Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 58 - 62<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
KIỂM ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM<br />
Thân Thị Thu Thủy1 và Lê Thị Thu Hồng2<br />
1<br />
<br />
TS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh<br />
ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
2<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 03/03/14<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
16/05/14<br />
Ngày chấp nhận đăng:<br />
30/07/14<br />
Title:<br />
An investigation of the causal<br />
relation between gold price<br />
and inflation in Vietnam<br />
Từ khóa:<br />
Kiểm định Granger, giá vàng,<br />
lạm phát<br />
<br />
ABSTRACT<br />
This paper investigates the causal relationship between gold price and inflation<br />
in Vietnam. It employs monthly data of the inflation rate and the gold price from<br />
January 2000 to December 2013. The result of Granger test reveals that there is<br />
a correlation between inflation and gold price in the economy of Vietnam.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu nghiên cứu này là kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa sự biến động<br />
giá vàng và lạm phát tại Việt Nam. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu bao gồm<br />
chuỗi chỉ số lạm phát và chỉ số giá vàng theo thời gian với tần suất tháng, được<br />
thu thập trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2013. Sử<br />
dụng kiểm định Granger, kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của lạm phát<br />
có ảnh hưởng đến giá vàng. Ngược lại, sự biến động giá vàng cũng tác động đến<br />
lạm phát.<br />
<br />
Keywords:<br />
Granger testing, gold prices,<br />
inflation<br />
<br />
do yếu tố tâm lý làm cho người dân đổ xô đi mua<br />
vàng, làm cho cầu tăng, cung không đáp ứng, dẫn<br />
đến nạn nhập lậu vàng xảy ra. Bên cạnh đó, diễn<br />
biến lạm phát trong giai đoạn này cũng phức tạp,<br />
năm 2008 lạm phát ở mức 19.87%, giảm xuống<br />
còn 6.52% vào năm 2009, sau đó có đà tăng lên<br />
năm 2010 là 11.75% và tiếp tục tăng lên 18.13%<br />
trong năm 2011. Do đó, nhóm nghiên cứu tập<br />
trung kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và giá<br />
vàng tại Việt Nam nhằm cung cấp các luận cứ<br />
khoa học để giúp các nhà làm chính sách xây<br />
dựng các chính sách góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Bắt đầu từ năm 2001 là thời kỳ khởi đầu của chu<br />
kỳ tăng giá vàng dài nhất trong vòng 3 thập kỷ<br />
qua. Nếu như mức giá vàng thế giới trong giai<br />
đoạn 1991-1995 và 1996-2000 giảm lần lượt là 1.44% và -29.65% thì giai đoạn 2001-2005 tăng<br />
mạnh đến 90.04%. Trong vòng 2 năm 2006-2007<br />
giá vàng thế giới liên tục tăng cao từ 517.2<br />
USD/oz lên 833.2 USD/oz, tương đương 61%.<br />
Năm 2008, thế giới chứng kiến sự bứt phá chưa<br />
từng thấy của giá vàng đã phá vỡ các kỷ lục cũ<br />
khi ngày 17/03/2008 giá vàng tăng đột biến lên<br />
1,032 USD/oz. Trong điều kiện nền kinh tế Việt<br />
Nam hội nhập với thế giới và trong điều kiện<br />
thông tin hiện đại đã khiến cho giá vàng tại Việt<br />
Nam cũng tăng nhanh. Do vàng ở Việt Nam chủ<br />
yếu là từ nguồn nhập khẩu, giá vàng Việt Nam<br />
liên thông với giá vàng thế giới thông qua tỷ giá<br />
USD. Tuy vậy, mức tăng của giá vàng Việt Nam<br />
có lúc vượt xa mức tăng của giá vàng thế giới là<br />
<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Trong nghiên cứu này, kiểm định Granger<br />
(Granger causality test) được sử dụng để xác định<br />
mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và giá vàng<br />
tại Việt Nam. Kiểm định Granger yêu cầu các<br />
chuỗi số liệu phải có tính dừng (stationary). Vì<br />
vậy, trước khi kiểm định Granger, kiểm định<br />
<br />
58<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 58 - 62<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
nghiệm đơn vị (unit root test) được sử dụng để<br />
kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu này.<br />
Kiểm định nghiệm đơn vị nghĩa là kiểm định<br />
đồng liên kết (Gujarati, 1999) cho rằng mặc dù<br />
các chuỗi thời gian không dừng nhưng rất có thể<br />
vẫn còn tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa<br />
chúng nếu các chuỗi thời gian đó đồng liên kết –<br />
nghĩa là phần dư từ phương trình hồi quy của các<br />
chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng.<br />
<br />
Trong đó k: độ trễ (k=1,2,3,4,5,6); αi, λi: hệ số hồi<br />
qui thứ i của lạm phát; βi, δi: hệ số hồi qui thứ i<br />
của tỷ lệ giá vàng.<br />
Nếu αi khác không và có ý nghĩa thống kê, nhưng<br />
δ1 không có ý nghĩa thì chúng ta kết luận rằng sự<br />
biến động của Y là nguyên nhân gây ra sự biến<br />
động của X (uni-directional causality).<br />
<br />
Giả sử hồi quy Y theo X: Yt = β1+ β2Xt+ut (2.1)<br />
<br />
Nếu αi không có ý nghĩa thống kê, nhưng δ1 khác<br />
không và có ý nghĩa thống kê thì chúng ta kết luận<br />
rằng Y chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi của X<br />
(uni-directional causality).<br />
<br />
Hay có thể viết lại là : ut = Yt - β1 – β2Xt (2.2)<br />
Trong đó: X là tỷ lệ biến động giá vàng; Y là tỷ<br />
lệ lạm phát; β1 là hằng số; β2 là hệ số hồi qui; ut<br />
là phần dư.<br />
<br />
Nếu α1 và δ1 đều khác không và có ý nghĩa thống<br />
kê, thì chúng ta kết luận rằng X và Y tác động qua<br />
lại lẫn nhau (bi-directional causality).<br />
<br />
Vậy nếu như phần dư của phương trình hồi quy là<br />
một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy của phương<br />
trình (2.1) có ý nghĩa, tức không có hiện tượng<br />
tương quan giả. Trong trường hợp này, hai biến X<br />
và Y được gọi là đồng liên kết và hệ số ước lượng<br />
β2 được gọi là hệ số hồi quy đồng liên kết. Nói<br />
theo ngôn ngữ kinh tế học, hai biến đồng liên kết<br />
khi chúng có mối quan hệ dài hạn, hay ổn định<br />
với nhau. Như thế thì nếu kiểm định phần dư từ<br />
phương trình (2.1) và nhận thấy phần dư là dừng<br />
tức là có phân phối chuẩn, thì các kiểm định<br />
truyền thống vẫn áp dụng được cho chuỗi thời<br />
gian không dừng.<br />
<br />
Nếu α1 và δ1 đều không có ý nghĩa thống kê, thì<br />
chúng ta kết luận rằng X và Y là độc lập với nhau.<br />
Trong nghiên cứu này, Y là giá vàng, X là lạm<br />
phát, chiều dài độ trễ (k) trong kiểm định Granger<br />
được lựa chọn là 6 tháng theo kết quả nghiên cứu<br />
của Greg Tkacz - Ngân hàng Trung ương Canada<br />
ứng với trường hợp của Trung Quốc. Do Việt<br />
Nam và Trung Quốc có nhiều điểm khá tương<br />
đồng cả về chính sách cũng như tâm lý tích trữ<br />
vàng của người dân. (Trích trong Gold prices and<br />
inflation – Bank of Canada working paper, 2007-35).<br />
