng.

Khi chính phủ Hy Lạp thực hiện các chính sách “thắt lưng buộc bụng”

như giảm chi tiêu, tăng thuế, hạ lương…để nhận được sự giúp đỡ từ EU và

IMF thì dẫn đến tình trạng đầu tư vào Hy Lạp giảm mạnh, đặc biệt là đầu tư

trực tiếp (FDI). Trong năm 2009 tổng luồng vốn vào nước này đạt 4,5 tỷ euro.

So với năm 2008 thì vốn FDI vào Hy Lạp sụt giảm khoảng 21% do hậu quả

của khủng hoảng nợ công.

2.3.3 Gặp những bất ổn về tài chính:

Do tác động của khủng hoảng nợ công nên tình hình tài chính, tiền tệ

của các nước dễ gặp những rủi ro, phổ biến nhất là giá trái phiếu giảm và lãi

suất tăng. Lãi suất trái phiếu Hy Lạp đạt mốc 11,39% trong tháng 12 năm

2010, đây là mức lãi suất cao nhất từ năm 1998 trở lại đây. Chính phủ cần huy

động vốn để trả nợ nên buộc phải phát hành trái phiếu, việc làm này đồng

nghĩa với giá trái phiếu chính phủ giảm vì vậy muốn huy động người mua thì

chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu.

Vào tháng 4/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và

Fitch đã hạ bậc trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao. S&P tính

45

toán trong trường hợp Hy Lạp mất khả năng thanh toán thì nhà đầu tư có thể mất

30-50% giá trị các khoản đầu tư. Ngay lập tức lợi tức trái phiếu chính phủ Hy

Lạp tăng mạnh, Hy Lạp gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn huy động vốn.

Với trường hợp của Ireland, theo số liệu tháng 2/ 2011 lãi suất trái

phiếu của nước này đã đạt mức kỉ lục 9,06%, mức cao nhất kể từ khi đồng

euro ra đời. Mức lãi suất này khiến cho giới đầu tư gia tăng thêm nỗi nghi

ngại về tình trạng nợ công nước này và họ ồ ạt bán lượng lớn trái phiếu đang

nắm giữ. Ireland gần như không thể phát hành trái phiếu được nữa. Thêm vào

đó chi phí bảo lãnh cho trái phiếu Ireland tăng nhanh, cứ 10 triệu euro nợ dài

hạn của Ireland thì sẽ mất 595.000 euro phí bảo lãnh. Không chỉ có Hy Lạp,

Ireland mà các quốc gia khác rơi vào khủng hoảng cũng đều gặp tình trạng

tương tự. Thị trường tài chính không ổn định đã làm cho môi trường đầu tư

không còn hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước, không huy động được

được vốn, không kích thích được đầu tư… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến

46

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.

Chương 3

BÀI HỌC KINH NGHIỆM NHẰM TRÁNH KHỦNG HOẢNG NỢ

CÔNG CHO VIỆT NAM

3.1 Tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay

3.1.1. Quy mô nợ công

TheoThe Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001

mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ

công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ

USD, tương đương 54,3% GDP. Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ

công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ

công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm . Nếu tiếp

tục với tốc độ này thì theo tính toán đến năm 2020, nợ công của Việt Nam sẽ vượt

quá 100% GDP. Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với

một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu

sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.

Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm 2011

của Việt Nam là 50,9% GDP. Nếu theo cách tính chỉ tiêu tỉ lệ nợ công/GDP của

Liên hiệp quốc thì mức nợ này vẫn nằm trong ngưỡng an toàn, song vẫn cao hơn

nhiều so với mức khuyến cáo 30-40% ở các quốc gia đang phát triển.

Nguồn: The Economist Intelligence Unit

47

Biểu đồ 3.1: Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2007-2012

Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, mỗi năm nợ công tăng bình quân

20%, tương đương khoảng 350.000 tỷ đồng. Trong khi tốc độ tăng trưởng

kinh tế chỉ đạt khoảng 5,8%.

Nếu như năm 2010, nợ công là 1,115 triệu tỷ đồng, chiếm 51,7% GDP

thì đến năm 2013 đã hơn 1,9 triệu tỷ, năm 2014 gần 2,4 triệu tỷ, dự kiến 2015

gần 2,9 triệu tỷ, chiếm trên 64% GDP. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của

chiến lược nợ công là không quá 25%, nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả

nợ vay về cho vay lại là khoảng 26,2%). Như vậy, nợ công đang tăng nhanh

cả về quy mô và tốc độ (năm 2010, nợ công chỉ 1,115 triệu tỷ đồng, chiếm

51,7% GDP. Nhưng đến năm 2013 đã hơn 1,9 triệu tỷ đồng, năm 2014 gần 2,4 triệu tỷ đồng, dự kiến 2015 gần 2,9 triệu tỷ đồng, chiếm trên 64% GDP.

Mức nợ công tính trên đầu người của Việt Nam năm 2010 là 580,91 USD

thì đến năm 2011 là 638,55 USD. Nếu so sánh với mức nợ công bình quân trên

đầu người của Trung Quốc là 714,6 USD, Indonesia là 743 USD..... thì mức nợ

công bình quân trên đầu người của Việt Nam không phải là cao quá.

Bảng 3.1. Nợ công tính trên đầu người của một số quốc gia ngày 12/10/2010

Quốc gia Nhật Bản Ireland Anh Pháp Malaysia Canada Mỹ Thái Lan Philippines Indonesia Trung Quốc Việt Nam Nợ công tính trên đầu người (USD/ người) 83697 43286 26602 31785 4184 37000 27683 2064 1071 743 713,6 580,91

48

Nguồn: Thống kê dựa trên số liệu của Tạp chí Economist

Tuy nhiên, nếu so mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam vào

năm 2001 xấp xỉ 112 USD; thì trong vòng 10 năm, con số này đã tăng gấp 6 lần,

cho thấy gánh nặng nợ tương lai đổ lên đầu người dân ngày càng tăng.

Theo Đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) trên trang The

Economist.com, Tính đến 13h (giờ Việt Nam) (28/9/2012), nợ công của Việt

Nam đang ở mức trên 68,119 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là

762,2 USD; nợ công chiếm 49,9% GDP. Cùng thời điểm, nợ công toàn cầu

đang ở mức trên 48.947 tỷ USD.

Nguồn: vneconomy.vn

Hình 3.1: Thông số nợ công trên Global debt clock ngày 28/9/2012

Tính ra từ năm 2007 đến cuối năm 2011, nợ công của Việt Nam đã tăng

khoảng 25% (trung bình 5%/năm). Với khoản nợ này, căn cứ vào thời điểm

đáo hạn thì từ nay đến 2015 mỗi năm Việt Nam phải trả nợ gốc và lãi cho

nước ngoài gần 1,5 tỉ USD và mức trả nợ cao nhất sẽ rơi vào năm 2020 với

con số lên đến 2,4 tỉ USD.

Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có mức nợ công trung bình của

thế giới và cũng được xếp vào nhóm những nước có nợ công ở mức trung

49

bình, khá thấp so với các nước khu vực Đông Nam Á như Indonesia (231 tỷ

USD), Thái Lan (185 tỷ USD), hay Malaysia (175 tỷ USD). Tuy nhiên, nợ

công Việt Nam lại chiếm tới 49,4% GDP, xếp hàng cao nhất trong châu Á.

