intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

57
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con người. Ngoài việc đi hội như một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được của người Việt Nam, thì đi hội còn là một sự khám phá về di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản văn hóa, ẩm thực,... của mỗi địa phương. Do vậy, du lịch lễ hội là một nguồn lực không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay

  1. VĂN HÓA DU LỊCH LỄ HỘI DÂN GIAN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY LÊ HỒNG LÝ* Tóm tắt Lễ hội dân gian Việt Nam với số lượng lên đến 7.039 trong tổng số gần 8.000 lễ hội, lại trải rộng khắp các làng quê, vùng miền trên cả nước cho thấy đây là một tiềm năng vô cùng to lớn cho phát triển du lịch. Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con người. Ngoài việc đi hội như một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được của người Việt Nam, thì đi hội còn là một sự khám phá về di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản văn hóa, ẩm thực,... của mỗi địa phương. Do vậy, du lịch lễ hội là một nguồn lực không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thị trường, việc biến di sản văn hóa thành một tài sản kinh tế phục vụ đời sống lại càng mang tính thời sự. Du lịch và lễ hội dân gian có quan hệ tương tác tích cực để cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế của lễ hội dân gian trong bối cảnh phát triển du lịch hiện nay như sự nhàm chán, thế tục hóa, giảm tính thiêng hay sự lộn xộn trong thực hành các lễ hội dân gian. Do vậy, để lễ hội dân gian ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển du lịch, đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi địa phương, đòi hỏi công tác nghiên cứu và quản lý cần được đề cao và chú trọng. Từ khóa: Lễ hội dân gian, du lịch, du lịch văn hóa, du lịch lễ hội, nguồn lực di sản Abstract In Vietnam, out of nearly 8,000 festivals, 7,039 are folk festivals which spread throughout the rural villages and other regions across the country, showing that this is a huge potential for tourism development. Festival tourism is a form of integrated tourism that meets many human needs at the same time. Apart from going to the festival as an indispensable spiritual demand of Vietnamese people, it is also an exploration of historical, cultural monuments, cultural and culinary specialties, ... of each locality. Therefore, festival tourism is a significant source of economic, social and cultural development for the country’s development in the current period. Especially, in the context of market economy, turning cultural heritage into an economic asset for life is even more topical. Tourism and folk festivals have a positive interaction to develop together. However, there are also some limitations of folk festivals in the context of current tourism development such as boredom, secularization, reduced sacredness or confusion in the practice of folk festivals. So in order to make folk festivals to become an important source of tourism development, bringing economic benefits to each locality, the research and management need to be respected and focused. Keywords: Folk festivals, tourism, cultural tourism, festival tourism, heritage resources 1. Với số lượng đến 7.039 [2], lễ hội dân gian lớn của lễ hội dân gian đối với việc phát triển trải rộng khắp các làng quê, vùng miền trên cả du lịch. Hơn thế, các lễ hội dân gian Việt Nam nước đã cho thấy một tiềm năng vô cùng to còn vô cùng đa dạng về loại hình lễ hội cũng như các nét đặc trưng nổi bật của mỗi lễ hội * GS.TS., Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam gắn với từng vùng miền. Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 69
