Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ part 5
lượt xem 74
download
Nhà Hậu Lê thời Lê sơ (1428-1527) Các vị vua Lê Thái Tổ Lê Thái Tông Lê Nhân Tông Lê Đức Hầu (Lạng Sơn Vương) Lê Thánh Tông Lê Hiến Tông Lê Túc Tông Lê Uy Mục Lê Tương Dực Niên hiệu Thuận Thiên Thiệu Bình (1434-1440) Đại Bảo (1440-1442) Đại Hòa/Thái Hòa (1443-1453) Diên Ninh (1454-1459) Thiên Hưng (1459-1460) Quang Thuận (1460-1469) Hồng Đức (1470-1497) Cảnh Thống Thái Trinh Đoan Khánh Hồng Thuận Tên huý Lê Lợi Lê Nguyên Long Lê Bang Cơ Lê Nghi Dân Lê Tư Thành (Lê Hạo) Lê Tranh Lê Thuần Lê Tuấn Lê Oanh Lê...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ part 5
- Nhà Hậu Lê thời Lê sơ (1428-1527) Các vị vua Niê n hiệ u Tê n huý Năm trị vì Tuổi thọ Lê Thá i Tổ Thuận Thiê n Lê Lợi 1428- 1433 49 Thiệu Bình (1434 - 1440) Lê Thá i Tô ng Lê N guyên Long 1433- 1442 20 Đại B ảo (1440- 1442) Đại Hòa/Thái Hòa (1443- 1453) Lê N hân Tông Lê Bang C ơ 1442- 1459 19 Diên Ninh (1454 - 1459) Lê Đức Hầu (Lạng S ơn Thiê n H ưng (1459- 1460) Lê N ghi Dân 1459- 1460 21 Vương) Quang Thuận (1460- 1469) Lê Tư Thành (Lê Lê Thánh Tô ng 1460- 1497 56 Hồng Đức (1470- 1497) Hạo) Lê Hiến Tô ng Cảnh Thống Lê Tranh 1497- 1504 44 6/1504- Lê Túc Tô ng Thá i Trinh Lê Thuần 17 12/1504 Lê Uy Mục Đoan Khánh Lê Tuấn 1505- 1509 22 Lê Tương Dực Hồng Thuận Lê O anh 1510- 1516 24 1516 (3 Lê Q uang Trị 8 ngà y) Lê C hiêu Tô ng Quang Thiệu (1516- 1526) Lê Y 1516- 1522 26 Lê C ung Ho àng Thống Nguyên (1522- 1527) Lê Xuân 1522- 1527 21
- LÊ THÁI TỔ(1385-1433) Lê Thái Tổ (chữ Hán: 黎太祖), húy Lê Lợi (黎利), là người k hởi xướng k hởi nghĩa Lam S ơn c hiến thắng q uâ n Minh trở thà nh vị vua đầu tiê n c ủa nhà Hậu Lê, một triều đại trong lịch sử V iệt N am. Ô ng sinh năm 1385[2] và mất năm 1433, ở ngô i gần 6 năm, thọ 49 tuổi. Thụy hiệu do Lê Thá i Tô ng đặt là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế. Tổ bốn đời c ủa Lê Lợi là Lê Hối, người Thanh Ho á. Một hô m đến vùng núi Lam S ơn thấy cảnh đất là nh chim đậu, ô ng d ời nhà về đây. Lê Hối lấy bà N guyễn Thị N gọc Duyên, sinh ra Lê Đinh, tức là ô ng nội c ủa Lê Lợi. Lê Đinh lấy bà N guyễn thị Q uách sinh ra hai người con là Lê Tò ng và Lê K ho áng. Lê K ho áng lấy bà Trịnh Thị N gọc Thương sinh được ba người con: Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Lợi sinh và o giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời Trần. S au khi bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô (Thanh Hóa) và giết hà ng lo ạt quần thần trung thà nh với nhà Trần, thá ng Tượng Lê Lợi trước trụ sở 2 năm C anh Thìn 1400, Hồ Q uý Ly truất ngô i c ủa Trần Thiếu UBND thà nh phố Thanh Ho á Đế, tự lê n là m vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. T riều đình nhà M inh (Trung Quốc), vốn rất muốn xâ m lăng Đại Việt, đã nhân cơ hội H ồ Q uý Ly cướp ngô i nhà Trần để đưa quân tràn vào đất Việt năm 1407. Hồ Q uý Ly liê n tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407, thì b ị bắt cùng các con trai là Hồ N guyên Trừng và Hồ Hán Thương. Vương triều Đại Ngu sụp đổ. N hà M inh thực hiện chính sách xó a b ỏ nền Văn minh sô ng H ồng bằng các cách như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất cả các lo ại sách, văn bia có nó i về d ân Việt, của d ân Việt tạo lập, thiến ho ạn đà n ô ng người Việt, khiến cư d ân Việt rất uất ức và căm giận. Hơn 1.000 năm, các triều đình Trung Quốc k hô ng đồng hó a được văn hó a Việt, nê n việc làm của nhà M inh đã đem lại một kết cục xấu cho sự đô hộ của họ. M ùa xuân năm M ậu Tuất 1418, Lê Lợi đã c ùng những hà o kiệt, đồng chí hướng như N guyễn Trã i, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú v.v. tất cả 50 tướng văn và tướng võ c ùng hội thề với nhau ở Lũng Nhai- Lam S ơn, chính thức phất cờ k hởi nghĩa (khởi nghĩa Lam S ơn). Đồng thời ô ng tự xưng là B ình Đ ịnh Vương và k êu gọi d â n Việt đồng lò ng đứng lê n đá nh quâ n xâ m lược nhà M inh cứu nước. Trong thời gian đầu, lực lượng c ủa quân Lam S ơn chỉ c ó và i ngà n người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được và i trận nhỏ và hay b ị q uâ n Minh đánh b ại. Ho ạt động trong thời nà y chủ yếu ở vùng núi Thanh Ho á. Bị q uâ n Minh vâ y đá nh nhiều trận, quân Lam S ơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lê n núi C hí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở S ách Khôi năm 1422. Một lần bị q uâ n Minh vâ y gắt ở núi Chí Linh (c ó sá ch ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, người em họ Lê Lai theo gương Kỷ T ín nhà Tây Hán phải đó ng giả là m Lê Lợi, d ẫn quân ra ngo à i nhử q uân Minh. Quân Minh tưởng là b ắt được chúa Lam S ơn nê n lơi lỏng phò ng b ị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy tho át. Lê Lai b ị đ ịch giải về Đông Quan và bị g iết. N go ài quân Minh, Lê Lợi và q uân Lam S ơn còn phải đối phó với một bộ p hận các tù trưởng miền núi tại đ ịa phương theo nhà M inh và q uâ n nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều gian nan, quân Lam S ơn mấy lần đánh b ại quân Ai Lao. Tuy nhiê n do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam S ơn phải ẩn ná u trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâ u ngà y; c ó lần ô ng phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ă n.
- Trước tình thế h iểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hò a với quâ n Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng c ố, lại thấy quân Minh b ắt giữ sứ g iả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng ho à. Theo kế của N guyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết đ ịnh đưa quân vào đồng b ằng N ghệ An. Trên đường đi, quân Lam S ơn hạ thà nh Đa Căng, đá nh lui quâ n c ứu viện của viê n tù trưởng đ ịa phương theo quân Minh là C ầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Long. Tướng Minh là Trần Trí mang quâ n từ N ghệ An tới c ứu C ầm Bành, b ị quân Lam S ơn đá nh lui. Lê Lợi vây C ầm Bà nh, Trí đó ng ngo ài xa khô ng d ám cứu. Bị vâ y ngặt lâ u ngà y, Bà nh phải đầu hà ng. Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ A n, lại mang quâ n chủ lực c ùng tiến vào, Trần Trí b ị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ. Lý An, Phương Chính từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở N ghệ An, Trí cũng mang quâ n ra ngo à i đánh. Lê Lợi d ùng k ế nhử đ ịch đến sô ng Độ Gia phá tan. Trần Trí c hạy về Đô ng Quan, cò n An và C hính lại chạy vào thành Nghệ An. Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh L ễ đem quân ra đá nh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hoá). Sau đó ô ng lại điều Lê S át, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh L ễ đánh ra Tây Đô , quân Minh ra đá nh lại b ị thua phải rút vào cố thủ trong thà nh. Lê Lợi một mặt siết vò ng vâ y quanh thà nh Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn N ỗ, Lê Đa Bồ đem q uân vào nam đá nh Tâ n Bình, Thuận Hoá. Tướng Minh là N hậm N ăng ra đánh b ị phá tan. Sau Lê Lợi lai sai Lê N gân, Lê Văn An mang thủy quâ n tiếp ứng cho Trần Nguyê n Hã n chiếm đất Tâ n Bình, Thuận Ho á. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. N hư vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi là m chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hó a trở vào, các thành đ ịch đều bị bao vây. Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh b ắc tiến. P hạm Văn Xảo, Đỗ B í, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh L ễ, N guyễn X í ra đá nh Đông Quan. Lê Triện tiến đến gần Đô ng Quan gặp Trần Trí k éo ra, liền đánh b ại Trí. N ghe tin viện binh nhà M inh ở Vân Nam sắp sang, T riện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, cò n Triện và Đỗ B í hợp với quâ n Đinh L ễ, N guyễn X í đá nh Đông Quan. P hạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thà nh Xương Giang. Trần Trí thấy mất viện b inh b èn cầu viện Lý An ở N ghệ An. Lý An và P hương Chính để Thá i Phúc ở lại giữ thà nh Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, cò n mình k éo đại quân ra b ắc. Vua Minh sai Vương Thô ng, M ã Anh mang quâ n sang tiếp viện. Thô ng hợp với quâ n ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho P hương Chính, M ã K ỳ. Lê Triện, Đỗ B í đánh b ại Mã K ỳ ở Từ Liê m, lại đánh luô n cánh quân của Chính. C ả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thô ng ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thô ng, nhưng Thô ng đã phòng bị, T riện bị thua p hải rút về Cao Bộ, sai người c ầu cứu Nguyễn X í. Đinh L ễ, N guyễn X í đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thô ng đ ịnh chia d ường đánh úp Lê Triện, hai tướng b èn tương k ế tựu kế dụ Thô ng vào ổ mai phục Tốt Động[4]. Quân Vương Thô ng thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị g iết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thô ng cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan. Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. C ác nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xá c vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có q uy mô k há lớn và lực lượng quâ n Minh sang nhập vào khá đông, do đó để già nh thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thà nh 4) chắc phải đô ng hơn. Với một và i ngà n người khó đương nổi lực lượng đô ng và mạnh c ủa quâ n Minh như vậy. C ăn cứ sách Đại Việt thô ng sử, k hi quâ n Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quâ n Lam S ơn hiện có tổng số 25 vạn, ô ng d ự định sẽ cho 15 vạn về là m ruộng và tuyển lấy 10 vạn là m q uân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra b ắc phải có một và i vạn mỗi cánh quân. Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị c hia hai đường thủy bộ t iến ra gần Đô ng Quan Vương Thô ng thua chạy khô ng d ám ra đá nh, viện cớ tìm lại tờ c hiếu của vua Minh năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần[5] ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thô ng sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần là m vua.
- Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quâ n Minh nhanh chó ng rút về nê n đồng ý. Ô ng sai người tìm được Trần C ảo[6] b èn lập làm vua, cò n ô ng tự xưng là V ệ q uốc công. Vương Thô ng ngo à i mặt giảng hò a nhưng lại sai quâ n đào hào cắm chô ng phò ng thủ và mật sai người về xin c ứu viện. Lê Lợi b iết chuyện liền cắt đứt giảng hò a. S au khi cắt đứt giảng ho à, Lê Lợi sai các tướng đi đá nh chiếm các thành ở Bắc bộ như Điê u Diê u (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đá i, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), K ỳ Ô n, khô ng lâu sau đều hạ được. Đầu năm 1427, ô ng chia quân tiến qua sông Nhị, đó ng dinh ở Bồ Đề[7], sai các tướng đá nh thà nh Đông Quan. Ô ng đặt kỷ lu ật quân đội rất nghiê m để yên lò ng nhân d ân. Do đó quân Lam S ơn đi đến các nơi rất được lò ng d ân. Tướng Minh là Thá i Phúc nộp thành Nghệ An xin hà ng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là N guyễn Trã i viết thư dụ đ ịch ở các thành khác ra hàng. N hân lúc quân Lam S ơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quâ n Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liê m, Đinh L ễ và N guyễn Xí b ị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh L ễ bị g iết, Nguyễn X í trốn tho át được. C uối năm 1427, vua Minh Tuyên Tô ng điều viện binh c ứu Vương Thô ng, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quâ n tiến sang từ Q uảng Tây; M ộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đâ y là hai tướng đã từng sang đá nh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nó i thăng lê n, trê n thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng. N ghe tin c ó viện binh, nhiều tướng muốn đá nh để hạ gấp thành Đô ng Quan. Tuy nhiên, theo ý k iến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đá nh thà nh lạ hạ sá ch vì q uâ n trong thà nh đô ng, chưa thể lấy ngay được, nếu bị v iện binh đánh k ẹp vào thì nguy; do đó ô ng quyết đ ịnh điều quâ n lê n chặn đá nh viện binh trước để nản lò ng đ ịch ở Đông Quan. Đầu tiê n, ô ng ra lệnh d ời người ở những vùng đ ịch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Ho á, Tuyên Quang, để đồng k hô ng để cô lập đ ịch. Biết c á nh Liễu Thăng là q uâ n chủ lực, ông sai Lê S át, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang q uân phục ở C hi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quâ n tiếp ứng. Đối với cánh quân M ộc Thạnh, ô ng biết Thạnh là viê n tướng lã o luyện, sẽ ngồi chờ thắng b ại c ủa Liễu Thăng mới hà nh động nê n hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ k hô ng đá nh. Tướng trấn giữ b iê n giới là Trần Lựu liê n tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về C hi Lăng. Ngày 18 thá ng 9 â m lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân k ị đ i trước. Ngày 20, Thăng b ị p hục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Các tướng thừa dịp xô ng lê n đá nh đ ịch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý K há nh tự vẫn. Tướng Minh c ò n lại Ho àng Phúc, Thô i Tụ cố kéo về thà nh Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thà nh đã bị quân Lam S ơn hạ, p hải đó ng q uâ n ngo à i đồng khô ng. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn X í tiếp ứng cho Lê S át cùng sáp đá nh, giết 5 vạn quâ n Minh ở Xương Giang. Ho àng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thô i Tụ k hô ng hàng b ị g iết. Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua b èn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo ché m hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa. Vương Thô ng nghe tin hai đạo viện binh b ị đ ánh tan, sợ hã i xin giảng hò a để rút quân. Lê Lợi đồng ý c ho giảng hò a để q uân M inh rút về nước. Ô ng cùng Vương Thô ng tiến hà nh là m lễ thề trong thà nh Đô ng Quan[8], hẹn đến thá ng chạp âm lịch năm Đinh M ùi (1427) rút quân về. Lê Lợi đứng tê n Trần C ảo là người đang là m vua trê n danh nghĩa, sai sứ d âng biểu cho nhà M inh xin được phong. Vua Minh b iết Lê Lợi không có ý tôn C ảo nhưng vì b ị thua mã i nê n đồng ý p hong cho Trần C ảo làm An Nam quốc vương. Thá ng chạp, Vương Thô ng rút quâ n về nước. Các tướng muốn giết đ ịch để trả thù tội á c khi cai trị V iệt Nam, Lê Lợi khô ng đồng tình vì muốn giữ hò a khí hai nước, cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về. Lê Lợi sai N guyễn Trã i thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ b iết về v iệc đá nh giặc Minh[9]. Đâ y là á ng văn chương nổi tiếng, rất có giá trị đ ời Lê, được coi là bản tuyê n ngô n độc lập thứ hai sau b à i thơ Nam quốc sơn hà.
- S au khi quâ n Minh rút về, trê n danh nghĩa Trần C ảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần C ảo tự b iết mình k hô ng có cô ng, lò ng người khô ng theo nên b ỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tâ y), nhưng khô ng tho át, b ị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiê n c ứu nghi ngờ v iệc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng c ủa Lê Lợi được lệnh sá t hại C ảo, hoặc Cảo bị đ e doạ p hải b ỏ trốn. Tuy nhiê n, suy cho c ùng Trần C ảo cũng chỉ là c on b à i chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà M inh trong một giai đoạn cần thiết. Ngay nhà M inh, khi xâ m lược Việt Nam lấy lý d o lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ và rõ ràng khô ng thực bụng. Nhà M inh lấy cớ lập con cháu nhà Trần nhưng lại đàn áp nhà Hậu Trần. Việc đó đã bị N guyễn Biểu, sứ g iả của vua Hậu Trần Trùng Quang đế bóc trần. Lê Lợi lê n ngô i ho àng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái tổ, c hính thức dựng lê n vương triều Lê. Thời k ỳ dựng lại quốc gia Đại Việt của Lê Lợi thật khó khăn, do hậu quả tận diệt Văn hó a Việt của quân xâm lược trước đó. C á c tà i liệu, thư tịch, văn học, nghệ thuật bị tàn phá nặng nề; các học giả và người tà i c ủa Đại Việt bị bắt đem về Trung Q uốc... Nhưng sức bật của một nền văn minh c ó gốc rễ sâu bền là đá ng kinh ngạc. N goài xây dựng kinh tế, nhà Lê còn phải đối phó với b ạo lo ạn trong nước. Năm 1430, Lê Thái tổ sai thá i tử Lê Tư Tề đi d ẹp lo ạn tù trưởng Đèo C át Hãn. K hi lê n ngô i, Lê Thá i tổ đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thê m một đạo nữa gọi là H ải Tâ y đạo, gồm cả Thanh Hóa, N ghệ An, Tâ n Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có q uan Hành khiển để g iữ sổ sách về v iệc quân- dân. C òn như các xã- thô n thì c ứ xã nào có hơn 100 người trở lê n, gọi là đại xã , đặt ba người xã quan; xã nào có 50 người trở lê n, gọi là trung xã , đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lê n gọi là tiểu xã, đặt một người xã q uan để c oi việc trong xã. Về v iệc học hành, trường Quốc Tử G iá m ở đất kinh đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ. Rồi lại b ắt các quan văn vũ từ tứ p hẩm trở xuống p hải và o thi Minh kinh khoa, nghĩa là q uan văn thì p hải thi kinh s ử, q uan vũ thì p hải thi vũ k inh. Ở các lộ cũng mở k hoa thi M inh kinh để cho những người ẩn dật ra ứng thí mà c họn lấy nhâ n tà i. Về k inh tế, bấy giờ thường những người khô ng c ô ng lao thì lắm ruộng nhiều nương, mà những k ẻ p hải đá nh đông dẹp bắc, lúc về không có đất. V ì thế cho nên Lê Thái tổ đ ịnh ra phép quân điền để lấy cô ng điền, cô ng thổ mà chia cho mọi người, từ q uan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng, khiến cho sự già u nghè o ở trong nước khỏi c hê nh lệch. N hà Lê hình thà nh và lập tức việc tranh chấp quyền lực giữa các phe cánh bắt đầu nảy sinh, xuất phát từ nhiều lý do. M ột lý do là sự mâ u thuẫn giữa những người đồng hương ho ặc ít nhiều c ó thâ n thích với vua và những người có gốc tích từ các vùng khác. Lý do thứ hai là mâ u thuẫn giữa các công thần trong việc lập tranh ngô i thá i tử g iữa con trưởng Lê Tư Tề và con thứ Lê N guyên Long. Phe Lê Sát ủng hộ người con thứ N guyên Long trong khi các tướng xuất thâ n từ k inh đô như P hạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn ủng hộ Tư Tề. Năm 1429, Lê Thái tổ tin lời giè m pha nghi Phạm Văn Xảo làm phản nên b ắt giết. Sau đó lại c ó người tố cáo Trần Nguyên Hãn tích trữ vũ k hí là m phản. Lê Thái tổ sai người đi b ắt. Thuyền đến giữa dòng, Trần Nguyên Hãn k êu vô tội và nhảy xuống sô ng tự vẫn. Nguyễn Trã i là người c ùng họ với Nguyên Hãn[10] cũng b ị bắt giam một thời gian, sau vì k hô ng có bằng chứng buộc tội nê n được thả ra. Thá i tử Lê Tư Tề bị kết luận mắc chứng điê n khùng nê n b ị p hế truất. Con thứ Lê N guyên Long được lập là m thá i tử. C ác nhà nghiên cứu thống nhất rằng những sự k iện trê n thực chất là k ết quả của sự thắng thế của phe Lê S át trong triều đình mà thô i. Hơn nữa, những hà nh động c ủa vua Thá i tổ để bảo vệ sự thống trị của nhà Lê cũng mang tính hệ thống. Đầu tiê n là g iết Trần C ảo. Sau đó giết Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần[11]. Cuối c ùng là lấy lý d o mẹ của thá i tử N guyên Long có tên là P hạm Thị N gọc Trần (đã mất năm 1425) nên bắt những người họ Trần phải đổi sang họ Trình để k iê ng huý. Tất cả những hà nh động đó đều nhằm khiến thiê n hạ hết sự nhớ t iếc nhà Trần. Và Lê Tư Tề cũng là nạn nhâ n trong đó.
