intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh nghiệm thu hút FDI của Ấn Độ và bài học cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

44
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Kinh nghiệm thu hút FDI của Ấn Độ và bài học cho Việt Nam phân tích tình huống Ấn Độ giúp Việt Nam rút ra các bài học về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó nhằm thay đổi chính sách cho phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh nghiệm thu hút FDI của Ấn Độ và bài học cho Việt Nam

  1. KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA ẤN ĐỘ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Nguyễn Xuân Trường Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh Chu Việt Hồng HQ5 - GE11 Nguyễn Viết Quyền HQ5 - GE11 Tóm tắt Một trong những yếu tố cơ bản đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển và tăng trưởng của một quốc gia là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đặc biệt quan trọng ở thời điểm mà nguồn vốn sẵn có trong nước không đủ để phát triển toàn diện của một quốc gia. Từ phân tích, người ta thấy rằng, một lượng lớn dòng vốn FDI bị giới hạn trong các nền kinh tế phát triển, nhưng sau đó lại có một sự gia tăng đáng kể trong dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển từ năm 1997 trở đi và một trong những nước thu hút dòng vốn FDI dồi dào có thể nhắc đến Ấn Độ. Trong thời gian qua, Ấn Độ đã thu hút FDI với nhiều tác động tích cực mà Việt Nam cần học hỏi, vì vậy phân tích tình huống Ấn Độ giúp Việt Nam rút ra các bài học về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó nhằm thay đổi chính sách cho phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam. Từ khóa: Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, Tổng sản phẩm quốc nội, Quỹ Tiền tệ quốc tế 1. ĐẶT VẤN ĐỀ FDI trở thành một thành phần quan trọng của chiến lược phát triển ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển, các chính sách cũng được thiết kế nhằm kích thích dòng vốn đầu tư này chảy vào trong các quốc gia. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế được cải thiện do FDI đã bắt đầu một cuộc chiến giữa tất cả các nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài, điều này đã thể hiện FDI cung cấp rất nhiều lợi ích bao gồm giới thiệu công nghệ mới, thị trường mới, dẫn đến cơ hội việc làm và sự tăng trưởng của quốc gia. Trong thực tế, FDI cung cấp một tình huống cả đôi bên cùng có lợi cho nước chủ nhà và nước đầu tư, cả hai quốc gia đều quan tâm trực tiếp đến vốn FDI, bởi vì họ được hưởng lợi rất nhiều từ loại hình đầu tư đó: Các quốc gia đầu tư muốn tận dụng lợi thế thị trường rộng lớn được mở ra bởi sự phát triển của công nghiệp và mặt khác các nước chủ nhà thì muốn có được các kỹ năng quản lý và công nghệ và bổ sung tiết kiệm trong nước và ngoại hối. Bên cạnh đó, do sự ít ỏi của tất cả các loại tài nguyên về tài chính, vốn, tinh thần kinh doanh, bí quyết công nghệ, kỹ năng thực tiễn và tiếp cận thị trường trong sự 286
  2. phát triển kinh tế tại các quốc gia đang phát triển vì thế họ chấp nhận FDI như một phương án duy nhất có thể bù đắp tất cả sự khan hiếm của họ. Hơn nữa, sự hội nhập của thị trường tài chính toàn cầu đã mở đường cho sự tăng trưởng bùng nổ này của FDI trên toàn cầu. Chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng, một trong những đóng góp chính của FDI là sự tăng trưởng của toàn cầu hóa kinh tế và đầu tư đặc biệt là ở các nước đang phát triển luôn là mối quan tâm lớn, vì vậy các quốc gia đang phát triển luôn chào đón các nhà đầu tư nước ngoài cũng như sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Đồng thời lợi ích mà các nước phát triển có được đó là tìm kiếm được những thị trường mới nơi họ có thể bán những sản phẩm của họ dễ dàng hơn mà ở các nước đang phát triển thì nhân lực chủ yếu là có sẵn, điều này sẽ giúp chi phí nhân công sẽ giảm bớt được phần nào cho các nước đầu tư. Xem xét tất cả những yếu tố ảnh hưởng mà FDI mang lại nhằm điều chỉnh chính sách kinh tế cho phù hợp luôn là mối quan tâm chính đối với hầu hết các quốc gia. Việt Nam và Ấn Độ là hai nền kinh tế mới nổi và bắt đầu tự do hóa kinh tế tại những thời điểm khác nhau. Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới (tự do hóa kinh tế), do đó đi trước Ấn Độ - mới bắt đầu chương trình tự do hóa kinh tế đầu những năm 90. Tuy nhiên, về mức độ giảm đầu tư, tự do hóa thị trường vốn và tạo thuận lợi cho luồng vốn tư nhân cũng như luồng vốn nước ngoài đổ vào, Việt Nam vẫn còn đi sau Ấn Độ. Một trong rất nhiều lý do là cả hai quốc gia đã và đang đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng giống nhau (như giầy dép, thiết bị di động, điện tử, may mặc, trà, cà phê, hạt tiêu, v.v..) trên thị trường quốc tế. Ở giai đoạn đầu của quá trình mở cửa thu hút FDI, đặc biệt là giai đoạn 1988 - 1994, khi kinh tế đất nước vô cùng khó khăn, lâm vào khủng khoảng trầm trọng, sản xuất công, nông nghiệp đình đốn, lạm phát phi mã 3 con số…, FDI đã giữ vai trò như những “người mở đường” trong việc khai thác các tiềm năng và cơ hội đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Giai đoạn 1995 - 2010, FDI đã hướng vào xuất khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại tệ, tạo việc làm, nâng cao năng lực quản lý, đóng góp ngân sách… Giai đoạn từ 2011 đến nay và đặc biệt là ở thời điểm hiện tại, trong bối cảnh nền kinh tế đã có bước phát triển (tăng trưởng GDP bình quân 6 - 7%/năm), Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, có độ mở lớn, hội nhập sâu… Nguồn vốn này đã đóng góp lớn cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời khơi dậy và phát huy hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực trong nước. Hiện FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và đóng góp khoảng 20% GDP, FDI đã góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tiến trình hội nhập quốc tế; FDI vẫn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, hiện khu vực FDI chiếm đến 72% kim ngạch xuất khẩu59. 59 Anh Phương (2018). FDI luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển của Việt Nam. Retrieved from Sài Gòn giải phóng: http://www.sggp.org.vn/fdi-luon-giu-vai-tro-quan-trong-trong-phat-trien-cua-viet-nam-550467.html 287
  3. Các nước ASEAN, đặc biệt là những nước với đặc điểm nhân khẩu học mạnh như Indonesia, Philippines và Việt Nam, cũng như Ấn Độ, có thể dễ dàng nâng cao hiệu suất kinh tế bằng cách thu hút những ngành sản xuất cần nhiều lao động hơn. Hai nước có sự tương đồng về mức lương lao động tương đối thấp so với các nước trong khu vực khác, kèm với nhiều ưu đãi đầu tư đặc biệt như là miễn giảm thuế, theo thống kê các lĩnh vực mà vốn FDI chảy vào Ấn Độ rất tương tự Việt Nam ví dụ như dầu khí, khai thác mỏ, viễn thông,…Cũng như Ấn Độ, Việt Nam gặp phải vấn đề tương đối lớn về thu hút vốn đầu tư nước ngoài là sự thiếu minh bạch trong chính sách, khi có quá nhiều sự can thiệp của Chính phủ, bảo hộ thuơng mại nội địa mà chưa tạo ra sự cạnh tranh công bằng. Cùng với đó, thủ tục vẫn còn nhiều nhiêu khê, có tình trạng doanh nghiệp đi cửa sau gây khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư mới. Nhận thức được tình hình về chính sách thu hút đầu tư vốn FDI của Ấn Độ, Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện cải cách các chính sách để đảm bảo các nhà đầu tư nước ngoài có được một môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi, cho thấy nỗ lực của Chính phủ trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ đã coi đầu tư nước ngoài là rất cần thiết, không chỉ để bổ sung vốn trong nước mà còn bảo đảm kiến thức khoa học, kỹ thuật công nghiệp và đầu tư vốn cho các thiết bị trong sản xuất. Theo thời gian và theo chế độ kinh tế và chính trị, đã có những thay đổi trong chính sách FDI, nhờ những cải cách trong chính sách, Ấn Độ đã mở cửa cho dòng vốn FDI và áp dụng chính sách đối ngoại tự do hơn để củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài60. Sự tương đồng các yếu tố trong nền kinh tế là lý do tại sao Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm thu hút FDI giống như cách Ấn Độ đã làm. 2. LÝ THUYẾT FDI Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được định nghĩa là: “Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó”. OECD đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp có nghĩa là hoạt động đầu tư quốc tế của nhà đầu tư trực tiếp trong một nền kinh tế nhằm mục đích tạo ra lợi ích lâu dài dưới hình thức công ty. Lợi ích lâu dài có nghĩa ở đó bao gồm mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư và công ty, và nhà đầu tư có ảnh hưởng lớn tới việc quản lý công ty được đầu tư trực tiếp” . 60 Stuti Pandit. (2017). CURRENT SCENARIO OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT (FDI) IN INDIA: A MULTIFACETED APPROACH 288
  4. Xét dưới góc độ sở hữu, UNCTAD cho rằng: Luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. Định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài của WTO: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra khi một nhà đầu tư từ một nước có được một tài sản ở một nước khác cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI và các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty” . Theo, Luật Đầu tư của Việt Nam,“đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” và “đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Như vậy, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài. Đây là loại hình đầu tư cho phép nhà đầu tư tham gia góp vốn vào việc sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ và được phép trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu thực hiện từ nguồn vốn tư nhân, của các công ty với mục đích thu lợi nhuận cao hơn thông qua việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Đặc điểm của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật doanh nghiệp mỗi nước. Chủ đầu tư vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ sở hữu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận của hình thức chu chuyển vốn quốc tế, trong đó chủ đầu tư là người nước ngoài tiến hành đầu tư tại một nước khác, vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài phải chấp hành luật pháp của nước tiếp nhận đầu tư. Quyền quản lý, điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sát nhập các doanh nghiệp với nhau. 289