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Lễ hội và du lịch luôn gắn bó chặt chẽ với dân gian ở các vùng nông thôn từ đồng bằng nhau từ trong quá khứ cho tới hiện tại. Những cho đến miền núi xa xôi, thậm chí càng xa hội làng tưng bừng thuở xưa, cho dù chưa càng thu hút du khách. Các hội làng ở khắp nơi xuất hiện thuật ngữ du lịch, đã luôn hấp dẫn được mở ra, và từ đó, rất nhiều những phong những người tham gia từ các làng khác, vùng tục tập quán, cùng các giá trị văn hóa được khác hay ít nhất cũng là những làng kết chạ khôi phục lại để phục vụ du khách xa gần. Như hay có quan hệ mật thiết với làng có lễ hội. Có vậy, ở một góc độ nào đó, du lịch đã góp phần thể nói, không có (hoặc là rất hiếm có) lễ hội phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. dân gian nào lại chỉ được tổ chức với số người Ngoài việc được đi lễ ở nhiều địa điểm khác tham dự chỉ riêng của cộng đồng ấy mà luôn nhau, được cầu khấn nhiều vị thần linh hơn, có cả những người ngoài cộng đồng. Yếu tố thì người đi lễ còn có điều kiện thăm thú nhiều hành hương, yếu tố du lịch manh nha từ đó. hơn các vùng đất mới lạ đối với họ. Từ đây, cho Hiện nay, trong xu thế phát triển nở rộ của các thấy du lịch ngày càng là một nhu cầu lớn đối lễ hội dân gian, trong bối cảnh một thế giới hội với người đi lễ. nhập, một xã hội hiện đại, các lễ hội dân gian Du lịch lễ hội hiện nay đã và đang trở ngày càng trở thành đối tượng thu hút đông thành một hiện tượng phổ biến gần gũi (với đảo khách du lịch, khách hành hương. một số thuật ngữ như “Du lịch văn hóa”, “Du Có lẽ trong tất cả các hoạt động văn hóa thì lịch tâm linh”, “Du lịch cộng đồng”, “Du lịch du lịch là hoạt động duy nhất không bao giờ trải nghiệm”…). Với con người đương đại, việc nhàm chán. Bất kể một địa danh nào đối với tham dự lễ hội, đi lễ hội như một cuộc hành du khách đều là một địa điểm khám phá hết hương tâm linh, nhất là trong bối cảnh bất an sức thú vị và luôn hấp dẫn. Nhu cầu du lịch của của đời sống công nghiệp. Nhiều nhà khoa học con người trong xã hội hiện nay rất lớn và du đã cho rằng, khi khoa học phát triển ở trình độ lịch lễ hội, du lịch văn hóa đang trở thành một cao thì tôn giáo, tín ngưỡng sẽ bị mất đi, song trong những loại hình du lịch phổ biến ở một thực tế hiện nay cho thấy, khoa học đã phát đất nước nhiều lễ hội như nước ta. Du lịch để triển rất cao, rất hiện đại nhưng tôn giáo, tín tìm hiểu đất nước, để giải trí, nghỉ ngơi, thăm ngưỡng không hề mất đi, thậm chí còn phát viếng các danh lam thắng cảnh và hiểu biết triển mạnh hơn trước. Bằng chứng ở Việt Nam thêm về các vùng văn hóa là nhu cầu của phần cũng cho thấy rất rõ điều đó, các lễ hội được đông dân chúng trong xã hội hiện nay. Với du tổ chức nhiều hơn hẳn trước đây, và người dân lịch lễ hội, người ta vừa được thực hành nghi đủ mọi tầng lớp từ trí thức đến dân nghèo ai lễ, lại vừa được thăm những cảnh đẹp, những cũng tham gia vào các lễ hội ấy. Phải chăng di tích, phong tục tập quán, được thưởng thức do cuộc sống hiện đại xuất hiện những thách và mua sắm những đặc sản địa phương, cùng thức mới, đôi khi còn khốc liệt hơn cuộc sống những trải nghiệm du lịch thú vị và lợi ích. trước đây, với những tai nạn giao thông, ngộ Khi mức sống được nâng cao, nhu cầu du độc thức ăn hàng loạt, các bệnh hiểm nghèo lịch lại càng mạnh mẽ. Nếu như trước