<br />
Để kiểm định đồng liên kết, người ta sử dụng<br />
kiểm định DF hoặc ADF theo các bước sau đây:<br />
<br />
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm<br />
chuỗi chỉ số lạm phát và chỉ số giá vàng theo thời<br />
gian với tần suất tháng, được thu thập trong<br />
khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2000 đến tháng<br />
12 năm 2013. Các chuỗi số liệu này được thu thập<br />
từ website của Tổng cục thống kê<br />
(wwww.gso.gov.vn) và Công ty TNHH MTV<br />
Vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC (www.sjc.com.vn).<br />
<br />
Hồi quy phương trình dạng như phương trình<br />
(2.1) và có được phần dư ut<br />
Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị cho phần dư<br />
ut. Nếu giá trị tuyệt đối |τ| tính toán lớn hơn giá trị<br />
tuyệt đối |τ| tra bảng thì phần dư là một chuỗi<br />
dừng, và vì thế phương trình (2.1) là phương trình<br />
hồi quy đồng liên kết. Lúc này có thể kết luận X<br />
và Y thực sự có mối quan hệ dài hạn.<br />
<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Do giá vàng Việt Nam liên thông với giá vàng thế<br />
giới qua tỷ giá USD nên nhóm nghiên cứu kiểm<br />
định tỷ giá USD/VND xem có phải là biến thừa<br />
trong mô hình không.<br />
<br />
Kiểm định Granger: được sử dụng trong nghiên<br />
cứu nhằm xác định mối quan hệ nhân quả giữa hai<br />
biến số. Phương trình hồi qui trong kiểm định<br />
Granger có dạng như sau:<br />
<br />
Bảng 1. Kết quả kiểm định tỷ giá USD/VND ảnh hưởng đến lạm phát và giá vàng tại Việt Nam<br />
Giả thuyết (H0)<br />
Tỷ giá tác động<br />
<br />
Giá trị<br />
<br />
59<br />
<br />
Xác suất<br />
<br />
1.287676<br />
<br />
Thống kê F<br />
<br />
Sai phân<br />
(6,143)<br />
<br />
0.2666<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 58 - 62<br />
đến lạm phát<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
Tỷ số ln hàm hợp lý<br />
<br />
6<br />
<br />
0.2021<br />
<br />
Thống kê F<br />
<br />
Tỷ giá tác động<br />
đến giá vàng<br />
<br />
8.524334<br />
1.163421<br />
<br />
(6,143)<br />
<br />
0.3293<br />
<br />
Tỷ số ln hàm hợp lý<br />
<br />
7.721053<br />
6<br />
(Nguồn: Tính toán từ phần mềm Eviews 7.0)<br />
<br />
Kết quả kiểm định cho thấy giá trị xác suất Prob.<br />
F(6,134) > α = 5%, chấp nhận giả thuyết H0, có<br />
nghĩa là các biến tỷ giá là những biến thừa trong<br />
<br />
0.2593<br />
<br />
mô hình, hay nói cách khác tỷ giá không tác động<br />
đến lạm phát, giá vàng.<br />
<br />
Bảng 2. Kết quả kiểm định đồng liên kết giá vàng và lạm phát<br />
Giả thuyết<br />
<br />
Vectơ đặc trưng<br />
<br />
Thống kê Trace<br />
<br />
Giá trị tới hạn 0.05<br />
<br />
Xác suất<br />
<br />
Không *<br />
<br />
0.177552<br />
<br />
34.45839<br />
<br />
15.4947<br />
<br />
0<br />
<br />
Tối đa 1 *<br />
0.015805<br />
2.596727<br />
(Nguồn : Tính toán từ phần mềm Eviews 7.0)<br />
<br />
3.84147<br />
<br />
0.1071<br />
<br />
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2 chỉ<br />
ra rằng giả thuyết H0 về tính không dừng của lạm<br />
phát và giá vàng cũng bị bác bỏ ở mức ý nghĩa<br />
5%. Kết quả này cho phép chúng ta kết luận rằng<br />
<br />
lạm phát, giá vàng là có tính dừng. Điều này có<br />
nghĩa là hai chuỗi số liệu này thỏa mãn điều kiện<br />
của kiểm định Granger.<br />
<br />
