Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết "Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam" sẽ phân tích (i) kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc; (ii) thực trạng phát triển kinh tế số của Việt Nam và đề xuất giải pháp phát triển. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam
- KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ CỦA TRUNG QUỐC VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM ThS. Phạm Thị Hồng Mỵ1 Tóm tắt: Hiện nay các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang tích cực thực hiện các biện pháp để phát triển kinh tế số như Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nói đến việc Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế số. Đây là thời cơ mà Việt Nam cần nhanh chóng hành động mạnh mẽ và việc học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia phát triển như Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam bứt phá vươn lên thay đổi. Vì thế, bài viết sẽ phân tích (i) kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc; (ii) thực trạng phát triển kinh tế số của Việt Nam và đề xuất giải pháp phát triển. Từ khóa: Kinh tế số, Trung Quốc, Việt Nam. Abstract: Currently, countries around the world, including Viet Nam, are actively taking measures to develop the digital economy, as the 13th Party Congress mentioned Viet Nam becoming a high- income developed country in 2045. Over the pastime, our Party and State have had many guidelines and policies to encourage the development of the digital economy. This is an opportunity that Viet Nam needs to act quickly and strongly, and learning from the experiences of developed countries like China will help Viet Nam breaks through to change. Therefore, the article will analyze (i) China’s digital economy development experience; (ii) the current situation of Viet Nam’s digital economy development and proposed development solutions. Key words: Digital economy, China, Viet Nam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kinh tế số được hiểu là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistics, tài chính ngân hàng mà công nghệ số được áp dụng. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng, có chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, với lợi thế thị trường quy mô lớn, dân số đông, Trung Quốc là một trong những quốc gia được đánh giá có nền kinh tế số phát triển nhanh và sôi động nhất trên thế giới. Nền kinh tế số đang dần trở thành một trong những lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, góp phần đưa Trung Quốc chuyển 1 Khoa Luật Trường Đại học Sài Gòn; Email:pthmy@sgu.edu.vn.
- Phần 1. KINH TẾ SỐ VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 105 đổi thành cường quốc về sản xuất và công nghệ, hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh, cùng với hệ sinh thái Internet dẫn đầu về đổi mới, đạt được nhiều dấu ấn, thành tựu so với khu vực và thế giới. Vì thế, việc nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc, để so sánh và học hỏi từ đó đề xuất giải pháp phát triển kinh tế số cho Việt Nam là điều rất cần thiết. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Vấn đề nghiên cứu Bài viết nghiên cứu chủ đề về phát triển kinh tế số, cụ thể vấn đề: kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc; kết quả đạt được và hạn chế trong phát triển kinh tế số của Việt Nam; gợi mở giải pháp phát triển kinh tế số Việt Nam trên cơ sở so sánh với Trung Quốc, học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với phương pháp nghiên cứu so sánh trường hợp cụ thể qua việc thu thập tài liệu thứ cấp như báo cáo, văn bản pháp luật, số liệu, bài viết của chuyên gia khoa học để làm sáng tỏ nội dung kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc trong phát triển kinh tế số để từ đó đề xuất giải pháp cho Việt Nam trong thời gian tới. 2.3. Kết quả, ý nghĩa và vấn đề thảo luận 2.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc Trung Quốc là một trong những quốc gia thành công nhất thế giới khi chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia. Kết quả đạt được của nền kinh tế số: Theo Sách trắng do Học viện Công nghệ thông tin và Truyền thông Trung Quốc công bố cho hay: Năm 2019, theo Báo cáo phát triển kinh tế kỹ thuật số thì giá trị gia tăng của nền kinh tế kỹ thuật số đạt 35,8 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 36,2% GDP. Công nghiệp hóa kỹ thuật số đang phát triển ổn định. Ngành công nghiệp kỹ thuật số đạt được sự phát triển tương đối ổn định, với nền tảng vững chắc. Về quy mô, giá trị gia tăng của công nghiệp hóa kỹ thuật số đạt 7,1 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị gia tăng của quá trình số hóa công nghiệp của nước tôi là khoảng 28,8 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 29,0% GDP. Trong số đó, tỷ lệ thâm nhập nền kinh tế kỹ thuật số của ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp lần lượt là 37,8%, 19,5% và 8,2% (CAICT, 2020). Sự tăng trưởng nhanh chóng của số hóa công nghiệp đã trở thành một động lực hỗ trợ quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- 106 PROCEEDINGS OF THE INTERNATIONAL CONFERENCE "DIGITAL ECONOMY: POTENTIALS ET CHALLENGES" Năm 2020, quy mô của nền kinh tế kỹ thuật số của Trung Quốc đạt 39,2 nghìn tỷ nhân dân tệ vào năm 2020, chiếm 38,6% GDP, mức tăng là 9,7% so với cùng kỳ năm ngoái, hỗ trợ đắc lực cho công tác phòng, chống dịch và phát triển kinh tế, xã hội. Quy mô công nghiệp hóa kỹ thuật số đạt 7,5 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 19,1% nền kinh tế kỹ thuật số và 7,3% GDP; quy mô của số hóa công nghiệp đạt 31,7 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 80,9% nền kinh tế số và 31,2% GDP, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững và lành mạnh của nền kinh tế số. Nền kinh tế kỹ thuật số công nghiệp dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp chiếm tỷ trọng tương ứng là 40,7%, 21,0% và 8,9% giá trị gia tăng của ngành (CAICT, 2021). Năm 2021, Báo cáo phát triển kinh tế kỹ thuật số cho biết, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với nỗ lực chung của toàn xã hội, sự phát triển của nền kinh tế kỹ thuật số của đất nước đã tạo ra những bước đột phá mới. Quy mô đạt 45,5 nghìn tỷ nhân dân tệ, cao hơn gấp đôi so với giai đoạn đầu của “Kế hoạch 5 năm lần thứ 13” và mức tăng hàng năm 16,2%, cao hơn 3,4% so với tốc độ tăng GDP, chiếm 39,8% GDP. Số hóa công nghiệp tiếp tục là động lực chính cho sự phát triển của nền kinh tế số. Vị trí dẫn đầu về số hóa công nghiệp tiếp tục được củng cố. Với sự đổi mới và phát triển của công nghệ kỹ thuật số, Internet, Big data, AI và nền kinh tế thực được tích hợp sâu sắc và số hóa công nghiệp có tác động đáng kể đến nền kinh tế kỹ thuật số. Vào năm 2021, quy mô công nghiệp hóa kỹ thuật số là 8,35 nghìn tỷ nhân dân tệ, mức tăng hàng năm là 11,9%, chiếm 18,3% nền kinh tế kỹ thuật số. Quy mô số hóa công nghiệp đạt 37,2 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 32,5% GDP, cao hơn lần lượt là 7,1 và 1,3 điểm phần trăm so với tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng năm 2020. Tất cả các tầng lớp xã hội đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc phát triển nền kinh tế kỹ thuật số (CAICT, 2022). Ngành viễn thông duy trì xu hướng ổn định và tích cực. Vào năm 2021, doanh thu của mảng kinh doanh viễn thông đạt 1,47 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 8,0% so với năm trước và tốc độ tăng trưởng tăng 4,1% so với năm trước. Sản xuất thông tin điện tử giá trị gia tăng tăng 15,7% so với năm trước và tốc độ tăng trưởng đạt mức cao mới trong mười năm qua. Có hơn 40.000 doanh nghiệp trên quy mô được chỉ định trong ngành dịch vụ công nghệ thông tin và thu nhập kinh doanh phần mềm tích lũy là 95.000 tỷ đồng, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm ngoái và tốc độ tăng trưởng gộp hai năm là 15,5%. Có hơn 150 nền tảng Internet công nghiệp và các nền tảng này phục vụ hơn 1,6 triệu doanh nghiệp công nghiệp. Ứng dụng 5G+Internet công nghiệp dẫn đầu thế giới. Trong lĩnh vực thương mại điện tử, doanh số bán lẻ trực tuyến cả nước năm 2021 đạt 13,1 nghìn tỷ nhân dân tệ, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó doanh số bán lẻ hàng hóa vật chất trực tuyến đạt 108.000 nhân dân tệ. Trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến, hệ thống thanh toán đã được cải thiện để tạo điều kiện mở rộng tiêu dùng. Vào năm 2021, hoàn thành 151,228 tỷ giao dịch thanh toán di động với số tiền là 526,98 nghìn tỷ nhân dân tệ,