- Lê Lợi ở ngô i được 5 năm thì mất vào ngày 22 tháng 8 nhuận â m lịch năm 1433, thọ 49 tuổi. V ì nhớ cô ng Lê Lai chết thay c ho mình ở núi C hí Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ô ng một ngày. Bởi thế đời sau truyền lại c â u: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi". Vua Lê Thái tổ được an táng tại V ĩnh Lăng, Lam S ơn. Thá i tử Lê N guyên Long 11 tuổi lê n nối ngô i, tức là vua Lê Thá i Tô ng. Lê Lợi là vua có cô ng đá nh đuổi quâ n Minh xâ m lược, sáng lập nhà Hậu Lê, triều đại tồn tại lâ u nhất trong lịch sử V iệt Nam. S au thời k ỳ độc lập hơn 400 năm k ể từ thế kỷ 10, Đại Việt có nguy cơ trở lại thà nh quận huyện của Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa Lam S ơn của Lê Lợi đã chấm d ứt 20 năm cai trị của nhà M inh tại Đại Việt và chấm d ứt hẳn sự đô hộ của Trung Quốc thời phong kiến. Bởi c ô ng lao đó của ô ng nên đời sau c ò n nhớ nhà Lê k hi b ị nhà M ạc thay ngô i và đó là một nguyê n nhâ n khiến nhà Lê có thể trung hưng (1533). Thậm chí ngay c ả k hi con cháu nhà Lê k hô ng cò n nắm được thực quyền thì trê n danh nghĩa vẫn là người đứng đầu thiê n hạ. Họ Trịnh là m phụ c hính nhiều đời nhưng vẫn khô ng d ám cướp ngô i nhà Lê cũng b ởi s ợ dư lu ận cò n nhớ c ô ng lao già nh lại độc lập cho đất nước của nhà Lê. Về cai trị, ô ng cũng là người thiết lập lại trật tự, q uy củ của chế độ p hong kiến các triều đại Lý, Trần trước đây mà các thế hệ vua sau tiếp tục củng c ố, p há t triển cao hơn nữa. So với Hán Cao Tổ Lưu Bang, cuộc đời s ự nghiệp của Lê Thái Tổ c ó nhiều điểm trùng hợp nhau. Cả hai vua đều là c on thứ b a trong nhà. Trên Lưu Bang có Lưu Bá, Lưu Trọng. Trên Lê Lợi có Lê Học, Lê Trừ. Cả vua Lê và vua Hán đều xuất thâ n từ người áo vải, khởi nghĩa gặp rất nhiều khó khăn nhiều năm đầu, về sau mới thuận lợi. Khi gặp gian nguy, Lưu Bang phải nhờ Kỷ Tín ra hà ng, lừa đ ịch và chết thay, Lê Lợi c ũng phải nhờ có Lê Lai theo gương K ỷ T ín để tho át nạn. Sau khi lê n ngô i, hai vua đều giết cô ng thần khai quốc. Về sau, cơ nghiệp của hai vua đều bị họ khác cướp ngô i con cháu, nhà Hán và nhà Lê đều bị giá n đoạn một thời gian nhưng sau đó đều hồi phục lại được. Nhà Đô ng Hán kế tục nhà Tây Hán và nhà Lê được trung hưng. C ó lẽ d o hành trạng giống nhau, khi mất cả hai vua đều được đặt chữ "Cao". Lưu Bang là C ao đế hay Cao tổ, Lê Lợi là (Thá i tổ) C ao hoàng đế. Về truyền thuyết Gươm thần Thuận Thiên Bài chính:Thuận Thiê n Sách Lam Sơn thực lục của N guyễn Trã i chép: Khi ấy Nhà-vua cùng người ở t rại Mục-sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở x ứ v ực Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem v ề để v ào chỗ t ối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ) nhà v ua t ới chơi nhà. Thấy chỗ t ối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà v ua bèn hỏi: - Sắt nào đây? Thận nói: - Đêm trước quăng chài bắt được. Nhà v ua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà v ua đem v ề đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ " Thuận Thiên", cùng chữ " Lợi". Lại một hôm, nhà v ua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài-dũa thành hình, nhà v ua lạy trời khấn rằng: - Nếu quả là gươm trời cho, thì x in chuôi v à lưỡi liền nhau! Bèn lấy mảnh sắt lắp v ào trong chuôi, bèn thành ra chuôi gươm. Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió m ưa, sớm ngày mai, hoàng hậu ra trông v ười cải, bỗng thấy bốn v ết chân của người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng hậu cả k inh, v ào gọi nhà v ua ra v ườn, được quả ấn báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà v ua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm mừng, giấu giếm không nói ra. Truyền thuyết k ể t iếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươm chiến đấu, x ông pha chém địch
- nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh làm vua Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ra giữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to: - Hãy trả gươm thần cho ta! Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa v àng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất. Từ đó hồ Thủy Quân được đặt t ên là hồ Hoàn Kiếm. C ó thuyết khác nó i khác về truyện trả gươm. Đại ý k hi thuyền của vua ra giữa hồ thì rùa và ng chắn trước. Vua Lê rút gươm chỉ vào Rùa Vàng, Rùa Vàng liền đớp lấy gươm của vua mà bơi đi. Vua Lê sai tát cạn hồ Thủy Quân để tìm lại gươm b áu nhưng khô ng thấy rùa đâu. Ghi chú 1. ▲ Đại Việt Sử k ý To àn thư tính là năm 1383 2. ▲ Theo Đại Việt Thô ng S ử của Lê Q uý Đô n thì Lê Lợi thọ 49 tuổi. Lê Lợi sinh năm Ất Sửu (1385), mất năm Quý Sửu (1483) thì thọ 49 tuổi, như Đại Việt Thô ng S ử ghi là đúng 3. ▲ Về v iệc Nguyễn Trãi có tham gia khởi nghĩa Lam S ơn từ đầu hay khô ng, c á c tà i liệu nó i khác nhau. C ó sách nó i ô ng tham d ự từ đầu, có sách nó i ô ng chỉ đ ến Lam S ơn năm 1420, chưa rõ nguồn nào đúng 4. ▲ N guyễn Xí b ắt được thám tử của Vương Thô ng, biết Thô ng đó ng ở N inh Kiều, đ ịnh d ùng một cánh quân cùng đá nh tập hậu Lê Triện, Thô ng cầm đại quâ n tiến đằng trước, đêm đến nổ p háo hiệu thì hai c á nh quâ n c ùng đánh sáp vào. Nguyễn Xí b èn đặt phục binh rồi cho nổ p háo hiệu để lừa Thô ng 5. ▲ Vì nhà Hồ cướp ngô i nhà Trần nê n Minh Thà nh Tổ lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần để mang quân sang đá nh nhà Hồ. N ay Vương Thô ng muốn vin và o đó 6. ▲ Theo sử sách, Trần C ảo tên thật là Hồ Ô ng, tự xưng là c há u nội vua Trần Nghệ Tô ng, được tù trưởng châu Ngọc M a tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đâ y, việc Trần C ảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác đ ịnh, có thể chữ "mạo xưng" mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để g iảm uy tín c ủa Cảo 7. ▲ V ì vậy từ đó về sau truyền lại c â u đồng dao: "Nhong nhong ngựa ông đã v ề, cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn" 8. ▲ Đến nay c ó và i giả thiết về đ ịa điểm diễn ra Hội thề Đông Quan, chưa xác đ ịnh chính xá c chỗ nào 9. ▲ Sở dĩ gọi "Minh" là "N gô " vì vua s á ng lập nhà M inh là C hu Nguyên Chương trước kia khởi binh từ đất Ngô, tự xưng là N gô vương, sau thống nhất Trung Quốc mới xưng là "M inh" 10. ▲ Trần Nguyên Hãn là cháu nội và N guyễn Trã i là c há u ngo ại tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần 11. ▲ Trần Nguyên Hãn là cháu 7 đời c ủa thái sư Trần Quang Khải nhà Trần 12. ▲ Â m lịch 13. ▲ Thá ng 8 nhuận
- LÊ THÁI TÔNG (1434-1442) Lê Thái Tô ng tên húy là N guyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý M ăo (1423), là con thứ hai c ủa Thá i Tổ. Lê n ngô i vua ngày 8 tháng 9 năm Quý S ửu (1433), lấy niê n hiệu là Thiệu Bình. K hi lê n ngô i nhà vua mới 11 tuổi, nhưng khô ng cần Mẫu hậu che rè m nghe việc mà tự mình điều hà nh tất cả c ô ng việc triều đình. C á c nhà viết sử ai cũng nhận xé t "Vua tư chất sáng suốt tinh khô n; khi c ầm quyền chính: trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngo ài d ẹp yên các man động. Trọng đạo, chuộng N ho, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ c hính hình; văn vật rực rỡ đủ cả, đá ng khen là vua hiền". Chính d ưới triều vua Thái Tô ng, vào năm Thiệu B ình thứ 5, tổ chức thi Hương ở các đạo và năm sau tổ chức thi Hội tại K inh đô. Từ đó mở đầu ra lệ cứ ba năm một lần thi là m lệ thường. C ũng chính d ưới thời vua nà y, và o năm Nhâm Tuất (1442) bắt đầu ra lệnh d ựng . Thá i Tô ng lê n ngô i khi c ò n quá trẻ lại phải đối phó với một tnh hình triều đình khá p hức tạp: mâ u thuẫn và chia rẽ g iữa hai lực ́ lượng chính. M ột bên là các công thần khai quốc đứng đầu là đại tư đồ Lê Sát, Lê N gân. Với một b ê n là những quan lại có khoa bảng. M ặc dù vậy Thá i Tô ng vẫn có đủ bản lĩnh để không cho các đại thần ho àn to àn thao túng, ô ng cũng biết nghe lời can đúng đắn của các ngô n quan như N guyễn Thiê n Tích, Bùi C ẩm Hổ để k hô ng phải phục quan tịch cho Trịnh Ho àng Bá theo lời xin c ủa đại tư đồ Lê S át khi bọn chúng có tội b ị đ uổi và xo á b ỏ k hỏi s ổ q uan từ thời vua cha. Và bởi lời Thá i Tổ dặn lại rằng: b ọn Lê Q uốc Khí, Trịnh Hoành Bá, Lê Đức Dư... tuy c ó tà i, nhưng khô ng nê n d ùng lại. VÌ thế k hi Lê S át xin phục chức cho bọn nà y, vua Thá i Tô ng khô ng nghe. Khi vua mười lăm tuổi đă b iết xét đo á n c ô ng việc mà Lê S át vẫn cò n tham q uyền cố vị (lẽ ra khi vua đă trưởng thà nh, quan nhiếp chính phải tự b iết rút lui), Thá i Tô ng rất b́nh tĩnh và tm cách lo ại trừ ́ q uyền thần Lê Sát. Sát bị băi chức tước, cho tự tử ở nhà , vợ con và điền sản bị sung cô ng. Những người thuộc bè đảng c ủa Lê Sát cũng đều bị băi chức, đồng thời nhà vua cho phục chức các quan Bùi Ư Đài, Bùi C ẩm Hổ... Một trong những sự k iện bi thảm nhất dưới triều Lê là cái chết đột ngột của vua Thái Tô ng và k éo theo nó là vụ á n oan nghiệt giá ng xuống Nguyễn Trăi và gia đình ô ng và o thá ng 8 năm Nhâm Tuất (1442) mà người đời vẫn gọi là vụ án Lệ C hi viê n (vụ á n vườn vải). N gày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) vua đi tuần ở m iền Đô ng, duyệt quan ở thà nh Chí Linh, N guyễn Trăi đó n vua ngự ở chùa C ôn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trăi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến Lệ c hi viê n thuộc huyện Gia Đ ịnh (nay thuộc huyện Gia Lương, Hà Bắc). C ùng đi với vua có N guyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trăi khi ấy đă vào tuổi 40 được vua Thá i Tô ng yê u quý vì sắc đẹp, văn chương hay, luô n được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ c hi viê n, vua thức suốt đê m với N guyễn Thị Lộ rồi b ăng, lúc nà y ô ng mới 20 tuổi. C ác quan b í mật đưa về, ngày 6/8 mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phá t tang. Triều đình đă q uy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngày 12/8 năm đó (1442), các đại thần nhận di mệnh là Trịnh Khả, N guyễn Xí, Lê Thụ c ùng với Lê Liệt, Lê Bô i tô n Ho àng tử Bang C ơ lê n nối ngô i. N guyễn Trăi và gia đình b ị án c hu di tam tộc. Lê Thá i Tô ng trị vì trong 9 năm, đặt niê n hiệu hai lần. - T hiệu Bình (1434- 1439) - Đại B ảo (1440- 1442)
- LÊ NHÂN TÔNG (1443-1459) Vua Lê Thái Tô ng mặc d ù mới có 20 tuổi, nhưng khi mất đi đă kịp để lại b ốn người con trai do bốn bà vợ sinh ra: Bà C hiê u N ghi họ Dương sinh ra lệ Đức hầu Nghi Dân; Bà Thần Phi họ N guyễn sinh ra ho à ng tử Bang C ơ (sau là vua Nhân Tô ng); b à T iệp Dư họ N gô sinh ra Tư Thà nh (sau là vua Thá nh Tô ng) và một bà vợ k hác sinh ra Cung vương Khắc Xương. N hư vậy vua Lê N hân Tô ng cũng khô ng phải là c on trưởng c ủa vua Thái Tô ng. Ô ng húy là Bang C ơ, là c on trai thứ ba của Thái Tô ng. M ẹ là Tuyê n từ ho à ng thá i hậu họ N guyễn (sau này mới phong), húy là A nh, người là ng B ố Vệ huyện Đông S ơn (Thanh Hoá). Bang C ơ sinh ngà y 9 thá ng 6 năm Tân Dậu (1441), đến ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu (1441) được lập làm Ho à ng thá i tử, và ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) được lê n ngô i vua, đổi niê n hiệu là Thá i Ho à . Khi lê n ngô i vua mới lê n 2 tuổi, Thá i hậu phải buô ng rè m nghe chính sự, tạm quyết đo á n việc nước. May thay Thái hậu là người tận tâm b ảo hộ, tín nhiệm đại thần, theo dùng phép sẵn có, trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, trong nước b ình yên. Tháng 11 năm Quư Dậu (1453), vua lên 12 tuổi, có thể tự coi được chính sự, Thá i hậu trả lại quyền chính cho vua rồi lui về ở c ung riê ng. Khi tự mình ra coi chính sự, vua đổi niê n hiệu Diê n Ninh, đại xá c ho thiê n hạ. N gười đời b ấy giờ hết lời ca ngợi đức độ và tà i năng của vua và Thá i hậu. Bà i văn bia M ục Lăng do Nguyễn Bá K ỷ c ó ghi: vua thần sắc anh tuấn, dung d áng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến kinh diê n đọc sách, mặt trời xế b ó ng về tâ y mới thô i. K hi đă thâ n coi chính sự th́ tế thần kỳ, thờ tô n miếu, đối với Thá i hậu dốc lng hiếu lễ, đối với anh em hết lng thâ n yê u, ho à thuận với họ hà ng, k ính lễ với đại thần, tô n chuộng nho thuật, ̣ ̣ xé t lời gần, nghe lời xa, chăm só c chính sự, cẩn thận thưởng phạt, trọng việc nô ng tang chuộng nghề gốc rễ, hết lng thương ̣ d ân, khô ng thích xây d ựng, khô ng ham săn bắn, khô ng gần thanh sắc, khô ng há m tiền của, hậu đối với người, b ạc đối với mình, b ê n trong yê n tĩnh, b ê n ngo à i thuận lng, răn cấm tướng ngo à i biê n khô ng gâ y hấn khích. Đến khi Chiê m Thà nh hai lần ̣ cướp Hoá C hâu th́ sai tướng đem quân đi đá nh, giết được vua Chiêm là Bí C ai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm c hính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đ́nh thần họp bàn tất cả rồi mới thi hà nh; cho nê n chính trị hay giáo ho á tốt, khắp ra bốn biển, trăm họ mến đức, đời được thá i b ình". C hính d ưới thời vua Nhân Tô ng, năm Quí Hợi (1455), lần đầu tiê n triều đ́nh sai Phan Phu Tiên biên so ạn Đại Việt sử kư, v iết t iếp quyển sử của thời Trần từ Trần Thái Tô ng cho đến khi người Minh về nước. N hưng mặc d ù là một ô ng vua sáng và nhân từ, nhưng v́ khô ng tuâ n theo nguyê n tắc ḍng đích nê n mùa đô ng năm K ỷ Măo (1459), Lạng S ơn Vương Nghi Dân (là anh vua Nhân Tô ng) đang đêm bắc thang vào tận trong cung c ấm, vua và Tuyê n từ Ho à ng thá i hậu bị g iết. Khi đó vua mới 19 tuổi, ở ngô i được 17 năm. N ghi Dân tự lập là m vua, nhưng chỉ 8 thá ng sau lại b ị các đại thần là N guyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giá ng N ghi D â n xuống tước hầu rồi tm lập một người con khác của Thá i Tô ng lê n là m vua, đó là vua Lê Thánh Tô ng. ́
- LÊ NGHI DÂN(1439-1460) Lê N ghi D ân (chữ Hán: 黎宜民; 1439–1460) là vua thứ tư nhà Hậu Lê, ở ngô i từ năm 1459 đến 1460. Lê N ghi Dân là con trưởng vua Lê Thá i Tô ng, mẹ là Dương Thị B í. Ô ng sinh tháng 10 năm 1439. Vừa ra đời được 3 tháng, Lê N ghi Dân được lập là m thá i tử (ngày 21 tháng 1 năm 1440). Mẹ N ghi Dân là Dương phi được vua Thái Tô ng yêu quý nên có ý tự mã n. Vua b è n giá ng là m Minh nghi. Bà o á n vọng ra mặt, vua có ý ghét hơn, lại ghé t luô n c ả N ghi Dân rồi ra chiếu b á cáo thiên hạ rằng ngô i thá i tử chưa xác đ ịnh. Ít lâu sau vua có thêm các bà phi khác và có thêm con trai. M ột b à p hi sinh cho vua ho àng tử thứ hai là Lê K hắc Xương năm 1441. C ùng năm, một bà khác được đặc biệt sủng á i là N guyễn Thị A nh sinh được Lê Bang C ơ. N gay năm đó (1441), vua Thái Tô ng yêu Nguyễn Thị Anh b è n giá ng Nghi Dâ n mới 2 tuổi là m Lạng S ơn vương và lập Bang Cơ mới và i thá ng tuổi lê n là m thá i tử. C hỉ 1 năm sau (1442) lại b ất ngờ xảy ra Vụ án Lệ C hi Viê n dẫn đến cái chết của vua Lê Thá i Tô ng lúc mới 20 tuổi. Thá i tử Bang C ơ được lập lê n ngô i, tức là Lê N hân Tông. Bang C ơ là m vua, thá i hậu Nguyễn thị chấp chính. Nghi Dân cũng d ần dần khô n lớn. Ô ng có ý oán hận vì mình là c on trưởng mà k hô ng được vua cha truyền ngô i nên có ý đoạt ngô i vua c ủa Nhân Tô ng. Vua Nhân Tô ng coi là chỗ anh em trong nhà nên cũng khô ng hề có ý phòng bị N ghi Dân. N gày 3 tháng 10 năm 1459, Lê N ghi Dân cùng viên chỉ huy sứ Lê Đắc Ninh là ngưò i chỉ huy vệ b inh là m nội ứng, cùng các thủ hạ tin c ậy là P hạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng và hơn 100 quân ban đêm bắc thang chia làm ba đường vào cung cấm giết chết Lê N hân Tông ở tẩm điện. Hô m sau, nhó m quân đó giết thá i hậu Nguyễn Thị Anh. Theo nghiê n c ứu của một số nhà c huyê n mô n gần đây, Lê N hân Tô ng khô ng phải là con của vua Thái Tô ng mà N guyễn Thị Anh đã mang thai Bang C ơ trước khi vào cung. Khi những lời d ị nghị về thâ n thế của thá i tử Bang C ơ ngà y c à ng nhiều và có nguy c ơ đến tai vua Thá i Tô ng, Nguyễn Thị Anh đã chủ động ra tay ám hại vua và đổ tội cho N guyễn Trã i, tru di ba họ nhà ô ng, để Bang C ơ đang là đương kim thá i tử được lê n thay (xem thê m b à i Vụ án Lệ C hi Viê n). Theo Đại Việt thô ng sử, trong tờ "đại xá " c ủa Lê N ghi Dân có đoạn: " Trẫm là con trưởng Thái Tông Văn hoàng đế, t rước đã ở ngôi thái t ử. Không may tiên đế đi tuần ở miền đông, bỗng băng ở ngoài. Nguyễn thái hậu muốn v ững quyền v ị, ngầm sai bọn nội quan là Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua… Đến sau Tạ Thanh tiết lộ v iệc ấy, việc lây đến thái uý Trịnh Khả, t ư k hấu Lê Khắc Phục, họ bị đem giết cả đi để hết người nói ra. Diên Ninh (niên hiệu của Nhân Tông) t ự biết không phải là con của t iên đế... Trẫm nhờ ... các v ương v à đại thần cùng các quan v ăn v õ t rong ngoài đồng lòng suy t ôn, xin trẫm lên ngôi đại thống..." C ác nhà nghiên cứu cho rằng trong quá trình trưởng thà nh, Nghi Dâ n ngà y c à ng biết rõ về thâ n thế của vua Nhân Tô ng và đã có lý do để là m binh biến. Lê N ghi Dân đặt niê n hiệu là Thiê n H ưng, trong thá ng đó sai Nguyễn Như Đổ, Lê C ảnh Huy đi triều cống nhà M inh và xin b ỏ v iệc mò ngọc trai. Sau đó lại c ử Trần Phong, Lương Như Hộc sang xin vua Minh phong chức. Tháng 2 năm 1460, vua Thiên Hưng đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan ở p hủ, huyện châ u Tháng 5 năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ B í, Lê N gang, Lê Thụ, Lê Ê b í mật b à n việc lật đổ vua Thiê n H ưng. Việc đó bị lộ, cả mấy người đều bị bắt giết. Vua Thiê n Hưng thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, d ùng những người thâ n tín c ủa mình và o triều nê n nhiều cựu thần k hô ng b ằng lò ng.