Bảng 3. Kết quả kiểm định quan hệ giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam<br />
Giả thuyết<br />
<br />
Giá trị<br />
<br />
Sai phân<br />
<br />
Xác suất<br />
<br />
Lạm phát tác động<br />
đến giá vàng<br />
<br />
Thống kê F<br />
<br />
61.75803<br />
<br />
(6, 149)<br />
<br />
0<br />
<br />
Tỷ số ln hàm hợp lý<br />
<br />
202.34010<br />
<br />
6<br />
<br />
0<br />
<br />
Giá vàng tác động<br />
lạm phát<br />
<br />
Thống kê F<br />
<br />
4.17940<br />
<br />
(6, 149)<br />
<br />
0.00070<br />
<br />
Tỷ số ln hàm hợp lý<br />
25.19875<br />
6<br />
(Nguồn : Tính toán từ phần mềm Eviews 7.0)<br />
<br />
Kết quả kiểm định cho thấy giá trị xác suất Prob.<br />
F(6,134) < α = 5%, bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa<br />
là chỉ số lạm phát và giá vàng không phải là<br />
<br />
0.00030<br />
<br />
những biến thừa trong mô hình, hay nói cách<br />
khác, sự tăng giảm của giá vàng có tác động đến<br />
lạm phát và ngược lại.<br />
<br />
Bảng 4. Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam<br />
Độ trễ (k)<br />
<br />
Xác suất (α)<br />
<br />
Giả thuyết (H0)<br />
Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát<br />
<br />
6<br />
<br />
Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng<br />
<br />
0.0000002<br />
0.0000100<br />
<br />
Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng<br />
<br />
0.0000020<br />
0.0000400<br />
<br />
Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng<br />
<br />
0.0000050<br />
<br />
Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát<br />
<br />
5<br />
<br />
0.0000400<br />
<br />
Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát<br />
<br />
4<br />
<br />
0.0000001<br />
<br />
Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát<br />
<br />
3<br />
<br />
Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng<br />
Giá vàng không có quan hệ nhân quả với lạm phát<br />
<br />
2<br />
<br />
0.0000010<br />
<br />
0.0001000<br />
<br />
Lạm phát không có quan hệ nhân quả với giá vàng<br />
(Nguồn : Tính toán từ phần mềm Eviews 7.0)<br />
<br />
0.0000200<br />
<br />
Với mức ý nghĩa α = 5%, kết quả kiểm định quan<br />
hệ nhân quả Granger giữa giá vàng và lạm phát<br />
cho thấy giá vàng và lạm phát có tác động qua lại,<br />
<br />
lạm phát tăng làm giá vàng tăng, hay giá vàng<br />
tăng cũng sẽ làm cho lạm phát tăng.<br />
<br />
60<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 58 - 62<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
4. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH<br />
<br />
Thành lập Trung tâm giao dịch vàng Việt Nam<br />
<br />
Kết quả kiểm định từ mô hình Granger đã chứng<br />
tỏ rằng giá vàng và lạm phát có mối quan hệ qua<br />
lại, giá vàng thay đổi làm ảnh hưởng đến lạm phát<br />
và ngược lại. Từ đó, nhóm nghiên cứu có một số<br />
khuyến nghị như sau:<br />
<br />
Việc Trung tâm giao dịch vàng quốc gia ra đời sẽ<br />
góp phần giảm thiểu tình trạng xuất, nhập lậu<br />
vàng. Khi có Trung tâm giao dịch thì giá vàng<br />
trong nước và thế giới sẽ liên thông với nhau, góp<br />
phần hình thành mức giá đồng nhất trên thị<br />
trường, tránh được tình trạng đầu cơ làm giá như<br />
hiện nay. Đây là nơi tập trung nhiều nhà đầu tư có<br />
nhu cầu mua và bán vàng, là nơi phản ánh trung<br />
thực, khách quan về giá cả, không để các doanh<br />
nghiệp tự công bố giá. Bên cạnh đó, Trung tâm<br />
giao dịch vàng có thể áp dụng các công cụ phái<br />
sinh, giúp nhà đầu tư phòng ngừa và kiểm soát<br />
các rủi ro trước biến động giá vàng. Nhà nước có<br />
thể huy động nguồn vốn lớn từ trong dân thông<br />
qua nghiệp vụ kinh doanh vàng trên tài khoản,<br />
giúp mở rộng thị trường vàng.<br />
<br />
Ổn định tâm lý người dân<br />
Các nhà điều hành kinh tế phải hướng đến mục<br />
tiêu làm cho người dân tin tưởng vào giá trị đồng<br />
nội tệ, sẽ không làm cho giá vàng tăng đột biến.<br />
Tâm lý lo sợ đồng tiền mất giá, tâm lý thiếu lòng<br />
tin vào đồng tiền VND trong lúc lo ngại giá vàng<br />
trong nước sẽ còn tăng nữa khiến nhu cầu vàng<br />
tăng mạnh trong khi nguồn cung có hạn, đã khiến<br />
thị trường chứng kiến các hiện tượng giá vàng<br />
tăng mạnh như trong thời gian qua. Có hai nguyên<br />
nhân khiến người dân theo các cơn sốt giá vàng.<br />
Thứ nhất là sức hấp dẫn trong lựa chọn đầu tư<br />
ngắn hạn của người dân đối với các tài sản có giá<br />
trị như vàng. Rất nhiều người hy vọng vào những<br />
cơn sốt để tạo sự chênh lệch giá cao để sinh lợi<br />
lớn. Tuy nhiên, chỉ có một bộ phận nhỏ chủ động<br />
đầu cơ là có lãi, còn lại đa số người dân bị cuốn<br />
vào dòng xoáy tâm lý là bị thua lỗ. Thứ hai, nhiều<br />
người dân vẫn quen tích trữ vàng như tài sản đảm<br />
bảo. Khi giá biến động, người dân sợ mất giá trị<br />
tài sản nên vội đổ ra mua bán gây xáo trộn thị<br />
trường, tạo nên cơn sốt vàng.<br />
<br />
Ngoài ra, hình thức kinh doanh này phù hợp với<br />
xu hướng quốc tế, làm giảm bớt nhu cầu kinh<br />
doanh vàng vật chất và tạo một kênh lưu thông<br />
hiệu quả giữa thị trường trong nước và thị trường<br />
thế giới. Ngoài hình thức giao dịch nhanh chóng,<br />
hình thức này còn khắc phục được các công đoạn,<br />
các chi phí phát sinh từ nhập đến lưu thông như<br />
vận chuyển, chế tác, bảo hiểm, lưu giữ vàng. Hình<br />
thức giao dịch này không chỉ khiến lượng vàng<br />
vật chất nhập về giảm đi, tiết kiệm được ngoại tệ<br />
và các chi phí cho xã hội, mà còn giúp các ngân<br />
hàng huy động, cân đối được nguồn vốn bằng<br />
vàng trong dân, từ đó góp phần làm minh bạch, rõ<br />
ràng, tập trung được các hoạt động giao dịch.<br />
<br />
Nhà nước cần dự trữ vàng hợp lý<br />
Vàng giữ vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại hối<br />
của quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát<br />
triển thì lượng vàng dự trữ có xu hướng tăng theo<br />
sự tăng lên của tổng dự trữ ngoại hối. Do đó, Việt<br />
Nam cần nghiên cứu việc tăng lượng vàng dự trữ<br />
tương ứng với mức tăng tổng dự trữ ngoại hối.<br />
Điều này sẽ giúp bình ổn giá cả và kiềm chế lạm<br />
phát bởi vì nếu dự trữ ngoại hối chỉ có ngoại tệ<br />
như USD thì nếu giá trị USD bị mất giá sẽ ảnh<br />
hưởng đến nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia. Tăng<br />
cường sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối<br />
với thị trường vàng cũng đồng nghĩa việc Ngân<br />
hàng Nhà nước kiểm soát tỷ giá và thị trường<br />
ngoại hối. Một khi điều hành được tỷ giá và thị<br />
trường ngoại hối linh hoạt, bình ổn được giá cả<br />
các mặt hàng nhập khẩu thì sẽ góp phần kiềm chế<br />
được lạm phát.<br />
<br />
Tuy trong phạm vi điều chỉnh của Nghị định<br />