- Phần 1. KINH TẾ SỐ VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 107 tăng lần lượt là 22,73% và 21,94% so với cùng kỳ năm trước. Sử dụng công nghệ 5G và AI để khởi chạy dựa trên các kịch bản của khách sạn AI Butler, Jingyitong và các công cụ vận hành thiết bị đầu cuối di động kỹ thuật số khác đã nhận ra việc cải thiện hiệu quả hoạt động dựa trên dữ liệu; dẫn đầu việc thành lập "Liên minh công nghiệp khách sạn thông minh và kỹ thuật số Sơn Đông" để cung cấp hỗ trợ nền tảng cho việc quảng bá và triển khai các khách sạn thông minh ở tỉnh Sơn Đông. Quá trình chuyển đổi kỹ thuật số trong nông nghiệp của Trung Quốc đang tiến triển đều đặn. 5G, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ kỹ thuật số khác được tích hợp và ứng dụng trong sản xuất và quản lý nông nghiệp, nghiên cứu về công nghệ then chốt và ứng dụng sáng tạo của nông nghiệp thông minh và máy móc nông nghiệp thông minh không ngừng được đẩy mạnh (CAICT, 2022). Nội dung kinh nghiệm của Trung Quốc: Với những thành tích kết quả trong việc phát triển nền kinh tế số của Trung Quốc, chúng ta có thể khái quát kinh nghiệm bao gồm: Một là, chính sách rõ ràng, hành lang pháp lý đầy đủ cho sự phát triển kinh tế số: Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hai kế hoạch tổng thể vào năm 2015 để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghệ cao. Đầu tiên là Made in China 2025, bao gồm 10 lĩnh vực trọng tâm như máy móc và rô-bốt cao cấp, thiết bị vận tải đường sắt tiên tiến, tiết kiệm năng lượng và xe điện, cũng như thiết bị y tế và y sinh. Mục tiêu của lộ trình này là tăng hàm lượng vật liệu cốt lõi trong nước của Trung Quốc lên 70% vào năm 2025. Kế hoạch thứ hai là Internet Plus, trong đó Chính phủ Trung Quốc tập trung vào việc tạo ra các chính sách khuyến khích 11 lĩnh vực ưu tiên tận dụng Internet, bao gồm cả thương mại điện tử, logistics, dịch vụ công và tài chính. Những ý định và định hướng rõ ràng đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế số của đất nước. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc còn ban hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về phát triển kinh tế số đã đưa ra một lộ trình chi tiết và các biện pháp khuyến khích để củng cố lĩnh vực này. Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ nâng cao năng lực của mình trong các lĩnh vực chiến lược, chẳng hạn như cảm biến, thông tin lượng tử, truyền thông, mạch tích hợp và chuỗi khối, cũng như thúc đẩy nghiên cứu và phát triển các công nghệ thế hệ tiếp theo như 6G. Vào tháng 1 năm 2022, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã công bố Kế hoạch phát triển công nghệ tài chính cho giai đoạn 2022-2025, nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính trong 4 năm tới. Vào tháng 2 năm 2022, Trung Quốc đã công bố kế hoạch mang tên Dữ liệu phương Đông, điện toán phương Tây. Kế hoạch này nhằm mục đích mở rộng phạm vi của các trung tâm dữ liệu để cải thiện khả năng xử lý, lưu trữ và tính toán dữ liệu của Trung Quốc. Vào tháng 7 năm 2022, Cục Quản lý không gian mạng Trung Quốc (CAC) đã công bố tài liệu có tựa đề Các biện pháp đánh giá bảo mật, trong đó nêu chi tiết các yêu cầu đánh giá bảo mật đối với việc truyền dữ liệu xuyên biên giới của các công ty (Phan Văn Hòa, 2023). Tăng cường quản trị an ninh dữ liệu thực hiện Luật Bảo mật dữ liệu, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân, v.v... và nghiêm
- 108 PROCEEDINGS OF THE INTERNATIONAL CONFERENCE "DIGITAL ECONOMY: POTENTIALS ET CHALLENGES" khắc trấn áp hành vi hack dữ liệu nhằm đảm bảo giao dịch thị trường, tạo môi trường thị trường an toàn, trật tự, khuyến khích các ngành, địa phương, doanh nghiệp phát huy dữ liệu. Cụ thể, Luật Bảo mật dữ liệu (DSL) có hiệu lực như một trụ cột mới trong khung pháp lý của Trung Quốc về bảo mật thông tin và bảo vệ quyền riêng tư của dữ liệu. Luật tập trung vào các yêu cầu về nội địa hóa dữ liệu, xuất dữ liệu và bảo vệ dữ liệu. Có hiệu lực từ ngày 1/11/2021, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân (PIPL), cùng với Luật Bảo mật dữ liệu và Luật An ninh mạng, củng cố hơn nữa lĩnh vực pháp lý về bảo mật và bảo vệ thông tin cá nhân. Vào tháng 1/2022, CAC đã công bố Điều khoản hành chính sửa đổi về Dịch vụ thông tin ứng dụng Internet di động, trong đó nhấn mạnh cam kết của Trung Quốc trong việc điều chỉnh quyền riêng tư và bảo mật của ứng dụng di động. Hai là, tập trung vào trung tâm kinh tế và xây dựng hệ sinh thái kinh tế số: Trung Quốc đã sử dụng các trung tâm kinh tế để đẩy nhanh sự phát triển của nền tảng công nghiệp kỹ thuật số. Với mục tiêu thu hút một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các trung tâm kinh tế này được hỗ trợ bởi các chính sách ưu đãi như ưu đãi thuế và chương trình tài trợ R&D cũng như nguồn cung nhân tài đầy đủ và cơ sở hạ tầng tốt nhất. Ví dụ, trung tâm kinh tế của Bắc Kinh, tập trung vào phát triển công nghệ, cung cấp các ưu đãi để kích thích các chương trình tài trợ FDI và R&D để thúc đẩy phát triển công nghệ cao. Do đó, Bắc Kinh hiện là thành phố có trụ sở của nhiều công ty công nghệ, bao gồm ByteDance, JD.com và Didi. Một ví dụ khác là Thượng Hải, nơi tập trung vào sản xuất và dịch vụ tài chính. Thượng Hải đã thực hiện một khu vực thương mại tự do vào năm 2013 để cải thiện sự dễ dàng trong kinh doanh, chẳng hạn như với các quy định kinh doanh đơn giản hơn và các ưu đãi về thuế. Thượng Hải cũng là nơi có 30 trường đại học nổi tiếng cung cấp nhân tài có tay nghề cao để hỗ trợ phát triển kinh tế. Các trung tâm kinh tế này cho phép Chính phủ Trung Quốc thu hút một số công ty công nghệ cao hàng đầu toàn cầu và khu vực để xây dựng một hệ sinh thái kỹ thuật số mạnh mẽ và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp kỹ thuật số. Mặt khác, để xây dựng hệ sinh thái kinh tế số, CIACT (2022) cũng cho biết biện pháp xây dựng thị trường dữ liệu được quan tâm. Trung Quốc đã tối ưu hóa việc cung cấp tài nguyên dữ liệu, xây dựng nền tảng thống nhất và mở để chia sẻ dữ liệu quốc gia và thúc đẩy doanh nghiệp. Thiết lập cơ chế định giá tài sản vốn dữ liệu để thúc đẩy lưu thông các giao dịch tài nguyên dữ liệu. Bên cạnh đó, nâng cao mức độ hiện đại hóa của chuỗi công nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp tăng cường quản lý kỹ thuật số chuỗi cung ứng và hợp tác tích hợp, dựa trên nền tảng Internet công nghiệp để thực hiện mua sắm hợp tác, sản xuất hợp tác và phân phối hợp tác. Thúc đẩy các doanh nghiệp cải thiện hệ thống quản lý an toàn chuỗi cung ứng và tạo mạng lưới chuỗi cung ứng an toàn và ổn định. Đẩy mạnh phát triển các cụm công nghiệp, nâng cao mức độ liên kết công nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc còn thực hiện biện pháp tăng cường ứng dụng và đi sâu vào chuyển đổi số và nâng cấp ngành sản xuất trong nước. Thúc đẩy sâu sắc quá trình chuyển đổi kỹ thuật
- Phần 1. KINH TẾ SỐ VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 109 số của các doanh nghiệp sản xuất, phát triển mạnh mẽ Internet công nghiệp, phát triển sản xuất thông minh, hướng dẫn các công ty sản xuất thực hiện nâng cấp kỹ thuật số với sự trợ giúp của Internet công nghiệp. Tăng cường quản trị và nâng cao toàn diện trình độ quản trị nền kinh tế số như tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị, sử dụng internet, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối và các công nghệ kỹ thuật số khác nâng cao hiệu quả quản trị và tận dụng tốt dữ liệu lớn về công nghiệp và nền tảng thông tin, giảm chi phí quản trị và nâng cao hiệu quả quản trị. Ba là, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ: Trung Quốc đã tích cực mở rộng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số. Tỷ lệ sử dụng thiết bị thông minh đã tăng từ 48% năm 2016 lên 63% vào năm 2020. Tỷ lệ sử dụng Internet cũng tăng mạnh: vào năm 2020, 98% làng nông thôn ở Trung Quốc đã được phủ sóng băng thông rộng. Ngoài ra, tỷ lệ thâm nhập 5G là 30% vào năm 2021 và Chính phủ Trung Quốc đang đặt mục tiêu tăng tỷ lệ này lên 57% vào năm 2025. Tỷ lệ thâm nhập cao của các thiết bị thông minh và Internet đã cho phép Trung Quốc phát triển nền tảng kỹ thuật số của mình để tạo ra một kinh tế kỹ thuật số. Trung Quốc đã cung cấp nguồn tài trợ R&D mạnh mẽ và phát triển các tổ chức học thuật hàng đầu của mình. Chi tiêu cho R&D đã tăng từ 0,9% GDP năm 2000 lên 2,4% vào năm 2020. Các trường đại học hàng đầu ở Trung Quốc đang tích cực trong R&D dựa trên số lượng bài báo khoa học được xuất bản; Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa được xếp hạng 12 và 18 vào năm 2020. Trung Quốc cũng đứng thứ hai về số lượng bài báo khoa học được xuất bản vào năm 2020 và đứng đầu về số lượng bằng sáng chế được cấp vào năm 2019. Trong Báo cáo phát triển kinh tế số năm 2022 (CIACT, 2022) cũng đã nhấn mạnh biện pháp chính dẫn đến sự phát triển của Trung Quốc là củng cố công nghệ và nâng cao năng lực đổi mới công nghệ cốt lõi. Tập trung vào những đổi mới công nghệ tiên tiến như chuỗi khối, trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử. Xây dựng các viện nghiên cứu công nghệ tiên tiến của tỉnh, thành phố và các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, thúc đẩy các viện nghiên cứu khoa học, trường đại học và doanh nghiệp. Tối ưu hóa việc phân bổ lực lượng nghiên cứu khoa học và chia sẻ tài nguyên, đồng thời thu thập trí tuệ để đẩy nhanh quá trình phát triển các công nghệ đột phá chiến lược. Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế sâu rộng trong việc phát triển kinh tế số: Trung Quốc đã tích cực tìm kiếm sự hợp tác với cộng đồng quốc tế để thúc đẩy thương mại và quản trị kỹ thuật số. Trung Quốc đã nộp đơn đăng ký tham gia Thỏa thuận đối tác kinh tế kỹ thuật số (DEPA), một loại thỏa thuận đối tác thương mại mới được ký bởi Chile, New Zealand và Singapore, nhằm thúc đẩy thương mại kỹ thuật số. Thỏa thuận này phù hợp với định hướng của Trung Quốc là tăng cường cải cách trong nước và mở cửa hơn nữa để tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật số với các quốc gia khác. Mặt khác, quốc gia này cũng tích cực chia sẻ kiến thức kỹ thuật số của mình bằng cách cung cấp công nghệ, thiết bị và dịch vụ cho các nước kém phát triển hơn. Các công ty Trung Quốc đã tham gia vào
- 110 PROCEEDINGS OF THE INTERNATIONAL CONFERENCE "DIGITAL ECONOMY: POTENTIALS ET CHALLENGES" một số dự án cáp ngầm nối châu Phi và Âu - Á. Theo dữ liệu chính thức, tổng cộng hơn 200.000 km cáp quang đã được lắp đặt, mang lại khả năng truy cập Internet băng thông rộng cho 6 triệu hộ gia đình ở châu Phi (Yi Wu, 2022). Tổ chức Diễn đàn thượng đỉnh hợp tác quốc tế Vành đai và Con đường, Hội nghị Internet thế giới và các hội nghị quốc tế khác, đồng thời xây dựng nền tảng hợp tác và trao đổi kinh tế kỹ thuật số toàn cầu. Tổng cộng có 34 tuyến cáp đất liền xuyên biên giới và nhiều tuyến cáp ngầm quốc tế đã được xây dựng để thúc đẩy kết nối hạ tầng mạng. Tham gia sâu hơn vào quản trị quốc tế về kinh tế số, thúc đẩy hợp tác kinh tế số theo cơ chế G20 và APEC, thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh số cởi mở, bình đẳng, không phân biệt đối xử, thúc đẩy hợp tác thiết thực về đổi mới sáng tạo, kỹ năng số. 2.3.2. Phát triển kinh tế số ở Việt Nam và đề xuất giải pháp Có thể nói rằng phát triển kinh tế số ở Việt Nam đã được quan tâm từ lâu và ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược đã khẳng định mục tiêu cơ bản đến năm 2025: tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên 80%; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 50%; tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 2%. Chiến lược cũng hoạch định các biện pháp thực hiện để phát triển kinh tế số. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, đã có 2/22 bộ, ngành; 28/63 địa phương đã ban hành kế hoạch hành động triển khai Chiến lược; 26/63 địa phương đã ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong các cơ sở giáo dục, y tế; 30/63 địa phương đã ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số (Thanh Hà, 2023). Kết quả đạt được: Năm 2021, theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á - Tiếng gầm thập kỷ XX: Thập kỷ kỹ thuật số Đông Nam Á”, nền kinh tế số Việt Nam có trị giá khoảng 21 tỷ USD, cao gấp 7 lần so với năm 2015 và dự đoán đạt 220 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa (GMV) vào năm 2030, đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Indonesia (Trương Thị Hiền, 2022). Đóng góp của kinh tế số vào GDP năm 2022 là 14,26%, tăng 2,35% so với năm 2021, trong đó kinh tế số ICT đóng góp 50,644%; tiếp theo là kinh tế số ngành/ lĩnh vực là 30,54% và kinh tế số nền tảng là 18,82%. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số SMEDx cũng đã có sự thay đổi lớn, tăng từ 16.000 doanh nghiệp năm 2021 lên 77.000 doanh nghiệp năm 2022 (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2022). Trong ngành nông nghiệp: Một số doanh nghiệp lớn như VinEco, Hoàng Anh Gia Lai, Nafood, Dabaco, Vinamilk, TH True Milk… đã ứng dụng công nghệ số vào điều hành sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Hiện cả nước có trên hai triệu hộ nông dân
- Phần 1. KINH TẾ SỐ VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 111 sản xuất nông nghiệp được đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, có gần 50 nghìn sản phẩm nông nghiệp được đưa lên các sản thương mại điện tử với hàng nghìn giao dịch được thực hiện. Ước tính hết năm 2021, cả nước có gần 12% tổng số doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ số vào sản xuất. Trong trồng trọt, công nghệ Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) được ứng dụng giúp phân tích dữ liệu về môi trường, các loại đất, cây trồng, các giai đoạn sinh trưởng của cây. Trong chăn nuôi, công nghệ IoT, Blockchain, công nghệ sinh học được ứng dụng rộng rãi ở trang trại chăn nuôi quy mô lớn. Trong đó, ngành chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ số nhiều nhất, nổi bật là các trang trại hiện đại của tập đoàn TH True Milk và công ty Vinamilk. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, công nghệ DND mã vạch được ứng dụng trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản; công nghệ GIS (công cụ dùng để thu thập, quản lý và phân tích dữ liệu từ không gian địa lý) và ảnh viễn thám dùng xây dựng các phần mềm cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần mềm giám sát trong quản lý rừng, phát hiện sớm suy thoái hay mất rừng, nhờ đó, góp phần đánh giá tài nguyên rừng một cách hiệu quả làm cơ sở phục vụ cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững (Nguyễn Thị Miền, 2022). Trong ngành công nghiệp: Công nghiệp công nghệ số năm 2022 được xem là điểm sáng của nền kinh tế với doanh thu ước đạt 148 tỷ USD, tăng trưởng hơn 10% so với 2021, số lượng doanh nghiệp hơn 70.000 và xuất khẩu của ngành công nghệ số ước đạt 136 tỷ USD (theo số liệu Bộ Thông tin và Truyền thông công bố tại Diễn đàn Make in Viet Nam 2022). Các doanh nghiệp trong ngành vận tải chuyển đổi từ giao nhận truyền thống sang công ty giao nhận phục vụ thương mại điện tử để tăng tính cạnh tranh và thích nghi với thị trường. Theo số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp giao nhận Việt Nam, số lượng công ty ứng dụng công nghệ trong vận hành tăng từ 15-20% lên 40-50% trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế sau trong việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam: Thứ nhất, các biện pháp về bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng phó xử lý sự cố, an ninh mạng vẫn chưa thực sự tốt. Về pháp lý, chúng ta vẫn chưa có văn bản chuyên biệt là Luật Bảo vệ thông tin cá nhân giống như quốc gia Trung Quốc để quy định và bảo vệ thông tin cá nhân được hiệu quả trong thực tiễn, góp phần phát triển nền kinh tế số. Thứ hai, nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế số chưa đáp ứng yêu cầu. Nhân lực số và công dân số gồm lực lượng chuyên gia, nhân lực công nghệ số và người dân được phổ cập kỹ năng số, đóng vai trò quyết định cho phát triển kinh tế số, xã hội số của quốc gia. Nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế số của Việt Nam còn ít về số lượng, chưa bảo đảm về chất lượng. Theo “Báo cáo về thị trường IT Việt Nam năm 2021” của TopDev, năm 2021, Việt Nam cần đến 450.000 nhân lực trong ngành công nghệ thông tin. Trong khi đó, số lượng lập trình viên hiện tại của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 430.000 người. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam vẫn chỉ xếp hạng
- 112 PROCEEDINGS OF THE INTERNATIONAL CONFERENCE "DIGITAL ECONOMY: POTENTIALS ET CHALLENGES" trung bình khá về chất lượng chuyên môn và năng lực sáng tạo trong kinh tế số so với thế giới (Lê Phương Hòa, 2022). Thứ ba, mức độ số hóa giữa các tỉnh, thành phố của Việt Nam và giữa các ngành khác nhau, phản ánh sự phát triển không đồng đều; cơ sở hạ tầng công nghệ còn chưa được đảm bảo, còn chậm về tốc độ, chưa thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển Internet công nghiệp; chưa thiết lập cơ chế định giá tài sản vốn dữ liệu để thúc đẩy lưu thông các giao dịch tài nguyên dữ liệu; chưa tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị bằng việc sử dụng Internet, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối và các công nghệ kỹ thuật số khác nâng cao hiệu quả quản trị. Đề xuất giải pháp: Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế số của Trung Quốc và dựa trên đánh giá hạn chế trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam, tác giả đề xuất như sau: Về thể chế, chính sách, pháp luật: Giải pháp tạm thời là tiến hành rà soát, tổng kết đánh giá thực hiện Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Giải pháp lâu dài, cần sớm ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và Luật Bảo mật dữ liệu nhằm tạo khung pháp lý về bảo mật thông tin và bảo vệ quyền riêng tư của dữ liệu. Về phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế số: Tập trung xây dựng, rà soát có sự đối sánh chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế số, tận dụng nhân tài từ nước ngoài, đảm bảo hiệu quả mô hình kết hợp giữa doanh nghiệp – nhà trường – Nhà nước trong đào tạo. Tăng cường trao đổi sinh viên quốc tế, cho sinh viên học tập, trải nghiệm học tập tại các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu công nghệ cao của nước ngoài như Trung Quốc. Cung cấp nguồn tài trợ R&D mạnh mẽ và phát triển các tổ chức học thuật hàng đầu của mình nhằm tăng số lượng công bố quốc tế. Về đầu tư vốn, cơ sở hạ tầng và công nghệ, kiểm soát tài chính mạnh mẽ và xây dựng hệ sinh thái kinh tế số: Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phải thu hút các doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng, nỗ lực phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới, xây dựng chuỗi công nghiệp và hệ sinh thái thương mại điện tử xuyên biên giới; đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ với tốc độ cao. Thiết lập cơ chế định giá tài sản vốn dữ liệu để thúc đẩy lưu thông các giao dịch tài nguyên dữ liệu; tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị bằng việc sử dụng Internet, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối và các công nghệ kỹ thuật số khác nâng cao hiệu quả quản trị. Mặt khác, cần kiểm soát và giữ lạm phát, lãi suất thấp để tạo nền tảng tài chính vững mạnh, một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng. Tích cực tham gia hợp tác quốc tế sâu rộng nhằm phát triển kinh tế số: Việt Nam cần tham gia vào các cuộc đàm phán về các vấn đề quốc tế liên quan đến nền kinh tế kỹ thuật số. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tham gia hợp tác song phương và đa phương về quản