3.1.2. Cơ cấu nợ công

Bảng 3.2: Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010

Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 Bình

quân

Tỷ 23,7 24,1 31,2 37,8 45,3 32,4 Nợ chính

USD phủ

%GDP 39,0 33,8 36,5 40,4 44,6 38,9 Nợ chính

phủ

% Nợ 85,0 68,0 76,2 79,2 82,1 78,1 Nợ chính

công phủ

Tỷ 14,6 17,3 18,9 23,9 25,1* 20 Nợ nước

USD ngoài

của

chính

phủ

% Nợ 61,6 71,6 60,7 60,0 55,4%** 61,9 Nợ nước

chính ngoài

phủ của

chính

phủ

% 26,7 28,3 25,1 29,3 N/A Nợ nước

GDP ngoài

của

50

khu vực

công

% Nợ 58,2 56,9 52,4 57,5 N/A Nợ nước

công ngoài

của

khu vực

công

Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6

Chú thích: , *: Số liệu 6 tháng đầu năm 2010

Cơ cấu nợ công củaViệt Nam năm 2006 - 2010 gồm nợ chính phủ

chiếm 78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa

phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước

chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm

2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ được chính

phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong

nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA.

Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng

và chiếm tỷ trọng cao nhất. Theo bản tin mới nhất của Cục quản lý nợ và tài

chính đối ngoại, năm 2010 tính toán trong tổng nợ công so với GDP có 42,2%

GDP là nợ nước ngoài, tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể

từ năm 2006, ước tính năm 2011 là 44,5%. Con số 42,2% GDP cũng cao hơn

nhiều so với mức 38,8% mà Chính phủ đã dự kiến vào cuối năm 2010.

Trong tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam thì ngoài các khoản nợ từ

IMF, phần lớn các khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam đến từ ba đồng tiền

lớn là Euro, USD, Yên Nhật. Trong đó, đồng euro là 9%, Yên Nhật là 22%,

51

USD là 39%.

Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ

cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh

tế thế giới ngưng trệ, dòng vốn đầu tư nước ngoài bị suy giảm.

Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản

vay ODA. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính, 60,3% nợ

công là ODA và 29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước. Nhiều khoản vay

ODA có thời gian vay rất dài với lãi suất ưu đãi, chẳng hạn vay WB thời hạn

là 40 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất chỉ có 0,75% hay vay Ngân hàng phát

triển Châu Á (ADB) thời hạn là 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%; vay Nhật

Bản thời hạn vay 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất từ 1% - 2%, thông thường

là 1% còn một số khoản cao hơn chỉ 2%. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã trở

thành nước có mức thu nhập trung bình thì các điều kiện cho vay đã trở nên

kém ưu đãi hơn và chi phí trả lãi vay hằng năm sẽ ngày càng tăng.

Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp

lực nợ công; tuy nhiên, các khoản vay ưu đãi lại thường đi kèm với các điều

khoản có liên quan đến những ràng buộc về chính trị và kinh tế khác.

Nợ của Chính phủ Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng

mở rộng đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2011, dư nợ Chính phủ

bằng khoảng 43,6% GDP, giảm 2,1% so với năm 2010 nên các hệ số nợ khi

so với GDP danh nghĩa năm 2011 có xu hướng giảm nhẹ. Mặc dù vẫn trong

giới hạn cho phép và tỷ trọng của dư nợ chính phủ so với tổng mức nợ công

có xu hướng giảm dần, nhưng tỷ trọng của nợ chính phủ so với GDP lại có xu

hướng tăng trong suốt thập niên 2000.

Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ để đầu tư xây dựng cơ

bản theo Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của

52

chính quyền địa phương hiện nay vẫn ở mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP.

Mức dư nợ của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của

Luật Ngân sách nhà nước, không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản

trong nước của các địa phương.

3.1.3. Sử dụng nợ công

Nợ công là nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho đầu tư phát triển hệ

thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Trên 98% vốn vay được sử dụng trực

tiếp cho các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách nhà nước cho

chi đầu tư (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA theo

cam kết (0,4%). Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu về giao thông, điện,

nước, thủy lợi, y tế, giáo dục… đã hoàn thành, phát huy hiệu quả và đang tiếp

tục đầu tư xây dựng nhiều công trình mới, góp phần thu hút các nguồn vốn

đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả

sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, qua đó sẽ tăng thu ngân sách và bảo

đảm được nguồn trả nợ.

Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được

sử dụng vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện

thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở

Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện ở hai khía cạnh sau:

Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Tình trạng chậm trễ trong

giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính

phủ diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc nhà nước, hết tháng

10/2009 mới giải ngân được 26.586 trong số 64.000 tỉ đồng vốn trái phiếu Chính

phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang,

chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Đến năm 2009, đã

53

giải ngân vượt mức tổng vốn trái phiếu chính phủ của giai đoạn 2003-2010 nhưng

chỉ có khoảng 50% dự án đã hoàn thành, nhiều công trình, dự án… đã hoàn thành

cần số vốn tăng gấp 2, 3 lần so với mức đăng kí…

Sự yếu kém trong công tác quản lí đã dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí,

thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư.

Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp

Bảng 3.3: Chỉ số ICOR của Việt Nam so với các nước trong khu vực

Nước Giai đoạn Tăng trưởng Tổng đầu tư ICOR

bình quân ( % /GDP ( %)

năm)

Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0

Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7

Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1

Trung Quốc 2000-2008 9,7 38,8 4,0

Việt Nam 2000-2008 7,5 33,5 4,5

Nguồn:Số liệu thống kê từ IMF và Worldbank

Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

thấp hơn các quốc gia khác nhưng hệ số ICOR lại cao nhất . Điều này cho

thấy chất lượng và hiệu quả đầu tư của nước ta còn kém, chưa hiệu quả.

Chỉ số ICOR năm 2009 của nước ta là 8, cao hơn so với 6,6 của

năm 2008. Trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc

độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá

cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt

Nam cần 5.24 đồng vốn để tạo ra được một đồng sản lượng thì bây giờ cần

54

phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.

Nguồn: Tổng cục thống kê

Biểu đồ 3.2: Chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2001-2009

3.1.4. Trả nợ công

Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn

định và hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng

năm Việt Nam giành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả

nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn

6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng

tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử

dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong

giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư.

Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.

Theo CIA World Factbook ngày 1/1/2011 Việt Nam đứng thứ 41trong

tổng số 50 quốc gia có mức nợ công lớn nhất thế giới. Tổng dư nợ so với

GDP cuả Việt Nam chiếm 32,5% (năm 2005) lên 42,2% năm 2010. Nếu tốc

độ tăng nợ không giảm thì nợ công Việt Nam sẽ vượt 100%GDP (năm 2016).

Vì vậy để đảm bảo nguồn vốn hoàn lại cho các quốc gia cho Việt Nam vay thì

55

nước ta cần phải cố gắng hơn nữa trong quá trình phát triển kinh tế của mình.

Nguồn: Bộ tài chính

Biểu đồ 3.3: Tình hình trả nợ và viện trợ của Việt nam năm 2006 – 2010

Đơn vị: nghìn tỉ đồng

56

Biểu đồ 3.4:Gánh nặng trả nợ của Việt Nam (2003- 2013)

Trong bản báo cáo về tình hình kinh tế- xã hội do Bộ trưởng Bộ kế

hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh kí ngày 24/04/2014 đã thể hiện sự lo ngại

của chính phủ cũng như quốc hội về vấn đề thanh toán nợ của Việt Nam. Bản

báo cáo đã khẳng định: “Nợ công tuy vẫn nằm trong giới hạn an toàn, nhưng

trên thực tế khả năng huy động và trả nợ rất khó khăn”

Năm 2010 nợ công chỉ 1,115 triệu tỷ đồng, chiếm 51,7% GDP, một con

số có thể yên tâm. Nhưng đến năm 2013 đã hơn 1,9 triệu tỷ, năm 2014 gần

2,4 triệu tỷ, dự kiến 2015 gần 2,9 triệu tỷ, chiếm trên 64% GDP. Con số này

đã tiến rất gần đến ngưỡng 65 % GDP mà quốc hội phê duyệt đến năm 2020.