đây, đi gia tăng, ô nhiễm môi trường, thảm họa bệnh du lịch đối với người Việt là một sự xa xỉ thì dịch lan tràn… Con người hiện đại thấy cuộc ngày nay là một việc hết sức bình thường đối sống bất an nên lại quay về với niềm tin tâm với một bộ phận đông đảo dân chúng. Ngay linh nhằm cầu cứu các đấng siêu nhiên che cả đối với người nông dân bình thường, việc chở cho cuộc sống. Như vậy, lễ hội dân gian đi hội trong vùng và xa hơn một chút cũng là vẫn đóng vai trò cân bằng đời sống tâm linh, chuyện dễ dàng. Hơn nữa, khi số ngày nghỉ an ủi con người thời hiện đại. Tham dự lễ hội, được tăng từ một đến hai ngày trong tuần, số con người còn giải tỏa được những áp lực căng ngày nghỉ lễ cũng tăng lên,... thì nhu cầu đi du thẳng của cuộc sống hiện đại với tốc độ chóng lịch trở thành một đòi hỏi ngày càng mạnh mẽ. mặt của biết bao công việc hàng ngày mà mỗi Từ đó tạo điều kiện cho việc khai thác lễ hội con người phải đối mặt, bên cạnh đó, hành 70 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  3. VĂN HÓA DU LỊCH hương tham dự lễ hội cũng giống như hình du khách một niềm tự hào và niềm vui vô tận. thức du lịch giải trí, khám phá những nét văn Mặt khác, bằng việc tham gia vào lễ hội dân hóa của một vùng đất mới, nhất là đối với giới gian, du khách có thể tìm hiểu nguồn gốc, trẻ và lễ hội cũng có thể trở thành không gian lai lịch của các vị thần, các nhân vật được thờ cho các chuyến picnic, các dịp tụ họp… cúng ở đây, để hiểu biết thêm về lịch sử địa Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, phương nơi diễn ra lễ hội, về vai trò của di tích đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con và nhân vật ấy trong bối cảnh chung của các người. Chẳng hạn một du khách chọn một lễ lễ hội và văn hóa cả nước. Điều này giúp cho hội nào đó để đi du lịch, du khách đó sẽ được sự hiểu biết của họ được tăng thêm, phong thăm viếng khu di tích - không gian tổ chức phú thêm, và trong chừng mực nào đó, lòng lễ hội, được thực hành việc cúng lễ thần linh, tự hào, tình yêu quê hương đất nước của họ được tĩnh tâm tập trung vào việc cầu khấn, càng được củng cố hơn nữa sau một chuyến mong muốn thần linh phù hộ độ trì cho mình đi du lịch lễ hội. và gia đình. Nhìn bề ngoài, hiện tượng này Đối với tất cả các lễ hội dân gian, bản thân rất bình thường, song về mặt tâm lý thì đây là nó đã là một hiện tượng văn hóa tổng hợp, một tác động rất lớn đối với cá nhân du khách. sống động, luôn biến đổi không ngừng mà Hơn thế nữa, từ việc lễ bái, xin lộc, đôi khi cả không phải là những sản phẩm tĩnh tại và xin quẻ, xin xăm, nếu gặp được quẻ hay thì thuần túy như các hiện vật bảo tàng, là những tạo cho người ấy một niềm tin mãnh liệt vào thực hành văn hóa góp phần vào đời sống của những may mắn trong tương lai, nếu gặp phải các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển kinh quẻ xấu thì tâm lý của du khách khá nặng nề tế và xã hội của các dân tộc ấy trong mọi thời và lại thúc đẩy việc tiếp tục cầu khấn. Từ đây có kỳ lịch sử. thể thấy sự tác động của thực hành tâm linh Cũng cần nhận thấy rằng, các lễ hội dân đến du khách mạnh mẽ thế nào. Ngoài việc gian ở nước ta vô cùng phong phú và có giá trị, thỏa mãn nhu cầu lễ cho bản thân và những tuy nhiên không phải lễ hội nào cũng có thể người thân, du khách còn đem về những vật trở thành sản phẩm du lịch, nhất là những sản phẩm là lộc có thể để ăn (như hoa, quả, bánh, phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Do đó, chính kẹo...), để thờ cúng trong năm (như vàng, tiền quyền hoặc người làm du lịch phải biết