- Tháng 6 năm 1460, các đại thần N guyễn X í, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê N iệm, Lê N hân Quý, Trịnh Văn S ái, N guyễn Đức Trung [1]… c ùng b à n nhau là m binh biến lần nữa. N gày 6 tháng 6, có buổi chầu sớm. Khi tan chầu, những người đ ịnh là m binh biến ngồi ngo à i c ửa S ùng Vũ nơi Nghị sự đường. Nguyễn Xí p hát động lệnh d ẫn quâ n và o giết các bề tô i tin c ẩn của vua Thiê n Hưng là P hạm Đồn, Phan Ban ở N ghị sự đường. Lê N hân Thuận chém chết Trần Lăng, giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành. Hơn 100 người phe cánh của vua Thiê n H ưng b ị g iết. Vua Thiên Hưng b ị bắt, truất là m Lệ Đức hầu và bị thắt cổ chết, thọ 22 tuổi. Sử sách khô ng coi vua Thiên Hưng là ô ng vua chính thống c ủa nhà Hậu Lê. Sách Đại Việt thô ng sử chép ô ng vào "Nghịch thần truyện" giống các vua nhà M ạc. Dù vậy, trên thực tế là ô ng đã làm vua, cai trị nước Đại Việt trong 8 tháng. Khách quan nhìn nhận thì trong thời gian đó , ngo à i việc giết những người đ ịnh lật đổ m ình lần đầu (thá ng 5 năm 1460), ông chưa là m điều gì c hứng tỏ mình là người k é m năng lực hay thất đức như Xương Ấp vương nhà Há n[2] Theo phép chép sử truyền thống, hiếm có trường hợp như N ghi Dân. Trong lịch sử Trung Quốc và lịch sử V iệt Nam trước đó từng xảy ra việc tương tự nhưng cách ghi có k hác. Thời C hiến Quốc, Chu Tư vương C ơ Thúc giết anh là A i vương Khứ Tật (năm 441 TCN) giành ngôi, không lâu sau (440 TCN) lại b ị em là K hảo vương C ơ N guy hạ sá t già nh ngô i. D ù A i vương và Tư vương cai trị chẳng bao lâu và đặc biệt là Tư vương giống với Nghi Dâ n, nhưng vẫn được đặt thuỵ h iệu. Thế tử Thương Thần nước Sở g iết cha là Thà nh vương lê n ngô i, rõ rà ng là "đại nghịch vô đạo", vẫn có thuỵ h iệu S ở Mục vương truyền lại. Tại V iệt Nam thời T iền Lê, Lê N gọa Triều giết anh là Trung Tô ng Long Việt lê n thay nhưng các sử gia vẫn chép cả hai vua khô ng phủ nhận ai c ả. N ghi Dân, vốn là con đích c ủa Thá i Tô ng, giết người "con hoang" c ủa vợ vua cha mà lên thay, nhưng lại b ị giá ng là m Lệ Đức hầu, thậm chí một số sử sách cò n khô ng xếp ông vào danh sách các vua Hậu Lê, như Dương N hật Lễ, người khô ng là m việc lật đổ nhưng b ị c oi là "khô ng phải con Dụ Tô ng" thời nhà Trần nên bị p hế và bị g iết. S au khi lê n ngô i, vua Lê Thánh Tô ng đã giải oan cho gia đình N guyễn Trã i, những người b ị o an trong Vụ án Lệ C hi Viê n. Thâ n thế của Nhân Tông được vạch trong tờ chỉ của Nghi Dân, khô ng b ị sử sách ỉm đi mà vẫn được chép lại, nhưng ngô i vị của Nhân Tô ng vẫn được thừa nhận như một chuyện "đã rồi", b ởi Nhân Tô ng đã ở ngô i những 17 năm. Hơn nữa, điều đó c ò n liê n quan tới tính hợp pháp ngô i vị của Thánh Tô ng. N gô i vua của Nhân Tô ng là hợp phá p thì việc binh biến của Nghi Dân mới là "phản nghịch". Nghi Dâ n là "phản nghịch" thì v iệc binh biến của Nguyễn X í để lập Thá nh Tô ng mới là "thuận lẽ". Vua Thá nh Tô ng muốn khẳng đ ịnh tính hợp pháp của mình nê n đã truy tô n Nhân Tô ng và thái hậu Nguyễn thị, bác bỏ anh cả N ghi Dân, đồng thời để bảo vệ ngô i vua, sau đó Thánh Tông còn dồn bức người anh thứ Lê K hắc Xương [3] tới chết và khép tội chết người ủng hộ K hắc Xương lê n ngô i là Lê Lăng. Những "nhâ n chứng" đương thời như Đinh Liệt và các sử gia phong kiến có lẽ cũng nhận ra điều này và p hải chọn cách c hé p "hai chiều" như họ đã là m để lại cho đời sau (vừa tôn Nhân Tông, vừa chép lại b à i chỉ của Nghi Dân) (xem b ài Vụ án Lệ C hi Viê n). Khi cơ nghiệp của Thá nh Tô ng chó i sá ng, truyền lại b ền vững cho đời sau thì vấn đề d anh hiệu cho Nghi Dân k hô ng bao giờ được sử sách đặt lại nữa. Nếu việc binh biến của Nguyễn X í k hô ng thà nh, ngô i vị của Nghi Dân được duy trì, nhiều khả năng số p hận của Tư Thà nh sẽ g iống Khắc Xương; cò n Nhân Tô ng sẽ chỉ được sử c hé p là "Diê n Ninh đế". Thất bại c ủa Nghi Dân chủ yếu là d o vây cánh k hô ng đủ mạnh, khô ng biết dựa vào (hoặc không kết thân được với) các cô ng thần c ó uy tín c ủa đời trước để củng c ố thế lực; các bầy tô i thâ n tín c ủa ông đều "lạ ho ắc" trong triều chính nê n khô ng thể có tiếng nó i trọng lượng với b á q uan. N hà Hậu Lê c ó liê n tiếp 3 vua đột tử ở tuổi trên d ưới 20. Vò ng xo áy quyền lực giữa 4 anh em con vua Thái Tô ng k éo d ài hơn nhiều năm mới chấm d ứt. Chú thích 1. ▲ C ha của Trường Lạc ho àng hậu Nguyễn Thị Hằng sau này 2. ▲ Vua Xương Ấp mới lê n ngô i 27 ngà y nhưng là m mấy chục điều ác, bị đ ại thần Hoắc Quang phế truất 3. ▲ K hắc Xương là c on thứ 2 của vua Thá i Tô ng, người được sử sách nhận xé t là hiền hậu, đạm b ạc, giản dị, đã từ chối ngô i b á u khi Nghi Dâ n b ị g iết 4. ▲ Â m lịch 5. ▲ Â m lịch
- LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497) Lê Thá nh Tô ng là một trong những ô ng vua ở ngô i lâ u nhất trong lịch sử các ô ng vua Việt N am (38 năm). Nhưng điều đá ng nhớ k hô ng phải vì ô ng ở ngô i lâ u, (c ó ô ng vua như Lê Hiển Tô ng cò n ở ngô i lâ u hơn (47 năm), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời s ống mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy. Lê Thánh Tô ng tên tự là Tư Thà nh, lại có tên nữa là Hạo, là con trai thứ 4 và cũng là con út của vua Thá i Tô ng, sinh ngà y 20/7 năm Nhâm Tuất (1442). Mẹ là bà N gô Thị N gọc Dao, con gái của Thái Bảo Ngô Từ, một trong những c ô ng thần khai q uốc của nhà Lê, người là ng Động Bà ng, huyện Yên Đ ịnh (Thanh Ho á). có nhiều chuyện kể rằng Lê Tư Thà nh được sinh ra b ên ngo ài cung cấm, tại chùa Huy Văn (phía trong ngơ Văn Chương đường Hà ng Bột, Hà N ội). S ống giữa chốn d â n gian từ nhỏ đến năm lê n 4 tuổi, mẹ N hân Tô ng buô ng rèm nghe chính sự, mới cho đó n Tư Thà nh về p hong là m Bnh Nguyê n vương, ́ cho ở nhà P hiê n để hàng ngày cùng vua Nhân Tô ng và các phiên vương khác học tập tại to à k inh Diê n. Tư Thà nh sớm có tư chất đế vương: chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thô ng tuệ hơn người. VÌ thế mẹ N hân Tô ng càng quí và coi Tư Thà nh như con đẻ của b à, cò n vua Nhân Tô ng thì cho là người em hiếm có. K hi Nghi Dân, con cả của Thái Tô ng trước đó bị b iếm truất rồi â m mưu tho án đoạt đă g iết mẹ con Bang C ơ (vua nhâ n Tô ng) lê n ngô i vua, lại phong Tư Thà nh là m Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Khi Nghi Dân b ị lật đổ, trong triều có người b à n lập Tư Thà nh là m vua, nhưng một viên quan là Lê C ăng can rằng: T ư Thành cò n có người anh nữa là c ung vương Khắc Xương, khô ng nên b ỏ a nh lập em, dẫm lại vết xe đổ N ghi Dân - Bang C ơ. T riều thần đến đó n Cung vương, song ô ng này từ chối. Khi đó họ mới rước Tư Thà nh lê n ngô i, b ấy giờ ô ng vừa tṛn 18 tuổi. Trị vì đất nước được 38 năm, đến cuối năm Hồng Đức thứ 27 năm Bính Thìn (1496) vua b ị mệt nhưng vẫn tự g iải quyết các v iệc quan trọng. Thá ng Giê ng năm sau vua càng mệt nặng rồi mất. Cho đến trước khi qua đời, vua vẫn tỉnh táo, trước đó một hô m cò n ngồi ghế ngọc truyền ngô i cho con và là m một b à i thơ tuyệt mệnh: dịch: Tấm thân bảy thước nay tuổi đă năm mươi, Gan dạ như sắt giờ hoá ra mềm. Gió t hổi ngoài song, hoa v àng t àn t ạ, Sương ra trước sân, liễu xanh gầy đi Trông suốt bầu trời biến mây bay phơi phới Tỉnh giấc mộng k ê v àng, đêm dài dằng dặc Tiếng người, dáng người trên chốn bồng lai đă x a cách hẳn U hồn như v àng ngọc có v ào giấc mộng được không. Lê Thá nh Tô ng thọ 56 tuổi và là một trong những ô ng vua c ó k há nhiều vợ và nhiều con: 14 người con trai và 2 0 con gái. S ử thần Vũ Q uỳnh đời Lê đă từng nhận xé t: "...tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng. Trường lạc Ho àng hậu thì b ị giam lâ u ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, b è n ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở, bệnh vua vì thế lại nặng thê m vậy!" N hưng nhìn to à n c ục, cuộc đời ô ng vua nà y là một cuộc đời ho ạt động sô i nổi trê n rất nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xé t: "vua tựa trời cao siê u, anh minh quyết đo án, có hùng tại đại lược, vơ g iỏi văn hay, mà thá nh học rất chăm, tay khô ng lúc nào rời quyển sách. C ác sách kinh sử, lịch to án, các việc thá nh thần, cái ǵ cũng tinh thô ng. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học". Chính b ản thân Lê Thánh Tô ng cũng rất tự ư thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức, bỏ công sức nhìn và o việc cai trị đ ất nước. Ô ng từng viết: Ḷng v ì t hiên hạ những sơ âu Thay việc trời dám trễ đâu Trống dời canh còn sách Chiêng x ế bóng chửa thôi chầu. N hờ đó mà dưới thời trị vì c ủa ô ng vua này, quốc gia Đại Việt đă đạt được sự p há t triển rực rỡ về mọi mặt. Lê Thá nh Tô ng là người tha thiết với chủ q uyền quốc gia. Ô ng đă từng nó i c â u nó i nổi tiếng: "M ột thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự t iện vứt bỏ đi được. Nếu người nào d ám đem một thước, một tấc đất của vua Thá i Tổ để lại là m mồi cho
- g iặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng". C hính d ưới thời Lê Thánh Tô ng, b ản đồ đầu tiê n c ủa quốc gia Đại Việt được hoàn thành. Những hà nh động xâ m phạm biê n giới b ằng mọi hình thức của nhà M iinh c ũng như của các tập đo àn thống trị C hiê m Thà nh, Bồn Man, Lăo Qua đều đă được tích cực giải quyết ho ặc giá ng trả kịp thời, khô ng để một chút đất đai của Tổ q uốc lọt vào tay kẻ khác. Bộ má y nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tô ng đạt đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xă. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính c ủa tầng lớp sĩ p hu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử . Về lập pháp, đây cũng là triều đại đă cho ra đời b ộ lu ật Hồng Đức nổi tiếng mang tê n hiệu vua Lê Thánh Tô ng. C ác triều đại nước: Lư, Trần đều đă có biên soạn luật của ḿnh, song vì c hiến tranh, lo ạn lạc đă bị mất hết vì thế lu ật Hồng Đức cò n lại cho đến nay là một trong những b ộ lu ật ho àn chỉnh và c ó nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử lu ật pháp thời phong kiến nước ta. Dưới triều Lê Thánh Tô ng, cũng là thời k ỳ mà tư tưởng trọng nô ng và c hế độ q uân điền được ban bố và thi hà nh đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó là m mẫu mực. V iệc giáo dục thi c ử dưới thời ô ng vua nà y c ũng được coi là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo d ục và khoa cử thời phong kiến V iệt Nam. Việc học do nhà nước tổ chức được đẩy mạnh, đồng thời việc học trong d ân gian do tư nhâ n mở trường c ũng được khuyến khích. Nhà vua cho mở rộng nhà Thá i học và trường Quốc tử giám. C ác tiến sĩ thi đỗ ngo à i việc được khắc tên vào bia đá (đă được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thá i Tô ng) và được dự lễ xướng danh rất long trọng, được treo tân bảng và ng và c ấp ngựa, ban áo mũ cờ b iểu để vinh qui... Bản thân vua Lê Thánh Tô ng cũng là một nhà văn ho á lớn: ô ng là một nhà thơ và là người rất chăm lo đến việc trước thuật. Trong đời ô ng vua nà y, nhiều cô ng tŕnh biên so ạn có tầm cỡ được tiến hà nh như: "Đại việt sử kư to àn thư" ho à n thà nh năm Kỷ Hợi (1479), "Thiên nam d ư hạ tập", một cô ng tŕnh có tính b ách khoa lớn đầu tiê n, hơn 100 bài thơ của Nguyễn Trăi c ũng được sưu tầm vào thời gian nà y. Lê Thá nh Tô ng là người đă g iải oan cho cái án của Nguyễn Trăi, cho tìm con cháu cò n sống só t và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai. Lê Thánh Tô ng tự lập ra hội Tao Đà n gồm 28 ô ng tiến sĩ g iỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là "Tao Đà n nhị thập bát tú" do chính Lê Thánh Tô ng làm Nguyên so ái. Khối lượng sáng tác của Lê Thánh Tô ng và hội Tao Đàn rất lớn, và có vị trí rất đặc b iệt. Lê Thánh Tô ng khô ng chỉ là một ô ng vua đầy tà i năng và nhiệt huyết với tất cả các thành tựu nổi b ật dưới thời trị vì c ủa ông mà ô ng cò n là một cái tên khô ng thể mờ trong lịch sử và nền văn ho á nước nhà.
- LÊ HIẾN TÔNG (1497-1504) Vua Hiến Tô ng tê n huư là Tranh, lại c ó huư là Huy, là con trưởng c ủa Thánh Tô ng, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461), mẹ là Trường lạc thánh từ Ho à ng thá i hậu, họ N guyễn, húy là Hằng, người ở hương Gia M ưu ngo ại trang, huyện Tống S ơn (Thanh Ho á), con gái thứ hai c ủa thá i úy Trình quốc công Đức Trung. Tranh là con cầu tự ở am Từ C ông (Từ Đạo Hạnh) trê n núi Phật tích, sinh ra d á ng vẻ thiê n tử, mũi cao, mặt rộng, vẻ người đứng đắn, đẹp đẽ khác thường, được Thá nh Tô ng yê u quí lắm. N ăm Quang Thuận thứ 3 - năm Nhâm Ngọ (1462) Tranh được lập là m Ho à ng thá i tử. Vua cha ở ngô i tới 38 năm nê n Thá i tử ở ngô i Đô ng cũng lâ u (37 năm), vì thế k hi được lê n nối ngô i, ô ng đă tuổi chín chắn và từng trải. Trong thời gian 7 năm cầm quyền chính, ô ng vua nà y khô ng c ó gì sá ng tạo so với triều vua trước. Trước một ngô i sao sáng chó i thì ô ng vua con này chỉ là một cái bóng. Vả chăng chính vua Hiến Tô ng đă từng nó i: "Thá nh tổ gầy dựng trung châu, ho àng phụ ta trong trị ngo à i tuâ n giữ phép cũ, là m rộng thêm cho sáng tỏ ra... mà thô i". S ử gia V ũ Q uỳnh, người gần c ùng thời thì nhận xé t: vua thô ng minh trí tuệ hơn người mà nhâ n từ ô n ho à , khô ng là m nghiê m trọng sự v iệc lâ u. Thường khi tan chầu lui và o, lại đem các sĩ đ ại phu hỏi về c hính sự hay d ở, lấy lời nó i d ịu d àng, nét mặt vui tươi, d ỗ cho nói ra, cho nên b iết hết tình người d ưới, phá hết sự c he lấp. Kẻ thần hạ có lầm gì, chỉ răn quở q ua loa, khô ng nỡ đá nh roi là m nhục. C ách cai trị nhà n hạ ung dung, chưa từng lộ ra lời nó i sắc mặt tức giận mà thiê n hạ răm rắp theo lệnh. Ô ng là người chú trọng đặc biệt đến việc là m thuỷ lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều. Mỗi xă cho đặt một xă trưởng chuyê n trô ng c oi việc nông tang. C ũng d ưới thời vua này cho phép quân đội và c ô ng tượng thay phiê n nhau thá ng 6, thá ng 10 chia một nửa về là m ruộng: Ô ng c ũng chú ư đến giáo d ục quan lại chống thó i quan liê u và tham nhũng ... Lê Hiến Tô ng trị vì 7 năm nhưng là ô ng vua cuối c ùng c ủa triều Lê S ơ c̣n giữ được những thà nh tựu từ thời Thá i Tổ gây d ựng. Lê Hiến Tô ng cũng là ô ng vua đầu tiê n c ủa triều Lê lại có hướng trở về với đạo Phật: Ô ng cho xây d ựng các điện Thượng Dương, Giá m Trị, Đỗ Trị, Trường Sinh là m chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay. Tuy nhiê n ô ng c ũng khô ng trá nh được lời phê của sử thần là đă ham nữ sắc quá nhiều để đến nỗi b ị bệnh nặng. Ô ng mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tư (1504), thọ 44 tuổi. Lê Hiến Tô ng có 6 ho àng tử, con trưởng là An Vương Tuân, con thứ hai là U y mục đế Tuấn, con thứ 3 là Tự ho à ng Thuần, con thứ tư là Thô ng Vương Dung, con thứ năm là M inh V ương Trị và con thứ 6 là Tư Vương Dưỡng.
- LÊ TÚC TÔNG (1504) Sau 76 năm k ể từ k hi Lê Thá i Tổ lê n ngô i sá ng lập triều Lê đến hết đời Lê H iến Tô ng, nhà Lê Trải qua một chặng đường đi lê n, để lại trong lịch sử dân tộc nhiều bậc vua hiền, nhiều ô ng vua sá ng, nhiều thà nh tựu rực rỡ về mọi mặt. Song từ sau đó, nhà Lê bước vào thời k ỳ suy vong với những ô ng vua mà với thời gian khô ng thể tẩy xoá được tiếng xấu. S au khi Hiến Tô ng qua đời, người k ế vị ô ng là c on trai thứ 3 tê n là Thuần năm đó vừa 17 tuổi. Đúng là H iến Tô ng đă chọn được người k ế vị xứng đáng. Vua Lê Túc Tô ng là người d ốc chí ham học thâ n người hiền, vui điều thiện, đá ng là vị vua giỏi g iữ nghiệp thái b́nh. M ẹ là Trang thuận Ho à ng thá i hậu họ N guyễn, húy là Ho à n, người là ng B ình Lăng, huyện Thiê n Thi (H ải Hưng). Lê n ngô i ngà y 6/6 năm Giáp Tý (1504), đến tháng 11 năm đó vua sai sứ thần Nguyễn Băo Khuê chưa qua khỏi c ửa ải biê n giới thì đă p hải đổi tờ b iểu khác, báo tang vua mới và xin phong cho vua tiếp theo, bởi Túc Tô ng đă qua đời. K hi bị ố m nặng, biết mình khó qua khỏi, vua Túc Tô ng cho gọi các quần thần đến để chỉ đ ịnh người nối ngô i thay mình là con thứ hai c ủa Hiến Tô ng tê n là Tuấn. Ô ng dặn: "con thứ hai c ủa Hiến Tô ng tiê n ho à ng đế là Tuấn, người hiền minh nhâ n hiếu, có thể nối ngô i chính thống... N ếu thâ n vương nà o chiếm ngô i trời thì người trong nước giết đi!" Túc Tô ng mất ngày 7/12 năm Giáp Tư (1504), làm vua được 6 tháng.