Trong bài phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (10/2014) cho

biết việc chi trả nợ hiện nay tăng nhanh. Các khoản nợ ngoài nước có lãi suất

chỉ khoảng 1,6%/năm. Số nợ còn lại hiện nay, có thời gian vay trong khoảng

10-20 năm, bình quân 12,8 năm mới phải trả nợ gốc và sẽ tiến hành giảm dần

dần từ từ.

Nhưng vấn đề đáng lo ngại là ở nợ trong nước khi bình quân trả nợ chỉ

trong khoảng 4,3 năm, thậm chí cơ cấu vay có khoản chỉ có 1 năm. Năm

2013, khoản vay có kì hạn một năm đã chiếm tới 22,7% cho nên nước ta rơi

vào cảnh vừa vay xong đã lo trả nợ. Hơn nữa vay trong nước lãi suất tương

đối cao, vì vay theo lãi suất thị trường, chính vay trong nước dẫn tới nợ công

tăng nhanh, dẫn tới trả nợ rất căng thẳng, làm cho đỉnh nợ vào năm 2016. Như

vậy vấn đề vay và trả nợ công cần phải có sự tính toán kĩ lưỡng với những

bước đi thận trọng và phù hợp

3.2. Đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam.

3.2.1 Tác động tích cực của nợ công

3.2.1.1. Bù đắp thâm hụt ngân sách.

Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đầu tư xây dựng

57

cơ sở hạ tầng, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, cũng như giải quyết các vấn đề

xã hội. Nhà nước đã sử dụng ngân sách để chi cho các hoạt động và mức chi

ngày càng gia tăng qua các năm trong khi thu ngân sách ổn định đã dẫn đến

tình trạng thâm hụt ngân sách. Mặc dù nguồn thu ngân sách từ thuế của Việt

Nam có tỉ lệ khoảng 22% GDP (2012), cao hơn nhiều so với Trung Quốc

(18%), Malaysia (15%) nhưng vẫn không theo kịp tốc độ đầu tư xây dựng cơ

sở hạ tầng, chi cho phúc lợi xã hội. Nguồn thu từ khu vực các doanh nghiệp

đầu tư nước ngoài lại có xu hướng suy giảm từ 35% (2005) xuống còn khoảng

25% (2012) trong tổng thu cho ngân sách. Vì vậy, nhà nước đã phải vay từ

nước ngoài và vay trong nước để bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Nợ công

giai đoạn 2006 - 2012 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng 5% GDP.

Bảng 3.4: Thống kê tình hình thâm hụt ngân sách qua các năm (2000-2010)

Tổng thu cân Tổng chi Thâm hụt Tỷ lệ bội chi

đối NSNN cân đối NSNN NSNN so Năm

NSNN với GDP

90,0749 108,961 22,000 4,7% 2000

123,860 148,208 25,597 4,5% 2002

177,409 197,573 29,936 4,9% 2003

224,776 248,615 34,703 4,85% 2004

283,847 313,479 40,746 4,86% 2005

272,877 321,377 48,500 5,0% 2006

311,840 368,340 56,500 5,0% 2007

408,080 474,280 66,200 4,95% 2008

442,340 584,695 115,900 6,9% 2009

528,100 588,210 113,110 5,8% 2010

58

Nguồn: cổng thông tin điện tử Bộ tài chính

Để vay nợ trong nước, Chính phủ thực hiện dưới các hình thức như

phát hành công trái, trái phiếu. Số tiền vay được từ trong nước giai đoạn

2000- 2010 đã tăng gấp đôi từ 15.370 tỷ đồng lên 39.060 tỷ đồng.

Bảng 3.5: Số tiền vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách

nhà nước (2000-2010)

Năm Số tiền vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân

sách nhà nước ( đơn vị tính: tỷ đồng)

2000 15,370

2002 18,382

2003 22,895

2004 27,450

2005 32,420

2006 36,000

2007 43,000

2008 51,200

2009 88,520

2010 39,060

Nguồn: cổng thông tin điện tử Bộ tài chính

Ngoài ra, Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các

nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài và vay nợ

nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như

59

ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển Châu Á….

Bảng 3.6: Số tiền vay nước ngoài để bù đắp thâm hụt ngân sách

nhà nước (2000- 2010)

Năm Số tiền vay nước ngoài để bù đắp thâm hụt ngân

sách nhà nước ( đơn vị tính: tỷ đồng)

2000 6,630

2002 7,215

2003 7,041

2004 7,253

2005 8,326

2006 12,500

2007 13,500

2008 15,000

2009 27,380

2010 20,050

Nguồn: cổng thông tin điện tử Bộ tài chính

3.1.1.2 Gia tăng nguồn vốn đầu tư:

Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, Vốn đầu tư của nhà nước chiếm gần nửa

tổng vốn đầu tư toàn xã hội ( từ 41-46%) giai đoạn 2006-2008. Tổng vốn đầu

tư toàn xã hội lên đến 45,5% trong năm 2007 và 43,1% GDP năm 2008 thì

vốn đầu tư của nhà nước cũng tăng lên đáng kể. Như vậy, vay nợ của chính

phủ ngoài việc bù đắp thâm hụt ngân sách còn đóng góp rất lớn cho việc tăng

nguồn vốn đầu tư cho phát triển và chi thường xuyên. Điều này thể hiện rất rõ

qua bảng quyết toán chi ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ 2005- 2011,

60

chi ngân sách nước ta tăng nhanh từ 262.697 tỷ đồng lên 787.554 tỷ đồng.

(Tỷ đồng)

Sơ bộ

2005

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Bảng 3.7: Quyết toán chi ngân sách Nhà nước (*)

TỔNG CHI

262697

399402

452766

561273

648833

787554

905790

Trong đó:

Chi đầu tư phát

triển

79199 112160

119462

181363

183166

208306

195054

Chi phát triển sự

nghiệp kinh tế - xã

132327

211940

252375

303371

376620

467017

610636

hội

Trong đó:

Chi sự nghiệp GD &

28611

53774

53560

69320

78206

99369

152590

ĐT

Chi sự nghiệp y tế

7608

16426

14385

19354

25130

30930

54500

Chi sự nghiệp khoa

học, công nghệ và

môi trường

2584

7604

3191

3811

4144

5758

7242

Chi sự nghiệp phát

thanh, truyền hình

2099

1410

2662

6080

8828

8645

10535

Chi lương hưu, đảm

bảo xã hội

17747

36597

37138

50266

64218

78090

96624

Chi sự nghiệp kinh tế

11801

16145

21193

27208

37632

45543

61719

Chi quản lý hành

chính

18761

29214

38025

40557

56129

72423

87060

Chi bổ sung quĩ dự

69

185

159

247

275

288

100

trữ tài chính

(*) Số liệu từ 2005-

2011 là số liệu quyết

toán

61

Nguồn: Tổng cục thống kê

3.2.2. Những nguy cơ về khủng hoảng nợ công

3.2.2.1. Gánh nặng nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài ngày càng gia

tăng. Theo bản tin số 7 của Bộ tài chính công bố tháng 8/2011, tổng số nợ

nước ngoài của Việt Nam (chỉ bao gồm nợ Chính phủ trung ương, địa phương

và nợ được Chính phủ bảo lãnh) đã tăng từ 27,93 tỷ USD năm 2009 lên 32,5

tỷ USD năm 2010. Trong đó vay nợ nước ngoài đã chiếm 27,86 tỷ USD (bằng

85,7% tổng dư nợ), đây là mức nợ cao nhất kể từ năm 2005. Tính chung giai

đoạn 5 năm 2006-2010, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng gấp đôi từ 764,5

triệu USD lên 1,67 tỷ USD và con số này vượt xa rất nhiều so với mức dự

kiến của chính phủ..

