ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ MINH BÌNH

KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG

CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ MINH BÌNH

KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG

CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số : 8380101.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả Lê Minh Bình

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: Khái quát về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính .. 7

1.1. Lý luận về hoạt động cho thuê tài chính ........................................................... 7

1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính ............................................................................ 7

1.1.2. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính ..................................................... 17

1.1.3. Kết cấu cơ bản của giao dịch cho thuê tài chính ............................................ 27

1.1.4. Phân loại các hình thức cho thuê tài chính ..................................................... 28

1.2. Lý luận về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính ..................... 31

1.2.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính ................. 31

1.2.2. Khái niệm kiểm soát rủi ro ............................................................................. 35

1.2.3. Vai trò của kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính .................... 35

1.3. Biện pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính ...................... 37

1.3.1. Biện pháp dành cho các bên ........................................................................... 37

1.3.2. Biện pháp dành cho thể chế ............................................................................ 42

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát rủi ro trong hoạt động

cho thuê tài chính ................................................................................................... 46

2.1. Những quy định chung của pháp luật Việt Nam về giao dịch cho thuê tài

chính ........................................................................................................................ 46

2.1.1. Định nghĩa về cho thuê tài chính .................................................................... 46

2.1.2. Chủ thể cho thuê tài chính .............................................................................. 47

2.1.3. Đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính ............................................................. 52

2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết, thực hiện hợp đồng

cho thuê tài chính ..................................................................................................... 55

2.2.1. Quyền của bên thuê đối với các cam kết bảo hành của nhà cung cấp tài sản ....

.................................................................................................................. 55

2.2.2. Tính chất không thể hủy ngang trong hợp đồng cho thuê tài chính ............... 57

2.2.3. Quyền áp dụng biện pháp bảo đảm của bên cho thuê .................................... 59

2.3. Quy định trong giai đoạn chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính .................. 61

2.3.1. Thủ tục thu hồi tài sản cho thuê tài chính ....................................................... 61

2.3.2. Xử lý tài sản cho thuê ..................................................................................... 66

Chương 3: Giải pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính ..... 71

3.1. Phương hướng chung ...................................................................................... 71

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện thể chế........................................ 73

3.2.1. Những quy định chung ................................................................................... 73

3.2.2. Quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên khi giao kết, thực hiện hợp đồng

cho thuê tài chính ..................................................................................................... 75

3.2.3. Quy định trong giai đoạn chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính .................. 77

3.3. Kiến nghị giải pháp hạn chế rủi ro cho các bên giao kết hợp đồng cho thuê tài

chính ........................................................................................................................ 80

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 84

Tiếng Việt ................................................................................................................. 84

Tiếng Anh ................................................................................................................. 87

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự BLDS

Công ty cho thuê tài chính II

ALCII

Doanh nghiệp

DN

Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế IASB

Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ

UCC

Công ty Tài chính quốc tế IFC

LỜI MỞ ĐẦU

i. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài.

Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và sức khỏe của nền

kinh tế nói chung, vốn là một yếu tố rất quan trọng. Thông thường, doanh nghiệp

dùng vốn tự có để mua máy móc, dây chuyền sản xuất, vay vốn của ngân hàng để

mở rộng đầu tư, bổ sung nguồn vốn lưu động bằng cách thế chấp tài sản, hoặc sử

dụng kênh huy động vốn từ nhà đầu tư như chứng khoán. Tuy nhiên, còn một kênh

huy động vốn khác cho doanh nghiệp là thuê tài chính. Thuê tài chính giúp DN tận

dụng hiệu quả các nguồn lực của mình vì không làm ảnh hưởng tới hạn mức vay tại

các ngân hàng thương mại và các nguồn tài sản được dùng làm thế chấp. Ngoài ra,

hình thức này có thời gian thuê linh hoạt, giúp DN giảm thiểu các thủ tục hành

chính gắn liền với tài sản. Ngày nay ở Mỹ, trên 30% tổng số các thiết bị đều được

trang bị dưới các hợp đồng thuê. Hơn 80% các công ty – từ những công ty nhỏ mới

thành lập cho tới những doanh nghiệp nằm trong danh sách Fortune 500 – đều đi thuê một phần hoặc toàn bộ máy móc thiết bị của họ.1

Hoạt động thuê tài chính thường nhắm tới những doanh nghiệp không có đủ

khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hoặc không thể huy động vốn trên thị

trường chứng khoán. Đó chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh

nghiệp siêu nhỏ. Các doanh nghiệp này không có nhiều vốn tự có, hệ số tín nhiệm

thanh khoản chưa cao, nên rất khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng khi các điều

kiện cho vay chặt chẽ và chi phí vay quá cao. Một nghiên cứu năm 2005 đã cho

thấy thuê là công cụ huy động vốn hiệu quả đối với những doanh nghiệp bị hạn chế

1 Công ty Cho thuê Tài chính - VietinBank Leasing, “Lịch sử cho thuê tài chính”, Công ty Cho thuê Tài chính - VietinBank Leasing, https://lc.vietinbank.vn/sites/home/knowledge/09061501.html truy cập 02/08/2018.

tín dụng (credit constrained) hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi vay phù hợp với những doanh nghiệp ít bị hạn chế tín dụng hơn (hay các doanh nghiệp lớn).

1

2 Nguyên do bởi rủi ro trong cho thuê thấp hơn so với cho vay nhờ những cơ chế

đặc thù về cấp tín dụng và bảo đảm.

Tại Việt Nam, tính theo quy mô lao động thì doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm

khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp khoảng 45% vào

GDP, 31% vào tổng thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu việc làm. Đặc biệt, trong số đó có tới 74% là doanh nghiệp siêu nhỏ trên tổng số doanh nghiệp3. Theo một

khảo sát năm 2017 của Viện Nhân lực ngân hàng tài chính, chỉ có khoảng 32,38%

doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng; 35,24% vừa và

nhỏ phản ánh là khó tiếp cận vốn tín dụng, và số còn lại cho biết không thể tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.4 Do phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và

vừa, thường không đủ điều kiện tiếp cận vốn trung và dài hạn từ ngân hàng, trong

khi nhu cầu máy móc, thiết bị… lại rất lớn, nên thuê tài sản là giải pháp phù hợp và

tiết kiệm nhất. Qua tìm hiểu thực trạng các hợp đồng cho thuê tài chính được đăng

ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm cho thấy, hơn 90% các giao dịch

cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính được ký kết với các doanh

nghiệp vừa và nhỏ chứng tỏ hoạt động của các công ty cho thuê tài chính đã phục vụ đắc lực cho các doanh nghiệp này trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.5 Thị

trường cho thuê tài chính tại Việt Nam còn nhiều tiềm năng và trong tương lai sẽ

đóng vai trò là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế.

Tuy nhiên thực trạng thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam hiện nay

2 Andrea L. Eisfeldt và Adriano A. Rampini, “Leasing, Ability to Repossess, and Debt Capacity”,

Review of Financial Studies 22, số p.h 4 (Tháng Tư 2009): 1621–57, https://doi.org/10.1093/rfs/hhn026.

3 Tổng Cục Thống kê, Thông cáo báo chí về kết quả sơ bộ Tổng điều tra Kinh tế năm 2017.

http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&ItemID=18686 truy cập 02/08/2018

4 Sài Gòn Giải Phóng Online (2017), “Thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam còn quá nhỏ bé”, cập

truy

www.sggp.org.vn/thi-truong-cho-thue-tai-chinh-tai-viet-nam-con-qua-nho-be-466551.html 03/08/2018

5 Phùng Bá Đáng, “Pháp luật hiện hành về đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính tại Việt Nam hiện nay và một số vấn đề cần nghiên cứu, hoàn thiện”, Trang thông tin Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, 2015, dkqg.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=44.

không phát triển như mong đợi nếu không muốn nói là rất chậm so với tốc độ phát

2

triển của nền kinh tế. Cho thuê tài chính và công ty cho thuê tài chính ra đời và phát

triển ở Việt Nam đã gần 20 năm nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy dịch vụ này

không được mấy doanh nghiệp quan tâm. Đồng thời, sự phát triển của các công ty

cho thuê tài chính cũng trở nên èo uột và đối diện với tương lai chưa mấy sáng sủa.6 Quy mô thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam còn khá nhỏ bé. Thông tin

tại buổi toạ đàm “Thuê tài chính - Kênh huy động vốn trung dài hạn, kinh nghiệm

Nhật Bản và triển vọng phát triển ở Việt Nam” tổ chức ngày 8/9/2017 ở Hà Nội

cho thấy mức dư nợ của thị trường cho thuê tài chính mới đạt 8700 tỉ đồng (tương đương gần 400 triệu USD), chỉ chiếm 0,16% tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng.7

Trong khi đó thị trường cho thuê tài chính tại các quốc gia khác đều có dư nợ lớn

như Trung Quốc đạt 540 tỷ USD, Nhật Bản đạt 50 tỷ USD, Hàn Quốc đạt 17 tỷ USD, Thái Lan đạt 3 tỷ USD.8

Sự chậm phát triển của thị trường cho thuê tài chính có nhiều lý do. Ngoài

những vấn đề về sự hấp dẫn và thông tin trong kinh doanh, các khung pháp lý luôn

đóng vai trò không nhỏ trong sự hưng thịnh của một hoạt động kinh doanh rất định.

Từ lý luận và thực tiễn trong hoạt động cho thuê tài chính, nhu cầu về một khung

pháp lý vững chắc cùng với các quy định cụ thể, chi tiết là không thể tránh khỏi.

Khi doanh nghiệp thực hiện một hoạt động kinh doanh cụ thể, doanh nghiệp

gặp nhiều khó khăn về các rủi ro pháp lý trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi và

hệ thống pháp luật đang còn nhiều sự bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo, phức tạp,...

Rủi ro pháp lý có thể hiểu là sự kiện pháp lý, quy định pháp luật không chắc chắn,

6 Châu Đình Linh (2015), “Đâu rồi công ty cho thuê tài chính?” http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-

hang/dau-roi-cong-ty-cho-thue-tai-chinh-20150410224328446.chn truy cập 03/08/2018

7 Sài Gòn Giải Phóng Online (2017), “Thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam còn quá nhỏ bé”, cập

truy

www.sggp.org.vn/thi-truong-cho-thue-tai-chinh-tai-viet-nam-con-qua-nho-be-466551.html 03/08/2018

8 Báo Đầu tư điện tử (2018), “Vietcombank Leasing dẫn đầu thị phần cho thuê tài chính”, cập

truy

https://baodautu.vn/vietcombank-leasing-dan-dau-thi-phan-cho-thue-tai-chinh-d78679.html 03/08/2018

có thể xảy ra và ảnh hưởng đến mục tiêu của chủ thể pháp lý. Các khó khăn doanh

3

nghiệp có thể gặp phải chẳng hạn như lúng túng trước những vấn đề mập mờ, khó

hiểu và xung đột pháp lý. Có những sự không rõ ràng và xung đột mang tính hệ

thống trong hệ thống pháp luật khiến cho việc thuê dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp

cũng không giúp cho doanh nghiệp ứng phó với rủi ro pháp lý. Những rủi ro pháp

lý đặc biệt gây ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực tín dụng nói chung và hoạt động cho

thuê tài chính nói riêng, bởi đây là lĩnh vực được điều chỉnh chi tiết bởi luật pháp

do tầm quan trọng của nó với sức khỏe nền kinh tế. Các tranh chấp tín dụng là vấn đề diễn ra khá thường xuyên trong các hoạt động thương mại, hợp đồng kinh tế9.

Vì lẽ đó, nghiên cứu về các rủi ro pháp lý và kiểm soát rủi ro pháp lý trong

hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng

khung pháp lý tốt, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn thuận

lợi, góp phần ổn định quan hệ xã hội trong kinh doanh và đóng góp vào sự tăng

trưởng của nền kinh tế.

ii. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là rà soát các rủi ro trong hoạt động cho thuê tài

chính và tìm kiếm các biện pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài

chính.

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm

vụ cụ thể sau đây:

 Nghiên cứu đặc điểm pháp lý, bản chất kinh tế của giao dịch cho thuê tài

chính;

 Nghiên cứu những nền tảng lý luận về rủi ro và kiểm soát rủi ro trong hoạt

9 Thời báo tài chính Việt Nam (2016), “Giảm thiểu rủi ro pháp lý trong hoạt động tín dụng”

thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2016-04-27/giam-thieu-rui-ro-phap-ly-trong-hoat-dong- tin-dung-31087.aspx truy cập 03/08/2018

động cho thuê tài chính;

4

 Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện và

áp dụng pháp luật về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính trên

cơ sở nền tảng lý luận và hệ thống lý luận đã được nghiên cứu;

 Qua các vấn đề lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng pháp luật, đề xuất

các giải pháp (i) hoàn thiện pháp luật nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động

cho thuê tài chính ở Việt Nam và (ii) biện pháp kiểm soát rủi ro cho các bên

giao kết hợp đồng cho thuê tài chính.

iii. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về rủi ro trong hoạt

động cho thuê tài chính, các qui tắc pháp lý xuất phát từ các nguồn của pháp luật

như văn bản qui phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, các học thuyết pháp

lý…; thực tiễn thi hành pháp luật thông qua các hợp đồng, bản án, quyết định giải

quyết tranh chấp liên quan đến rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.

Đề tài nghiên cứu các đối tượng nêu trên trong khuôn khổ pháp lý và chỉ đề cập tới

các vấn đề kinh tế, tài chính và kế toán trong chừng mực làm rõ các vấn đề rủi ro

pháp lý trong hoạt động cho thuê tài chính. Đề tài chủ yếu nghiên cứu các đối

tượng này trong phạm vi pháp luật Việt Nam hiện nay và một phạm vi vừa đủ cho

các kết luận khoa học từ kinh nghiệm ở một số quốc gia khác.

iv. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các

phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các phương

pháp chủ yếu bao gồm: phương pháp mô tả, phương pháp phân tích và tổng hợp,

phương pháp phân loại và hệ thống hóa, phương pháp so sánh pháp luật…

v. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài

gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

5

Chương 2 : Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho

thuê tài chính.

Chương 3: Giải pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

6

Chương 1: Khái quát về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho

thuê tài chính

1.1. Lý luận về hoạt động cho thuê tài chính

1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính

Để làm rõ khái niệm hoạt động cho thuê tài chính cũng như hợp đồng cho

thuê tài chính, tác giả đặt nó trong tương quan với loại hình thuê tài sản thông

thường để so sánh và làm nổi bật những điểm khác biệt về mặt kinh tế và pháp lý

của một hợp đồng cho thuê tài chính so với hợp đồng cho thuê tài sản thông

thường.

Hoạt động (cho) thuê tài sản đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử loài người, ít nhất là 2000 năm trước công nguyên tại thành phố Ur của người Sumerian.10 Cho

thuê được công nhận rộng rãi như một hình thức tín dụng cho phép người thuê có

được thiết bị/tài sản cần thiết để khai thác công năng của nó mà không cần bỏ lượng lớn vật chất để mua.11 Các giao dịch thuê tài sản này được biết tới như là

10 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam (NXB Công An Nhân Dân,

2014), 276.

11 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade” (Ph.D. thesis, University of Birmingham,

2010), 11.

12 Trong khoa học pháp lý Hoa Kỳ, true lease cũng có nghĩa là cho thuê đúng nghĩa để phân biệt với những giao dịch cho thuê chỉ có mục đích bảo đảm cho bên cho thuê, nói cách khác giao dịch cho thuê núp bóng giao dịch bảo đảm - Leases Intended as Security. Xem thêm Uniform Law Commission, “UCC Article 2,Sales and Article 2A, Leases (2003) Summary”, Uniform Law Commission (blog), truy cập 30 Tháng Tám 2018, http://www.uniformlaws.org/ActSummary.aspx?title=UCC%20Article%202,Sales%20and%20Article%202 A,%20Leases%20(2003).

13 Trong khoa học pháp lý Hoa Kỳ, true lease cũng có nghĩa là cho thuê đúng nghĩa để phân biệt với

những giao dịch cho thuê chỉ đóng vai trò giao dịch bảo đảm

14 Trần Tô Tử và Nguyễn Hải Sản, Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua (Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, 1996), 2; Herbert Kronke, “Financial Leasing and Its Unification by UNIDROIT”, trong General

giao dịch thuê thông thường (simple lease), truyền thống (traditional lease) hay thuê thuần túy (true lease1213), tương tự với hình thức thuê vận hành (operating lease) ngày nay.14 Hợp đồng cho thuê truyền thống là “một hợp đồng giữa hai bên

7

trong đó một bên (bên cho thuê) cung cấp một tài sản để cho bên còn lại (bên thuê)

sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đổi lại một khoản tiền nhất định”.15

Cho thuê thiết bị (động sản) không thực sự phổ biến bằng cho thuê bất động

sản bởi sự hạn chế những thiết bị có thể cho thuê được. Cho đến khi cuộc cách

mạng công nghiệp nổ ra với sự ra đời của máy móc chạy bằng điện và sản xuất

công nghiệp hàng loạt, ngành cho thuê thiết bị mới thực sự phát triển để đáp ứng nhu cầu về vốn thiết bị của nền kinh tế.16 Vào những năm 1950 tại Hoa Kỳ, ngành công nghiệp cho thuê tài sản hiện đại ra đời17 khi kết hợp nghiệp vụ cho thuê tài

sản với nghiệp vụ tín dụng, tạo ra một nghiệp vụ cho thuê mới là cho thuê tài chính (finance lease/financial leasing)18 hay còn được biết với tên gọi khác là cho thuê vốn (capital lease), cho thuê ròng (net lease).19 Thuê tài chính trong một số trường

hợp rất giống với thuê mua (hire purchase) nếu khi kết thúc thời gian thuê, quyền

sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên thuê. Hợp đồng thuê mua còn được coi là

Reports of the XVIIIth Congress of the International Academy of Comparative Law/Rapports Généraux Du XVIIIème Congrès de l’Académie Internationale de Droit Comparé, b.t Karen B. Brown và David V. Snyder (Dordrecht: Springer Netherlands, 2012), 29, https://doi.org/10.1007/978-94-007-2354-2_14.

15 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 2nd

a.b (United States of America: International Finance Corporation (IFC), 2009), 7.

16 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 11.

17 Richard M. Contino, The complete equipment-leasing handbook: a deal maker’s guide with forms,

checklists, and worksheets (New York: American Management Association, 2002), 1.

18 Đinh Tiểu Khuê, “Pháp luật về công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng” (Luận

văn thạc sỹ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), 6.

19 Trần Tô Tử và Nguyễn Hải Sản, Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua, 3.

20 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 31.

một dạng của thuê tài chính ở một số nền tài phán như Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ý, Nga.20 Ở Việt Nam, thuật ngữ “tín dụng thuê mua” cũng từng được sử dụng trong

8

những văn bản pháp luật thời kỳ trước và một số công trình nghiên cứu, trước khi có sự thay đổi thuật ngữ thành “cho thuê tài chính”.21

Cho thuê tài chính có bản chất là một phương pháp tài trợ (cấp tín dụng) dưới dạng một giao dịch cho thuê.22 Trong khi các nền tài phán trên thế giới đều có

những định nghĩa thống nhất về cho thuê vận hành thì các định nghĩa về cho thuê

tài chính lại không thống nhất giữa các quốc gia khác nhau và thậm chí không rõ

ràng trong nền tài phán của từng quốc gia. Tác giả đưa ra một vài định nghĩa tiêu

biểu để tìm hiểu bản chất của cho thuê tài chính.

Định nghĩa pháp lý về cho thuê tài chính

Với việc Hoa Kỳ là nơi đặt nền móng cho ngành cho thuê tài chính và các

công ty cho thuê tài chính của Hoa Kỳ mở rộng kinh doanh ở khắp nơi trên thế

giới, luật pháp Hoa Kỳ có ảnh hưởng đáng kể đến các quy định ở tầm quốc tế về cho thuê tài chính.23 Định nghĩa về cho thuê tài chính trong Bộ luật thương mại

thống nhất (UCC) của Hoa Kỳ có giá trị tham khảo cao. Bộ luật này đưa ra định

nghĩa tương đối chi tiết, theo đó “cho thuê tài chính là cho thuê mà trong đó: (i) bên

cho thuê không lựa chọn, sản xuất, hoặc cung cấp hàng hóa; (ii) bên cho thuê xác

lập quyền sở hữu hàng hóa hoặc quyền chiếm hữu và sử dụng hàng hóa mà hàng hóa đó chính là đối tượng của hợp đồng thuê24; (iii) đáp ứng một trong các điều

kiện sau đây: [tóm tắt: bên thuê phải được tiếp cận với hợp đồng cung cấp hàng hóa

21 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại” (Luận án Tiến sỹ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017) Chương 1.

22 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 4.

23 Guojin Liu, 29.

24 The United States, “Uniform Commercial Code (UCC)”, Section 2A-103 (1) (g), truy cập 14

Tháng Tám 2018, https://www.law.cornell.edu/ucc.

Nguyên văn tiêu chí thứ hai: “the lessor acquires the goods or the right to possession and use of the

goods in connection with the lease;”

giữa nhà cung cấp và bên cho thuê, hoặc thông tin liên quan đến các cam kết và bảo

9

hành về hàng hóa trong hợp đồng cung cấp hàng hóa25 trước khi giao kết hợp đồng

thuê hàng hóa].”

Ba điều kiện này đều chỉ ra vai trò giới hạn của bên cho thuê trong một hợp

đồng thuê tài chính. Đầu tiên, việc lựa chọn tài sản hoàn toàn phụ thuộc vào bên

thuê, người sẽ sử dụng tài sản trong tương lai. Bên thuê nắm rõ những yêu cầu đối

với tài sản để đảm bảo rằng tài sản được lựa chọn phù hợp nhất cho mục đích sử

dụng của mình. Điều này cũng cho thấy bên cho thuê hầu như không có nhu cầu

bảo trì, vận hành hay có tác động gì liên quan tới tài sản thuê. Tiêu chí thứ hai củng

cố ý định lập pháp này bởi việc bên cho thuê mua tài sản từ nhà cung cấp chỉ

hướng tới một mục đích duy nhất là cho thuê. Tiêu chí thứ ba đặt hiệu lực hay sự

phân loại pháp lý của một hợp đồng thuê tài chính phụ thuộc vào sự tiếp cận của

bên thuê với hợp đồng cung cấp tài sản hay các cam kết bảo hành tài sản, mà thực

ra chỉ là sự phê chuẩn hay xác nhận lại quá trình đàm phán từ trước đó giữa bên

thuê và nhà cung cấp. Tính chất tài chính của giao dịch nằm ở vai trò nhà tài trợ

vốn của bên cho thuê.

Luật mẫu về cho thuê của UNIDROIT năm 2008 (gọi tắt là “Luật mẫu”) đưa

ra định nghĩa về cho thuê tài chính như sau: “Cho thuê tài chính là cho thuê mà

trong đó có kèm theo hoặc không kèm theo quyền chọn mua toàn bộ hoặc một phần

tài sản, bao gồm các đặc tính sau: (a) bên thuê lựa chọn tài sản và nhà cung cấp tài

sản; (b) bên cho thuê xác lập quyền sở hữu tài sản nhằm cho thuê và nhà cung cấp

biết điều đó; (c) tiền thuê hoặc các khoản tiền khác phải trả cho việc thuê bao gồm

hoặc không bao gồm khấu hao toàn bộ hoặc một phần đáng kể khoản đầu tư của bên cho thuê.”26

Công ước UNIDROIT về cho thuê tài chính quốc tế năm 1988 (gọi tắt là

25 Peter Breslauer, “Finance Lease, Hell or High Water Clause, and Third Party Beneficiary Theory in

Article 2A of the Uniform Commercial Code”, Cornell Law Review 77, số p.h 2 (1992): 323.

26 UNIDROIT, “Model law on leasing” (2008) Article 2.

“Công ước”) cũng đã đưa ra định nghĩa khá tương đồng, tuy nhiên khác ở một điểm

10

đó là tiền thuê phải bao gồm toàn bộ hoặc một phần đáng kể chi phí mua thiết bị.27

Như vậy phạm vi của một giao dịch cho thuê tài chính trong Luật mẫu rộng hơn

trong Công ước, vì không bị giới hạn bởi điều kiện về giá trị của khoản tiền thuê.

Điều kiện về giá trị của khoản tiền thuê ít nhất phải bằng một phần đáng kể chi phí

mua thiết bị có lẽ không đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực pháp lý khi xử lý

quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong giao dịch này, nhưng lại đóng vai trò quan trọng khi ghi báo cáo tài chính và tính thuế.28 Trong kế toán, người ta quan tâm bản

chất kinh tế của giao dịch hơn.

Các định nghĩa pháp lý nêu trên đều chỉ ra điểm đặc trưng của một giao dịch

thuê tài sản, đó là sự tách biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu phân chia cho

những chủ thể khác nhau. Đồng thời các định nghĩa trên nêu ra những điểm khác

biệt của cho thuê tài chính so với cho thuê thông thường: (i) bên thuê lựa chọn tài

sản và nhà cung cấp tài sản; (ii) quan hệ ba bên bao gồm nhà cung cấp tài sản, bên

cho thuê và bên thuê.

Quyền lựa chọn tài sản của bên thuê là điểm đặc trưng quan trọng nhất của

giao dịch cho thuê tài chính mà luật thành văn hoặc thực tiễn xét xử của nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận,29 cùng với sự chuyển giao ở mức độ lớn những quyền và

nghĩa vụ liên quan đến tài sản từ bên cho thuê sang bên thuê. Sự can thiệp của bên

thuê vào hợp đồng cung cấp, nhà cung cấp nhận thức được mục đích mua tài sản

của bên cho thuê nhằm cho thuê, và bên cho thuê rút lui khỏi vai trò chủ động cung

cấp tài sản khiến bên cho thuê không phải chịu những nghĩa vụ và được bảo vệ

27 Article 1(2)(c) “UNIDROIT Convention on International Financial Leasing (Ottawa)” (1988).

28 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 29

Box 2-4.

29 Kåre Lilleholt, b.t.v, Lease of Goods (PEL LG), Principles of European Law, vol. 5 (Munich : [Brussels] : [Bern]: Sellier European Law Publishers ; Bruylant ; Stæmpfli, 2008), 118–21; Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại”, 34–38.

trước tố quyền của bên thuê hoặc bên thứ ba bị thiệt hại do tài sản gây ra như trong

11

hợp đồng cho thuê vận hành30. Thay vào đó, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến

việc vận hành tài sản được “nối” trực tiếp từ nhà cung cấp đến bên thuê, chẳng hạn

như vấn đề bảo hành tài sản hay các khuyết tật của tài sản trong quá trình sản xuất.

Bên cho thuê dường như rút khỏi vai trò của một bên cho thuê thông thường và trở thành một nhà tài trợ tài chính thuần túy.31

Định nghĩa kinh tế về cho thuê tài chính

Trên phương diện kinh tế, Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) định

nghĩa “cho thuê tài chính là cho thuê mà chuyển giao về cơ bản tất cả những rủi ro

và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng có thể được chuyển giao hoặc không được chuyển giao”,32 và nếu một giao dịch cho thuê

mà không chuyển giao những rủi ro và lợi ích như vậy cho bên thuê, giao dịch đó được coi là cho thuê vận hành.33 Công ty Tài chính quốc tế (IFC) đưa ra định nghĩa

tương tự: “cho thuê tài chính là hợp đồng mà cho phép bên cho thuê, với tư cách là

người chủ sở hữu, giữ lại quyền sở hữu tài sản trong khi về cơ bản chuyển giao toàn bộ những rủi ro và lợi ích gắn liền với việc sở hữu tài sản cho bên thuê”.34

Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 06 có lẽ được xây dựng dựa trên sự tham khảo của chuẩn mực kế toán quốc tế, cũng có định nghĩa tương tự về cho thuê tài chính. 35

30 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 30; UNIDROIT, Model law on leasing

Article 9.

31 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 123.

32 “IAS 17 - Lease (revised 2003)” (2001) para 4.

33 “IFRS 16 Leases” (2016) para 62; IAS 17 - Lease (revised 2003) para 8.

34 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 8.

35 “VAS 06 Thuê tài sản” (2002), đoạn 4.

36 IAS 17 - Lease (revised 2003) para 10.

Có thể thấy định nghĩa về cho thuê tài chính trong lĩnh vực kế toán và thuế dựa trên bản chất kinh tế của giao dịch chứ không dựa vào khuôn mẫu hợp đồng,36

12

tức là cần xem xét chi tiết nội dung để xác định bản chất các điều khoản trong hợp đồng.37 Bản chất kinh tế của giao dịch phụ thuộc vào việc bên nào là chủ sở hữu về

mặt kinh tế (hay chủ sở hữu thực tế) của tài sản – người nắm cơ bản toàn bộ rủi ro

và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản chứ không dựa trên chủ sở hữu pháp lý của tài sản.38 Trên cơ sở này, các tiêu chuẩn kế toán kéo theo đó là chế độ thuế áp

dụng cho các bên trong giao dịch cho thuê tài chính sẽ khác với trường hợp cho

thuê vận hành. Chẳng hạn như bảng cân đối kế toán sẽ ghi tài sản thuê vào danh

mục tài sản có của người thuê (coi người thuê là chủ sở hữu tài sản), khiến chi phí khấu hao tài sản được khấu trừ vào thuế của bên thuê.39

Để xác định chuyển giao cơ bản toàn bộ rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở

hữu tài sản, IAS 17 và sau này được thay thế bởi IFRS 16 cũng như VAS 06 đưa ra

05 ví dụ sau mà nếu thỏa mãn ít nhất một trường hợp, thì giao dịch đó được xác

định là giao dịch cho thuê tài chính: (a) có sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi

hết thời hạn thuê; (b) bên thuê có quyền chọn mua tài sản với giá thấp hơn đáng kể

giá hợp lý của tài sản vào ngày quyền chọn mua có hiệu lực; (c) thời gian thuê

chiếm phần lớn vòng đời sử dụng (economic life) của tài sản ngay cả khi quyền sở

hữu tài sản không được chuyển giao cho bên thuê; (d) tại thời điểm bắt đầu thuê,

giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm đáng kể giá trị hợp lý

của tài sản thuê; (e) tài sản thuê có đặc tính chuyên biệt khiến cho chỉ người thuê có thể sử dụng tài sản mà không có sự biến đổi đặc tính lớn.40 Ngoài ra còn có 03

37 “Thông tư số 161/2007/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện mười sáu (16) Chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính” (2007) IV(1)(1.1).

38 Ronald C.C. Cuming, “Model Rules for Lease Financing : A Possible Complement to the UNIDROIT Convention on International Financial Leasing”, Uniform Law Review, số p.h 371 (1998): 373– 74.

39 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 8

Table 1-1.

40 IAS 17 - Lease (revised 2003) para 10; IFRS 16 Leases para 63; VAS 06 Thuê tài sản đoạn 9.

trường hợp khác thể hiện đặc điểm chuyển giao toàn bộ rủi ro và lợi ích gắn với

13

quyền sở hữu tài sản như hợp đồng không thể hủy ngang hoặc bên thuê là người

hưởng lợi và chịu tổn thất về tài sản: (a) Nếu bên thuê huỷ hợp đồng, bên thuê phải

đền bù mọi tổn thất phát sinh liên quan đến việc huỷ hợp đồng cho bên cho thuê;

(b) Lãi hoặc lỗ do sự thay đổi giá trị hợp lý của giá trị còn lại của tài sản thuê

thuộc về bên thuê; (c) Bên thuê có khả năng tiếp tục thuê lại tài sản sau khi hết hạn hợp đồng thuê với tiền thuê thấp hơn đáng kể so với giá thị trường.41

Chuẩn mực kế toán quốc tế đưa ra những điều kiện trên đi kèm với lưu ý

rằng, những điều kiện đó chỉ giúp làm rõ hơn sự chuyển giao cơ bản toàn bộ rủi ro

và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản chứ không mang ý nghĩa kết luận.

Chẳng hạn như quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên thuê khi kết thúc thời gian thuê nhưng với giá bằng với giá hợp lý của tài sản vào thời điểm đó.42 Với

chuẩn mực kế toán Việt Nam, các trường hợp đó được sử dụng làm tiêu chí cứng

để phân loại giao dịch thuê tài sản vì không có một lưu ý đi kèm như vậy.

Định nghĩa cho thuê tài chính trong pháp luật Việt Nam

Cho thuê tài chính có những đặc điểm hỗn hợp của nhiều loại quan hệ khác

nhau và tính chất phức tạp khiến quan hệ này khó có thể được điều chỉnh tốt nếu

không có một hệ thống luật hợp đồng phát triển. Ở những nền kinh tế mới nổi,

những quy định pháp luật riêng về cho thuê tài chính là cần thiết, vừa để bổ sung

những lỗ hổng pháp lý, vừa đáp ứng nhu cầu giải quyết mối quan hệ ba bên phức tạp của hoạt động này.43 Do tính chất tín dụng rõ ràng của cho thuê tài chính, đối

với các thị trường chưa quen với công cụ tín dụng này khiến các doanh nghiệp

không hiểu rõ về đặc điểm, bản chất của nó, IFC đề nghị áp dụng các quy chế cho

41 IAS 17 - Lease (revised 2003), para 11; VAS 06 Thuê tài sản, đoạn 10; IFRS 16 Leases, para 64.

42 IAS 17 - Lease (revised 2003) para 12; IFRS 16 Leases para 65.

43 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 26.

44 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., 27.

cho thuê tài chính tương tự như một khoản vay ngân hàng ở mức cao nhất có thể, bao gồm cả lợi ích về tài chính, kế toán, thuế VAT và sự bảo vệ pháp lý.44 Điều này

14

dễ hiểu vì hầu hết bên cho thuê trong giao dịch cho thuê tài chính là các định chế

tài chính, có vai trò trung gian dẫn vốn cho thị trường. Nếu không kiểm soát tốt

hoạt động của các chủ thể này, khi rủi ro xảy ra sẽ gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống tài chính và thậm chí có khả năng gây khủng hoảng tới nền kinh tế.45 Có lẽ cũng

chính vì lý do này nên các nền kinh tế mới nổi và đang làm quen với hoạt động cho

thuê tài chính như Việt Nam thường điều chỉnh cho thuê tài chính bởi công cụ luật

tài chính – ngân hàng chứ không chỉ sử dụng công cụ luật thương mại. Cho thuê tài

chính vì vậy có thể bị áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn so với hoạt động

kinh doanh thương mại thông thường nhằm kiểm soát dòng tiền trong nền kinh tế.

Trong các văn bản pháp luật Việt Nam có hai định nghĩa về cho thuê tài chính như

sau:

Định nghĩa tại Điều 113 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi

bổ sung năm 2017:

“Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài

hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các

điều kiện sau đây:

1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận

chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa

thuận của hai bên.

2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được

quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn

giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại.

3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian

cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó.

4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài

chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp

45 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 62–63.

đồng.”

15

Định nghĩa tại Điều 3(7) Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động

của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính:

“Cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn

trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê tài chính

với bên thuê tài chính. Bên cho thuê tài chính cam kết mua tài sản

cho thuê tài chính theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm giữ

quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn

cho thuê. Bên thuê tài chính sử dụng tài sản thuê tài chính và thanh

toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính.”46

Có thể thấy rằng định nghĩa về hoạt động cho thuê tài chính trong Luật các tổ

chức tín dụng năm 2010 khá gần với định nghĩa trong các chuẩn mực kế toán đã

nêu nhưng lại thiếu đi một mô tả quan trọng là bên cho thuê chuyển giao gần như

toàn bộ rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Định nghĩa

này tiếp cận từ bản chất kinh tế của giao dịch cho thuê tài chính. Ngược lại, định

nghĩa về cho thuê tài chính trong Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công

ty tài chính và công ty cho thuê tài chính nêu đặc tính pháp lý nổi bật nhất của cho

thuê tài chính: tài sản thuê do bên thuê lựa chọn. Các đặc tính khác thể hiện sự

chuyển giao lợi ích và rủi ro được xuất hiện trong những quy định về quyền và

nghĩa vụ của bên thuê (Điều 19, Điều 20 Nghị định trên). Pháp luật Việt Nam

không làm nổi bật được mối quan hệ ba bên trong giao dịch thuê tài chính. Bên

cung ứng chỉ được nhắc tới rải rác trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên

cho thuê và bên thuê đối với nhau. Hợp đồng cung cấp tài sản có sự liên kết chặt

chẽ với hợp đồng thuê tài chính không được nhắc đến. Mối liên hệ giữa bên thuê và

bên cung ứng không được làm rõ. Có lẽ các nhà làm luật chỉ quan tâm tới quan hệ

tín dụng giữa bên cho thuê và bên thuê nên đã bỏ sót sự liên quan của bên cung ứng

46 Chính phủ, “Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài

chính” (2014) Điều 3(7).

ở đây, và để các công cụ pháp luật khác giải quyết hợp đồng cung cấp tài sản. Tuy

16

nhiên nếu không có những quy định rõ ràng thì khó có thể giải quyết vấn đề quyền,

nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê sao cho thỏa đáng trong các vấn đề liên quan

đến tài sản như giao nhận, chất lượng, bảo hành, cam kết, v.v.

Như vậy, trong khoa học pháp lý và tài chính có sự nhìn nhận ở những khía

cạnh khác nhau về cho thuê tài chính. Định nghĩa pháp lý quan tâm đến quan hệ ba

bên để giải quyết các vấn đề quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ với từng

bên còn lại cũng như trong quan hệ với người thứ ba khác. Định nghĩa trong lĩnh

vực kế toán quan tâm đến việc đánh giá sự chuyển giao lợi ích và rủi ro gắn liền

với quyền sở hữu tài sản, xác định ai mới là chủ sở hữu về mặt kinh tế của tài sản

để có các chế độ kế toán và thuế thích hợp.

1.1.2. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính

Một dạng cấp tín dụng trung và dài hạn

Việc bên cho thuê chấp nhận chuyển giao toàn bộ lợi ích và rủi ro hay quyền

và nghĩa vụ (ngoại trừ quyền sở hữu tài sản trên danh nghĩa) cho bên thuê có thể được lý giải bằng tính chất tín dụng của giao dịch cho thuê tài chính.47 Cho thuê tài

chính là một phương thức cấp tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê tài sản48 (cũng vì thế nên nó có tên gọi cho thuê vốn49). Giao dịch cho thuê tài chính có

đặc điểm thanh toán toàn phần (full payout lease) bởi khoản thanh toán tiền thuê sẽ

47 Trần Vũ Hải, “Pháp luật về cho thuê tài chính - một số vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí Luật học,

số p.h 3 (2007).

48 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, 280.

49 Nguyễn Minh Kiều, Hướng dẫn thực hành tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng thương mại

(NXB Lao động - Xã hội, 2011), 288.

50 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 8.

51 Kåre Lilleholt, Lease of Goods (PEL LG), 111.

bù đắp được hết chi phí mua tài sản ban đầu cộng thêm lợi nhuận và các khoản chi phí khác liên quan đến tài sản.50 Bên cho thuê chỉ đóng vai trò như một bên cấp tín dụng hơn là một bên cung cấp tài sản thuê thông thường,51 và lợi ích của họ đơn

17

thuần nằm ở việc thu hồi được khoản đầu tư gốc và thu được một phần lãi từ người được cấp tín dụng là bên đi thuê.52 Do đó, bên cho thuê thường sẽ không kỳ vọng thu hồi lại tài sản53 khi kết thúc hợp đồng thuê tài chính như trong hợp đồng thuê

vận hành. Pháp luật Hoa Kỳ nơi khai sinh ra quan hệ cho thuê tài chính, tuy đặt các

quy định điều chỉnh quan hệ cho thuê tài chính trong phần cho thuê (Article 2A),

nhưng đã thiết kế quan hệ giữa bên cho thuê và bên thuê tương tự chủ nợ và con

nợ, quyền ưu tiên của bên cho thuê tương tự như quyền ưu tiên của chủ nợ trong giao dịch vay có bảo đảm.54

Dòng tiền trong giao dịch cho thuê tài chính khá giống với dòng tiền trong

giao dịch vay tiền. Khi giao kết hợp đồng vay tiền, người vay lập tức có một luồng

tiền vào, sau đó họ sẽ phải trả cho bên cho vay từng khoản thanh toán theo thời

gian. Người thuê trong hợp đồng thuê tài chính cũng tương tự, chỉ khác ở điểm luồng tiền ban đầu mà người thuê nhận được đã được cụ thể hóa thành một tài sản, 55 khiến cho khoản vay được sử dụng đúng mục đích.

Một loại hình cho thuê tài chính đặc biệt là bán và thuê lại (sale – leaseback)

có đặc điểm gần gũi với giao dịch vay tiền có bảo đảm hơn cho thuê tài chính thông thường56 khi phân tích về dòng tiền và tài sản bảo đảm. Bên bán – thuê lại kiêm

luôn vai trò của nhà cung cấp tài sản, bán tài sản của mình cho bên mua – cho thuê

52 Uarda Roshi, “A legal analysis of financial leasing and its unification by UNIDROIT”, European International Virtual Congress of Researchers, 2016, 18, http://www.idpublications.org/wp- content/uploads/2016/03/Full-Paper-A-LEGAL-ANALYSIS-OF-FINANCIAL-LEASING-AND-ITS- UNIFICATION-BY-UNIDROIT.pdf.

53 Kronke, “Financial Leasing and Its Unification by UNIDROIT”, 27.

54 Uniform Law Commission, “UCC Article 2,Sales and Article 2A, Leases (2003) Summary”.

55 Nguyễn Minh Kiều, Hướng dẫn thực hành tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng thương mại,

289.

56 Ronald C.C. Cuming, “Model Rules for Lease Financing : A Possible Complement to the

UNIDROIT Convention on International Financial Leasing”, 377.

lại để đổi lấy một khoản tiền, sau đó bên bán thuê lại tài sản đó để tiếp tục sử dụng

18

và sẽ trả tiền thuê theo thời gian cho bên mua – cho thuê lại.57 Tài sản vốn đã thuộc

quyền sử dụng của bên bán – thuê lại từ trước đó. Bên bán – thuê lại chỉ mất đi

quyền sở hữu trên danh nghĩa trong khi vẫn duy trì vị thế chủ sở hữu về mặt kinh tế

của tài sản. Cái mà bên bán – thuê lại nhận được là một khoản tiền tương ứng với giá trị tài sản vào thời điểm bán khiến cho vốn của họ tăng lên ngay tức thời58 như

khi họ đi vay. Bên mua – cho thuê lại không có nhu cầu sở hữu tài sản thực sự bởi

họ không có mục đích sử dụng nó. Quyền sở hữu của họ nhằm bảo đảm cho họ thu

hồi được khoản tiền đã cấp cho bên bán – thuê lại. Sự bảo đảm này khá giống với

hình thức bảo đảm fiducia trong luật La Mã, khi con nợ chuyển giao quyền sở hữu cho chủ nợ để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền của mình.59

Hợp đồng cho thuê tài chính có tính chất không hủy ngang và sự liên hệ với

hợp đồng cung cấp tài sản

Một khi đã chấp nhận tài sản được chuyển giao về mặt vật lý từ nhà cung cấp

và về mặt pháp lý từ bên cho thuê, bên thuê sẽ phải trả tiền thuê tương ứng với toàn bộ thời gian thuê, ngay cả khi họ không sử dụng tài sản thuê nữa.60 Đây là một điều

khoản luật định được áp dụng cho loại hợp đồng này mà không cần sự thỏa thuận

của các bên. Quy định này được phản ánh trong Điều 2A-407 của UCC, Điều 10

của Luật mẫu. Theo đó, bên thuê bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ không thể rút lại

và độc lập (irrevocable and independent) của mình, “không bị hủy bỏ, chấm dứt,

57 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 57.

58 The Office of the Comptroller of the Currency’s (OCC), Comptroller’s Handbook - Lease

Financing, Version 1.2 (Washington, DC, 2017), 12.

59 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, Working Paper (Washington, DC: World Bank, 2001), 39, http://documents.worldbank.org/curated/en/564371468780338375/The-evolution- of-secured-transactions.

60 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 38–39.

sửa đổi, từ chối, miễn giảm, hoặc thay thế mà không có sự đồng ý của bên có

19

quyền”,61 “không phụ thuộc vào sự thi hành hay không thi hành nghĩa vụ của bất kỳ bên còn lại nào trong giao dịch, trừ khi bên có quyền chấm dứt giao dịch”.62

Tính chất tín dụng của giao dịch cho thuê tài chính nhấn mạnh vào lợi ích hay

mục đích khi tham gia giao dịch của bên cho thuê giống với một chủ thể cấp tín

dụng. Người cho thuê sẽ thu lại lợi ích dựa trên khoản tiền anh ta đã đầu tư, như

khi cho vay, chứ không phải dựa trên sự khai thác công năng của tài sản của người

thuê như khi cho thuê. Nói cách khác, tiền thuê có tính chất hoàn trả tiền gốc và lãi

mà bên cho thuê đầu tư chứ không có tính đối giá với sự sử dụng thu lợi từ tài sản của bên thuê.63 Giao dịch này có tính chất tín dụng rõ nét nên lợi ích của bên cho

thuê được bảo vệ như khi họ cho vay. Con nợ một khi nhận tiền từ chủ nợ, họ sẽ

phải trả tiền bất kể họ có sử dụng khoản vay hiệu quả hay không, lỗ hay lãi. Tương

tự như vậy, một khi đã được chuyển giao và chấp nhận tài sản từ nhà cung cấp, bên

thuê có nghĩa vụ phải thanh toán tiền thuê trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả tài sản bị hư hỏng, mất mát, v.v.64

Sự bắt chước giao dịch vay ở đây khiến cán cân lợi ích mất cân bằng. Quyền

lợi của bên cho thuê được đảm bảo bằng nghĩa vụ không thể hủy ngang của bên

thuê, trong khi bên cho thuê lại không có nghĩa vụ gì về tài sản với bên thuê, trừ

việc chuyển giao nó trên giấy tờ. Để cân bằng lợi ích và cũng để tương thích với

vai trò tín dụng của bên cho thuê, UCC đặt ra một mối liên hệ khác giữa bên thuê

và nhà cung cấp. Theo đó, Điều 2A-209 UCC và Điều 7 Luật mẫu thiết lập một

quan hệ pháp luật khiến bên cho thuê trở thành bên thứ ba hưởng lợi trong hợp

đồng cung cấp tài sản. Theo mô hình của Luật mẫu, bên thuê có quyền với tất cả

61 The United States, Uniform Commercial Code (UCC), Article 2A-407.

62 UNIDROIT, Model law on leasing, Article 10.

63 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 76.

64 Peter Breslauer, “Finance Lease, Hell or High Water Clause, and Third Party Beneficiary Theory in

Article 2A of the Uniform Commercial Code”, 326–27.

những nghĩa vụ mà nhà cung cấp chịu trước bên cho thuê. Bên cho thuê cũng phải

20

chuyển giao quyền đối với nhà cung cấp cho bên thuê, trong trường hợp sự chuyển

giao đó là cần thiết để thực hiện hợp đồng cung cấp tài sản. Nếu bên cho thuê từ

chối chuyển giao quyền, cản trở bên thuê nhận được lợi ích chính đáng từ những

cam đoan hay bảo hành về tài sản của nhà cung cấp, bên cho thuê sẽ mất đi sự miễn

trừ nghĩa vụ đối với tài sản và phải thay mặt nhà cung cấp thực hiện những nghĩa

vụ đó. Peter Breslauer nhận xét mối quan hệ giữa bên thuê và nhà cung cấp tương tự như bên mua và bên bán tài sản.65

Tài sản thuê có vai trò như một tài sản bảo đảm

Cho thuê tài chính là công cụ tài trợ vốn được ưa chuộng vì một lý do là nó

không cần biện pháp bảo đảm đi kèm. Doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn thông qua thuê tài chính không cần thế chấp hay cầm cố tài sản của mình66 bởi lẽ chính

tài sản thuê đã đóng vai trò như một tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thuê.67

Cho thuê tài chính có thể coi là một phương pháp chuẩn bảo đảm (quasi- securities)68 thực hiện nghĩa vụ vì nó không phải là một giao dịch bảo đảm đúng

nghĩa. Sự bảo đảm cho bên cho thuê mạnh hơn những trường hợp bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ thông thường bởi những gì họ có là “nhiều hơn một quyền lợi bảo đảm”,69 đó là quyền sở hữu tài sản. Hơn nữa, nếu không phải trường hợp bán và

thuê lại, thì quyền sở hữu tài sản cũng chưa từng thuộc về bên thuê (bên bảo đảm)

để mà mang đi bảo đảm cho bên cho thuê. Điều này lý giải cho những nghĩa vụ

65 Peter Breslauer, 330.

66 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 40.

67 Kronke, “Financial Leasing and Its Unification by UNIDROIT”, 29.

68 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 22.

69 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, 9.

khắt khe mà bên thuê phải chấp hành khi thuê tài chính.

21

Nếu bên thuê vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, ví dụ như nghĩa vụ trả tiền

thuê trong thời gian thuê (ngay cả khi chỉ vi phạm một lần), bên cho thuê có thể thu

hồi tài sản. Tài sản có thể được thanh lý, bán đấu giá để bên thuê nhận được một

khoản tiền bù đắp cho khoản đầu tư của mình. Về mặt lý thuyết, việc thu hồi tài sản

của bên cho thuê sẽ không gặp phải bất cứ khó khăn nào từ luật nội dung bởi bên

cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên quy trình, thủ tục thu hồi tài sản sẽ

phải tuân theo những trình tự nhất định để đảm bảo quyền lợi của bên thuê. Bởi

khoản tiền thuê trong hợp đồng thuê tài chính có mục đích bù đắp lại giá mua tài

sản, các chi phí quản lý đi kèm và phần tiền lãi, nên bên thuê đáng được hưởng

những lợi ích kinh tế từ tài sản thông qua các khoản thanh toán mà họ đã trả trước đó.70 Nói cách khác, bên thuê đã dần dần đạt được và chia sẻ quyền sở hữu tài sản với bên cho thuê thông qua các khoản thanh toán tiền thuê của mình.71

Trong trường hợp khoản tiền thu lại từ việc bán tài sản cộng với khoản tiền

thuê mà bên thuê đã thanh toán lớn hơn những gì mà bên cho thuê sẽ nhận được

nếu hợp đồng thuê tài chính được thực hiện tốt, việc ai sẽ nhận được phần dư ra đó

đóng vai trò quan trọng để xác định mục đích hay chức năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng cho thuê tài chính.72 Một sự bảo đảm cho việc thực hiện

nghĩa vụ sẽ không cung cấp cho bên được bảo đảm nhiều hơn những gì mà họ sẽ

nhận được khi nghĩa vụ đó được thực hiện, có nghĩa là bên cho thuê sẽ không nhận

được phần dư khi bán tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, mà phần đó được trả cho bên thuê. Pháp luật Việt Nam ghi nhận đặc điểm này của cho thuê tài chính.73

70 Ronald C.C. Cuming, “Model Rules for Lease Financing : A Possible Complement to the

UNIDROIT Convention on International Financial Leasing”, 381.

71 Michael I. Tsai, “A Unified Treatment of Finance Lessees’ Revocation of Acceptance under the Uniform Commercial Code”, University of Pennsylvania Law Review 137, số p.h 3 (Tháng Giêng 1989): 967, https://doi.org/10.2307/3312281 note 27.

72 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 23.

73 Ngân hàng Nhà nước - Bộ Công an - Bộ Tư pháp, “Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN- BCA-BTP ngày 10/12/2007 hướng dẫn về thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính” (2007) Điều 16(c).

Ngược lại, nếu bên cho thuê toàn quyền quyết định việc xử lý tài sản, và nhận được

22

phần dư ra khi bán tài sản, thì quyền sở hữu của bên cho thuê là quyền sở hữu đúng nghĩa chứ không chỉ đóng vai trò bảo đảm cho nghĩa vụ trả tiền của bên thuê. 74

Quyền lợi của bên cấp tín dụng được bảo vệ bằng quyền sở hữu tài sản là ưu

điểm của cho thuê tài chính so với các công cụ cấp tín dụng khác. Nghiên cứu của Andrea L. Eisfeldt và Adriano A. Rampini75 chỉ ra rằng quyền sở hữu tài sản khiến

bên cho thuê thu hồi và xử lý tài sản thuê dễ dàng hơn, do đó đóng vai trò quan

trọng trong lợi thế kinh tế của công cụ cho thuê tài chính. Sự dễ dàng thu hồi tài sản

khiến khả năng trả nợ trong mô hình cho thuê cao hơn so với mô hình cho vay. Một

cách ngầm định, người cho thuê có xu hướng cấp tín dụng cho người cần vốn nhiều

hơn người cho vay. Điều này lý giải sự thuận tiện của công cụ thuê đối với những

doanh nghiệp bị hạn chế tín dụng không thể tiếp cận được khoản vay ngân hàng,

mà chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tuy về mặt lý thuyết, bên cho thuê được bảo đảm bằng quyền sở hữu tài sản,

là một vật quyền chính có sự chắc chắn hơn vật quyền bảo đảm, nhưng về mặt thực

tế thì hiệu quả của sự bảo đảm trên tài sản thuê không chắc chắn bù đắp được nghĩa

vụ của bên thuê.

Một là, sự bảo đảm này về mặt thực tế giống với biện pháp thế chấp động sản,

không phải là một biện pháp bảo đảm được ưa chuộng vì tiềm ẩn nhiều rủi ro cho chủ nợ.76 Chủ nợ khó mà kiểm soát được giá trị của tài sản khi không chiếm hữu và

thậm chí không thể thu hồi tài sản nếu con nợ thiếu thiện chí (bán, tẩu tán, v.v.).

Hai là, tài sản thuê tài chính bị khấu hao nhiều hơn so với một tài sản bảo đảm

độc lập với tài sản chính trong giao dịch. Chủ nợ thường chỉ đồng ý áp dụng biện

74 Michael I. Tsai, “A Unified Treatment of Finance Lessees’ Revocation of Acceptance under the

Uniform Commercial Code” note 22.

75 Andrea L. Eisfeldt và Adriano A. Rampini, “Leasing, Ability to Repossess, and Debt Capacity”, 2.

76 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, 12–13.

pháp thế chấp động sản với các giao dịch có khoảng thời gian ngắn, và giá trị của

23

tài sản bảo đảm thường phải lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm. Như vậy

sự sử dụng của bên thế chấp sẽ không gây hao mòn nhiều cho tài sản. Cùng với quy

định của pháp luật hoặc điều khoản trong hợp đồng về nghĩa vụ bảo quản tài sản

của con nợ, chủ nợ có thể tạm yên tâm về giá trị của tài sản bảo đảm. Còn trong

giao dịch cho thuê tài chính, tài sản bảo đảm chính là tài sản thuê mà bên thuê cần

phải sử dụng để thu lại lợi nhuận, từ đó thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Giá trị của tài

sản thuê lúc đầu luôn nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm, vì giá trị của

nghĩa vụ được bảo đảm/tiền thuê = giá mua tài sản + chi phí quản lý/chi phí phát

sinh + tiền lãi. Hơn nữa thời gian thuê tài chính chiếm phần lớn hoặc thậm chí lớn

hơn vòng đời sử dụng của tài sản, nên sự hao mòn lớn là tất yếu. Đổi lại, tiền thuê

trả theo thời gian có thể bù đắp giá trị hao mòn của tài sản. Nói cách khác, trong

giao dịch cho thuê tài chính, nếu bên thuê trả tiền đều đặn thì càng ngày nghĩa vụ

được bảo đảm càng nhỏ hơn, tỉ lệ thuận với giá trị tài sản bảo đảm bị hao mòn qua

thời gian, nhờ vậy rủi ro tín dụng đối với bên cho thuê không tăng lên. Điều này

cũng có nghĩa, nếu có sự ngắt quãng trong việc trả tiền thuê, thì bên cho thuê sẽ

phải cân nhắc thu hồi tài sản ngay lập tức vì càng để lâu tài sản càng bị hao mòn

mà giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm không giảm theo.

Một số nền tài phán bảo vệ bên thuê bằng một số biện pháp giới hạn quyền

thu hồi tài sản của bên cho thuê trên thực tế, thường thể hiện dưới hai dạng: (i) bên

cho thuê chỉ được thu hồi tài sản sau khi bên thuê không hoàn thành nghĩa vụ trả

tiền thuê nhiều lần; (ii) bên cho thuê chỉ được thu hồi tài sản sau khi có lệnh của tòa

án. Cả hai biện pháp này đều kéo dài sự thu hồi tài sản, thậm chí biện pháp đầu tiên

còn khiến tài sản bị hao mòn quá nhiều so với phần nghĩa vụ được bảo đảm, không

bảo vệ được quyền lợi của bên cho thuê. Ronald C.C. Cuming nhận xét rằng, sự trì

hoãn thu hồi tài sản thuê phá vỡ thế mạnh kinh tế của công cụ cho thuê tài chính.

77 Ronald C.C. Cuming, “Model Rules for Lease Financing : A Possible Complement to the

UNIDROIT Convention on International Financial Leasing”, 381–82.

Cốt yếu trong việc thu hồi tài sản thuê là khoảng thời gian thông báo (về việc thu hồi) giữa sự vi phạm nghĩa vụ và sự thu hồi tài sản phải ngắn.77 Điều này gợi ý

24

rằng, khi giải quyết các tranh chấp cho thuê tài chính, tòa án cần thận trọng trong

việc xem xét yếu tố thiện chí của bên cho thuê và tính chất thực hiện nghĩa vụ

nghiêm chỉnh của bên thuê để không làm mất đi lợi thế của giao dịch này.

Chức năng bảo đảm của tài sản thuê được ghi nhận trong khoa học pháp lý và

được hiện thực hóa trong thực tiễn, tuy nhiên nó không được ghi nhận là một “biện

pháp bảo đảm” trong pháp luật thực định ở những quốc gia ghi nhận biện pháp bảo đảm dựa trên hình thức.78 UCC của Hoa Kỳ ghi nhận biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dựa trên bản chất79 và đưa ra bốn tiêu chí để xác định một giao dịch có tạo

ra quyền lợi được bảo đảm hay không. Nếu bên thuê có nghĩa vụ hoặc được ngầm

định bởi những điều khoản trong hợp đồng để trở thành chủ sở hữu thật sự của tài

sản (tất nhiên đổi lại là khoản tiền thuê đã được tính toán để bù đắp hết các chi phí

đầu tư và tiền lãi cho bên cho thuê), thì giao dịch thuê đó đã tạo ra một quyền lợi

được bảo đảm cho bên cho thuê. Nhìn chung thì, bên thuê trả tiền thuê cho đến khi họ trở thành chủ sở hữu hoặc cho đến khi tài sản đã bị khấu hao hết.80 Pháp luật

Hoa Kỳ coi đó là một giao dịch bảo đảm núp bóng giao dịch thuê và sẽ được điều chỉnh bởi quy định về hợp đồng mua bán và quy định về giao dịch bảo đảm.81

Luật mẫu không áp dụng với các giao dịch thuê mà quyền sở hữu tài sản của

bên cho thuê đóng vai trò là một quyền lợi bảo đảm, không phụ thuộc vào sự sắp đặt giao dịch của các bên.82 Có lẽ đây là sự ảnh hưởng từ UCC của Hoa Kỳ. Ở Hoa

78 Chẳng hạn trong pháp luật Việt Nam, cho thuê tài chính không phải là một giao dịch bảo đảm bởi không nằm trong số những biện pháp bảo đảm được liệt kê tại Điều 292 Bộ luật dân sự năm 2015. Xem thêm: Ronald C.C. Cuming, “Model Rules for Lease Financing : A Possible Complement to the UNIDROIT Convention on International Financial Leasing” note 15.

79 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, 11.

80 Michael I. Tsai, “A Unified Treatment of Finance Lessees’ Revocation of Acceptance under the

Uniform Commercial Code”, 973.

81 Michael I. Tsai, 970.

82 UNIDROIT, “Official Commentary to the UNIDROIT Model Law on Leasing”, Uniform Law

Review, 2010, 572 Comment on Article 3.

Kỳ, trước khi các quy định tại Điều 2A điều chỉnh quan hệ thuê được pháp điển

25

hóa vào UCC, giao dịch cho thuê tài chính được ghi nhận là giao dịch vay có bảo

đảm và được điều chỉnh bởi quy định về giao dịch bảo đảm. Điều này không phụ

thuộc vào sự sắp đặt giao dịch của các bên bởi các tiêu chí để xác định giao dịch

bảo đảm trong UCC dựa vào bản chất của giao dịch. Điều 2A nhằm làm rõ không phải tất cả giao dịch cho thuê tài chính đều bị luật coi là giao dịch bảo đảm.83 Việc

Luật mẫu không áp dụng với những giao dịch cho thuê tài chính có chức năng bảo

đảm cho quyền lợi của bên cho thuê có lẽ chỉ phù hợp với những quốc gia có định

nghĩa hay các tiêu chí nội dung để xác định giao dịch bảo đảm như Hoa Kỳ. Với

các quốc gia còn lại, giao dịch bảo đảm được xác định theo hình thức quy định bởi pháp luật84 thì sẽ không xảy ra sự xung đột hay nhầm lẫn khi áp dụng quy định về

cho thuê tài chính và quy định về giao dịch bảo đảm.

Hơn nữa, hầu hết giao dịch cho thuê tài chính đều có chức năng bảo đảm cho

quyền lợi của bên cho thuê vì quan hệ giữa bên cho thuê và bên thuê giống như chủ

nợ và con nợ. Bên cho thuê có vai trò cho vay đơn thuần và được loại trừ nhiều

trách nhiệm đối với tài sản thuê. Một giao dịch cho thuê tài chính không quá khác biệt một giao dịch cho vay có bảo đảm.85 Sự phân biệt giữa cho thuê đúng nghĩa và

cho thuê với mục đích bảo đảm chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cho thuê vận hành.

Có lẽ vì vậy Guojin Liu nhận xét rằng Luật mẫu đã sai lầm khi loại trừ các giao dịch cho thuê tài chính có chức năng bảo đảm ra khỏi phạm vi áp dụng.86 Với các

quốc gia điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính bằng ngành luật tín dụng/ngân

hàng như Việt Nam, thì có lẽ không cần đặt ra vấn đề phân biệt này nữa và Luật

83 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 29.

84 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, 11.

85 Uniform Law Commission, “UCC Article 2,Sales and Article 2A, Leases (2003) Summary”.

86 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 156.

mẫu về cho thuê của UNIDROIT vẫn có giá trị tham khảo cao.

26

1.1.3. Kết cấu cơ bản của giao dịch cho thuê tài chính

Giao dịch cho thuê tài chính theo nghĩa hẹp được hiểu là một hợp đồng thuê

giữa bên cho thuê và bên thuê. Theo nghĩa rộng, nó được hiểu là một quan hệ ba

bên giữa bên cho thuê, bên thuê và nhà cung cấp, bao gồm hai hợp đồng có mối

liên hệ mật thiết với nhau: hợp đồng cung cấp tài sản và hợp đồng thuê tài chính. Bên cho thuê tham gia vào cả hai hợp đồng này.87 Bên thuê có vai trò cấp tín dụng

trong khi nhà cung cấp mới là bên cung cấp tài sản thật sự. Luật mẫu và UCC của

Hoa Kỳ đều coi hợp đồng cung cấp tài sản giữa nhà cung cấp và bên cho thuê là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong đó người thứ ba hưởng lợi là bên thuê.88

Quan hệ ba bên trong giao dịch thuê tài chính thường trải qua các giai đoạn

sau89:

(1) bên thuê lựa chọn tài sản và nhà cung cấp tài sản. Thông thường bên thuê

sẽ đàm phán trực tiếp với nhà cung cấp tài sản các điều khoản của hợp đồng cung

cấp tài sản như đặc điểm kỹ thuật, giá cả, bảo hành, giao hàng, v.v. trừ điều khoản thanh toán tiền mua tài sản.90 Nghĩa vụ thanh toán là của bên cho thuê theo đúng

vai trò tài trợ vốn của mình nên điều khoản thanh toán thường được bên cho thuê

đàm phán với nhà cung cấp sau đó;

(2) bên thuê giao kết hợp đồng thuê tài chính với bên cho thuê (thường là các

định chế tài chính), đối tượng của hợp đồng này chính là đối tượng của hợp đồng

cung cấp tài sản giữa nhà cung cấp và bên cho thuê. Bên thuê nhận chuyển giao

toàn bộ các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản từ bên cho thuê trừ quyền sở

87 UNIDROIT, Model law on leasing, Article 1.

88 The United States, Uniform Commercial Code (UCC), Article 2A-209; UNIDROIT, Model law on

leasing, Article 7.

89 Kronke, “Financial Leasing and Its Unification by UNIDROIT”, 27.

90 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, 28

Figure 2-1.

hữu trên danh nghĩa và có nghĩa vụ trả tiền thuê;

27

(3) bên cho thuê xác lập quyền sở hữu tài sản bằng việc giao kết hợp đồng

cung cấp tài sản với nhà cung cấp theo những điều khoản mà bên thuê đã liên hệ đàm phán với nhà cung cấp từ trước đó;91

(4) nhà cung cấp giao tài sản trực tiếp tới bên thuê. Bên cho thuê không thực

hiện từ việc đàm phán về chất lượng, chủng loại của hợp đồng cho đến việc chuyển

giao tài sản trên thực tế. Các vấn đề về thực trạng hoạt động của tài sản cũng như

việc bảo hành và bảo dưỡng tài sản là vấn đề giữa nhà cung cấp và bên đi thuê.

Chính điều này là cơ sở khiến bên cho thuê thoát khỏi trách nhiệm về rủi ro của tài sản thuê.92

1.1.4. Phân loại các hình thức cho thuê tài chính

Có nhiều tiêu chí phân loại các giao dịch cho thuê tài chính (hiểu theo nghĩa

rộng, bao gồm cả bên cung cấp tài sản):

Theo nơi cư trú/trụ sở của các chủ thể trong giao dịch cho thuê tài chính (bao

gồm cả nhà cung cấp):93

Giao dịch cho thuê tài chính nội địa: là loại hợp đồng mà Bên thuê, Bên cho

thuê và Nhà cung cấp đều có nơi cư trú/trụ sở trên phạm vi lãnh thổ của một quốc

gia. Toàn bộ hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính đều được

91 Vấn đề hợp đồng thuê tài sản hay hợp đồng cung cấp tài sản được giao kết trước có lẽ không thực sự quan trọng vì có nhiều cách, nhiều thứ tự đàm phán, giao kết hợp đồng để tạo lập một giao dịch cho thuê tài chính có ba chủ thể với hai hợp đồng. Trong sách Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies, các tác giả cho rằng hợp đồng cung cấp tài sản được giao kết trước khi giao kết hợp đồng thuê tài sản. Xem thêm: Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., 28 Figure 2-1.; Peter Breslauer, “Finance Lease, Hell or High Water Clause, and Third Party Beneficiary Theory in Article 2A of the Uniform Commercial Code”, note 11.

92 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 48.

93 Ngô Thanh Hương, 48.

tiến hành tại quốc gia đó.

28

Giao dịch cho thuê tài chính quốc tế: là loại hợp đồng có chứa đựng yếu tố

nước ngoài. Các chủ thể trong hợp đồng không có nơi cư trú/trụ sở tại cùng một

quốc gia (có thể mỗi chủ thể ở một quốc gia khác nhau, hoặc hai chủ thể cùng một quốc gia nhưng chủ thể còn lại ở quốc gia khác94).

Theo sự lưu chuyển của tài sản thuê:

Giao dịch cho thuê tài chính trực tiếp (direct lease): là loại giao dịch cho thuê

tài chính cơ bản mà bên cho thuê mua tài sản từ nhà cung cấp rồi cho thuê (cũng có

ý kiến cho rằng loại giao dịch này gồm cả trường hợp giao dịch chỉ có hai chủ thể

là bên cho thuê và bên thuê mà không có sự hiện diện của nhà cung cấp. Bên cho thuê sử dụng thiết bị sẵn có của mình tài trợ trực tiếp cho người thuê.95 Nhưng theo

tác giả, giao dịch này không có những đặc tính của một giao dịch cho thuê tài chính

được thảo luận trong đề tài này, mà giống với một giao dịch cho thuê vận hành

hơn, vì bên cho thuê không được giải phóng khỏi các nghĩa vụ liên quan đến tài sản

thuê và không chuyển giao được cơ bản toàn bộ lợi ích và rủi ro của tài sản thuê

cho bên thuê).

Giao dịch bán và thuê lại (sale – leaseback): tài sản thuê được bên bán bán cho bên mua, sau đó bên bán thuê lại chính tài sản đó của bên mua.96 Loại giao

dịch này chỉ gồm hai chủ thể là bên bán – thuê lại và bên mua – cho thuê lại. Bên

bán – thuê lại kiêm cả vai trò nhà cung cấp nên vẫn giữ được những đặc tính của

giao dịch cho thuê tài chính đó là: bên bán có quyền lựa chọn tài sản và nhà cung

cấp, bên mua – cho thuê lại chuyển giao gần như toàn bộ rủi ro và lợi ích gắn liền

94 Uarda Roshi, “A legal analysis of financial leasing and its unification by UNIDROIT”, 19.

95 Trần Tô Tử và Nguyễn Hải Sản, Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua, 36; Ngô Thanh Hương,

“Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại”, 50.

96 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 28.

với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê.

29

Theo mức độ và tính chất tham gia của các chủ thể trong giao dịch cho thuê

tài chính

Theo tiêu chí này có thể phân loại thành giao dịch cho thuê tài chính thông

thường (giống như loại direct lease ở trên) và giao dịch cho thuê tài chính phức tạp.

Giao dịch cho thuê tài chính phức tạp lại được phân chia theo mức độ phức tạp của

bên thuê và bên cho thuê.

Từ phía bên cho thuê, có:

(1) Hợp đồng cho thuê đòn bẩy hay thuê bắc cầu (Leveraged Lease Contract):

bên cho thuê đi vay vốn để mua tài sản cho thuê. Trong hợp đồng cho thuê tài

chính này có thêm điều khoản vay mà cho phép bên cho thuê đi vay để mua tài sản

cho thuê và bảo đảm bằng chính quyền sở hữu tài sản cho thuê và các khoản tiền

thuê mà bên thuê sẽ trả trong tương lai. Về mặt pháp lý, bên cho thuê vẫn là chủ sở

hữu tài sản và họ vẫn là người có quyền trong quan hệ cho thuê, còn bên cho vay là

người có quyền trong quan hệ cho vay.

(2) Hợp đồng cho thuê liên kết (Syndicate Lease Contract): là hợp đồng trong

đó chủ thể cho thuê bao gồm từ hai chủ thể trở lên. Bên cho thuê không có khả

năng tự mình cấp toàn bộ khoản tín dụng hoặc có nhưng để tránh rủi ro nhưng không muốn đi vay mà tìm kiếm sự liên kết bên ngoài.97

Từ phía bên thuê, có Hợp đồng cho thuê giáp lưng (Under Lease Contract): là

thỏa thuận cho thuê trong đó thông qua sự đồng ý của bên cho thuê, bên thuê thứ

nhất cho bên thuê thứ hai thuê lại tài sản đó. Thông thường, hợp đồng này được ký

kết do giữa Bên thuê thứ nhất và Bên cho thuê đã ký một thỏa thuận cho thuê tài

97 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê

lại”, 49–50.

chính, nhưng khi thực hiện được một phần hợp đồng Bên thuê thứ nhất không còn

30

nhu cầu đối với tài sản thuê hay vì một lý do nào đó mà hợp đồng này không thể hủy ngang nên họ phải tìm Bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng.98

1.2. Lý luận về kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

“Hoạt động cho thuê tài chính” có nghĩa rộng hơn so với “giao dịch cho thuê

tài chính”, không chỉ đề cập đến quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể trong giao dịch

cho thuê tài chính. Do vậy rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính theo nghĩa

rộng, ngoài những rủi ro trong việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong giao dịch

còn bao gồm những loại rủi ro khác ví dụ như rủi ro trong việc vận hành công ty

cho thuê tài chính, rủi ro thị trường, v.v. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này

cần xác định phạm vi nghiên cứu rất hẹp lại, nhằm tập trung vào những rủi ro mà

cần có biện pháp kiểm soát từ pháp luật. Các rủi ro này chủ yếu là những rủi ro ảnh

hưởng tới quyền lợi của các bên trong hợp đồng khi bên có nghĩa vụ không thể

hoàn thành nghĩa vụ của mình, và rủi ro ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba

trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính.

1.2.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Rủi ro có thể hiểu là các sự kiện không chắc chắn sẽ xảy ra hay không, ảnh

hưởng đến mục tiêu của chủ thể. Rủi ro trong hợp đồng cho thuê tài chính là những

sự kiện không chắc chắn xảy ra mà có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ

thể trong hợp đồng hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba. Với bên cho thuê,

đó có thể là các rủi ro về sự hoàn trả khoản tiền đầu tư và tiền lãi. Với bên thuê có

thể là các rủi ro về chất lượng, sự ổn định của tài sản hoặc khả năng vận hành tài

sản, nghĩa vụ khi tài sản gây thiệt hại cho chủ thể khác hoặc việc vận hành vi phạm

pháp luật v.v.

Với định nghĩa như vậy có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn trong một hoạt động cho

98 Ngô Thanh Hương, 50–51.

thuê tài chính. Tuy nhiên pháp luật chỉ đặt ra biện pháp kiểm soát một số rủi ro nhất

31

định, chủ yếu là trong tương quan quyền và nghĩa vụ của các bên và những rủi ro

ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích công cộng. Những rủi ro trong

kinh doanh về lợi nhuận, danh tiếng hay giá cả, pháp luật thường không kiểm soát

mà dành cho những công cụ quản trị khác.

Hợp đồng cho thuê tài chính vừa có tính chất của một hợp đồng thuê tài sản,

vừa có tính chất của một hợp đồng tín dụng, nên sẽ có những rủi ro của cả hai loại

hợp đồng này. Tuy nhiên, những biện pháp kiểm soát rủi ro cho một hợp đồng thuê

tài sản thông thường đã được pháp luật đưa ra, chẳng hạn như các biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đặt cọc, ký quỹ, v.v. Hợp đồng thuê tài sản thông

thường ít bị áp đặt nhiều biện pháp kiểm soát rủi ro nếu không ảnh hưởng tới lợi

ích của người thứ ba, mà chủ yếu để cho các bên tự thỏa thuận giải quyết. Tuy

nhiên những hợp đồng tín dụng thường bị kiểm soát chặt chẽ hơn bởi pháp luật do

tiềm ẩn những rủi ro có thể tác động đến sự lưu thông tiền tệ, gây ảnh xấu đến cả

hệ thống tài chính tiền tệ và gây bất ổn cho nền kinh tế.

Ngoài ra, tính chất dài hạn của hợp đồng cho thuê tài chính khiến việc kiểm

soát và phân bổ rủi ro cần được điều chỉnh đặc biệt. Giống như các quan hệ thuê tài

sản khác, trong quan hệ cho thuê tài chính cũng có sự phân tách giữa quyền sở hữu

với quyền sử dụng tài sản và sự chiếm hữu tài sản. Với những tài sản không phải

đăng ký quyền sở hữu thì người đang sử dụng và chiếm hữu tài sản được suy đoán mặc định là chủ sở hữu tài sản.99 Hợp đồng cho thuê tài chính có thời hạn thuê rất

dài, chiếm phần lớn hoặc toàn bộ vòng đời của tài sản. Hơn nữa bên thuê thực hiện

những quyền năng như một chủ sở hữu thực thụ. Điều này khiến bên thứ ba rất khó

có thể xác định được tài sản đó có phải không thuộc quyền sở hữu của bên thuê hay

không khi xác lập giao dịch trên tài sản thuê. Do vậy khi xảy ra vấn đề bên thuê

mang tài sản thuê đi thế chấp, bán, hoặc thực hiện các giao dịch khác, sẽ xảy ra

99 Nguyễn Ngọc Điện, “Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình huống luật xa rời cuộc sống”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử (http://www.nclp.org.vn), truy cập 27 Tháng Tám 2018, http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-su/quyen-so-huu-va-quyen-chiem-huu-bai-hoc-ve- tinh-huong-luat-xa-roi-cuoc-song.

xung đột giữa bên cho thuê và bên thứ ba. Dù cuối cùng bên thuê sẽ phải chịu trách

32

nhiệm vì hành động không ngay thẳng của mình, thì tài sản vẫn chỉ có một và pháp

luật vẫn phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, quyền lợi bảo đảm hoặc các vật

quyền khác trên tài sản sẽ thuộc về ai.

Sự chuyển giao hầu hết các rủi ro và lợi ích từ bên cho thuê sang bên thuê đặt

ra những nghĩa vụ pháp định của bên thuê khi các rủi ro liên quan đến sở hữu tài

sản xảy ra. Trong một hợp đồng thuê thông thường, sẽ có những rủi ro nhất định

mà chủ sở hữu phải gánh chịu. Chẳng hạn như những rủi ro xảy ra khiến tài sản bị

hư hỏng, mất mát, hoặc rủi ro về an toàn do không thực hiện đúng nghĩa vụ phòng

tránh rủi ro như bảo dưỡng, bảo trì, kiểm định an toàn cho tài sản, v.v. Tuy nhiên

với hợp đồng cho thuê tài chính, các rủi ro đó đều được chuyển dịch cho bên thuê

và được pháp luật ghi nhận. Đồng thời bên cho thuê có vai trò cực kỳ hạn chế trong

việc cung cấp tài sản cho bên thuê, chỉ đóng vai một bên cung cấp tài chính đơn

thuần, nên hầu hết các khuyết tật của tài sản gây thiệt hại cho bên thuê, gây thiệt

hại cho người thứ ba hoặc những thiệt hại khác, bên cho thuê đều không phải gánh

chịu. Bên thuê và nhà cung cấp mới là những chủ thể phải chịu trách nhiệm cho

những thiệt hại đó.

Dựa vào đặc điểm hỗn hợp của hợp đồng cho thuê tài chính, có thể liệt kê ra

những nhóm rủi ro trong giao dịch cho thuê tài chính như sau:

i. Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng xảy ra khi mà bên thuê không thể hoàn trả đầy đủ và đúng hạn

tiền thuê tài sản. Bên cho thuê sau khi thu hồi tài sản không thể triển khai cho

người khác thuê lại tài sản đó trong một khoảng thời gian hợp lý, hoặc không thể

bán tài sản với mức giá bù đắp được khoản tiền đầu tư đã bỏ ra và lãi suất do tài sản bị hư hỏng trong quá trình sử dụng.100 Rủi ro này giống như rủi ro của chủ nợ

trong các hợp đồng cho vay, thể hiện đặc điểm tín dụng của hợp đồng cho thuê tài

100 The Office of the Comptroller of the Currency’s (OCC), Comptroller’s Handbook - Lease

Financing, 15.

chính.

33

ii. Rủi ro gắn với quyền sở hữu tài sản

Rủi ro này là các rủi ro về khuyết tật của tài sản, tài sản bị mất, hư hỏng, tài

sản gây thiệt hại cho người thứ ba, thiệt hại môi trường, v.v. Thông thường trong

hợp đồng cho thuê vận hành, bên cho thuê với tư cách là chủ sở hữu tài sản sẽ phải

chịu trách nhiệm về những loại rủi ro này. Tuy nhiên trong hợp đồng cho thuê tài

chính, chúng thuộc về bên thuê vì tính chất của giao dịch cho thuê tài chính là

chuyển giao về cơ bản tất cả các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản

cho bên thuê. Có thể nói rằng những rủi ro bắt nguồn từ đặc điểm của một hợp

đồng thuê tài sản đã được chuyển dịch hầu hết cho bên thuê chủ sở hữu trên

phương diện kinh tế của tài sản.

iii. Rủi ro về quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản

Đây là các rủi ro đối với bên cho thuê và người thứ ba khi một người thứ ba

xác lập giao dịch với bên thuê trên tài sản thuê mà vẫn tưởng rằng đó là tài sản

thuộc quyền sở hữu của bên thuê. Quyền sở hữu của bên cho thuê và vật quyền của

người thứ ba ngay tình với tài sản bị xung đột và pháp luật cần giải quyết chúng.

iv. Rủi ro pháp lý

Một nhóm rủi ro khác rất rộng mà trong kinh doanh doanh nghiệp nào cũng

phải đối mặt là rủi ro pháp lý. Nguyên nhân của chúng thì rộng vô cùng và rủi ro ở

mỗi vụ việc có những tính chất khác nhau. Những tác động của chúng thường là

khiến các chủ thể không thể dự đoán trước tác động của hệ thống pháp luật, và do

đó dẫn đến vi phạm pháp luật, vô hiệu giao dịch, bên có quyền thì không thể truy

đòi quyền lợi chính đáng hoặc bên có nghĩa vụ không thể thực thi nghĩa vụ của

101 Dimitris N. Chorafas, Operational Risk Control with Basel II: Basic Principles and Capital

Requirements, Repr, Elsevier Finance (Amsterdam: Elsevier/Butterworth-Heinemann, 2005), 50.

mình, suy giảm niềm tin giữa các đối tác khiến chi phí giao dịch tăng cao, và đặc biệt nguy hiểm khi chúng khuếch đại thiệt hại gây nên bởi các rủi ro khác.101

34

Ở mức độ toàn cầu, rủi ro pháp lý là tất yếu khi có xung đột pháp luật giữa

các quốc gia và chưa có một hệ thống pháp luật hài hòa (về một vấn đề nhất định)

để sử dụng chung trên phạm vi quốc tế. Các giao dịch cho thuê tài chính quốc tế mà

không áp dụng một luật chung, chẳng hạn Công ước UNIDROIT về cho thuê tài

chính quốc tế năm 1988, rất dễ vướng phải rủi ro pháp lý do xung đột pháp luật gây

ra. Ở mức độ quốc gia, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu minh bạch, hệ

thống tư pháp và hành pháp không hiệu quả, hoặc thậm chí sâu xa hơn là tham nhũng, tư bản thân hữu, v.v. đều là nguyên nhân tạo ra rủi ro pháp lý.102

1.2.2. Khái niệm kiểm soát rủi ro

Kiểm soát rủi ro là các biện pháp nhằm nhận diện rủi ro, phòng ngừa và ngăn

chặn rủi ro xảy ra, hạn chế thấp nhất mức thiệt hại mà rủi ro gây ra. Vì vậy bất cứ

một cách thức quản trị hay giám sát nào hướng tới những mục tiêu trên đều có thể

đống vai trò kiểm soát rủi ro. Đối với ba nhóm rủi ro đầu tiên đến từ tính chất của

giao dịch cho thuê tài chính, pháp luật lường trước được những xung đột, tranh

chấp có thể xảy ra có thể giúp nhận diện rủi ro. Việc đặt ra những quy định điều

chỉnh các vấn đề đó tương ứng với phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro xảy ra và hạn chế

thiệt hại. Tuy nhiên, từ góc nhìn trung lập, đôi khi pháp luật quản lý rủi ro bằng

cách phân bổ rủi ro trong một quan hệ nhất định, tùy thuộc vào việc bên nào có

nghĩa vụ phải phòng ngừa rủi ro đó. Với nhóm rủi ro pháp lý, hệ thống pháp luật về

cho thuê tài chính cũng như các cơ chế hỗ trợ cần được hoàn thiện. Đồng thời hệ

thống tư pháp và hành pháp cần nâng cao hiệu quả hoạt động để hiện thực hóa

những cơ chế trên.

1.2.3. Vai trò của kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp,

đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi họ khó tiếp cận các nguồn vốn khác.

102 Chorafas, 49.

Tuy nhiên thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay chưa phát triển. Có

35

nhiều lý do cho vấn đề này, chủ yếu đến từ nghiệp vụ kinh doanh của các doanh nghiệp cho thuê tài chính và sự hiểu biết của các doanh nghiệp cần vốn.103 Tuy

nhiên những rủi ro trong giao dịch cũng là rào cản khiến cả bên cho thuê và bên

thuê đều ngần ngại với công cụ này.

Với tính chất tín dụng, trong giao dịch cho thuê tài chính luôn thường trực

nhiều rủi ro vận hành khiến bên cho thuê đặt ra các yêu cầu cao với bên thuê và

làm tăng giá thuê để bù đắp cho các rủi ro đó. Các yêu cầu này là rào cản gây khó

khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tiếp cận vốn để kinh doanh sản xuất.

Ngay cả khi tài sản thuê được sử dụng như tài sản bảo đảm, thì rủi ro trong việc thu

hồi và xử lý tài sản cũng khiến bên cho thuê e ngại. Về phía bên thuê, giá thuê cao

và những rủi ro về tài sản họ phải gánh chịu trong khi không được nắm quyền sở

hữu khiến hình thức huy động vốn này kém hấp dẫn khi so sánh với vay ngân hàng

hay mua trả góp, mặc dù về lý thuyết thì nó có chi phí giao dịch thấp hơn.

Đối với hệ thống tiền tệ, kiểm soát rủi ro trong cho thuê tài chính cũng là một

phần trong chính sách kiểm soát rủi ro trong hệ thống tài chính ngân hàng nói

chung. Chủ thể cho thuê tài chính hiện nay ở Việt Nam là các công ty cho thuê tài

chính, công ty con của các ngân hàng nội địa hoặc ngoại quốc. Nguồn vốn cho vay

của các công ty này chủ yếu lấy từ công ty mẹ hoặc vốn huy động trong nền kinh tế

chứ không phải vốn tự có. Vì vậy kiểm soát rủi ro trong cho thuê tài chính giúp

dòng vốn của xã hội được đầu tư và sinh lời hiệu quả. Đối với nền kinh tế, các rủi

ro trong giao dịch được kiểm soát sẽ thúc đẩy những định chế tài chính cấp vốn dễ

dàng hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ

chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động và đóng góp khoảng 45% vào

GDP. Khối doanh nghiệp này nếu được tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng để

103 Phạm Thị Vân Huyền (2013), Thuê tài chính - một giải pháp tài trợ vốn hữu hiệu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa www.dntm.vn/index.php/news/Nhan-dinh-Du-bao/Thue-tai-chinh-mot-giai-phap-tai- tro-von-huu-hieu-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-7991/

mở rộng kinh doanh sản xuất sẽ khiến nội lực nền kinh tế tăng đáng kể.

36

Tóm lại, kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính nói chung mang

lại lợi ích cho nhiều phía. Với công ty cho thuê tài chính, kiểm soát rủi ro tốt giúp

họ đầu tư vốn hiệu quả, giảm mức nợ xấu, nâng cao uy tín cũng như cải thiện chất

lượng dịch vụ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh không chỉ với các đối thủ cho

thuê tài chính khác mà với cả các hình thức cấp tín dụng khác. Với bên đi thuê, họ

có một kênh tiếp cận vốn với chi phí thấp khi không thể đáp ứng được các yêu cầu

từ kênh huy động vốn khác như ngân hàng hay thị trường chứng khoán. Với hệ

thống tài chính ngân hàng, kiểm soát rủi ro giúp duy trì sự bền vững của hệ thống

trung gian tiền tệ. Với nền kinh tế, kiểm soát rủi ro khiến dòng vốn từ xã hội được

sử dụng hiệu quả và mang lại lợi ích tổng thể tối ưu.

1.3. Biện pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Trong mục này đề tài sẽ tập trung vào những biện pháp đặc thù trong kỹ thuật

pháp lý nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính. Các biện pháp

kiểm soát rủi ro chung đối với tổ chức tín dụng như tỷ lệ bảo đảm an toàn, phân

loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, v.v. đối với công ty cho thuê tài chính không có

sự khác biệt nhiều về chất so với các tổ chức tín dụng khác mà chỉ khác nhau ở

mức độ. Các biện pháp này sẽ không được đề cập đến trong đề tài bởi đã có các

công trình nghiên cứu sâu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng phân tích về các biện

pháp kiểm soát rủi ro trong tổ chức tín dụng nói chung, hoặc ngay trong lĩnh vực

pháp lý cũng có những công trình nghiên cứu gần đây tiêu biểu là cuốn sách

chuyên khảo Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay

của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới của nhóm tác giả do

Lê Thị Thu Thủy (2016) làm chủ biên.

1.3.1. Biện pháp dành cho các bên

Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký hợp đồng

Trong các giao dịch cấp tín dụng nói chung, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ luôn

là biện pháp pháp lý an toàn được bên cho vay áp dụng để giải quyết nhóm (i) rủi

ro tín dụng. Biện pháp này không chỉ ngăn ngừa tâm lý ỷ lại của bên vay trong việc

37

trả nợ, một “hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng”, mà còn là một nguồn thu

hồi vốn dự phòng cho tổ chức tín dụng. Về mặt tâm lý, lý thuyết hành vi và lý

thuyết trò chơi đã chỉ ra rằng tài sản bảo đảm khiến bên đi vay không dám mạo

hiểm thực hiện các dự án với rủi ro cao. Họ sẽ tính toán lợi ích và chi phí cho hành

động của mình, và tài sản bảo đảm sẽ tăng chi phí của quyết định sử dụng nguồn vốn vay.104 Khi họ thực hiện đầu tư thận trọng hơn thì khả năng sinh lời tuy thấp

hơn nhưng chắc chắn hơn kéo theo khả năng trả nợ cũng cao hơn. Hơn nữa, ngay

cả khi bên đi vay kinh doanh thua lỗ, thì bên cho vay vẫn có thể thu hồi vốn (một

phần hoặc toàn bộ) khi xử lý tài sản bảo đảm.

Như đã phân tích ở Chương 1, giao dịch cho thuê tài chính có sẵn một cơ chế

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bởi bên cho thuê sử dụng chính tài sản thuê để bảo

đảm nghĩa vụ. Biện pháp bảo đảm này có thể không được coi là một biện pháp bảo

đảm nghĩa vụ đúng nghĩa của nó, bởi trong thời gian thực hiện giao dịch, tài sản

bảo đảm lại đang thuộc sở hữu của chính chủ nợ. Nó đồng nghĩa với việc bên đi

thuê không phải bỏ ra vốn từ phía mình, và do đó không đạt được mục đích ngăn

ngừa tâm lý ỷ lại khi trả tiền thuê. Mục đích thu hồi vốn và lãi của bên cấp vốn khi

xử lý tài sản bảo đảm cũng rất bấp bênh về mặt giá trị nhưng lại có ưu thế hơn các

biện pháp bảo đảm khác trong vấn đề xử lý tài sản.

Giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm/tiền thuê = giá mua tài sản + chi phí quản

lý/chi phí phát sinh + tiền lãi. Như vậy giá trị của tài sản bảo đảm – tài sản thuê lúc

đầu luôn nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm. Nếu có rủi ro tín dụng xảy ra,

tức bên thuê không thể trả tiền thuê gốc hoặc lãi đúng hạn cho bên cho thuê, thì bên

cho thuê chỉ có thể thu hồi được toàn bộ vốn đầu tư khi tốc độ trả tiền của bên thuê

nhanh hơn tốc độ khấu hao tài sản và việc thu hồi tài sản diễn ra nhanh chóng. Về

104 Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2016), 36– 38.

mặt lý thuyết, quyền thu hồi tài sản của bên cho thuê và quyền ưu tiên đối với tài

38

sản là tuyệt đối vì họ có quyền sở hữu với tài sản.105 Khi bên đi thuê phá sản, bên

cho thuê có thể lấy lại tài sản mà không cần đợi lấy nợ trên tổng tài sản có của bên

thuê như các chủ nợ chỉ có quyền tài sản được bảo đảm khác.

Để phù hợp với tính tuyệt đối của quyền sở hữu cũng như đặc điểm của giao

dịch cho thuê tài chính, việc bên cho thuê thu hồi tài sản chỉ nên là vấn đề thủ tục

mà không gặp bất cứ trở ngại về mặt quyền nội dung nào, trừ trường hợp tranh

chấp quyền lợi trên tài sản với người thứ ba ngay tình sẽ được bàn ở phần sau. Điều

này có nghĩa rằng, trong mọi trường hợp bên cho thuê cần phải được tạo điều kiện

để có thể thu hồi tài sản nhanh chóng. Ngay cả khi bên thuê khởi kiện bên cho thuê

vì cho rằng việc thu hồi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, nghĩa vụ luật định hoặc quy

định pháp luật về thủ tục thu hồi tài sản, thì vụ kiện cũng không thể ngăn cản quyền thu hồi tài sản của bên cho thuê. 106 Bù lại, bên thuê có thể yêu cầu bồi thường thiệt

hại (trong hoặc ngoài hợp đồng) mà bên cho thuê gây ra khi thu hồi tài sản.

Vì lý do bấp bênh về mặt giá trị thu hồi vốn nên bên cho thuê trong một số

trường hợp cần thiết sẽ muốn áp dụng thêm các biện pháp bảo đảm khác. Chẳng

hạn yêu cầu bên thuê cầm cố, thế chấp thêm tài sản. Điều này rất bình thường

giống như một chủ nợ yêu cầu con nợ phải dùng nhiều hơn một tài sản để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ. Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Điều 295(4) cũng quy định “giá

trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo

đảm”. Do vậy việc yêu cầu hoặc không yêu cầu thêm biện pháp bảo đảm nào khác,

giá trị bao nhiêu là vấn đề tự thỏa thuận của bên cho thuê và bên thuê với nhau.

Tuy nhiên trong thực tế, sử dụng biện pháp này sẽ đánh mất ưu thế tiện lợi

của biện pháp thuê tài chính so với vay ngân hàng. Không cần tài sản bảo đảm là

một ưu thế của loại giao dịch này được nhiều công ty cho thuê tài chính quảng bá

105 World Bank, “The evolution of secured transactions (English)”, 39–40.

106 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

35.

cho dịch vụ của mình. Thông thường tiền gốc và lãi khi vay ngân hàng sẽ nhỏ hơn

39

tiền thuê tài chính và họ còn có một nguồn vốn lưu động để thực hiện dự án chứ

không dồn hết vào một tài sản cố định nên nếu có tài sản bảo đảm các doanh

nghiệp sẽ chọn phương pháp vay ngân hàng. Điều này không có nghĩa là pháp luật

hạn chế sử dụng biện pháp bảo đảm trong giao dịch cho thuê tài chính, đó là quyền

tự do hợp đồng của các chủ thể khi chính họ thấy cần thiết.

Tài sản thuê có chức năng như tài sản bảo đảm nên nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định bắt buộc phải đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính.107 Tuy nhiên

ngay cả khi pháp luật không bắt buộc phải đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính thì

chính bên cho thuê cũng nên áp dụng biện pháp này vì nó phục vụ cho quyền lợi

của họ, loại trừ nhóm (iii) rủi ro về quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản. Việc đăng

ký hợp đồng cho thuê tài chính có mục đích tương tự như đăng ký giao dịch bảo

đảm nhằm công khai thông tin về các quyền trên tài sản thuê cho người thứ ba

được biết. Bởi tài sản thuê tài chính được giao trực tiếp từ nhà cung cấp tới bên

thuê và được bên thuê chiếm hữu và sử dụng trong một thời gian rất dài, chiếm

phần lớn vòng đời tài sản, nên mọi người thứ ba đều có thể suy đoán hợp lý rằng tài sản đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên thuê,108 nếu không có các dấu hiệu chỉ

ra quyền sở hữu của bên cho thuê trên tài sản. Khi đó quyền lợi của người thứ ba

ngay tình xứng đáng được pháp luật bảo vệ và sẽ dẫn đến tranh chấp về quyền ưu

tiên trên tài sản thuê. Việc công khai thông tin về hợp đồng thuê và tài sản thuê

cung cấp một biện pháp chứng minh sự ngay tình của người thứ ba, nói cách khác làm phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba.109 Người thứ ba có nghĩa vụ mặc

định rằng phải kiểm tra về tài sản mình định xác lập giao dịch trên hệ thống đăng

107 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 73.

108 Nguyễn Ngọc Điện, “Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình huống luật xa rời cuộc

sống”.

109 Hồ Quang Huy, “Đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính: Cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên cho thuê tài chính”, Trang thông tin điện tử Bộ Tư pháp, 2011, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu- trao-doi.aspx?ItemID=1430.

ký trước khi quyết định thực hiện giao dịch. Một khi hợp đồng đã được đăng ký thì

40

không có người thứ ba nào xác lập giao dịch trên tài sản thuê có thể khẳng định mình ngay tình và quyền ưu tiên của bên cho thuê luôn được bảo đảm.110

Soạn thảo hợp đồng chặt chẽ và tăng cường giám sát việc sử dụng tài sản

thuê

Trong mọi hoạt động kinh doanh, việc thỏa thuận rõ ràng về quyền và nghĩa

vụ giữa các đối tác luôn là biện pháp phòng tránh hoặc giải quyết dễ dàng những

tranh chấp phát sinh trong tương lai, đồng nghĩa với dự phòng và hạn chế nhóm

(iv) rủi ro pháp lý có thể phát sinh. Trong khi pháp luật đã có nhiều chế định điều

chỉnh chi tiết các loại giao dịch khác phòng ngừa trường hợp các bên không có thỏa

thuận từ trước, thì các quy định về giao dịch cho thuê tài chính chưa thật sự rõ ràng

và thiếu sự toàn diện. Hơn nữa nhịp độ của cuộc sống thường đi trước pháp luật,

nên có những vấn đề phát sinh trong hoạt động cho thuê tài chính mà pháp luật

không lường trước và đưa ra giải pháp được. Khi đó dự phòng những trường hợp

xấu xảy ra trong tương lai phụ thuộc vào sự nhạy bén của các chủ thể trong giao

dịch, mà chủ yếu là công ty cho thuê tài chính để bảo vệ quyền lợi của chính họ.

Các quyền quy định trong văn bản pháp luật của bên cho thuê khi hợp đồng

không có quy định về giám sát tài sản thuê, thu hồi và xử lý tài sản không thật sự rõ

ràng hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng trong kinh doanh do đây là

những mức tối thiểu mà nhà làm luật nghĩ rằng công bằng cho cả hai bên. Các công

ty cho thuê tài chính có thể tham khảo kinh nghiệm quản lý giao dịch và soạn thảo

hợp đồng từ các thị trường cho thuê tài chính phát triển để nâng các tiêu chuẩn này

lên nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. Giám sát việc sử dụng tài sản thuê là

một biện pháp nghiệp vụ cần phải thực hiện thường xuyên nhằm kiểm soát được

tình trạng tài sản và khả năng trả nợ của bên thuê. Quyền giám sát, cũng như thu

110 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

32.

hồi và xử lý tài sản của bên cho thuê cần được quy định trong hợp đồng càng chặt

41

chẽ càng tốt để đảm bảo việc giám sát, thu hồi và xử lý tài sản luôn diễn ra thuận

lợi và nhận được sự trợ giúp từ các cơ quan hành pháp và tư pháp khi cần thiết.

1.3.2. Biện pháp dành cho thể chế

Hoàn thiện các quy định pháp luật về cho thuê tài chính

Một hành lang pháp lý tốt sẽ tạo điều kiện tối đa cho các chủ thể kinh doanh

và giảm thiểu nhiều rủi ro, nhất là các rủi ro pháp lý. Ở Việt Nam, hoạt động cho

thuê tài chính được xếp vào hoạt động tín dụng ngân hàng. Ngoài việc được điều

chỉnh bởi pháp luật dân sự, thương mại nói chung thì còn chịu sự điều chỉnh đặc

biệt bởi pháp luật chuyên ngành là Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 cùng các

văn bản hướng dẫn. Cho thuê tài chính là loại hình kinh doanh có điều kiện và chủ

thể được pháp luật Việt Nam cho phép thực hiện kinh doanh cho thuê tài chính chỉ trong phạm vi các tổ chức tín dụng.111 Có lẽ do tiếp cận giao dịch cho thuê tài chính

từ góc độ tài chính chứ không xuất phát từ góc độ thương mại nói chung nên một

số quy định trong pháp luật Việt Nam chưa thật sự toàn diện và phản ánh bản chất

của giao dịch này. Quyền và nghĩa vụ pháp định của các bên trong giao dịch chưa

phù hợp với vai trò của mỗi bên cũng như thiếu đồng bộ với thông lệ quốc tế. Việc

hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính sao cho cân bằng lợi ích của các bên

trong giao dịch và phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ hạn chế đáng kể những rủi ro

vận hành và rủi ro pháp lý của các bên trong giao dịch (đặc biệt là nhóm (ii) rủi ro

gắn với quyền sở hữu tài sản).

Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý nói chung về cho thuê tài chính, cũng

cần hoàn thiện những quy định riêng về kiểm soát rủi ro trong giao dịch này. Công

ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng nên phải thực hiện các biện pháp kiểm

soát rủi ro nói chung của tổ chức tín dụng theo pháp luật. Do tính chất đặc thù về

tài sản thuê cũng là tài sản bảo đảm của giao dịch cho thuê tài chính nên một biện

111 Điều 5, Điều 113 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

pháp kiểm soát rủi ro không thể thiếu trong hoạt động này là đăng ký hợp đồng cho

42

thuê tài chính. Đồng thời việc bên cho thuê nắm giữ quyền sở hữu tài sản thuê –

cũng là tài sản bảo đảm khiến thủ tục thu hồi và xử lý tài sản cần được rút gọn và

bảo đảm tối đa quyền lợi của bên cho thuê.

Tổ chức đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính

Mọi hệ thống đăng ký tài sản đều cần được tổ chức có trật tự và quy mô bao

quát thì mới phát huy tác dụng. Lý do của việc đăng ký tài sản cho thuê tài chính không khác với đăng ký tài sản bảo đảm hay tài sản cho thuê vận hành dài hạn.112

Vì vậy việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính nên được gộp vào hệ thống đăng

ký tài sản nói chung. Thủ tục đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính được IFC đề

nghị là một thủ tục thông báo đơn giản dựa trên lập luận rằng việc đăng ký không

làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên với nhau. Việc thông báo chỉ cần

thông tin định danh và thông tin liên lạc của bên cho thuê, bên thuê cùng với mô tả

về tài sản thuê mà không cần toàn bộ hợp đồng thuê tài chính cũng như đủ chữ ký của các bên hay công chứng hợp đồng.113

Việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính là bắt buộc hay tự nguyện tùy thuộc

vào chính sách của từng quốc gia. Một chính sách định hướng và kiểm soát chặt

chẽ thị trường cho thuê tài chính sẽ bắt buộc phải đăng ký hợp đồng cho thuê tài

chính vì lợi ích của người thứ ba hoặc vì đảm bảo lợi ích của chính bên cho thuê.

Thông thường bên cho thuê sẽ là bên có nghĩa vụ đăng ký (chẳng hạn theo luật của Serbia114) vì việc đăng ký là để đảm bảo cho quyền lợi của chính họ. Vi phạm

nghĩa vụ này, bên cho thuê sẽ phải chịu một số trách nhiệm hành chính khi vi phạm

pháp luật. Về mặt dân sự, họ sẽ mất quyền ưu tiên trên tài sản thuê trước người thứ

112 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

32.

113 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., 32–34.

114 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 144–45.

ba ngay tình. Ngược lại, tiếp cận từ góc độ tự do, thả lỏng thị trường thì việc đăng

43

ký này là tự nguyện. Nếu bên cho thuê không sợ mất quyền ưu tiên trên tài sản thuê

thì họ không cần đăng ký.

Cần lưu ý rằng, dù có bắt buộc phải đăng ký hay không thì việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.115 Như đã

phân tích, việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính nhằm minh bạch thông tin cho

người thứ ba về quyền trên tài sản thuê. Nó không làm thay đổi ý chí giao kết và

các thỏa thuận đã đạt được của các bên trong hợp đồng do vậy không ảnh hưởng

đến hiệu lực của hợp đồng. Việc đặt ra nghĩa vụ đăng ký có lẽ chỉ mang tính thúc

ép bên cho thuê phải bảo vệ quyền lợi của chính họ khi họ chưa có ý thức thực hiện

điều đó, nhất là khi ý thức pháp luật của các chủ thể còn chưa cao, việc tuyên

truyền phổ biến pháp luật chưa đạt hiệu quả.

Chính sách bắt buộc đăng ký hay tự nguyện đăng ký hợp đồng có thể còn phụ

thuộc vào loại hình tổ chức của bên cho thuê. Nếu bên cho thuê phần lớn là các

định chế tài chính lấy nguồn vốn từ xã hội (một cách trực tiếp thông qua các cá

nhân/pháp nhân hay gián tiếp thông qua các ngân hàng thương mại) hoặc có phần

vốn nhà nước trong đó, thì việc bắt buộc đảm bảo an toàn là cần thiết với thị trường

tài chính ngân hàng thiếu ổn định. Về mặt thực tế cho thấy nghĩa vụ đăng ký hợp

đồng cho thuê tài chính không gây khó khăn cho giao dịch vì không ảnh hưởng đến

hiệu lực của hợp đồng và chi phí đăng ký cũng không lớn. Ngược lại, khi thị trường

cho thuê tài chính đã phát triển mạnh, kéo theo nhiều sự cởi mở trong quy định

pháp luật về các chủ thể được phép kinh doanh, loại hình tài sản thuê tài chính, v.v.

thì biện pháp tự nguyện đăng ký lại phù hợp hơn. Kinh nghiệm toàn cầu cho thấy

thị trường tài chính luôn được nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Các biện pháp hạn chế

rủi ro đối với hoạt động kinh doanh trong thị trường này không chỉ có các biện

115 Phùng Bá Đáng, “Pháp luật hiện hành về đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính tại Việt Nam hiện

nay và một số vấn đề cần nghiên cứu, hoàn thiện”.

pháp tự nguyện mà còn có bắt buộc vì rủi ro xảy ra có thể ảnh hưởng tới lợi ích của

44

toàn xã hội và cả nền kinh tế.116 Hoạt động cho thuê tài chính cũng nằm trong thị

116 Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay

của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.

trường này nên không tránh khỏi sự kiểm soát đặc biệt từ nhà nước.

45

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát rủi ro

trong hoạt động cho thuê tài chính

Trong chương này tác giả sẽ bình luận về những vấn đề pháp lý trong quy

định của pháp luật Việt Nam về hoạt động cho thuê tài chính mà có thể gây ra rủi

ro hoặc chưa kiểm soát tốt rủi ro trong hoạt động này. Tương ứng với Mục 1.3.

Biện pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, các quy định kiểm

soát rủi ro chung đối với tổ chức tín dụng như tỷ lệ bảo đảm an toàn, phân loại nợ,

trích lập dự phòng rủi ro, v.v. sẽ không được đề cập đến trong phần này. Đồng thời

một số vấn đề pháp lý ảnh hưởng đến kiểm soát rủi ro đã được phân tích và đề xuất

giải pháp ở các công trình khác mà tác giả đề tài này không có luận giải thêm cũng

sẽ không được nêu trong chương này. Chẳng hạn trong luận án tiến sỹ của Ngô

Thanh Hương năm (2017) về Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình

thức hợp đồng bán và thuê lại, Ngô Thanh Hương đã phân tích các bất cập trong

quy định về cho thuê tài chính nói riêng và cho thuê tài chính theo hình thức hợp

đồng bán và thuê lại nói chung mà liên quan đến vấn đề kiểm soát rủi ro trong hoạt

động cho thuê tài chính: Vẫn tồn tại "khoảng trống pháp lý" về trình tự, thủ tục thu

hồi, xử lý tài sản cho thuê tài chính trong trường hợp tài sản thuê là vật chứng trong

vụ án hình sự; pháp luật chưa có quy định cụ thể các vấn đề liên quan trong trường

hợp Bên mua - cho thuê lại bị phá sản; quy định về việc xác định giá mua bán tài

sản trong giao dịch cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại còn

chưa cụ thể, rõ ràng.

2.1. Những quy định chung của pháp luật Việt Nam về giao dịch cho

thuê tài chính

2.1.1. Định nghĩa về cho thuê tài chính

Như đã nêu ở Mục 1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính, hiện nay pháp luật

Việt Nam đưa ra hai định nghĩa về hoạt động/giao dịch cho thuê tài chính mà trong

mỗi định nghĩa đều nhắc tới một số tiêu chí xác định bởi điều khoản trong hợp

đồng cho thuê tài chính. Hai định nghĩa này không mô tả giống nhau mà dường

46

như mỗi định nghĩa mô tả một mặt của giao dịch. Một định nghĩa nằm ở Điều 113

Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị

định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài

chính – nơi đưa ra định nghĩa còn lại (Điều 3(7)). Sự thiếu đồng bộ này đặt ra vấn

đề pháp lý nếu một giao dịch đáp ứng được tiêu chí của định nghĩa ở Luật các tổ

chức tín dụng nhưng không đáp ứng được tiêu chí của định nghĩa ở Nghị định

39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính,

hoặc ngược lại, thì có được coi là giao dịch cho thuê tài chính hay không.

Hơn nữa, hai định nghĩa này đều không mô tả đầy đủ mối quan hệ ba bên

trong giao dịch cho thuê tài chính cũng như sự liên kết giữa hai hợp đồng thuê tài

chính và hợp đồng cung cấp tài sản. Điều này có lẽ xuất phát từ cách tiếp cận của

nhà làm luật dưới góc độ tài chính ngân hàng mà thiếu một cái nhìn bao quát từ góc

độ luật thương mại. Trong quan hệ ba bên này, quyền và nghĩa vụ của cả bên cho

thuê và bên thuê đều gắn liền với nhà cung cấp tài sản. Thậm chí quyền và nghĩa vụ

của mỗi bên còn bù trừ cho nhau, chẳng hạn theo Luật mẫu và Công ước của

UNIDROIT hay UCC của Hoa Kỳ thì những quyền chính đáng với tài sản thuê mà

bên thuê không đòi được ở bên cho thuê thì có thể đòi hỏi từ nhà cung cấp và

ngược lại. Quy định thiếu bao quát ngay từ định nghĩa và cách tiếp cận có lẽ là

nguyên nhân dẫn tới việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên không đảm bảo

nguyên tắc cân bằng lợi ích.

2.1.2. Chủ thể cho thuê tài chính

Pháp luật Việt Nam không những cấm các chủ thể không phải tổ chức tín

dụng thực hiện hoạt động cho thuê tài chính, mà ngay cả ngân hàng thương mại,

117 Điều 103 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

một tổ chức tín dụng điển hình trong thị trường tài chính cũng không được tự mình thực hiện hoạt động này.117 Điều này có vẻ đã gây ra tranh cãi khi một số công

47

trình nghiên cứu chỉ ra rằng không thể tìm ra lý do hợp lý cho quy định này118 và

thực tế các thị trường cho thuê tài chính phát triển trên thế giới đều có sự tham gia trực tiếp của ngân hàng vào hoạt động cho thuê tài chính.119

Theo tác giả, có hai lý do cho quy định này. Thứ nhất, những công ty cho thuê

tài chính chuyên biệt sẽ có ưu điểm riêng về chuyên môn nghiệp vụ đối với hoạt

động cho thuê tài chính so với một ngân hàng có một bộ phận phụ trách mảng kinh

doanh này, đặc biệt là trong vấn đề kiểm soát rủi ro. Thứ hai, nhà làm luật muốn

chia tách hệ thống tài chính để khi có rủi ro ở những hệ thống nhỏ thì hệ thống lớn

sẽ không bị ảnh hưởng. Hệ thống lớn ở đây là ngân hàng và hệ thống nhỏ là công ty

cho thuê tài chính.

Về vấn đề thứ nhất, để ủng hộ cho quan điểm nên cho phép ngân hàng trực

tiếp thực hiện hoạt động cho thuê tài chính, phía ủng hộ đưa ra các luận điểm chính

sau (i) hoạt động cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng có độ an toàn cao

hơn hoạt động cho vay; (ii) ngân hàng có nhiều lợi thế để thực hiện nghiệp vụ cho

thuê tài chính như có tiềm lực về vốn để đáp ứng các hợp đồng cho thuê giá trị lớn,

có kinh nghiệm về quản lý rủi ro, có mạng lưới khách hàng phong phú; (iii) nâng

cao năng lực cấp tín dụng của ngân hàng, tăng cường khả năng sử dụng vốn có hiệu

quả.

Về luận điểm (i) và (ii), hoạt động cho thuê tài chính tuy có độ an toàn cao

hơn hoạt động cho vay nhưng đã là tín dụng thì luôn đi kèm với rủi ro. Trong khi

tiềm lực về vốn và mạng lưới khách hàng là ưu điểm của ngân hàng, thì năng lực

quản lý rủi ro của ngân hàng thương mại với hoạt động cho thuê tài chính lại không

được như mong đợi. Một nghiên cứu được thực hiện bởi IFC về cho thuê tài chính

118 Trần Vũ Hải, “Pháp luật về cho thuê tài chính - một số vấn đề cần hoàn thiện”; Ngô Thanh

Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và thuê lại”, 142.

119 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

14.

mang tính hướng dẫn cho các nền kinh tế mới nổi chỉ ra rằng, khi so sánh giữa

48

ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính có vốn chủ sở hữu từ ngân hàng, công ty cho thuê tài chính chuyên biệt có nhiều ưu điểm hơn. 120 Thực tiễn quản trị ở các

ngân hàng thương mại chỉ ra rằng cho thuê tài chính cần kỹ năng bán hàng, giải

pháp công nghệ thông tin và chính sách quản lý rủi ro đều chuyên biệt hơn so với

cho vay. Trong khi công ty cho thuê tài chính chuyên biệt đáp ứng được những tiêu

chí đó để thích nghi với thị trường và kiểm soát tốt rủi ro thì bộ phận quản lý rủi ro

của ngân hàng vốn chỉ quen với các khoản vay thường không có đủ kinh nghiệm để

giải quyết các giao dịch cho thuê tài chính.

Về luận điểm (iii), ngân hàng trực tiếp tham gia vào thị trường cho thuê tài

chính thường chỉ cho thuê những tài sản giá trị lớn (máy bay, bất động sản, tàu

thuyền, v.v.) mà bỏ qua các giao dịch giá trị nhỏ và không giúp được nhiều doanh

nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn. Do vậy hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới đều thành lập một công ty cho thuê tài chính con của mình.121 Các công ty cho

thuê tài chính chuyên biệt (có vốn chủ sở hữu từ ngân hàng hoặc không) ngoài

những ưu điểm trên còn có quyết định cấp tín dụng nhanh hơn đáng kể so với ngân

hàng, nhờ vậy đáp ứng được nhu cầu vốn nhanh chóng, tiện lợi với các giao dịch

giá trị nhỏ, mà đối tượng khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc

cá nhân. Như vậy các công ty cho thuê tài chính chuyên biệt có hệ số hiệu quả cao

hơn khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề duy nhất của các

công ty này là dòng vốn phải lấy từ công ty mẹ (trường hợp có vốn chủ sở hữu từ

ngân hàng) hoặc đi vay các định chế tài chính (trường hợp không có vốn chủ sở

hữu từ ngân hàng) chứ không tự mình huy động được từ xã hội.

Về vấn đề thứ hai, nhà làm luật muốn phân tách các công ty cho thuê tài chính

ra khỏi ngân hàng nhằm đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Kiểm soát rủi

ro trong các tổ chức tín dụng, mà các ngân hàng đóng vai trò chủ yếu, luôn là ưu

120 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Table 1-3.

121 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., 18–19.

tiên trong chính sách quản lý kinh tế của nhà nước bởi liên quan đến sức khỏe cả

49

nền kinh tế.122 Một ngân hàng phải thực hiện hoạt động cho thuê tài chính qua công

ty con có nghĩa rằng nhà làm luật muốn tận dụng tính trách nhiệm hữu hạn trong

pháp nhân để có một mức trần cho những rủi ro của hoạt động cho thuê tài chính

đối với ngân hàng. Nếu như mảng kinh doanh cho thuê tài chính của một ngân

hàng thua lỗ, ngân hàng phải dùng lợi nhuận ở các mảng khác bù vào, tương tự với

vấn đề thanh khoản. Trong khi đó, một công ty cho thuê tài chính độc lập nếu hoạt

động kém hiệu quả có thể thực hiện thủ tục phá sản và ngân hàng chỉ mất phần vốn

đã góp vào công ty đó. Một vấn đề khác là các công ty cho thuê tài chính thường

vay vốn từ ngân hàng mẹ để mua tài sản cho thuê. Tuy nhiên không phải tất cả vốn

của công ty cho thuê tài chính đều vay từ ngân hàng mẹ mà còn vay nhiều định chế

tài chính khác. Hơn nữa phần vốn cho vay này ngân hàng có thể thu hồi với tư cách

chủ nợ khi công ty con phá sản. Đặc điểm này cho thấy ưu thế thu hồi vốn rõ rệt

khi tách công ty cho thuê tài chính độc lập khỏi ngân hàng. Những phân tích pháp

lý này còn là cơ sở để có kế hoạch xử lý khủng hoảng hiệu quả khi công ty cho

thuê tài chính con phá sản.

Vụ phá sản của Công ty Cho thuê tài chính II (ALC II) của Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) trong tháng 08/2018 ít nhất đã cho thấy lợi ích về mặt pháp lý khi tách công ty cho thuê tài chính ra khỏi ngân hàng.123 Với

tư cách chủ sở hữu, Agribank chỉ mất phần vốn đã góp vào ALC II mà không phải

chịu trách nhiệm với các khoản nợ khác của ALC II (trừ những khoản nợ Agribank

đứng ra bảo lãnh). Với tư cách chủ nợ, Agribank cũng có thể thu hồi phần nào số

tiền đã cho ALC II vay. Về mặt truyền thông, nếu như Agribank trực tiếp thực hiện

hoạt động cho thuê tài chính, có thua lỗ, và thông tin này bị truyền ra ngoài thì sẽ

gây tâm lý hoang mang cho những người gửi tiền. Chủ nợ lo lắng về khả năng trả

122 Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay

của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, 38.

123 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2018), “Phá sản để cải cách”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn

https://www.thesaigontimes.vn/278457/Pha-san-de-cai-cach.html truy cập 14/11/2018

nợ của Agribank khi ngân hàng này làm ăn thua lỗ là điều hoàn toàn hợp lý. Trên

50

thực tế, ALC II phá sản cũng gây hoang mang cho người gửi tiền, và Agribank xử lý khủng hoảng cũng chưa thật chuyên nghiệp.124 Tuy nhiên cuối cùng thì Agribank

vẫn có thể trấn an người gửi tiền bởi có cơ sở pháp lý về giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu pháp nhân.125 Vụ việc này củng cố luận điểm rằng, trong khi cho phép

ngân hàng thực hiện hoạt động cho thuê tài chính chưa chắc hạn chế được rủi ro

trong hoạt động này (nhất là các rủi ro đạo đức như trong vụ ALC II), thì có một

điều chắc chắn là nếu có rủi ro lớn đến mức phải phá sản một công ty tài chính

chuyên biệt thì ngân hàng mẹ của nó vẫn có thể tồn tại.

Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn từ các quốc gia khác trên thế giới, IFC cho

rằng các thị trường cho thuê tài chính non trẻ cần có sự quản lý chặt chẽ từ nhà

nước. Ghana là một quốc gia đang phát triển được IFC hỗ trợ xây dựng thị trường

cho thuê tài chính từ năm 1993, ban đầu cũng cấm các ngân hàng trực tiếp tham gia

vào hoạt động này. Đến năm 2004, quốc gia này mới thông qua đạo luật mới cho phép các ngân hàng được trực tiếp cho thuê tài chính.126 Sự thay đổi trong chính

sách của Ghana không được làm rõ nhưng có lẽ thị trường cho thuê tài chính cần

được chuyên biệt hóa từ ban đầu trước khi các ngân hàng có thể tham gia trực tiếp

vào thị trường này. Câu hỏi thời điểm đó là lúc nào không thể trả lời thỏa đáng

trong phạm vi đề tài này.

Tác giả cho rằng nghiên cứu bởi các chuyên gia thuộc IFC đáng tin cậy bởi họ

có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và có kinh nghiệm thực tiễn ở

nhiều quốc gia trên thế giới. Về mặt chuyên môn, các công ty cho thuê tài chính

124 Báo Đầu tư tài chính (2018), “Xử lý khủng hoảng cần chuyên nghiệp nhìn từ Agribank”,

saigondautu.com.vn/tai-chinh/xu-ly-khung-hoang-can-chuyen-nghiep-nhin-tu-agribank-63159.html truy cập

14/11/2018

125 Sài Gòn Giải Phóng Online (2018), “Agribank phá sản

tin đồn

thất

thiệt”,

www.sggp.org.vn/agribank-pha-san-la-tin-don-that-thiet-558308.html truy cập 14/11/2018

126 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

Box 1-9.

chuyên biệt có vốn sở hữu từ ngân hàng sẽ có nhiều ưu điểm hơn so với ngân hàng

51

tham gia trực tiếp vào hoạt động cho thuê tài chính, đặc biệt là có những chính sách

kiểm soát rủi ro chuyên biệt đối với hoạt động cho thuê tài chính. Việc cho phép

ngân hàng trực tiếp thực hiện hoạt động cho thuê tài chính không có nghĩa sẽ thúc

đẩy sự phát triển của thị trường mà còn tiềm ẩn rủi ro với hệ thống ngân hàng.

Những lý do trên ủng hộ cho quy định ngân hàng chỉ được thực hiện hoạt động cho

thuê tài chính thông qua một pháp nhân khác. Quy định này vừa đưa ra một định

hướng phát triển cho thị trường cho thuê tài chính non trẻ, vừa đảm bảo an toàn cho

thị trường tài chính và nền kinh tế nói chung.

2.1.3. Đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính

Hậu quả pháp lý của việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính

Như đã đề cập ở mục 1.3.2. Biện pháp dành cho thể chế, việc quy định bắt

buộc hay không bắt buộc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính đều có lý do hợp lý

đằng sau nó. Tuy nhiên dù như thế nào thì việc đăng ký cũng không ảnh hưởng đến

hiệu lực hợp đồng cho thuê tài chính mà chỉ là vấn đề phát sinh hiệu lực đối kháng

với người thứ ba.

Trước đây Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty

cho thuê tài chính sửa đổi bổ sung năm 2005 có quy định “Mọi giao dịch cho thuê

tài chính phải được đăng ký tại Trung tâm đăng ký giao dịch đảm bảo” (Điều 19).

Tuy nhiên pháp luật lại thiếu vắng các quy định cụ thể về hậu quả pháp lý đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính khiến127 hậu quả pháp lý giữa trường hợp hợp đồng

cho thuê tài chính có đăng ký với trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính không

đăng ký không được phân biệt rõ ràng.

Thống kê về số lượng hợp đồng cho thuê tài chính được đăng ký từ năm 2009

cho đến năm 2014 bởi Hồ Quang Huy và Phùng Bá Đáng công tác tại Cục Đăng ký

127 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 120.

quốc gia giao dịch bảo đảm cho thấy số lượng hợp đồng cho thuê tài chính được

52

đăng ký giảm mạnh trong thời gian từ năm 2009 đến nửa đầu năm 2011, tăng chậm

trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2014. Nguyên nhân của việc số lượng đơn

đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính trong những năm trên không nhiều có thể là

do nền kinh tế Việt Nam bị suy thoái và đang trên đà phục hồi chậm. Ngoài ra còn

do pháp luật (mà cụ thể là các nghị định quy định cụ thể về công ty cho thuê tài

chính và hoạt động cho thuê tài chính) chưa làm rõ sự khác biệt giữa hợp đồng cho

thuê tài chính được đăng ký với hợp đồng cho thuê tài chính không đăng ký để các

công ty cho thuê tài chính hiểu và nhận thức đúng giá trị pháp lý của việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính.128

Hiện nay Nghị định số 39/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định số 16/2001/NĐ-

CP chỉ dẫn chiếu việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính theo quy định của pháp

luật nói chung (Điều 24). Ngoài ra tác giả chưa tìm được quy định pháp luật nào

quy định hợp đồng cho thuê tài chính có bắt buộc phải đăng ký hay không. Sự bỏ

ngỏ này cho thấy pháp luật đã bãi bỏ quy định bắt buộc đăng ký hợp đồng cho thuê

tài chính, để việc đó phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên.

Nghị định số 39/2014/NĐ-CP vẫn lặp lại hạn chế của Nghị định số

16/2001/NĐ-CP khi không có quy định cụ thể hậu quả pháp lý của việc đăng ký

hợp đồng cho thuê tài chính. Sự bảo đảm nghĩa vụ của bên cho vay đến từ quyền sở

hữu chứ không phải quyền lợi bảo đảm được xác lập dựa trên giao dịch bảo đảm.

Không phải ai không học luật cũng biết được điều đó và người bình thường có thể

lầm tưởng rằng vì họ có quyền sở hữu nên được pháp luật bảo vệ tuyệt đối. Quy

định rõ ràng hậu quả pháp lý của việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính vào

nghị định có thể mang lại hiệu quả tuyên truyền phổ biến pháp luật to lớn khi người

dân tra cứu quy định pháp luật về cho thuê tài chính. Các chủ thể nhận thức tốt hơn

sẽ làm tăng tỉ lệ hợp đồng cho thuê tài chính được đăng ký và hạn chế rủi ro tín

128 Hồ Quang Huy, “Đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính: Cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên cho thuê tài chính”; Phùng Bá Đáng, “Pháp luật hiện hành về đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính tại Việt Nam hiện nay và một số vấn đề cần nghiên cứu, hoàn thiện”.

dụng của các công ty cho thuê tài chính.

53

Thủ tục đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính

Hiện nay việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính được quy định trong các

văn bản về đăng ký giao dịch bảo đảm mà quan trọng nhất là Nghị định

102/2017/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm và Thông tư 08/2018/TT-BTP

Hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm,

hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các Trung tâm

đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ

Tư pháp.

Nghị định 102/2017/NĐ-CP vì quy định về đăng ký biện pháp bảo đảm nên

không có dòng nào nói về hợp đồng cho thuê tài chính. Thông tư 08/2018/TT-BTP

mới quy định cụ thể về thủ tục đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính. Thông tư

08/2018/TT-BTP ra đời đã thay thế các thông tư cũ về đăng ký biện pháp bảo đảm,

hợp đồng theo hướng tinh giản thủ tục hành chính. Tuy nhiên thủ tục đăng ký hợp

đồng cho thuê tài chính có thể còn tinh giản hơn nữa. Điều 11(2)(a) Thông tư

08/2018/TT-BTP vẫn yêu cầu phải có chữ ký của cả hai bên trong phiếu yêu cầu

đăng ký biện pháp bảo đảm, hợp đồng. Nếu không có chữ ký của cả hai bên thì

phải có bản sao hợp đồng đã công chứng, chứng thực.

Mục đích của việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính nhằm công bố thông

tin cho người thứ ba biết về quyền sở hữu của công ty cho thuê tài chính với tài sản

thuê. Quyền sở hữu này phát sinh trên cơ sở một hợp đồng khác là hợp đồng mua

bán tài sản thuê giữa bên cho thuê và nhà cung cấp. Điểm này khác với thủ tục

đăng ký biện pháp bảo đảm bởi quyền lợi bảo đảm phát sinh trên chính hợp đồng

bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có thể phải công chứng, chứng thực để xác nhận tính

hợp pháp của quyền lợi bảo đảm mà người đăng ký có. Ngược lại, quyền sở hữu

của bên cho thuê có thể tồn tại độc lập với hợp đồng cho thuê tài chính. Nếu lý do

yêu cầu công chứng, chứng thực nhằm ngăn ngừa một chủ thể đăng ký hợp đồng

gian dối (chẳng hạn anh ta muốn công bố một quyền sở hữu giả lên tài sản của

người khác) thì cũng có nhiều rào cản kỹ thuật ngăn chặn anh ta làm việc đó. Việc

mô tả được tài sản khi anh ta không phải chủ sở hữu không phải là điều dễ dàng.

54

Hoặc khi chủ sở hữu thực sự phát hiện ra, người đó chỉ việc yêu cầu xóa thông tin

đăng ký giả mạo đó đi là được. Do vậy yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng

cho thuê tài chính khi chỉ có chữ ký một bên là thủ tục không cần thiết và nên được

bãi bỏ để phát huy hiệu quả tối đa các biện pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động

cho thuê tài chính.

2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết, thực hiện

hợp đồng cho thuê tài chính

2.2.1. Quyền của bên thuê đối với các cam kết bảo hành của nhà cung cấp tài

sản

Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê có vai trò là một bên tài trợ

vốn đơn thuần mà không có vai trò cung cấp tài sản như trong giao dịch cho thuê

vận hành. Tài sản được giao từ nhà cung cấp tới thẳng bên thuê mà không dính

dáng gì đến bên cho thuê. Do vậy Luật mẫu, Công ước và UCC đều cấp cho bên

cho thuê một sự miễn trừ với mọi trách nhiệm liên quan đến tài sản, đúng theo

nguyên tắc chuyển giao về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền

sở hữu tài sản cho bên thuê.

Pháp luật Việt Nam cũng có quy định về sự miễn trừ này của bên cho thuê.

Theo Nghị định 39/2014/NĐ-CP, bên cho thuê không phải chịu trách nhiệm về việc

tài sản cho thuê không được giao hoặc giao không đúng với các điều kiện do bên

thuê thỏa thuận với bên cung ứng (Điều 18(4)) còn bên thuê phải chịu mọi rủi ro về

việc tài sản thuê bị mất, chịu mọi chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế tài sản thuê

trong thời hạn thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê

gây ra đối với tổ chức, cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê (Điều

20(5)).

Bên cho thuê không có liên hệ gì với tài sản ngoài quyền sở hữu trên danh

nghĩa, nhưng họ vẫn là chủ sở hữu của tài sản thuê và là một chủ thể trong hợp

đồng mua bán tài sản thuê từ nhà cung cấp. Do vậy về mặt pháp lý họ là chủ thể có

quyền tương ứng với nghĩa vụ bảo hành hoặc bất kỳ cam kết nào khác về tài sản

55

của nhà cung cấp. Để phù hợp với quyền sở hữu chỉ trên danh nghĩa của bên cho

thuê cũng như bù đắp lại cho nghĩa vụ trả tiền không thể hủy ngang của bên thuê,

các quy định của UNIDROIT và UCC đều cho phép bên thuê có quyền đối với nhà

cung cấp giống như bên cho thuê theo cơ chế một bên thứ ba hưởng lợi của hợp

đồng cung cấp tài sản.

Ở điểm này pháp luật Việt Nam đã không bảo vệ được quyền lợi của bên

thuê. Trong khi bên cho thuê được miễn trừ nghĩa vụ đối với tài sản, mà bên thuê

phải chịu mọi chi phí liên quan đến sửa chữa, bảo dưỡng tài sản, thì lại không có

quy định nào cho phép bên thuê có thể trực tiếp đòi quyền lợi bảo hành hay cam kết

về tài sản từ nhà cung cấp. Khi tài sản bị khuyết tật do lỗi của nhà cung cấp, bên

thuê phải thông qua bên cho thuê để yêu cầu nhà cung cấp thực hiện nghĩa vụ của

mình. Điều này gây ra sự bất tiện khi phải thông qua chủ thể trung gian, mà vai trò

của chủ thể trung gian này tách biệt khỏi việc vận hành tài sản trên thực tế.

Nếu bên thuê đã yêu cầu bên cho thuê trợ hỗ trợ trong việc đòi quyền lợi bảo

hành từ nhà cung cấp mà bên cho thuê không hợp tác, chẳng hạn từ chối yêu cầu

chuyển giao quyền hưởng cam kết và bảo hành của bên thuê, Luật mẫu bãi bỏ cơ

chế miễn trừ nghĩa vụ của bên cho thuê. Khi đó bên cho thuê sẽ phải thực hiện các

nghĩa vụ với tài sản giống như một nhà cung cấp tài sản chứ không chỉ là phía tài trợ vốn đơn thuần.129 Đây có thể coi là chốt chặn thứ hai để đảm bảo bên thuê được

hưởng các quyền lợi chính đáng của một “người mua” hay chủ sở hữu thực sự về

mặt kinh tế của tài sản. Một lần nữa, pháp luật Việt Nam lại không có quy định bảo

vệ quyền lợi của bên thuê. Bên thuê không có quyền yêu cầu nào cũng như bên cho

thuê không có nghĩa vụ nào tương tự như vậy.

Pháp luật Việt Nam dường như đặt vấn đề này phụ thuộc vào hành động đàm

phán điều khoản của bên thuê trong hai hợp đồng cung cấp tài sản và hợp đồng

thuê tài chính. Bên thuê tuy trực tiếp đàm phán các điều khoản trong hợp đồng mua

129 UNIDROIT, Model law on leasing, Article 7.

bán tài sản với nhà cung cấp, nhưng nếu họ không soạn thảo những quy định bảo

56

vệ quyền lợi của mình một cách trực tiếp mà không phải thông qua bên cho thuê,

họ sẽ phải chịu rủi ro lớn hơn những gì nhận được và không có quyền lợi chính

đáng của một người sử dụng, khai thác tài sản. Còn nếu họ đặt ra những nghĩa vụ

hỗ trợ của bên cho thuê trong hợp đồng cho thuê tài chính, thì vẫn phải thông qua

trung gian và gây bất tiện cho việc sửa chữa bảo trì tài sản. Hơn nữa, bên thuê

thường là các chủ thể không chuyên nghiệp trong hoạt động thuê tài chính nên khó

có thể tự mình soạn thảo các điều khoản như vậy. Nếu thuê luật sư sẽ làm tăng chi

phí giao dịch. Trong trường hợp này, một cơ chế pháp định bảo vệ quyền lợi của

bên thuê một cách trực tiếp mà không cần tới sự thỏa thuận trong hợp đồng là cần

thiết vì nó phù hợp với bản chất của giao dịch, vai trò của mỗi bên cũng như

nguyên tắc cân bằng lợi ích.

2.2.2. Tính chất không thể hủy ngang trong hợp đồng cho thuê tài chính

Đặc điểm không hủy ngang của hợp đồng cho thuê tài chính trong pháp luật

Việt Nam chưa thực sự rõ ràng. Nghị định 39/2014/NĐ-CP chỉ nêu vắn tắt “hợp

đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang” (Điều 3(12)) mà không có

một giải thích chi tiết nào cho yếu tố này. Yếu tố không hủy ngang không đơn giản

là phải tuân thủ hợp đồng cho thuê tài chính mà nó là một yêu cầu về nghĩa vụ khắt

khe hơn rất nhiều.

Theo quy định của các bộ luật về cho thuê tài chính đã tham khảo, yếu tố

không hủy ngang được hiểu là một khi bên thuê chấp nhận tài sản được giao đến

cho mình, bên thuê phải trả tiền thuê bất kể bên cho thuê có thực hiện nghĩa vụ của

mình hay không. Nghĩa vụ trả tiền thuê của bên thuê là “độc lập” với nghĩa vụ của

bên cho thuê và “không thể rút lại”. Nói cách khác, bên thuê có nghĩa vụ trả tiền

thuê trong bất cứ hoàn cảnh nào (tiếng Anh sử dụng cụm từ “hell or high water”),

trừ trường hợp bên cho thuê vi phạm nghĩa vụ chuyển giao quyền tài sản hoặc

57

không đảm bảo được quyền sử dụng tài sản mà không có tranh chấp (quiet enjoyment) cho bên thuê.130

Như đã phân tích, lý do của nghĩa vụ khắt khe này xuất phát từ việc mô phỏng

giao dịch vay tiền có bảo đảm. Nguyên tắc của tín dụng là hoàn trả toàn bộ nợ gốc

lẫn lãi, không phụ thuộc vào việc bên vay (hay thuê) có sử dụng khoản vốn được

cấp hiệu quả hay không, sinh lời hay lỗ. Một điều kiện bắt buộc để kích hoạt yếu tố

“không hủy ngang” này là vốn phải được cấp cho bên vay/thuê tài chính. Khi đó thì

bên cho vay/cho thuê tài chính đã thực hiện xong nghĩa vụ cơ bản của mình trong

hợp đồng và chỉ đợi để thực hiện quyền của mình.

Tuy nhiên soi chiếu vào giao dịch cho thuê tài chính, việc vốn đã được cấp

cho bên thuê hay chưa không đơn giản như trong giao dịch cho vay tiền. Tiền là tài

sản đơn giản, chỉ cần không phải là tiền giả hoặc tiền có nguồn gốc phạm pháp (rửa

tiền) thì đều có thể sử dụng được. Do vậy một khi tiền được giao cho bên đi vay,

dường như nghĩa vụ của bên cho vay đã hoàn tất. Một động sản là máy móc, thiết

bị có giá trị lớn thì để đáp ứng yêu cầu sử dụng của bên thuê có nhiều vấn đề phức

tạp hơn. Nó phải đảm bảo được giao đúng thời gian, địa điểm, chất lượng, chủng

loại thì bên thuê mới được coi là đã được chuyển giao vốn. Việc đánh giá những

yếu tố này phụ thuộc vào sự chấp nhận tài sản của bên thuê trong một thời hạn hợp

lý từ lúc tài sản được giao đến họ. Ngoài ra trong suốt thời gian diễn ra giao dịch,

quyền sử dụng tài sản của bên thuê phải được đảm bảo một cách thuận lợi mà

không có tranh chấp. Đây là nghĩa vụ của bên cho thuê với vai trò là chủ sở hữu

pháp lý của tài sản.

Nếu có tranh chấp xảy ra do lỗi của bên cho thuê, chẳng hạn bên cho thuê

mang tài sản thuê đi thế chấp hoặc bán mà người mua không biết tài sản đang được

cho thuê, dẫn tới tranh chấp giữa người mua thứ ba và bên thuê, thì việc sử dụng

vốn của bên thuê đã bị cản trở. Trong trường hợp này, nghĩa vụ trả tiền của bên

130 Guojin Liu, “Finance Leasing in International trade”, 96.

thuê nếu vẫn không thể hủy ngang thì sẽ gây ra sự bất công lớn đối với bên thuê.

58

Có thể nói nghĩa vụ đảm bảo quyền sử dụng tài sản cho bên thuê và nghĩa vụ trả

tiền là hai nghĩa vụ đối nhau, tương ứng với việc cấp vốn và hoàn trả trong giao

dịch tín dụng.

Đặc điểm không hủy ngang của hợp đồng cho thuê tài chính cũng ảnh hưởng

tới việc áp dụng các trường hợp bất khả kháng (force majeure) hoặc thực hiện hợp

đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship). Trong hợp đồng thuê vận hành, việc áp

dụng các trường hợp này theo luật định có thể dễ dàng hơn. Hợp đồng thuê tài

chính tuy cũng có việc sử dụng một động sản, kèm theo đó là nhiều trường hợp bất

khả kháng không thể lường trước như thiên tai, hỏa hoạn, thay đổi chính sách pháp

luật v.v. nhưng vì nó mô phỏng hợp đồng vay tiền có bảo đảm nên việc áp dụng các

trường hợp này sẽ tương tự cơ chế của hợp đồng vay tiền.

UCC của Hoa Kỳ chỉ áp đặt nghĩa vụ trả tiền không hủy ngang lên bên thuê

(Điều 2A-407). Công ước không quy định rõ ràng mà chỉ ám chỉ nghĩa vụ trả tiền

không hủy ngang ở Điều 12(3). Luật mẫu cho rằng nghĩa vụ không hủy ngang áp

dụng với cả hai bên (Điều 10). Tuy vậy các bộ luật này đều cho thấy việc quy định

chi tiết là cần thiết để áp dụng. Pháp luật Việt Nam chỉ đưa ra một mô tả ngắn gọn

“không hủy ngang” về hợp đồng cho thuê tài chính mà không diễn giải chi tiết nó ở

trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào khác khiến quy định này có thể gây hiểu

lầm và khó khăn khi áp dụng pháp luật.

2.2.3. Quyền áp dụng biện pháp bảo đảm của bên cho thuê

Tuy tài sản thuê đã có vai trò như một tài sản bảo đảm nhưng trong trường

hợp bên cho thuê cảm thấy cần một sự bảo đảm chắc chắn hơn, họ sẽ muốn có

thêm tài sản bảo đảm khác. Như đã phân tích ở mục “1.3.1. Biện pháp dành cho

các bên”, việc bên cho thuê yêu cầu nhiều hơn một biện pháp bảo đảm để giá trị

của tài sản bảo đảm lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm hoàn toàn là quyền

tự do của họ, và có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.

Nghị định số 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài chính và công ty

cho thuê tài chính thay thế Nghị định số 16/2001/NĐ-CP cho thấy sự chuyển biến

59

tư duy tích cực hơn theo hướng tự do hợp đồng và kiểm soát rủi ro. Nhà làm luật đã

cho phép bên cho thuê được áp dụng mọi biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật chứ không chỉ gói gọn trong hai biện pháp ký cược và bảo lãnh.131 Tuy

nhiên sự thay đổi này chưa triệt để hoàn toàn. Nghị định số 39/2014/NĐ-CP tại

Điều 17(3) vẫn kế thừa quy định từ Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về điều kiện áp

dụng biện pháp bảo đảm, thậm chí có phần thu hẹp điều kiện áp dụng.

Nghị định số 16/2001/NĐ-CP tại Điều 23(6) quy định bên cho thuê có quyền

yêu cầu áp dụng biện pháp ký cược hoặc bảo lãnh “nếu thấy cần thiết”. Cụm từ

“nếu thấy” dường như xác định tính cần thiết dựa vào suy đoán chủ quan của bên

cho thuê, nhờ vậy về mặt lý thuyết bên cho thuê có thể yêu cầu áp dụng hai biện

pháp trên trong mọi trường hợp. Quy định như vậy là thừa bởi nếu không có cụm

từ “nếu thấy cần thiết” thì các bên vẫn được tự do thỏa thuận về hai biện pháp bảo

đảm được cho phép áp dụng. Nghị định số 39/2014/NĐ-CP tại Điều 17(3) quy định

bên cho thuê có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm “nếu cần thiết”. Nhà

làm luật đã bỏ chữ “thấy”, dường như ám chỉ rằng việc xác định tính cần thiết của

một biện pháp bảo đảm đã được các bên thỏa thuận có thể được xem xét lại bởi tòa

án. Quy định như vậy về mặt lý thuyết có thể dẫn tới sự can thiệp thái quá vào

quyền tự do hợp đồng của các chủ thể trong giao dịch thương mại và không đảm

bảo được sự an toàn pháp lý cũng như hiệu quả kiểm soát rủi ro trong lĩnh vực

thương mại đặc thù là tín dụng, đó là sự bất hợp lý.

Trên thực tế, trong luận án tiến sỹ của mình, Ngô Thanh Hương đã chỉ ra quy

định như trên dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện cũng như cách hiểu không đúng về việc áp dụng biện pháp bảo đảm trong giao dịch cho thuê tài chính.132 Tại

bản án số 60/2014/KDTM-PT giải quyết vụ tranh chấp giữa Công ty trách nhiệm

hữu hạn cho thuê tài chính quốc tế Chailease và Công ty trách nhiệm hữu hạn vận

131 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, Điều 23(6).

132 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 115.

tải và giao nhận Sao đỏ, Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao đã không công

60

nhận các biện pháp bảo đảm bổ sung của bên cho thuê. Tòa án cho rằng “công ty

Chailease đã hiểu rõ công ty Sao đỏ có khó khăn về tài chính nhưng lại bắt công ty

Sao đỏ thực hiện các biện pháp bảo đảm có tổng giá trị là 3.261.597.390 đồng để

bảo đảm giá trị tài sản cho thuê là 615.000.000 đồng trong khi đã nắm giữ quyền

sở hữu tài sản thuê là "có sự bất thường, thái quá, gây bất lợi cho công ty Sao Đỏ,

không đảm bảo được giá trị đạo đức và tập quán lâu đời của dân tộc Việt Nam, đó

là sự tương thân, tương ái và phát huy các giá trị đạo đức cao đẹp để hỗ trợ và

giúp đỡ nhau cùng kinh doanh, cùng phát triển, trên cơ sở đó mỗi bên đều thu được

lợi nhuận của mình từ sự phát triển như quy định tại Điều 8 Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”133 Lập luận mà tòa án đưa ra rất khiên

cưỡng bởi không luận giải gì về tính chất bảo đảm và suy diễn về “các giá trị đạo

đức và tập quán” một cách bừa bãi. Những bản án như trên làm hỏng tính dự đoán

trước của pháp luật, gây ra rủi ro pháp lý kéo theo rủi ro tín dụng đối với bên cho

thuê trong giao dịch cho thuê tài chính.

Việc không công nhận biện pháp bảo đảm không chỉ bất hợp lý mà còn bất

hợp pháp. Nó trái với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận được quy

định ở cả Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 4) và Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 3

khoản 2) như là nguyên tắc cơ bản. Bộ luật dân sự có hiệu lực pháp lý cao hơn một

Nghị định và là nền tảng của mọi giao dịch tư. Như vậy quy định bên cho thuê có

quyền yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm “nếu cần thiết” không đáp ứng được về

cả tính hợp lývà hợp pháp, trên lý thuyết và trên thực tiễn.

2.3. Quy định trong giai đoạn chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính

2.3.1. Thủ tục thu hồi tài sản cho thuê tài chính

Các hợp đồng cho thuê tài chính trên thực tế đều có quy định bên cho thuê có

quyền thu hồi tài sản cho thuê tài chính nếu bên thuê không thể thực hiện những

133 Ngô Thanh Hương, 102.

nghĩa vụ chính yếu của hợp đồng như: nghĩa vụ trả tiền đủ và đúng thời hạn quy

61

định trong hợp đồng, nghĩa vụ sử dụng và khai thác tài sản thuê đúng mục đích,

nghĩa vụ bảo quản tài sản thuê không bị hỏng, mất, v.v. Việc thu hồi và sau đó là

xử lý tài thuê tài chính có ý nghĩa tương tự như xử lý tài sản bảo đảm.

Như đã phân tích ở mục 1.1.2. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính, bên

cho thuê được bảo đảm bằng quyền sở hữu tài sản là thế mạnh của công cụ cho

thuê tài chính so với các công cụ cấp tín dụng khác. Mô hình của Andrea L.

Eisfeldt và Adriano A. Rampini (2005) đã chỉ ra rằng việc thu hồi và xử lý tài sản

cho thuê tài chính cần có ưu thế đáng kể so với xử lý tài sản bảo đảm thông thường

(như cầm cố, thế chấp) thì mới đạt được đúng ý nghĩa của công cụ này. Kỹ thuật

pháp lý giải quyết trường hợp chủ sở hữu thu hồi và xử lý tài sản của mình chắc

chắn sẽ đơn giản hơn trường hợp bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm. Do đó

ưu thế dễ thu hồi tài sản thuê tài chính càng có ý nghĩa hơn đối với những nền pháp luật chưa hoàn thiện.134

Về mặt nội dung, một chủ thể có quyền thu hồi tài sản thuộc quyền sở hữu

của mình là điều không phải tranh cãi hay gặp bất cứ vướng mắc pháp lý nào. Sự

thu hồi tài sản thuê có bảo vệ được quyền lợi của bên cho thuê hay không chủ yếu

phụ thuộc vào vấn đề thủ tục. Để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của bên cho thuê, việc

thu hồi tài sản thuê cần đáp ứng được hai tiêu chí có liên quan mật thiết với nhau là

(i) nhanh chóng và (ii) bảo vệ được giá trị tài sản thuê. Việc thu hồi tài sản diễn ra

nhanh chóng tính từ khi nghĩa vụ bị vi phạm đồng nghĩa với việc giữ được giá trị

tài sản lớn nhất, bù đắp được nhiều hơn khoản tín dụng mà bên cho thuê đã cấp,

chưa kể hạn chế được trường hợp bên thuê cố tình tẩu tán tài sản.

Hiện nay việc thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính được thực hiện theo

Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP ngày 10/12/2007 hướng dẫn về

thu hồi và xử lý tài sản cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính giữa Ngân

134 Andrea L. Eisfeldt và Adriano A. Rampini, “Leasing, Ability to Repossess, and Debt Capacity”,

26.

hàng Nhà nước - Bộ Công an - Bộ Tư pháp cùng các văn bản pháp luật có liên

62

quan. Thông tư này đã có những quy định bảo vệ tốt quyền lợi của bên cho thuê

như bên cho thuê được thu hồi tài sản thuê mà không cần có phán quyết của tòa án

(II.5); về mặt nguyên tắc, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân các cấp nơi

có tài sản thuê có trách nhiệm hỗ trợ bên cho thuê thu hồi tài sản thuê (I.3.d); bên

cho thuê được thu hồi tài sản thuê trong mọi trường hợp trừ khi cả bên thuê và

người đại diện của cơ quan có thẩm quyền đều vắng mặt (II.7.b). Tuy nhiên, một số

quy định chưa hợp lý và thiếu những quy định cần thiết để công ty cho thuê tài

chính thực thi quyền thu hồi tài sản một cách có hiệu quả.

Thời gian thu hồi tài sản chưa nhanh chóng

Điều II.6.b Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP quy định

“trong thời hạn tối đa không quá 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu

thu hồi tài sản, bên thuê có nghĩa vụ giao tài sản cho thuê và các giấy tờ liên quan

đến tài sản cho thuê cho công ty cho thuê tài chính.” Theo ông Đàm Đức Long –

nguyên Tổng thư ký Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam, quy định về thời hạn tối

đa 30 ngày như trên là quá dài. Nếu bên thuê thiếu thiện chí, họ có đủ thời gian thể tẩu tán tài sản thuê.135 Kể cả trong trường hợp bên thuê không có ý định tẩu tán tài

sản thì thời gian bên thuê giữ tài sản càng lâu, tài sản càng giảm giá trị cũng như

những rủi ro hư hỏng, mất tài sản có thể đến bất cứ lúc nào.

Hơn nữa khoảng thời gian 30 ngày này không phù hợp với quy định tại Điều

22(1)(a) Nghị định số 39/2014/NĐ-CP, theo đó bên cho thuê có quyền thu hồi tài

sản thuê ngay lập tức nếu bên thuê không thể thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê

còn lại khi chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy thời gian thu hồi tài sản cho thuê tài chính

nhanh là sức hút rất lớn để các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường cho thuê tài

135 Báo Công Thương Điện Tử (2012), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Thiếu chế tài”, cập

truy

truy

cập

https://congthuong.vn/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-thieu-che-tai-24895.html 07/08/2018

chính. Ngay sau khi ban hành luật mới về cho thuê với thủ tục thu hồi tài sản rút

63

gọn, Yemen đã thu hút thêm 3 định chế tài chính tham gia thị trường trong khi trước đó chỉ có 1.136 Ngoài ra xây dựng một cơ chế thu hồi tài sản ngoài tư pháp

cũng là nhân tố quan trọng không kém, bởi cơ quan tư pháp không thể linh động

bằng cơ quan hành pháp hoặc bên cho thuê tự thu hồi tài sản được. Cơ sở cho điều

này là quyền sở hữu tài sản cho thuê của công ty cho thuê tài chính.

Trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền chưa rõ ràng

Về nguyên tắc, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân các cấp nơi có

tài sản thuê có trách nhiệm hỗ trợ bên cho thuê thu hồi tài sản thuê (I.3.d) và áp

dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật

tự, bảo đảm cho công ty cho thuê tài chính thực hiện quyền thu giữ tài sản cho thuê

trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình (II.7.l). Thông tư chỉ quy

định như vậy và không có chi tiết gì hơn. Trong nghiên cứu của mình, Ngô Thanh

Hương đã chỉ ra rằng ở các văn bản pháp luật khác đều không có quy định cụ thể

về thẩm quyền áp dụng cưỡng chế cụ thể như thế nào của ủy ban nhân dân cấp xã,

cơ quan công an cấp xã liên quan đến vấn đề thu hồi tài sản cho thuê tài chính. Qua

khảo sát thực tế cho thấy chưa có bất kỳ quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế của cơ quan nhà nước nào về việc thu hồi tài sản cho thuê tài chính.137

Các bài báo phỏng vấn những người làm trong lĩnh vực cho thuê tài chính

cũng cho thấy tình trạng tương tự. Một bài báo năm 2011 phỏng vấn ông Hoàng

Ngọc Tiến, Giám đốc Công ty Cho thuê tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn cho biết Thông tư 08/2007/TTLT-NHNN-BCA-BTP chưa được

136 Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s., Leasing in Development Guidelines for Emerging Economies,

Box 2-2.

137 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 117.

138 Doanh Nhân Sài Gòn Online (2011), “Cho thuê tài chính: Gian nan thu hồi tài sản”,

https://doanhnhansaigon.vn/thoi-su-trong-nuoc/cho-thue-tai-chinh-gian-nan-thu-hoi-tai-san-1023520.html truy cập 07/08/2018

thực hiện triệt để, do chế tài chưa rõ ràng. Nhiều cơ quan, đơn vị như chính quyền các cấp, công an, thi hành án… vẫn từ chối thẳng thừng, bất hợp tác.138 Một bài báo

64

khác năm 2012 phản ánh các cơ quan có thẩm quyền thường không nhiệt tình hỗ

trợ và không áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong quá trình thu hồi tài sản cho

thuê vì ngại có thể sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp bị ngừng hoạt động, người lao

động không có việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội của địa phương. Điều này

được thể hiện rõ nhất đối với việc thu hồi tài sản cho thuê tài chính trong lĩnh vực dệt may.139

Biện pháp cuối cùng cho công ty cho thuê tài chính trước khi viện đến tòa án

có lẽ là tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự. Công ty cho thuê tài

chính có thể tố giác bên thuê theo tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại

Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên biện

pháp này chỉ được áp dụng khi có hai điều kiện (i) bên thuê có điều kiện, khả năng

trả lại tài sản nhưng (ii) cố tình không trả. Trường hợp bên thuê biểu đạt rằng sẽ trả

nhưng gây khó khăn, bất hợp tác thì chưa chắc áp dụng chế tài hình sự được.

Những phân tích trên cho thấy quy định về trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan có

thẩm quyền chưa rõ ràng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền dễ dàng né tránh trách

nhiệm mà công ty cho thuê tài chính không thể làm gì được. Hoặc công ty cho thuê

tài chính phải tìm biện pháp khác tốn nhiều thời gian, chi phí hơn để đòi lại tài sản

vốn thuộc quyền sở hữu của mình. Nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, các quốc gia phát

triển đều tích cực tạo điều kiện cho hệ thống tín dụng bằng cách tạo cơ sở pháp lý cho biện pháp tự xử lý tài sản bảo đảm (self-help repossesion)140 khi tài sản bảo

đảm không thuộc quyền sở hữu của mình. Việc thiếu quy định hay quy định chưa

rõ ràng, chưa tạo điều kiện cho công ty cho thuê tài chính thu hồi tài sản thuộc

quyền sở hữu của chính mình cho thấy quy định trên chưa hợp pháp và chưa hợp

139 Báo Công Thương Điện Tử (2012), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Thiếu chế tài”, cập

truy

truy

cập

https://congthuong.vn/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-thieu-che-tai-24895.html 07/08/2018

140 Lê Thị Thu Thủy, “Bảo đảm sự thuận lợi, công bằng và hợp lý trong việc tự xử lý tài sản bảo đảm khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các hợp đồng tín dụng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học 32, số p.h 2 (2016): 51–58.

lý: (i) không phù hợp với nguyên tắc pháp quyền khi quyền sở hữu của chủ sở hữu

65

không được bảo vệ; (ii) làm mất ưu thế của công cụ cho thuê tài chính khi so sánh

với cho vay có bảo đảm; (iii) là một nguyên nhân lớn kìm hãm sự phát triển của thị

trường cho thuê tài chính.

2.3.2. Xử lý tài sản cho thuê

Theo Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP, nguyên tắc xử lý

tài sản cho thuê tài chính là dựa trên thỏa thuận của các bên, các quy định về xử lý

tài sản cho thuê trong thông tư chỉ để dự phòng với những chi tiết các bên không có

thỏa thuận (I.3.c). Ở giai đoạn thu hồi tài sản, bên cho thuê được ưu ái tuyệt đối vì

họ có quyền sở hữu trên danh nghĩa. Tuy nhiên bản chất kinh tế của giao dịch thuê

tài chính là bên thuê, thông qua việc trả tiền thuê tài sản, dần dần trở thành chủ sở

hữu về mặt kinh tế của tài sản. Nói cách khác bên thuê đã chia sẻ sở hữu tài sản với bên cho thuê thông qua việc trả tiền thuê141 và do đó không thể bỏ qua lợi ích của

bên thuê khi xử lý tài sản.

Vì hợp đồng cho thuê tài chính có tính chất tín dụng và đặc điểm không hủy

ngang, nên khi hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước thời hạn, bên thuê có

nghĩa vụ trả nốt số tiền thuê còn lại theo hợp đồng. Xác định nghĩa vụ trả phần tiền

còn lại là bao nhiêu phải dựa vào việc định giá và xử lý tài sản.

Trên lý thuyết, việc định giá tài sản sát với giá thị trường là biện pháp cân

bằng lợi ích cho cả hai bên. Với bên cho thuê trong giao dịch bán và thuê lại, việc

định giá tài sản hợp lý ngay từ giai đoạn mua tài sản có vai trò tương tự như định

giá tài sản bảo đảm tiền vay. Còn trong hợp đồng cho thuê tài chính nói chung, việc

định giá trong giai đoạn xử lý tài sản dựa trên nguyên tắc thỏa thuận có vai trò quan

trọng trong việc xác định khả năng thu hồi vốn của công ty cho thuê tài chính. Tuy

nhiên giá thanh lý hay số tiền thu được từ việc xử lý tài sản mới là sự thu hồi vốn

141 Michael I. Tsai, “A Unified Treatment of Finance Lessees’ Revocation of Acceptance under the

Uniform Commercial Code”, note 27.

thật sự của công ty cho thuê tài chính. Với bên thuê, định giá tài sản càng cao thì

66

phần tiền thuê còn lại phải trả càng ít. Nếu thực hiện theo nguyên tắc định giá trên

thỏa thuận và vẫn phải dựa trên giá thị trường thì sẽ là như vậy.

Tuy nhiên có biện pháp khác bảo vệ tốt hơn lợi ích của công ty cho thuê tài

chính, nhưng lại ảnh hưởng đến lợi ích của bên thuê, đó là tập trung vào giá trị thanh lý của tài sản142 bất kể định giá dựa trên giá thị trường hoặc thỏa thuận là bao

nhiêu. Khá thú vị ở chỗ Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP vừa

áp dụng biện pháp này (II.16), vừa thừa nhận sự tự do thỏa thuận trong việc định

giá (II.11.b), đồng thời yêu cầu định giá phải dựa trên giá thị trường (II.11.c và d).

Điều này đặt ra câu hỏi về ý nghĩa và hiệu lực pháp lý của công tác định giá nói

chung và thỏa thuận định giá tài sản giữa các bên nói riêng khi tính nghĩa vụ trả

tiền thuê còn thiếu của bên thuê.

Dựa trên câu chữ của điều luật, Điều II.16 chỉ quan tâm đến “số tiền thu được

từ việc xử lý tài sản cho thuê” mà không màng đến thỏa thuận định giá của các bên:

“Sau khi trừ chi phí bảo quản, sửa chữa và các chi phí hợp lý phát sinh trong quá

trình thu hồi, xử lý tài sản cho thuê, số tiền thu được từ việc xử lý tài sản cho thuê

được dùng để thanh toán khoản tiền còn thiếu của bên thuê. Nếu số tiền thu được

không đủ thanh toán, bên thuê, bên bảo lãnh (nếu có) có trách nhiệm thanh toán số

tiền còn thiếu đó cho công ty cho thuê tài chính.” Ngược lại, nếu số tiền thu được

sau khi từ đi chi phí hợp lý vượt quá phần tiền còn lại mà bên thuê phải trả thì bên

thuê có quyền nhận phần vượt quá đó.

Như vậy ngay cả khi các bên đã định giá trên thỏa thuận, nếu giá thanh lý

khác với giá đã định đó, thì thông tư vẫn chỉ giải quyết quyền và nghĩa vụ của các

bên dựa trên giá thanh lý tài sản mà thôi. Nếu các bên không có thỏa thuận rằng

“giá tài sản được xác định dựa trên thỏa thuận và sẽ được coi như số tiền thu được

từ việc định giá tài sản”, thì (i) bên cho thuê có thể nại ra quy định tại Điều II.16

142 Lê Thị Thu Thủy, “Một số vấn đề về tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng”, Tạp chí Khoa

học ĐHQGHN: Kinh tế - Luật 22, số p.h 2 (2006): 28.

trong trường hợp giá bán tài sản thấp hơn giá đã xác định dựa trên thỏa thuận nhằm

67

yêu cầu bên thuê trả nhiều tiền hơn; hoặc (ii) bên thuê có thể nại ra quy định trên

trong trường hợp giá bán tài sản cao hơn giá đã xác định dựa trên thỏa thuận để

phần tiền còn lại phải trả ít hơn.

Quy định này không bảo vệ được lợi ích của bên thuê ở chỗ nó không tính

đến lỗi của công ty cho thuê tài chính trong việc bán tài sản. Khi bàn giao tài sản,

chất lượng, tình trạng của tài sản đã được các bên chứng kiến và xác nhận. Tuy

nhiên giá bán tài sản không phải cố định vì thị trường luôn biến động. Công ty cho

thuê tài chính sau khi đã thu hồi tài sản thì có quyền quản lý và xử lý tài sản, do đó

mọi tổn thất về giá tài sản gây ra bởi lỗi của công ty cho thuê tài chính (chẳng hạn

như bỏ lỡ cơ hội bán với giá tốt) thì họ đáng phải gánh chịu. Với quy định như trên,

bên thuê sẽ phải bù đắp sự mất giá gây ra bởi lỗi của bên cho thuê, bởi nghĩa vụ trả

phần tiền còn lại của bên thuê được xác định chỉ dựa vào “số tiền thu được từ việc

xử lý tài sản cho thuê” mà không bàn đến yếu tố lỗi.

Trước khi Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP có hiệu lực (ít

nhất là từ ngày 25/12/2007), có một vụ việc thực tế diễn ra theo chiều hướng ngược

lại. Phán quyết của tòa án không bảo vệ được quyền thu hồi vốn của bên cho thuê.

Trong vụ tranh chấp giữa Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và

phát triển Việt Nam với Công ty cổ phần xây dựng thương mại 495, hai bên đã thỏa

thuận xác định giá tài sản trước khi xử lý tài sản là 480.000.000 đồng. Tuy nhiên

khi tiến hành các thủ tục bán tài sản, Công ty cho thuê tài chính chỉ thu được số tiền

275.00.000 đồng, trừ các chi phí, số tiền còn lại đối trừ nợ, Công ty 495 vẫn còn nợ

Công ty cho thuê tài chính cả gỗc và lãi là 220.547.092 đồng. Công ty 495 không

đồng ý vì cho rằng tại Biên bản bàn giao tài sản ngày 10/3/2006 Công ty cho thuê

tài chính đã chấp nhận giá trị còn lại của tài sản khi bàn giao là 480.000.000 đồng,

trong khi Công ty 495 chỉ còn nợ cả gốc và lãi tổng cộng là 386.446.228 đồng. Tại

bản án sơ thẩm số 71/2007/KDTM-ST ngày 19/06/2007, Tòa án nhân dân thành

phố Hà Nội nhận định khi hai bên đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về giá trị còn

lại của tài sản mà giá trị đó lớn hơn số tiền còn lại mà bên thuê phải trả, thì bên cho

68

thuê không được quyền yêu cầu bên thuê phải thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng cho thuê tài chính. Tổn thất về giá bên cho thuê phải tự chịu.143

Tòa án chỉ quan tâm thỏa thuận định giá của các bên mà không quan tâm tới

giá thị trường tại thời điểm định giá, đồng thời sử dụng giá đã thỏa thuận để bù trừ

nghĩa vụ trả phần tiền thuê còn lại của bên thuê. Điều này khiến bên cho thuê phải

đối mặt với rủi ro tín dụng nếu giá đã thỏa thuận cao hơn đáng kể giá thị trường (số

tiền thu được khi xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế không bằng giá đã thỏa thuận).

Hơn nữa nếu cho phép các bên tùy tiện thỏa thuận định giá không cần dựa trên giá

thị trường tại thời điểm định giá sẽ không bảo vệ tốt quyền lợi của cổ đông/chủ sở

hữu phần vốn góp là pháp nhân, bởi họ phải thông qua một cá nhân đại diện cho

phần vốn góp của mình. Chẳng hạn ngân hàng A có vốn chủ sở hữu tại công ty cho

thuê tài chính B, ông X đại diện phần vốn góp của ngân hàng A trong công ty B và

là một trong những người quản lý công ty B. Công ty cho thuê tài chính B giao kết

hợp đồng cho thuê tài chính với công ty C. Hợp đồng bị chấm dứt trước thời hạn và

tài sản cho thuê tài chính cần được xử lý. Ông X với vai trò đại diện cho công ty B,

nhưng có lợi ích ở công ty C nên đã thông đồng với công ty C định giá cao hơn giá

thị trường, gây thiệt hại cho công ty B và cho chủ sở hữu là ngân hàng A. Ngược

lại, nếu việc định giá thấp hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của công

ty C, cũng theo kịch bản tương tự như trên.

Nếu như không có quy định yêu cầu việc định giá phải theo giá thị trường, đặt

ra một mức giới hạn để thỏa thuận định giá không chênh lệch quá lớn so với giá thị

trường, thì chỉ có cơ sở pháp lý đòi phần thu lợi bất chính từ công ty C theo chế tài

hình sự. Tuy nhiên, nếu có nguyên tắc và quy định cụ thể để việc định giá dù theo

hình thức nào đều bắt buộc phải xấp xỉ giá thị trường tại thời điểm định giá, thì

không cần chứng minh việc ông X thông đồng với công ty C để chiếm đoạt tài sản

mà vẫn vô hiệu được thỏa thuận định giá và yêu cầu công ty C thực hiện nốt phần

143 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 108–9.

tiền thuê còn thiếu. Quy định như vậy có ý nghĩa đặc biệt trong việc bảo vệ phần

69

vốn góp nhà nước trong các công ty cho thuê tài chính hiện nay, bởi đa số các công ty cho thuê tài chính đều có phần vốn góp của nhà nước.144

Hai hướng giải quyết, một là quy định trong Thông tư liên tịch số

08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP, hai là nhận định của tòa án trong vụ việc cụ thể

trên, đều không đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên trong hợp đồng. Nếu chỉ

quan tâm đến “số tiền thu được từ việc xử lý tài sản cho thuê” (giá thanh lý) mà

không quan tâm đến giá thị trường hay tính đến yếu tố lỗi của bên cho thuê thì gây

ra nhiều bất công đối với bên thuê. Hơn nữa nó không phù hợp với nguyên tắc tự

do thỏa thuận trong giao dịch thương mại, làm mất đi ý nghĩa và hiệu lực pháp lý

của việc định giá khi tính nghĩa vụ trả phần tiền thuê còn lại của bên thuê. Nếu

công nhận giá trị pháp lý của việc định giá mà không cần quan tâm tới giá thị

trường thì sẽ tạo lỗ hổng ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên. Các quy định về

việc định giá tài sản và bù trừ nghĩa vụ trả phần tiền thuê còn lại của bên thuê cần

144 Ngô Thanh Hương, 132.

được sửa đổi để đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa hai bên.

70

Chương 3: Giải pháp kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho thuê

tài chính

3.1. Phương hướng chung

Dựa trên lý luận về bản chất của hoạt động cho thuê tài chính, quy định thực

của pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng và thi hành tại Việt Nam cùng với kinh

nghiệm của một số quốc gia, tổ chức trên thế giới, tác giả xin đưa ra những phương

hướng hoàn thiện các biện pháp pháp lý nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho

thuê tài chính như sau:

Thứ nhất, xây dựng pháp luật về cho thuê tài chính cần có cái nhìn bao quát

từ luật dân sự và luật thương mại nói chung trước khi đưa ra các quy định cụ thể

dựa trên lĩnh vực luật tài chính ngân hàng.

Định nghĩa về cho thuê tài chính thiếu đồng bộ giữa Luật các tổ chức tín dụng

năm 2010 và Nghị định 39/2014/NĐ-CP, không xây dựng trên định nghĩa về cho

thuê tài sản cho thấy các quy định về cho thuê tài chính thiếu tính hệ thống. Điều

này dẫn tới các quy định về quan hệ cho thuê tài chính không phản ánh được bản

chất ba bên của giao dịch này, thiếu sót khi quy định về quyền và nghĩa vụ của các

bên. Nhiều quốc gia trên thế giới có những đạo luật hoặc nhóm quy định riêng về

cho thuê và cho thuê tài chính nhằm điều chỉnh vấn đề này một cách chi tiết. Chúng

ta thường quy định nó dưới dạng một nghị định hướng dẫn của Luật các tổ chức tín

dụng thì càng cần thận trọng hơn trong việc giải quyết những mâu thuẫn của luật

chuyên ngành và luật chung.

Thứ hai, xây dựng pháp luật về cho thuê tài chính trước tiên cần tham khảo

và sau đó hướng tới đồng bộ hóa với pháp luật cho thuê tài chính quốc tế.

Có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật và xây dựng được hành lang pháp

lý chung sẽ hạn chế nhiều rủi ro trong các giao dịch cho thuê tài chính có yếu tố

nước ngoài. Theo tác giả, những nguồn luật có giá trị tham khảo là (i) Bộ luật

thương mại thống nhất (UCC) của Hoa Kỳ vì Hoa Kỳ là nơi khai sinh ra công cụ

71

cho thuê tài chính và hệ thống pháp luật có nhiều kinh nghiệm điều chỉnh vấn đề

này; (ii) Công ước UNIDROIT về cho thuê tài chính quốc tế năm 1988 vì đây là điều ước quốc tế về cho thuê tài chính có nhiều quốc gia tham gia nhất (20)145 trong

đó có cả Hoa Kỳ; (iii) Luật mẫu về cho thuê của UNIDROIT năm 2008 vì đây là

công trình được nghiên cứu công phu bởi các học giả hàng đầu thế giới về cho thuê

tài chính nhằm hướng dẫn hoạt động lập pháp về cho thuê tại các quốc gia đang

phát triển hoặc các quốc gia muốn hội nhập vào thị trường cho thuê tài chính quốc

tế, Luật mẫu cũng được những tổ chức tài chính quốc tế như IFC đánh giá cao và

luôn sử dụng trong các dự án hỗ trợ phát triển thị trường cho thuê tài chính của mình.146

Thứ ba, xây dựng pháp luật về cho thuê tài chính cần tham khảo những kiến

nghị từ Hiệp hội cho thuê tài chính.

Hiệp hội cho thuê tài chính có vai trò đại diện cho các công ty cho thuê tài

chính trong kênh giao tiếp với cơ quan chính sách. Các công ty cho thuê tài chính

là những chủ thể trực tiếp áp thi hành các quy định của pháp luật về cho thuê tài

chính và do đó có hiểu biết rõ ràng nhất về tính hiệu quả thực thi của các quy định

này trên thực tế. Họ đóng vai trò phản biện quan trọng trong việc chỉ ra những bất

cập của hành lang pháp lý. Những phản hồi của các công ty cho thuê tài chính là

thước đo chuẩn mực xem pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh

doanh hay chưa, tồn tại rủi ro pháp lý gì từ hệ thống pháp luật chưa được giải

quyết. Tuy vậy nhiều ý kiến đóng góp của họ về hoàn thiện pháp luật vẫn chưa

được tiếp thu kịp thời, chẳng hạn trong vấn đề thu hồi tài sản có những bất cập của

Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP đã được phản ánh từ năm

145 Status - UNIDROIT Convention on international financial leasing (OTTAWA, 1988)

https://www.unidroit.org/status-leasing-conv-1988 truy cập 17/11/2018

146 Overview, https://www.unidroit.org/leasing-model-law-2008-overview truy cập 17/11/2018

2011 mà đến nay 7 năm sau vẫn chưa có quy định nào thay thế.

72

Thứ tư, pháp luật về cho thuê tài chính hướng tới kiểm soát rủi ro cần đứng

trên vị trí trung lập, bảo vệ lợi ích cân bằng cho cả bên cho thuê và bên thuê.

Nhu cầu kiểm soát rủi ro của nhà làm luật chủ yếu hướng tới chủ thể cho thuê

tài chính vì pháp luật điều chỉnh hoạt động này thuộc lĩnh vực luật tài chính ngân

hàng nhưng cũng cần phù hợp với mục tiêu phát triển thị trường cho thuê tài chính

nói chung. Tuy nhiên đối tượng khách hàng của thị trường cho thuê tài chính chủ

yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tiềm lực kinh tế, xã hội yếu. Nếu không

bảo vệ quyền lợi của bên thuê một cách thích hợp thì sẽ làm các doanh nghiệp e

ngại tiếp cận kênh vốn này và do đó không đạt được mục tiêu dẫn vốn cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay thế kênh vay vốn ngân hàng.

Thứ năm, cần tuyên truyền phổ biến hiệu quả hơn về việc tự áp dụng các biện

pháp kiểm soát rủi ro đối với mỗi bên trong giao dịch cho thuê tài chính.

Tuy có liên quan đến lợi ích công cộng và có sự kiểm soát từ nhà nước nhưng

giao dịch này vẫn mang đầy đủ đặc thù của quan hệ kinh doanh thương mại, do vậy

các biện pháp kiểm soát rủi ro dựa trên hợp đồng và công cụ quản trị doanh nghiệp

vẫn là những biện pháp hiệu quả nhất.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện thể chế

3.2.1. Những quy định chung

Một là, định nghĩa về cho thuê tài chính cần được xây dựng lại trên cơ sở

định nghĩa cho thuê tài sản và có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Định nghĩa pháp lý về giao dịch cho thuê tài chính nên tập trung vào những

đặc điểm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch. Nên học

tập định nghĩa của Công ước và Luật mẫu bởi sự ngắn gọn xúc tích tương đồng với

kỹ thuật lập pháp của Việt Nam. Định nghĩa trong UCC của Hoa Kỳ có ưu điểm là

yêu cầu bên thuê phải biết hoặc phê chuẩn hợp đồng cung cấp tài sản giữa bên cho

thuê và bên thuê.

73

Định nghĩa trong pháp luật Việt Nam nên giữ lại/ lược bớt một hay nhiều tiêu

chí lấy từ chuẩn mực kế toán nhằm phản ánh bản chất của giao dịch cho thuê tài

chính tùy vào ý định lập pháp mở rộng hay thu hẹp phạm vi của loại giao dịch này.

Mỗi văn bản quy định về cho thuê tài chính được khuyến nghị tham khảo nêu trên

cũng có những cách quy định khác nhau. Trong đó định nghĩa bởi Công ước

UNIDROIT về cho thuê tài chính quốc tế năm 1988 gần với định nghĩa trong pháp

luật Việt Nam nhất vì có một tiêu chí định tính chỉ ra bản chất kinh tế của giao dịch

này, đó là tiền thuê phải bao gồm toàn bộ hoặc một phần đáng kể chi phí khấu hao

tài sản. Theo tác giả, định nghĩa về cho thuê tài chính nên có những yếu tố sau:

Cho thuê tài chính là cho thuê mà có đầy đủ các điều kiện sau:

(i) Bên thuê lựa chọn thiết bị và nhà cung cấp tài sản

(ii) Nhà cung cấp tài sản biết rằng bên cho thuê mua tài sản nhằm cho thuê

(iii) Tiền thuê phải bao gồm toàn bộ hoặc một phần đáng kể giá trị hợp lý

của tài sản thuê

(iv) Bên thuê phải được biết về nội dung hợp đồng cung cấp tài sản giữa

bên cho thuê và nhà cung cấp mà tài sản đó chính là tài sản thuê

Hai là, chưa mở rộng phạm vi chủ thể có quyền thực hiện hoạt động cho thuê

tài chính cho đến khi có những nghiên cứu thấu đáo về các tác động của sự đổi mới

này đối với sự bền vững của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tín dụng nói

chung.

Cho phép ngân hàng thực hiện hoạt động cho thuê tài chính chưa chắc kiểm

soát rủi ro tốn hơn nhưng phân tách công ty tài chính ra khỏi ngân hàng thì chắc

chắn là khi trường hợp xấu nhất xảy ra với công ty cho thuê tài chính, hệ thống

ngân hàng vẫn giữ được sự ổn định.

Ba là về tổ chức đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính

Cần quy định rõ ràng hậu quả pháp lý của việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài

chính và không đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính ở ngay nghị định quy định về

74

hoạt động cho thuê tài chính. Mục đích của việc này chủ yếu làm rõ cho những

người không có chuyên môn về luật có thể nắm được ưu điểm của biện pháp đăng

ký hợp đồng cho thuê tài chính. Khi sự khác biệt được làm rõ thì tự khắc bên nào

muốn bảo vệ quyền lợi của mình sẽ đi đăng ký.

Việc đăng ký hoặc không đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính không ảnh

hưởng đến hiệu lực hợp đồng giữa bên cho thuê và bên thuê. Đăng ký hợp đồng

cho thuê tài chính nhằm xác lập quyền ưu tiên của bên cho thuê tài chính đối với

các chủ thể khác cũng có quyền trên tài sản cho thuê tài chính dựa trên nguyên tắc

ai đăng ký trước được ưu tiên xử lý lấy nợ trên tài sản trước.

Để khuyến khích việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính, cần đơn giản hóa

thủ tục hành chính tối đa và tuân theo nguyên tắc bảo đảm bằng quyền sở hữu cần

có ưu điểm nhất định so với biện pháp bảo đảm thông thường. Thủ tục đăng ký hợp

đồng cho thuê tài chính cần dễ dàng hơn thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm. Nên

bãi bỏ yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng cho thuê tài chính khi đăng ký

hợp đồng mà chỉ có chữ ký một bên. Đây là thủ tục không cần thiết.

3.2.2. Quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên khi giao kết, thực hiện hợp

đồng cho thuê tài chính

Thứ nhất, cần bổ sung quy định trao quyền cho bên thuê được thụ hưởng các

nghĩa vụ bảo hành, cam kết từ nhà cung cấp tài sản.

Quy định này nên học tập từ Điều 7 Luật mẫu và Điều 2A-209 UCC. Phương

pháp coi bên thuê là người thứ ba hưởng lợi trong hợp đồng cung cấp tài sản là một

phương pháp tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp. Nó tương thích với hiệu lực tương đối

của hợp đồng, cho phép bên thuê có thể thụ hưởng hầu hết quyền lợi của một người

mua hàng đúng với vai trò của chủ sở hữu tài sản về mặt kinh tế, trong khi vẫn bảo

lưu được quyền sở hữu danh nghĩa của bên cho thuê.

Ngoài ra cần bổ sung thêm các biện pháp bổ trợ cho quyền lợi của bên thuê

được Luật mẫu đưa ra như: bên cho thuê có nghĩa vụ hỗ trợ bên thuê thực hiện

75

quyền yêu cầu đối với nhà cung cấp tài sản, bên cho thuê có nghĩa vụ chuyển giao

quyền của mình trong hợp đồng cung cấp tài sản khi được bên thuê yêu cầu (ngoại

trừ quyền sở hữu trên danh nghĩa), bên cho thuê nếu cản trở bên thuê thực hiện

quyền của người thứ ba hưởng lợi hoặc không chịu hỗ trợ bên thuê đòi quyền lợi từ

nhà cung cấp thì có thể phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên thuê thay cho nhà cung

cấp.

Thứ hai, giải thích rõ ràng hơn về tính chất không hủy ngang trong hợp đồng

cho thuê tài chính

Tính chất không hủy ngang nếu không có sự giải thích rõ ràng thì không thể

áp dụng, và do vậy trở thành câu chữ thừa thãi gây thắc mắc trong nghị định. Theo

tác giả, dựa trên quy định tại Điều 10 Luật Mẫu và 2A-407 UCC, khi giải thích một

nghĩa vụ không hủy ngang cần đưa ra hai tiêu chí chung là độc lập, không phụ

thuộc vào việc thực hiện hay không thực hiện nghĩa vụ của bên còn lại và không

thể chấm dứt nếu không có sự đồng ý của bên có quyền. Sau đó cần đưa ra những

ngoại lệ cho phép một bên chấm dứt hợp đồng hoặc được miễn trừ nghĩa vụ. Đồng

thời cần nghiên cứu mối quan hệ giữa tính chất không hủy ngang và các trường hợp

bất kha kháng hoặc thực hiện hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi hoặc nguyên tắc

thiện chí. Dựa trên những nghiên cứu đó, Tòa án Tối cao đưa ra hướng dẫn xét xử

cho các tòa án cấp dưới để tránh trường hợp hiểu sai về quy định này.

Thứ ba, xóa bỏ những quy định hạn chế tự do thỏa thuận áp dụng biện pháp

bảo đảm trong giao dịch cho thuê tài chính

Cụm từ “nếu cần thiết” trong quy định về áp dụng biện pháp bảo đảm trong

giao dịch cho thuê tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý kéo theo rủi ro tín dụng và

đã có tiền lệ trong thực tiễn khi tòa án không công nhận biện pháp bảo đảm đó.

Điều này trái với nguyên tắc tự do thỏa thuận trong bộ luật dân sự và không đáp

ứng được nhu cầu kiểm soát rủi ro trong hoạt dộng cho thuê tài chính.

76

Thực tiễn xét xử cho thấy cụm từ này dễ gây ra hiểu nhầm to lớn trong tư duy

tư pháp. Bản án số 60/2014/KDTM-PT giải quyết vụ tranh chấp giữa Công ty trách

nhiệm hữu hạn cho thuê tài chính quốc tế Chailease và Công ty trách nhiệm hữu

hạn vận tải và giao nhận Sao đỏ không được viết bởi các thẩm phán ở các tòa cấp

huyện hay cấp tỉnh mà được đưa ra bởi các thẩm phán tại Tòa án Nhân dân Tối cao.

Các thẩm phán tòa Tối cao được cho là có trình độ chuyên môn cao nhất trong hệ

thống tư pháp. Do vậy không thể cho rằng việc không công nhận biện pháp bảo

đảm trong cho thuê tài chính là do lỗi chuyên môn yếu kém của thẩm phán mà phải

nhận định rằng quy định này thiếu minh bạch và tiềm ẩn rủi ro pháp lý rất lớn đối

với công ty cho thuê tài chính.

Điều này cho thấy cụm từ “nếu cần thiết” trong Nghị định số 39/2014/NĐ-CP

cần phải được bãi bỏ để vừa đảm bảo quyền tự do hợp đồng của các chủ thể trong

kinh doanh, vừa kiểm soát tốt rủi ro pháp lý và rủi ro tín dụng trong giao dịch cho

thuê tài chính. Một cách sửa đổi khác là nghị định không nên quy định gì về biện

pháp bảo đảm, tức là cho phép các bên tự do áp dụng biện pháp bảo đảm như các

giao dịch thương mại thông thường. Để tránh việc các tòa cấp dưới dùng bản án

trên làm kinh nghiệm xét xử, trong thời gian chờ sửa đổi Nghị định số

39/2014/NĐ-CP, Tòa án tối cao có thể đưa ra hướng dẫn xét xử cho các tòa cấp

dưới để đảm bảo không có sự hiểu sai hay áp dụng tùy tiện pháp luật ngay từ khâu

xét xử sơ thẩm, giảm thiểu chi phí giải quyết tranh chấp cho các bên.

3.2.3. Quy định trong giai đoạn chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính

Một là, cần rút ngắn thời gian thu hồi tài sản cho thuê tài chính.

Quy định bên cho thuê chỉ được tiến hành thu hồi tài sản sau thời hạn 30 ngày

từ ngày thông báo theo Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP bị các

công ty cho thuê tài chính đánh giá là chậm trễ. Nếu bên thuê cố tình không hợp

tác, thời hạn này đủ cho bên thuê tẩu tán tài sản. Theo ông Đàm Đức Long -

77

nguyên Tổng thư ký Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam, thời hạn này cần giảm xuống chỉ còn 10 ngày.147

Hai là, cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan có thẩm

quyền đặc biệt là cơ quan công an theo hướng có trách nhiệm trực tiếp tham gia

thu hồi tài sản nhằm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức được pháp luật ghi nhận và bảo vệ trong

văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp và mọi văn bản pháp luật chung,

văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Điều này tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho cơ

quan có thẩm quyền mà đặc biệt là công an trực tiếp hỗ trợ bên cho thuê tài chính

(hay trực tiếp tham gia thu hồi tài sản) trong trường hợp bên thuê không hợp tác.

Cần phải nhận định rằng nếu bên thuê cố tình cản trở bên cho thuê thu hồi tài sản,

đã có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản và vi phạm pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự

năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng có cơ sở pháp lý cho tội phạm này, quy

định tại Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Để hệ thống quy định pháp luật được thống nhất, các quy định cụ thể về trách

nhiệm hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền khi thu hồi tài sản thuê tài chính nên được

quy định chung trong cùng văn bản với các biện pháp tự xử lý tài sản bảo đảm

ngoài tư pháp (self-help repossesion). Chúng đều là các biện pháp do đương sự tự

mình thực hiện nhưng có sự khác biệt về cơ sở pháp lý nên dẫn đến quy định về

trách nhiệm hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền cũng cần khác nhau. Nên duy trì sự

ưu ái, thuận lợi ở mức độ phù hợp cho thủ tục thu hồi tài sản cho thuê tài chính khi

so sánh với cơ chế tự thu hồi tài sản bảo đảm.

Khi quy định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền nên tập trung vào cơ

quan công an vì họ có công cụ, biện pháp nghiệp vụ cưỡng chế đồng thời dễ dàng

147 Phan Nam (2011), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Nắm dao đằng lưỡi”, cafef.vn/tai-chinh- ngan-hang/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-nam-dao-dang-luoi-20110612103825292.chn truy cập truy cập 07/08/2018

khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự bởi họ có đại diện

78

chứng kiến quá trình thu hồi tài sản. Nhất thiết phải có chế tài đến cá nhân cụ thể

công tác trong cơ quan công an khi họ không chịu làm tròn trách nhiệm hỗ trợ của

mình.

Ba là, xem xét lại hiệu lực pháp lý của việc định giá tài sản trong mối liên hệ

với nghĩa vụ trả phần tiền thuê còn lại

Như đã phân tích ở mục 2.3.2. Xử lý tài sản cho thuê, Thông tư liên tịch số

08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP đang có những quy định quá thiên vị cho công ty

cho thuê tài chính khi xử lý tài sản cho thuê. Quy định tại điều II.16 theo đó xác

định nghĩa vụ trả phần tiền thuê còn lại của bên thuê chỉ dựa trên “số tiền thu được

từ việc xử lý tài sản cho thuê” mà không dựa trên việc định giá tài sản, thậm chí

còn không tính đến yếu tố lỗi của bên cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê

mất giá, khiến việc định giá tài sản không có ý nghĩa gì trong quá trình xử lý tài

sản, không phù hợp với nguyên tắc tự do thỏa thuận trong giao dịch thương mại.

Thông tư liên tịch số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP cần bỏ quy định tính phần tiền

còn lại mà bên thuê phải trả dựa trên số tiền thu được từ việc xử lý tài sản cho thuê.

Một điểm cân bằng hài hòa quyền lợi của các bên khi định giá tài sản là đưa

ra nguyên tắc và quy định cụ thể của việc định giá tài sản cho thuê trước khi xử lý

theo hướng bám sát với giá thị trường, đưa ra một khung chênh lệch nhất định theo

tỷ lệ phần trăm và giá thỏa thuận chỉ được chênh lệch so với giá thị trường trong

phạm vi đó, không công nhận hiệu lực pháp lý của những thỏa thuận định giá thấp

hơn hoặc cao hơn vượt ra ngoài khung giá đó. Việc định giá được dùng làm cơ sở

bù trừ nghĩa vụ hoàn trả phần tiền thuê còn lại của bên thuê.

Bên cho thuê là chủ sở hữu tài sản, lại có quyền và trách nhiệm xử lý tài sản

nên nếu đã có thỏa thuận giữa các bên thì những rủi ro về giá tài sản xảy ra ngoài

thỏa thuận đó bên cho thuê tự chịu trách nhiệm. Nhưng vì yêu cầu chính sách cần

hạn chế rủi ro đối với các định chế tài chính nên có thể đặt ra trường hợp ngoại lệ

để xem xét yếu tố lỗi của công ty cho thuê tài chính nhằm chia sẻ rủi ro giữa hai

bên. Tác giả đồng ý với phương án trong công trình nghiên cứu của Ngô Thanh

79

Hương giải quyết trường hợp này. Khi đã có thỏa thuận định giá nhưng giá thanh lý

vẫn thấp hơn giá thỏa thuận, mà không do lỗi của bên cho thuê (chẳng hạn thị

trường biến động quá nhanh từ lúc định giá đến trước khi bán tài sản khiến tài sản

sụt giá đáng kể mà bên cho thuê chưa kịp bán), thì các bên cùng nhau thỏa thuận

lại, nếu không thỏa thuận được thì Bên cho thuê sẽ thuê tổ chức có thẩm quyền định giá theo quy định của pháp luật hiện hành.148 Ngược lại, bên cho thuê cần

phải nhận được sự bù đắp tương xứng. Nếu giá thanh lý cao hơn giá đã thỏa thuận

thì cần lấy giá thanh lý để tính bù trừ nghĩa vụ cho bên thuê.

Bên cho thuê có ưu thế thông tin về tài sản khi nắm quyền quản lý, xử lý tài

sản nên họ cần có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi trong trường hợp trên.

Khi giải quyết tranh chấp, tòa án cần mặc định suy đoán rằng bên cho thuê có lỗi

khiến giá thanh lý quá thấp so với giá đã thỏa thuận, trừ khi bên cho thuê chứng

minh được điều ngược lại.

3.3. Kiến nghị giải pháp hạn chế rủi ro cho các bên giao kết hợp đồng

cho thuê tài chính

Từ những phân tích ở chương 2, tác giả xin đưa ra những khuyến nghị sau đối

với các bên giao kết hợp đồng cho thuê tài chính nhằm hạn chế rủi ro trong giao

dịch.

Thứ nhất, cẩn trọng khi soạn thảo hợp đồng

Cả hai bên cần xem xét kĩ lưỡng và soạn thảo (i) hợp đồng cho thuê tài chính

và (ii) hợp đồng mua tài sản để cho thuê chặt chẽ, rõ ràng. Trong khi pháp luật vẫn

tồn tại những thiếu sót, bất cập chưa bảo vệ quyền lợi của mỗi bên thích hợp thì các

chủ thể có quyền tự đàm phán để đưa ra những biện pháp tự bảo vệ mình trong hợp

đồng. Hợp đồng được coi như luật của mỗi bên và có giá trị pháp lý như văn bản

148 Ngô Thanh Hương, “Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo hình thức hợp đồng bán và

thuê lại”, 144.

pháp luật miễn là không vượt quá các giới hạn tự do thỏa thuận. Soạn thảo một hợp

80

đồng dự liệu được những tranh chấp phát sinh trong tương lai sẽ tạo cơ sở pháp lý

rõ ràng để giải quyết các rủi ro xảy ra.

Bên cho thuê nên chú ý vào các điều khoản nghĩa vụ trả tiền thuê của bên

thuê, thủ tục thu hồi tài sản, phương pháp định giá tài sản, phương thức xử lý tài

sản trong hợp đồng cho thuê tài chính. Bên thuê nên chú ý vào điều khoản giao

nhận tài sản, điều khoản trao quyền hoặc đảm bảo quyền lợi của mình trong hợp

đồng cung cấp tài sản; điều khoản cho phép khắc phục sự vi phạm nghĩa vụ, nghĩa

vụ của bên cho thuê phải đảm bảo quyền sử dụng tài sản mà không có tranh chấp

trong hợp đồng cho thuê tài chính. Do kỹ thuật pháp lý khi hai hợp đồng và ba bên

có mối liên hệ với nhau phức tạp, các bên, nhất là công ty cho thuê tài chính, nên

sử dụng dịch vụ tư vấn từ luật sư chuyên về lĩnh vực tín dụng để bảo vệ tốt nhất

quyền lợi của mình.

Thứ hai, bên cho thuê nên đăng ký tất cả các hợp đồng cho thuê tài chính

Hiện nay thủ tục đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính đã khá gọn. Ngay cả

khi thủ tục hơi rườm rà thì chi phí thực hiện thủ tục vẫn nhỏ hơn nhiều so với rủi ro

mất quyền ưu tiên trên tài sản khi có tranh chấp với người thứ ba. Mọi hợp đồng

cho thuê tài chính phải được đăng ký, bất kể giá trị của hợp đồng là bao nhiêu.

Thứ ba, bên cho thuê cần tăng cường giám sát việc sử dụng tài sản của bên

thuê

Thực tế nhiều vụ việc xảy ra cho thấy149 việc thu hồi tài sản cho thuê tài chính

149 Báo Công Thương Điện Tử (2012), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Thiếu chế tài”, cập

truy

truy

cập

https://congthuong.vn/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-thieu-che-tai-24895.html 07/08/2018

Phan Nam (2011), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Nắm dao đằng lưỡi”, cafef.vn/tai-chinh-ngan-

hang/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-nam-dao-dang-luoi-20110612103825292.chn truy cập 07/08/2018

Doanh Nhân Sài Gòn Online (2011), “Cho thuê tài chính: Gian nan thu hồi tài sản”,

https://doanhnhansaigon.vn/thoi-su-trong-nuoc/cho-thue-tai-chinh-gian-nan-thu-hoi-tai-san-1023520.html truy cập 07/08/2018

khó khăn do công ty cho thuê tài chính thiếu sự giám sát đối với tài sản. Khi cần

81

thu hồi họ không biết tài sản đang ở đâu và ngay từ khâu tìm kiếm tài sản đã mất

thời gian và chi phí. Đặc điểm của tài sản cho thuê tài chính là các động sản có tính

di động cao nên việc kiểm soát khó khăn. Công ty cho thuê cần tăng cường biện

pháp nghiệp vụ giám sát và áp dụng các chế tài nghiêm khắc trong hợp đồng đối

với khách hàng không hợp tác để công ty cho thuê tài chính giám sát tài sản.

KẾT LUẬN

Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn hiệu quả đối với các doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ rất cao và đóng vai trò quan

trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam do

vậy có nhiều tiềm năng tuy nhiên lại chưa phát triển. Pháp luật cần tạo điều kiện để

thúc đẩy sự phát triển của thị trường nhằm phục vụ cho sự tăng trưởng của nền

kinh tế. Việc đánh giá hành lang pháp lý có tác động thế nào tới các rủi ro trong

giao dịch cho thuê tài chính là cơ sở để có những biện pháp kiểm soát rủi ro tốt, thu

hút các định chế tài chính và doanh nghiệp tham gia thị trường.

Với cách tiếp cận giao dịch cho thuê tài chính từ góc nhìn tổng thể của luật

thương mại, đề tài nghiên cứu rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính không chỉ

nhằm bảo vệ định chế tài chính mà còn bảo vệ cả bên thuê – chủ yếu là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Đề tài đã phân tích, hệ thống hóa các đặc điểm pháp lý, bản

chất kinh tế của quan hệ cho thuê tài chính giữa bên thuê và bên cho thuê trong hợp

đồng cho thuê tài chính, quan hệ ba bên trong giao dịch cho thuê tài chính. Từ cơ

sở đó đề tài xây dựng nền tảng lý luận về rủi ro và kiểm soát rủi ro trong hoạt động

cho thuê tài chính.

Trên cơ sở lý luận về rủi ro và kiểm soát rủi ro, đề tài khoanh vùng những rủi

ro tiềm ẩn trong hoạt động cho thuê tài chính và xác định các biện pháp kiểm soát

rủi ro đặc thù trong hoạt động này. Các biện pháp kiểm soát rủi ro nổi bật trong

hoạt động cho thuê tài chính là (i) đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính và (ii) cơ

chế thu hồi và xử lý tài sản nhanh chóng. Ngoài ra những biện pháp chung đóng vai

82

trò kiểm soát rủi ro trong mọi hoạt động kinh doanh khác là xây dựng khung pháp

lý hoàn chỉnh, toàn diện điều chỉnh hoạt động.

Trên cơ sở các biện pháp kiểm soát rủi ro trên, đề tài phân tích, đánh giá thực

trạng pháp luật, đánh giá thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật về kiểm soát rủi

ro trong hoạt động cho thuê tài chính. Đề tài đã chỉ ra những bất cập trong khung

pháp lý về cho thuê tài chính. Một cách khái quát, khung pháp lý về cho thuê tài

chính tại Việt Nam chưa hoàn thiện, không phản ánh được bản chất pháp lý của

giao dịch cho thuê tài chính, không phù hợp với thông lệ quốc tế, có thể trực tiếp

hay gián tiếp gây ra những rủi ro hoặc không hạn chế được rủi ro cho mỗi chủ thể

trong giao dịch. Các quy định cụ thể chưa thực sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích chính

đáng của mỗi bên trong giao dịch, khiến mỗi bên đều phải có nguy cơ gặp phải rủi

ro. Bên cho thuê thì đối mặt với rủi ro tín dụng. Bên đi thuê thì đối mặt với rủi ro

về tài sản. Cả hai bên đều phải đối mặt với rủi ro pháp lý thường trực do sự thiếu

sót của hệ thống pháp luật. Đề tài cũng bình luận về một số luận điểm khoa học

được trình bày ở các công trình nghiên cứu khác có liên quan đến kiểm soát rủi ro

trong hoạt động cho thuê tài chính.

Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng pháp luật, đề tài kiến nghị những

giải pháp mang tính phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các

bất cập đã phân tích. Các giải pháp này trước tiên tập trung vào hoàn thiện khung

pháp lý điều chỉnh giao dịch cho thuê tài chính, sau đó là nâng cao hiệu quả của

việc (i) đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính và (ii) cơ chế thu hồi và xử lý tài sản

cho thuê nhanh chóng.

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo Công Thương Điện Tử (2012), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Thiếu

chế tài”, https://congthuong.vn/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-thieu-che-

tai-24895.html truy cập truy cập 07/08/2018

2. Báo Đầu tư điện tử (2018), “Vietcombank Leasing dẫn đầu thị phần cho thuê

tài chính”, https://baodautu.vn/vietcombank-leasing-dan-dau-thi-phan-cho-

thue-tai-chinh-d78679.html truy cập 03/08/2018

3. Báo Đầu tư tài chính (2018), “Xử lý khủng hoảng cần chuyên nghiệp nhìn từ

Agribank”, saigondautu.com.vn/tai-chinh/xu-ly-khung-hoang-can-chuyen-

nghiep-nhin-tu-agribank-63159.html truy cập 14/11/2018

4. Bộ Tài Chính (2002), VAS 06 Thuê tài sản

5. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 161/2007/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện

mười sáu (16) Chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số

149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày

31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ

trưởng Bộ Tài chính

6. Bộ Tài chính (2018), Thông tư 08/2018/TT-BTP Hướng dẫn một số vấn đề về

đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi

thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các Trung tâm đăng ký giao dịch,

tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp

7. Công ty Cho thuê Tài chính - VietinBank Leasing, “Lịch sử cho thuê tài

chính”, https://lc.vietinbank.vn/sites/home/knowledge/09061501.html truy

cập 02/08/2018.

8. Châu Đình Linh (2015), “Đâu rồi công ty cho thuê tài chính?”

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/dau-roi-cong-ty-cho-thue-tai-chinh-

20150410224328446.chn truy cập 03/08/2018

9. Chính phủ (2001), Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của

công ty cho thuê tài chính sửa đổi bổ sung năm 2005 và năm 2008

84

10. Chính phủ (2014), Nghị định số 39/2014/NĐ-CP về hoạt động của công ty tài

chính và công ty cho thuê tài chính

11. Chính phủ (2017), Nghị định số 102/2017/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo

đảm

12. Doanh Nhân Sài Gòn Online (2011), “Cho thuê tài chính: Gian nan thu hồi tài

sản”, https://doanhnhansaigon.vn/thoi-su-trong-nuoc/cho-thue-tai-chinh-gian-

nan-thu-hoi-tai-san-1023520.html truy cập 07/08/2018

13. Đinh Tiểu Khuê (2003), Pháp luật về công ty cho thuê tài chính trực thuộc

của tổ chức tín dụng (Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà

Nội)

14. Hồ Quang Huy (2011), “Đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính: Cơ chế bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của bên cho thuê tài chính”, Trang thông tin điện tử Bộ

Tư pháp, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=1430 truy cập 26/08/2018

15. Lê Thị Thu Thủy (2006), “Một số vấn đề về tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ

chức tín dụng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế - Luật tập 22, số 2

(2006)

16. Lê Thị Thu Thủy (2016), “Bảo đảm sự thuận lợi, công bằng và hợp lý trong

việc tự xử lý tài sản bảo đảm khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các hợp đồng

tín dụng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học tập 32, số 2 (2016)

17. Lê Thị Thu Thủy (chủ biên) (2016), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro

trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên

thế giới (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội)

18. Ngân hàng Nhà nước - Bộ Công an - Bộ Tư pháp (2007), “Thông tư liên tịch

số 08/2007/TT-NHNN-BCA-BTP ngày 10/12/2007 hướng dẫn về thu hồi và

xử lý tài sản cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính” (2007)

19. Ngô Thanh Hương (2017), Pháp luật Việt Nam về cho thuê tài chính theo

hình thức hợp đồng bán và thuê lại (Luận án Tiến sỹ, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội)

20. Nguyễn Minh Kiều (2011), Hướng dẫn thực hành tín dụng và thẩm định tín

dụng ngân hàng thương mại (NXB Lao động - Xã hội)

85

21. Nguyễn Ngọc Điện, “Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình

huống luật xa rời cuộc sống”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử

(http://www.nclp.org.vn), http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-

te-dan-su/quyen-so-huu-va-quyen-chiem-huu-bai-hoc-ve-tinh-huong-luat-xa-

roi-cuoc-song truy cập 27 Tháng Tám 2018

22. Phạm Thị Vân Huyền (2013), Thuê tài chính - một giải pháp tài trợ vốn hữu

hiệu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa www.dntm.vn/index.php/news/Nhan-

dinh-Du-bao/Thue-tai-chinh-mot-giai-phap-tai-tro-von-huu-hieu-cho-doanh-

nghiep-nho-va-vua-7991/

23. Phan Nam (2011), “Thu hồi tài sản cho thuê tài chính: Nắm dao đằng lưỡi”,

cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/thu-hoi-tai-san-cho-thue-tai-chinh-nam-dao-

dang-luoi-20110612103825292.chn truy cập truy cập 07/08/2018

24. Phùng Bá Đáng (2015), “Pháp luật hiện hành về đăng ký hợp đồng cho thuê

tài chính tại Việt Nam hiện nay và một số vấn đề cần nghiên cứu, hoàn thiện”,

Trang thông tin Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm,

dkqg.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=44 truy

cập 26/08/2018

25. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự

26. Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm

2017

27. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự

28. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

29. Sài Gòn Giải Phóng Online (2017), “Thị trường cho thuê tài chính tại Việt

Nam còn quá nhỏ bé”, www.sggp.org.vn/thi-truong-cho-thue-tai-chinh-tai-

viet-nam-con-qua-nho-be-466551.html truy cập 03/08/2018

30. Sài Gòn Giải Phóng Online (2018), “Agribank phá sản là tin đồn thất thiệt”,

www.sggp.org.vn/agribank-pha-san-la-tin-don-that-thiet-558308.html truy

cập 14/11/2018

31. Tổng Cục Thống kê, Thông cáo báo chí về kết quả sơ bộ Tổng điều tra Kinh

tế năm 2017. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&ItemID=18686

truy cập 02/08/2018

86

32. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2018), “Phá sản để cải cách”,

https://www.thesaigontimes.vn/278457/Pha-san-de-cai-cach.html truy cập

14/11/2018

33. Thời báo tài chính Việt Nam (2016), “Giảm thiểu rủi ro pháp lý trong hoạt

động tín dụng” thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2016-04-

27/giam-thieu-rui-ro-phap-ly-trong-hoat-dong-tin-dung-31087.aspx truy cập

03/08/2018

34. Trần Tô Tử và Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê

mua (Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ)

35. Trần Vũ Hải (2007), “Pháp luật về cho thuê tài chính - một số vấn đề cần

hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, số 3 (2007)

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam

(NXB Công An Nhân Dân)

Tiếng Anh

37. Andrea L. Eisfeldt và Adriano A. Rampini (2009), “Leasing, Ability to

Repossess, and Debt Capacity”, Review of Financial Studies 22, số 4: 1621–

57, https://doi.org/10.1093/rfs/hhn026

38. Bilal Rabah Al Sugheyer và c.s. (2009), Leasing in Development Guidelines

for Emerging Economies, 2nd a.b (United States of America: International

Finance Corporation (IFC))

39. Dimitris N. Chorafas (2005), Operational Risk Control with Basel II: Basic

Principles and Capital Requirements, Repr, Elsevier Finance (Amsterdam:

Elsevier/Butterworth-Heinemann)

40. Guojin Liu (2010), Finance Leasing in International trade (Ph.D. thesis,

University of Birmingham)

41. Herbert Kronke (2012), “Financial Leasing and Its Unification by

UNIDROIT”, trong General Reports of the XVIIIth Congress of the

International Academy of Comparative Law/Rapports Généraux Du

XVIIIème Congrès de l’Académie Internationale de Droit Comparé, b.t Karen

87

B. Brown và David V. Snyder (Dordrecht: Springer Netherlands, 2012),

https://doi.org/10.1007/978-94-007-2354-2_14

42. International Accounting Standards Board (2016), IFRS 16 Leases

43. International Accounting Standards Board (1982), IAS 17 - Lease (revised

2003)

44. Kåre Lilleholt (2008), b.t.v, Lease of Goods (PEL LG), Principles of

European Law, vol. 5 (Munich : [Brussels] : [Bern]: Sellier European Law

Publishers ; Bruylant ; Stæmpfli)

45. Michael I. Tsai (1989), “A Unified Treatment of Finance Lessees’ Revocation

of Acceptance under the Uniform Commercial Code”, University of

Pennsylvania Law Review 137, số 3 (1989), https://doi.org/10.2307/3312281

46. Peter Breslauer (1992), “Finance Lease, Hell or High Water Clause, and Third

Party Beneficiary Theory in Article 2A of the Uniform Commercial Code”,

Cornell Law Review 77, số 2

47. Richard M. Contino (2002), The complete equipment-leasing handbook: a

deal maker’s guide with forms, checklists, and worksheets (New York:

American Management Association)

48. Ronald C.C. Cuming (1998), “Model Rules for Lease Financing : A Possible

Complement to the UNIDROIT Convention on International Financial

Leasing”, Uniform Law Review, số 371

49. The Office of the Comptroller of the Currency’s (OCC) (2017), Comptroller’s

Handbook - Lease Financing, Version 1.2 (Washington, DC)

50. The United States, “Uniform Commercial Code (UCC)”,

https://www.law.cornell.edu/ucc truy cập 14 Tháng Tám 2018

51. Uarda Roshi (2016), “A legal analysis of financial leasing and its unification

by UNIDROIT”, European International Virtual Congress of Researchers,

http://www.idpublications.org/wp-content/uploads/2016/03/Full-Paper-A-

LEGAL-ANALYSIS-OF-FINANCIAL-LEASING-AND-ITS-

UNIFICATION-BY-UNIDROIT.pdf

52. UNIDROIT (1988), Convention on International Financial Leasing (Ottawa)

53. UNIDROIT (2008), Model law on leasing

88

54. UNIDROIT (2010), “Official Commentary to the UNIDROIT Model Law on

Leasing”, Uniform Law Review

55. Uniform Law Commission, “UCC Article 2,Sales and Article 2A, Leases

(2003) Summary”, Uniform Law Commission (blog), truy cập 30 Tháng Tám

2018,

http://www.uniformlaws.org/ActSummary.aspx?title=UCC%20Article%202,

Sales%20and%20Article%202A,%20Leases%20(2003)

56. World Bank (2001), “The evolution of secured transactions (English)”,

Working Paper (Washington, DC: World Bank),

http://documents.worldbank.org/curated/en/564371468780338375/The-

evolution-of-secured-transactions

89