- LÊ UY MỤC (1505-1509) Túc Tô ng khô ng có con nối nghiệp nên trước khi mất đă truyền ngô i lại cho người anh thứ hai c ủa mình là Tuấn. Tuấn còn có tê n huư nữa là Huyê n, sinh ngà y 5 thá ng 5 năm M ậu Thân (1488), là con của Chiê u nhâ n Ho à ng thá i hậu họ N guyễn, huư là Cận, người là ng Phù C hẩn, huyện Đô ng Ngàn (nay thuộc Hà Bắc). Bà lúc nhỏ mồ cô i cha, nhà nghèo, tự b á n mình cho người ở p hủ P hụng Thiên (Hà N ội), vì nhà người ấy có tội, b à lại b ị sung là m nô tỳ nhà nước, do đó được đưa vào hầu Quản Ninh ho à ng hậu. Khi ấy Hiến Tô ng c ò n là m Thá i tử, thấy nàng có sắc đẹp, để lò ng yê u rồi lấy là m phi. Bà p hi nà y sinh ra Tuấn rồi mất sớm. S au khi vua Túc Tô ng qua đời, trong triều c ó nhiều phá i tranh ngô i b á u. Thá i ho à ng thá i hậu (mẹ của Hiến Tông, bà của Túc Tô ng) thì muốn lập Lă C ôi Vương vì b à cho rằng Tuấn là con của kẻ tỳ thiếp khô ng xứng đá ng được nối ngô i, trong khi đó thì mẹ nuô i c ủa Tuấn là K ính Phi (họ N guyễn người xă Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường) và nội thần Nguyễn Như V i muốn lập Tuấn (tức Uy Mục). Ư đ ịnh c ủa Thá i ho à ng thá i hậu khô ng thà nh, sau khi lê n ngô i Uy M ục sai giết Thá i ho à ng thá i hậu và một lo ạt đại thần đă k hô ng ủng hộ mình như Đàm Văn Lễ, N guyễn Quang Bật... Uy Mục lấy hiệu là "Quỳnh lâ m động chủ". Từ lúc lê n ngô i Uy M ục trở nê n người ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người. Phó sứ nhà M inh là Hứa Thiê n Tích khi sang sá ch phong, trô ng tướng mạo Uy Mục đă đề hai c â u: An nam t ứ bách v ận v ưu trường, Thiên ư như hà giáng quỉ v ương? ( Vận nước An Nam còn dài bốn trăm năm, ư trời sao lại sinh ra vua quỉ?) Đêm nào Uy M ục cũng và o cung c ùng với cung nhâ n uống rượu vô độ, a i say thì giết. Quyền hà nh trong triều rơi và o tay họ ngo ại. Phía Đô ng thì là ng Hoa Lăng (quê của ẹm nuô i), phía Tâ y thì là ng Phù C hẩn (quê của mẹ đẻ), đều cậy quyền cậy thế, d ò m hăm thần liê u, c ó k hi vì tư ư mà giết hại sinh d â n, c ó k hi d ùng ngó n k ín mà yê u sá ch tiền của; phàm súc vật hoa mầu của d â n gian đều cướp cả; nhà dân ai có đồ lạ vật quư thì đều đánh d ấu chữ vào để lấy. Uy M ục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiê m b ị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, c ô ng thần. Sự tàn bạo quá đáng của Uy Mục đă gâ y nê n một làn só ng b ất b́nh trong d â n chúng và trong hà ng ngũ q uan lại, ḍng d ơi họ Lê. Tháng 11 năm K ỷ Tỵ (1509), được sự giúp đỡ của Nguyễn Văn Lăng (là b à con với Trường lạc Ho àng thái hậu - người đă bị Uy Mục cho đá nh thuốc độc chết), Giản tu C ô ng Oanh giả xưng là C ẩm giang vương d ựng c ờ chiêu an. Họ đề cử Lương Đắc Bằng thảo tờ hịch dụ các đại thần và các quan rằng: "B ạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ k é m hè n, là m nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần nữa gần được 5 năm, tội ác đă đến muô n vẻ. G iết hại người xương thịt, dòm hăm các thần liê u... Tước đă hết rồi mà thưởng b ậy khô ng ngớt, dân đă c ùng rồi mà vơ vé t khô ng thô i... Tiê u tiền như b ùn đất, bạo ngược ngang với Tần C hính..." Từ Tây Đô , Giản Tu C ông Oanh đem quâ n chiếm lại Đông Kinh (Hà N ội), b ắt được và bức Uy Mục tự tử thá ng 12 năm K ỷ Tỵ (1509) Giản Tu C ô ng Oanh cho người lấy s úng lớn, đặt xác Uy Mục vào miệng súng, súng nổ là m tan hà i c ốt, chỉ lấy tro tàn đem về chô n tại quê mẹ Uy Mục là làng Phù C hẩn, giá ng Uy mục xuống là m M ẫn Lệ C ông. Đến năm Đinh Sửu (1517) mới được truy tô n là Uy M ục đế. N hư vậy Uy M ục đế ở ngô i 5 năm, thọ 22 tuổi. S ử thần triều Lê bàn rằng: M ẫn Lệ C ô ng tín nhiệm ngo ại thích, b ạo ngược vô đạo, giết hại tô n thất, tàn hại nhâ n d â n, tự c huốc hoạ d iệt vong, chẳng c ũng đáng sao!
- LÊ TƯƠNG DỰC (1510-1516) Lê Tương Dực húy là O á nh, lại có tên nữa là Trừ, là c há u nội Lê Thánh Tô ng, con thứ hai c ủa Kiến vương Tâ n. Ô ng sinh ngày 25 tháng 6 năm Ất Măo (1455). Mẹ là H uy từ k iến ho à ng thá i hậu, họ Trịnh húy Tuyê n, người là ng Thủy Chú, huyện Lô i Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Ho á). Dưới thời vua Hiến Tô ng, ô ng được phong là Giản Tu C ô ng. Đến khi Uy M ục đế g iết hại c ô ng thần và người tô n thất, ông cũng b ị bắt giam, nhưng may trốn tho át chạy vào Tây Đô (Thanh Hóa). Tháng 11 năm 1509, ô ng cùng với N guyễn Văn Lăng và các quần thần đem quân ra Đô ng K inh giết Uy Mục rồi tự lập là m vua. S au khi lê n ngô i thá ng Giê ng năm Canh Ngọ (1510), bàn công những người ứng nghĩa, ông cho Nguyễn Văn Lăng là m Nghĩa Q uốc cô ng, những người khá c như N guyễn Ho àng Dụ, Trịnh Huy Đại và Trịnh Duy S ảo cũng được phong chức tước khác nhau. Một việc là m đá ng chú ý d uy nhất của vua Tương Dực là b an "Trị b ình b ảo phạm", gồm 50 điều vào tháng 4 năm Tâ n M ùi (1511), trong đó nê u lê n việc củng c ố kỷ cương, giáo ho á, cẩn thận hình phạt để ngăn ngừa lò ng d ân, khắc phục tình trạng rối lo ạn mục nát do đời Đoan Khánh gây ra. Song ngo ài việc làm trên, Lê Tương Dực khô ng thi thố thê m được việc gì c ụ thể để k hắc phục tình trạng đất nước ngày càng thêm hỗn lo ạn. C ác cuộc nổi d ậy của các lực lượng phong kiến đ ịa phương ngà y c à ng lan rộng... K hô ng những thế, bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi trụy lạc. Chẳng thế mà thá ng Giê ng năm Quư Dậu (1513) chánh sứ nhà M inh là Trần Nhược Thuỷ và phó sứ là P hạm Hy Tăng sang phong cho Tương Dực làm An Nam q uốc vương đă thấy Tương Dực mà nhận xé t: "Q uốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích d â m, là vua lợn, lo ạn vong sẽ k hô ng bao lâu!" Q uả vậy, tháng 5 năm Giá p Tuất (1514) vua nghe lời tâ u c ủa Hiệu úy Hữu Vĩnh, giết chết 15 vương cô ng, cho gọi các cung nhâ n c ủa Mẫn lệ c ô ng và triều rước vào để gian d âm. N ăm B ính Tư (1516) vua cho đắp thá nh mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trần Vũ, chùa Thiên Hoa... Chắn ngang sô ng Tô Lịch... Lại là m điện hơn trăm nóc, đ̣ng thuyền c hiến, sai b ọn nữ sử cởi truồng chè o thuyền ở Hồ Tâ y c ùng vua chơi đùa, lấy là m thích thú. Bấy giờ, trước tình hình đó, các thế lực phong kiến đ ịa phương như Trần C ảo nổi lê n. Trịnh Duy S ản nhiều lần can ngăn, vua k hô ng nghe lại c̣n đem S ản ra đánh b ằng trượng. Duy S ản b à n c ùng với một số q uần thần khác như Lê Q uảng Độ, Trịnh Chế S âm mưu việc phế lập. Tháng 4 năm B ính Tư (1516), Trịnh Duy S ản sai người đâm chết Tương Dực, đem thiêu xác. Khâm Đức Ho àng hậu cũng tự nhảy và o lửa mà chết. Quân sỉ đ em quan tà i về chô n ở lăng Ngự Thiê n, giá ng Tương Dực xuống là m L inh Ẩn vương. N hư vậy Tương Dực ở ngô i được 7 năm, thọ 24 tuổi. Sử thần bàn rằng: Linh Ẩn vương gian d â m với vợ lẽ của cha, để tang cha mẹ ít, mượn tên của anh để cướp nước, xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt thuế khoá nặng nề, g iết hết các thân vương, giặc cướp nổi d ậy khắp nơi, đương thời gọi là vua lợn, điềm nguy vong đă h iện ra vậy!
- LÊ CHIÊU TÔNG (1516-1522) Vua húy là Y, lại có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời c ủa Lê Thánh Tô ng, cháu đích tô n của Kiến vương Tân, con trưởng c ủa Cẩm Giang vương S ùng. M ẹ là Ho àng hậu Trịnh Thị Loan, người xă P hi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An). Ô ng sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính D ần (1506). Khi Tương Dực đế bị g iết năm Bính Tý (1516) khô ng có con nối, quan đại thần là Lê N ghĩa Chiêu, Trịnh Duy S ản đó n lập lê n là m vua, khi đó ô ng mới 11 tuổi. T riều Lê sau khi d ẹp tan được lo ạn Trần C ảo thì nội b ộ lại c à ng lục đ ục, đá nh giết lẫn nhau. An Ho à hầu Nguyễn Ho àng Dụ và Vĩnh Hưng b á Trịnh Tuy đem quân đá nh nhau liê n miê n. D â n chúng khổ sở cảnh lo ạn lạc, đầu rơi má u chảy: "Giặc bên ngo à i chưa yên, các quyền thần đá nh lẫn nhau, giết nhau d ưới c ửa khuyết, má u giâ y đầy chốn kinh sư, mặt trời và ng tối, vận nước ngà y một suy". Trước tình hình đó , Nho giáo ngày một suy vị, nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo cùng các thứ ma thuật ngày càng phát triển. Trong số các thế lực p ḥ lập vua, mỗi người đều có những mưu đồ riê ng. C à ng về sau, bằng tà i năng quân sự nổi b ật và sự k hô n khéo thâu tó m quyền hành, M ạc Đăng Dung đă ngà y c à ng trở thà nh một nhâ n vật cột trụ trong triều. Vua Lê C hiêu Tô ng phải tự thâ n hà nh đến phủ đệ của Mạc Đăng Dung gia phong cho ô ng làm Thái phó ... Quyền uy c ủa Mạc Đăng Dung ngà y một lớn, người người đều hướng về họ Mạc. Đăng Dung cho con gá i nuô i và o hầu vua thực ra để d ò xét coi giữ. C on trưởng c ủa Đăng Dung là Đăng Doanh là m chức Dục Mỹ hầu trô ng coi điện Kim Quang. Từ đó Đăng Dung đi b ộ thì c he lọng phượng d át vàng, đi thuỷ thì d ùng thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm như đi vào chỗ k hô ng người, khô ng kiê ng sợ gì... Trước tình c ảnh ấy, vua Chiê u Tô ng mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm c á ch triệt hạ thế lực của họ Mạc. Kế ho ạch bại lộ, vua b ỏ chạy khỏi kinh thà nh. M ạc Đăng Dung b è n c ùng với các quần thần khác lập em của Chiêu Tô ng tên là Xuân lên ngô i vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1522). Chiêu Tô ng thì b ị giá ng xuống là m Đà Dương vương rồi b ị g iết. Như vậy Chiê u Tô ng ở ngô i được 7 năm, thọ 26 tuổi.