  5. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu ❖ Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hình thức này là hình thức đơn giản nhất trong các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau thực hiện hợp đồng ký kết giữa hai bên, trong đó quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới. Hình thức này không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà do đó tạo thuận lợi cho đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, nhà đầu tư gặp khó khăn trong kiểm soát hoạt động. Vì thế, hình thức này thường phổ biến ở giai đoạn đầu ở thời điểm các nước đang phát triển có chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh phát triển, hình thức này có xu hướng giảm mạnh. ❖ Doanh nghiệp liên doanh Hình thức này được sử dụng rộng rãi trên thế giới và cũng phát triển tại Việt Nam. Hình thức liên doanh tạo nên pháp nhân đồng sở hữu mà địa điểm đặt tại nước tiếp nhận đầu tư. Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư mà bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau góp vốn theo tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh được chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn (Hình thức này có ưu điểm là giải quyết được tình trạng thiếu vốn, giúp nước tiếp nhận đầu tư có nguồn vốn bổ sung để phát triển kinh tế, đổi mới công nghệ, học tập được kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, kiểm soát được đối tác. Tuy nhiên, nhược điểm của doanh nghiệp liên doanh là xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp giữa các bên và nước tiếp nhận đầu tư phải chia sẻ rủi ro với đối tác đầu tư. ❖ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Đây là hình thức truyền thống của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ở hình thức này, các nhà đầu tư chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, nỗ lực áp dụng công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh để đạt hiệu quả cao. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức đầu tư, bên nước ngoài chịu trách nhiệm đầu tư toàn bộ vốn để thành lập doanh nghiệp theo quy định của luật pháp Việt Nam. Phía Việt Nam không góp vốn mà chỉ thực hiện cung cấp các dịch vụ đảm bảo cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, chủ đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm cũng như hưởng lợi từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thức này có ưu điểm là nước tiếp nhận đầu tư không cần bỏ vốn do đó tránh được các rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm là nước tiếp nhận vốn không học tập được kinh nghiệm quản lý, công nghệ, không thu được lợi nhuận và khó kiểm soát đối với nhà đầu tư nước ngoài. 290
  6. ❖ Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác Hợp đồng BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Hợp đồng BTO (Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. Hợp đồng BT (Xây dựng - Chuyển giao) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. Hình thức này có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, vì thế làm giảm áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước tiếp nhận đầu tư sau khi chuyển giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện để phát huy các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các hình thức này có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách và nước nhận đầu tư khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ. Hợp tác liên danh (code share): là văn bản được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên theo đó, thời gian đầu khai thác sản phẩm và dịch vụ dựa trên nhãn hiệu, thương hiệu của bên nào đã có tiếng tăm trước. Sau một khoảng thời gian nhất định việc khai thác sản phẩm và dịch vụ sẽ tiếp tục với nhãn hiệu, thương hiệu của đối tác kia. Hình thức này không cần góp vốn nhưng việc phân chia lợi nhuận phải tiến hành theo thỏa thuận. Hợp đồng phân chia sản phẩm là hợp đồng quy định nhà đầu tư bỏ 100% vốn để tìm kiếm, thăm dò tài nguyên ở nước sở tại. 3. THỰC TRẠNG DÒNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu 291
  7. quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới đây sẽ khái quát vai trò của FDI đến tổng thể nền kinh tế. Trong giai đoạn 2005 - 2014, Việt Nam thu hút được gần 13.000 dự án, vốn đầu tư bình quân khoảng 7,2 triệu USD/dự án. Các dự án phần lớn có quy mô không lớn và chỉ có công nghệ đạt mức trung bình. Từ năm 1998 đến hết 31/12/2015, tính theo lũy kế các dự án FDI, vốn FDI đăng ký đạt 314,7 tỷ USD, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng 138,7 tỷ USD (chiếm khoảng 44,1%). Trong giai đoạn 2005 - 2015, vốn FDI thực hiện bình quân hàng năm là 48,6% thấp hơn giai đoạn 1995 - 2004 với vốn FDI thực hiện bình quân là 67,7%. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2017 thu hút 2.591 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, có 1.188 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong năm 2017 lên 29,7 tỷ USD, tăng 44,2%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2017 ước tính đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Trong năm 2017 còn có 5.002 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 201661. Hình 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1998 - 2016 Nguồn: 1 - Tổng cục Thống kê 61 Tổng cục Thống kê (2017, 12 27). Retrieved from https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382&ItemID=18667 292
  8. FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế: FDI là nhân tố quan trọng đóng góp rất lớn đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đóng góp của FDI vào tốc độ tăng GDP đạt mức cao từ những năm 2000 và trung bình giai đoạn 2010 -2014, khu vực này đóng góp 1,3 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, tương đương 24,4%. Năm 2004, khu vực FDI đóng góp 15,2 % vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 199462. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước63. Đồng thời, khu vực FDI đóng góp quan trọng vào nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Trong giai đoạn 2005 - 2015, vốn đầu tư FDI chiếm 22,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cho dù tỷ trọng FDI có xu hướng giảm dần từ năm 2008. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khu vực FDI đóng góp chủ yếu ở khu vực công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp tăng lên có đóng góp lớn của FDI, nhất là ở ngành chế tạo. Đến năm 2014, ngành công nghiệp đã thu hút được 11.013 dự án với tổng số vốn đăng ký 181 tỷ USD chiếm 64,3% tổng số vốn đăng ký. Bảng 1: Thu hút FDI trong giai đoạn 1988 - 2015 theo ngành Lĩnh vực Số dự án Vốn đăng ký DA % Số vốn (triệu USD) % Tổng số (lũy kế các dự án 20,069 100 281,882 100 còn hiệu lực) Nông nghiệp 521 2.6 3,654.9 1.3 Công nghiệp 11,013 54.9 181,141.2 64.3 Xây dựng và bất động sản 1,264 6,3 10,893.8 3.9 Dịch vụ 7,271 36.2 86,192.1 30.5 Nguồn: 1 - GSO Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới đã xuất hiện như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… FDI giúp nhanh chóng thúc đẩy trình độ kỹ thuật - công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nông nghiệp là ngành Việt Nam có lợi thế cả về điều kiện tự nhiên (khí hậu, Xem Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2000 và 2003 - 2004, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương 62 Chẳng hạn, năm 2000, kinh tế có vốn đầu tư FDI tăng trưởng 11,4% so với mức tăng trưởng 6,8% của cả nước; 63 Năm 2001: tương ứng là 7,2% so với 6,9%; Năm 2002: 8,0% so với 7,04%; Năm 2003: 8,1% so với 7,2% - Xem Bảng II.3, Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2003, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tr. 26 293
  9. thổ nhưỡng) và nguồn nhân lực (khoảng 70% dân số sống ở nông thôn, lực lượng lao động chiếm khoảng 46% lao động xã hội) thì vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ đạt 1,3% so với tổng vốn FDI. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu: Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 %13 năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có quy mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v.. Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm 1994) tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô tô, máy giặt, điều hòa, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày; 25% thực phẩm đồ uống64. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực: Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm 1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành65. Số việc làm do các doanh nghiệp FDI tạo ra chỉ chiếm một con số rất khiêm tốn 2,7% (2005) , 4,4% (2010) và 6,4% (2014). Song tính trong cả giai đoạn từ 1988 - 2014 thì khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến. Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao động cho các bên liên quan. 64 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Báo cáo tại Hội thảo quốc tế: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO”, tháng 6/2003 65 Chẳng hạn, lương của lao động thông thường trong khu vực có vốn FDI hiện khoảng 75 - 80USD/tháng, lương của kỹ sư khoảng 220 - 250 USD/tháng và của cán bộ quản lý khoảng 490 - 510 USD/tháng - Nguồn từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 294
  10. Bảng 2: Đóng góp của khu vực FDI cho nền kinh tế Việt Nam 2005 2010 2014 Đóng góp vào giải quyết việc làm (%) 2.7 4.4 6.4 Đóng góp vào thu ngân sách (%) 8.4 11 13.9 Nguồn: 2- GSO Hình 2: Tỷ trọng lao động của khu vực FDI so với toàn bộ nền kinh tế Nguồn: 3 - Tổng cục Thống kê 2019 Khu vực FDI không chỉ tạo động lực tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tạo việc làm cho người lao động. Số lượng lao động làm việc trong khu vực FDI đã tăng từ 358.500 người năm 2000 lên 4.207.400 người vào năm 2017. Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực FDI so với tổng số lao động của toàn bộ nền kinh tế đã tăng từ 1% (năm 2000) lên 7,8% (năm 2017). Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. FDI với nguồn thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô: Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994 - 2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hàng năm. 295
  11. 4. KINH NGHIỆM THU HÚT DÒNG VỐN FDI VÀO ẤN ĐỘ Qua một khoản thời gian thu hút FDI của Ấn Độ tương đối dài hơn Việt Nam đã chứng minh, nguồn vốn FDI không hề làm cho nền kinh tế nội địa vốn dĩ rất lớn như Ấn Độ bị cạnh tranh mất nguồn thu mà trái lại FDI đã góp phần phát triển Ấn Độ từ một nước tương đối lạc hậu sau khi giành độc lập từ Anh sang một nước có nền kinh tế đứng thứ 5 thế giới, nổi tiếng về những công nghê điện tử, công nghệ cao mà trước thời điểm FDI đổ vào, các ngành nghề đó chưa từng là thế mạnh của Ấn Độ. Càng thể hiện sự quyết tâm bằng cách áp dụng những chính sách thu hút FDI đó một cách sâu rộng và hiệu quả, càng đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế được nhận xét là thần kỳ của các quốc gia châu Á trong đó có Ấn Độ và Việt Nam. Từ đó cho thấy có một sự thay đổi đáng kể trong thái độ của cả hai nước, cả hai đều coi FDI là hình thức tài chính bên ngoài phù hợp nhất. Vào thời kỳ đầu của chính sách thu hút vốn FDI của Ấn Độ, với thế mạnh là tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhân công giá rẻ, Chính phủ Ấn Độ đã chấp nhận các dự án thâm dụng tài nguyên và nhân công, tuy nhiên theo xu hướng tất yếu hiện nay các dự án FDI đều được tất cả các quốc gia chọn lọc kỹ càng để giảm thiểu tối đa những rủi ro thâm hút tài nguyên, trong đó không ngoại trừ Ấn Độ và Việt Nam. Với việc cải cách gỡ bỏ một số chẳng hạn như gỡ bỏ những hạn chế về quyền sở hữu cổ phần nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các ngành công nghiệp dịch vụ, đã làm tăng đáng kể lượng FDI đổ vào Ấn Độ trong những năm gần đây. Ấn Độ đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi thu hút phát triển các ngành năng lượng sạch, ngành công nghiệp xanh và là một trong năm thị trường năng lượng gió lớn nhất trên thế giới, đồng thời Chính phủ còn kiên quyết từ chối đối với những dự án FDI gây hại tới môi trường. Điều này chứng tỏ Ấn Độ có sự lựa chọn đối với các dự án đầu tư nước ngoài và hướng phát triển kinh tế này cũng là bài học cho các nền kinh tế đang phát triển khác để xây dựng một nền kinh tế bền vững trong tương lai. Đây cũng là một trong những kinh nghiệm về việc thu hút dòng vốn FDI nhưng vẫn đảm bảo môi trường và tài nguyên phù hợp để Việt Nam học hỏi và vận dụng vào môi trường trong nước, nhằm có những thay đổi tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế đồng thời cải thiện môi trường đang dần bị phá hoại vì những chính sách đầu tư không phù hợp. Bảng 3: Dòng vốn FDI vào Ấn Độ (từ 1948 - 2015) Nguồn: 4 - Various issues of SIA Publication 296
  12. Vào năm 2015, Ấn Độ trở thành đã trở thành điểm đến đầu tư trực tiếp số một trên toàn cầu trong sáu tháng đầu năm với dòng vốn FDI lên đến gần 31 tỷ, Ấn Độ đã vượt xa tất cả các nước khác, qua cả Trung Quốc va Hoa Kỳ để tiến lên từ vị trí thứ 5 trong năm 2014 lên vị trí hàng đầu. Một năm trước đó, Ấn Độ đã thu hút được khoảng gần 680 dự án liên quan đến FDI với số tiền là 25 tỷ USD và đồng thời giải quyết được hàng trăm việc làm cho người dân. Trong năm 2016 - 2017, một khoản đầu tư bằng tiền mặt trị giá 13 tỷ USD từ Chính phủ Nga gần như nắm kiểm soát lớn đối với ngành dầu và đối tác của nó là công ty dầu tư nhân Essar Oil lớn thứ hai tại Ấn Độ. Điều này đã đánh dấu dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lớn nhất từ trước đến thời điểm đó, đồng thời được hỗ trợ bởi một loạt cải cách trong chính sách thu hút dòng vốn FDI mà Ấn Độ đạt mức kỷ lục 60,1 tỷ USD vào khoảng 2016 - 2017. Theo cơ quan của Liên hợp quốc lưu ý rằng, một nửa trong số 20 quốc gia hàng đầu nhận được vốn FDI là các quốc gia đang phát triển và các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi. Và ở các nước đang phát triển, dòng vốn này cũng đã tăng tốt (+2%), chiếm hơn một nửa (54%) dòng chảy vốn toàn cầu, so với 46% trong năm 2017 và chỉ hơn 1/3 trước cuộc khủng hoảng tài chính. Tổng hợp từ các nguồn khác nhau của WIR, UNCTAD, World Bank. Bảng 4: Các nền kinh tế trên thế giới (Đơn vị tính: triệu đô) Quốc gia Trung Năm Brazil Mexico Russia Ấn Độ Quốc 1990 - 99 148.5 89.4 56.4 15 11.4 2000 - 07 483 169 147.4 126.2 69 2008 - 2012 822.77 239.6 117.7 205.30 182.5 2013 - 14 1126.32 286.96 132.14 242.04 257 Tỷ lệ tăng 36.89 19.77 12.27 17.90 40.85 trưởng (%) Nguồn: 5 - Tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau WIR, UNCTAD, World Bank Từ bảng trên có thể thấy rằng tất cả các quốc gia đều có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 1990 - 2014. Trong giai đoạn 1990 - 1999, nền kinh tế lớn nhất làTrung Quốc với giá trị 148,5 tỷ USD và Ấn Độ có giá trị thấp nhất với giá trị 11,4 tỷ USD. Năm 2000 - 2007 cũng Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất với giá trị 483,00 tỷ USD và thấp nhất là Ấn Độ với giá trị 69 tỷ USD. Trong giai đoạn 2008 - 2012, một lần nữa nền kinh 297
  13. tế lớn nhất là Trung Quốc với giá trị 822,77 tỷ USD và ít nhất là Mexico với giá trị 117,7 tỷ USD. Từ đó, Ấn Độ đã cho thấy một xu hướng tăng trưởng tích cực trong giai đoạn 2008 - 2012. Tiếp đến trong giai đoạn 2013 - 2014, tất cả các nền kinh tế đều cho thấy xu hướng ngày càng tăng, đó là một tín hiệu tích cực cho các nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng cao nhất năm 2014 được Ấn Độ thể hiện với tỷ lệ 40,85%. Vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển châu Á tăng 3,9%, lên 512 tỷ USD. Khu vực này vẫn là nước nhận vốn FDI lớn nhất thế giới, hấp thụ 39% dòng vốn đầu tư toàn cầu năm 2018, tăng từ 33% trong năm 2017. Các quốc gia chính có dòng vốn đầu tư tăng là Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Indonesia và các quốc gia thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Ấn Độ. Luồng vốn FDI vào Ấn Độ trong 3 tài khóa vừa qua đã tăng khoảng 40%, đạt 114,41 tỷ USD so với mức 81,84 tỷ USD trong 3 tài khóa trước đó. Điều đáng chú ý là, sau khi có Sáng kiến Sản xuất tại Ấn Độ (Make in India), từ tháng 10/2014 - 03/2017, thu hút FDI đạt 99,72 tỷ USD, tăng 62% so với mức 61,41 tỷ USD trong 30 tháng trước đó (tháng 04/2012 - 09/2014). Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tăng trưởng GDP của Ấn Độ năm tài khóa 2015 - 2016 khoảng 7,4%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo kinh tế Ấn Độ tăng trưởng khoảng 7,2% và sẽ là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới vào năm 2017. Ấn Độ đang được nhiều nhà đầu tư quan tâm với tốc độ được đánh giá là nhanh nhất thế giới về chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), đứng thứ 55 trong 125 nền kinh tế trên thế giới. Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ Ấn Độ đối với FD Kể từ năm 1991, Ấn Độ đã có nhiều tiến bộ đáng kể trong việc tạo ra một môi trường khuyến khích đầu tư. Mặc dù dòng chảy vào Ấn Độ đã tăng đáng kể trong những năm gần đây thì nguồn vốn FDI vẫn được đánh giá là khá thấp so với tăng trưởng GDP của Ấn Độ. Với một quốc gia có tiềm năng tiêu dùng lớn (dân số hơn 1,2 tỷ), thu nhập cao và lực lượng lao động dồi dào, Ấn Độ đang thu hút nhiều sự quan tâm từ các nhà đầu tư. Lĩnh vực dịch vụ tiếp nhận FDI nhiều nhất, tiếp theo là lĩnh vực phần mềm và phần cứng máy tính, viễn thông, nhà ở và bất động sản, hoạt động xây dựng và điện lực. Trong tháng 1 năm 2012, Chính phủ cho phép sở hữu 100% vốn nước ngoài đối với các cửa hàng sở hữu một thương hiệu, cung cấp cho các nhà bán lẻ 30% nguồn hàng hóa của họ sản xuất từ Ấn Độ. Sau đó, vào tháng 12, Chính phủ lại tiếp tục cho phép sở hữu 51% vốn đầu tư nước ngoài trong bán lẻ đa thương hiệu66. Điều này sẽ cho phép các nhà bán lẻ như Walmart và Tesco mở siêu thị tại Ấn Độ. 66 Ernst & Young. (2014). LLP: Overview of Tax incentives in India 2014. Retrieved from https://www.ey.com/ Publ ication/vwLUAssets/EY-tax-incentives-in-india/ %24FILE/EY-tax-incentives-in-india.pdf 298
  14. Trong năm 2018, Chính phủ Ấn Độ đã sửa đổi nhiều quy định quản lý đầu tư nước ngoài trong các ngành công nghiệp, bao gồm cả bán lẻ và hàng không. Chẳng hạn, cho phép các hãng hàng không nước ngoài sở hữu đến 49% cổ phần đối với hãng hàng không quốc gia Air India đang gặp khó khăn về tài chính, Ấn Độ cũng đã sửa đổi quy định về việc các nhà bán lẻ nước ngoài, hoặc các đại lý phân phối độc quyền sản phẩm nước ngoài, phải đáp ứng được quy định 30% giá trị của sản phẩm bán tại Ấn Độ phải được mua từ nhà cung ứng trong nước. Theo tài liệu của Bộ Thương mại Ấn Độ, các lĩnh vực công nghiệp sản xuất dự kiến được mời gọi đầu tư của Ấn Độ gồm đồ điện tử, thiết bị gia dụng, xe điện, giày dép và đồ chơi. Ngoài những chính sách khuyến khích về tài chính, Ấn Độ cũng dự kiến xây dựng các khu công nghiệp với giá thuê hợp lý dọc theo các khu vực ven biển và dành ưu đãi hơn cho các nhà sản xuất địa phương trong các chương trình mua sắm chính phủ. Kế hoạch này sẽ giúp phát triển thêm nền tảng sản xuất và ủng hộ sáng kiến “Make in India” của Thủ tướng Ấn Độ nhằm hướng tới mục tiêu đưa sản xuất đóng góp 25% vào nền kinh tế đất nước vào năm 2020. Làm được điều này cũng sẽ giúp Ấn Độ thu hẹp khoảng cách thâm hụt thương mại với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của họ. Bên cạnh đó, Chính phủ Ấn Độ cũng đồng thời nâng trần đầu tư trực tiếp nước ngoài ở lĩnh vực bảo hiểm từ 26% lên 49%. 5. BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TRONG THU HÚT DÒNG VỐN FDI Hình 3: Dòng vốn FDI và dòng vồn FDI so với tỷ lệ GDP của Ấn Độ giai đoạn (2000 - 2001 đến 2016 - 2017) Nguồn: 6- DIPP (20170), RBI (2017) Qua nghiên cứu thực trạng chính sách thu hút vốn FDI của Ấn Độ từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam trong thu hút vốn FDI như sau: Thứ nhất, môi trường kinh tế, chính trị - xã hội phải ổn định và tăng cường vai trò của chính quyền địa phương. Điều kiện tiên quyết để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài là cần có sự ổn định về chính trị - xã hội và môi trường kinh tế. Sự ổn định 299
  15. này sẽ hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính quyền địa phương cần làm tốt việc kiểm tra các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, nắm chắc thông tin về đối tác, công nghệ, xem xét cụ thể về quy mô diện tích, địa điểm xây dựng các dự án cho phù hợp. Phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành và địa phương liên quan cũng như với các cơ quan trung ương trong việc thẩm tra, cấp phép các dự án đầu tư và theo dõi, đôn đốc các dự án đầu tư sau cấp phép. Mặc dù đã phân cấp thẩm quyền nhưng vẫn rất cần sự phối hợp thông tin giữa địa phương với trung ương. Điều này đặc biệt quan trọng nhằm tránh các dự án bong bóng, tức là các dự án được thổi phồng lên với mục đích nhanh chóng có được giấy phép đầu tư từ phía chính quyền địa phương, phô trương thanh thế để huy động vốn và nhất là được cấp nhiều đất. Các cấp chính quyền địa phương kiểm tra, giám sát, cùng đồng hành với nhà đầu tư nước ngoài để hướng dẫn, tạo điều kiện, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc cho các dự án đầu tư thực hiện đúng cam kết và kiên quyết thu hồi các dự án triển khai chậm tiến độ, các dự án treo. Phối hợp với Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế kiểm tra việc chấp hành luật pháp Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài như: bảo vệ môi trường, tiền công, tiền lương, bảo hiểm, an toàn lao động... Tăng cường vai trò của các cấp chính quyền trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài là rất cần thiết để tạo môi trường thu hút đầu tư, đảm bảo đầu tư nước ngoài theo quy hoạch, định hướng của Nhà nước, khai thác nguồn lực có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững tại địa phương. Thứ hai, cần chú trọng và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài; Đẩy mạnh xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật. Vấn đề này được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài quan tâm hàng đầu. Với một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại sẽ đảm bảo thực hiện di chuyển vốn nhanh và kịp thời ứng phó với những biến động của thị trường. Tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng giúp giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư là yêu cầu cấp bách, không chỉ có tác dụng thu hút thêm các dự án FDI mà còn giữ chân những dự án đang hiện hữu. Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nên huy động từ nhiều nguồn khác nhau: vốn ngân sách, vay thương mại, phát hành trái phiếu, khuyến khích vốn tư nhân đầu tư cho các dự án nhà nước; Cần có quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể và đủ sức hấp dẫn đối với các hình thức đầu tư khác nhau vào các dự án, lĩnh vực trọng điểm. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật không chỉ tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, tăng thu hút vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng... Thứ ba, thủ tục hành chính cần đơn giản, gọn nhẹ; Phải thường xuyên rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư để vừa khuyến khích các nhà đầu tư vừa đảm bảo phù hợp với các quy định chung của Nhà nước, tránh trường hợp xé rào trong thủ tục hành chính nhưng sau đó phải dừng lại, gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư. Các thủ tục hành chính cần công khai hóa, minh bạch hóa và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, đảm bảo thông tin đến với các nhà đầu tư 300
  16. nước ngoài một cách thuận lợi nhất. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực FDI, đơn giản hóa thủ tục thẩm định và cấp phép đầu tư, kiên quyết xử lý những trường hợp hạch sách, nhũng nhiễu, vô trách nhiệm của các cán bộ cơ quan công quyền. Xây dựng và triển khai cơ chế một cửa liên thông trong xử lý hồ sơ của nhà đầu tư, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh qua mạng. Thứ tư, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ để thu hút nguồn vốn FDI: Chính sách phát triển dịch vụ hỗ trợ liên quan đến hoạt động FDI là rất cần thiết cho các nhà đầu tư nước ngoài như: dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong thực hiện các thủ tục hành chính, tư vấn pháp luật, cung cấp các thông tin đến thị trường, các chương trình marketing, các hỗ trợ để doanh nghiệp có thể tiếp cận được các dịch vụ tài chính, vận tải, kho bãi, hay chuyển giao công nghệ, dịch vụ hỗ trợ sau cấp phép. Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao tại địa phương: Phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ cao. Phát triển và đổi mới cơ bản đào tạo, dạy nghề theo định hướng yêu cầu của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của các nhà đầu tư nước ngoài và yêu cầu việc làm của người lao động. Phát triển thị trường lao động và hoàn thiện thị trường lao động theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế về đào tạo, dạy nghề, về lao động, việc làm, phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế của đất nước trong quá trình hội nhập. Địa phương phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, trong trường hợp không đào tạo được thì phải có các chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Nâng cao trình độ thẩm định dự án của các cán bộ phụ trách tại địa phương cũng là vấn đề cần được quan tâm, bồi dưỡng. Thứ sáu, cần phải đảm bảo tính công bằng, minh bạch, ổn định trong chính sách thu hút nguồn vốn FDI. Bên cạnh đó, cần có độ trễ nhất định về thời gian thi hành để nhà đầu tư và doanh nghiệp chủ động trong điều hành chiến lược kinh doanh. Việt Nam cũng cần hình thành định hướng và chính sách mới về thu hút vốn FDI một cách ổn định, nhất quán và đồng bộ. Thứ bảy, coi trọng quy hoạch và xúc tiến đầu tư. Chủ động chủ trì và phối hợp với các cơ quan sở, ban, ngành sớm xây dựng và quản lý thống nhất triển khai các quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch không gian sử dụng đất, cũng như quy hoạch chi tiết các ngành, lãnh thổ cần thiết. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu, các dự án cần đặt tại nơi có thị trường tiêu thụ trực tiếp, cần định hướng quy tụ các dự án FDI tập trung vào các khu kinh tế, khu công nghiệp được xây dựng phù hợp theo quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm soát môi trường nghiêm ngặt. Trên cơ sở đó, hình thành các danh mục, dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài và tiến hành xúc tiến đầu tư có địa chỉ theo lộ trình thích hợp, trong đó xác định rõ yêu cầu về đối tác dự án, sản phẩm, công suất, tiến 301
  17. độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi cần thiết. Thứ tám, cần kiến nghị với Nhà nước về hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với pháp luật Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng hơn. Cần có kiến nghị với Nhà nước về những chính sách chưa phù hợp, gây cản trở, vướng mắc, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đầu tư nước ngoài; những chính sách ưu đãi chưa phù hợp với quy định của pháp luật để từ đó Nhà nước đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với pháp luật Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo thông thoáng tạo điều kiện cho các đầu tư nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (06/2013). “Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế”. Báo cáo tại Hội Thảo quốc tế: “Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO”. 2. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. (2000, 2003 - 2004). Xem Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2000 và 2003 - 2004. 3. BADAR ALAM IQBAL. (2016). India as a Top Destination in FDI Inflows: Is It a Reality or a Myth? 4. Báo Đầu tư. (n.d.). Chứng khoán đầu tư. Retrieved from https://www.dvsc.com.vn/TinTuc/TinKinhTe/189524/thu-hut-fdi-uu-the-nghieng- ve-du-an-fdi-quy-mo-nho.aspx 5. BHAVANI MARKA; Y. PRAKASH. (2018). A STUDY ON FOREIGN DIRECT INVESTMENTS, ROLE OF FEDERAL STATES, INCENTIVES, AND ARBITRATIONS IN INDIA. 6. Dr. Titto Varghese. (2016, 04). ANALYSIS OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT IN INDIA. 7. GS, TSKH. Nguyễn Mại. (2019, 02 05). Vietdata. Retrieved from https://www.vietdata.vn/thu-hut-fdi-nam-2018-trien-vong-nam-2019536915517 8. Sambit Basu and Sourabh Ghosh. (12/ 2017). FDI in India: Under standing the Implications for Growth and Job Creation. 9. Stuti Pandit. (08/2017). CURRENT SCENARIO OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT (FDI) IN INDIA: A MULTIFACETED APPROACH 10. TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh (Trưởng nhóm); Ths. Vũ Xuân Nguyệt Hồng; Ths. Trần Toàn Thắng; TS. Nguyễn Mạnh Hải. (2006, 02). Dự án SIDA. Retrieved from “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” . 302
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2