- Phần 1. KINH TẾ SỐ VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM 113 trị kỹ thuật số như hợp tác chất lượng cao về thành phố thông minh, thương mại điện tử và thanh toán di động. 3. KẾT LUẬN Phát triển kinh tế số được xem là sự thay đổi thông minh, là động lực tăng trưởng mới, thay đổi GDP của mỗi quốc gia. Kinh tế số giúp quốc gia tận dụng tài nguyên và phát triển bền vững. Cho nên, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển kinh tế số đạt được nhiều thành tựu như Trung Quốc để gia tăng giá trị kinh tế số. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thông tin và Truyền thông. (2022). Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022, phương hướng nhiệm vụ năm 2023. NXB Truyền thông và Thông tin. 2. CAICT. (2020). Báo cáo phát triển kinh tế kỹ thuật số. Truy cập ngày 13/4/2023tại:http:// www.caict.ac.cn/kxyj/qwfb/bps/202007/P020200703318256637020.pdf. 3. CAICT. (2021). Báo cáo phát triển kinh tế kỹ thuật số. Truy cập ngày 13/4/2023tại:http:// www.caict.ac.cn/kxyj/qwfb/bps/202104/P020210424737615413306.pdf. 4. CAICT. (2022). Báo cáo phát triển kinh tế kỹ thuật số. Truy cập ngày 13/4/2023tại:http:// www.caict.ac.cn/kxyj/qwfb/bps/202207/t20220708_405627.htm 5. Thanh Hà. (2023). Kinh tế số chiếm tỷ trọng 14,26% trong GDP. Truy cập ngày 13/4/2023 tại: http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Chuyen-doi-so/1052054/kinh-te-so-chiem-ty-trong- 1426-trong-gdp. 6. Trương Thị Hiền. (2022). Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Truy cập ngày 13/4/2023tại: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/825738/viet- nam-day-manh-phat-trien-kinh-te-so.aspx. 7. Phan Văn Hòa. (2023). Trung Quốc thúc đẩy phát triển nền kinh tế số như thế nào. Truy cập ngày 13/4/2023tại: https://baonghean.vn/trung-quoc-thuc-day-phat-trien-nen-kinh-te- so-nhu-the-nao-post266410.html. 8. Lê Phương Hòa. (2022). Thúc đẩy sự phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Truy cập ngày 13/4/2023tại:https://vjst.vn/vn/tin-tuc/6760/thuc-day-su-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet- nam.aspx. 9. Quang Minh. (2022). Năm 2022: Kinh tế số của Việt Nam đạt 23 tỷ USD. Truy cập ngày 13/4/2023tại:https://mof.gov.vn/webcenter/portal/thtk/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-hoc-va- thong-ke?dDocName=MOFUCM258728. 10. Nguyễn Thị Miền. (2022). Chuyển đổi số trong nông nghiệp nhằm phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 18/8/2023tại:http://lyluanchinhtri.vn/home/ index.php/thuc-tien/item/4172-chuyen-doi-so-trong-nong-nghiep-nham-phat-trien-ben- vung-nganh-nong-nghiep-viet-nam.html.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Học thuyết phát triển kinh tế bền vững: Phần 2
217 p | 188 | 62
-
Kỷ yếu hội thảo Phát triển kinh tế địa phương: Bài học kinh nghiệm thực tiễn
130 p | 126 | 24
-
Quan điểm và giải pháp phát triển - Kinh tế tri thức ở Việt Nam: Phần 1
146 p | 125 | 18
-
Liên kết vùng để phát triển kinh tế
9 p | 103 | 16
-
Phát triển kinh tế biển: Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề đối với Việt Nam
8 p | 49 | 13
-
Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
10 p | 30 | 9
-
Phát triển kinh tế số Malaysia - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
5 p | 81 | 9
-
Kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam
22 p | 74 | 9
-
Đo lường phát triển kinh tế bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
10 p | 15 | 7
-
Phát triển kinh tế xanh kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam
10 p | 15 | 7
-
Phát triển kinh tế ban đêm kinh nghiệm Trung Quốc và hàm ý chính sách cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
6 p | 14 | 5
-
Gợi ý phát triển kinh tế biển cho Việt Nam từ các chính sách của Trung Quốc, Malaysia và Singapore: Phần 1
136 p | 12 | 4
-
Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững trong bối cảnh cách mạng 4.0 thích ứng biến đổi khí hậu và bài học kinh nghiệm với Việt Nam
11 p | 14 | 4
-
Phát triển kinh tế tuần hoàn tương xứng với tiềm năng, lợi thế của thành phố Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
9 p | 10 | 4
-
Phát triển kinh tế ban đêm của Trung Quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam
11 p | 13 | 3
-
Phát triển kinh tế ban đêm tại Việt Nam
7 p | 12 | 3
-
Vai trò của tầng lớp trung lưu trong phát triển kinh tế: Kinh nghiệm của thế giới và gợi mở cho Việt Nam
4 p | 60 | 3
-
Kinh nghiệm phát triển cụm công nghiệp tại Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam
9 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn