Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ part 8
lượt xem 63
download
NGUYỄN PHÚC THUẦN (1765-1777) Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần, người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ (1774) bà đi tu ở chùa Phúc Thành, sau đó mất (1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư, hiệu là Thiệu Long giáo chủ. Chúa Phúc Khoát, lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Thái Hoàng tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương còn...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ part 8
- NGUYỄN PHÚC THUẦN (1765-1777) N guyễn Phúc Thuần cò n có tên húy là Hân, sinh năm Giá p Tuất (1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ P húc Thuần, người họ N guyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. N ăm Giáp Ngọ (1774) bà đi tu ở chùa Phúc Thành, sau đó mất (1804) được truy tô n là Tuệ Tĩnh thá nh mẫu Nguyên sư, h iệu là Thiệu Long giá o chủ. C húa Phúc Khoát, lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu là m Thá i Ho à ng tử, H iệu mất sớm, con trai của Hiệu là Ho àng Tô n Dương c ò n thơ ấu mà Ho àng tử cả là C hương c ũng đă mất. Hoàng tử thứ hai là N guyễn Phúc Luân cũng rất khô i ngô , theo thứ tự sẽ p hải lập Hoàng Tôn Dương ho ặc Nguyễn Phúc Luân lên ngô i. Phúc Kho át có ư lập Phúc Luân, nên đă trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Văn Hạnh d ạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngô i vua. Phúc Kho át mất, tình hình lại thay đổi. Quyền thần Trương Phúc Loan khô ng muốn lập Nguyễn Phúc Luân v́ Luâ n đă lớn tuổi, khó bề lộng hà nh. Thế là P húc Loan chọn lập Phúc Thuần con thứ 16 của Phúc Khoát, mới 12 tuổi lê n ngô i. P húc Luân khô ng được lập mà còn bị bắt giam. N ội hữu Trương Văn Hạnh - thầy dạy Phúc Luân cũng b ị bắt giết. Phúc Luân k hô ng được nối ngô i trời, lo buồn cho tính mạng mà c hết khi tuổi mới 33. Đến năm Minh M ệnh thứ 2 (1802) Luân được truy tô n hiệu là Hưng tổ. Trải qua 9 đời chúa, đến đây nhà N guyễn lại b ị nạn quyền thần lấn lướt. Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại khô ng phải là người được sắp sẵn để lê n ngô i, nay thật bỡ ngỡ trê n ngai và ng. M ọi quyền hà nh đều do Trương Phúc Loan sắp đặt. Loan tự nhận là Q uốc phó , giữ bộ Hộ q uản cơ Trung tượng kiê m Tầu vu. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tó m vào tay từ c hính sự đến kinh tế. C ác nguồn lợi c ủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ và ng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà S ơn, Trà Vân... hàng năm Trương chỉ nộp vào ngân khố từ 1- 2 phần mười s ố thu được. C ác thứ lâ m sản thủy sản đều chảy vào nhà Trương. Ngày nắng Loan cho đem phơi c ủa cải quý b á u là m sá ng rực cả một góc trời! Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt. Quyền và tiền họ Trương lấn át cả trong triều ngo à i trấn. C ó tiền có quyền, Loan mặc sức ho à nh hà nh ngang ngược - người b ấy giờ gọi là Trương Tần C ối. G iữa lúc đó, Lại b ộ thượng thư N guyễn C ư Trinh, người c ó uy tín tà i năng, trụ cột của Nguyễn triều qua đời (thá ng 5 năm Đinh H ợi (1767). Thế là họ Trương khô ng c ò n ai ngăn cản nữa, càng ra sức là m nhiều việc càn rỡ, chẳng c ò n kiê ng nể gì: b á n q uan buô n tước, ăn tiền tha tội, hình phá t phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ và căm giận. Những người có tầm huyết và tà i năng như Tô n Thất Dục, tinh thô ng kinh sử, thuật số, â m nhạc, bị Loan tìm cách hăm hại. Tà i chính kiệt quệ đến nỗi d ật sĩ Thuận Hoá là N gô Thế Lân phải k ê u lê n triều đ́nh. Nhưng mọi c ố gắn của họ N gô không được hồi â m. G iữa lúc đó, anh em Tây S ơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ở Q uy Nhơn, thanh thế ngà y c à ng lừng lẫy v́ được dân c húng đồng tình ủng hộ. Thêm vào đó , tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774) Trịnh lại đem đại quân vào đánh Nguyễn. C ả Tây S ơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệu trử k hử q uyền thần Trương Phúc Loan và tô n phò Ho àng Tô n Dương. Chiến tranh lo ạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hoá trước trù p hú là thế mà nay trăm b ề xơ xá c la liệt, "mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngo à i đường xác đó i, người nhà có k hi ăn thịt nhau". Trước tình c ảnh đó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà N guyễn c ùng nhau hợp sức bắt tró i Trương Phúc Loan nộp cho q uân Trịnh. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hoá. Trong số q uan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hoá có Lê Q uí Đôn (1776). Tây S ơn tìm c á ch tạm ho à với Trịnh để yê n mặt Bắc và có điều kiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây S ơn cả thủy lẫn bộ đánh vào S ài Gn. Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang Long Xuyê n. Thá ng 9 năm Đinh D ậu (1777) quân Tây ̣ Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đá nh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngô i chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi, khô ng có con nối.
- NGUYỄN PHÚC ÁNH (1780-1802) N guyễn Phúc Ánh cò n có tên húy là C hủng và N oăn, sinh năm Nhâm Ngọ (1762), con thứ ba của Nguyễn Luân. M ẹ N guyễn Ánh là c on gá i Diễn Quốc C ông Nguyễn Phúc Trung (có lẽ P húc Trung được ban quốc tính), người là ng Minh Linh, p hủ Thừa Thiên. Khi Nguyễn Phúc Luân b ị q uyền thần Trương Phúc Loan phế truất rồi b ắt giam năm Ất Dậu (1765), N guyễn Ánh c ò n nhỏ (4 tuổi) đang ở nhà riêng. N ăm Quí Tí (1773), Tây S ơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 13 tuổi, theo chúa Phúc Thuần vào Quảng Nam. M ùa thu năm Đinh D ậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một ḿnh chạy thoát ra đảo Thổ C hu. Một tháng sau, Phúc Ánh tập hợp được một đội quâ n nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang, q uyết tử đá nh chiếm lại S ài Gò n. Giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc đó mới 17 tuổi có Đỗ Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác. Ánh ra sức xây dựng lực lượng, đắp lũy đất ở p hía Tây sô ng Bến Nghé, đó ng cọc gỗ ở các cửa cảng để p hò ng ngừa tấn công của Tây Sơn. Ánh đă có 50 chiến thuyền. Năm Canh Tư (1780) Phúc Ánh chính thức lê n ngô i tại S ài Gò n, d ùng ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi b ảo" là m ấn truyền quốc, niê n hiê u thì vẫn theo chính só c nhà Lê. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) Nhạc và N guyễn Huệ kéo quân vào đánh S ài Gò n. Phúc Ánh chống lại ở cửa biển nhưng yếu sức đà nh thua trận. Phía Phúc Ánh lần này có cả sĩ quan Pháp tử trận. Ánh phải c ưỡi thuyền nhỏ chạy ra biển, đến trú ở đảo Phú Q uốc. Đại quân của Tây Sơn rút về Q ui Nhơn, tháng 8 năm Nhâm Dần (1782) Ánh lại thu thập tàn quân trở lại Gia Đ ịnh. Tháng 2 năm Quư Măo (1783) Nguyễn Huệ và N guyễn Lữ lại kéo vào đánh cửa biển C ần Giờ, q uân Nguyễn tan tác. Tôn Thất Mân, Dương C ô ng Trừng b ị bắt ho ặc chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Ánh (tức Nguyễn Phúc Ánh) c ùng với 5, 6 người tuỳ tùng, 100 lính chạy về Ba Giồng. Thá ng 4 năm đó, bị N guyễn Huệ đuổi gấp, Ánh phải c ưỡi trâ u lội qua sô ng tho át thâ n rồi đem mẹ, vợ con ra Phú Q uốc. Thủy quân Tây S ơn truy đuổi đến tận đảo. T́nh thế cực kỳ nguy khốn song nhờ cai cơ Lê P húc Điển mặc áo ngự đứng đầu thuyền giả là m Nguyễn Vương đá nh lạc hướng Tây S ơn, Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo C ôn Lôn. Phò mă Trương Văn Đa liền kéo thủy quân Tây S ơn ra vây chặt 3 ṿng quanh đảo, chúa Nguyễn như "cá nằm trên thớt", b ỗng một trận băo lớn là m thiệt hại nặng thuỷ quân Tây S ơn, Nguyễn Ánh tho át được đến ḥn C ổ Cốt, sau lại về P hú Q uốc. Thất bại liê n tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con là Ho àng tử Cảnh mới 4 tuổi cho Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện người Pháp. Rồi N guyễn Ánh từ b iệt mẹ và vợ con đem quân chạy ra ngo ài cơi. Nguyễn Ánh chơi vơi ngo à i biển suốt một tuần liền, thiếu lương ăn, nước ngọt, quân sĩ tưởng khó tho át chết, nhưng nhờ may mắn mà sống sót. Những ngà y thá ng b ô n tẩu ở ngo à i, Nguyễn Á nh thường chỉ d ùng cơm với mắm tô m và các lo ại gia vị như hồ tiê u, ớt, hồi hương, quế c hi, tỏi, gừng, ô mai tá n nhỏ ho à lẫn với nhau. Bữa nào cũng đạm b ạc như vậy. Nguyễn Á nh thường cho bầy tô i c ùng ăn và bảo: "Lam chướng ở rừng ở b iển, ăn các thứ nà y tốt lắm; và để tỏ ra cùng cá k hanh tân khổ c ó nhau". Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh đem theo cả mẹ và vợ con chạy sang Xiê m nương thân và cầu viện. M ùa hè năm đó, Nguyễn Ánh d ẫn quâ n Xiê m gồm 2 vạn thủy quân và 3 00 chiến thuyền kéo về S ài Gò n, Gia Đ ịnh. Nhờ c ó viện binh, N guyễn Á nh chiếm lại Ba Xắc, Trà Ô n, Mân Thít, Sa Đéc... Tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Nhạc được tin c ấp báo, tức thì sai Nguyễn Huệ đem quân vào cứu S ài Gòn. Quân Tây S ơn mai phục ở Rạch Gầm và Xo ài M út (tỉnh Đ ịnh Tường), rồi d ụ q uân Xiêm vào trận. Quân Xiêm đại b ại, Chiê u Tăng, C hiêu S ướng c ùng và i nghìn s ĩ tốt theo đường núi chạy về nước. Nguyễn Ánh đi Trấn Giang rồi sang Xiê m, xin trú ở Long K ỳ (người Xiê m gọi là Đồng Khoai, ở ngo à i thà nh Vọng C ác) sai người đó n mẹ và vợ con đến. Quân Nguyễn nhờ đất Xiê m mà sản xuất, trồng c ấy, đó ng chiến thuyền, tích trữ lương thực, thu nạp quân sĩ, đợi thời c ơ. Lưu trú trên đất Xiêm, Nguyễn Ánh đă giúp vua Xiê m đánh b ại Diến Điện,... Vua Xiêm thán phục, đem và ng lụa đến tạ ơn và hứa giúp Nguyễn Á nh lấy lại Gia Đ ịnh. Sau trận đá nh Diến Điện, Nguyễn Ánh c ò n giúp vua Xiê m đá nh lại quân Chà Và. Năm Đinh M ùi (1787), trước lực lượng hùng mạnh c ủa Nguyễn Á nh, lại được Bồ Đào Nhà giúp đỡ, vua Xiê m tỏ ra không bằng lng. Biết vua Xiê m khô ng giúp gì hơn, Nguyễn Á nh lặng lẽ rút quân về nước, dùng kế ly giá n giết Phạm Văn Tham, đuổi ̣ N guyễn Lữu chiếm lại S ài Gò n - Gia Đ ịnh thá ng 8 năm M ậu Thân (1788). Thế là trong khi Nguyễn Nhạc bất lực chỉ b iết bo b o giữ Q ui Nhơn, Nguyễn Huệ p hải lo đối phó với tnh hình B ắc Hà, đá nh đuổi 20 vạn quân Thanh, Nguyễn Ánh ở Gia Đ ịnh ́ nắm thời c ơ c huẩn bị, củng c ố lực lượng. Nguyễn Ánh cò n sai sứ thần Phan Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và 50 vạn cân lương sang giúp nhà Thanh. N ăm K ỷ Dậu (1789), Hoàng tử Cảnh từ p hương Tâ y về nước, Cảnh đi c ùng Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, lê nh đê nh trê n biển và hải c ảng các nước, hai năm sau mới đến Paris. Ho àng tử P háp tiếp đăi theo vương lễ
- song chưa giúp được gì. V triều đ́nh cò n gặp khó khăn. C ảnh về đến Gia Đ ịnh vừa đúng b ốn năm đi xa. Hai sĩ quan Pháp ở ́ lại phụng sự C húa, được Ánh đặt tê n là Thắng và C hấn, cấp một nghìn quan tiền, trao cho chức Cai đội. Trê n lănh đ ịa của ḿnh, Nguyễn Ánh đă hết sức cố gắng nhanh chó ng tăng c ường binh lực và mọi mặt. Một lo ạt chính sá ch được ban hành: đặt quan điền ấn, chuyê n lo việc là m ruộng, thi hà nh phé p ngụ b inh c ư nô ng, trai trá ng khi c ần là lính chiến, hết trận về là m ruộng, đ ịnh lệ k huyến nô ng, đặt đồn điền... Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thương và đăi ngộ tướng sĩ trận vong ho ặc có công lao. Nguyễn Ánh đặt quan hệ tốt với các nước lá ng giềng, nhất là b ính sĩ X iê m nhằm tăng cường thanh thế. Đối với Châu Âu đang giúp rập, Ánh hết sức ưu á i. Thá ng 9 năm K ỷ Mùi (1799) Bá Đa Lộc, giáo sĩ người P háp, ân nhân của Nguyễn Ánh qua đời. Ánh cho cử hà nh tang lễ cực kỳ trọng thể. Thi hà i được ướp thuốc thơm, quan tài bằng gỗ tứ thiết, chuyển từ Diên Khánh về Gia Đ ịnh quà n trong hai thá ng, là m đúng quốc tang, truy tô n là Thái phó Bi Nhu Q uận cô ng. Một ngô i nhà mồ bằng gỗ q uí được xây cất, ngày đêm có 5 0 lính canh phò ng cẩn mật. Người thời b ấy giờ đă nó i rằng: xem cái chết của một đạo trưởng là q uốc tang, d ùng đến nghi lễ trang nghiê m trọng thể bậc nhất như thế q uả là từ cổ c hí k im, nước Nam chưa là m thế b ao giờ! Thế rồi, vừa ra sức củng c ố và p hát triển lực lượng, từ 1792 Nguyễn Ánh b ắt đầu mở các đợt tấn công ra Qui Nhơn theo c hiến thuật "tằm ăn lá d âu" và theo từng mùa gió nồm: "G ặp nồm thuận thì tiến, văn thì về; k hi phá t thì q uâ n lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng". Sau cái chết của Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên. N ăm K ỷ Mùi (1799), N guyễn Ánh b ắt đầu già nh được thế áp đảo, khiến Nguyễn Quang To ản non yếu, nội b ộ lục đ ục không sao chống nổi. Sau k hi Nguyễn Quang To ản mất vào tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Á nh lê n ngô i ho à ng đế.
- Nhà Tây Sơn (1778-1802) Các vị vua Niê n hiệ u Tê n huý Năm trị vì Tuổi thọ Thá i Đức Hoàng Đế Thá i Đức Nguyễn Nhạc 1778- 1793 Thá i Tổ Vũ Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ 1788- 1792 40 Cảnh Thịnh Cảnh Thịnh Hoàng Đế Nguyễn Quang To ản 1792- 1802 20 Bảo Hưng
- NGUYỄN NHẠC (1778-1793) Ba anh em Tây S ơn, Nguyễn Nhạc, N guyễn Lữ và N guyễn Huệ được gọi là "Tâ y S ơn tam kiệt". Tổ tiên nhà Tây S ơn vốn ở là ng H ương C á i, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chúa Nguyễn và o lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thà y đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ A n và o niê n hiệu Thịnh Đức (1653 - 1657) đời Lê Thần Tô ng. Ô ng cố của "Tây Sơn tam kiệt" tê n là Hồ P hi Long, và o giúp việc cho nhà họ Đinh ở thô n Bằng Châ n, huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn), cưới vợ họ Đinh và s inh được một trai tên là Hồ P hi Tiễn. Hồ P hi Tiễn khô ng theo việc nô ng mà b ỏ đi buô n trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và đ ịnh c ư tại đó. Bà vợ tên là N guyễn Thị Đồ ng, con gá i duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó nên họ đổi con cái từ họ Hồ sang họ N guyễn của mẹ. V ì vậy, người con có tên là N guyễn Phi Phúc. Nguyễn Phi Phúc cũng chuyê n nghề b uô n trầu và trở nê n mỗi ngà y mỗi giàu có . (C ũng c ó tà i liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ k hi mới vào N am). N guyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và N guyễn Huệ. Lớn lên, ba anh em được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Chính người thầy nà y đã p hát hiện được khả năng khác thường c ủa Nguyễn Huệ và k huyên ba anh em khởi nghĩa để xây d ựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm: "Tâ y khởi nghĩa, Bắc thu c ô ng" là c ủa ông. Trong những năm đầu tiê n, Nguyễn Nhạc đó ng vai trò q uan trọng nhất. Tương truyền trước khi nổi d ậy ô ng từng đi buô n trầu nê n được gọi là H ai Trầu. C ó sách nói Nguyễn Nhạc là m chức biện lại nê n c ò n gọi là B iện Nhạc. Sử nhà N guyễn chép rằng ô ng được chúa Nguyễn giao cho việc thu thuế trong vùng nhưng mang tiền thu thuế đánh b ạc mất hết, cùng quẫn phải nổi d ậy. Tuy nhiê n theo một số nhà sử học, tình tiết nà y thực chất là d ụng ý nó i xấu người "phản lo ạn" c ủa nhà N guyễn sau khi họ đã thắng trận mà thô i. Từ k hi chúa Nguyễn Phúc Khoát chết (1765), chính sự họ N guyễn ở Đà ng Trong rối ren quanh việc chọn người lê n ngô i chúa. Khoát vốn trước lập con thứ 9 là Hiệu là m thế tử, nhưng Hiệu mất sớm, để lại người con là Dương. Con cả của Khoát là C hương c ũng đã mất. Đá ng lý ra theo thứ tự k hi Kho át mất, phải lập người con thứ hai là Luâ n lê n ngô i, nhưng quyền thần Trương Phúc Loan nắm lấy triều chính, tự xưng là “Quốc phó”, g iết Luâ n mà lập người con thứ 16 của Kho át là Thuần mới 12 tuổi lê n ngô i, tức là Đ ịnh vương, để dễ về thao túng. Trong triều cũng như b ên ngo ài d ư lu ận nhiều người b ất b ình vì k hi Luâ n đã chết thì ngô i chúa lẽ ra phải thuộc về N guyễn Phúc Dương. N hân cơ hội đó, Nguyễn Nhạc tập hợp lực lượng nổi d ậy ở ấp Tây Sơn. Quân Tây S ơn bao gồm người K inh, người Thượng, người Hoa tham gia rất đông. Khởi phá t từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, N guyễn Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là đồng b ào người Thượng, đứng lê n khởi nghĩa. Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ ho àng tô n Nguyễn Phúc Dương là c há u đích tô n của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc phất cờ nổi dậy năm 1771. Bởi Tây S ơn mang danh nghĩa ủng hộ ho àng tô n Dương và k hi đá nh trận thường la ó ầm ĩ nên d ân gian có c â u: "Binh triều là b inh Quốc phó Binh ó là b inh Ho à ng tô n" S au khi đứng vững ở đ ịa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng và nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại q uân chúa Nguyễn được phái tới đàn áp cuộc khởi nghĩa. Bấy giờ ở Q uy Nhơn c ó nhà già u là Huyền Khê thường giúp tà i c hính cho Nguyễn Nhạc, nhân đó ông sắm thê m được nhiều vũ k hí và c hiê u mộ thê m được nhiều quân. Năm 1773, Nguyễn Nhạc đá nh chiếm ấp Kiến Thà nh, rồi chia cho các tướng c ùng coi giữ: chủ trại nhất Nguyễn Nhạc giữ hai huyện Phù Ly và Bồng S ơn, chủ trại nhì N guyễn Thung giữ huyện Tuy Viền, chủ trại ba Huyền Khê coi việc hậu cần. K hô ng những tập hợp cả những tay lục lâ m như N hưng Huy, Tứ Linh, N guyễn Nhạc còn mật liê n lạc với nữ chúa của nước C hiê m Thà nh só t lại lúc đó đem quân đó ng ở trại Thạch Thà nh để cứu lẫn nhau. S au khi đứng vững ở căn cứ, N guyễn Nhạc quyết đ ịnh đánh thành Quy Nhơn, một trọng trấn của Đà ng Trong, vốn xưa là
- k inh thà nh Đồ Bàn của nước C hiê m Thà nh cũ. Q uy Nhơn là trung tâ m c ủa khu vực Nam Trung bộ, nếu là m chủ Q uy Nhơn có thể là m chủ cả k hu vực này. Để đá nh chiếm thà nh, Nguyễn Nhạc đã vận dụng mưu kế rất táo bạo. Ô ng tự ngồi vào cũi cho quâ n lính khiê ng tới thà nh Quy N hơn nộp cho tướng giữ thà nh là N guyễn Khắc Tuyê n, giả là m quâ n lính phản Tây S ơn, bắt tướng “giặc” về hà ng với chúa N guyễn. Khắc Tuyê n tin là thật nên cho quân áp giải N guyễn Nhạc vào. N ửa đêm, quân Tây S ơn trá hà ng mở cũi cho N guyễn Nhạc, ô ng c ùng binh lính nổi d ậy phối hợp với quâ n ngo ại viện từ ngo ài ùa vào đá nh chiếm thành Quy Nhơn. Nguyễn K hắc Tuyê n vội b ỏ cả gia đình và ấn tín chạy trốn. Từ Q uy Nhơn, Nguyễn Nhạc tiến ra đá nh chiếm Quảng Ngãi. Sau đó ông đem quân vào đánh Phú Yên. Đến cuối năm 1773, quân Tây Sơn thắng như trẻ tre, nhanh chó ng chiếm được Phú Yên, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận, quân N guyễn phải rút vào Nam bộ. Đầu năm 1774, chúa Nguyễn sai Tô n Thất Thăng mang quâ n từ Q uảng Nam vào đánh Tây S ơn nhưng vừa thấy quân Tây Sơn, Thăng đã bỏ chạy. Giữa năm 1774, chúa Nguyễn lại c ử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Đ ịnh theo hai đường thuỷ bộ ra đánh Nam Trung b ộ, nhanh chó ng lấy lại B ình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Nguyễn Nhạc chỉ cò n làm chủ từ P hú Yên ra Quảng Ngãi. Tuy nhiê n lúc Tâ y S ơn vừa mất Bình Khang thì p hía b ắc lại có b iến. Nhân lúc Đàng trong rối ren, cuối năm 1774, chúa Trịnh Sâm cử lão tướng Việp quận cô ng Hoàng Ngũ P húc là m Bình Nam thượng tướng quân, mang 4 vạn quân vượt sô ng Gianh nam tiến, cũng lấy lý d o trừ k hử Trương Phúc Loan, lập Nguyễn Phúc Dương. Quân Trịnh lần lượt chiếm Bố C hính, Đồng Hới và tiến đến Thuận Hoá. Quân Nguyễn yếu thế, chúa Nguyễn phải tró i Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh, nhưng sau đó Hoàng Ngũ P húc vẫn tiến quân, đầu năm 1775 đá nh chiếm Phú Xuân. Chúa Nguyễn khô ng chống nổi phải b ỏ chạy vào Q uảng Nam. N guyễn Nhạc nhâ n thời c ơ đó mang quân hai đường thuỷ bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội b ỏ Q uảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Đ ịnh, để lại N guyễn Phúc Dương. Thá ng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Quảng Nam. Quân Tây S ơn cũng tiến ra, lùng b ắt được Phúc Dương. Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đ ụng độ với quân Tây S ơn. Nguyễn N hạc cử hai tướng người Hoa là Tập Đình là m tiê n phong, Lý Tà i là m trung quâ n đá nh Trịnh. Ho àng Ngũ P húc đang đà thắng lợi, đánh b ại quân Tây S ơn ở Cẩm Sa. Tập Đình b ỏ chạy tháo thân theo đường biển về Trung Quốc. Nguyễn Nhạc phải rút q uân về Q uy Nhơn. N hân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp lại từ Bình Khang ra đánh Phú Yên, quân Tây S ơn lại thua phải co về Q uy N hơn. Như vậy đ ịa bàn của Nguyễn Nhạc chỉ còn Quy Nhơn và Q uảng Ngãi. Tình thế của Nguyễn Nhạc và quân Tây S ơn lúc đó rất nguy ngập. Cả q uân Trịnh lẫn quân Nguyễn từ hai đằng đá nh tới đều đang ở thế thắng trận. N ếu mang quân ra đương đầu với c ả hai phía thì c hắc chắn Nguyễn Nhạc sẽ bị tiê u diệt. Đứng trước tình thế đó, ông đã sáng suốt đưa ra quyết đ ịnh đúng đắn. N hận thấy quân Trịnh đang ở thế thắng liê n tiếp từ k hi và o nam, tiềm lực của Bắc hà lại lớn khô ng thể đương đầu, Nguyễn N hạc quyết đ ịnh xin giảng ho à với chúa Trịnh để tập trung và o chiến trường phía nam. Ô ng sai người đến chỗ Hoàng Ngũ P húc xin đầu hà ng và là m tiê n phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa b ấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ P húc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ N guyễn nên nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, p hong là m “Tây S ơn trưởng hiệu trá ng tiết tướng quâ n”. Dù thế, q uận Việp lã o luyện vẫn khô ng lui quâ n, đóng sát đ ịa giới Q uảng Ngãi, đ ịnh chờ nếu Tây S ơn bại trận sẽ t iến và o chiếm Quảng Ngãi và Q uy Nhơn. Tạm yê n mặc bắc nhưng Nguyễn Nhạc ở và o tình thế chỉ có một lựa chọn là p hải thắng trận để c hiếm lại Phú Yên từ tay quân N guyễn, nếu khô ng sẽ bị q uân Trịnh đá nh chụp. Trong tình thế các tướng đều thua trận bạc nhược, Nguyễn Nhạc quyết đ ịnh c ử e m là N guyễn Huệ, mới 23 tuổi, người sau nà y trở thành nhà q uân sự k iệt xuất của Tây Sơn, là m chủ tướng mang quân vào nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhâ n nắm con b ài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống P húc Hiệp việc lập Phúc Dương là m chúa và c ùng đá nh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì N guyễn Huệ kéo quân tới đá nh khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, Hiệp bỏ chạy. Tướng N guyễn ở Bình Khang là Bùi C ô ng K ế mang quân ra cứu bị N guyễn Huệ bắt sống. Tướng khác là Tống Văn Khô i ở K hánh Hoà ra đánh cũng b ị N guyễn Huệ g iết tại trận. Hoàng Ngũ P húc nhân lúc Tây S ơn mang quâ n và o nam liền lấn tới đó ng quân ở C hu Ổ thuộc Quảng Ngã i, nhưng sau nghe
- tin N guyễn Huệ thắng trận khô ng d á m tiến nữa. Để tăng thê m thanh thế, N guyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em và N guyễn Huệ được phong làm “Tây S ơn hiệu tiền tướng quâ n”. Ít lâ u sau vì tuổi già s ức yếu, quận Việp bỏ Q uảng Nam lui về P hú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng d ưới quyền, c ò n mình d ẫn đại quâ n về bắc. N hân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng c ũ của họ N guyễn lại nổi d ậy chiếm nơi nà y. Nguyễn Nhạc lại điều N guyễn Huệ từ P hú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam. N guyễn Huệ ra bắc để lại tướng người Hoa là Lý Tà i giữ thành Phú Yên. Tài b ất mã n vì mất chức chánh tướng về tay N guyễn Huệ nê n nghe theo lời d ụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Tây S ơn lại mất Phú Yên. Để c hia thế q uân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai N guyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đá nh Gia Đ ịnh. N guyễn Phúc Thuần bỏ chạy về Bà Rịa. Nguyễn Lữ c hiếm được Gia Đ ịnh nhưng khô ng lâu sau các tướng Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, M ạc Thiê n Tứ, Tống Phúc Hiệp, Lý Tài đang tụ tập dần về N am Bộ. N guyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa N guyễn rút về Q uy Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương b ỏ trốn từ Q uy Nhơn về Gia Đ ịnh, gọi Lý Tà i là m vâ y c á nh. Tà i tranh c ô ng với Đỗ Thanh Nhân, hai b ên đánh nhau. Nhân thua b ỏ Gia Đ ịnh về Ba Giò ng. Tài ép Thuần nhường ngô i cho Dương là m Tâ n c hính vương, c ò n Thuần là m Thá i thượng vương. Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại c ử N guyễn Huệ là m tướng mang quâ n thuỷ vào đá nh Gia Đ ịnh. Lý Tà i thua trận bỏ chạy khỏi thà nh, đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc M ôn. Sau Tài rút khỏi Hóc Môn bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Thuần theo Nhân giữ Tranh Giang, Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tà i Phụ. N guyễn Huệ c hia đường đánh b ại c ả hai cánh quân Nguyễn. Thuần và N hân bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Mạc Thiê n Tứ (tướng người Hoa), còn Dương b ỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre). N guyễn Huệ đánh b ại M ạc Thiê n Tứ. Thuần sai Nhâ n lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn N hạc nhâ n lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở N am bộ cũng c ử b inh đá nh Phú Yê n, Bình Thuận. Một cánh quân Tây S ơn ở Biê n Hoà chặn đá nh giết chết Trần Văn Thức. Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến B ình Thuận. Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn cô ng Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và to àn b ộ q uân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng b ị đư a về Gia Đ ịnh xử tử. N guyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, đ ịnh chờ Mạc Thiê n Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu v iện nhà Thanh nhưng b ị quân Tây S ơn đuổi đến nơi, b ắt được Thuần mang về Gia Đ ịnh xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và M ạc Thiê n Tứ trốn tho át mỗi người một nơi. N guyễn Nhạc là m chủ toàn bộ đất đai từ Q uảng Nam đến Hà Tiên. N ăm 1778, ô ng lên ngô i ho àng đế, lấy niê n hiệu là Thá i Đức, khô ng ràng buộc với chính quyền vua Lê chúa Trịnh ở Bắc Hà nữa. S au khi Nguyễn Huệ trở về Q uy Nhơn, các tướng Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, Chu Văn Tiếp nổi d ậy, đó n Nguyễn Á nh về lập là m chúa, chiếm lại Gia Đ ịnh. Được các lực lượng phương Tâ y như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Ánh lại mạnh lên. N ăm 1778, vua Thái Đức sai tướng vào đá nh nhưng lại b ị thua và mất thê m Bình Thuận. Năm 1781, Ánh sợ uy quyền của Nhân quá lớn nê n giết Nhân, lại đem quân đá nh ra Bình Khang nhưng b ị quân của vua Thá i Đức đánh b ại. Thá ng 3 năm 1782, vua Thái Đức và N guyễn Huệ mang quâ n thuỷ bộ nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là M anuel (M ạn Hoè). Nguyễn Ánh b ỏ chạy về Hậu Giang. Chu Văn Tiếp từ B ình Thuận vào cứu bị đánh b ại phải co về. Á nh c ùng thế sai người sang Xiê m c ầu viện. Vua Thá i Đức chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với C hân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiê m c ủa Ánh và suýt b ắt được Ánh. Ánh trốn ra đảo Phú Q uốc. N guyễn Nhạc rút quân về bắc, Chu Văn Tiếp lại từ B ình Thuận mang quân vào đá nh chiếm được Gia Đ ịnh và đó n Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, N guyễn Lữ mang quâ n nam tiến. Dù N guyễn Ánh đã lập tuyến phò ng thủ trước vẫn bị quân Tây S ơn phá tan, Ánh b ỏ chạy về Đồng Tuyê n. Nguyễn Huệ đá nh phá Đồng Tuyê n, Ánh b ỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Q uốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây S ơn truy k ích, Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, C ổ Cốt rồi lại quay về P hú Q uốc. Quân Tây Sơn vâ y đá nh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây S ơn phải giãn ra, sau 7 ngày đê m lê nh đê nh trê n biển, Ánh thừa cơ lại trốn tho át, chạy hẳn ra đảo Thổ C hu cách
- xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiê m c ầu viện. N guyễn Ánh cầu viện được quân Xiêm, trở lại Nam bộ năm 1784 nhưng sang đầu năm 1785 lại b ị N guyễn Huệ p há tan trong trận Rạch Gầm – Xo ài M út nổi tiếng (xem b à i về nhà Tây S ơn và N guyễn Huệ), C hu Văn Tiếp bị g iết. Ánh phải chạy sang Xiê m sống lưu vong. Năm 1782, Bắc hà có biến, phe người con lớn của chúa Trịnh S âm vừa chết là Trịnh Tô ng là m binh biến lật đổ người con nhỏ mới được lập là Trịnh C án. Một tướng Bắc hà là N guyễn Hữu Chỉnh (thủ hạ cũ của Hoàng Ngũ P húc) khô ng hợp tác với Trịnh Tô ng nên b ỏ vào nam hàng Tây S ơn và được vua Thá i Đức tin d ùng. Năm 1786, khi tình hình phía nam đã tạm yên, Hữu Chỉnh khuyê n vua Thá i Đức đánh Phú Xuân để k hô i phục lại đất đai của chúa Nguyễn trước đây. Vua Thái Đức đồng ý, liền cử N guyễn Huệ là m chỉ huy cùng các tướng Nguyễn Hữu Chỉnh và p hò mã Vũ Văn Nhậm (con rể vua Thá i Đức) bắc tiến. Q uân Trịnh ở P hú Xuân b ị quân Tây S ơn d ùng k ế lừa khiến mất cảnh giá c và nghi ngờ lẫn nhau. Thá ng 5 năm 1786, Nguyễn Huệ nhanh chó ng đá nh chiếm thành Phú Xuân. Nghe theo k ế của Nguyễn Hữu Chỉnh - người muốn trả thù Trịnh Tô ng, N guyễn Huệ q uyết đ ịnh mang quân ra đá nh Thăng Long mà k hô ng hỏi ý vua anh. Vua Thá i Đức nghe tin em đã mang quân bắc tiến, sai người đuổi theo gọi về nhưng khô ng k ịp. Với khẩu hiệu “Phù Lê d iệt Trịnh”, chỉ trong 1 tháng, Nguyễn Huệ đánh b ại quâ n Trịnh, Trịnh Tô ng tự sát. Nguyễn Huệ tô n phò nhà Lê và được vua Lê Hiển Tô ng gả công chúa Ngọc Hân cho. Vua Thá i Đức vội vã ra bắc gọi em về. S au khi lựa lời vỗ về e m, vua Thá i Đức tự mình c ầm quân, thay đổi hết nhâ n sự do em sắp đặt rồi mới gặp gỡ vua Lê vừa lê n ngô i là C hiê u Thống. Ít ngày sau, ô ng cùng Nguyễn Huệ b í mật rút quân về nam. Sử sách khô ng ghi chép thật rõ ràng về sự k iện mâ u thuẫn giữa anh em Tây S ơn. C ác sử gia nhà N guyễn cho rằng tại N guyễn Nhạc "tư thô ng" với vợ N guyễn Huệ, nhưng lý d o này có vẻ k hô ng xác đá ng. C ó tà i liệu nó i rằng Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng bạc lấy từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về nam nhưng vua em khô ng chịu; hơn thế vua em lại xin vua anh cho cai quản thêm Quảng Nam và vua anh khô ng chấp thuận, do đó N guyễn Huệ chủ động mang quân vào nam đánh Nguyễn Nhạc. Ý kiến sau có vẻ xác đá ng hơn. C ó ý kiến b àn thêm rằng, chủ trương c ủa Nguyễn Nhạc là tập trung tiê u diệt chúa Nguyễn, chỉ đ á nh chiếm phần đất của chúa N guyễn để thay thế cai trị tại miền Nam và giữ hò a b ình với B ắc Hà, cho nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân bắc tiến là trá i ý vua anh. Ngay khi biết tin N guyễn Huệ đá nh Thăng Long, vua Tây S ơn vội mang quân ra b ắc, thực chất là để gọi em về. Mặt khác, Nguyễn Nhạc khô ng yên tâm với s ự p há t triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ. Trong khi đó , là người c ó hùng tâ m, N guyễn Huệ có chủ trương tự lực phát triển ra ngo ài tầm kiềm chế của vua anh và việc bắc tiến của ô ng khô ng hẳn chỉ v ì lời k huyên của Nguyễn Hữu Chỉnh. C ó lẽ đâ y mới chính là nguyê n nhâ n d ẫn tới mâ u thuẫn của anh em Tây S ơn. Sử cũ ghi rất vắn tắt và k hô ng thật rõ ràng về sự k iện này, chỉ b iết khoảng đầu năm 1787 Nguyễn Huệ mang quâ n nam tiến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vâ y ngặt b èn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Đ ịnh, ra cứu. Trấn vâ ng lệnh mang q uân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị N guyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây b ức quá phải lê n thà nh khó c xin em đừng đá nh thà nh nữa. Nguyễn Huệ bằng lò ng giảng hò a với anh. Tuy nhiê n, theo một giáo sĩ p hương Tâ y tại Việt Nam lúc đó , anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tuy mâ u thuẫn nhưng cho đến khi Nguyễn Huệ bắt được Đặng Văn Trấn, quân đội hai b ê n vẫn chưa thực sự đá nh nhau thì N guyễn Lữ đứng ra điều đình và hai b ê n vì tình c ảm trong nhà đã đồng ý giảng ho à. N guyễn Nhạc phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực từ thá ng 4 năm 1787: N guyễn Nhạc xưng là Trung ương Ho àng đế, đó ng đô ở Q uy Nhơn. Phong Nguyễn Lữ là m Đô ng Đ ịnh Vương, cai quản vùng đất Gia Đ ịnh. Phong Nguyễn Huệ là m Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vâ n trở ra Bắc. N hư vậy vua Thá i Đức đã thoả mãn yêu cầu được cai quản Quảng Nam của vua em. Anh em vua Thá i Đức mâ u thuẫn khiến kẻ đ ịch lợi d ụng ngay lập tức. Ở p hía b ắc, họ Trịnh ngó c đầu dậy rồi N guyễn Hữu C hỉnh ra sức ho ành hành. Ở p hía nam, Nguyễn Ánh cũng nhâ n c ơ hội lực lượng Tây S ơn bị c hia sẻ để q uay trở về đá nh lại Gia Đ ịnh (thá ng 7 năm 1787).
- N gười em Đô ng Đ ịnh vương ươn hèn, chưa đá nh nhau với đ ịch đã bỏ chạy về Biên Hoà, bỏ Gia đ ịnh cho Phạm Văn Tham g iữ. S au lại chạy luô n một mạch về Q uy Nhơn rồi ốm và q ua đời khiến vua Thá i Đức mất một chỗ dựa về tinh thần. (xem thê m b à i về N guyễn Lữ). Mặc d ù tháng 10 năm 1787, ông đã điều Nguyễn Văn Hưng và o tiếp viện cho Phạm Văn Tham, nhưng sau khi hai người vâ y đánh Nguyễn Ánh ở Mỹ Lung khô ng hạ được, Hưng lại rút quâ n về Q uy Nhơn. Hẳn việc Hưng rút về Q uy Nhơn theo lệnh c ủa vua Thá i Đức. Dù Hưng tự ý rút nhưng ô ng khô ng trừng phạt tướng nà y cho thấy ô ng khô ng cò n quyết tâm và đủ nhuệ k hí với chiến trường Nam bộ nữa, hoàn toàn phó thác cho Phạm Văn Tham. Những diễn biến sau nà y từ c hiến trường Nam bộ cho thấy đâ y là sai lầm lớn của ông. K hông có người hợp sức, Phạm Văn Tham b ị đ ơn độc và dần dần trở nê n yếu thế trước lực lượng ngà y c à ng lớn mạnh c ủa N guyễn Ánh. Ánh chuyển từ p hò ng ngự sang tấn cô ng. Tới thá ng 8 năm 1788, thành Gia Đ ịnh mất, Tham phải chạy ra ngo ài t iếp tục chiến đấu. Tướng nà y chiến đấu bền bỉ đ ến tận đầu năm 1789 sau khi Nguyễn Huệ đá đá nh xong quâ n Thanh, nhưng vì b ị N guyễn Á nh vâ y ngặt và chặn đường biển về Q uy Nhơn, buộc lò ng phải đầu hà ng. Trong khi đó vua em Bắc Bình vương vừa so gươm với ô ng đang quyết chí theo đuổi ý tưởng chinh phục phía bắc để xâ y dựng sự nghiệp riêng. Khô ng phải vua em khô ng quan tâm tới chiến trường Nam bộ[2] nhưng nguy c ơ ở Bắc hà liê n tiếp xảy ra khô ng yên, từ họ Trịnh rồi N guyễn Hữu Chỉnh và sau đó là Vũ Văn Nhậm và c hính Lê C hiê u Thống d ẫn quâ n Thanh về k hô ng phải nhỏ. Do đó N guyễn Huệ k hô ng thể dồn hết lực lượng và o chiến trường Nam bộ lúc đó. Lực lượng c ủa vua Thá i Đức đã hao mò n, lại mất hết nhuệ k hí và ô ng cũng khô ng có p hương pháp nào vực dậy. G iữa anh em vua Thái Đức d ù già ng ho à nhưng chưa hoàn toàn xoá bỏ h iềm nghi. H à nh động chống đối vua em c ủa người con rể vua Thá i Đức là Vũ Văn Nhậm chứng tỏ lo lắng c ủa vua em là có sơ sở. Do đó , d ù vua anh đã bất lực nhìn Nam b ộ từng ngà y mất về tay Nguyễn Á nh thì việc vua em cầm quân qua đ ịa phận vua anh để nam tiến cũng khô ng phải là d ễ d àng. C hính sau c á i chết của Vũ Văn Nhậm và d iễn biến chiến trường Nam bộ, vua Thá i Đức đã nhận ra tuổi già , sự bất lực của mình với đại cuộc. Ô ng thấy ngo à i việc khô ng thể k ìm chế người em hùng lược, ông cũng khô ng nê n ngăn cản em mình lo việc c hung c ủa nhà Tây S ơn nữa. Chính vì vậy, cuối năm 1788, vì cơ nghiệp chung, ô ng từ bỏ đế h iệu và niê n hiệu Thá i Đức, tự xưng là “Tây S ơn vương”. Ô ng nhiều lần viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ Q uy Nhơn và nhường to àn b ộ b inh quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ô ng c ầu khẩn vua em mang gấp đại binh và o c ứu Nam bộ (chiếu lê n ngô i c ủa Quang Trung nó i rõ vấn đề này). Tuy nhiê n lức đó Bắc Bình vương d ù b iết lời c ầu khẩn của ô ng nhưng khô ng thể và o nam tham chiến vì 2 0 vạn quâ n Thanh d o Lê C hiêu Thống rước về đã vượt qua biê n giới. Nguy cơ p hía b ắc rõ ràng lớn và gấp hơn nên vua em buộc phải ho ã n việc nam tiến thê m một thời gian nữa. Mặc d ù vua em Quang Trung đã đại