- LÊ CUNG HOÀNG (1522-1527) Vua mới có tên là Xuân, cò n có tên nữa là K hánh, cháu bốn đời c ủa Thá nh Tô ng, là e m c ùng mẹ với Chiê u Tô ng, sinh ngà y 2 6 tháng 7 năm Đinh M ăo (1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi Ho àng cung, M ạc Đăng Dung lập ô ng lê n là m vua, lúc đó mới 16 tuổi. V sợ C hiêu Tô ng ở ngo à i hiệu triệu binh mă về đánh nên M ạc Đăng Dung khô ng d ám đó ng tại kinh thà nh mà đón ́ Hoàng đệ Xuâ n về Gia Phúc (Hải D ương) và c huyển hết của b áu trong thành về đấy, phong quan tiến tước cho các quan. S au khi đánh b ại các cánh quân C ần vương c ủa Chiêu Tô ng, mùa xuân năm Quý M ùi (1523) Đăng Dung đưa vua Cung ho à ng về đó ng ở hà nh dinh Bồ Đề, cho các quan vào chầu. N ăm đó , triều đình vẫn cho mở t iệc thi hương, thi hội ở băi giữa sông Nhị. Vua ra đầu đề "Về đạo là m vua là m thầy". Nhưng b ất chấp đạo là m tô i, thá ng 7 năm đó, Đăng Dung d ùng chiếu lệnh c ủa Cung đế, p hế bỏ vắng mặt Chiê u Tô ng xuống tước Đà Dương vương. N ăm sau, giáp Thân (1524) Đăng Dung tự ḿnh thăng lê n tước BÌnh Chương quân quốc trọng sư Thái phó nhân quốc cô ng. Tháng 10 năm Ất Dậu (1525) Đăng Dung tự là m đô tướng d ẫn tất cả thuỷ và lục quân vào đánh Thanh Ho á. Vua Chiêu Tô ng b ị bắt đưa về k inh sư, và bị g iết vào tháng 12 năm B ính Tuất (1526). Sau sự k iện bi thảm đó, Đăng Dung rút lui về Cổ Trai nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. N ăm Đinh H ợi (1527), Đăng Dung tự thăng tước Thái sư An Hưng vương, gia thê m c ửu tứ. Tháng 4 năm Đinh H ợi (1527), Cung ho àng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên b á P han ĐÌnh Tá và Trung sứ Đỗ H iếu Đễ cầm cờ mao tiết mang kim sá ch và mũ áo ô lọng, đai ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tá n tía đến là ng C ổ Trai, huyện Nghi Dương tấn phong M ạc Đăng Dung là m An H ưng vương. Đăng Dung đó n tiếp sứ bộ của nhà vua, ở bến đ̣ An Thá p huyện Tâ n Minh (Tiê n Lăng, Kiến An ngày nay). Vua cò n tặng Đăng Dung b à i thơ "Chu cô ng giúp Thành Vương" c ó ư k huyê n Đăng Dung hăy giúp vua và triều đình theo gương Chu cô ng đời xưa. Mặc dù được vua ân sủng hậu đăi và giao phó trọng trách, M ạc Đăng Dung vẫn khô ng chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn k iê n quyết chớp thời c ơ già nh ngô i đế cho họ Mạc. Ngày 15- 6 năm Đinh H ợi (1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai và o kinh bắt vua phải nhường ngô i, giá ng vua Lê xuống là m Cung vương, b ắt giam vua c ùng với Ho à ng thá i hậu ở cung Tây N ội, sau đó và i thá ng buộc Thá i hậu và C ung vương phải tự tử. Trước khi chết, Thá i hậu khấn trời rằng: "Đăng Dung là k ẻ bề tô i, manh tâm cướp ngô i, lại giết mẹ con ta, con cháu mày ngày sau cũng thế". Đăng Dung sai đem xá c hai mẹ con nhà vua b ày ra quán Bắc Sơn, rồi đem về chô n ở lăng Hoa Dương huyện Ngự Thiê n (nay thuộc xă Mỹ Xá, huyện Hưng Hà , Thá i BÌnh) theo nghi lễ của Thiê n tử và Ho àng hậu. Như vậy là C ung Ho àng ở ngô i được đúng 5 năm, thọ 21 tuổi. N hận xé t về ô ng vua này, sử thần triều Lê đă v iết: Lúc ấy vận nước đă suy, tà i vua lại và o hạng k ém, có thể dẹp yên sao được. N hư vậy là triều Lê kể từ Lê Thá i Tổ lên ngô i (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, c ả thảy đúng 100 năm. N ếu tính c ả thời gian Lê Lợi d ấy quân xưng là B ình Đ ịnh vương năm M ậu Tuất (1418) cộng là 1 10 năm. Đâ y là thời k ỳ các vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đ ất nước. C ác nhà sử học gọi là thời tiền Lê (hay Lê sơ) để p hân biệt với Lê Trung Hưng về sau. Các đời vua Triều Lê sơ đă trải qua: 1 . Lê Thái Tổ (1428- 1433) 2 . Lê Thái Tô ng (1434- 1442) 3. Lê N hân Tông (1443- 1459) 4 . Lê Thánh Tô ng (1460- 1497) 5. Lê Hiến Tô ng (1497- 1504) 6. Lê Túc Tông (1504) 7. Lê Uy Mục (1505- 1509) 8. Lê Tương Dực (1510- 1516) 9 . Lê C hiêu Tô ng (1516- 1522) 10. Lê C ung Hoàng (1522- 1527)
- THÁI TỔ PHẠM HOÀNG HẬU Bà họ P hạm, húy là N gọc Trần, người xă Q uần Lại, huyện Lô i Dương, Thanh Ho á. Bà là một trong số các bà vợ của Lê Lợi. K hi Lê Lợi mới khởi nghĩa đá nh giặc Minh phải di chuyển luô n, khô ng ở yê n một chỗ nào, bà lặn lội theo hầu, trải nhiều gian k hổ. Bà sinh ra Nguyên Long (vua Thái Tô ng sau này) vào mùa đô ng năm Quí M ăo (1423), tức là vào năm thứ 6 của cuộc k hởi nghĩa. Năm Ất Tỵ (1425), Bình Đ ịnh Vương Lê Lợi vâ y thà nh Nghệ An, khi đến thà nh Trảo Khẩu ở Hưng Nguyê n, nơi có đền thờ thần Phổ Hộ. Ban đê m nhà vua nằm mộng thấy có vị thần đến bảo rằng: "T ướng quân cho tô i một người thiếp, tôi sẽ xin phù hộ tướng quâ n diệt giặc Ngô , là m nê n nghiệp đế". Hô m sau BÌnh Đ ịnh Vương gọi các bà vợ đến, hỏi: "C ó a i chịu đi là m vợ vị thần khô ng? Sau này khi ta lấy được nước sẽ lập con của người ấy là m thiê n tử". C ác b à k hô ng ai nó i gì, chỉ có bà Phạm k hảng khá i quỳ thưa: "N ếu minh c ô ng giữ lời hứa, thì thiếp nguyện xả thân. Ngày sau làm nên cơ nghiệp lớn chớ p hụ con thiếp". Nhà vua khen ngợi và thương c ảm, nó i với các bà tôn, nhận theo lời hẹn đó. Khi ấy Nguyê n Long mới lê n 3 tuổi, bà liền cho người hầu bế ẵm nuô i nấng. Nhà vua sai là m lễ tế thần, d ùng b à là m vật tế. Đó là vào ngày 24 tháng 3 năm Ất Tỵ (1425). Khi Lê Lợi đă b ình đ ịnh được thiê n hạ, lê n ngô i vua, b ảo với quần thần rằng: "B à ấy đá ng là m chúa c ả trăm vị thần nước ta, khô ng ai d ám trái". Bèn sai người rước quan tài về an táng ở Thanh Hoá. Đi đến xă Thịnh M ỹ thì trời tối, chưa kịp qua sông phải ngủ trọ ở chợ. Đến đê m mối đùn lê n quanh quan tà i một đống đất cao, biến thà nh nấm mồ. Sứ g iả thấy là m lạ, trở về tâu vua. Vua chợt hiểu ra, nó i: "Đó là vị thần đă là m theo lời hẹn", b èn b ảo cứ để q uan tài ở đó, dựng điện Hiếu nhâ n để thờ, đồng thời d ựng miếu, đặt thần chủ ở Lam Kinh để c úng tế. Đến năm K ỷ Dậu (1429) nhà vua cử q uân vương Tư Tề là con trưởng đă lớn là m quốc vương, tạm coi việc nước. Tư Tề là người đă từng lăn lộn từ những ngà y đầu của cuộc khởi nghĩa, đă từng c ùng với Lưu Nhân Chú vào thành Đô ng Quan làm con tin để thực hiện hoà ước với V ương Thô ng. N ăm N hâm Tư (1432) Quốc Vương Tư Tề đă đem quân đi đánh Châu Phục Lễ, bức hàng tù trưởng là Đèo C át Hăn và con y là Đèo Mạnh Vượng. Cuối đời, vua Lê Thá i Tổ nhiều bệnh, chính sự của nhà nước đều giao cho Vương quyết đ ịnh. Nhưng vì Vương mắc chứng cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, dần dần khô ng hợp ư vua... Vua rất lo nghĩ đ ến trá ch nhiệm của người thừa kế. Một hô m giữa trưa nằm ngủ, chợt mộng thấy bà Hoàng hậu Phạm Ngọc Trần than trách rằng: "Nhà vua phụ công của thiếp, từ hồi mới khởi nghĩa đă đem thiếp cho vị thần. Nay được thiê n hạ rồi, mà ơn thá nh chẳng được hưởng". Vua tỉnh d ậy, bồi hồi xúc c ảm, b èn cho lập Nguyên Long làm con đích (Ho à ng thá i tử). K hi Lê Thái Tổ mất, Nguyên Long được nối ngô i niê n hiệu là Thá i Tô ng. Thá ng 6 năm Giáp Dần (1434) truy tô n mẹ là P hạm Ngọc Trần là m Cung từ q uốc thá i mẫu, thờ p hụ ở T há i miếu. Tháng 2 năm Đinh T ỵ (1437) truy tô n làm Cung từ Q uang Mục quốc thá i mẫu. Tháng 12 năm Đinh T ỵ (1437) truy tô n là m Ho à ng thá i hậu.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 6 - Thời nhà Hồ
304 p | 112 | 21
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 1 - Thời Hùng Vương
313 p | 139 | 20
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 3 - Thời nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê
308 p | 118 | 19
-
các đại công thần trong lịch sử việt nam: phần 1
101 p | 86 | 18
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 5 - Nhà Trần thắng giặc Nguyên Mông
318 p | 103 | 18
-
Sử dụng trò chơi trong dạy học Lịch sử Việt Nam (1945-1954) ở trường Trung học phổ thông
8 p | 129 | 10
-
Tinh thần yêu nước của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
4 p | 136 | 9
-
Điểm nhìn tự sự của hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986
14 p | 136 | 8
-
Lịch sử Việt Nam: Một số chuyên đề (Tập 2) - Phần 1
210 p | 18 | 6
-
Cần tiếp tục bổ sung, cập nhật, đổi mới trong dạy – học môn Lịch sử Việt Nam đối với ngành Việt Nam học
9 p | 81 | 5
-
Xây dựng thư viện điện tử về Chủ tịch Hồ Chí Minh phục vụ dạy học lịch sử ở trường THPT (Vận dụng vào chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12)
8 p | 66 | 5
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 31 - Hội thề Lũng nhai
80 p | 10 | 5
-
Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay: Phần 1
85 p | 37 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 1 - Người cổ Việt Nam
100 p | 9 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 10 - Họ Khúc dựng nền tự chủ
96 p | 7 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 16 - Nước Đại Việt
108 p | 10 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 29 - Hồ Quý Ly chống giặc Minh
78 p | 14 | 4
-
Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay: Phần 2
66 p | 18 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn