intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức lớp 12 Nghị luận xã hội-phần137

Chia sẻ: Motsach Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

168
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tích đặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương riêng của mình, vừa phân tích giảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng về tư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức lớp 12 Nghị luận xã hội-phần137

  1. Kiến thức lớp 12 Nghị luận xã hội-phần137 Thao tác & lí luận phương thức hành văn. I. Bình Giảng Văn học 1. Khái niệm Bình giảng cũng là một kiểu bài phân tích văn học nhưng là kiểu bài phân tích đặc biệt. Người viết cảm thụ văn chương riêng của mình, vừa phân tích giảng giải, vừa bình cái hay, cái đẹp của thơ văn để cho người đọc cùng tán thưởng về tư tưởng và nghệ thuật của một đoạn văn, đoạn thơ hay một tác phẩm trọn vẹn.
  2. Trong nhà trường, những đề văn bình giảng thường chỉ hướng về một đoạn thơ hay, một đoạn văn hay, một bài thơ ngắn đặc sắc. Thơ văn không hay, hoặc ít có giá trị tư tưởng nghệ thuật thì không thể bình giảng được. 2. Phân biệt giữa phân tích văn học và bình giảng - Phân tích tác phẩm văn học là từ sự phân tích đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm, hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, một khía cạnh của tác phẩm. * Ví dụ:
  3. + Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng mục đích đi tới là làm sáng tỏ và đánh giá – giá trị của tác phẩm. + Phân tích vẻ đẹp lãng mạn của truyện “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu – cái đích của bài văn là làm sáng tỏ một khía cạnh của tác phẩm. + Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ để cho thấy giá trị nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ” – cái đích đi tới là làm sáng tỏ một vấn đề của tác phẩm. - Bình giảng là từ việc giảng và bình các chi tiết ngôn ngữ nghệ thuật, tư tưởng tình cảm chứa trong tác phẩm hay một phần của tác phẩm, làm rõ cái hay, cái đẹp của văn chương.
  4. - Phân tích văn học và bình giảng đều phải sử dụng các thao tác sau: phân tích, giảng giải – trích dẫn, so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng, bình, đánh giá. Tuy nhiên mức độ, sắc thái có chỗ hơi khác nhau. + Bình giảng: yếu tố bình phải sắc, đậm hơn. + Bình giảng: đòi hỏi người viết phải phân tích, giảng giải kỹ hơn, sâu hơn các chi tiết. Có những đề văn chỉ có hai câu thơ, nên người viết phải biết sử dụng các thao tác trên tinh thần “chẻ sợi tóc làm tư” mới có thể làm nên một bài văn 4,5 trang. * Ví dụ:
  5. Bình giảng hai câu thơ sau: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều”. (“Đất nước” - Nguyễn Đình Đinh Thi) (Đề thi vào trường Đại học Luật năm 1997) Để viết hay đề văn bình giảng này trong một thời gian nhất định khoảng 100-120 phút trong phòng thi căng thằng, hồi hộp đâu dễ?
  6. + Nói chung giọng văn, chất văn của hai kiểu bài phân tích văn học và giảng phải lưu loát, uyển chuyển, mượt mà, giàu cảm xúc. Vốn dĩ câu thơ, câu văn trong đề bài bình giảng đưa ra đã hay, rất hay, rất đẹp, do đó người viết cũng phải diễn đạt bằng những lời văn, câu văn giàu hình ảnh, biểu cảm mới tương xứng. Các tiêu chí trên đây chỉ là sự khu biệt tương đối. Các bài văn mẫu hiện nay, xét cho cùng, các bài bình giảng cũng không khác gì bài phân tích; đặc biệt chất văn, giọng văn chưa được “bay” thậm chí yếu tố bình (khen, chê) chưa có, chưa rõ.
  7. Theo ý chúng tôi, dối với những bài ca dao ngắn, bài tứ tuyệt hoặc bát cú Đường luật thì phân tích hay bình giảng đều có thể viết giống nhau, tương tự nhau. * Ví dụ: + Bình giảng bài ca dao “Bài ca chàng thợ mộc” + Bình giảng bài thơ “Mộ” (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. + Phân tích bài thơ “Canh cá tràu” của Chế Lan Viên. 3. Phương pháp làm bài cụ thể:
  8. - Cắt ngang để bình giảng từng chi tiết, từng bộ phận, từng phần một. - Giảng trước, bình sau ở mỗi chi tiết, bộ phận, từng phần. - Phải bám vào ngôn ngữ, hình ảnh… để giảng. Và trên cơ sở đó để bình. - Cần có kiến thức lý luận văn học và thuộc nhiều thơ văn để so sánh đối chiếu, liên tưởng mở rộng khi giảng và bình, không thể khen, chê một cách vu vơ, tuỳ tiện. - Bố cục dàn ý một bài bình giảng cũng giống như bài phân tích văn học.
  9. Minh họa về bình giảng a/ “… Chúng ta đã nói đến sự tương xứng thắt chặt lại, là đối; nhưng phải nghĩ đến sự tương xứng mở rộng ra, nó là cái lẽ lớn chi phối cả thơ và các nghệ thuật khác. Chính Phạm Thái đã có một câu thơ rất hay, khi nhìn phong cảnh đất Kim Sơn: “Mành rủ liễu, tán dương tùng, Trúc khua vách đá, lan ***g áo tiên”.
  10. Câu lục bát chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn đều là một động tác, với một động từ trong lúc liễu rủ mành của nó xuống, thì tùng dương tán của nó lên, trong khi đó thì âm nhạc là: trúc khẽ chạm vào vách đá, khua, và các hoa lan trăm đoá nở ra, như đang ***g áo liên vào mình; đây không những là “trong thơ có tranh”, mà còn có cả vũ khúc, một điệu múa; tất cả là một sự tương xứng rất đẹp”. Xuân Diệu (“Sự tương xứng trong ngôn từ thơ”) b/ Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc. Tố Hữu không những suy nghĩ qua âm nhạc, trong âm nhạc, mà anh còn suy nghĩ bằng âm nhạc nữa:
  11. “Ai về Hưng Hóa Ai xuống Khu Ba Ai vào Khu Bốn Đường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!...” Phân tích theo cái lối hình thức, thì cả đoạn này, chỉ là những tên địa danh kèm theo ở đầu chữ Ai. Nhưng hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi, ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở
  12. đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu tên lên mãi mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lòng rôi. Mỗi tiếng “Ai” kia nhu đào sâu thêm tình yêu đó. Rất nhiều lúc tác giả dùng lối gọi tên như vậy: “Tháng Tám vùng lên Huế của ta - Quảng Phong ơi, Hương Thuỷ, Hương Trà”, “Chào những buồm nâu thuyền câu Diêm Phố! Nhớ nhau chăng, hỡi Hanh Cát, Hanh Cụ?”… Cho cả đến những lần chỉ có tên là tên: “Po Tào, Mường Khủa, Mường Thanh,
  13. Mường La, Hát Lót, chân anh đã từng”. Và lần nào tác giả cũng thành công - Chỉ vì sau cái nhạc điệu dân tộc, anh đã biết để một quả tim dân tộc, sau âm thanh là có cả tâm hồn. Thơ là đi giữa Nhạc và ý. Rời vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ hô khan. Rời vào cái vực Nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. “Ai đi Nam Bộ
  14. Tiền Gaing, Hậu Giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng… Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp Việt Bắc Miền Nam, mồ ma giặc Pháp Nơi chôn nhau cắt rốn của ta…
  15. Ai đi Nam Ngãi, Bình Phú, Khánh Hoà” v.v… Trong sóng nhạc cuồn cuộn, những ý nổi lên, như đẩy nhạc đi, như giữ nhạc lại. Và chính là cái hơi nhạc đã thức dậy rồi lại phủ lên những ý này. Một đoạn thơ mà chỉ xem thôi thì không hiểu hết cái hay, pahỉ đọc nó lên, để cho tất cả khả năng của nó biểu hiện ra trong âm nhạc”. Chế Lan Viên (Trích “Thơ Tố Hữu” – Nghĩ cạnh dòng thơ”) c/ “… Nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu rất gần gũi với văn học dân gian. Ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu trong văn thơ yêu nước
  16. cũng như trong “Lục Vân Tiên” là ngôn ngữ của quần chúng, chữ dùng rất táo bạo và đầy cảm xúc, có khi như còn nóng hồi hơi thở của cuộc sống và chất chứa bao nhiêu đau xót, buồn giận, mừng vui: Khi Vân Tiên chiến thắng trở về, cái đám Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Quỳnh Trang và Thế Loan thật là ê trệ. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã nói rõ mỗi đứa ê trệ một cách. Riêng về Bùi Kiệm, ông viết: “Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê Ngồi chề bê mặt như sề thịt trâu”. Thật chữ dùng khó mà táo bạo hơn và cũng khó mà đúng hơn. Những câu như thế nghe chưa quen thì có thể chưa thấy hay.
  17. Nhưng càng đọc lại càng thấy quý. Hai câu: “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt, Lòng đạo xin tròn một tấm gương”. (“Ngư Tiều y thuật vấn đáp”) Có chỗ tôi thấy chép là “đôi tròng mắt”. Có lẽ vì người ta sợ nói “tròng thịt” thì hình như không được thanh nhã. Nhưng chỉ đổi đi một chữ như vậy là cả cái phần đau xót, phần bướng bỉnh trong câu thơ đã mất đi quá nửa. (…) Sự gắn bó sâu sa với quần chúng là điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đã tạo nên con người và sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Và cũng chính
  18. quần chúng đã hiểu Nguyễn Đình Chiểu hơn ai hết, đã bảo vệ thơ Nguyễn Đình Chiểu cho đến ngày nay”. Hoài Thanh ( Trích “Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam”)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2