ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
CHUNG THỊ LAN
Tên chuyên đề:
THỰC HIỆN QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH TRÊN ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI: NGUYỄN THANH LỊCH XÃ BA TRẠI – HUYỆN BA VÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo Chuyên ngành Khoa Khóa học : Chính quy : Thú y : Chăn nuôi thú y : 2015 - 2019
Thái Nguyên, năm 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRưỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
CHUNG THỊ LAN
Tên chuyên đề:
THỰC HIỆN QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÒNG, TRỊ BỆNH TRÊN ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI: NGUYỄN THANH LỊCH XÃ BA TRẠI – HUYỆN BA VÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
: Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Lớp : K47 - TY - N02
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khóa học : 2015 - 2019
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Mạnh Cường
Thái Nguyên, năm 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm
Đại học Thái Nguyên, được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo, em đã nắm
được những kiến thức cơ bản ngành học của mình. Kết hợp với 6 tháng thực tập
tốt nghiệp tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, đã giúp em ngày càng hiểu rõ kiến
thức chuyên môn, cũng như đức tính cần có của cán bộ nông nghiệp. Từ đó, đã
giúp em có lòng tin vững bước trong cuộc sống cũng như trong công tác sau này.
Để có sự thành công này, em xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên.
Ban chủ nhiệm khoa và tập thể các thầy, cô giáo trong khoa chăn nuôi thú y,
những người đã tận tụy dạy dỗ và dìu dắt em trong suốt quá trình học tập,
cũng như trong thời gian thực tập.
Tập thể lớp Thú y K47 N02 Trường đại học Nông Lâm - Đại học Thái
Nguyên đã luôn sát cánh bên em trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Các bác, các cô chú và các anh chị công nhân trong trại chăn nuôi lợn
Nguyễn Thanh Lịch đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ trong thời gian thực tập để
giúp em hoàn thành tốt khóa thực tập.
Đặt biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, chỉ bảo tận
tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Mạnh Cường.
Nhân dịp này, em cũng xin cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã tạo mọi
điều kiện vật chất cũng như tinh thần, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, ngày… tháng 12 năm 2019
Sinh viên
Chung Thị Lan
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Lịch phòng bệnh của trại ................................................................ 11
Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nguyễn Thanh Lịch Xã Ba Trại-
Huyện Ba Vì- Thành phố Hà Nội ................................................................... 44
Bảng 4.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại trong thời gian thực tập ........ 45
Bảng 4.3. Kết quả điều trị cho đàn lợn tại trại ................................................ 46
Bảng 4.4. Kết quả thực hiện các công tác khác .............................................. 48
Bảng 4.5. Tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng qua các tháng theo dõi ........... 49
Bảng 4.6. Tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo lứa tuổi ........................... 50
Bảng 4.7. Triệu chứng lợn con mắc bệnh phân trắng ..................................... 52
Bảng 4.8. Bệnh tích lợn con mắc bệnh phân trắng ......................................... 52
Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh phân trắng lợn con tại trại ............................ 54
iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
TỪ, CỤM TỪ Ý NGHĨA
Cộng sự Cs:
Đơn vị tính ĐVT:
LMLM: Lở mồm long móng
Dung lượng mẫu n:
Nhà xuất bản Nxb:
Sơ sinh SS:
Thí nghiệm TN:
5 sạch 5s
Escherichia coli E.coli
Thể trọng TT:
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................ iii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iv
Phần 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề ............................................................ 2
1.2.1. Mục tiêu ................................................................................................... 2
1.2.2. Yêu cầu .................................................................................................... 2
Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................. 3
2.1 Điều kiện cơ sở thực tập .............................................................................. 3
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở nơi thực tập ....................... 3
2.1.2. Đánh giá chung ....................................................................................... 6
2.1.3 Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng. ............................................................. 7
2.1.4. Quy trình phòng và trị bệnh .................................................................... 9
2.2. Cơ sở khoa học đề tài ............................................................................... 19
2.2.1. Đặc điểm của lợn con bú sữa ................................................................. 19
2.2.2 Đặc điểm cơ năng điều tiết ..................................................................... 23
2.2.3 Đặc điểm về khả năng miễn dịch ........................................................... 24
2.2.4. Một số hiểu biết về E.coli...................................................................... 24
2.2.5. Bệnh phân trắng lợn con ....................................................................... 28
2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .............................................. 37
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 37
2.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 38
Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 41
3.1. Đối tượng theo dõi .................................................................................... 41
v
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................... 41
3.3. Nội dung tiến hành ................................................................................... 41
3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi ...................................................... 41
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi ............................................................................... 41
3.4.2. Phương pháp thực hiện .......................................................................... 41
3.5. Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................ 43
3.5.1. Một số công thức để tính các chỉ tiêu ................................................... 43
Phần 4 KẾT QUẢ THEO DÕI VÀ THỰC HIỆN ..................................... 44
4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại ........................................... 44
4.2. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh tại trại ......................................... 45
4.3. Kết quả thực hiện biện các công tác khác ................................................ 47
4.4.1. Tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng theo các tháng trong năm. ..... 48
4.4.2. Kết quả lợn con mắc bệnh phân trắng theo lứa tuổi ............................. 50
4.4.3. Kết quả triệu chứng và bệnh tích của lợn con mắc bệnh phân trắng lợn con .... 51
4.4.4. Kết quả điều trị bệnh phân trắng lợn con tại cơ sở thực tập ................. 53
Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .............................................................. 55
5.1. Kết luận .................................................................................................... 55
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57
1
Phần 1 MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngành chăn nuôi nuớc ta đã và đang chiếm một vị trí quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền kinh tế nói chung. Chăn
nuôi, với nhiều phuơng thức phong phú và đa dạng đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân, tạo
ra các nguồn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO và các hiệp định tự do thương mại khác thì sản phẩm chăn nuôi
thuộc ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và sản phẩm thịt lợn nói riêng,
khi làm ra phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn an toàn toàn vệ sinh, không ảnh hưởng
tới sức khỏe con người mới xuất khẩu ra thị trường quốc tế và thu ngoại tệ về
cho đất nước.
Tuy nhiên, trong nhiều năm trở lại đây, khi ngành chăn nuôi phát triển
mạnh trong đó có ngành chăn nuôi lợn, thì dịch bệnh cũng hoành hành nhiều,
nhất là các bệnh truyền nhiễm như: bệnh lở mồm long móng, tai xanh, dịch
tả…và những bệnh thông thường như bệnh phân trắng lợn con, hội chứng tiêu
chảy của lợn… làm tỷ lệ nuôi sống lợn con giai đoạn sơ sinh đến 21 ngày tuổi
khá thấp. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới, ở Việt Nam bệnh xảy ra quanh
năm (đặt biệt khi thời tiết thay đổi: lạnh, ẩm, gió lùa…). Kết hợp với việc
chăm sóc không hợp vệ sinh, lợn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố stress, lợn con
sinh ra không được bú sữa kịp thời hoặc sữa đầu của mẹ thiếu không đảm bảo
chất lượng dinh dưỡng. Khi lợn con bị bệnh điều trị kém hiệu quả sẽ gây còi
cọc chậm lớn ảnh hưởng đến giống cũng như khả năng tăng trọng của chúng,
gây tổn thất lớn về kinh tế. Do đó, phòng bệnh phân trắng cho lợn con góp
phần làm tăng hiệu quả chăn nuôi lợn sinh sản, đảm bảo đủ con giống và chất
lượng tốt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước về bệnh phân trắng ở
2
lợn con và đưa ra các biện pháp phòng trị bệnh, góp phần không nhỏ trong
việc hạn chế những thiệt hại do tiêu chảy gây ra ở lợn con theo mẹ. Tuy
nhiên, do sự phức tạp của cơ chế gây bệnh, những tác động phối hợp của các
nguyên nhân, đặc điểm cơ thể gia súc non… đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Vì thế các giải pháp đưa ra chưa thực
sự đem lại kết quả mong muốn. Bệnh phân trắng ở lợn con theo mẹ vẫn là
nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho các cơ sở chăn nuôi lợn.
Từ thực tiễn trên, tôi tiến hành thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy
trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái
sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch Xã Ba Trại -
Huyện Ba Vì - Thành phố Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề
1.2.1. Mục tiêu
- Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại cơ sở.
- Xác định được quy trình phòng, trị bệnh sản khoa trên đàn lợn nái tại trại.
- Xác định được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái nuôi tại trại
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại cơ sở.
- Nắm vững quy trình phòng, trị bệnh sản khoa trên đàn lợn con nuôi
tại cơ sở
- Nắm vững quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn con tại cơ sở.
- Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở
- Chăm chỉ, học hỏi để nâng cao kỹ thuật, tay nghề của cá nhân.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Điều kiện cơ sở thực tập
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở nơi thực tập
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
-Vị trí địa lí
-Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch nằm tại Xã Ba Trại – 1 trong 7 xã miền
- Phía Đông giáp với xã Tản Lĩnh.
- Phía Tây giáp xã Thuần Mỹ.
- Phía Bắc giáp xã Cẩm Lĩnh.
2.1.1.2. Điều kiện khí hậu
núi của Huyện Ba Vì - Thành phố Hà Nội, nằm trong vùng bán sơn địa.
Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu
miền Bắc, bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ chế gió mùa. Sự phối hợp
giữa cơ chế gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm, có sự khác biệt rõ
rệt giữa mùa nóng và mùa lạnh nên có thể phân ra làm 4 mùa. Mùa đông lạnh,
hanh khô có kèm theo gió mùa, mưa ít. Mùa hè nóng, mưa nhiều. Giữa hai
mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), còn được gọi là
mùa xuân và mùa thu. Đó là một trong những yếu tố khách quan tác động đến
quá trình sinh trưởng, phát triển của vật nuôi và phẩm chất của nông sản.
Lượng mưa: Lượng mưa trung bình năm 2.500 mm, phân bố không đều
trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7, tháng 8.
Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân năm là 23,40oC. Mùa nóng bắt đầu từ
cuối tháng 4 đến giữa tháng 9, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều rồi mát mẻ, khô
ráo vào tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa tháng 11 đến hết tháng 3. Từ cuối
tháng 11 đến tháng 1 rét và hanh khô, từ tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh và mưa
phùn kéo dài từng đợt. Trong khoảng tháng 9 đến tháng 11, có những ngày thu với
4
tiết trời mát mẻ và sẽ đón từ hai đến ba đợt không khí lạnh yếu tràn về.
Độ ẩm:
Độ ẩm không khí trung bình năm: 86,1%. Vùng thấp thường khô hanh
vào tháng 12, tháng 1.
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức của trang trại
Trại gồm có 23 người trong đó có:
01: Chủ trại
01: Quản lý
01: Đầu bếp
02: Kỹ sư
02: Tổ trưởng (1 chuồng bầu, 1 chuồng đẻ)
06: Công nhân
10: Sinh viên thực tập
Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ
chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách
nghiêm túc, đúng quy định của trại.
2.1.1.4. Cơ sở vật chất của trại
Trang trại chăn nuôi Nguyễn Thanh Lịch nằm trên địa bàn xã Ba Trại,
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Được thành lập và đi vào sản xuất từ năm
2010 với số vốn đầu tư lên tới 18 tỷ đồng, trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản
cho công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi CP Việt Nam (chi nhánh của Tập đoàn
CP Thái Lan) cung cấp giống lợn con của cái Landrace - Yorkshire với đực
Pietrain - Duroc và cái Landrace - Yorkshire với đực Duroc. Khu sản xuất
gồm 3 dãy chuồng đẻ và 1 dãy chuồng bầu, 2 chuồng cách ly nuôi, 1 chuồng
đực, 1.058 lợn nái, 19 lợn đực, 105 lợn hậu bị (số liệu tháng 05/2019). Lợn
sau khi sinh 19 đến 21 ngày thì được cai sữa. Mỗi năm trang trại cho xuất ra
thị trường khoảng 25.000 - 30.000 lợn con. Với việc chăn nuôi lợn theo
5
hướng công nghiệp, các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi
của trại được thực hiện chủ động và tích cực. Vệ sinh phòng bệnh nhằm nâng
cao sức đề kháng cho đàn lợn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm.
Cùng với việc vệ sinh thức ăn, nước uống, vật nuôi, dụng cụ chăn
nuôi, sinh sản… Thì việc vệ sinh chuồng trại, cải tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi
luôn được cán bộ thú y và đội ngũ công nhân kỹ thuật thực hiện chặt chẽ.
Chuồng trại được thiết kế và xây dựng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật
đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Sau mỗi lứa lợn, chuồng
trại đều được tẩy uế bằng phương pháp: rửa sạch ô nhốt lợn, để khô sau đó
phun thuốc sát trùng như omnicide, Vikon S và để trống chuồng nuôi tối thiểu
là 5 ngày mới đưa lợn nái chờ đẻ khác lên. Với lợn con tuyệt đối không tắm
rửa để tránh lạnh và ẩm ướt, định kỳ tiêu độc ở các chuồng nuôi lợn nái, lợn
đực làm việc bằng thuốc sát trùng, Trại còn thường xuyên tiến hành vệ sinh
môi trường xung quanh như việc dọn cỏ, phát quang bụi rậm, diệt chuột, thu
dọn phân hằng ngày ở các ô chuồng.
Hiện nay, trại áp dụng quy trình chăn nuôi “cùng vào - cùng ra”, trong
đó một chuồng hoặc cả một dãy chuồng được đưa vào để nhốt đồng loạt cùng
một loại lợn (có thể tương đồng về khối lượng, tuổi). Sau một thời gian nhất
định số lợn này được đưa ra khỏi chuồng, lúc đó chuồng trại được rửa sạch,
phun thuốc sát trùng và để trống ít nhất 5 ngày trước khi đưa đàn lợn mới lên
đẻ. Như vậy quy trình này có tác dụng phòng bệnh do vệ sinh chuồng trại
thường xuyên, định kỳ mỗi khi xuất hết lợn, do đó hạn chế được khả năng lan
truyền các mầm bệnh từ lô này sang lô khác.
Hệ thống thông thoáng đối với chăn nuôi lợn công nghiệp rất quan
trọng, ngoài việc cung cấp đủ oxy cho quá trình hô hấp của lợn, nó còn giúp
giải phóng khí độc do phân, nước tiểu gây ra. Chính vì vậy, trại đã sử dụng hệ
thống làm mát và chống nóng ở mỗi dãy chuồng vào mùa hè và hệ thống sưởi
6
ấm vào mùa đông. Bên cạnh đó các dãy chuồng được sắp xếp theo hướng Đông
Nam để đảm bảo ấm áp vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè.
Đặc biệt vào mùa hè, thời tiết rất nóng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng sinh sản của đàn lợn nái cũng như sự sinh trưởng và phát triển của lợn
con. Do đó trại đã lắp đặt hệ thống chống nóng gồm hệ thống quạt gió ở cuối
mỗi dãy chuồng có tác dụng hút không khí có hơi nước từ hệ thống dàn mát
trên đầu chuồng tạo luồng khí mát, thông thoáng. Hai dãy tường chuồng được
phủ một tấm lưới cách nhiệt và có tác dụng giữ ẩm. Chính vì vậy không khí
trong chuồng lợn luôn mát và nhiệt độ luôn duy trì trong khoảng 28oC - 30oC.
Trại trang bị hệ thống lồng úm bên trong có treo một bóng đèn hồng ngoại
công suất 175W hoặc lắp một tấm sưởi ở mỗi ô chuồng. Với lợn sau cai sữa
cũng có một đèn sưởi hoặc tấm sưởi ở mỗi ô chuồng, đảm bảo luôn duy trì
nhiệt độ thích hợp cho lợn con
2.1.2. Đánh giá chung
2.1.2.1. Thuận lợi
+ Trại được xây dựng cách xa khu dân cư, xung quanh là đồi núi bao
bọc, không làm ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh và đảm bảo yêu cầu vệ
sinh an toàn dịch bệnh.
+ Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân của trại có năng lực,
năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc.
+ Trại được liên kết với công ty CP nên chủ động được nguồn thức ăn
2.1.2.2. Khó khăn
+ Trại nằm trong khu vực nhiệt đới khí hậu gió mùa, thời tiết diễn biến
phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn.
+ Dịch bệnh diễn biến phức tạp nên chi phí dành cho việc phòng và
chữa bệnh cao.
+ Cơ sở vật chất xuống cấp, dụng cụ, máy móc, trang thiết bị còn thiếu
7
gây không ít khó khăn trong việc chăm sóc, quản lý vật nuôi.
2.1.3 Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng.
Trong quá trình thực tập tại trang trại, tôi đã tham gia chăm sóc nái đẻ,
tham gia đỡ đẻ, chăm sóc cho lợn con theo mẹ đến cai sữa. Trực vệ sinh,
chăm sóc, theo dõi đàn lợn thí nghiệm. Thực hiện quy trình chăm sóc nái chờ
đẻ, nái đẻ, đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa như sau:
- Đối với nái chửa:
Lợn nái chửa được nuôi chủ yếu ở chuồng bầu. Hàng ngày vào kiểm tra
lợn để phát hiện lợn phối không đạt, lợn nái bị sảy thai, lợn mang thai giả, vệ
sinh, dọn phân không để cho lợn nằm đè lên phân, lấy thức ăn cho lợn ăn, rửa
máng, phun thuốc sát trùng hàng ngày, xịt gầm, cuối giờ chiều phải chở phân
ra khu xử lý phân. Lợn nái chửa được ăn loại thức ăn 566, 567 với khẩu phần
ăn tùy theo tuần chửa, thể trạng, lứa đẻ như sau:
Đối với nái chửa từ tuần chửa 1 đến tuần chửa 12 ăn thức ăn 566 với
tiêu chuẩn 2 – 2,5 kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày.
- Đối với nái chửa từ tuần 13 đến tuần chửa 14 ăn thức ăn 567 với tiêu
chuẩn 2,5 - 3 kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày.
Đối với nái chửa từ tuần 15 trở đi được ăn thức ăn 567 với tiêu chuẩn
3,5 – 4 kg/con/ngày, cho ăn 1 lần trong ngày.
Đối với nái đẻ:
Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10
ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát
trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên
thẻ nái gắn ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu
chuẩn ăn 3kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều.
Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, giảm tiêu chuẩn ăn xuống
1,5kg/con/bữa.
8
Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn từ 2 - 3kg/con/ngày
chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc nuôi nhiều
con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 3,5kg/con/ngày.
- Đối với đàn lợn con theo mẹ đến khi cai sữa:
Ngay sau khi đẻ ra lợn được tiến hành cắt rốn, cắt đuôi.
+ Lợn con 1 ngày tuổi được mài nanh và tiêm NOVA-Fe-B12, tiêm
Amlistin, cho uống cầu trùng.
+ Lợn con 3 - 5 ngày tuổi tiến hành thiến lợn đực.
+ Lợn con được từ 4 - 6 ngày tuổi tập cho ăn bằng thức ăn hỗn hợp
hoàn chỉnh 550S.
+ Lợn con được 15 - 18 ngày tuổi tiêm phòng vắc xin dịch tả.
+ Lợn con 20 – 30 ngày tuổi tiêm phòng vắc xin tụ huyết trùng
+ Lợn con được 19 - 21 ngày tuổi tiến hành cai sữa cho lợn con.
- Đỡ lợn đẻ:
Để công tác đỡ lợn đẻ thành công cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ phục vụ
cho việc đỡ đẻ, dụng cụ bao gồm: thùng úm, bóng đèn hồng ngoại, khay đựng
cồn, kéo, chỉ buộc rốn, khăn khô, kéo và chỉ buộc rốn phải được ngâm trong
khay đựng nước sát trùng.
Thao tác đỡ đẻ: Trước khi đẻ lợn mẹ phải được vệ sinh (tắm) sạch sẽ, bộ
phận sinh dục và bầu vú cũng được lau chùi sạch sẽ. Khi lợn con được đẩy ra
ngoài nhanh chóng dùng tay vuốt mồm cho lợn dễ thở sau đó dùng khăn khô
lau sạch nhớt và lớp màng trên người lợn con, phải lau thật khô và sạch lợn
con thì nó mới nhanh khỏe. Sau đó dùng kéo cắt dây rốn cách rốn 1 khoảng
15cm rồi cắt, xịt cồn vào rốn và thả lợn vào lồng úm đã chải sẵn thảm và thắp
đèn úm. Trường hợp lợn mẹ khó đẻ sau 15 - 20 phút phải có biện pháp can
thiệp. Sau khi lợn mẹ đẻ xong cần vệ sinh sạch sẽ bầu vú, cơ quan sinh dục
và cho lợn con vào bú sữa đầu. Trong khi lợn con bú mẹ cần chú ý quan sát
9
để tránh trường hợp lợn mẹ đè con.
- Thao tác mài nanh và tiêm sắt cho lợn con: Lợn con sau khi bú mẹ
sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành mài nanh, tiêm kháng sinh
với liều 1 - 2ml/con, tiêm sắt với liều 2ml/con. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2
vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần thiết. Thường thì bấm đuôi thường được
làm cùng một lúc với việc bấm nanh, nhưng do lợn con mới sinh vẫn còn yếu,
nên để giảm stress cho lợn con trại tiến hành bấm đuôi cho lợn vào ngày đầu
khi lợn con vừa sinh được 3 - 5 giờ.
Thiến lợn đực: Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt.
Thông thường trong chăn nuôi lợn nái sinh sản ngưi ta thường thiến lợn vào 7 -
10 ngày tuổi. Nhưng thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 3 - 5 sau
khi sinh
Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: Dao thiến,
cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và thuốc kháng sinh.
Thao tác: Đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/con kháng sinh
(Amoxicillin). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi
sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn
nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch
hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp vào giật dịch hoàn
ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn và bôi cồn vào vị trí thiến.
2.1.4. Quy trình phòng và trị bệnh
Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hằng ngày
Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng.
Nếu công tác vệ sinh được thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và
phát triển tốt, chi phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn. Do
nhận thức rõ được điều này, nên trong suốt thời gian thực tập, tôi đã thực hiện tốt
các công việc như:
10
+ Hàng ngày, trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh
viên thực tập tất cả đều phải mặc quần áo bảo hộ, đi ủng qua hố vôi sát trùng
trước cửa chuồng rồi mới được vào chuồng.
+ Việc đầu tiên vào chuồng là cào phân tránh lợn mẹ nằm đè phân
+ Bắt nhốt lợn con vào ô úm rồi lau sàn nhựa (hoặc rắc vôi rồi quét)
+ Rắc vôi lối đi giữa, xung quanh chuồng và dưới gầm chuồng
+ Thu phân vào bao và quét dọn sạch sẽ quanh chuồng
Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát
trùng Omnicide 1 lần/ngày, pha với tỷ lệ 1ml/400 lít nước.
Ở các chuồng nái đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng
bầu (khu vực cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được
tháo ra mang ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1
ngày sau đó được cọ sạch, phơi khô. Khung chuồng cũng được cọ sạch, xịt
bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng, sau đó xịt lại bằng dung dịch
vôi xút. Gầm chuồng cũng được vệ sinh sạch sẽ tiêu độc khử trùng kỹ sau đó
rắc vôi bột. Để khô 1 ngày tiến hành lắp đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ
chuồng bầu xuống. Lịch vệ sinh phòng bệnh của trại
+ Thứ 2 dọn 5s ngoài trại, rắc vôi ngoài trại
+ Thứ 3 quét vôi bệ máng, rắc vôi trong khu chăn nuôi
+ Thứ 4 phun thuốc ruồi trong và ngoài khu chăn nuôi,5s trại rắc vôi
ngoài khu chăn nuôi, đánh chuột
+ Thứ 5 dọn 5s trong khu chăn nuôi, rắc vôi, cọ máng
+ Thứ 6 quét vôi bệ máng, đánh chuột, phun thuốc ruồi toàn trại
+ Thứ 7 rội vôi gầm, 5s trại, rắc vôi ngoài khu chăn nuôi
+ Chủ nhật dội vôi đường đi trong trại
Hàng ngày phun sát trùng ngày 4 lần (8h, 10h, 14h, 17h), thay chậu
nhúng chân trước cửa chuồng, đánh thuốc ruồi.
11
Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn
Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực
hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra
trong cơ thể chúng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn,
tăng sức đề kháng cho cơ thể. Sau đây là quy trình phòng bệnh bằng thuốc và
vắc xin cho các lợn con.
Bảng 2.1. Lịch phòng bệnh của trại
Vaacine-
Liều lượng
Đường đưa
Loại lợn
Tuổi
Phòng bệnh
thuốc
thuốc
(ml/con)
Thiếu sắt Nova-Fe+B12
Tiêm
2
1 - 3 ngày
Tiêu chảy
Alistin
Tiêm
0,5
Lợn con
3 - 4 ngày
Cầu trùng
Coxzuril 5%
Uống
2
14-16 ngày
Còi cọc
Circo
Tiêm bắp
2
PCV
PCV(circo)
Tiêm bắp
1
Sau khi nhập về 0- 7 ngày
Tai xanh
PRRS(1)
Tiêm bắp
2
PCV
PCV(circo)
Tiêm bắp
1
Sau khi nhập về 7- 14 ngày
Paravo
Paravo(1)
Tiêm bắp
2
Dịch tả
CSF
Tiêm bắp
2
Sau khi nhập về 14-21 ngày
Giả dại
AD
Tiêm bắp
2
Sau khi nhập về 21-28 ngày
LMLM
FMD 3 type
Tiêm bắp
2
Tai xanh
PRRS(2)
Tiêm bắp
2
Sau khi nhập về 28-35 ngày
Paravo
Paravo(2)
Tiêm bắp
2
Sau khi nhập về 35-42 ngày
LMLM
FMD 3 type
Tiêm bắp
2
10 tuần chửa
Dịch tả
CSF
Tiêm bắp
2
E.coli(1)
E.coli(1)
Tiêm bắp
2
12 tuần chửa
Lợn nái sinh sản
LMLM
FMD 3 type
Tiêm bắp
2
2
14 tuần chửa
E.coli(2)
E.coli(2)
Tiêm bắp
Lợn hậu bị
( Nguồn: Phòng kỹ thuật trại năm 2019 )
Định kỳ hàng năm vào tháng 3,7,11 tiêm phòng bệnh tai xanh, tháng 4,
12
8, 12 tiêm phòng bệnh giả dại begonia cho tổng đàn.
Đối với lợn đực:
- Lợn đực hậu bị mới nhập về: 3 tuần tiêm phòng vắc xin dịch tả
coglapest, 4 tuần tiêm phòng vắc xin lở mồng long móng aftopor, vắc xin giả
dại begonia.
- Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5, tháng 11 vắc xin
dịch tả Coglapest. Tháng 4, 8, 12, tiêm phòng vắc xin lở mồm long móng
Aftopor, vắc xin giả dại Begonia.
2.1.4.1. Phương pháp xác định tình hình mắc bệnh cho đàn lợn con tại trại
- Lập sổ sách theo dõi đàn lợn cần kiểm tra bằng cách theo dõi, ghi
chép những lợn có biểu hiện lâm sàng, triệu chứng lâm sàng có thể quan sát
được hàng ngày vào sáng sớm và chiều tối.
- Hằng ngày theo dõi sức khỏe đàn lợn con, phát hiện những lợn có
biểu hiện về bệnh phân trắng.
- Từ kết quả tổng hợp được tính toán các chỉ tiêu theo dõi.
2.1.4.2. Công tác chẩn đoán và điều trị bệnh
Công tác chẩn đoán
Làm tốt công tác chẩn đoán sẽ giúp con vật nhanh chóng khỏi bệnh,
giảm tỷ lệ chết, giảm thời gian dùng thuốc và giảm thiệt hại về kinh tế. Vì vậy
hàng ngày chăn lợn, chúng tôi tiến hành theo dõi lợn ở các ô chuồng để phát
hiện những lợn có biểu hiện khác thường. Khi mới phát bệnh lợn, không có
biểu hiện triệu chứng điển hình, thường thấy con vật ủ rũ, mệt mỏi, ăn uống
giảm hoặc bỏ ăn, lười hoạt động, thân nhiệt tăng. Để chẩn đoán chính xác
được bệnh không những dựa vào biểu hiện bên ngoài của vật mà phải dựa vào
kinh nghiệm chăn nuôi của người nuôi cùng với lý thuyết mà tôi học được và
đôi khi còn phải sử dụng những biện pháp phi lâm sàng khác
13
Công tác điều trị bệnh
Trong thời gian thực tập tại trang trại bằng kiến thức đã học và sự giúp
đỡ của kĩ sư, công nhân của trại tôi đã tiến hành chẩn đoán và điều trị một số
bệnh xảy ra tại trại cụ thể:
Bệnh phân trắng lợn con
- Nguyên nhân
Do đặc điểm sinh lý lợn con, tất cả cơ quan bộ phận đều phát triển chưa
hoàn thiện. Hơn nữa, lợn con lại có nhu cầu dinh dưỡng và khoáng chất rất
lớn, nếu không được bổ sung đầy đủ thì lợn con sẽ bị suy dinh dưỡng, ăn
bẩn... gây rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy.
Lợn mẹ không được nuôi dưỡng đầy đủ khi mang thai trong giai đoạn
đang nuôi con. Trong thời gian nuôi con gia súc mẹ bị mắc một số bệnh như:
Viêm vú, viêm tử cung, kém sữa... sau khi sinh sẽ lây nhiễm vi khuẩn vào
đường tiêu hóa lợn con. Hoặc khi nuôi con mà con mẹ động dục trở lại sớm
là một nguyên nhân làm số lượng và chất lượng sữa giảm vì thế bệnh sẽ dễ
xảy ra.
Đóng vai trò quan trọng nhất trong bệnh phân trắng lợn con là vi khuẩn
E.coli và Salmonella. Ngoài hai loại vi khuẩn này cũng phải kể đến vi khuẩn
Clostridium, cầu khuẩn Streptococcus, vi khuẩn Bacillus subtilis...
Do điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt: nóng, lạnh, ẩm, có gió lùa...mà
lợn con là đối tượng chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh mạnh nhất bởi
các phản ứng thích nghi và bảo vệ của cơ thể còn rất yếu.
Bên cạnh đó việc chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý đàn lợn không tốt
cũng ảnh hưởng lớn tới sự xuất hiện của bệnh như bú sữa đầu, cắt rốn, úm
lợn, bổ sung sắt... không được thực hiện đầy đủ và đúng kỹ thuật cũng dẫn
đến tiêu chảy.
14
- Triệu chứng:
Lợn con mắc bệnh khát nước, tính đàn hồi của da giảm, mắt lõm sâu,
thở nhanh, sâu, phân lỏng, có màu vàng hoặc hơi trắng đục dính ở hậu môn,
có bọt và chất nhầy, mùi tanh khắm. Con vật có bú hoặc bỏ bú, lông xù và
dựng, da nhăn nheo, nhợt nhạt, đuôi kheo dính đầy phân, dáng đi siêu vẹo,
thường nằm chồng đống lên nhau hoặc nằm lên bụng lợn mẹ.
- Điều trị: liệu trình 3 - 5 ngày. Sử dụng 2 loại thuốc trong điều trị
Thuốc 1:
Amlistin: 1ml / 5-7kg TT/ ngày, tiêm gốc tai.
Electro- C AP: 1g /2l nước cho uống tự do.
Thuốc 2:
Nova amcoli 1ml / 5-7kg TT/ ngày, tiêm gốc tai.
Electro-C AP: 1g/2l nước cho uống tự do.
Những con tiêu chảy nặng kết hợp tiêm thuốc atropin: 1ml/con/ngày.
Hội chứng tiêu chảy
- Triệu chứng: Phân lỏng màu vàng hay màu trắng đục dính ở hậu môn,
hậu môn ướt đỏ, lợn sút cân nhanh chóng, mắt lờ đờ, dáng đi siêu vẹo.
- Bệnh tích: Theo Trần Đức Hạnh (2013) [6], lợn con ở 1 số tỉnh phía
bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ mắc
tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 -
40 ngày (30,97 và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày.
Theo Nguyễn Chí Dũng (2013) [3], ở các tháng có nhiệt độ thấp và ẩm
độ cao, tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy thường cao (26,98 - 38,18%).
- Điều trị:
+ Paxcel : 1ml/10kg TT
+ Norfloxacin : 1ml/10kg TT
Điều trị 3-5 ngày liên tục
15
Bệnh viêm phổi
- Triệu chứng: ở lợn con bệnh có thể xảy ra ngay sau khi sinh. Lợn gầy
còm lông xù, thở thể bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại. Lợn bị bệnh không
tranh bú với các con khác được nên ngày càng gầy yếu hơn, dễ mắc kế phát
bệnh viêm khớp. Nếu không điều trị kịp thời tỷ lệ chết rất cao.
- Điều trị: tiêm Lincoject 1ml/10kgTT
Điều trị trong 3 ngày
Bệnh viêm tử cung
- Triệu chứng: lợn đẻ 2 - 3 ngày, sốt nhẹ, giảm ăn hay bỏ ăn, có dịch
nhầy chảy ra từ âm hộ, màu trắng đục hoặc màu phớt vàng.
- Điều trị: dùng các loại thuốc sau để điều trị
+ Amox : 1ml/10 kg TT
+ Oxytoxin : 2ml/con
Tiêm bắp, điều trị trong 3 ngày.
Bệnh viêm vú
- Triệu chứng: bệnh xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có
con đến một tháng. Viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi
cũng lan ra toàn bộ các vú, vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy hơi nóng,
hơi cứng, ấn vào lợn nái có phản ứng đau.
Lợn nái giảm ăn, nếu bị nặng thì bỏ ăn, nằm một chỗ, sốt cao 40,50C -
420C kéo dài trong suốt thời gian viêm. Sản lượng sữa giảm, lợn nái thường
nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú.
Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có cặn hoặc cục
sữa vón lại, xuất hiện các cục casein màu vàng, xanh lợn cợn có mủ đôi khi
có máu.
- Điều trị: dùng các thuốc sau để điều trị
+ Pendistrep : 1ml/15kg TT
16
Điều trị 3 ngày
Bệnh viêm khớp
Triệu chứng: lợn đi khập khiễng, khớp chân sưng. Lợn ăn ít, sốt nhẹ, chân
lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm sưng đỏ, sờ nắn vào có
phản xạ đau.
- Điều trị :
+ Pendistrep : 1ml/15kgTT
+ Dexa : 1ml/15kgTT
+ Tiêm analgin C: 1ml/10kgTT/1lần/ngày
Điều trị liên tục trong 3 ngày.
Công tác khác
Trong quá trình thực tập ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn và
tiến hành chuyên đề nghiên cứu khoa học, tôi còn tham gia các công việc
khác như:
- Làm công tác nhập lợn, chuyển lợn và xuất lợn.
- Vệ sinh khu nhà nghỉ, nhà ăn.
- Làm cỏ, rắc vôi xung quanh chuồng trại, phun sát trùng chuồng trại
2.1.4.3. Một số loại thuốc dùng trong điều trị bệnh phân trắng lợn con tại trại
Xác định hiệu lực của thuốc điều trị cho lợn con mắc bệnh phân trắng
sử dụng 2 loại thuốc: Amlistin- Nova amcoli.
Thuốc Amlistin
- Thành phần trong 100ml chứa:
+ Amoxicillin………………....100g
+ Colistin sulfate……… 250000IU
+ Amoxicillin base…………100ml
- Cơ chế tác dụng:
Amoxicilin là aminopenicilen, bền trong môi trường acid, có tác dụng
17
rộng hơn benzylpenicilen, đặc biệt có tác dụng chống trực khuẩn Gram âm.
Tương tự như các penicilin khác, amoxicilin tác dụng diệt khuẩn, do ức chế
sinh tổng hợp mucopeptid của thành tế bào vi khuẩn. In vitro, amoxicilin có
hoạt tính với phần lớn các loại vi khuẩn Gram âm và Gram dương như: Liên
cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn không tạo penicilinase, H.influenzae, Diplococcus
pneumoniae, N.gonorrheae, E.coli, và Proteus mirabilis. Cũng như ampicilin,
amoxicilin không có hoạt tính với những vi khuẩn tiết penicilinase, đặc biệt
các tụ cầu kháng methicilin, tất cả các chủng Pseudomonas và phần lớn các
chủng Klebsiella và Enterobacter.
Amoxicilin có tác dụng invitro mạnh hơn ampicillin đối với
Enterococcus faecalis và Salmonella spp., nhưng kém tác dụng hơn đối với
Shigella spp. Phổ tác dụng của amoxicilin có thể rộng hơn khi dùng đồng thời
với sulbactam và acid clavulanic, một chất ức chế beta - lactamase. Ðã có
thông báo E.coli kháng cả amoxicilin phối hợp với acid clavulanic (16,8%).
Theo thông báo số 2 và số 3 năm 2000 của chương trình giám sát quốc
gia về tình hình kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh thường gặp (ASTS) thì
mức độ kháng ampicilin của E.coli là 67%, Salmonella typhi là 50%, Shigella
là 57,7%, Acinetobacter spp. là 70,7%, các vi khuẩn đường ruột khác
(Citrobacter, Enterobacter, Klebsiella, Morganella, Proteus, Serratia...)là
84,1%, Streptococcus spp. là 15,4%, của các chủng Enterococcus spp là
13,1% và các chủng trực khuẩn Gram âm khác (Achromobacter,
Chriseomonas, Flavobacterium, Pasteurella...) là 66,7%.
- Công dụng: đặc trị các bệnh viêm ruột ỉa chảy do nhiễm khuẩn E.coli,
Salmonella: phân trắng, phân xanh, phân lẫn máu
- Cách dùng: tiêm bắp thịt 3 - 5 ngày liên tục, liều lượng 1ml/5 - 7kg
thể trọng
18
Thuốc Nova amcoli
- Thành phần mỗi ml chứa:
Thành phần: Ampicillin 10mg
- Cơ chế tác dụng:
Là kháng sinh phổ rộng thuộc nhóm betalactam, tức là nhóm kháng
sinh có cấu trúc phân tử gồm khung beta-lactame. Cùng trong nhóm
betalactam với ampicillin, còn có các loại thuốc kháng sinh khác là: penicillin,
amoxycillin, augmentin, unacyl, cloxacillin, oxacillin,.
Ampicillin thực chất là một penicillin bán tổng hợp nhóm A có hoạt
phổ rộng với nhiều chủng vi khuẩn gram (+) và vi khuẩn gram (-). Ampicillin
có tác dụng chống lại những vi khuẩn mẫn cảm gây nhiễm khuẩn đường hô
hấp, dẫn mật, tiêu hoá, tiết niệu, một số bệnh ngoài da như viêm bì có mủ, áp
xe, đầu đinh... viêm tai giữa, bàng quang và thận...
Ampicilin tác động vào quá trình nhân lên của vi khuẩn, ức chế sự
tổng hợp mucopeptid của thành tế bào vi khuẩn. Để đạt được hiệu quả,
ampicilin phải thấm qua thành tế bào và gắn với các protein. Các protein gắn
ampicilin chịu trách nhiệm nhiều bước trong quá trình sinh tổng hợp của
thành tế bào và có mặt trong hàng trǎm đến hàng nghìn phân tử trên một tế
bào vi khuẩn. Các protein gắn ampicilin rất khác nhau giữa các chủng vi
khuẩn. Các kháng sinh beta-lactam cản trở việc tổng hợp thành tế bào qua
trung gian PBP, cuối cùng dẫn đến ly giải tế bào. Sự ly giải diễn ra qua
trung gian là các enzym tự ly giải thành tế bào vi khuẩn, kháng sinh beta-
lactam gây cản trở bằng một chất ức chế autolysin.
Tính kháng với các ampicilin có được phần lớn là nhờ sản sinh beta-
lactam. Để khắc phục điều này, người ta đã tạo ra một số chất ức chế beta-
lactamase: axit clavulanic và sulbactam. Các hợp chất này cũng là các phân tử
beta-lactam nhưng bản thân chúng ít hoặc không có hoạt tính kháng khuẩn.
19
Chúng làm bất hoạt enzym beta-lactam bằng cách gắn vào vị trí hoạt động của
enzym. Trong quá trình đó, chúng bị phá huỷ; vì vậy, chúng còn được gọi là
các ức chế "tự sát". Việc bổ sung chất ức chế, như: acid clavulanic hoặc
sulbactam, sẽ tái lập hoạt tính của ampicilin chống lại vi sinh vật sản sinh
beta-lactamase. Tuy nhiên, các cơ chế khác với sản sinh beta-lactam có vẻ là
trung gian tạo ra tính kháng của S.aureus kháng methicillin.
+ Công dụng: Điều trị tiêu chảy, sưng phù đầu, viêm phổi, viêm rốn
+ Cách dùng: Tiêm bắp thịt hoặc dưới da
+ Dùng liên tục trong 3 - 5 ngày
Lợn con: 1ml/5 - 7kg TT/ngày
2.2. Cơ sở khoa học đề tài
2.2.1. Đặc điểm của lợn con bú sữa
2.2.1.1. Đặc điểm sinh trưởng và phát dục của lợn con
Lợn con hay gia súc nói chung trong thời kỳ bào thai phát triển tốt sẽ
ảnh hưởng tốt đến sự phát triển về sau. Sau sơ sinh, lợn con tăng trọng nhanh,
sinh trưởng với tốc độ cao.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], so với khối lượng sơ sinh thì
sau 10 ngày tuổi, khối lượng lợn con tăng gấp 2 lần, sau 20 ngày tuổi tăng gấp
4 - 5 lần, sau 30 ngày tuổi tăng gấp 6 lần, sau 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần
và sau 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần so với các gia súc khác, trong giai
đoạn này tốc độ sinh trưởng của lợn con nhanh hơn (sau 60 ngày tuổi, khối
lượng bê nghé chỉ tăng gấp 3 - 4 lần).
Do sinh trưởng và phát dục nhanh nên khả năng đồng hoá, trao đổi chất
của lợn con rất nhanh. Ví dụ, lợn con 20 ngày tuổi mỗi ngày tích luỹ 9 - 14g
protein/1kg khối lượng cơ thể, trong khi lợn trưởng thành chỉ tích luỹ được
0,3 - 0,4g protein/1kg khối lượng cơ thể.
Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng
20
nghĩa là tiêu tốn thức ăn ít hơn lợn trưởng thành, vì vậy, tăng chủ yếu của lợn
con là nạc, mà để sản xuất ra 1kg nạc cần ít năng lượng hơn để tạo ra 1kg.
Ở lợn con, các cơ quan chưa thành thục về chức năng, đặc biệt là hệ
thần kinh. Do đó lợn con phản ứng chậm với các yếu tố tác động từ bên ngoài.
Ở giai đoạn này, chức năng của cơ quan tiêu hóa cũng chưa ổn định nên rất dễ
mắc bệnh về đường tiêu hóa.
Dịch vị tiêu hóa ở lợn con cũng khác so với lợn trưởng thành. Ở lợn
trưởng thành, dịch vị tiết vào ban ngày tới 62%, còn ban đêm chỉ còn 38%
trong khi đó ở lợn con tiết dịch vị ban ngày là 31%, ban đêm là 69%. Lợn con
bú sữa mẹ nhiều vào ban đêm bởi sự yên tĩnh. Vì vậy giữ yên tĩnh cho lợn con
trong thời kì này là rất cần thiết.
Lưu ý, lợn con ở thời điểm trước 20 ngày tuổi trong dịch vị dạ dày
không có HCl tự do. Do đó lợn con không có khả năng tiêu hóa protein thức
ăn ở giai đoạn này. Giai đoạn này được coi như một tính trạng thích ứng tự
nhiên giúp thẩm thấu các kháng thể trong sữa đầu và sữa thường. Còn
albumin và globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu. Việc tập
ăn cho lợn con sớm có tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát
triển nhanh và hoàn thiện hơn.
Khi mới sinh vỏ não và các trung tâm điều tiết của lợn con chưa hoàn
chỉnh. Cho nên việc điều tiết thân nhiệt kém, năng lực phản xạ yếu dễ bị ảnh
hưởng xấu từ sự thay đổi bất thường của thời tiết, khí hậu. Hơn nữa lớp mỡ
dưới da lợn khi mới sinh rất mỏng, lượng mỡ và glycozen dự trữ trong cơ thể
lợn còn thấp, trên thân lợn con lông còn thưa. Khi nhiệt độ môi trường thay
đổi làm lợn con mất cân bằng giữ hai quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt. Điều
này cũng giải thích vì sao lợn con bị phân trắng lại xảy ra hàng loạt khi khí
hậu, thời tiết thay đổi thất thường.
Các thành phần trong cơ thể lợn con có sự biến đổi theo lứa tuổi. Trong
21
cơ thể hàm lượng nước giảm theo độ tuổi. Đặc biệt lợn càng non, lượng nước
giảm càng nhiều và nhanh. Hàm lượng protein lại tăng theo độ tuổi với tỷ lệ
nhất định và có vai trò quan trọng nó là nguyên liệu cấu thành chủ yếu của cơ
thể. Quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh so với các lứa tuổi khác. Lợn con
cũng tiêu hóa lipit cao hơn lợn trưởng thành, lipit cung cấp cho lợn con chủ
yếu ở dạng nhũ hóa sữa. Ngoài ra, từ lúc sinh đến 20 ngày tuổi, hàm lượng
khoáng giảm đáng kể, từ 21 đến 30 ngày tuổi trở đi giảm ít dần, do sự phát
triển của bộ xương so với sự phát triển của tổ chức khác chậm hơn.
2.2.1.2. Đặc điểm sinh lý tiêu hóa của lợn con
- Đặc điểm tiêu hóa ở dạ dày
Dung tích dạ dày lợn con lúc sơ sinh là 25 - 30cm3, ở lợn trưởng thành
tăng khoảng 120 - 140 lần và đạt khoảng 3.500 cm3. Ở lợn con dịch vị tiết ra
sau khi ăn do đó cần cho lợn con tập ăn sớm, ăn các loại hạt rang nghiền nhỏ,
thức ăn tinh sẽ giúp cho đường tiêu hóa của chúng phát triển nhanh hơn.
Ở thời điểm 2 - 3 tuần tuổi sau khi sinh, trong dịch vị dạ dày lợn con
chưa có axit HCl tự do để hoạt hóa các men tiêu hóa trong dạ dày và để ngăn
cản tác động của vi khuẩn gây hại trong đường ruột, nên lợn con dễ bị nhiễm
bệnh do chưa có khả năng kháng khuẩn.
Theo Từ Quang Hiển và cs (2001) [7], lợn con từ sơ sinh đến 30 ngày
tuổi trong dịch vị không có axit HCl vì lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nó
nhanh chóng liên kết với dịch nhầy trên bề mặt niêm mạc dạ dày. Hiện tượng
này gọi là hypoclohydric, là một đặc điểm quan trọng trong tiêu hóa dạ dày ở
lợn con. Vì thiếu axit HCl tự do nên vi sinh vật có điều kiện phát triển gây
bệnh về đường tiêu hóa ở lợn con.
Cũng do thiếu HCl tự do trong giai đoạn này nên men pepsin không
hoạt động được hoặc có hoạt động cũng rất kém. Lúc này, tác dụng tiêu hóa
thuộc về men lipaza và chymosin, 2 men này tăng dần từ lúc sơ sinh đến 5
22
tuần tuổi sau đó giảm dần và bù vào đó là men pepsin lúc này mới có khả
năng hoạt động và được tiết ra tăng dần.
- Cấu tạo và dung tích của đường tiêu hoá:
Khi nghiên cứu sự phát triển đường tiêu hoá của lợn con, nhiều tác giả đi
đến kết luận: Cơ quan tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh hơn các cơ quan
khác. Cơ quan tiêu hoá của lợn con khi còn trong bào thai đã hình thành đầy đủ
nhưng dung tích còn nhỏ. Lợn con 1 ngày tuổi, dạ dày nặng 4 - 5g, có thể chứa
25 - 40g sữa, ruột non nặng 40 - 50g, dài 3,5 - 4,0m, có thể chứa 100 - 110g
sữa. Lúc 10 ngày tuổi, dạ dày tăng gấp 3 lần (cả khối lượng và thể tích), 20
ngày tuổi nặng gấp 8 lần, dung tích ruột non tăng gấp bội, ruột già cũng tăng
mạnh. Ở 60 ngày tuổi, dạ dày và ruột non tăng gấp 60 lần lúc sơ sinh.
- Đặc điểm tiêu hoá ở ruột:
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [17], cơ quan tiêu hóa của lợn con
đã hình thành đầy đủ trong quá trình bào thai và phát triển nhanh ở thời kì sau
khi sinh ra, nhưng dịch vị dạ dày - ruột lại rất nhỏ. So với lúc sơ sinh thì dung
tích dạ dày lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, sau 20 ngày tuổi gấp 8 lần, dung tích
ruột non ở lợn con (lúc sơ sinh khoảng 1,11 lít) lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, lúc
20 ngày tuổi gấp 6 lần và dung tích ruột già lợn con (lúc sơ sinh khoảng 0,04
lít) lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần sau 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và 60 ngày tuổi
gấp 50 lần.
Sự phân tiết các men tiêu hoá ở dạ dày và ruột non cũng rất kém, chỉ đủ
tiêu hoá các loại thức ăn đơn giản như sữa, đậu nành. Các men tiêu hóa chất
đạm như pepsin, tripsin, chymotrypsin chỉ đủ để tiêu hóa protein của sữa hoặc
protein đậu nành và không thể tiêu hoá được protein của gạo, bột cá,
bắp…trong tuần lễ đầu sau khi sinh. Men maltaza chỉ được phân tiết đầy đủ
sau 4 tuần tuổi.
Lợn con sơ sinh đến 20 ngày tuổi lượng dịch vị phân tiết trong 1 ngày
23
là rất ít, còn 21 - 30 ngày tuổi lượng dịch tụy phân tiết trong một ngày là 150 -
350ml. Sự phân tiết dịch tụy tăng theo tuổi, ở 40 ngày tuổi là 460 ml, 3 tháng
tuổi là 3 – 5 lít và 7 tháng tuổi là 10 lít. Trong thời gian thiếu HCl, hoạt tính
của dịch tụy rất cao bù lại khả năng tiêu hoá kém của dạ dày. Các tài liệu thu
được cho thấy khả năng tiêu hóa của dịch vị lợn con rất cao đối với các chất
lactoza, cafein, mỡ và sữa.
Nhiều thực nghiệm cho thấy rằng, vi khuẩn đường ruột sinh ra các
kháng sinh ức chế sự phát triển của vi trùng gây bệnh như: vi khuẩn
Salmonella, vi khuẩn thối rữa… ở lợn con mới sinh, hệ vi sinh vật đường ruột
chưa phát triển, chưa đủ các loại vi khuẩn có lợi, chưa đủ khả năng kháng
bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hóa.
Tác dụng của dịch mật đối với lợn con rất quan trọng vì trong sữa của
lợn mẹ có rất nhiều lipit. Dịch mật xúc tiến tiêu hoá lipit trong sữa, tương đối
thấp đối với saccaroza, mantoza và tăng cường nhu động ruột.
2.2.2 Đặc điểm cơ năng điều tiết
Sự thích ứng của lợn con khi thay đổi môi trường sống là rất kém. Đặc
biệt ở giai đoạn lợn con chuyển từ môi trường sống trong bụng mẹ ra môi
trường bên ngoài, từ nuôi dưỡng qua sữa mẹ đến chế độ tập ăn sớm. Hơn nữa,
sự thành thục và thiếu hoàn chỉnh về chức năng của các cơ quan nội tạng,
nhất là bộ máy tiêu hoá, liên quan mật thiết đến sự phát triển của hệ vi sinh
vật có lợi hoặc có hại trong ruột và sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh.
Quá trình tuần hoàn chuyển từ tuần hoàn máu qua nhau thai sang tuần hoàn
nhờ tim phổi, toàn bộ máu ở mạch máu rốn qua gan. Sự cân bằng nhiệt của
lợn con cũng phải tự thiết lập để thích ứng với môi trường bên ngoài, không
thể nhờ vào cân bằng nhiệt lượng của cơ thể mẹ như trong giai đoạn bào thai.
Quá trình chuyển hoá, cân bằng năng lượng từ giai đoạn bào thai sang giai
đoạn sau khi sinh rất chậm, chưa thích nghi ngay nên dễ bị tác động bởi môi
24
trường. Nhờ quá trình oxy hoá mô mỡ nên lợn con điều chỉnh được thân nhiệt.
Khả năng điều chỉnh thân nhiệt khác nhau ở lợn con là do mức độ phát triển
khác nhau của mô mỡ ở từng cá thể, từng loại gia súc (Đào Trọng Đạt và cs,
1986) [4].
2.2.3 Đặc điểm về khả năng miễn dịch
Khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản ứng của cơ thể đối với
các chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là mầm bệnh, các
mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các cơ quan bảo
vệ cơ thể phát triển chưa hoàn chỉnh. Trong hệ thống tiêu hoá của lợn con
lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra chưa đủ để đáp ứng cho quá trình
tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng kém. Do
vậy, các mầm bệnh như E.coli, Salmonella… dễ dàng xâm nhập vào cơ thể
qua đường tiêu hoá và gây bệnh. Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch như bổ thể,
profecdin và lysozim được tổng hợp còn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy,
việc cho lợn con bú sữa đầu là rất cần thiết do trong sữa đầu có rất nhiều γ-
globulin miễn dịch, bảo vệ cơ thể lợn con chống lại mầm bệnh. Hai giờ sau
khi đẻ, lợn con phải được bú sữa đầu để hấp thu được nhiều γ-globulin từ sữa
đầu vào máu trong thời gian 24 - 36 giờ, nhờ đó có đủ kháng thể trong 5 tuần
đầu tiên (Trương Lăng 2007) [12]. Tuy nhiên, còn một yếu tố quan trọng nữa
là sự phát triển của hệ vi sinh vật trong đường ruột gia súc non có những đặc
thù riêng. Việc cân bằng khu hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột nhằm khắc
phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong quá trình phát triển và trưởng thành của cơ
thể lợn con là rất quan trọng. Sử dụng chế phẩm sinh học để phòng và trị tiêu
chảy cho lợn con là rất cần thiết.
2.2.4. Một số hiểu biết về E.coli
Trong các vi khuẩn đường ruột, E.coli là loại phổ biến nhất và thường
xuất hiện sớm ở đường ruột người và động vật sơ sinh (sau khi đẻ 2 giờ). Bình
25
thường E.coli cư trú ở phần sau của ruột, ít khi có mặt ở dạ dày và phía trước
của ruột non. Chỉ khi nào cơ thể của vật chủ yếu đi, E.coli phát triển mạnh về
số lượng và tăng cường độc lực, gây bệnh cho vật chủ.
2.2.4.1. Đặc điểm hình thái
E.coli là loại trực khuẩn hình gậy ngắn, hai đầu tròn, có lông, di động,
không hình thành nha bào, bắt màu Gram (-) thường thẫm ở hai đầu, ở giữa
nhạt. Trong cơ thể, vi khuẩn có hình cầu trực khuẩn, đứng riêng rẽ, đôi khi
xếp thành chuỗi ngắn. E.coli là trực khuẩn hiếu khí hay yếm khí tuỳ tiện, dễ
dàng nuôi cấy ở môi trường thông thường, nhiệt độ thích hợp là 370C, pH
thích hợp 7,2 - 7,4 và có thể phát triển được từ pH 5,5 - 8.
2.2.4.2. Đặc điểm nuôi cấy
Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2001) [18], trực khuẩn E.coli hiếu khí
và yếm tiện có sinh trưởng ở nhiệt độ 150C, nhiệt độ thích hợp 370C và pH
7,4. Trong nước thịt phát triển tốt, môi trường rất đục, có cặn lắng xuống đáy
màu tro nhạt, đôi khi hình thành màu sám nhạt. Canh trùng mùi hôi thối. Trên
mặt thạch ở 370C trong 24 giờ hình thành những khuẩn lạc hình tròn ướt,
không trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi đường kính 2 - 3mm.
- Trên môi trường galactin: vi khuẩn mọc tròn vết cấy mặt ống tạo
thành một lớp bụi xám.
- Trên môi trường E.M.B.E chúng hình thành những khuẩn lạc mầu tím đen.
- Trên môi trường Endo: E.coli hình thành khuẩn lạc màu đỏ.
- Môi trường Wilson Blair: E.coli hình thành khuẩn lạc màu vàng.
- Môi trường Istrati: E.coli hình thành khuẩn lạc màu vàng.
- Môi trường nước thịt: E.coli phát triển tốt, môi trường rất đục có cặn
lắng xuống đáy, đôi khi có màu xám nhạt trên mặt môi trường, môi trường có
màu phân thối.
- Môi trường thạch thường: nuôi cấy ở nhiệt độ 370C trong 24 giờ hình
26
thành những khuẩn lạc tròn ướt, không trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi,
đường kính 2 – 3mm. Nuôi lâu khuẩn lạc trở thành gần như màu nâu nhạt và
mọc rộng ra.
- Môi trường MacConkey: E.coli hình thành những khuẩn lạc dạng S,
màu hồng cánh sen.
- Môi trường Bririlliant Green Agar: khuẩn lạc E.coli dạng S, màu
vàng chanh.
- Môi trường thạch máu: Vi khuẩn E.coli có thể gây dung huyết. Các
chủng E.coli đều lên men sinh hơi mạnh các loại đường fructose, glucose,
galactose, lactose. Tuy nhiên, cũng có một vài chủng E.coli không lên men
đường lactose. Các phản ứng sinh hoá: Indol (+), MR (+), VP (), H2S (-). Khử
nitrat thành nitrit, vi khuẩn E.coli có những yếu tố kháng nguyên rất phức tạp,
bao gồm kháng nguyên thân O, kháng nguyên lông H, kháng nguyên K và
kháng nguyên bám dính F. Kháng nguyên F (fimbriae hay pilus). Chức năng
của kháng nguyên này giúp vi khuẩn bám giữ vào giá thể (màng nhầy của
đường tiêu hoá) hay gọi là bám dính. Vi khuẩn E.coli gây bệnh bởi nhiều yếu
tố, có yếu tố là độc tố có yếu tố không phải là độc tố.
2.2.4.3 Khả năng bám dính
Đây là yếu tố gây bệnh đặc biệt quan trọng, giúp vi khuẩn thực hiện
bước đầu tiên của quá trình gây bệnh. E.coli gây bệnh, bám dính lên niêm
mạc ruột non nhờ một hay nhiều yếu tố bám dính. Có 4 loại yếu tố bám dính
đặc biệt quan trọng là: F4 (K88), F5 (K99), F6 (K987p), F41.
2.2.4.4. Khả năng tạo colicin V
Colicin V là một chất kháng khuẩn có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt
các loại vi khuẩn khác. E.coli sản sinh Colicin V thông qua plasmid col. Hầu
hết các chủng E.coli gây bệnh đều có một loại plasmid có chứa gen sản xuất
colicin V. Khả năng sản sinh độc tố, E.coli có 2 loại độc là ngoại độc tố và
27
nội độc tố. Cũng giống như khả năng bám dính, khả năng sinh sản độc tố là
một yếu tố gây bệnh của vi khuẩn E.coli.
2.2.4.5. Cấu trúc kháng nguyên
E.coli có cấu trúc kháng nguyên khá phức tạp, cấu trúc kháng nguyên
của E.coli bao gồm kháng nguyên O (somatic antigen), K (capsulas hay
microcapsular), H (flagellar), F (fimbriae hay pilus). Hiện nay người ta tìm
thấy ít nhất 170 kháng nguyên O, 70 kháng nguyên K, 56 kháng nguyên H và
một số lượng kháng nguyên F đang được phát hiện nhanh chóng.
2.2.4.6. Độc tố
Vi khuẩn E.coli tạo ra 2 loại độc tố là nội độc tố và ngoại độc tố.
Ngoại độc tố: là chất không chịu được nhiệt, dễ bị phá hủy ở 560C
trong vòng 10 - 30 phút. Dưới tác động của formol và nhiệt, ngoại độc tố trở
thành giải độc tố. Ngoại độc tố có tính hướng thần kinh và gây ra hoại tử.
Nội độc tố: là yếu tố gây bệnh chủ yếu của trực tràng đường ruột, chúng
có trong tế bào vi khuẩn và gắn vào trong tế bào vi khuẩn rất chặt chẽ. Nội
độc tố có thể chiết xuất bằng nhiều phương pháp: phá vỡ vỏ tế bào bằng cơ
học, chiết xuất bằng axit trichoxetic, phenol dưới tác dụng của enzym.
Về cấu trúc nội độc tố là phức chất polysaccharide - protein - lipit vì
vậy nó thuộc kháng nguyên hoàn toàn và có tính đặc hiệu cao đối với các
chủng của serotype.
Độc tố chịu nhiệt (ST = heat - stable - toxin): chịu được nhiệt độ 1000C
trong vòng 15 phút. Độc tố chịu nhiệt kém (LT = heat - lability - toxin): Vô
hoạt ở 600C trong vòng 15 phút.
Độc tố ST chia thành 2 nhóm là STa và STb: dựa trên đặc tính hòa tan
trong methanol và hoạt tính sinh học.
Độc tố LT có trọng lượng phân tử cao, nó gồm 5 nhóm B có khả năng
bám dính trên bề mặt biểu bì của bề mặt ruột và 1 nhóm A có hoạt tính sinh
28
học cao. Ngoài ra còn có veryocytotoxin (VT) cũng tham gia vào quá trình
sinh bệnh của E.coli.
2.2.4.7 Sức đề kháng của mầm bệnh
E. coli bị chết ở nhiệt độ từ 600C trở lên, bị tiêu diệt bởi các thuốc sát
trùng như 1% formol, 2 - 2,5% kresil, nước vôi 10 - 20%, 1/40 paccoma, 1/200
dinalon, 2% vinadin và 10% B.K.Vet. Chúng cực kì nhạy cảm và dễ bị tiêu diệt
dưới tác động của nhiều loại kháng sinh khác nhau. Song nếu chúng ta sử dụng
bừa bãi hoặc không đúng liệu trình thì E.coli cũng dễ thích nghi với điều kiện
mới dẫn đến nhờn thuốc, giảm hiệu quả phòng trị bệnh do E.coli.
2.2.5. Bệnh phân trắng lợn con
2.2.5.1. Dịch tễ của bệnh
Bệnh phân trắng lợn con là một hội chứng một trong hai lâm sàng đa
dạng, đặc điểm là viêm dạ dày, ruột, đi ỉa dẫn tới vật nuôi gầy sút nhanh. Tác
nhân gây bệnh chủ yếu là lợn con là E.coli, Salmonella và các vi khuẩn đường
ruột khác là Proteus, Streptococcus. Bệnh xuất hiện vào những ngày đầu sau
khi sinh (do E.coli) và trong suốt thời kỳ bú mẹ.
- Bệnh có quanh năm, nhiều nhất cuối đông sang xuân, cuối xuân sang
hè điều kiện mắc bệnh thường thấy.
- Thời gian nào độ ẩm cao, bệnh phát triển nhiều.
- Chuồng nái ẩm ướt tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển.
- Tỷ lệ mắc bệnh các cơ sở chăn nuôi miền trung du, miền núi ít hơn,
thời gian mắc bệnh ngắn hơn so với đồng bằng.
2.2.5.2. Đường nhiễm bệnh
Nhiễm bệnh qua lợn con bú sữa mẹ. Thức ăn, nước uống, điều kiện vệ sinh.
Nguyên nhân có thể làm cho lợn con tăng mức độ nhiễm E.coli là:
Lượng sữa mẹ ít, lợn con đói phải gặm mút lung tung, trong đó có
nước, rơm, chất độn chuồng, chất thải bị nhiễm E.coli
29
Chuồng bẩn, lợn con luôn bú lợn mẹ có bầu vú bị nhiễm E.coli.
Lợn mẹ bị viêm vú, đặc biệt là do E.coli gây ra. Khi bú sữa của lợn mẹ
bị viêm vú, lợn con sẽ bị tiêu chảy ngay sau đó.
Lợn con không được bú sữa đầu, trong khi đó khả năng miễn dịch của
lợn con phụ thuộc chủ yếu vào lượng kháng thể hấp thụ được từ sữa của lợn
mẹ. Do đó, sức đề kháng của cơ thể lợn con yếu, dễ mắc bệnh.
Chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn nái chửa không đảm bảo kỹ thuật, thức
ăn của lợn mẹ không đảm bảo vệ sinh, thành phần dinh dưỡng trong khẩu
phần ăn không cung cấp đủ nhu cầu của lợn nái chửa. Do đó, lợn con sinh ra
đã bị nhiễm E.coli từ lợn mẹ hoặc sinh ra còi cọc, sức sống yếu, khả năng
chống đỡ các yếu tố bất lợi của môi trường bị giảm nên lợn dễ bị mắc bệnh.
Do trữ lượng sắt của lợn con từ bào thai chưa đủ, khi sinh ra không
được sữa mẹ cung cấp đủ nhu cầu, thiếu cả coban, B12, nên dẫn đến sinh bần
huyết, cơ thể suy yếu không hấp thụ được đầy đủ các chất dinh dưỡng sinh ra
không tiêu, ỉa chảy.
Thời tiết lạnh, mưa phùn, ẩm độ cao, gió mùa đông bắc, chuồng nuôi
ẩm thấp làm cho lợn con dễ mắc bệnh phân trắng.
Lợn con từ sơ sinh đến 20 ngày tuổi, pH dịch vị trung tính, không có
axit HCl tự do nên dạ dày không có khả năng sát trùng và tiêu hoá protit.
Nhược điểm này cũng là nguyên nhân phát sinh bệnh phân trắng lợn con. Lợn
con 1 tháng tuổi trở lên hàm lượng HCl và men pepsin dịch vị tăng, nên tỷ lệ
cảm nhiễm bệnh giảm rõ rệt.
2.2.5.3. Quá trình sinh bệnh
Vi khuẩn xâm nhập bằng cách trực tiếp hay gián tiếp vào đường ruột
của lợn. Trong ruột, khi đủ các điều kiện thuận lợi vi khuẩn nhân lên với số
lượng lớn, sản sinh ra các yếu tố kháng khuẩn. Yếu tố này tiêu diệt hoặc hạn
chế sự phát triển của các vi khuẩn đường ruột khác, đặc biệt là các vi khuẩn có
30
lợi (bacillus suptylis, các vi khuẩn lactic). Khi đó, vi khuẩn E.coli trở thành vi
khuẩn có số lượng lớn trong đường ruột. Khi có số lượng lớn chiếm ưu thế vi
khuẩn tràn lên ruột non.
Ở ruột non, nhờ kháng nguyên bán dính vào lớp tế bào biểu mô nhung
mao ruột, nhờ yếu tố xâm nhập vi khuẩn xâm nhập vào trong lớp tế bào biểu
mô. Từ đó vi khuẩn phát triển và nhân lên làm phá huỷ lớp tế bào gây ra viêm
ruột. Độc tố đường ruột tác động vào quá trình trao đổi muối - nước làm cho
nước và chất điện giải không hấp thu được từ ruột vào cơ thể. Nước được tập
trung nhiều ở ruột cùng với khí do vi khuẩn trong ruột lên men làm cho ruột
căng ra. Sức căng của ruột và quá trình viêm ruột kích thích vào hệ thần kinh
thực vật ở ruột tạo lên những cơn nhu động ruột đẩy phân ra ngoài, gây nên
tiêu chảy.
2.2.5.4. Nguyên nhân
Trong lịch sử nghiên cứu về bệnh phân trắng lợn con, nhiều tác giả đã
dày công nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con kết
quả cho thấy nguyên nhân gây bệnh rất phức tạp. Tuy nhiên, bệnh phân trắng
lợn con chỉ là một hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hoá, có liên quan đến rất
nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân
thứ phát. Cho dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó
cũng gây ra viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hoá và cuối cùng là
nhiễm trùng. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh lợn con phân trắng do các
nguyên nhân sau: vi khuẩn, virus và nấm.
Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con nhiều tác
giả đã kết luận rằng trong bất cứ trường hợp nào của bệnh cũng có vai trò tác
động của vi khuẩn.
Trong đường ruột của gia súc nói chung và lợn nói riêng, có rất nhiều
loại vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật tồn tại dưới một hệ sinh thái. Hệ sinh
31
thái vi sinh vật đường ruột ở trạng thái cân bằng động theo hướng có lợi cho
cơ thể vật chủ. Hoạt động sinh lý của gia súc diễn ra bình thường khi hệ sinh
thái đường ruột ở trạng thái cân bằng. Sự cân bằng này là do sự ổn định giữa
môi trường đường tiêu hoá và các nhóm vi sinh vật có mặt trong đường tiêu hoá
của cơ thể vật nuôi. Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh, trạng thái cân bằng
này bị phá vỡ dẫn đến hiện tượng loạn khuẩn và hậu quả là lợn bị tiêu chảy.
Nhiều tác giả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy đã chứng minh rằng
khi gặp điều kiện thuận lợi, nhiều vi khuẩn ở đường tiêu hoá sẽ tăng độc tính
phát triển với số lượng lớn trở thành có hại và gây bệnh. Thực tế vi khuẩn
E.coli cư trú ở ruột già và phần cuối ruột non, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ
nhân lên với số lượng lớn ở lớp sâu tế bào thành ruột, đi máu và đến nội tạng.
Trong máu nhờ cấu trúc kháng nguyên O và khả năng dung huyết vi khuẩn
chống lại các yếu tố phòng vệ không đặc hiệu. Tại các cơ quan nội tạng vi
khuẩn này tiếp tục phát triển và sự cư trú của chúng làm cho con vật rơi vào
trạng thái bệnh lý.
Khi lợn bị tiêu chảy, số loại vi khuẩn và tổng số vi khuẩn hiếu khí trong
1 gram phân tăng lên rất nhiều so với lợn ở trạng thái bình thường. Hai trong
số những vi khuẩn đóng vai trò quan trọng trong hội chứng tiêu chảy là:
E.coli và Salmonella.
- Do virus: đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu kết luận một số virus như:
Rotavirus, Enterovirus, Parvovirus… có vai trò nhất định gây hội chứng tiêu
chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu
hoá, suy giảm sức đề kháng của cơ thể và gây ỉa chảy thể cấp tính.
- Do ký sinh trùng: ký sinh trùng trong đường tiêu hoá là một trong
những nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy. Khi ký sinh trùng trong đường
tiêu hoá ngoài việc chúng cướp đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, tiết độc tố
đầu độc cơ thể vật chủ, chúng còn gây tác động cơ giới làm tổn thương niêm
32
mạc đường tiêu hoá và là cơ hội khởi đầu cho quả trình nhiễm trùng. Có rất
nhiều loại ký sinh trùng đường ruột tác động gây ra hội chứng tiêu chảy như
sán lá ruột lợn, giun đũa lợn.
- Do thời tiết
Khi điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột như: quá nóng, quá lạnh, mưa
gió, ẩm độ đều tác động đến tình trạng sức khoẻ của lợn đặc biệt là lợn con.
Vì lợn con theo mẹ cấu tạo chức năng sinh lý của các cơ quan chưa hoàn
thiện, nên khả năng miễn dịch và phòng vệ của cơ thể chưa tốt. Vì thế mà lợn
con chịu nhiều tác động của điều kiện ngoại cảnh.
- Do kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng
Vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng có vai trò hết sức quan trọng. Việc thực
hiện đúng quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng sẽ đem lại sức khoẻ và
tăng trọng cho lợn. Khi thức ăn chăn nuôi không đảm bảo, chuồng trại không
hợp lý, kỹ thuật không phù hợp là nguyên nhân làm cho sức đề kháng của lợn
giảm, tăng nguy cơ mắc bệnh.
- Do stress
Khi lợn bị bệnh phân trắng lợn con có liên quan đến stress như: thời tiết
lạnh ẩm hoặc nóng ẩm đột ngột, thức ăn cho lợn mẹ thay đổi bất thường về
lượng đạm và chất béo, chất khoáng và vitamin.
Hệ thống dạ dày - ruột đặc biệt mẫn cảm với stress. Ngay cả ở giai
đoạn báo động của quá trình stress, nhu động ruột tăng, thậm chí gây ỉa chảy
cấp tính. Nếu tác nhân stress tác động với cường độ mạnh, kéo dài thì chắc
chắn xảy ra viêm dạ dày - ruột. Tiếp theo quá trình của viêm dạ dày - ruột bởi
stress các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá sẽ làm bệnh trầm trọng hơn, tổn
thương nặng hơn. Các tác nhân stress sẽ tạo điều kiện “mở đường” cho vi
khuẩn phát triển nhất là E.coli.
33
2.2.5.5. Triệu chứng
Triệu chứng lâm sàng: lợn con mắc bệnh lúc đầu vẫn bú bình thường
nhưng sau đó giảm dần, khi nặng kèm theo triệu chứng sốt. Lúc đầu con vật đi
táo, phân rắn như hạt đỗ xanh, thường có màu vàng nhạt, dần dần chuyển sang
ỉa phân trắng, phân vàng hoặc lỏng dính vào mông, kheo chân sau. Lợn con
thường khát nước, nên tìm chỗ nước bẩn để uống làm bệnh nặng thêm nếu không
đảm bảo đủ nước sạch. Đôi khi lợn nôn ra sữa không tiêu nên có có mùi chua,
bệnh kéo dài 2 - 4 ngày, lợn suy nhược nhanh chóng co giật run rẩy rồi chết.
Nhiều con có dử ở mắt kèm theo có vùng thâm quầng, lợn suy dinh
dưỡng nằm dài, khó đứng dậy, nếu không chữa kịp thời lợn bị bệnh kéo dài
dẫn đến chết. Nói chung lợn con mắc bệnh thường không sốt, phân lỏng, màu
trắng như vôi, lầy nhầy, tanh khắm, có khi lẫn máu, lợn bị bệnh hay nôn và
luôn ở trạng thái khát nước bệnh có thể diễn ra theo hai thể: thể gây chết
nhanh và thể kéo dài.
- Thể gây chết nhanh: những lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi
thường mắc thể này. Sau 1 - 2 ngày đi ra phân trắng, lợn gầy sút nhanh, lợn bú
kém, rồi bỏ bú hẳn, ủ rũ, đi đứng siêu vẹo.
Niêm mạc nhợt nhạt, bốn chân lạnh, có con hay đứng riêng một chỗ và
thở nhanh. Trạng thái phân từ ỉa nát rồi đến loãng. Số lần đi ỉa tăng từ 1 - 2
lần trên ngày lên tới 4 - 6 lần. Màu phân từ xanh đen biến thành màu xám rồi
trắng đục, trắng hơi vàng. Mùi tanh khắm, phân dính bết vào đuôi và kheo
chân sau. Bệnh kéo dài 2 - 4 ngày. Trước lúc chết có hiện tượng suy nhược, co
giật hoặc run run. Tỷ lệ chết có thể đến 50% - 80% số con ốm.
- Thể kéo dài
Thường xảy ra ở lợn từ 20 ngày tuổi trở lên. Bệnh có thể kéo dài 7 - 10
ngày. Lợn vẫn bú, bú kém dần, phân trắng đục rồi chuyển sang trắng hơi
vàng. Mắt có dử, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu không khỏi thì lợn bị suy nhược
34
rồi chết sau hàng tuần bị bệnh.
2.2.5.6. Bệnh tích
Theo tổng kết của một số tác giả: lợn chết do mất nước nghiêm trọng
nên khi quan sát xác con vật gầy còm, da khô, lông bẩn, da lông xám không bóng
như con vật khỏe mạnh. Niêm mạc nhợt nhạt, máu loãng hơi đen. Dạ dày giãn
rộng, các bờ ở đường cong lớn bị nhồi máu, chứa sữa đông vón, màu trắng hoặc
màu xám trắng. Hạch lâm ba chuyển từ màu hồng thành màu đỏ thẫm. Gan nhão,
dễ vỡ, đôi khi có xuất huyết, đôi khi có hiện tượng viêm phổi nhẹ.
- Thể cấp tính: gây chết nhanh, những lợn 4 - 15 ngày tuổi thường hay
mắc thể này. Sau 1 - 2 ngày đi ỉa lợn con gầy sút nhanh, lợn bỏ bú, ủ rũ, đi
đứng siêu vẹo, niêm mạc mắt nhợt nhạt, bốn chân lạnh. Phân lúc đầu nát, sau
loãng, tiếp đó lợn rặn khó khăn như đi kiết, số lần đi ỉa tăng từ 1 - 2 lần lên 4 -
6 lần/ngày. Màu phân từ xanh đen biến thành đen rồi trắng đục, mùi tanh
khắm, phân dính bết vào hậu môn, bệnh kéo dài 2 - 4 ngày, tỷ lệ chết cao 50%
- 80% số con/ đàn.
- Thể mãn tính: lợn lớn hơn 20 ngày tuổi hay mắc ở thể này. Lợn bú
kém kéo dài 7 - 10 ngày. Phân màu trắng đục hoặc trắng hơi vàng. Có con
mắt có dử, niêm mạc nhợt nhạt, có thể chết rải rác sau vài tuần mắc bệnh, tỷ
lệ chết thấp, 10 - 30% số con trong đàn. Niêm mạc ruột bị tổn thương, có vết
loét. Phổi viêm đôi khi có mủ. Tim sưng hơi nhão, xoang bao tim chứa đầy
nhớt vàng, cơ tim xuất huyết. Khi lợn chết, xác gầy, phần thân sau bê bết
phân. Mổ khám bệnh tích thấy dạ dày giãn rộng, ở đường cong lớn các bờ bị
nhồi máu, dạ dày chứa đầy sữa đông vón, không tiêu, màu trắng hoặc màu
xám trắng. Ruột non căng phồng chứa đầy hơi với những đám xuất huyết ở
thành ruột. Nhìn từ ngoài vào thấy niêm mạc ruột bị bong chóc làm cho thành
ruột mỏng ra. Hệ thống lâm ba ruột tụ huyết. Các cơ quan nội tạng khác như:
tim, gan, thận, phổi ít biến đổi.
35
2.2.5.7. Phòng bệnh
Ngay từ những ổ bệnh đầu tiên phát sinh trong các cơ sở chăn nuôi tập
trung, người ta nghĩ đến những phương pháp phòng bệnh (vệ sinh chuồng trại,
chống lạnh, ẩm, nuôi dưỡng tốt mẹ và con, bổ sung các thành phần dinh
dưỡng con thiếu vào khẩu phần). Sử dụng nhiều loại thuốc kháng sinh, thảo
mộc để phòng bệnh.
- Dùng chế phẩm sinh học.
Đó là dùng các vi khuẩn có lợi để phòng trị bệnh. Các nhóm vi khuẩn
thường dùng là Bacillus suptilis, Colibacterium, Lactobacillus… các vi khuẩn này
khi đưa vào đường tiêu hoá của lợn sẽ có vai trò cải thiện tiêu hoá thức ăn lập lại
cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, ức chế và khống chế vi sinh vật có hại.
- Phòng bệnh bằng nguyên tố vi lượng.
Lợn con bú sữa mẹ thường thiếu sắt vì sữa mẹ không cung cấp đủ cho
lợn con. Do đó lợn con thường rối loạn tiêu hoá và dẫn đến ỉa phân trắng.
Vì vậy, lợn con cần được tiêm bổ sung Nova-Fe+B12 để phòng bệnh
thiếu máu và nâng cao sức đề kháng cho lợn con.
- Cải thiện các điều kiện nuôi dưỡng lợn nái và lợn con.
Nuôi dưỡng lợn nái đúng khẩu phần quy định bao gồm đủ lượng đạm,
vitamin, khoáng đa lượng và vi lượng… sẽ đảm bảo cho thai phát triển tốt và
lợn con sau khi sinh có sức đề kháng với bệnh. Dùng đèn hồng ngoại để sưởi
ấm cho lợn con vào mùa đông có thể giảm thiểu được bệnh.
- Vệ sinh chuồng trại, máng ăn, uống, dụng cụ chăn nuôi.
Là một khâu hết sức quan trọng để phòng bệnh phân trắng lợn con, hạn
chế mầm bệnh trong môi trường, giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh. Việc vệ sinh
được tiến hành hằng ngày đảm bảo chuồng trại luôn sạch sẽ, chuồng nuôi
được thiết kế sao cho luôn thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông.
Đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt lịch khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi
36
theo định kì. xử lý phân, rác thải, xác chết… đúng quy định.
+ Phòng bệnh bằng vắc xin.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vắc xin để phòng
bệnh phân trắng lợn con do vi khuẩn gây ra, do đó các nghiên cứu tập trung
chế tạo vắc xin từ vi khuẩn E.coli và Salmonella.
Sử dụng vắc xin cho lợn nái mang thai bằng cách tiêm hoặc cho uống
trước khi đẻ 4 - 6 tuần để kích thích lợn mẹ đáp ứng miễn dịch, sản sinh kháng
thể đặc hiệu trong máu, truyền qua sữa đầu, cung cấp cho lợn con sau khi bú sữa
(Nguyễn Thị Nội và cs (1998) [14] và (Lê Văn Tạo và cs 1993) [20]).
Gần đây một số nhà nghiên cứu còn dùng hỗn hợp vi khuẩn đường
ruột, E.coli và Salmonella phân lập được từ cơ sở chăn nuôi để chế tạo vắc
xin với mục đích ngăn cản sự xâm hại của 2 loại vi khuẩn này. Kết quả cho
thấy vắc xin chế tạo được có khả năng cản trở sự bám dính và xâm nhập của
E.coli và Salmonella vào các tế bào biểu mô ruột.
Hiệu lực miễn dịch của kháng sinh này tương đương với hiệu lực của
kháng sinh sống, cao hơn vắc xin chết hoặc vắc xin lipopolisaccharid chiết xuất.
Theo Nguyễn Thị Nội và cs (1998) [14], đã tiến hành nghiên cứu vắc
xin hỗn hợp saclsco, được chế tạo từ các chủng E.coli, Salmonella,
Streptococcus để phòng bệnh phân trắng lợn con.
Theo Lê Văn Tạo và cs (1993) [20], đã chọn các chủng vi khuẩn kết
hợp ít nhất 2 yếu tố gây bệnh khác nhau là ENT và HLY sản xuất vắc xin cho
uống và tiêm phòng bệnh phân trắng lợn con.
2.2.5.8. Điều trị bệnh
Khi bệnh phát ra ở đàn lợn thì phải khẩn trương điều trị với biện pháp
thích hợp và chăm sóc chu đáo đàn lợn. Một số kháng sinh sau đây thường
được sử dụng riêng rẽ hoặc phối hợp điều trị như: biomycin, gentamicin, nor-
100…Dùng một số kháng sinh có nguồn gốc thảo mộc cũng điều trị rất tốt
PTLC. Viên tô mộc dùng theo công thức sau: tô mộc 500g và Ngũ bội tử
37
300g, hai thứ sắc đặc trộn lẫn vào thức ăn cho 100 lợn con ăn.
- Palmatin: chiết xuất từ cây Hoàng đằng, dùng dạng viên với liều
50mg/ 1lợn con.
- Có thể dùng các loại thuốc như: becberin hay dùng các loại cây có hợp
chất tanin cao như: búp sim, búp ổi, quả hồng xiêm xanh…
Thực tế cho thấy việc điều trị bằng kháng sinh có hiệu quả ngày càng
giảm do sự kháng thuốc nhờn thuốc nên việc dùng kháng sinh thảo mộc là
một lựa chọn đúng đắn bởi: kháng sinh thảo mộc dễ kiếm, dễ bào chế và sử
dụng, giá thành lại rẻ tạo ra được các sản phẩm thịt an toàn cho người sử dụng
(Nguyễn Hùng Nguyệt 2008) [16].
2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bệnh phân trắng lợn con là bệnh phổ biến ở lợn con theo mẹ, nó gây
ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng đàn lợn và gây thiệt hại không nhỏ
về kinh tế. Bệnh có mặt ở mọi nơi trên thế giới, từ chăn nuôi hộ gia đình đến
chăn nuôi trang trại lớn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nước ngoài về
bệnh phân trắng lợn con.
Theo Purvis G.M và cs (1985) [27], cho rằng: phương thức cho ăn
không phù hợp là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy ở lợn.
Theo Pensaert M.B. de Bouck P.A. (1978) [26], nguyên nhân chủ yếu
là do stress lạnh ẩm. Khi các tác nhân stress tác động vào cơ thể dễ gây ra cơ
chế bệnh lý làm mất thăng bằng, giảm khả năng thích nghi của cơ thể với điều
kiện ngoại cảnh, tạo điều kiện phát sinh bệnh.
Niconxki V.V (1971) [25], đã nhấn mạnh “Khi cơ thể gia súc non bị
lạnh kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm số lượng bạch cầu và tác
dụng thực bào, giảm khả năng diệt trùng của máu do đó gia súc dễ bị vi khuẩn
tấn công”.
38
Theo Jones (1976) [24], khả năng bám dính của vi khuẩn là yếu tố vô
cùng quan trọng để thực hiện bước đầu của quá trình gây bệnh. Trong quá
trình liên kết đòi hỏi vi khuẩn phải có khả năng di động.
Fairbrother J.M và cs (1992) [23], cho biết độc tố Enterotoxin do E. coli
sinh ra Enterotoxinogenic Escherichia coli (ETEC) gây ỉa chảy trầm trọng cho
lợn con sơ sinh từ 1 - 4 ngày tuổi.
Nghiên cứu của Smith.R.A. và cs (1996) [28], cho thấy: sản xuất vắc
xin E.coli phòng bệnh phân trắng cho lợn tốt nhất được phân lập từ bệnh
phẩm của lợn bệnh ở tuổi dưới 14 ngày.
Akita E.M và cs (1993) [22], đã nghiên cứu sản xuất kháng thể
đặc hiệu qua lòng đỏ trứng gà dùng trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy
ở lợn con.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Bệnh phân trắng lợn con ở nước ta đã được nghiên cứu từ năm 1959 tại
các cơ sở chăn nuôi tập trung (trại chăn nuôi và các nông trường quốc doanh).
Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
trong nước quan tâm đến bệnh phân trắng lợn con.
Lê Văn Tạo và Cs (1993) [20], đã nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của
các chủng E.coli gây bệnh, chọn chủng E.coli để chế tạo vắc xin chết dưới
dạng cho uống. Vắc xin dùng cho lợn con sau đẻ 2 giờ, uống với liều 1ml/con,
liên tục trong 3 - 5 ngày. Kết quả làm giảm tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con
từ 30 - 35% so với đối chứng.
Lý Thị Liên Khai (2001) [9], đã phân lập và xác định độc tố ruột của
các chủng E.coli gây bệnh tiêu chảy cho lợn con. Tác giả cho rằng các chủng
K88 sinh độc tố ruột LT và ST, K99 và 987P sinh độc tố ruột ST, độc tố ruột
ST trở nên rất độc khi sức đề kháng của vật chủ giảm, gây tiêu chảy cho lợn
con đang bú mẹ, phổ biến ở 1 đến 2 tuần tuổi.
39
Theo Trương Lăng (2000) [11], cho biết bệnh ỉa phân trắng lợn con là
hội chứng lâm sàng phức tạp, đặc điểm là viêm dạ dày ruột, ỉa phân trắng và
gầy sút nhanh. Ở nước ta lợn mắc bệnh phân trắng lợn con là phổ biến, trong
các cơ sở chăn nuôi tỷ lệ mắc bệnh từ 25% - 100%.
Nguyễn Văn Vượng (1963) [21], đã dùng các nguyên tố vi lượng như
sunfat sắt hoặc phối hợp sunfat sắt và sunfat đồng có tác dụng chữa bệnh và
tăng trọng cho đàn lợn con.
Lê Văn Năm và cs (1996) [13], cho rằng bệnh ỉa phân trắng lợn con
chủ yếu là do vi khuẩn E.coli gây ra. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân
khác như chuồng trại bẩn, ít sữa đầu, chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái chửa
không đúng kĩ thuật.
Đặng Xuân Bình và Trần Thị Hạnh (2001) [2], công bố lợn con theo
mẹ đều phân lập được E.coli và Cl.perfigens ở hầu hết các cơ quan phủ tạng,
trong đó sự có mặt của E.coli luôn chiếm một tỷ lệ cao và rất phổ biến, vi
khuẩn yếm khí Cl.perfingens chỉ được phát hiện ở gan, và ruột non với một tỷ
lệ khá cao. Khi sử dụng các sinh phẩm E.coli-sữa, Cl.perfrigfens-toxoit trong
quy trình phòng bệnh tiêu chảy cho lợn con, kết quả thu được bước đầu cho
thấy tác dụng và hiệu quả khá rõ rệt: đã giảm được số lợn con bị mắc bệnh
(28,12% so với 55,5%), số ngày điều trị cho mỗi lợn bệnh cũng rút ngắn từ 3
ngày xuống còn 1,8 ngày và khống chế được tỷ lệ lợn con chết do bị tiêu chảy
(7,4% so với đối chứng). Ngoài ra, các sinh phẩm còn cho thấy hiệu quả kinh
tế khi khối lượng bình quân lúc cai sữa của lợn con được nâng lên 0,46 kg/con
và 1,37 kg/con so với đối chứng.
Phạm Khắc Hiếu và cs (1996) [8], đã nghiên cứu tình hình kháng thuốc
của vi khuẩn E.coli phân lập từ lợn con ỉa phân trắng và kiểm tra một số yếu
tố ảnh hưởng đến tính mẫn cảm, kháng thuốc của E.coli phân lập từ lợn con ỉa
phân trắng.
40
Theo tác giả Đặng Xuân Bình (2001) [1], đã xác định vai trò của vi khuẩn
E.coli và Clostridium perfingens đối với bệnh ỉa phân trắng của lợn con trong giai đoạn
1 - 35 ngày tuổi và bước đầu nghiên cứu, chế tạo một số sinh phẩm phòng bệnh.
Theo Phạm Sĩ Lăng và cs (1997) [10], bệnh ỉa phân trắng lợn con
(Colibacillosis) là một hội chứng hoặc một trạng thái lâm sàng đa dạng, đặc
điểm là viêm dạ dày - ruột, ỉa phân trắng và gầy sút nhanh. Tác nhân chủ yếu
ở lợn con là E.coli và Salmonella (Sal.cholerasuis) và đóng vai trò phụ là
Proteus, Streptococcus. Bệnh xuất hiện vào những ngày đầu sau khi sinh và
trong suất thời kì bú sữa mẹ.
Nguyễn Như Thanh và cs. (2001) [18], qua nghiên cứu cho rằng tỷ lệ
nhiễm vi khuẩn môi sinh trong các trại chăn nuôi tập trung cao và có liên
quan đến tình hình dịch bệnh của đàn lợn. Trong đó E.coli có tỷ lệ nhiễm từ
28,5% đến 44,1%, Staphylococcusspp từ 29,8% đến 38,9%, Streptococcus
spp từ 24,3% đến 41,3%, giảm xuống khi cơ sở chăn nuôi được cải tạo
chuồng trại và nguồn nước cấp dựng nhanh chóng các đáp ứng miễn dịch của
cơ thể. Sau 20 ngày lượng sữa mẹ giảm dần trong khi nhu cầu của lợn con tăng
lên. Vì vậy, lợn con rất dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Để khắc phục tình
trạng này cần tập cho lợn con tập ăn sớm để bổ sung thêm chất dinh dưỡng, có
tác dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và men tiêu hóa, sự phát
triển của dạ dày và ruột để đáp ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
Theo Đào Trọng Đạt (1996) [5], bệnh lợn con ỉa phân trắng là một hội
chứng của gia súc non, chủ yếu do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân bên
ngoài như: sự thay đổi đột ngột về thời tiết, thức ăn của lợn mẹ kém phẩm
chất hoặc bị thay đổi đột ngột, chuồng trại ẩm ướt, lạnh, tác động vào cơ thể
lợn con gây rối loạn thần kinh dẫn tới rối loạn tiêu hóa. Ở nước ta tỷ lệ mắc
bệnh lợn con phân trắng rất phổ biến. Trong các cơ sở chăn nuôi tỷ lệ mắc
bệnh từ 25 - 100%, tỷ lệ tử vong đến 70%. Bệnh xảy ra quanh năm nhiều nhất
và vào cuối đông sang xuân, cuối xuân sang hè.
41
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
3.1. Đối tượng theo dõi
Đối tượng tiến hành: lợn con theo mẹ từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm tiến hành: trại chăn nuôi lợn của Nguyễn Thanh Lịch Xã Ba
Trại-Huyện Ba Vì-Thành phố Hà Nội
- Thời gian tiến hành: từ ngày 20/11/2018 đến ngày 23/05/2019.
3.3. Nội dung tiến hành
- Đánh giá tình hình chăn nuôi của trại
- Thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại cơ sở
- Tham gia các công tác thú y khác như: thiến lợn đực, đỡ lợn đẻ…
- Tham gia các công tác nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn
3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi
- Cơ cấu đàn lợn tại trong ba năm gần đây
- Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại
- Số lượng tiêm vắc xin phòng bệnh
- Số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh
- Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh
- Số lượng lợn con và lợn nái được can thiệp thủ thuật
- Khối lượng công việc nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn
3.4.2. Phương pháp thực hiện
3.4.2.1. Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại
Để đánh giá được tình hình chăn nuôi của trại tôi đã tìm hiểu thông tin
từ các bộ kỹ thuật và công nhân làm tại trại
42
3.4.2.2. Quy trình vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày
Công tác vệ sinh trong chăn nuôi là một trong những khâu rất quan
trọng quyết định đến sự thành bại trong chăn nuôi. Nếu công tác vệ sinh được
thực hiện tốt thì số lượng lợn ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi
phí thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn và ngược lại. Do
nhận thức rõ được điều này, nên trong suốt thời gian thực tập, em đã thực hiện
tốt các công việc như:
* Làm hàng ngày
- Sáng sớm
Khi vào chuồng vệ sinh các máng ăn, vét sạch tất cả thức ăn thừa.
+ Kiểm tra và tắt bóng điện trong chuồng.
+ Cho lợn ăn theo khẩu phần
+ Tháo cống thoát nước và vệ sinh chuồng nuôi.
+ Kiểm tra hệ thống điện, quạt, dàn mát và sử dụng tiết kiệm, hợp lý,
hiệu quả các thiết bị trong chuồng và điều chỉnh nhiệt độ trong chuồng
thích hợp là 28°C.
+ Rắc vôi và quét dọn đường hành lang.
- Chiều
+ Kiểm tra nhiệt độ trong chuồng.
+ Quét chuồng.
+ Vệ sinh máng ăn, cho lợn ăn.
Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ và được tiêu độc bằng thuốc sát
trùng Ommicide 2 lần/ngày, pha với tỷ lệ 1/3.200 lít nước sát trùng trong
chuồng, pha tỷ lệ 1/400 lít để nhúng chân, phun xe, ngâm quần áo.
3.4.2.3. Phương pháp xác định tình hình nhiễm, áp dụng và đánh giá hiệu quả
quy trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại
43
Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, tiến hành theo dõi hàng
ngày thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Bằng mắt thường đánh giá
qua biểu hiện lâm sàng như trạng thái cơ thể, tình trạng sức khỏe lợn, khả
năng vận động,...
3.5. Phương pháp xử lý số liệu
3.5.1. Một số công thức để tính các chỉ tiêu
Tổng số con mắc bệnh
Tỷ lệ mắc bệnh (%) = x 100
Tổng số con theo dõi
Tổng số con khỏi bệnh
x 100 Tỷ lệ khỏi bệnh (%) =
Tổng số con điều trị
Tổng thời gian điều trị từng con lần 1
Thời gian điều trị lần 1 (ngày) =
Tổng số con điều trị lần 1
Tổng số con tái phát
Tỷ lệ tái phát (%) = x 100
Tổng số con khỏi bệnh lần 1
Tổng thời gian điều trị từng con lần 2
Thời gian điều trị lần 2 (ngày) =
Tổng số con điều trị lần 2
Tổng số con chết
Tỷ lệ chết (%) = x 100
Tổng số con mắc bệnh
3.5.2. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập từ thí nghiệm được xử lý theo phương pháp thống kê
của Nguyễn Văn Thiện và cs (2002) [19] và phương pháp nghiên cứu dịch tễ học
của Nguyễn Như Thanh và cs [18]
44
Phần 4
KẾT QUẢ THEO DÕI VÀ THỰC HIỆN
4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại
Hiện nay trung bình mỗi lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,5
lứa/năm, số con sơ sinh là 11,23 con/đàn, số con cai sữa: 9,86 con/đàn. Trại
hoạt động vào mức khá theo đánh giá của trại. Tại trại, lợn con theo mẹ được
nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 21 ngày thì tiến hành cai sữa.
Cơ cấu của lợn nái trong 3 năm gần đây:
Qua điều tra số liệu sổ sách theo dõi của trại thì cơ cấu đàn lợn nái của
trại 3 năm gần đây tính đến tháng 11 năm 2017 được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nguyễn Thanh Lịch Xã Ba
Trại- Huyện Ba Vì- Thành phố Hà Nội
STT Loại lợn 2017 2018 Tháng 05/2019
1 Lợn đực giống 21 21 19
2 Lợn nái sinh sản 1.268 1.123 1.058
3 Lợn hậu bị 120 162 105
4 Lợn con 29.164 32.565 17.050
Tính chung 30.573 33.871 18.232
Qua bảng 4.1 cho thấy: Cơ cấu đàn lợn của trại tính đến tháng 11 năm
2017 gồm có 30.573 con trong đó có 21 lợn đực giống, 1.268 lợn nái sinh sản,
29.164 lợn con và 120 lợn hậu bị. Số lợn đực chiếm số lượng ít nhất trong cơ
cấu đàn của trại. Số lợn con theo mẹ chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong đàn. Số
lượng lợn có xu huớng phát triển theo hướng ổn định từ năm 2017 đến 2018,
song lại có xu hướng giảm cho đến tháng 05/2019 lý do là trại không nhập
thêm lợn giống và hàng tháng vẫn có sự loại thải những lợn nái sinh sản kém,
nái già, đực già không đủ tiêu chuẩn để làm giống.
45
4.2. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh tại trại
Kết quả phòng, trị bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vaccine
Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực
hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra
trong cơ thể chúng một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi
khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong hơn 6 tháng thực tập tại trại, tôi
đã được tham gia vào quy trình phòng bệnh cho đàn lợn con và lợn nái tại trại
và sau đây là kết quả của quy trình phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn
lợn tại trại được trình bày qua bảng 4.2:
Bảng 4.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại trong thời gian thực tập
Loại lợn Tiêm vắc xin phòng bệnh
số lượng con phải tiêm (con) Số lượng lợn con làm được (con) Tỷ lệ an toàn (%)
Tiêm Nova-Fe+B12 1230 1230 100 Đối với phòng bệnh thiếu máu
đàn lợn Cầu trùng (cho uống) 1230 1230 100
con Hội chứng còi cọc 1230 1230 100
Đối với Khô thai 20 20 100
đàn lợn Dịch tả 20 20 100
nái Giả dại 20 20 100
Qua bảng 4.2 cho thấy: Công tác phòng bệnh cho đàn lợn con và lợn
nái bằng thuốc và vắc xin của trại. Lợn con từ 1- 3 ngày tuổi sẽ được tiêm chế
phẩm Nova-Fe+B12 để phòng bệnh thiếu máu ở lợn con, đồng thời tăng sức
đề kháng cho lợn con và 100% số lợn con ở trại đều phải được tiêm sắt. Trong
6 tháng tôi đã tiêm Nova-Fe+B12, cho uống cầu trùng, tiêm hội chứng còi cọc
được 1230 con lợn con (đạt tỷ lệ là 100%).
46
Ngoài tiêm phòng cho đàn lợn con tôi còn được tham gia vào việc tiêm
phòng cho đàn lợn nái tại trại. Do kinh nghiệm, kỹ thuật chưa có nhiều nên tôi
không được trực tiếp tiêm vắc xin phòng bệnh cho đàn lợn nái mà chỉ được
gián tiếp tham gia. Chính vì vậy tỷ lệ thực hiện tiêm phòng vắc xin cho đàn
lợn nái còn thấp hơn so với việc tiêm phòng cho đàn lợn con.
Bảng 4.3. Kết quả điều trị cho đàn lợn tại trại
Số con Số con Số con Tỷ lệ Điều trị Tỷ lệ Loại lợn theo dõi mắc khỏi khỏi bệnh mắc (%) (con) (con) (con) (%)
Viêm tử 120 35 29,17 35 100 Cung Đối với đàn
Viêm vú 120 8 6,67 8 100 lợn nái
Viêm khớp 120 6 5,00 6 100
Phân trắng 1356 314 23,16 302 96,18 lợn con
Đối với đàn Hội chứng 1356 403 29,72 388 96,28 lợn con tiêu chảy
Qua bảng 4.3: Cho thấy lợn con theo mẹ thường hay mắc ba bệnh phổ
Viêm phổi 1356 85 6,27 71 83,53
biến, trong đó bệnh về đường tiêu hóa là nhiều với phân trắng lợn con có 314
con mắc (chiếm tỷ lệ 23,16%), hội chứng tiêu chảy là 403 con (chiếm tỷ lệ là
29,72%), bệnh viêm phổi là thấp nhất với 85 con mắc (chếm tỷ lệ 6,27%).
Nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng
của các yếu tố bên ngoài như vi sinh vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi
không thích hợp (lạnh quá hay nóng quá). Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế
47
lợn con mắc bệnh tiêu chảy là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ
ấm cơ thể cho lợn con.
Bên cạnh đó, việc thời tiết lạnh mà lợn con không được giữ ấm sẽ khiến
lợn mắc một số bệnh về đường hô hấp ngoài ra còn do quá trình vệ sinh
chuồng nuôi chưa được tốt, không khí trong chuồng nuôi nhiều bụi bẩn, thức
ăn quá khô hoặc bị mốc sinh nhiều bụi cũng dẫn tới bệnh về đường hô hấp
chính vì vậy làm cho số lợn con mắc hội chứng hô hấp cũng khá cao.
Vì vậy, việc giữ ấm cho lợn con trong những ngày thời tiết lạnh giá là
điều rất cần thiết, bên cạnh đó còn phải cung cấp thức ăn đảm bảo cả số lượng
và chất lượng và nước uống đầy đủ.
4.3. Kết quả thực hiện biện các công tác khác
Trong thời gian thực tập ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn và tiến
hành chuyên đề nghiên cứu khoa học, tôi còn tham gia các công tác như sau:
- Làm công tác xuất lợn.
- Làm cỏ, rắc vôi xung quanh chuồng trại, phun sát trùng chuồng trại.
- Trực và đỡ đẻ cho lợn.
- Cắt đuôi.
- Tiêm sắt cho lợn con.
- Thiến lợn.
- Mổ héc-ni.
- Truyền nước sinh lý.
Kết quả công tác phục vụ sản xuất được trình bày ở bảng 4.4
48
Bảng 4.4. Kết quả thực hiện các công tác khác
Kết quả (an toàn) Số lượng con STT Công việc Đã thực hiện Tỷ lệ (con) được (con) (%)
1 Đỡ lợn đẻ, cắt đuôi 2250 2250 100
2 Thiến lợn đực 423 423 100
3 Xuất bán lợn con 1240 1240 100
4 Tiêm sắt cho lợn con 1230 1230 100
5 Bấm số tai 1230 1230 100
6 Truyền nước sinh lý 25 25 100
7 Mổ héc-ni 7 7 100
Qua bảng 4.4 cho thấy: Trong hơn 6 tháng thực tập tôi thực hiện các
công việc về phẫu thuật và thủ thuật trên đàn lợn con là không đồng đều.
Công việc đỡ đẻ là được thực hiện nhiều nhất với số con đỡ được là 2250 con
(đạt tỷ lệ an toàn 100%). Vì lợn con sau khi sinh cần phải mài nanh luôn nếu
không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú cũng như tránh việc lợn con cắn
nhau. Thực hiện truyền nước sinh lý cho nái sau khi đẻ mệt mỏi bỏ ăn hoặc ăn
ít truyền 1 lít dung dịch glucoza 5% cho 25 con. Qua những công việc trên đã
giúp tôi học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc lợn con cũng
như nâng cao tay nghề về các thao tác kỹ thuật trên lợn con, đồng thời giúp tôi
mạnh dạn hơn, tự tin hơn vào khả năng của mình, hoàn thành tốt công việc
được giao.
4.4. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh phân trắng lợn con
4.4.1. Tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng theo các tháng trong năm.
Chúng tôi cũng đã tiến hành theo dõi tình hình nhiễm bệnh phân trắng
theo các tháng trong năm. Kết quả thu được trình bày tại bảng 4.5:
49
Bảng 4.5. Tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng qua các tháng theo dõi
Số lợn Số lợn Tỷ lệ Số lợn Tỷ lệ chết Tháng Theo dõi mắc bệnh mắc bệnh chết (con) (%) (con) (con) (%)
01 / 2019 342 78 22,81 3 3,85
02 / 2019 320 70 21,88 2 2,86
03 / 2019 362 83 22,93 3 3,61
04 / 2019 332 83 25,0 4 4,82
Tính chung 1356 314 23,16 12 3,79
Qua bảng 4.5 cho thấy, tỷ lệ nhiễm bệnh phân trắng lợn con là khá cao
ở các tháng nhưng không đồng đều. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là tháng 4 (25,0%)
và tháng 1 (22,81%) tháng 2 (21,88%) tháng 3 (22,93%). Nguyên nhân chính
gây hiện tượng này là do tháng 4 là mùa mưa nên ẩm độ cao trên 80% là điều
kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển đồng thời làm giảm sức đề kháng của
lợn con dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh cao. Từ đó, ta thấy nhiệt độ và ẩm độ không
khí có ảnh hưởng rất rõ tới tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con.
Theo Sử An Ninh (1993) [15], độ ẩm là nguyên nhân hàng đầu gây nên
bệnh phân trắng lợn con. Vì vậy, để giảm tỷ lệ mắc bệnh phân trắng thì ngoài
khâu vệ sinh phòng bệnh cần phải chú ý đến tiểu khí hậu chuồng nuôi và khẩu
phần thức ăn trong chăn nuôi lợn nái, sao cho chuồng nuôi luôn có nhiệt độ và
ẩm độ tối ưu nhất cho sự phát triển nhất cho lợn con nhưng bất lợi cho sự phát
triển của mầm bệnh.
Để hạn chế những điều này thì phải có biện pháp hạn chế tác động của
thời tiết cũng như sự thay đổi thời tiết có thể ảnh hưởng tới lợn con như: cải tạo
hệ thống chuồng nuôi, tạo thông thoáng về mùa hè, làm mát bằng hệ thống
dàn mát, quạt thông gió. Mùa Đông sử dụng đèn hồng ngoại để sưởi ấm cho
50
lợn con, che chắn cho chuồng nuôi, che bạt khi trời mưa, đổi gió hay tăng
thêm đèn sưởi vào những ngày gió rét tăng cường. Cung cấp đủ dinh dưỡng
cho lợn mẹ để đủ sữa nuôi con.
4.4.2. Kết quả lợn con mắc bệnh phân trắng theo lứa tuổi
Lợn con ở mỗi giai đoạn sinh trưởng phát dục khác nhau, thì có sức đề
kháng cũng như chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố gây bệnh khác nhau nhau. Do
vậy để thấy rõ tác động bởi các yếu tố ở các giai đoạn khác nhau đến khả
năng cảm nhiễm bệnh của lợn con, em tiến hành theo dõi 1356 lợn con từ sơ
sinh đến 21 ngày tuổi. Kết quả theo dõi được trình bày ở bảng 4.6
Bảng 4.6. Tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con theo lứa tuổi
Mắc bệnh Chết
Tuổi lợn (ngày) Số lợn theo dõi(con) Tỷ lệ mắc (%) Tỷ lệ chết (%)
Số con mắc (con) 101 21,58 Số con chết (con) 4 3,96 468 SS-7
116 25,44 5 4,31 456 8-14
97 22,45 3 3,09 432 15-21
314 23,16 12 3.79 Tính chung 1356
Qua bảng 4.6 cho thấy: Giai đoạn SS - 7 ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh là
21,58%. Ở giai đoạn này do hàm lượng kháng thể trong sữa đầu rất cao, lợn
con sau khi sinh ra được bú sữa đầu nên đã có miễn dịch tiếp thu bị động,
chống lại các tác nhân bất lợi từ môi trường, hơn nữa hàm lượng sát được bổ
sung qua việc tiêm sắt định kỳ đã đáp ứng cho sự phát triển trong tuần tuổi
đầu. Lợn con lứa tuổi này chủ yếu mẫn cảm với những tác nhân nhất là nhiệt
độ và độ ẩm.
- Giai đoạn 8 - 14 ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở giai đoạn < 8
ngày tuổi (25,44%), tỷ lệ chết là (4,31%). Trong giai đoạn này lợn con mắc
bệnh ở mức độ nặng hơn. Từ độ tuổi này trở đi tốc độ sinh trưởng và phát dục
51
của lợn con tăng một cách đột ngột. Do vậy, nhu cầu về sắt và các chất dinh
dưỡng của lợn con tăng cao. Mặc dù ở độ tuổi này lợn con đã được tiêm bổ
sung sắt và các chất dinh dưỡng có trong sữa mẹ nhưng cũng chỉ giải quyết
được phần nào nhu cầu của cơ thể. Nên lợn thường lâm vào tình trạng thiếu
sắt gây thiếu máu. Đồng thời, do thiếu hụt chất dinh dưỡng do lợn con bắt đầu
tập ăn, lượng sữa cung cấp từ lợn mẹ không đáp ứng dù nhu cầu cho cả đàn
nhất là những con bú sữa ở hàng vú dưới rất dễ bị mắc bệnh. Trong giai đoạn
này, lợn con bắt đầu tập ăn thức ăn tinh, khác hẳn với sữa mẹ nên có thể gây
rối loạn tiêu hóa. Những nguyên nhân trên dẫn đến sức đề kháng của lợn con
lứa tuổi này bị giảm sút, đồng thời với sự tác động bất lợi của môi trường làm
cho tỷ lệ mắc bệnh lứa tuổi này là cao nhất.
- Giai đoạn 15 - 21 ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh lại thấp hơn so với giai
đoạn 8 - 14 ngày tuổi (22,45%). Ở giai đoạn này tỷ lệ mắc bệnh thấp nhưng
thường mắc bệnh rất nặng hay lợn con điều trị từ những giai đoạn trước chưa
khỏi hoặc tái phát lại nên kết quả điều trị không cao, dẫn đến tỷ lệ chết tăng
(20%). Trong giai đoạn này cơ thể lợn đã dần làm quen với thức ăn, bù đắp
được một phần thức nhỏ chất dinh dưỡng cho cơ thể, khả năng thích ứng với
môi trường cũng tăng lên đáng kể. Do đó có tỷ lệ mắc thấp hơn giai đoạn 8 -
14 ngày tuổi.
4.4.3. Kết quả triệu chứng và bệnh tích của lợn con mắc bệnh phân trắng
lợn con
Để phục vụ cho công tác chẩn đoán bệnh thì đánh giá biểu hiện triệu
chứng và mổ khám bệnh tích là công tác vô cùng hữu ích, giúp cho việc phát
hiện bệnh sớm hơn, có hướng điều trị một cách kịp thời và hiệu quả. Kết quả
của việc tiến hành được thể hiện qua bảng 4.7 và 4.8.
52
Bảng 4.7. Triệu chứng lợn con mắc bệnh phân trắng
Triệu chứng Số lợn mắc bệnh (con) Tỷ lệ (%)
Thân nhiệt thay đổi Số lợn có biểu hiện (con) 256 81,53
Mệt mỏi, ủ rũ, lười vận động 226 71,97
Giảm ăn, bỏ ăn Thở nhanh, thở yếu 179 120 57,01 38,22
314
Hậu môn dính bết phân Phân loãng, tanh khắm, trắng Niêm mạc nhợt nhạt, khô 262 314 237 83,44 100 75,48
Lông xù Sút cân 270 229 85,99 72,93
Số liệu thu được từ bảng 4.8, cho ta thấy, triệu chứng của bệnh phân
trắng khá đa dạng, nhưng tập trung vào một số triệu chứng chủ yếu như: tiêu
chảy phân lỏng, hậu môn dính bết phân, phân màu trắng, vàng, xanh nhạt màu
hạt đậu, có lẫn bọt khí, đôi khi có mùi thối khắm, hôi tanh đặc trưng, 2 chân
sau chụm lại là những triệu chứng điển hình của bệnh để dựa vào đó phân biệt
với các bệnh khác. Ngoài ra còn có biểu hiện như: Lợn con mệt mỏi, ủ rũ,
lười vận động, giảm ăn, bỏ ăn, lông xù, sút cân, đi đứng siêu vẹo, thở nhanh,
thở yếu, hõm mắt lõm sâu.
Bảng 4.8. Bệnh tích lợn con mắc bệnh phân trắng
Bệnh tích Tỷ lệ (%) Số lợn mổ khám (con) Số lợn có biểu hiện (con)
10 83,33 Dạ dày giãn rộng, đường bề cong lớn xuất huyết
12 7 58,33
12 100 Niêm mạc dạ dày phủ đầy dịch nhày Dạ dày chứa đầy sữa đông vón không tiêu
53
Ngoài việc thông qua biểu hiện triệu chứng để chẩn đoán lợn có mắc
bệnh phân trắng hay không, thì ta có thể dựa vào mổ khám để kiểm tra bệnh
tích, xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Chúng tôi đã tiến hành mổ khám một
số lợn con chết do mắc phân trắng và thu được kết quả tại bảng 4.8:
Kết quả bảng 4.8, cho thấy: bệnh phân trắng lợn con cũng như các bệnh
khác, nó để lại bệnh tích trên cơ thể con vật, sau khi tiến hành mổ khám ta dễ
dàng quan sát được một số bệnh tích điển hình như: xác lợn chết gầy, hóp
bụng, dạ dày giãn rộng, đường bề cong lớn xuất huyết; niêm mạc dạ dày phủ
đầy dịch nhày, dạ dày chứa đầy hơi, chứa sữa chưa tiêu hóa, mùi khó ngửi.
Ruột rỗng, chứa đầy hơi, niêm mạc ruột già bị tổn thương rất rõ. Gan nhão,
hơi sưng, túi mật sưng, xuất huyết, dịch mật biến đổi màu. Phổi ứ máu, cơ tim
nhão, lách không sưng nhưng bị teo.
Qua đó ta thấy rằng bệnh phân trắng lợn con do vi khuẩn E. coli gây
nên tấn công mạnh vào cơ quan tiêu hóa. Đây là cơ sở phục vụ cho công tác
phòng và điều trị.
4.4.4. Kết quả điều trị bệnh phân trắng lợn con tại cơ sở thực tập
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc dùng để điều trị bệnh
phân trắng lợn con, mỗi loại thuốc đều mang lại hiệu quả khác nhau. Trong
thời gian tiến hành thực tập tại trang trại, trại có sử dụng 2 loại thuốc đó là
amlistin và nova amcoli. Tôi trực tiếp điều trị và tiến hành theo dõi trên 314
con lợn mắc bệnh. Kết quả điều trị được thể hiện ở bảng 4.9:
54
Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh phân trắng lợn con tại trại
Kết quả điều trị
Loại Tỷ lệ Thời gian Số lợn được Số lợn khỏi thuốc, Liều lượng và khỏi điều trị điều trị bệnh hóa dược cách dung bệnh (ngày) (con) (con) (%)
Amlistin Tiêm bắp thịt: 3-5 157 153 97,45 1ml/5-7kg/TT
Nova Tiêm bắp thịt: 3-5 157 149 94,90 amcoli 1ml/5-7kg/TT
Kết quả bảng 4.9 cho thấy, cả hai loại thuốc dùng để điều trị bệnh phân
trắng lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại đều cho kết quả điều trị tốt.
Tuy nhiên hiệu quả điều trị ở mỗi thuốc là khác nhau: với điều trị nova amcoli
thì tỷ lệ khỏi bệnh là 94,90% và thời gian điều trị trung bình là 3 - 5 ngày.
Dùng amlistin điều trị trên 157 con lợn con tỷ lệ khỏi bệnh là 97,45% và thời
gian điều trị trung bình là 3 - 5 ngày. .
Từ các kết quả điều trị của 2 loại thuốc, ta nhận thấy sử dụng 2 loại
thuốc, thuốc 1 (amlistin) có tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn thuốc 2 (nova amlistin).
Điều này được thể hiện qua tỷ lệ khỏi bệnh.
55
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng, trị bệnh trên đàn lợn
nái sinh sản và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch – Xã Ba Trại –
Huyện Ba Vì- Thành phố Hà Nội, tôi đã rút ra một số kết luận sau:
- Áp dụng quy trình phòng và trị bệnh phân trắng lợn con góp phần nâng
cao hiệu quả chăn nuôi, hạn chế tình trạng bệnh của lợn nuôi tại cơ sở. Tỷ lệ
tiêm phòng vaccine dịch tả và cầu trùng cho lợn con vaccine dịch tả, lở mồm
long móng, giả dại và khô thai đều đạt 100%. Bệnh viêm vú khỏi 6 con đạt
100%, phân trắng lợn con có: 314 con mắc và số con khỏi 302 con đạt 96,18%.
- Các công tác: Đỡ lợn đẻ, xuất lợn con, tiêm sắt, thiến lợn đực, cắt
đuôi, bấm số tai, truyền nước sinh lý đạt tỷ lệ 100%.
- Số con theo dõi 1356, số con mắc bệnh phân trắng lợn con là
314/1356 với tỷ lệ 23,16%. Tháng 4 có tỷ lệ mắc phân trắng lợn con cao nhất
là 25,00% do tháng 4 là mùa mưa nên ẩm độ cao dẫn tới tỷ lệ lợn con mắc
bệnh phân trắng cao. Tỷ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con tháng 1 (22,81%). Tỷ
lệ lợn con mắc bệnh phân trắng lợn con cao nhất ở giai đoạn 8-14 ngày
tuổi với tỷ lệ chết là 4,31%, do ở giai đoạn này nhu cầu về sắt và các chất
dinh dưỡng của lợn con tăng cao.
- Các triệu chứng lâm sàng điển hình ở lợn con mắc bệnh phân trắng:
Thân nhiệt thay đổi (81,53%), lông xù (85,99%), mệt mỏi ủ rũ lười vận động
(71,97%) và phân loãng, tanh khắm, trắng (100%) thở nhanh thở yếu (38,22%).
- Bệnh tích lợn con chết do mắc bệnh: Dạ dày dãn rộng, đường bề cong
lớn xuất huyết với tỷ lệ 83,33%. Dạ dày chữa đầy sữa đông vón không đông
với tỷ lệ là 100%.
56
Lợn con được điều trị bằng Nova-amcoli có tỷ lệ khỏi đạt 94,90% còn
điều trị bằng amlistin có tỷ lệ khỏi là 97,45%. Qua kết quả điều trị ta nên sử
dụng thuốc amlistin để điều trị bệnh.
- Do điều kiện và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn hạn chế, phạm
vi áp dụng chưa được rộng, số liệu lặp lại chưa nhiều lần và làm ở các mùa
thời tiết khác nhau nên kết quả nghiên cứu chưa thể phản ánh được toàn diện.
Bản thân mới lần đầu làm công tác nghiên cứu khoa học nên còn nhiều hạn
chế trong công tác thu thập số liệu cũng như phương pháp nghiên cứu.
Trại chưa có đầy đủ trang thiết bị và hoạt động với tính chất và mục
đích sản xuất kinh doanh nên còn hạn chế trong quá trình thực hiện đề tài.
5.2. Đề nghị
Kết thúc đợt thực tập tại trại tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
năng suất chăn nuôi cũng như giảm tỷ lệ mắc bệnh phân trắng trên lợn con theo
mẹ như sau:
- Công tác vệ sinh thú y cần được nâng cao hơn nữa, đăc biệt nâng cao
tinh thần trách nhiệm của công nhân và sinh viên thực tập trong việc vệ sinh
chuồng trại và chăm sóc cho lợn mẹ cũng như lợn con.
- Cần có kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn
con nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất.
- Cần tập cho lợn con ăn sớm đăc biệt là trong chăn nuôi tập trung.
- Nên sử dụng amlistin cho lợn con mắc bệnh phân trắng với liều lượng
1ml/5 - 7kg thể trọng nhằm điều trị kịp thời, giảm chi phí thuốc thú y.
57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu trong nước
1. Đặng Xuân Bình (2001), “Xác định vai trò của vi khuẩn E. coli và
Cl.perfringens đối với bệnh tiêu chảy ở lợn con”, Khoa học và Kĩ thuật
Thú y, tập VIII (số 3) tr 19 -23.
2. Đặng Xuân Bình, Trần Thị Hạnh (2001), “Phân lập, định typ, lựa
chọnnhững vi khuẩn E.coli, Cl.perfigens để chế tạo sinh phẩm phòng
bệnh cho lợn giai đoạn theo mẹ”, Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú y.
3. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli
trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện
pháp phòng trị, Luận án thạc sỹ khoa học Nông nghiệp
4. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng (1986), Bệnh gia súc non, tập 2, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội Tr 30 - 36.
5. Đào Trọng Đạt (1996), “Nguyên nhân và biện pháp điều trị lợn con ỉa phân
trắng”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli,
Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình
phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp.
7. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (2001), Giáo trình thức
ăn và dinh dưỡng gia súc gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Phạm Khắc Hiếu, Bùi Thị Tho (1996), “Kiểm tra một số ảnh hưởng đến tính
mẫn cảm và tính kháng thuốc của E.coli phân lập từ bệnh lợn con phân
trắng”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y, tập 3, (số 4). tr 57 - 62.
9. Lý Thị Liên Khai (2001), “Phân lập xác định độc tố đường ruột của chủng
E.coli gây bệnh tiêu chảy ở lợn”, Tạp chí khoa học (số 2).
10.Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Duy (1997), Bệnh phổ biến ở
lợn và biện pháp điều trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
58
11. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh ở lợn, Nxb Đà Nẵng.
Đà Nẵng
12. Trương Lăng (2007), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
13. Lê Văn Năm, Trần Thanh Bình, Nguyễn Thị Hương (1996), Hướng dẫn
phòng và trị bệnh cho lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Ngọc Nhiên, Cù Hữu Phú (1998), “Kết quả điều
tra tình hình nhiễm vi khuẩn đường ruột tại một số cơ sở chăn nuôi lợn”,
Kết quả nghiên cứu Khoa học và Kĩ thuật Thú y, phần 2.
15. Sử An Ninh (1993), Các chỉ tiêu sinh lí, sinh hóa máu, nước tiểu và hình
thái đại thể một số tuyến nội tiết ở lợn mắc bệnh phân trắng, Luận án
tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
16. Nguyễn Hùng Nguyệt (2008), Một số bệnh phổ biến ở gia súc gia cầm và
biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Trần Văn Phùng, Hà Thị Hảo, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân (2004),
Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
18. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Thị Lan Hương (2001), Vi
sinh vật thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội tr 72 - 76.
19. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Giáo
trình phương pháp thí nghiệm trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
20. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Thị Băng Tâm
(1993), “Nghiên cứu chế tạo vắc xin E.coli uống phòng bệnh cho lợn
con phân trắng”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp và công nghệ thực
phẩm, số 9, tr 324 - 325.
21. Nguyễn Văn Vượng (1963), Sử dụng một số nguyên tố vi lượng trong việc
chữa bệnh phân trắng lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
59
II. Tài liệu nước ngoài
22. Akita E.M and S.Nakai (1993), “Comparison of four purification methols
for the production of immunoglobulins from eggs laid by hens
immunological methols ”, Vet 160(1993), PP.207 - 214.
23. Faibrother J.M (1992), Enteric Colibacillosis, Diseases of swin, IOWA
state universitypress/amess. IOWA. USA. &th edition.
24. Jones (1976), “Role of the K88 antigen in the pathogenic of neonatal
diarrhea caused by Eschrichia coli in piglets”, Infection and Immunity
6, PP.918 - 927.
25. Nikonski V.V (1971), Bệnh ở lợn con (Phạm Tuân, Nguyễn Đinh Trí
dịch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
26. Pensaert MB de Bouck P.A (1978), “New coronavirus - like particle
associated with diarrhea in swine ", Arch. Virol, PP 58; p 243 - 247.
27. Purvis G.M (1985),” Diseases of the animals newborn”, Vet. Rec.
28. Smith.R.A and Nagy Band Feket Pzs (1996), The transmissible nature
of the genetic factor in E.coli that controls hemolysin production, J.
Gen. Microbio, 47, PP. 153 - 161
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
Lợn con bị phân trắng Phân trắng ở lợn con
Thuốc sử dụng trong thí nghiệm
Điều trị lợn nái Điều trị lợn con
Can thiệp đẻ khó Mổ héc ni
Đỡ đẻ Thiến lợn
Chuyền nước Cắt đuôi
Rắc vôi trong chuồng Rắc vôi ngoài chuồng
Mài nanh Tiêm sắt