khai và các đồ mã khác), để sử dụng (như bùa hay thác xem lễ hội nào, hay phần nào của lễ hội, vật thiêng nào đó) cho người lớn, người ốm có thể trở thành sản phẩm của du lịch lễ hội, hay trẻ nhỏ... Điều này tạo tâm lý an tâm, thoải có như vậy mới thỏa mãn nhu cầu của khách mái và vui vẻ cho du khách. và phát huy được giá trị văn hóa của di tích, lễ Bên cạnh việc lễ bái thoả mãn tâm linh, du hội ấy. khách còn được hưởng thụ về mặt tinh thần Nhà nước cũng như chính quyền địa như tham gia vào lễ tế, rước xách, nhảy, múa, phương và cả cộng đồng chủ nhân của lễ hội trò chơi, trò diễn... Tại những sinh hoạt này, du luôn có ý thức gắn kết các lễ hội truyền thống khách được đắm mình vào không khí hội hè: vào hoạt động du lịch, dùng lễ hội dân gian cẩn trọng, thiêng liêng, từ tốn trong đám rước như một điểm nhấn thu hút khách du lịch đến hay lễ bái; vui hết mình trong những trò chơi, với địa phương mình. Ví như, lễ hội Đền Hùng cuộc đua tranh giành, hò hét, hồi hộp và cay những năm gần đây thường gắn với năm du cú thực sự đến nỗi phờ phạc, tả tơi như đi hội lịch các tỉnh phía Bắc; lễ Khao lề thế lính Hoàng là vậy; tham gia vào những cuộc ăn uống tập Sa ở Lý Sơn luôn được tổ chức gắn với năm du thể, đồ ăn có thể không ngon bằng ở những lịch biển; lễ hội Bà Chúa Xứ từ năm 2001 đến bữa tiệc mà họ được ăn ở nơi khác, song đây nay liên tục gắn với năm du lịch và gắn với các là miếng ăn nhuốm màu linh thiêng và miếng hoạt động văn hóa nghệ thuật hay hoạt động lộc (“Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc thể thao tại địa phương (hội đua bò Bảy Núi); lễ trần”) có ý nghĩa vô cùng to lớn, đem lại cho hội Bà Chúa Kho gắn với hành trình về miền di Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 71
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU sản dân ca quan họ Bắc Ninh, lễ hội Kiếp Bạc, đến hành hương và tham quan, chiếm 95% lượt Côn Sơn, Yên Tử… khách đến Châu Đốc. Tổng lượt khách đến Núi Có thể thấy rõ, du lịch và lễ hội dân gian Sam tăng khá nhanh từ năm 2007 đến năm ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau, dựa vào 2015 (tăng từ 1.345.000 lượt lên 4.078.000 nhau để phát triển và mở rộng quy mô, thu lượt), chiếm 65,2% tổng lượng khách đến An hút được nhiều khách thập phương. Không Giang. Điều đáng lưu ý là trong những năm chỉ bằng cảm nhận mà các số liệu gần đây vừa qua tốc độ tăng trưởng của số khách đến cũng đã chỉ ra điều đó. Chẳng hạn như: Tổng Núi Sam luôn đạt trên 10%/năm, trong khi tốc số lượt khách hành hương về Đền Hùng trong độ tăng tổng lượng khách đến Châu Đốc và 5 ngày lễ hội năm 2016 gấp hơn 5 lần số dân An Giang chỉ đạt khoảng 5%/năm1. Điều này tỉnh Phú Thọ, hay trong năm 2016 tám lễ hội thể hiện sức hấp dẫn của lễ hội và khu du lịch lớn của nước ta (lễ hội Đền Hùng, chùa Hương, Núi Sam. Yên Tử, đền Trần, Phủ Giày, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Nhìn vào số liệu trên có thể thấy tổng thu núi Bà Đen, Bà Chúa Xứ) đã thu hút khoảng từ khách du lịch tăng khá nhanh. Chỉ trong 5 16 triệu lượt khách [12]. Điều này cho thấy năm (từ 2011 đến 2015), tổng thu từ khách du loại hình du lịch lễ hội ngày càng là một nhu lịch đã tăng hơn 3 lần, trong khi lượng khách cầu lớn đối với người dân. Với các lễ hội như chỉ tăng 15%. Nguồn thu này chưa bao gồm Bà Chúa Kho, miếu Bà Thiên Hậu, hội Gióng,… nguồn thu từ Ban Quản trị lăng miếu Núi Sam tuy không có con số chính xác số lượng khách (bình quân 100 tỷ đồng/năm). du lịch là bao nhiêu song nhìn dòng người xe Lễ hội càng sôi nổi, phong phú và đa dạng tắc nghẽn các con đường vào các lễ hội trong lại càng trở thành nguồn lực và tài nguyên nhiều ngày, nhất là những ngày chính hội có quan trọng của du lịch. Ngược lại, du lịch cũng thể hình dung được lễ hội đã thu hút khách trở thành động lực, thậm chí mục đích cho du lịch, hành hương nhiều đến thế nào. Chỉ lấy những sự đầu tư, phục hồi và mở rộng lễ hội. một ví dụ về số lượng khách du lịch và nguồn Bởi vậy, tất cả các lễ hội dân gian có quy mô thu từ du lịch ở lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam đã lớn và phong phú đều đã và đang trở thành có thể thấy lễ hội hiện nay gắn bó với du lịch ra địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Các lễ hội sao, trở thành nguồn lực quan trọng cho phát ấy đều có những chỉ dẫn du lịch và là điểm triển du lịch thế nào. Trong mùa lễ hội năm nhấn trong các tour du lịch văn hóa chung 2016, riêng “sáng ngày 11/2/2016 (nhằm ngày hoặc tour riêng cho việc đi lễ hội. mùng 4 Tết), tại khu du lịch cấp quốc gia Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, thành phố Châu Đốc, Có thể thấy, lễ hội hấp dẫn du lịch khi mỗi tỉnh An Giang, dù mới hơn 8 giờ 30 phút sáng lễ hội ở mỗi vùng miền khác nhau lại có không nhưng dòng người xe tấp nập từ khắp nơi đổ gian văn hóa khác nhau, bối cảnh, cách thức tổ về khiến một đoạn đường dài gần 1km bị tê chức lễ hội khác nhau, nghi lễ và nét bản sắc liệt. Theo Ban Quản lý khu di tích Văn hóa lịch khác nhau. Chính sự đa dạng đó của lễ hội dân sử và du lịch Núi Sam, đơn vị đã đặt cổng thu gian trong xã hội hiện nay đã là chỗ dựa vững phí tham quan khách du lịch vào khu du lịch chắc cho du lịch phát triển. Núi Sam bắt đầu từ ngày mùng 2 Tết. Ước tổng 2. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thực hành lễ số khách đến trong hai ngày trên 100.000 lượt hội hiện nay, có thể thấy xu hướng đồng dạng khách. Trong đó, số khách thu phí đi bằng xe hóa lễ hội đang trở nên phổ biến. Điều này đã du lịch là 35.000 vé, với số tiền gần 700 triệu khiến cho lễ hội dân gian phần nào trở nên đồng” [11]. nhạt nhòa, na ná giống nhau, các lễ hội nhạt Qua các số liệu thống kê cho thấy, số lượt dần đi tính đặc trưng, do đó ảnh hưởng lớn khách đến với khu du lịch Núi Sam hàng năm đến du lịch. Nếu các lễ hội đều được tổ chức rất đông, năm sau luôn cao hơn năm trước. theo một khuôn mẫu, một trình tự, một kịch Năm 2015, Núi Sam đón 4,078 triệu lượt khách bản gần như nhau sẽ dẫn đến sự nhàm chán, 72 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  5. VĂN HÓA DU LỊCH kém hấp dẫn. Chắc chắn không có khách du chủ động của người dân trong vai trò là chủ lịch nào muốn tham dự vào tour du lịch lễ hội thể của lễ hội. Nhà nước hóa lễ hội cũng thể khi biết chắc lễ hội đó không khác gì với các lễ hiện qua việc phân cấp lễ hội. Những lễ hội cấp hội mà mình đã được biết. Khách du lịch cũng quốc gia thường xuyên có sự tham gia của các sẽ “một đi không trở lại” khi tham dự một lễ vị lãnh đạo Nhà nước và sự chỉ đạo chặt chẽ của hội không còn là lễ hội dân gian của riêng địa Nhà nước về cách thức tổ chức, khách mời và phương theo đúng nghĩa nữa mà trở nên phổ cả những hoạt động trong lễ hội đã khiến cho quát, giống nhau, ở đâu cũng vậy. lễ hội dường như là của Nhà nước. Không chỉ Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa trong vậy, “hội chứng xin nâng cấp lễ hội” cũng khiến các lễ hội hiện nay cũng đã mang tới cho lễ hội cho các địa phương có lễ hội đua nhau xin nâng những màu sắc mới, đời thường hơn và cũng cấp vì muốn lễ hội của mình phải ngang hàng giảm tính thiêng hơn. Xu hướng thế tục hóa hoặc hơn các địa phương có lễ hội khác và đã tạo ra sự đa dạng và gần gũi cho lễ hội dân được cấp nhiều kinh phí hơn, để tổ chức lễ hội gian. Nhiều người dân đi lễ hội không biết lễ to đẹp hơn. Sự ganh đua gây ra lãng phí và cả hội đó tôn vinh vị thần nào, hoặc không phải sự không đoàn kết trong cộng đồng, nguy cơ chỉ để khấn vị thần được tôn thờ, họ cứ đi và khiến cho lễ hội thiên về hình thức, đề cao sự được hòa vào không khí tâm linh, như vậy đã thể hiện của những nhóm giàu mà không còn là đủ. Đó là chưa kể nhiều người dân đi lễ hội thực chất là ngày hội của dân chúng nữa. Nhiều không vì mục đích đi lễ mà mục đích của họ lễ hội dân gian được gắn với những ngày kỷ chỉ là đi chơi, lấy lễ hội làm không gian gặp niệm lớn, những sự kiện văn hóa, chính trị tiêu gỡ, tụ họp... Nhiều người rõ ràng mục đích đi biểu, trong các diễn văn khai mạc hay kết thúc lễ nhưng họ không hiểu biết về trình tự nghi lễ hội thường gửi gắm những thông điệp chính lễ, lễ vật,... dẫn đến thực hành lễ thức tuỳ tiện, trị để giáo dục, tuyên truyền,... và chính những chẳng hạn họ có thể dâng cúng bất cứ lễ vật điều này cũng khiến cho khách du lịch giảm đi gì mà họ cho là hợp lý từ thực phẩm, thức ăn, sự hào hứng với lễ hội dân gian. đồ dùng, đồ trang điểm... Lễ vật là tiền ngày Lễ hội dân gian thường gắn chặt với với các càng trở nên phổ biến. Họ cũng có thể kêu cơ sở tín ngưỡng, vì thế cùng với sự phát triển cầu thần thánh bất cứ điều gì mà họ cảm thấy sôi nổi của lễ hội thì các cơ sở tín ngưỡng cũng cần thiết cho cuộc sống của họ, họ cầu cúng trong xu hướng được chú trọng trùng tu, tôn trong tâm lý chung là kéo thần thánh về gần tạo và xây mới, tạo ra không gian rộng rãi hơn với cuộc sống đời thường để phục vụ cho cho việc tổ chức lễ hội, song việc này cũng gây những nhu cầu cũng hết sức đời thường của nên nhiều bàn luận và mâu thuẫn. Ở một số họ. Xu hướng này cũng góp phần làm hạn đền, miếu, chùa, việc trùng tu các di tích được chế tính thiêng của lễ hội dân gian, khiến cho thực hiện tùy tiện làm mất đi giá trị vốn có của lễ hội trở nên tự do, thậm chí có phần tùy tiện, những không gian tâm linh. Nhiều di tích sơn lộn xộn, không còn đáp ứng được sự trông tượng mới lòe loẹt, thay cột gỗ bằng cột xi đợi của khách du lịch. măng, những bức chạm khắc cổ nhuốm màu Với sự nở rộ của lễ hội hiện nay, việc quản thời gian bị thay bằng những bức chạm mới,... lý được đặt ra là cần thiết, song quản lý lễ hội khiến cho các di tích cũng dần trở nên đồng theo xu hướng nhà nước hóa lại đang mang dạng, giống nhau khiến cho du khách không tới cho lễ hội dân gian rất nhiều bất cập. Ví như còn có nhu cầu khám phá nhiều di tích và lễ sự lạm dụng kịch bản trong lễ hội, sự ganh đua hội khác nhau nữa. danh tiếng, sự can thiệp quá sâu của chính 3. Như vậy, du lịch rõ ràng là đã góp phần quyền và những định hướng, chỉ đạo, hướng phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực. lễ hội nghiêng về mục đích tuyên truyền,… đã Một phần nhờ vào du lịch mà lễ hội dân gian khiến cho nhiều lễ hội phai nhạt màu sắc dân được gìn giữ, phát huy và làm giàu, các phong gian truyền thống vốn có và giảm sút quyền tục tập quán, các giá trị văn hóa trong lễ hội Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 73
  6. VĂN HÓANGHIÊN CỨU dân gian được khôi phục lại để phục vụ du 2. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và khách, các nét bản sắc văn hóa của từng lễ hội, Du lịch (2008), Thống kê lễ hội, Hà Nội. từng vùng miền được khẳng định trong niềm 3. Cao Lộ Gia (2004), Nhân loại học du lịch tự hào và người dân mong muốn bảo tồn nó. Trung Quốc, Nxb. Du lịch Quảng Tây. Ở chiều tương tác ngược lại, lễ hội dân gian 4. Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật An Giang hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của ngành (2013), 10 năm lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam nâng du lịch, trước hết lễ hội dân gian giúp cho bức cấp lễ hội quốc gia, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, An tranh du lịch của nước ta thêm phong phú với Giang. đa dạng hơn các sự lựa chọn cho du khách, lễ 5. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên) hội dân gian mang đậm bản sắc của văn hóa (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội làng, văn hóa Việt Nam vì vậy rất hấp dẫn các hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. du khách nước ngoài, ngành Du lịch dựa vào 6. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), Giáo trình nguồn lực văn hóa đa dạng và đặc sắc này mà quản lý di sản văn hóa với phát triền du lịch, Nxb. có thêm được số lượng lớn du khách trong Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. nước và nước ngoài. 7. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ Có thể nói, bức tranh lễ hội đa dạng và sôi biên) (2001), Kinh tế du lịch & Du lịch học, Nxb. Trẻ, nổi hiện nay, kết nối với những bối cảnh chính Hà Nội. trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đương đại là điều 8. Nhiều tác giả (2014), Di sản văn hóa trong kiện rất tốt cho sự phát triển du lịch. Chúng xã hội Việt Nam đương đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội. ta đã và đang chứng kiến một xu hướng nổi 9. Tô Ngọc Thanh (2003), “Di sản văn hóa trội của những sự phục hồi của lễ hội dân gian trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Nguồn sáng dân trong sự tác động, chi phối ảnh hưởng mạnh gian, số 3. mẽ của kinh tế thị trường thì lễ hội như một nguồn lực cho sự phát triển du lịch. Lễ hội và 10. Ngô Đức Thịnh (1993), “Những giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội du lịch là hai phạm trù gắn bó mật thiết với hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, nhau, hỗ trợ cho nhau và cùng được khuyến số 1. khích phát triển trong bối cảnh hiện nay. Chỉ khi chúng ta hiểu rõ được về các vấn đề này 11. Minh Thư (2016), “Biển người đổ về kẹt và nhìn nhận chúng trong sự gắn kết của cứng Miếu bà Núi Sam”, Báo Dân Trí, https://dant- tổng thể các yếu tố văn hóa và xã hội, chính ri.com.vn/xa-hoi/bien-nguoi-do-ve-ket-cung- mieu-ba-nui-sam-2016021115551915.htm trị và kinh tế thì lễ hội truyền thống sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ cho sự phát triển kinh 12. Tri thức trẻ (2016), “Với 8.000 lễ hội một tế của đất nước. năm, trung bình mỗi ngày người Việt có 22 lễ hội, mỗi giờ có 1 lễ hội”, http://kenh14.vn/ L.H.L voi-8000-le-hoi-moi-nam-trung-binh-moi- ngay-nguoi-viet-co-22-le-hoi-moi-gio-co-1-le- Chú thích hoi-20160421143503586.chn 1 Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An 13. Trần Quốc Vượng (2001), Văn hóa Việt Nam Giang. tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Tài liệu tham khảo Ngày nhận bài: 14 - 3 - 2020 1. Antonio Machado (2003), “Du lịch và phát Ngày phản biện, đánh giá: 20 - 3 - 2020 triển bền vững (Tourism and Sustainable Devel- opment)”, in trong Dự án Xây dựng năng lực cho Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020 phát triển Du lịch ở Việt Nam, VNAT và FUNDESO, Hà Nội. 74 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2