Cũng trong năm 2010, ngân sách phải trả cho các chủ nợ nước ngoài là

1,67 tỉ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so

với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009. So sánh dữ liệu về nghĩa vụ nợ năm 2010

với tổng thu ngân sách cùng năm của Bộ Tài chính, tỷ lệ này là khoảng 5,5%.

Tính chung từ nay đến năm 2015, mỗi năm, Việt Nam phải trả nợ cả gốc lẫn lãi

khoảng 1,5 tỉ USD. Đến năm 2020, tổng số tiền phải trả là 2,4 tỉ USD.

3.2.2.2 Dự trữ ngoại hối giảm mạnh

Dự trữ ngoại hối giảm mạnh qua các năm, từ 21 tỷ USD năm 2007

xuống còn 13,5 tỷ USD năm 2011. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ

ngắn hạn đang xuống thấp, từ 2.808% năm 2008 xuống 290% năm 2009 và

còn khoảng 187% năm 2010. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do tình

trạng thâm hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai diễn ra liên tục trong

nhiều năm. Trong khi đó, tổng số tiền mà Việt Nam phải trả ngày càng tăng.

Năm 2010, Việt Nam phải trả các chủ nợ nước ngoài là 1,67 tỷ USD ( riêng

tiền lãi và phí là 616 triệu USD). Bộ tài chính cho biết, từ nay cho đến năm

2015 mỗi năm nước ta phải trả nợ nước ngoài cả gốc lẫn lãi khoảng 1,5 tỷ

62

USD và tính đến năm 2020 là khoảng 2,4 tỷ USD. Nếu tỷ lệ dự trữ ngoại hối

của Việt Nam mà tiếp tục giảm thì đây thực sự là vấn đề đáng lo ngại của Việt

Nam trong quá trình xử lí nợ công.

3.2.2.3. Lãi suất vay ngày càng tăng

Theo cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo lãi suất vay thì

phần lớn nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất thấp từ 0% đến dưới 3%.

Năm 2010, tổng dư nợ của nước ta là gần 27,86 tỷ USD thì có tới gần 21,85

tỷ USD ở mức lãi suất này. Còn lại trên 2,15 tỷ USD dư nợ có lãi suất từ 3%

đến dưới 6%( tăng tới 43% so với năm 2009). Những khoản vay có lãi suất

cao từ 6% - 10%/năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỉ USD, như vậy

lãi suất của năm 2010 đã cao gấp đôi so năm 2009. Hiện các chủ nợ chính

của Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, Ngân hàng phát triển châu á, WB... Các

chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu chính phủ Việt Nam lên hơn 2

tỷ USD trong năm 2010 (so với hơn 1 tỷ USD của năm 2009). Tổng dư nợ

nước ngoài so với GDP đã ở mức 42,2 % đang tiến rất gần với trần nợ quy

định của Thủ tướng là 50% GDP.

Khi Việt Nam gia nhập vào nhóm các nước có thu nhập trung bình (đạt

1.160 USD / người) thì các khoản vay ưu đãi sẽ giảm dần và thay vào đó là

các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian trả nợ ngắn hơn.

Điều này cũng là thách thức đối với nước ta trong quá trình vay và trả nợ

nước ngoài.

Như vậy là, gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam đang tăng liên tục

cả về quy mô, dịch vụ và điều kiện nợ. Dù Ngân hàng Thế giới (WB) đánh

giá nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn ở mức an toàn song Việt Nam đã và

đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như lạm phát cao, bội chi ngân sách, thâm

hụt thương mại, thâm hụt cán cân tài khoản quốc tế...

Theo Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8%

63

GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%; 2009: 41,9%; 2010: 56,7%.

Như vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức

trung bình 5%/năm. Với đà tăng này, chỉ trong vòng vài năm tới thì nợ công

Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP.

3.2.2.4 Hiệu quả, chất lượng đầu tư của các khoản vay thấp.

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng: Nhìn từ nợ của Việt Nam, thấy rằng

hiệu quả của đầu tư công quá thấp, đầu tư 1 đồng nhưng tài sản cố định chỉ

tạo được 0,4 - 0,5 đồng... Theo PGS. TS Nguyễn Đình Hòa thì trước đây, Việt

Nam còn nằm trong nhóm nước có thu nhập thấp nên được vay nợ dài hạn 30

- 40 năm với lãi suất ưu đãi. Nhưng nay Việt Nam đã bước vào nhóm nước có

thu nhập trung bình (đạt 1.160 USD/người) thì các khoản vay ưu đãi sẽ giảm

dần, thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian

ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải rất hiệu quả, nếu không áp

lực trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công.

Tuy nhiên, theo nhìn nhận của các chuyên gia, hiệu quả quản lý, sử dụng nợ

hiện chưa có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề đặt ra ở đây là Chính phủ cần có một

chiến lược kiểm soát đầu tư công, giảm thâm hụt ngân sách để có thể kiểm

soát được nợ vay nước ngoài. Nếu không tình trạng nợ công sẽ là một vấn đề

phức tạp trong dài hạn.

Bà Keiko Kubota, kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt

Nam nhận định “ Mặc dù mức nợ của Việt Nam nhỏ hơn ngưỡng nhưng vẫn

có thể gặp các cú sốc không lường được như GDP thấp hơn so với dự tính,

hay do lạm phát tăng cao, tỷ giá thay đổi, các khoản dự phòng không như dự

toán thì sẽ làm nợ công tăng lên”

3.2.3. Nguyên nhân tạo nên những nguy cơ của khủng hoảng nợ công

3.2.3.1. Mô hình phát triển còn dựa nhiều vào đầu tư công và nợ công:

Việt Nam là quốc gia có mô hình tăng trưởng kinh tế dựa nhiều vào

64

việc tăng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng đầu tư toàn xã hội liên tục

tăng qua các năm gần đây. Năm 2010, vốn đầu tư xã hội đạt 830,3 ngàn tỷ

VNĐ tăng 17,1% so với năm 2009, tương đương khoảng 41,9% GDP. Trong

đó, đầu tư công chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Đầu tư công lớn nhưng hiệu quả lại không cao, đầu tư dàn trải. Trong

những năm qua, Việt Nam đã đầu tư công với 20 cảng biển quốc tế; 22 sân bay

dân dụng... Cả nước có 27 tỉnh có bờ biển thì đã có tới 266 cảng biển lớn nhỏ,

tức là trung bình mỗi tỉnh có tới gần 10 cảng, 4 khu công nghiệp. Tuy nhiên, trừ

một số địa phương trọng điểm thì tỉ lệ hàng hóa cập cảng, lượng khách đi và đến

sân bay đều không cao…. nhiều dự án được phê duyệt nhưng không có sự thẩm

định kỹ lưỡng dẫn đến chậm tiến độ, dừng tiến độ hay bỏ lửng.

Trong giai đoạn từ 2001-2010, tổng đầu tư toàn xã hội của Việt Nam

thuộc vào diện cao nhất thế giới, trung bình đạt 40,8% GDP và có tốc độ tăng

18,7% mỗi năm. Trong đó, tỉ trọng đầu tư công, mặc dù có xu hướng giảm

trong vài năm gần đây, nhưng vẫn đứng ở mức xấp xỉ 40% trong tổng đầu tư

toàn xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa

đất nước, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế thì nước ta còn phải dựa nhiều vào

nguồn vốn vay cả trong nước và nước ngoài.

Trong những năm gần đây tỉ lệ đầu tư/GDP của nước ta là khoảng 40%

GDP. Trong đó có từ 27-30% là từ nguồn vốn trong nước, hơn 10% là từ

dòng vốn bên ngoài (FDI, ODA, FPI) và các nguồn vốn vay khác. Nếu nguồn

vốn vay này bị suy giảm thì cũng có khả năng ảnh hưởng tới các hoat động

kinh tế của Việt Nam nếu không có biện pháp kiểm soát.

Ngày 21/10/ 2014, thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội và ngân sách

năm 2014, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh đã giải thích thêm về tình

hình nợ công và phương hướng trả nợ những năm tới.

Phó Thủ tướng nói: “Đúng là nợ công tăng cao. Thu ngân sách vẫn tăng,

65

vượt so với kế hoạch, tăng so với năm trước nhưng cân đối tài chính ngân sách

gặp khó (…). Chi ngân sách, đặc biệt chi thường xuyên tăng nhanh hơn thu,

thành ra các chính sách an sinh xã hội vẫn phải ban hành ra, dẫn tới tình trạng

chi đầu tư khó khăn, vì cơ cấu chi thường xuyên vẫn giữ, chi ngân sách không

tăng lên như kế hoạch. Nghị quyết Đại hội Đảng có 3 đột phá, nói ngắn gọn là

đột phá về thể chế, hạ tầng và giáo dục – khoa học. Sau khi thể chế hóa đường

lối, Trung ương có nghị quyết riêng về thực hiện chiến lược đột phá về hạ tầng,

và sau đó Chính phủ trình lên Quốc hội, trong đó có 2 dự án rất lớn là đường

quốc lộ 1 cũ và đường 14. Trong bối cảnh chúng ta đang phát hành trái phiếu

giai đoạn 2011-2015 với khoảng 225.000 tỉ đồng, thì cuối năm 2013, đầu năm

2014 lại phát hành thêm 170.000 tỉ đồng giai đoạn 2014-2016, trong đó chủ yếu

2 con đường kia. Đó chính là nguyên nhân tăng nợ công”.

3.2.3.2 Thâm hụt ngân sách tăng

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008,

trong những năm gần đây nguồn thu cho ngân sách bị sụt giảm đáng kể.

Nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp, công ty….đều gặp rất nhiều khó khăn nên

khó duy trì được nhịp độ sản xuất, kinh doanh như cũ nên phần đóng góp

cho ngân sách cũng bị hạn chế hơn. Để kích thích kinh tế, Chính phủ đã

thực hiện hàng loạt các giải pháp nhằm kích cầu đầu tư cũng như kích cầu

tiêu dùng. Các hoạt động sản xuất, tiêu dùng đã dần dần được khôi phục

lại, tuy nhiên bên cạnh đó thì tỷ lệ nợ công của Việt Nam cũng gia tăng

đáng kể, từ chiếm 36,2% GDP năm 2008 lên 41,9% năm 2009 và đến năm

2013 con số này đạt 56,2%.

Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm

chí có một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác

nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt

giảm hoặc loại bỏ theo theo quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO)

66

và các thỏa thuận thương mại khác khi họ tham gia. Nguồn thu ngân sách phụ

thuộc nhiều vào thu từ thuế xuất nhập khẩu và bán dầu thô nên khi có sự biến

động giá thì ngân sách nước ta không bền vững, ảnh hưởng lớn đến việc thực

hiện mực tiêu giảm tỉ lệ thâm hụt ngân sách.

Thêm vào đó, Chính sách tiền tệ và tài khóa chặt chẽ áp dụng kể từ

năm 2011 đã đạt được mục tiêu ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát song cũng

có mặt trái là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm đi. Sự sụt giảm của tăng

trưởng làm giảm nguồn thu ngân sách. Trong khi đó các khoản chi lại tăng lên

theo các năm, đặc biệt là chi thường xuyên đã làm gia tăng gánh nặng cho

ngân sách nhà nước. Sáu tháng đầu năm 2014, bội chi NSNN ước đạt hơn

78.800 tỷ đồng.

Bảng 3.8: Chi ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực sự nghiệp

Đơn vị tính: tỷ VNĐ

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010

Tổng chi ngân sách 308,058 380,785 452,766 491,300 582,200

Chi thường xuyên 161,852 204,746 252,375 269,300 335,560

Trong đó:

Giáo dục & đào tạo 37,332 43,997 53,560 67,330 84,700

Khoa học & công 2,540 2,933 3,191 4,390 5,090

nghệ

Y tế 18,585 23,280 27,463 35,040 44,501

So với tổng chi ngân 58,3 60,0 62,6 61,7 65,2

sách nhà nước (%)

Nguồn: Bộ tài chính 2010

Thâm hụt ngân sách giai đoạn 2003- 2007 là 1,3% GDP nhưng đã

tăng lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008- 2012. Để bù đắp bội chi ngân sách

67

thì nước ta phải vay từ hai nguồn: trong nước và nước ngoài. Tỉ lệ tiết kiệm

nội địa chỉ là khoảng 27% GDP nên chính phủ phải đi vay từ bên ngoài nhiều

hơn cho nên nợ công sẽ ngày càng gia tăng hơn nữa.

3.2.3.3. Thời gian đáo hạn các khoản vay nợ ngày càng gần

Theo báo cáo của Chính phủ, mức bội chi và phát hành thêm trái phiếu

Chính phủ không vượt quá trần nợ công đến năm 2015 là 65% GDP. Tuy

nhiên, Ủy ban Tài chính ngân sách nhận thấy, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ

đang có xu hướng tăng. Càng gần tới năm 2015 thì sức ép về thời hạn và

cường độ trả nợ càng cao. Mặc dù hầu hết các khoản nợ là vay nước ngoài với

lãi suất thấp, thời gian ân hạn dài nhưng hiện nay chúng ta đang bắt đầu trả

nợ. Bởi vì các khoản vay nợ này bắt đầu từ năm 1993-1995, đến nay đã được

20 năm, tức là bắt đầu thời gian phải trả nợ gốc.

Nhưng điều quan trọng là, trong khi nợ công nước ngoài, chủ yếu thông

qua các khoản vay ODA có lãi suất thấp, thời gian trả nợ kéo dài, không phải

quá đáng ngại, thì khoản nợ vay trong nước thường có lãi suất cao. Áp lực trả

nợ cho các khoản vay này mới là điều cần phải bàn tới. Áp lực sẽ càng lớn

hơn khi những năm gần đây, kinh tế khó khăn, thu ngân sách cũng khó. Thậm

chí, việc vay tiếp để trả nợ đã được đề cập tới.

3.2.3.4 . Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa hiệu quả

Được định hướng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN đã

nhận được nhiều sự ưu đãi của Chính phủ ở mọi góc độ tiếp cận tín dụng, đất

đai, khai thác tài nguyên, tiếp cận thị trường, bảo hộ độc quyền.... Đặc biệt,

trong số các DNNN thì các tập đoàn kinh tế Nhà nước đã nhận được sự hậu

thuẫn lớn của Chính phủ với kì vọng đưa khối doanh nghiệp này trở thành

những mũi nhọn của nền kinh tế. Tuy nhiên, thay vì tập trung vào các hoạt

động kinh doanh cốt lõi, nhiều tập đoàn lại thực hiện đầu tư dàn trải vào các

ngành nghề kinh doanh không phải thế mạnh của mình, bao gồm đầu tư tài

68

chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, khai thác khoáng sản, xây

dựng, thương mại, khu nghỉ dưỡng... Bên cạnh đó là sự quản lý kém hiệu quả

đối với các doanh nghiệp này đã dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn lên đến hàng

chục nghìn tỉ đồng mà điển hình là vụ vinashin.

Nợ của doanh nghiệp nhà nước phần lớn tập trung vào các tập đoàn và

tổng công ty nhà nước. Mặc dù số lượng chỉ có 105 doanh nghiệp, nhưng các

tập đoàn và tổng công ty nhà nước có tổng số nợ phải trả là 1.349 ngàn tỉ

đồng, chiếm khoảng hơn 80% tổng nợ của DNNN.

Theo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội ngày 25/11/2013, tổng nợ

của doanh nghiệp nhà nước tính đến 31/12/2012 là gần 1.682 ngàn tỉ đồng.

Trong đó, nợ của các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

là gần 1.550 ngàn tỉ đồng, tương đương 52,5% GDP. Nhiều doanh nghiệp có

nợ nước ngoài lớn như tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) nợ 112,6 ngàn tỉ

đồng, Vietnam Airlines nợ 27,8 ngàn tỉ đồng, tổng công ty Đầu tư Phát triển

đường cao tốc nợ 14,3 ngàn tỉ đồng, tổng công ty Cảng Hàng không nợ 7,5

ngàn tỉ đồng, tập đoàn bưu chính- viễn thông (VNPT) nợ 6,9 ngàn tỉ đồng...

Khi các doanh nghiệp này gặp khó khăn thường được Chính phủ hỗ trợ

dưới các hình thức bổ sung vốn, giãn nợ, chuyển nợ, xóa nợ… Nguồn vốn

này được rút ra từ ngân sách. Để bù đắp phần chi tiêu ngân sách cho khu vực

doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước sẽ buộc phải phát hành trái phiếu. Chính vì

thế, rủi ro tài khóa và nợ công của Việt Nam càng trở nên trầm trọng khi nếu

hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục như

những năm vừa qua.

3.3.3.5 Khả năng quản lý còn yếu kém

Nạn quan liêu, tham nhũng với việc sử dụng không hợp lý nguồn vốn

công, mang tính dàn trải, chậm tiến độ, thất thoát và lãng phí lớn đi kèm với

sự quản lý lỏng lẻo dẫn đến việc cả những khoản vốn được sử dụng cũng

69

chưa mang lại kết quả như mong đợi. Hậu quả là thâm hụt tài khóa, nợ đọng

xây dựng cơ bản của chính quyền địa phương và nợ của khối doanh nghiệp

Nhà nước mà Chính phủ có nguy cơ phải đứng ra trả nợ thay. Điển hình có

thể kể đến trường hợp của các tập đoàn nhà nước lớn như các tập đoàn

Vinashin, Vinalines, hay hiện tượng nhiều địa phương xây dựng cảng biển,

sân bay, trung tâm thương mại, khu công nghiệp, sân golf...

Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong vấn đề nợ công còn

chưa rõ ràng. Ông Đặng Văn Thanh, chủ tịch hội kế toán và kiểm toán Việt

Nam đã chỉ ra điểm bất cập trong quản lý nợ công nước ta là: “Ở Việt Nam có

cái rất đặc biệt, là đôi khi người đi vay không phải là người trả nợ, và người

trả nợ không phải là người đi vay” nên “ Các đầu mối về quản lý nợ công

không có, dẫn đến tình trạng trách nhiệm trong quản lý nợ công vẫn chưa rõ”.

Khu vực Chính phủ chưa được tách bạch ra khỏi phần còn lại của khu

vực công và phần còn lại của nền kinh tế. Chính sách và vai trò quản lý của

khu vực công chưa được công khai cụ thể. Do quản lý nợ công chưa chặt chẽ

nên tỷ lệ thất thoát của các công trình đầu tư nhà nước được thừa nhận không

chính thức là từ 15% đến 45%. Với số nợ nước ngoài thống kê chính thức là

29 tỷ USD, có thể thấy phần thất thoát tài sản Nhà nước là không nhỏ, từ 4 tỷ

USD đến khoảng 10 tỷ USD.

3.3.3.6. Cách tính mức nợ công chưa thống nhất

Theo cách định nghĩa của Luật Quản lý nợ công năm 2009, nợ công

bao gồm ba loại chính là nợ chính phủ, nợ chính quyền địa phương và nợ do

Chính phủ bảo lãnh. Ba loại nợ này xác định những trách nhiệm trả nợ trực

tiếp của Chính phủ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, theo thông lệ

quốc tế, cách quy định nợ công của Việt Nam hiện nay là chưa đầy đủ, thể

hiện ở những điểm sau:

- Nợ công không tính đến các khoản nợ của doanh nghiệp do Nhà nước

70

nắm 100% vốn hoặc nắm vốn chi phối. Thực tế, trong cách định nghĩa phổ

biến về nợ công của những tổ chức quốc tế uy tín (IMF, OECD hoặc WB) thì

những khoản nợ này được xếp vào nợ công vì khác với các doanh nghiệp

thuộc sở hữu tư nhân, cuối cùng thì Nhà nước cũng phải đảm bảo khả năng trả

nợ cho các doanh nghiệp mà Nhà nước có 100% vốn hoặc vốn chi phối nhằm

đảm bảo an sinh và trật tự xã hội, cho dù về mặt pháp lý, đây cũng chỉ là những doanh nghiệp thông thường24. Về thực tiễn, các doanh nghiệp này là

những chủ thể dễ dàng nhất tiếp cận được với các nguồn vốn tài trợ thông qua

các hoạt động huy động vốn. Bên cạnh đó, với phương châm kinh tế nhà nước

giữ vai trò chủ đạo, việc để các khoản nợ của doanh nghiệp do Nhà nước nắm

100% hoặc vốn chi phối ra khỏi nợ công sẽ làm các nhà tài trợ kém tin tưởng

hơn vào khả năng quản lý nợ và trả nợ của Việt Nam.

- Các khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam không được xếp

vào nợ công là không hợp lý. Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập

theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính

phủ để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu

của Nhà nước theo quy định của Chính phủ. Về bản chất, Ngân hàng Phát

triển Việt Nam không phải là doanh nghiệp, vì nó hoạt động phi lợi nhuận,

đồng thời nó cũng không phải là ngân hàng theo đúng nghĩa vì nó không phải

thực thi các nghĩa vụ tài chính như các ngân hàng thương mại thông thường.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh

toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định

của pháp luật. Thực chất, các khoản huy động của Ngân hàng Phát triển Việt

Nam được xem như là thay mặt Chính phủ, do đó cần xác định đây là nợ công

nhằm đảm bảo thông tin đầy đủ về nợ công ở Việt Nam.

Bàn về cách tính nợ công của Việt Nam là đã chính xác hay chưa thì

71

TS. Bùi Đức Thụ, Ủy viên thường trực ủy ban tài chính – ngân sách của Quốc

hội đã khẳng định nợ công của Việt Nam được tính toán đúng theo thông lệ

quốc tế.

TS Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

cho biết: "Hiện nay, chúng ta không có chuẩn mực nào để đánh giá là nợ công

của Việt Nam đang ở ngưỡng nào, nguy hiểm, không nguy hiểm hay an toàn.

Tất cả điều đó chỉ có tính chất là giả định".

Có nhiều quan điểm lại cho rằng cách tính nợ công của Việt Nam khác

thế giới rất nhiều. Nợ công của Việt Nam chỉ nói đến nợ của Chính phủ và bộ

máy công quyền mà không tính nợ của doanh nghiệp nhà nước, các xí nghiệp

công ích mà nhà nước phải chịu trách nhiệm, bảo hiểm xã hội. Vì vậy có số

liệu báo cáo nợ công chiếm 54% GDP ( năm 2013) , thì có nguồn tính ra lên

tới 106% GDP. Còn năm nay con số 64% cũng chưa thể khẳng định đây là

con số chính xác của nợ công Việt Nam.

Bảng 3.9: Nợ công Việt Nam theo định nghĩa Việt Nam và định

nghĩa quốc tế (2012)

Tỉ đồng %GDP

Nợ công theo định nghĩa Việt Nam 1.391.478 55

Nợ chính phủ 1.095.654 43,1

Nợ được chính phủ bảo lãnh 285.124 11,3

Nợ chính quyền địa phương 19.699 0,6

Nợ công theo định nghĩa quốc tế 2.683.878 106

Nguồn: Báo cáo chính phủ 10/2012

Như vậy, việc tính toán tỉ lệ nợ công của Việt Nam còn chưa có sự

thống nhất, có rất nhiều kết quả được đưa ra nên rất khó trong việc đánh giá

đúng thực trạng nợ công để tìm các giải pháp kiểm soát nợ cũng như trả nợ có

72

hiệu quả.

3.3. Những bài học kinh nghiệm của thế giới nhằm tránh khủng

hoảng nợ công cho Việt Nam trong tương lai.

Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới, đặc biệt là cuộc

khủng hoảng nợ công Châu Âu đã có những tác động mạnh mẽ đến Việt

Nam. Nguyên nhân, tác động của cuộc khủng hoảng và việc biện pháp các

Chính phủ đang thực hiện để thoát ra khỏi tình trạng này là một bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam.

3.3.1 Tăng nguồn thu ngân sách, cắt giảm chi tiêu công.

Nguồn thu ngân sách Việt Nam được đánh giá là có tính ổn định cao.

Theo các báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước giai đoạn 2003-2010 thì thu

ngân sách nhà nước luôn dao động trong khoảng từ 25-30% GDP. Các nguồn

thu ngân sách bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, thu về vốn, thu viện trợ

không hoàn lại. Trong đó, nguồn thu từ thuế và phí là chủ yếu. Mặc dù có

nguồn thu ngân sách ổn định nhưng các khoản thu này lại chưa đáp ứng được

nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt là đầu tư

cho xây dựng cơ sở hạ tầng.

Theo số liệu của Ngân hàng Châu Á (ADB) (2012) thể hiện chi tiêu

công của Việt Nam cũng gần tương đương với nguồn thu ngân sách, vào

khoảng trên dưới 30%GDP. Với con số này thì chi tiêu công của nước ta cao

hơn hẳn so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia,Ấn Độ…

và xấp xỉ với Malaysia, Trung Quốc.

Vì vậy, nếu Việt Nam có thể cắt giảm, phân bổ lại các khoản chi và gia

tăng nguồn thu một cách hợp lí, hiệu quả thì có thể giảm bớt gánh nặng thâm

hụt ngân sách của mình.

Trong việc lựa chọn các dự án đầu tư thì Chính phủ cần cân nhắc đến

các dự án có tính khả thi, khả năng giải ngân nhanh chóng và đó phải là các

73

dự án cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tiếp tục

thực hiện tư nhân hóa một số bộ phận cung cấp hàng hóa công cộng như giáo

dục, giao thông công cộng…; Thực hiện việc cắt giảm bộ máy hành chính nhà

nước cồng kềnh để có thể giảm một phần trong khoản chi thường

xuyên…Nhà nước tiếp tục thực hiện tăng nguồn thu thông qua đánh thuế như

thuế đường bộ, thuế thu nhập cá nhân…...

Hiện nay Việt Nam chưa rơi vào khủng hoảng giống như các nước ở

Châu Âu, song việc gia tăng nguồn thu hay cắt giảm chi tiêu công cần phải

xây dựng theo lộ trình và thực hiện một cách thận trọng.

3.3.2 Nâng cao hiệu quả huy động, và sử dụng vốn vay

Cần phải nhận định đánh giá lại các dự án đầu tư để tăng cường hiệu

quả sự dụng vốn và hiệu quả đầu tư. Trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay

cần phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài

hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có

khả năng thu hồi vốn trực tiếp và đảm bảo khả năng trả nợ. Đồng thời kiểm

tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các

khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp

vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước, ngân hàng thương mại,

các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.

Hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn thu

bền vững, hiệu quả và công bằng. Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh

giảm một cách hợp lý, có lộ trình cụ thể. Trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế, trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế và các cam kết hội nhập, chúng

ta cần phải cải cách hệ thống thuế bảo đảm định hướng ưu tiên, thúc đẩy các

ngành, các lĩnh vực kinh tế có khả năng cạnh tranh, các ngành, lĩnh vực mũi

nhọn của nền kinh tế, song cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Như vậy,

sẽ tạo sự công bằng và khuyến khích phát triển kinh tế theo định hướng trên

74

cơ sở để tạo nguồn thu bền vững.

Thực tế trong việc sử dụng vẫn còn tình trạng vốn điều chỉnh chưa

được tập trung nhiều cho những công trình trọng điểm, cấp bách, các dự án có

khối lượng hoàn thành cần được bố trí vốn để sớm bàn giao đưa vào sử dụng.

Nhiều dự án còn đang thi công dở dang, có khối lượng lớn cần có vốn để bảo

đảm đúng tiến độ. Trong khi đó, một số Bộ, ngành, địa phương vẫn tiếp tục

bố trí vốn để khởi công thêm nhiều dự án mới làm tăng mức độ dàn trải, thiếu

hiệu quả và khó khăn trong công tác quản lý.

Vay cho cân đối NSNN phải đảm bảo kiểm soát chặt chẽ, phải bù đắp

được mức bội chi trong hạn mức của Chính phủ. Tập trung vào các nguồn vay

ưu đãi, vay viện trợ, hạn chế các khoản vay thương mại nước ngoài với lãi

suất cao, vay ngắn hạn để bù đắp cho chi ngân sách thường xuyên.

Kiểm soát các khoản vay cho vay lại của Chính phủ và các khoản bảo

lãnh. Nếu Chính phủ không đánh giá kỹ lưỡng các dự án, phương thức sử

dụng vốn của doanh nghiệp thì khả năng xảy ra càng lơn hơn, tạo ra gánh

nặng trả nợ cho NSNN. Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần

hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của

Nhà nước có hiệu quả, có khả năng trả nợ trực tiếp hoặc thuộc các lĩnh vực ưu

tiên cao của quốc gia.

3.3.3 Hoàn thiện bộ máy quản lý, tăng cường giám sát và quản lý rủi

ro nợ công.

Cần thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu về an toàn nợ và ngưỡng an toàn

nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản

vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng

kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính,

quỹ tích lũy để trả nợ…

Cần phải đánh giá một cách toàn diện tính hiệu quả của các khoản chi

75

tiêu công ở các lĩnh vực khác nhau chứ không chỉ nhìn thuần túy vào con số

tăng hay giảm, tránh mắc sai lầm cắt giảm đồng loạt các khoản chi tiêu theo

một tỉ lệ cố định .

Cần thực hiện hạch toán nợ theo chuẩn mực quốc tế. Đối với nợ nước

ngoài, cần áp dụng các tiêu chuẩn giám sát nợ theo thông lệ quốc tế nhằm duy

trì giới hạn nợ ở mức an toàn. Giảm vay nợ cho các chương trình không hiệu

quả, quản lý chặt chẽ vay nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Tổ

chức thực hiện thanh toán trả nợ, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để

phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế.

Tiếp tục khắc phục những tồn tại của Luật quản lý nợ công, hoàn thiện

khung pháp lý đối với các hoạt động vay, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công

và nợ nước ngoài của quốc gia. Đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,

việc tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng vốn vay. Việc huy động các

nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài của Chính phủ cần được thực hiện

trên cơ sở tiến độ giải ngân, tránh đọng vốn…

Chính Phủ thống nhất giao trách nhiệm cho một cơ quan chuyên trách

là Bộ tài chính, đồng thời có những sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo cho cơ

quan này hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Xây dựng lộ trình quản lý và sử dụng nợ công một cách hoàn thiện,

phải có kế hoạch định hướng rõ ràng, phù hợp với bối cảnh hiện tại của đất

nước. Xây dựng các chương trình vay nợ với thời hạn hợp lí để tổ chức huy

động, sử dụng vốn vay với chi phí và mức rủi ro phù hợp.

Việt Nam cũng cần thuê các chuyên gia có chuyên môn cao để cùng

các chuyên gia trong nước nghiên cứu và đánh giá toàn diện vấn đề nợ công

nhằm kiểm soát nợ công luôn nằm trong ngưỡng an toàn.

3.3.4. Công khai, minh bạch hóa thông tin trong quản lý nợ

Công khai, minh bạch các thông tin về ngân sách nhà nước và nợ công là

76

điều hết sức cần thiết trong việc quản lý thâm hụt ngân sách cũng như xử lí các

khoản nợ công. Việt Nam có thể tham khảo các nguyên tắc chủ đạo định hướng

hoạt động này ở Cẩm nang minh bạch tài khóa do IMF đưa ra năm 2007.

Về mặt pháp luật, Năm 2010 Việt Nam mới có luật quản lí nợ công tuy

nhiên các nội dung quy định trong luật còn chung chung, chưa cụ thể. Các

phương pháp tính toán nợ công chưa có sự thống nhất nên các chỉ số về rủi ro

chưa có độ tin cậy cao. Thêm vào đó, hệ thống thông tin, số liệu, báo cáo và

minh bạch thông tin về nợ công chưa đảm bảo tính đầy đủ và cập nhật theo

tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã phát hành bản tin nợ nước ngoài

nhưng mới chỉ mang tính chất thống kê số liệu và thời gian phát hành các bản

tin là mỗi năm một lần.

Bộ tài chính cũng đã phát hành bản tin nợ công và được đánh giá như

một bước đi quan trọng trong lộ trình minh bạch hóa thông tin nợ, tránh được

những nguồn tin không chính thức, sai lệch về tình hình nợ công của Việt

Nam. Tuy nhiên bản tin này cũng chưa được phát hành thường xuyên. Bản tin

nợ công số 1 được phát hành vào tháng 2/2013, bản tin số 2 được phát hành

vào tháng 10/ 2013, như vậy là tình hình nợ công vẫn chưa được cập nhật kịp

thời, liên tục. Như vậy, để quản lí nợ công ở Việt Nam có hiệu quả cần phải

nhanh chóng cải thiện những tồn tại kể trên.

Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc quản lý, kiểm soát,

xử lí nợ công được rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ công của các quốc gia trên

thế giới và từ thực trạng nợ công của Việt Nam.Việc nhìn nhận, đánh giá

đúng những khó khăn, tồn tại cũng như nhanh chóng đưa ra các giải pháp phù

hợp sẽ giúp Việt Nam kiểm soát được nợ công của mình nằm trong ngưỡng

nợ an toàn, tránh được nguy cơ của một cuộc khủng hoảng nợ công và đảm

77

bảo sự phát triển bền vững của quốc gia.

KẾT LUẬN

Qua những phân tích của luận văn có thể rút ra một số kết luận:

1. Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, Nợ công là vấn

đề mà bất cứ quốc gia nào cũng gặp phải từ những quốc gia phát triển nhất

đến những quốc gia đang phát triển, kém phát triển. Nợ công là để đầu tư cho

phát triển, song không phải nước nào cũng đạt được mục tiêu này. Nợ công

không đi kèm với khả năng thanh toán nợ thì nền kinh tế rất dễ bị lung lay,

sụp đổ. Thực tế thời gian vừa qua đã chứng minh rằng các quốc gia cần có

một chiến lược vay nợ, sử dụng vốn vay và trả nợ thích hợp.

2. Việt Nam là quốc gia đang phát triển nên rất cần đến các khoản vay

nợ công để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tuy

nhiên trong những năm vừa qua hiệu quả đầu tư các khoản vốn vay lại chưa

thực sự hiệu quả. Đầu tư còn dàn trải, các công trình thực hiện lâu nên giải

ngân các khoản vốn chậm. Ngoài ra việc quản lý nợ công ở nước ta còn gặp

rất nhiều khó khăn về mặt hành chính, về việc tiếp cận các cách đánh giá và

áp dụng các tiêu chuẩn của quốc tế về nợ công…..

3. Để khắc phục tình trạng trên luận văn đã rút ra một số bài học kinh

nghiệm như: Tăng nguồn thu ngân sách, cắt giảm chi tiêu công; Nâng cao

hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay; Hoàn thiện bộ máy quản lý, tăng

cường giám sát và quản lý rủi ro nợ công; Công khai minh bạch hóa thông tin

78

trong quản lý nợ công.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Thanh Bình (2013), Vấn đề nợ công của một số nước trên thế

giới và hàm ý chính sách đối với Việt Nam, NXB khoa học xã hội.

2. Phạm Thị Thanh Bình và Lê Minh Tâm (2011), “ Nợ công Hy Lạp:

Nguyên nhân và thực trạng”, Tạp chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế

giới, Số 6, tr 17.

3.Vũ Cương (2002), Kinh tế và tài chính công, NXB Thống kê

4. Chu Đức Dũng và Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Khủng hoảng nợ

công trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại- Bộ tài chính (2011), Bản tin nợ

nước ngoài số 7.

6. Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại- Bộ tài chính (2013), Bản tin nợ

công số 01.

7. Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại- Bộ tài chính (2013), Bản tin

nợ công số 02.

8. Phạm Văn Dũng (2011), Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Đức Độ (2009), “Giới hạn tăng trưởng của nền kinh tế Việt

Nam”, Tạp chí tài chính, Số 10, tr 41-43.

10. Đại học kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội (2012), Chính sách công

và phát triển bền vững, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Phạm Văn Khoan, Hoàng Thị Thúy Nguyệt(2010), Giáo trình quản

lý tài chính công, NXB tài chính.

12. Đỗ Hoàng Linh (2014), Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học

79

kinh nghiệm đối với Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Lê Chi Mai (2011), Quản lí chi tiêu công, NXB chính trị quốc gia-

sự thật.

14. Đỗ Đức Minh (2006), Tài chính Việt Nam 2001-2010,NXB tài

chính.

15. Bùi Đường Nghiêu (2009), Phân tích mức độ bền vững của ngân

sách ở Việt Nam và dự báo đến năm 2020, NXB tài chính.

16. Nguyễn Quốc Nghi (2011), “Luận bàn về vấn đề nợ công ở Việt

Nam”, Tạp chí nghiên cứu tài chính – marketting, Số 06, tr 37-41.

17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật

ngân sách nhà nước, Số: 01/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002.

18.Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật

quản lý nợ công, Luật số: 29/2009/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2009.

Website:

19. www.baodientuchinhphu.vn

20. www. chinhphu.vn

21. www.gso.gov.vn

22. www.kiemtoannn.gov.vn

23. www.mof.gov.vn

24. www.tapchitaichinh.vn

25. www.tapchicongsan.org.vn

26. www.vneconomy.vn

27.www.vietnamnet.vn

80

28. vepr.ueb.edu.vn

81

82

83