24/2012/NĐ-CP có qui định về hoạt động kinh<br />
doanh vàng, bao gồm hoạt động sản xuất, gia<br />
công vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh<br />
doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt<br />
động kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động<br />
xuất khẩu, nhập khẩu vàng và các hoạt động kinh<br />
doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh<br />
doanh vàng trên tài khoản và hoạt động phái sinh<br />
về vàng. Nhưng đến hiện nay vẫn chưa có văn bản<br />
hướng dẫn việc thực hiện kinh doanh vàng trên tài<br />
khoản.<br />
Trước mắt, cơ quan chức năng cần xác định được<br />
các tiêu chí, điều kiện thành lập Trung tâm giao<br />
dịch vàng, một số nguyên tắc hoạt động đảm bảo<br />
cân đối quyền lợi giữa đơn vị quản lý trung tâm<br />
với các nhà đầu tư; nhận diện các dạng vi phạm<br />
<br />
61<br />
<br />
Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 58 - 62<br />
<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
và hướng xử lý, cơ quan có trách nhiệm xử lý vi<br />
phạm.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
Greg, T. (2007). Gold prices and Inflation. Bank of<br />
Canada working paper, 2007-35<br />
Phạm Minh Quang. (2013). Giải pháp kiềm chế lạm<br />
phát và tăng trưởng kinh tế bền vững. Tạp chí Diễn<br />
đàn nghiên cứu về thị trường tiền tệ, 7, 26-28.<br />
Trần Trọng Quốc Khanh. (Ngày 23 tháng 10 năm<br />
2010). Nhiều hệ lụy khi giá vàng tăng cao.<br />
Vnexpress.<br />
Truy<br />
cập<br />
từ<br />
http://kinhdoanh.vnexpress.net<br />
Thu Phương. (Ngày 04 tháng 07 năm 2012). Năm 2013<br />
tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô kiểm soát lạm phát.<br />
Tin mới. Truy cập từ http://www.tinmoi.vn<br />
Nguyễn Trọng Hoài. (2009). Dự báo và phân tích dữ<br />
liệu trong kinh tế và tài chính. Hà Nội: Nhà xuất<br />
bản thống kê Hà Nội.<br />
Nghị định 24/2012/NĐ-CP. (Ngày 03/04/2012). Về<br />
quản lý hoạt động kinh doanh vàng.<br />
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Website<br />
http://www.sbv.gov.vn.<br />
Công ty TNHH một TV Vàng bạc đá quý Sài Gòn.<br />
Website http://www.sjc.com.vn.<br />
Tổng cục Thống kê Việt Nam. Website<br />
http://www.gso.gov.vn.<br />
<br />
Tiến tới tự do hóa thị trường vàng<br />
Cùng với quá trình tự do hóa thị trường tài chính,<br />
thị trường vàng cũng cần được tự do từng bước<br />
nhằm phù hợp với trình độ phát triển chung của<br />
thị trường tài chính. Hoạt động xuất nhập khẩu<br />
vàng do liên quan đến cung cầu ngoại tệ nên trong<br />
điều kiện còn các biện pháp kiểm soát ngoại hối,<br />
quản lý tỷ giá thì vẫn cần thực hiện kiểm soát hoạt<br />
động xuất nhập khẩu vàng. Nên cho phép xuất<br />
nhập khẩu vàng như loại hàng hóa thông thường,<br />
vấn đề là chính sách thuế và phí đối với xuất nhập<br />
khẩu vàng. Nên sử dụng công cụ thị trường trong<br />
quản lý vàng, hơn là dùng các quyết định hành<br />
chính. Có như vậy, sự khác biệt giữa vàng trong<br />
nước và quốc tế sẽ giảm dần, từ đó giảm hoạt<br />
động đầu cơ lũng đoạn thị trường. Theo kinh<br />
nghiệm của nhiều nước, trong đó có Trung Quốc,<br />
tiến trình tự do hóa thị trường vàng bắt đầu từ tự<br />
do hóa thị trường vàng vật chất, sau đó đến kinh<br />
doanh vàng tài khoản và cuối cùng là xóa bỏ kiểm<br />
soát đối với hoạt động xuất nhập khẩu vàng.<br />
<br />
62<br />
<br />