thắng quân M ãn Thanh (1789) nhưng sau đó vẫn phải lo ổn đ ịnh tình hình B ắc hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại và sức ép ngoại giao từ p hía nhà Thanh. Vì vậy, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đá nh B ình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liê n tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, ông chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Q uảng Ngãi. S au khi ổn đ ịnh tình hình B ắc hà, Quang Trung quyết tâ m tiê u diệt Nguyễn Ánh. Ô ng ra sức trấn an vua anh và nhân d ân trong vùng do vua anh cai quản để c huẩn bị nam tiến. Theo nhiều nhà nghiê n c ứu, việc Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi “xin” C àn Long đất Quảng Đông, Quảng Tâ y thực ra chỉ là một thủ thuật về c hính trị. Q uang Trung khô ng có d ụng tâ m lấy đất Trung Quốc vì ô ng biết thực lực khô ng thể, hay ít ra là c hưa thể là m lúc đó. Hơn nữa, ô ng thu d ụng quâ n lục lâ m “Tàu ô”, sai đá nh phá b iê n giới Trung Quốc cốt để nhà Thanh b ị cuốn vào hoạt động ngo ại giao và c hống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh d ồn lực lượng và o chiến trường miền nam mà thô i. Để c huẩn bị p hối hợp với vua em, năm 1792, Nguyễn Nhạc đó ng nhiều tà u thuyền đó ng ở cửa Thi N ại để nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đô ng mới thuận gió cho quân Tây S ơn vào. Nguyễn Á nh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi N ại, đốt chá y nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây S ơn vương k hô ng phò ng b ị, lại phải thu quâ n về Q uy Nhơn. Để báo thù trận đó , vua em Quang Trung d ự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20 vạn quâ n thuỷ bộ, c hia là m ba đường: Vua anh và q uân “Tàu ô” cùng theo đường b ộ từ P hú Yên vào đá nh Gia Đ ịnh Quân bộ của Quang Trung từ P hú Xuân đi thẳng qua lã nh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân
- C hân Lạp kéo về Gia Đ ịnh, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh khô ng cho sang Xiêm. Quân thuỷ của Quang Trung sẽ t iến vào đó n lõ ng tận Hà Tiên đổ bộ lê n đất liền để ngăn Ánh chạy ra biển. C hính các giáo sĩ P háp giúp Nguyễn Á nh lúc đó cũng rất lo lắng và d ự liệu Ánh khó lò ng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiê n c á i chết đột ngột của vua em Quang Trung tháng 9 năm 1792 khiến kế ho ạch nam tiến này khô ng bao giờ trở thà nh h iện thực. Vua em qua đời nhưng vua anh khô ng thể ra viếng vì q uâ n c ủa vua cháu là C ảnh Thịnh (Quang To ản) ngăn giữ p hò ng b ị. Lúc đó Tây Sơn vương đã già yếu, lắm b ệnh. C ó lẽ ông hoàn toàn bất ngờ, suy sụp sau cái chết của người em hùng lược và còn đang độ sung sức hơn ô ng, chỗ dựa đá ng tin c ậy nhất có thể d iệt được Nguyễn Ánh. Dù đã từng muốn nhường c ơ nghiệp cho Nguyễn Huệ nhưng sau khi Nguyễn Huệ qua đời, Nguyễn Nhạc khô ng nhường c ơ nghiệp của mình cho chá u vì ô ng nhận thấy Quang To ản cò n quá nhỏ, k hô ng đủ tà i năng, b ản lĩnh để cầm quyền ngay trong triều đình c ủa chính To ản. Năm 1793, khi ông đang b ệnh trê n giường, Nguyễn Ánh đánh ra Quy Nhơn. Ô ng khô ng thể cầm quân nên sai con là Q uang Bảo ra cự địch. Tình thế nguy c ấp, ông phải viết thư cầu cứu vua cháu. C ảnh Thịnh sai N gô Văn S ở, P hạm C ông Hưng mang quân vào cứu, quân Ánh phải rút lui. Dù N guyễn Nhạc đã sai mang vàng b ạc ra khao quân Phú Xuân nhưng C ô ng Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, kê biên kho tàng của ô ng. Thấy cơ nghiệp của mình sắp truyền cho con bị c há u chiếm đoạt, ô ng uất hận thổ huyết mà qua đời. N guyễn Nhạc ở ngô i tổng c ộng 15 năm (1778- 1793), xưng hiệu Thá i Đức đế 11 năm (1778- 1788), xưng là Tây S ơn vương 5 năm (1789- 1793). Về sau, con ô ng là Q uang Bảo bị e m họ Q uang Toản an trí ra huyện Phù Ly, gọi là T iểu triều. Bảo không cam chịu, năm 1799 đá nh chiếm lại thành Quy Nhơn rồi đ ịnh theo hàng Nguyễn Ánh. Quân của Ánh chưa tới thì C ảnh Thịnh đã điều quân vào đá nh chiếm thà nh, giết chết Quang Bảo. K hi Nguyễn Á nh tiê u diệt được Tây Sơn, sai người đào mộ vua Thá i Đức và vua Quang Trung, giã hài cốt thành b ột. Sọ dừa của hai vua b ị mang b ỏ vào vò và giam cầm trong ngục thất. Người đời thương tiếc Tây Sơn vẫn gọi là “Ô ng Vò”. Vua Thá i Đức Nguyễn Nhạc là người phát động phong trào Tây S ơn. Ô ng là người đó ng vai trò q uan trọng nhất trong việc gây d ựng phong trào buổi đầu cho đến khi d ựng thà nh một cơ đồ riêng. Vua em Nguyễn Huệ trẻ trung, hùng lược (khi khởi nghĩa mới 18 tuổi) sở dĩ sau nà y lập được nhiều chiến c ô ng hiển hách cũng nhờ vào cơ sở gây d ựng ban đầu của ông. C hính b ởi vai trò gâ y d ựng c ủa ông cho nhà Tây S ơn sau nà y lớn mạnh và lập được nhiều chiến công (kể cả k hi ô ng khô ng cò n vai trò “cầm trịch” đại cuộc), nhà N guyễn rất căm ghét ô ng và các sử gia triều đại nà y luô n gá n cho ô ng, khô ng chỉ là “tội” với “triều đình” mà còn cả những điều xấu nhiều hơn cả trong 3 anh em Tây S ơn. Do những chiến c ô ng hiển hách của Nguyễn Huệ, tê n tuổi c ủa ô ng trong những nhà lã nh đạo Tây Sơn có phần bị lu mờ. Thậm chí ngo ài các sử gia nhà N guyễn, cò n khô ng ít nhà sử học ngày nay phê p hán những sai lầm của ô ng và chê ô ng k ém tài. Tuy nhiê n, nếu nhìn nhận khách quan có thể thấy Nguyễn Nhạc đã có những quyết đ ịnh sá ng suốt trong những thời điểm then chốt. Xuất thâ n từ b iện lại trong vùng núi, N guyễn Nhạc đã chứng tỏ tà i năng kiệt xuất của người đề xướng và lã nh đạo khi b iết tập hợp và thu dụng mọi lực lượng trong xã hội để xây d ựng thà nh một đội quâ n đô ng đảo, mạnh mẽ, đủ sức quật ngã chúa Nguyễn. Ô ng biết tranh thủ k hô ng chỉ sức d ân trong nước mà còn cả ho ạt động ngo ại giao với các nước lá ng g iềng như C hân Lạp và sau này là Xiêm La để củng c ố thực lực cho mình. Đứng trước tình thế bị cả q uân Trịnh và q uân Nguyễn từ hai đằng é p lại, Nguyễn Nhạc tìm ra đường giải nguy là giảng ho à với k ẻ đ ịch lớn mạnh hơn lúc đó là họ Trịnh để rảnh tay lo việc phía nam. Hơn nữa, trong thế bị dồn vào chân tường, ô ng cò n mạnh d ạn, quyết đoán sử dụng người em Nguyễn Huệ mới 23 tuổi, chưa từng là m chủ tướng, cầm q uân đi đá nh một trận quyết đ ịnh (Phú Yên) mà chỉ có thắng mới cò n đường sống. Ban đầu ô ng đã có ý đ ịnh ngăn cản Nguyễn Huệ p há t triển tà i năng và cơ nghiệp riê ng. Hiển nhiê n điều đó là k hó tránh
- k hỏi, một phản xạ như bản năng c ủa một ô ng vua khi cò n đương quyền và sung sức. Nhưng khi đã nhận ra tà i năng của vua em có thể đảm đương được đại s ự và b iết thực lực của mình khi về già , Nguyễn Nhạc đã tự nguyện rút lui để nhường ngô i ho à ng đế cho em, quyết khô ng để v iệc tranh chấp trong nhà cho kẻ đ ịch lợi d ụng như anh em Trịnh C ối, Trịnh Tùng trước đây và chính anh em Quang Bảo, Quang Toản sau này. Ô ng đã nhận thấy được hậu quả của cuộc xung đột lần trước khiến kẻ đ ịch lợi d ụng và ô ng đã b iết sửa chữa sai lầm. Hành động đó của Nguyễn Nhạc rất đúng đắn và nếu như vua em khô ng sớm ra đi để ho à n thà nh việc tiê u diệt Nguyễn Ánh, thống nhất giang sơn, xây d ựng Việt N am hùng mạnh, người đời sau sẽ còn ca ngợi đức độ của ô ng như vua Cao Tổ Lý Uyê n, biết rút lui đúng lúc cho con là Lý Thế Dân (Thái Tô ng) ho àn thành cơ nghiệp rực rỡ của nhà Đường. Những điều kiện khách quan khô ng cho ý đ ịnh c ủa ô ng (và vua em) thà nh hiện thực. H iển nhiê n anh em Tâ y S ơn, trong đó có N guyễn Nhạc, đã phạm phải sai lầm và nhà Tây S ơn phải trả giá c ho sai lầm của những người lã nh đạo. Tên tuổi c ủa Nguyễn Nhạc có thể k hô ng nổi tiếng như N guyễn Huệ nhưng nó i đến khởi nghĩa Tây Sơn, cái tên đầu tiê n được nhắc đến là N guyễn Nhạc. C ho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tranh luận về q uan điểm giữa Nguyễn Nhạc và N guyễn Huệ trong việc “đá nh nam d ẹp bắc” (xem thê m b à i về N guyễn Huệ). Bản ý của vua Thá i Đức là chỉ đ á nh chiếm Phú Xuân để thay thế chúa Nguyễn cai quản Nam hà mà thô i. C ó ý k iến cho rằng ô ng muốn tập trung sức lực tận diệt lực lượng c ủa Nguyễn Ánh và tham vọng phá t triển về p hía nam, mở rộng b ờ cõ i sang C hân Lạp. Việc Nguyễn Huệ bắc tiến Thăng Long ho àn ngo ài d ự định c ủa ô ng, khô ng chỉ k hiến quân Tây S ơn phải phâ n tá n lực lượng ra bắc mà về mặt cá nhân, sự p há t triển lực lượng riê ng c ủa Nguyễn Huệ ảnh hưởng đến quyền lực toàn cục của ông, dần dần sẽ k hó k ìm chế được. Theo sách “Ho àng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phá i, một trong số ít những sách mô tả k há sinh động, châ n thực về vua Thá i Đức, chính lần ra bắc gọi em về, vua Thá i Đức đã nó i rõ với người B ắc hà quan điểm của ông để người B ắc hà yên tâm rằng ông không hề có ý định chiếm giữ đất này. Ông không muốn k ết oán v ới người Bắc hà, theo ô ng là một nước lớn có t ruyền thống lâu đời, và cho rằng, dù đời ông có chiếm được thì đời con cháu ông cũng không giữ được.
- QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ (1789-1792) N guyễn Huệ s inh năm Quý Dậu (1752), là em của Thá i Đức Hoàng đế N guyễn Nhạc. Khi cò n nhỏ, N guyễn Huệ thường được gọi là c hú Thơm, là e m thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ c ó nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tó c quăn, t iếng nó i sang sảng như chô ng, cặp mắt sá ng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quâ n khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nho áng, đá nh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chó ng trở thà nh vị tướng trụ cột của vương triều Tây S ơn. Khi mà vua Thá i Đức đang phải lo c ủng c ố xây d ựng triều đình, thì N guyễn Huệ là người được trao cầm quân đá nh Đông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thăng lớn vang d ội c ủa quân Tây S ơn đều gắn liền với tê n tuổi c ủa vị tướng trẻ tài ba này. Đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh chuyê n quyền, Nguyễn Huệ tỏ ư tô n phò nhà Lê. C ùng với thuộc tướng là N guyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ t iếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tô ng trân trọng mời N guyễn Huệ ngồi ở sập b ê n giường ngự mà hỏi thăm yê n ủi. Nguyễn Huệ thưa: - Tô i vốn là k ẻ áo vải ở Tây S ơn, nhâ n thời thế mà nổi d ậy. Bệ hạ tuy khô ng cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tô i ở cơi xa, b ấy lâ u vẫn k ính mến thá nh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ tho ả được tấm lò ng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp ho à ng gia, nê n trời mượn tay tô i một trận phá ngay được, ấy là nhờ ở o ai đức của bệ hạ. Vua Lê ôn tồn đá p: - Ấy là võ cô ng của tướng quân cả, chứ q uả nhân nào có tài đức gì! N guyễn Huệ k hiê m tốn thưa: - Tô i chỉ tôn phò, đau dám kể tới c ô ng lợi. Việc ngày nay đă xảy ra như thế thật bởi lò ng trời xui nê n hết thảy... Thế là trời có ư xui b ệ hạ chấn kỷ cương, nảy mực, khiến cho trong ấm ngo à i ê m, tô i đây cũng được ơn nhờ. Vua Lê sai các cựu thần Trần C ông S áng, Phan Lê P hiêu, Uông S ĩ Đ iển ra tiếp chủ suư Tây S ơn. Sau cuộc gặp gỡ nà y, thiê n hạ yê n lò ng, chợ lại họp, ruộng lại c à y, tình h́nh trong nước dần dần ổn đ ịnh. Theo lời N guyễn Hữu Chỉnh chỉ vẽ, N guyễn Huệ xin vua Lê c ho thiết lễ đại triều ở điện K ính Thiê n để Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho to àn thiên hạ rõ việc tôn phò đại thống. C ử chỉ này của Nguyễn Huệ k hiến ô ng vua cao tuổi Lê C ảnh Hưng vô c ùng xúc động, chứng kiến việc ban bố c hiếu thư "nhất thống". Đáp lại cô ng lao của chủ súy Tây S ơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ p hong cho Nguyễn Huệ là m Nguyễn S úy Dực c hính phù vận Uy Quốc công. Nguyễn Huệ sai người sang c ảm tạ vua Lê theo đúng lễ nhưng trong lò ng khô ng vui. Nguyễn Huệ nó i với N guyễn Hửu Chỉnh rằng: - Ta mang và i vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người d â n b â y giờ k hô ng phải c ủa ta thì c ủa ai vào đâ y nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai c ò n d á m là m gì nổi ta? Thế mà ta cò n nhường nhịn k hô ng là m, chẳng quan hậu đăi nhà Lê đó thô i, danh mệnh Nguyên súy, quốc cô ng có làm cho ta thêm hơn gì? C ác đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hăo, chực lung lạc ta sao? Đừng b ảo ta là mán mọi, được thế đă lấy là m vinh rồi đâu! Ta khô ng nhận lấy, chắc người ta b ảo ta thất lễ; ta nhận mà k hô ng nó i ra, người ta lại cho ta là k hô ng biết gì! Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm tức giận. Nhờ có N guyễn Hữu Chỉnh là tay khéo d àn xếp, Huệ mới nguô i lò ng. Sau khi trở thành phò mă nhà Lê, Nguyễn Huệ k hô ng trực tiếp can dự vào nội b ộ triều Lê vì c ò n giữ t iếng. Khi vua Lê b ị bệnh nặng, công chúa Ngọc Hâ n giục phò mă N guyễn Huệ vào thăm song ô ng từ chối: - Tô i chẳng sớm thì c hầy rồi c ũng về N am; việc nước không dám dự đến. Vả, tô i xa xô i tới đây, chắc người ngo à i Bắc hăy còn chưa tin mấy, nếu vô nội thăm hỏi vua cha, muô n một xa giá c hầu Trời, chẳng hó a ra tự mình chuốc lấy c á i tiếng hiềm nghi khô ng bao giờ g iăi to ả được?" Vào một đê m mưa to, gió dữ của tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thành Thăng Long nước ngập đến một thước, vua Lê C ảnh Hưng qua đời ở tuổi thọ 70. Trước khi nhắm mắt ông còn kịp trối lại cho Ho àng tô n Duy K ỳ: - Q uân b ên ngo ài đang đó ng ở đâ y; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên b àn cùng Nguyên suư (Nguyễn Huệ), chứ đừng tự t iện là m một mình. Trá i với những người muốn lập Hoàng tôn Duy K ỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nê n lập ai lên ngô i b áu, đă nghiê ng về Lê Duy C ận. Nghe lời vợ, N guyễn Huệ muốn ho ăn lễ đăng quang của Duy K ỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực.
- C ác tôn thất nhà Lê cho rằng cô ng chúa Ngọc Hân cố tình là m lỡ v iệc lớn của triều đình và b ảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhâ n nhượng mà nó i lại với N guyễn Huệ thu xếp cho Duy K ỳ được nối ngô i. Đến ngà y lễ thà nh phục của nhà vua quá cố Lê Hiển Tô ng ở nội điện, Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ nghi lễ của phò mă: rể mặc áo tang trắng, đứng trong điện dự lễ. Thấy viê n tiểu lại có cử chỉ bất k ính trọng lúc là m lễ, N guyễn Huệ lập tức sai lô i ra chém. Từ đó triều thần khiếp sợ và nghi lễ được cử hà nh hết sức tô n nghiêm. Ngày đưa linh c ữu vua xuống thuyền về Thanh Hoá để an táng, Nguyễn Huệ mặc tang phục đi hộ tang đến tận bờ sô ng, lại sai b ộ tướng là Trần Văn K ỷ và N guyễn Hữu C hỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến tận bến sô ng, lại sai b ộ tướng là Trần Văn K ỷ và N guyễn Hữu Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến lăng Bà n Thạch. Mặc dù vừa mới trải qua binh đao, tang phục tuy đơn sơ, g iản dị nhưng lễ nghi thì đầy đủ và trang trọng khác thường. Xong tang trở về, N guyễn Huệ tự hà o nó i với cô ng chúa Ngọc Hân: - Tiê n đế có hơn 30 người con, thế mà k hô ng người nào b ằng một mình nà ng là gá i. Trong việc tang tiê n đế, mình với các anh em khác, ai hơn nào? Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về N am, rồi được phong làm Bắc Bnh ́ Vương. Lần ra Bắc lần thứ hai năm M ậu Thân (1788), khi Lê C hiêu Thống đă bỏ k inh thà nh chạy ra ngo ài, Bắc Bnh Vương c ũng đă ́ nghĩ đ ến chiếc ngai và ng b ỏ trống, đă triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song khô ng thuận lợi. Ô ng cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên tuổi đă được Bắc Bnh Vương trọng d ụng như N gô Thì N hậm, Phan Huy ́ Ích ra đảm đương c ô ng việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc Bnh Vương như Trần Bá Lăm, Võ Huy Tấn... ́ S au khi đălập S ùng Nhượng cô ng Lê Duy C ận lê n là m Giá m quốc, sắp đặt các quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quâ n về N am. Trước khi trở về N am, Bắc Bnh Vương đă dặn bảo cận thần rằng: ́ - Đại Tư mă N gô Văn S ở, Nội hầu Phan Văn Lâ n là nanh vuốt của ta; Chưởng phủ N guyễn Văn Dụng, Hộ bộ thị lang Trần Thuận Ngô n là tâm phúc của ta. Lại b ộ thị lang Ngô Thì N hậm tuy là người mới, nhưng là b ậc tân thần, ta coi như khách. N ay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong to àn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi là m việc. Song các khanh cần phải hợp bàn với nhau, chứ đừng phần b́ kẻ mới người c ũ, m iễn sao làm cho được việc, ta mới yê n lò ng... Thế rồi khô ng đầy 6 tháng sau, Bắc Bnh Vương đang ở thà nh Phú Xuâ n thì được tin Lê C hiê u Thống đă dẫn đội quâ n xâ m ́ lược Măn Thanh và o chiếm đó ng kinh thà nh Thăng Long, quân đội Tây S ơn do Đại Tư mă N gô Văn S ở chỉ huy phải tạm rút lui về đó ng ở Tam Điệp- Biện S ơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thứ ba ra Thăng Long. Lần này ô ng ra Bắc với tư cách là Q uang Trung ho àng đế. Thể theo lời khuyê n c ủa tướng lĩnh và lò ng mong mỏi c ủa ba quân cùng thần dân, Bắc Bnh Vương ́ cho chọn ngà y, lập đàn tế trời đất, thần sô ng, thần nước và lê n ngô i ho à ng đế tại Phú Xuâ n, ngay hô m đó kéo cả quân bộ, q uâ n thuỷ ra Bắc diệt quâ n xâ m lược Thanh, giải phó ng Thăng Long và Bắc Hà. Dự tính trước mọi khả năng tiếp theo của thời cuộc, vua Quang Trung đă nơi với quan quâ n ngay trước khi b ước bào chiến dịch: - N ay ta tới đây, thân đốc viện binh, chiến thư ra sao đă có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngà y nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song, ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp mười lần, Thanh b ị thua tất lấy là m thẹn, chắc phải tm cách ́ rửa hờn. N ếu cứ để b inh lửa kéo dài măi, thật khô ng phải là p húc trăm họ, lò ng ta khô ng nỡ! N ên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới d ập tắt được ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì N hậm. Đúng như dự k iến và lời hứa hẹn của vị tổng binh, ngà y 7 thá ng Giê ng năm K ỷ Dậu (1789) quân đội c ủa ho àng đế Q uang Trung đă vui vẻ ăn tết khai hạ tại thà nh Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đó n chào chiến thắng. V iệc binh lại giao cho Ngô Văn S ở và P han Văn Lâ n, việc ngo ại giao và c hính trị giao cho Ngô Thì N hậm và P han Huy Ích, lần thứ ba Nguyễn Huệ đă ra Bắc rồi lại về N am. Lần nà y với tư thế là Ho àng đế, Q uang Trung gấp rút tiến hà nh việc xây dựng kinh đô mới ở N ghệ An, nơi mà từ xưa là q uê gốc của anh em Tây S ơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian N am và Bắc. Mặt khác, theo kế ho ạch ngo ại giao đă được Quang Trung vạch ra: b́nh thường mối bang giao với nhà Thanh. T riều đình Q uang Trung đă b uộc sứ Thanh phải vào tận Thuận Ho á p hong vương cho Nguyễn Huệ; rồi Ho àng đế Q uang Trung giả đă sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi c ủa vua C àn Long nhà Thanh. Dưới thời trị vì ngắn ngủi c ủa triều Q uang Trung, nhiều chính sá ch về xă hội, chính trị và k inh tế được ban hành khá độc đáo, mở ra những triển vọng cho một xă hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu, căn bệnh đột ngột và hiểm nghè o đă cướp đi cuộc sống c ủa ô ng vua đầy tà i năng, có những d ự định lớn lao, mới ở tuổi 40. Năm Nhâm Tư (1792), sau nhiều lần bắn tin rồi lại gửi thư trực tiếp đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nà ng cô ng chúa Bắc quốc và mượn đất đó ng đô , vua Quang Trung đă sai to àn sứ bộ do Vũ Văn Dũng là m chá nh sứ sang triều k iến vua Thanh C àn Long. Trong một cuộc bệ k iến của sứ thần Vũ Văn Dũng ở Ỷ lương các, những yê u c ầu của vua Quang Trung đă được vua Thanh chấp thuận. Vua C àn Long đang chuẩn bị cho cô công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam; Quảng Tâ y được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mă đó ng đô để cho gần "Thá nh Giá o". Giữa lúc sứ
- thần đang mừng vui vì s ắp ho àn thành một trọng trách quá sức mình, thì được tin sét đá nh: vua Quang Trung từ trần. Mọi việc đều bị gá c lại, Vũ Văn Dũng đà nh ô m hận trở về. Rồi từ đó , việc xin lại đất Lưỡng Quảng chỉ là c â u chuyện lịch sử mà cơ đồ của vương triều Tây S ơn cũng d ần dần tan theo giấc mộng xuâ n c ủa nàng cô ng chúa M ăn Thanh. M ột chiều đầu thu, vua Q uang Trung đang ngồi b ỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man b ất tỉnh. Người xưa gọi đó là chứng "huyễn vận" c ò n ngà y nay y học gọi là tai biến mạch má u năo. Khi tỉnh d ậy được, nhà vua cho triệu trấn thủ N ghệ An Trần Quang Diệu về triều b à n việc thiê n đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì b ệnh tình nhà vua đă nguy k ịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần: - Ta mở mang b ờ cơi, khai thác đất đai, có cả cơi Nam này. Nay đau ốm, tất khô ng khỏi được. Thái tử "Nguyễn Quang Toản" tư chất hơi cao, nhưng tuổi c ò n nhỏ. N go ài thì có q uân Gia Đ ịnh (Nguyễn Ánh) là q uốc thù; mà Thá i Đức (Nguyễn N hạc) thì tuổi già , ham d ật lạc, cầu yê n tạm b ợ, k hô ng toan tính c á i lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một thá ng phải chô n cất, việc tang là m lao thảo thô i. Lũ người nê n hợp sức mà giúp Thá i tử sớm thiê n đô về Vĩnh Đô (Vinh ngà y nay) để k hống chế thiê n hạ. Bằng khô ng, quân Gia Đ ịnh kéo đến thì c á c ngươi khô ng có chỗ chô n đâu! N gày 29 tháng 7 năm Nhâm Tư (1792) vào khoảng 11 giờ k huya, Quang Trung từ trần, ở ngô i 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thá i tổ Vũ ho àng đế. Thi hà i ô ng được tá ng ngay trong thà nh, tại phủ Dương Xuân. Sau khi Nguyễn Á nh lấy được Phú Xuân đă sai quật mồ mả lê n để trả thù. N guyễn Quang To ản lê n nối ngô i, sai sứ sang nhà Thanh b áo tang và xin tập phong. Vua C àn Long thương tiếc tặng tê n hiệu là Trung Thuần, lại thần là m một b à i thơ v iếng và cho một pho tượng, 300 lạng b ạc để sửa sang việc tang. S ứ nhà Thanh đến tận mộ ở L inh Đường (mộ g iả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà N ội) để v iếng.
- Nhà Tây Sơn (1778-1802) Các vị vua Niê n hiệ u Tê n huý Năm trị vì Tuổi thọ Thá i Đức Hoàng Đế Thá i Đức Nguyễn Nhạc 1778- 1793 Thá i Tổ Vũ Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ 1788- 1792 40 Cảnh Thịnh Cảnh Thịnh Hoàng Đế Nguyễn Quang To ản 1792- 1802 20 Bảo Hưng
- Nhà Nguyễn (1802-1945) N iê n hiệ u Miế u hiệ u Tê n huý Năm trị vì Tuổi thọ Gia Long Nguyễn Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh 1802- 1819 59 Minh M ạng Nguyễn Thá nh Tổ Nguyễn Phúc Đảm 1820- 1840 50 Thiệu Trị Nguyễn Hiến Tổ Nguyễn Phúc Miên Tô ng 1841- 1847 41 Tự Đức Nguyễn Dực Tô ng Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1848- 1883 55 1883 (3 Dục Đức Nguyễn Cung Tô ng Nguyễn Phúc Ưng Á i 30 ngà y) 6/1883- Hiệp Hoà Nguyễn Phúc Hồng Dật 36 11/1883 12/1883- Kiến Phúc Nguyễn Giản Tô ng Nguyễn Phúc Ưng Đăng 15 8/1884 8/1884- Hà m Nghi Nguyễn Phúc Ưng Lịch 64 8/1885 Đồng Khánh Nguyễn C ảnh Tô ng Nguyễn Phúc Ưng K ỷ 1885- 1888 25 Thà nh Thá i Nguyễn Phúc Bửu Lâ n 1889- 1907 74 Duy Tâ n Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907- 1916 46 Khải Đ ịnh Nguyễn Hoằng Tô ng Nguyễn Phúc Bửu Đảo 1916- 1925 41 Bảo Đại Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ 1926- 1945 85
- TH Ế PHẢ CỦA NHÀ NGUYỄN
- GIA LONG HOÀNG ĐẾ (1802-1819) N guyễn Ánh lấy lại được Gia Đ ịnh năm M ậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà c hưa đặt niê n hiệu riê ng, vẫn d ùng niê n hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc Ánh c ho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niê n hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Q uang Đ ịnh được cử là m Chá nh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tê n nước là N am Việt. Nhà Thanh cho rằng tê n nước Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đô ng Việt, Tây Việt) nên đổi là V iệt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) Án sát Quảng Tâ y Tề Bồ S âm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. N ăm Bính D ần (1806), Gia Long c hính thức là m lễ xưng đế ở điện Thái Ho à và từ đâ y qui đ ịnh hà ng thá ng c ứ ngà y rằm và mồng một thì thiết đại triều; các ngày 5, 10, 20 và 2 5 thì thiết tiểu triều. Là vua sá ng nghiệp của triều Nguyễn, Gia Long phải quyết đ ịnh rất nhiều việc đặt nền mó ng cho vương triều có một đ ịa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí N am. Để trá nh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua b ãi b ỏ chức vụ Tể tướng. Ở triều đình chỉ đ ặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, C ô ng do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung cũng vậy, nhà vua khô ng lập ngô i Ho àng hậu, chỉ có Ho àng phi và các cung tần. Q uản lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng S ơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là ho àn to àn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hà nh chính từ trung ương xuống. C ả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ N inh Bình trở ra gọi là Bắc thà nh gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngo ại trấn); từ B ình Thuận trở vào gọi là G ia Đ ịnh thà nh gồm 5 trấn; ở q uã ng giữa là các trấn độc lập: Thanh Ho á, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Đ ịnh, Phú Yê n, Bình Ho à , Bình Thuận; đất kinh k ỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Q uảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Q uảng Nam doanh. Cai quản Bắc thà nh và Gia Đ ịnh thành có Tổng trấn và P hó tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thư, cai bạ và k ý lục. Trấn chia ra p hủ, huyện, châu có tri phủ, tri huyện, tri châ u đứng đầu. Đâ y là lần đầu trê n một lã nh thổ thống nhất, các tổ chức hà nh chính được sắp đặt chính quy như vậy. Q uản lý đinh khẩu, ruộng đất và thuế khoá áp dụng theo mẫu hình thời Lê sơ nhưng được thực hiện trê n quy mô lớn hơn, có q uy củ hơn. Đá ng chú ý la việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hà nh nhất lo ạt, có quy mô toàn quốc. Các là ng xã p hải lập sổ đ ịa bạ ghi rõ từng lo ại ruộng đất, diện tích, vị trí, cô ng, tư... chép thành 3 bản nộp lên b ộ Hộ. Bộ đóng dấu k iềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1 , xã giữ 1. Năm năm là m lại đ ịa bạ một lần. Đến nay c ò n lưu giữ khá đủ toàn bộ đ ịa bạ Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra kê cứu đ ịa chí các đ ịa phương. C ả nước gồm 4 đ ịa hình sô ng núi, c ầu quán, chợ b úa, phong tục, thổ sản..., năm Bính D ần (1806), vua Gia Long sai biên so ạn và b an hành b ộ "Nhất thống đ ịa dư c hí" gồm 10 quyển. Năm Ất Hợi (1815) bộ "Quốc triều hình luật" gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành. C ông cuộc khai hoang vùng đồng b ằng sô ng C ửu Long được tiếp tục. Nhà nước đã bỏ t iền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sô ng Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những c ô ng trình lớn như sô ng Vĩnh Tế huy động sức người, sức của cả dân V iệt và C hân Lạp dọc hai b ờ có sông chạy qua. Việc trị thủy vùng đồng b ằng Bắc Bộ cũng được Gia Long chú ý ngay từ đầu. N ăm Giáp Tí (1804), trên đường ra Bắc là m lễ thụ p hong của nhà Thanh, Gia Long cũng nê u vấn đề đắp đê để sĩ p hu Bắc Hà b àn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết đ ịnh đắp đê. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với c á c triều trước. Đối ngo ại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặt khác lại tạo quan hệ đàn anh đối với C hân Lạp và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng c ủa họ để già nh thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quí Hợi (1803), nước Anh xin mở cửa hàng buô n b án ở Trà Sơn (Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. S ĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đã i, giữ chức tại triều, mỗi người c ó 5 0 lính hầu, gia đặc ân buổi chầu khô ng phải lạy... C òn yêu sách khác của chính phủ Pháp đều bị k hước từ. Năm Đinh S ửu (1817) tàu buô n Pháp tên là "La paix" (ho à b ình) chở hà ng sang b án nhưng là hà ng khô ng hợp thị h iếu người Việt Nam, phải trở về, m iễn thuế. Đến khi tàu Cyb èle vào Đà Nẵng đưa thư Hoàng đế P háp nhắc lại việc thi hà nh điều ước ký năm Đinh M ùi (1787) (Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh, có khoản N guyễn Á nh nhường cho Pháp cửa biển Đà Nằng và đảo C ô n Lô n). Gia Long kiên quyết bác bỏ v iện lý rằng: Điều ước tuy đã k ýnhưng thuở đó p hía Pháp khô ng thực hiện thì nay khô ng c ò n giá trị nữa! Nhà N guyễn khô ng cấm hẳn các thuyền buô n p hương Tây song cũng khô ng mời chào, khuyến khích ho ặc có một chính sá ch tỏ ra chủ động, tích c ực hơn.
- Một trong những tai tiềng và gần như là căn bệnh c ủa mọi vua, chúa sá ng nghiệp gian nan và lâ u d à i là sá t hại c ô ng thần. C ó c ô ng như N guyễn Văn Thà nh và Đặng Trần Thường đều bị g iết hại giữa lúc Gia Long đang trị vì. N guyễn Văn Thà nh nguyê n là người Thừa Thiên, vào Gia Đ ịnh đã hai ba đời, theo Nguyễn á nh từ những ngà y đầu và chịu muô n nỗi gian truâ n c ùng chủ tướng. Nguyễn Văn Thà nh c ó tà i và lập được nhiều c ô ng lớn, đứng đầu hà ng c ô ng thần. Gia Long lê n ngô i giao cho Nguyễn Văn Thà nh là m Tổng trấn Bắc Thành. Qua mấy năm cai quản của Nguyễn Văn Thà nh, tình hình đất Bắc đã yên ổn sau nhiều năm lo ạn lạc liê n miê n. Sau đó Thành được triệu về k inh lã nh chức Trung quâ n. Thà nh vốn có tài trước thuật nên được giao là m Tổng tà i b ộ q uốc triều hình luật và b iên so ạn quốc sử. C ong trai ô ng Nguyễn Văn Thuyê n đỗ cử nhâ n, hâ m mộ văn chương. Nhâ n Thuyê n là m thơ ngâ m vịnh với b ạn b è, lời lẽ k hi ngô ng, các đối thủ vốn ngầm đố kỵ công lao của Thà nh liền vu cho Thuyên có mưu đồ tho án đoạt ngô i vua, cha con Nguyễn Văn Thà nh c ùng b ị hạch tội. Thuyê n b ị bắt giam, Thà nh b ị triều thần nghị tội tử. S au buổi triều kiến, Thà nh chạy theo nắm lấy áo vua, kêu khóc thảm thiết: - Thần theo bệ hạ từ thuở cò n nhỏ đến b â y giờ, nay chẳng có tội gì mà b ị người ta cấu xé. Bệ hạ nỡ lò ng nà o ngồi nhìn người ta giết thần mà k hô ng cứu! Gia Long khô ng nó i gì, giật áo ra, đi và o cung, từ đó cấm khô ng cho Thành vào chầu nữa. Lê Văn Duyệt đem Thuyên ra tra khảo, bắt phải nhận tội phản nghịch. Thành sợ, uống thuốc độc tự tử, Thuyê n b ị chém. Bậc cô ng thần thứ hai c ó tà i văn học, đã giúp Nguyễn Ánh từ những ngà y đầu, là m đến Binh Bộ thượng thư. S au vì b ị hạch tội là m sắc phong cho Hoàng Ngũ P húc (tướng Trịnh) là m Phúc thần bị á n giảo. Âu đây cũng là một thứ lu ật đối với những người k hô ng biết dừng châ n trước bả cô ng danh! Tháng 11 năm K ỷ Mão (1818), vua không được khoẻ, Ho àng Thái Tử và cận thần vào hầu, vua hạ c hiếu cho Ho àng Thái tử q uyết đo á n việc nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, b ệnh nguy k ịch, vua gọi Ho à ng Thá i tử, các hoàng tử và đại thần Lê Văn D uyệt, Phạm Đăng Hưng vào hầu. Vua cho bày ấn ngọc, cờ, gươm trê n á n và ng trước giường ngự rồi d ụ Ho à ng Thá i tử rằng: - Đấy là c ơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thẩn giữ gìn. Ho àng tử cùng các tước công, đại thần ủy lạo nhà vua, khuyên gắng gượng thuốc thang, an tâm tỉnh d ưỡng, chớ nê n lo lắng gì nhiều... Vua nó i: - "Điều này, b ọn ngươi khô ng biết đâu! Phàm truyền ngô i là việc lớn xưa nay, hô m nay cò n nó i được mà k hô ng nó i, ngày khác chết thì nó i sao k ịp!" Vua liền gọi Thá i tử đến trước giường, d ụ rằng: - "Nay việc lớn của thiê n hạ đã đ ịnh rồi. Ta cũng sắp chết, khô ng nó i gì, chỉ có một việc là ngày sau phải c ẩn thận, chớ nê n gâ y hấn ngo à i biê n". N ói rồi vua sai Ho à ng thá i tử lấy b út chép lại lời đó . Thái tử ngập ngừng muốn trá nh chữ "băng", vua liền cầm bút phê vào. N gày Đinh M ùi thá ng 12, vua b ăng ở điện Trung Hoa, thọ 59 tuổi. Gia Long tiếp tục ngô i chúa trong 25 năm, là m vua c ả nước 18 năm tổng c ộng 43 năm. Gia Long có hai vợ c hính: thứ nhất là Thế tổ Thừa Thiên Cao ho àng hậu họ Tống, người huyện Tống S ơn, Thanh Hoá, con hái Quí Q uốc công Tống Phúc Khuô ng. Nguyễn Phúc Ánh cưới b à là m vợ năm 18 tuổi, người cung k ính, c ẩn thận, có phép tắc lễ độ. Bà sinh được hai ho àng tử, con cả là C hiê u chết sớm; con thứ là Ho àng tử Cảnh từng theo Bá Đa Lộc là m con tin sang cầu viện Pháp rồi về nước được lập là m Thá i tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu (1801). Bà thứ hai là Thuận thiên Cao ho àng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiê n, con gá i Thọ Q uốc công Trần Hưng Đạt, được tiến vào hầu Nguyễn Ánh từ năm Giáp Ngọ (1774), năm K ỷ Dậu (1789) được tấn phong là Tả c ung tần, hiệu Nhị p hi. Bà sinh được 4 hoàng tử: N guyễn Phúc Đởm (sau lê n ngô i lấy hiệu là M inh M ệnh); Nguyễn Phúc Đà i (Kiến an vương); Nguyễn Phúc H iệu (mất sớm), Nguyễn Phúc Thấn (Thiệu Hoá quận vương). Ngo ài 6 người con với hai vợ c hính đã kể trên Gia Long cò n 7 người con trai với các bà khác, tổng c ộng 13 hoàng tử, 18 công chúa.
- MINH MỆNH HOÀNG ĐẾ (1820-1840) V ua húy là H iệu, lại có tên là Đởm, sinh ngà y 23 thá ng giê ng năm Tân Hợi (1789), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng giê ng năm Canh T hìn (1820), Hoàng thái tử Đởm lê n ngô i vua, đặt quốc hiệu là Đại N am, niê n hiệu là M inh M ệnh, 30 tuổi. Minh M ệnh có tư chất thô ng minh, hiếu học, năng động và q uyết đoán. Từ k hi lê n ngô i, ô ng ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay "châ u phê " rồi mới cho thi hà nh - Thuật ngữ "châu phê" b ắt đầu có từ đây. Minh M ệnh muốn q uan lại các cấp phải có đức độ và năng lực, nê n khi mới lê n ngô i đă đặt ra lệ mà về sau khó ai thực hiện nổi. Quan lại ở Thà nh, Dinh, Trấn, văn từ H iệp trấn, Cai bạ, Kư lục, Tham hiệp; vơ từ Thống quản cơ đến Phó vệ úy..., ai được thăng điện, bổ nhiệm... đều cho đến kinh gặp vua trước khi nhận chức để nhà vua hỏi han c ô ng việc, kiểm tra năng lực và k huyên b ảo... M inh M ệnh là người ham hiểu biết, thường khi tan chầu, nhà vua cho đ̣i một và i đại thần tới b àn các việc kinh lý , hỏi s ự tích đời xưa, danh nhân và p hong tục các nước xa lạ. N hiều đê m vua thắp đèn xem chương, sớ đến canh hai canh ba mới nghỉ. Vua thường nó i với triều thần: - Ḷng người, ai chả muốn yên, hay g ì sinh s ự để thay đổi luô n, nhưng lúc trẻ khoẻ mà k hô ng biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu, mỏi mệt hỏi mong là m g ì được nữa. Bởi thế trẫm khô ng d ám lý ời biếng b ất kỳ lúc nào. Là người tinh thâ m Nho học, sùng đạo Khổng M ạnh, Minh M ệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử, tuyển chọn nhâ n tà i. Dựng Quốc tử giá m, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tị (1821), mở lại thi H ội thi Đình năm Nhâm Ngọ (1822). Trước đó, 6 năm một khoa thi nay rút xuống 3 năm: c á c năm Tư, N gọ, Măo, Dậu, thi H ương; các năm T hìn, Tuất, Sửu, M ùi thi H ội thi Đình. Vua còn cho đặt đốc học ở Gia Đ ịnh thà nh, d ùng thầy giá o người Nghệ An là N guyễn Trọng Vũ là m phó đốc học để k huyến khích việc học tập ở N am bộ. M inh M ệnh thường nó i: - N gười Gia Đ ịnh vốn tính trung nghĩa nhưng ít học, do đó hay tức khí với nhau. N ếu được bậc đại nho túc học là m thầy dạy bảo cho điển lễ nhượng thì dễ ho á là m thiện mà thà nh tà i sẽ nhiều đó. Thời đó, Gia Đ ịnh chỉ có Trịnh Ho ài Đức là có học, được vua rất tin d ùng, cho là m Hiệp biện Đại học sĩ, là m Thượng thư bộ lại kiê m Thượng thư bộ B inh. M inh M ệnh cho lập Quốc sử q uán để b iên so ạn lịch sử dân tộc và các triều đại. Trong việc d ùng người, Minh M ệnh đặc biệt chú trọng đến học thức. Năm Nhâm Ngọ (1822), Lê Văn Liê m được Thự t iền q uân Trần Văn N ăng tiến cử là m Tri phủ N inh Giang, b ộ Lại đưa vào bệ k iến, vua xé t hỏi, Liê m đá p là ít học. Vua nó i: - Tri phủ g iữ c hính lệnh trong một phủ, k hô ng học thì khô ng rơ lu ật lệ, lỡ k hi xử đo á n sai lầm thì pháp luật khó d ung, như thế là là m hại chứ k hô ng phải là yê u". Thế là Liê m khô ng được bổ dụng. Nhà vua đă có lần công bố thuật d ùng người rất chí lý : - N ay d ùng người khô ng ngo à i hai đường là k hoa mục và tiến cử, người giỏi khoa mục khô ng chắc đă g iỏi chính s ự. N hưng cũng chưa có ai học nuô i con rồi sau mới lấy chồng. Chính sự cốt ở nuô i d â n, muốn yên d ân thì đừng nhiễu d ân; làm quan p hủ huyện khô ng tham khô ng nhiễu thì chính sự có khó g ì đâu! N ếu khô ng thế thì văn học dẫu nhiều há d ùng là m g ì? C hế độ t iền lý ơng nho quan lại c ũng được quy đ ịnh khá c hi tiết, từ chánh Nhất phẩm đến tng C ửu phẩm cách nhau chừng 18 ̣ bậc, tiền lý ơng c ũng chê nh nhau kho ảng 18 đến 20 lần. Ngo ài ra, tri phủ, đồng tri phủ, tri huyện, tri châ u còn có khoản tiền "d ưỡng liê m" từ 20 đến 50 quan tùy theo cương vị k há c nhau, nhà vua nghiê m trị bọn quan lại tham nhũng. C ó viên quan k hô ng d ùng thước để gạt thăng đong thó c thuế, thường d ùng tay để dễ bề lạm d ụng, biết chuyện nhà vua lập tức sai chặt tay tê n lại đó. M inh M ệnh rất quan tâm đến vơ bị, đặc biệt là thủy quân. Ngay những năm đầu lê n ngô i, vua đă sai người t ìm cách đó ng tàu của Châu Âu và quyết tâ m là m cho người Việt tự đó ng được tàu theo kiểu Tây Âu và b iết lá i tà u vượt đại d ương, các quy chế luyện tập thủy quân, khảo sát vị trí b ờ b iển, hải c ảng c ũng được chú ư. Hà ng năm, nhà vua thường phá i nhiều tà u vượt b iển sang các nước và các cảng lớn vùng viển Đô ng như Jakarta, Singapore, Malaysia... để b á n hà ng, mua hà ng, luyện tập đi b iển và xem xét tnh h ình các nước. Minh M ệnh đă cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nô ng, khai ́ hoang ven biển Bắc bộ lập hai huyện mới Kim S ơn và Tiền Hải. C ô ng cuộc khao hoang và thủy lợi ở N am bộ cũng được đẩy mạnh. Minh M ệnh đă thử nghiệm giải pháp bỏ đê phía Nam Hà N ội..., đào sô ng tho át lũ Cửu An (Hưng Yên)... Trên cơ sở đă có từ thời Gia Long, nay Minh M ệnh c ủng c ố và ho à n thiện hơn bộ máy quản lý đất nước: đặt nội các trong c ung điện để k hi c ần vua hỏi han và là m giấy tờ: b iểu sắc, chế cáo năm K ỷ Sửu (1829); đặt cơ mật viện năm Giáp Ngọ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 6 - Thời nhà Hồ
304 p | 112 | 21
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 1 - Thời Hùng Vương
313 p | 139 | 20
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 3 - Thời nhà Ngô - Đinh - Tiền Lê
308 p | 118 | 19
-
các đại công thần trong lịch sử việt nam: phần 1
101 p | 86 | 18
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ dày): Tập 5 - Nhà Trần thắng giặc Nguyên Mông
318 p | 103 | 18
-
Sử dụng trò chơi trong dạy học Lịch sử Việt Nam (1945-1954) ở trường Trung học phổ thông
8 p | 129 | 10
-
Tinh thần yêu nước của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
4 p | 136 | 9
-
Điểm nhìn tự sự của hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986
14 p | 136 | 8
-
Lịch sử Việt Nam: Một số chuyên đề (Tập 2) - Phần 1
210 p | 18 | 6
-
Cần tiếp tục bổ sung, cập nhật, đổi mới trong dạy – học môn Lịch sử Việt Nam đối với ngành Việt Nam học
9 p | 81 | 5
-
Xây dựng thư viện điện tử về Chủ tịch Hồ Chí Minh phục vụ dạy học lịch sử ở trường THPT (Vận dụng vào chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12)
8 p | 66 | 5
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 31 - Hội thề Lũng nhai
80 p | 10 | 5
-
Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay: Phần 1
85 p | 37 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 1 - Người cổ Việt Nam
100 p | 9 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 10 - Họ Khúc dựng nền tự chủ
96 p | 7 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 16 - Nước Đại Việt
108 p | 10 | 4
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 29 - Hồ Quý Ly chống giặc Minh
78 p | 14 | 4
-
Giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay: Phần 2
66 p | 18 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn