TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017<br />
<br />
<br />
<br />
Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học<br />
trung đại Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Ngô Thì Nhậm<br />
Confucian intellectual in Vietnamese middle-age literature:<br />
The case of Ngo Thi Nham<br />
<br />
PGS.TS. Lê Văn Tấn<br />
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam<br />
<br />
Le Van Tan, Assoc.Prof.,Ph.D.<br />
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tự Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện<br />
Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ông đỗ Giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ Tam giáp năm 1775, làm quan<br />
trải các triều Lê - Trịnh và Tây Sơn. Với quan niệm hành tàng linh hoạt, Ngô Thì Nhậm đã theo đuổi và<br />
kiên trì con đường hành đạo của kẻ sĩ trong thời loạn. Với gần 600 bài thơ còn để lại, ông xứng đáng là<br />
mẫu hình nhà nho hành đạo tiêu biểu, một tác giả văn học lớn giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII nói riêng,<br />
của văn học trung đại Việt Nam nói chung.<br />
Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, loại hình tác giả, tác giả nhà nho, nhà nho hành đạo, văn học trung đại.<br />
Abstract<br />
Ngo Thi Nham (1746-1803), also called Hy Doan and Dat Hien, was born in Ta Thanh Oai, Thanh Tri,<br />
Hanoi. He graduated with the highest score in1768, became a PhD in 1775, then worked as a<br />
government official under the Le -Trinh and Tay Son regime. With a flexible lifestyle, Ngo Thi Nham<br />
had patiently pursued Confucianism during the wartime. With more than 600 poems, he set an example<br />
of a great author of the later half of the 18th century, as well as of Vietnamese middle-aged literature.<br />
Keywords: Ngo Thi Nham, author type, confucian scholar author, confucian scholar on duty Medieval<br />
literature.<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề kỳ cương vị hay hoàn cảnh nào, ông đều<br />
Nhắc đến Ngô Thì Nhậm là chúng ta luôn kiên trì lí tưởng phục vụ dân, phục vụ<br />
nhắc tới một tác giả văn học lớn của văn nước của một người trí thức chân chính. Ở<br />
học trung đại Việt Nam ở vào giai đoạn lĩnh vực thơ văn, Ngô Thì Nhậm cũng để<br />
nửa cuối thế kỷ XVIII. Với một quan niệm lại một khối lượng sáng tác đồ sộ với nội<br />
hành tàng linh hoạt, con đường hành đạo dung phong phú, cô đọng, giàu giá trị, chân<br />
của ông nhìn chung khá hiển đạt với những thực và gần gũi với người đọc.<br />
đóng góp to lớn trên phương diện chính trị 2. Con đường hành đạo của kẻ sĩ<br />
và quân sự cho triều Lê - Trịnh, đặc biệt là trong thời loạn<br />
Tây Sơn. Suốt cuộc đời của mình, dù ở bất Với bất kỳ trí thức trung đại nào tiếp<br />
<br />
14<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
thu sở học của Nho giáo thì điều mong ước của chúa Trịnh, Ngô Thì Nhậm đã tận tâm<br />
lớn nhất là những lý thuyết họ tiếp thu tận lực, lao tâm khổ tứ để có thể làm tốt<br />
được có thể mang thực hành. Bởi chính khi bổn phận của mình, cũng là tinh thần tự<br />
đó thì tài năng, tâm huyết của họ với triều nhiệm của nhà nho. Ông luôn quan tâm<br />
chính, xã tắc mới có cơ hội bộc lộ. Nhưng chăm lo đời sống của người dân, không<br />
có một thực tế là không phải bao giờ sự lựa ngần ngại bị chúa thất sủng trình báo thẳng<br />
chọn của nhà nho cũng tương thích với sự thắn những điều tai nghe mắt thấy về tình<br />
lựa chọn của lịch sử, dù chỉ là ở vào một cảnh của nhân dân hay những tệ nạn trong<br />
tình huống nhất định nào đó. Có người giới cầm quyền đương thời. Trong bài<br />
thuận lợi, có người không thuận lợi và “Điều trần Hải Dương xứ tình tệ khải”<br />
cũng có người mà dường như một nẻo (…), ông từng viết: “Ruộng đất ở vùng<br />
đường đi của mình đã mãi mãi chỉ còn là Đông nam thuộc vào loại tốt nhất trong<br />
mơ ước. Chúng tôi cho rằng khi nhìn nhận nước, sông ngòi vây như dải mũ, đai lưng,<br />
các nho sĩ và những đóng góp của họ đối đồng lầy mầu mỡ, dù hạn hán, lụt lội, cũng<br />
với lịch sử cần phải được nhìn nhận trên không phải lo ngại... Nay đồng ruộng<br />
nhiều chiều cạnh khác nhau mới có thể hoang vu, bỏ mặc không nhìn đến mà<br />
dựng lại được một cách trung thực nhất, những nhân viên cai quản lại căn cứ vào sổ<br />
khách quan nhất ở mỗi người. cũ để thu thuế, người làm ruộng phải mượn<br />
Với trường hợp Ngô Thì Nhậm, như nghề mọn khác để lấy thóc nộp tô. Cái ẩn<br />
chúng ta biết, tài năng, học vấn và tâm tình đau khổ của dân chính là ở chỗ đó.<br />
huyết của ông đối với các triều đại được Tích lũy dần lâu đến chỗ không cung ứng<br />
hình thành, một mặt từ truyền thống gia nổi nữa. Do đó, dân chúng nghèo kiết, tan<br />
đình; mặt khác là tư tưởng trung quân ái tác cư ngụ ở các vùng lân cận, những kẻ<br />
quốc của Nho giáo. Nhưng hẳn có lẽ điều ngoan ngạnh xảo trá thì tìm đủ mọi cách để<br />
tạo nên một gương mặt riêng mang tên Ngô được miễn trừ. Hiện tình ngày nay ở bản<br />
Thì Nhậm chính là ý chí và những trải hạt, số mới phiêu bạt có tới 53 xã, số người<br />
nghiệm của chính cá nhân ông qua các vua được miễn trừ không chính đáng tới 30 xã.<br />
chúa đương thời. Vốn thông minh, học giỏi, Phụng xét trước năm Canh Thìn, hạng<br />
ông đã thi đỗ giải nguyên vào năm 1768, rồi chính đinh phải chịu phu dịch có tới hơn<br />
tiến sĩ năm 1775. Sau khi thi đỗ, ông được 13.500 suất, mà nay đăng tên vào sổ đinh<br />
bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê - Trịnh chỉ có hơn 9.800 suất. Tình trạng hao mòn<br />
và nhanh chóng chiếm được cảm tình của đó qua năm này tháng khác, không biết<br />
chúa Trịnh. Chúa Trịnh Sâm từng ví ông duyên do tại đâu mà đến nỗi thế?”1. Trong<br />
như con tuấn mã với sức chạy ngàn dặm. thời gian làm Đốc đồng Thái Nguyên, Ngô<br />
Năm 1778, ông được cử làm Đốc đồng Thì Nhậm còn cùng cha là Ngô Thì Sĩ, lúc<br />
Kinh Bắc và Thái Nguyên, rồi kinh qua các đó đang làm Đốc trấn Lạng Sơn phối hợp<br />
vị trí như Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện với Trấn thủ Tuân Vãng hầu đánh dẹp loạn<br />
Hiệu thảo, Hữu thị lang Bộ Công. Tại thời tại vùng Vũ Nhai và năm đó cũng là năm<br />
điểm này, ông đã bắt đầu nổi tiếng về tài ông soạn xong tập “Công vụ thành thư”.<br />
năng kinh sử và thơ văn trong đám sĩ phu Năm 1779, Ngô Thì Nhậm được thăng<br />
Bắc Hà lúc bấy giờ. chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp<br />
Trong thời kỳ làm quan dưới trướng đồng với Trấn thủ Tuyên, Thái đánh dẹp<br />
<br />
15<br />
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:…<br />
<br />
<br />
cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở biên giới vào nội địa nước ta với dã tâm<br />
Tuyên Quang. Ít lâu sau ông lại được sai đi xâm lược, Ngô Thì Nhậm đã cùng với<br />
kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm 1780 tướng được cử của Tây Sơn là Ngô Văn Sở<br />
trở về triều, dâng sớ về phương sách thu bàn tính kế lui giặc. Cống hiến quan trọng<br />
thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh rất nhất tại thời điểm này của Ngô Thì Nhậm<br />
khen ngợi, ban thưởng hậu. Tiếc là vào chính là “nước cờ Tam Điệp” giúp Quang<br />
cuối năm đó xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi Trung hành quân thần tốc ra Thăng Long<br />
chúa, Ngô Thì Nhậm bị liên can và đến và lập nên chiến thắng lẫy lừng mùa xuân<br />
năm 1782 thì xảy ra binh biến. Những năm 1789 khiến cho quân xâm lược khiếp<br />
người ít nhiều có liên quan đến vụ án năm sợ. Ba năm sau (1792), Ngô Thì Nhậm<br />
Canh tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam, tịch được kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài và<br />
thu gia sản. Ngô Thì Nhậm đã buộc phải vào năm 1793 ông được cử làm Chánh sứ<br />
lánh nạn về quê của người vợ cả ở am Lệ phái đoàn của triều Tây Sơn sang nhà<br />
Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay Thanh báo tang vua Quang Trung (mất<br />
thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) năm 1792) và cầu phong cho vua mới là<br />
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai Quang Toản. Sau khi đi sứ bình an trở về,<br />
đã xuống lệnh “cầu hiền” để phục vụ cho Ngô Thì Nhậm đã mau chóng vô nam để<br />
công cuộc xây dựng đất nước. Ngô Thì giúp vua Quang Toản. Nhưng thời thế đã<br />
Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như vần xoay, sứ mạng lịch sử hướng sang một<br />
Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, Ninh Tốn, biên độ khác, nội bộ triều đình chia rẽ sâu<br />
Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan, Đoàn sắc, rồi khủng hoảng… Triều Nguyễn lên<br />
Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Huy thay, Ngô Thì Nhậm cùng với một số sĩ<br />
Lượng… đã lần lượt ra làm quan và đắc lộ quan của Tây Sơn bị mang ra xử phạt đánh<br />
với Tây Sơn. bằng roi ở Văn Miếu. Sau trận đòn này, về<br />
Ra làm quan cho Tây Sơn là Ngô Thì nhà, Ngô Thì Nhậm, phần vì thể trạng thì ít<br />
Nhậm đã vượt qua được quan niệm trung mà phần vì uất thì nhiều mà chết. Ông đã<br />
quân có phần cổ hủ của nhiều nhà nho vĩnh viễn dừng lại ở tuổi 57.<br />
trước đây cũng như đương thời. Thời gian Như thế, có thể thấy, đặt ra và kiên trì<br />
làm quan cho triều Tây Sơn, có thể nói con đường hành đạo của một kẻ sĩ trong<br />
Ngô Thì Nhậm như được chắp thêm đôi thời loạn, dù ở vào tình huống nào, Ngô Thì<br />
cánh. Bao tâm huyết với triều chính, với Nhậm đã cố gắng không mệt mỏi, luôn bền<br />
nhân dân của ông đã lại được tiếp tục và ở chí và nhiệt thành với sự lựa chọn của mình.<br />
một tầm cao mới. Trong thời gian làm quan Sự minh triết của một nho sĩ lúc nào cũng<br />
cho Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm được vua canh cánh nỗi lo cho triều chính, nhân dân<br />
Quang Trung đặc biệt tin dùng. Ban đầu khiến từng cử chỉ, hành động của ông luôn<br />
ông được giao giữ chức Hữu thị lang bộ hướng về cuộc đời ở vào những tháng năm<br />
Công, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Những<br />
Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của đóng góp của ông trên nhiều phương diện<br />
nhà Lê. Sau đó, vào tháng 10 năm 1788, với triều Lê - Trịnh và Tây Sơn là rất lớn và<br />
Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông, cần phải có những công trình chuyên biệt.<br />
Quảng Tây) là Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn 3. Những vần thơ ngôn chí<br />
quân cùng hàng chục vạn phu dịch tiến qua Ngô Thì Nhậm có để lại khoảng gần<br />
<br />
16<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
600 bài thơ. Trong số đó có một bộ phận Xin đem đám mưa ngọt để tưới nhuần<br />
không nhỏ là những vần thơ ngôn chí, thơ cho dân miền núi.<br />
để nói chí. Đó là chí của một nho sĩ hành (Qua đò sông Nguyệt Đức, tr.86)<br />
đạo mẫu mực mà tấm lòng luôn hướng tới Trong thời gian làm quan cho triều Lê<br />
xã tắc, nhân dân. Cái chí mà tác giả đã hấp - Trịnh, Ngô Thì Nhậm đã gắng hết sức lực<br />
thu được từ tư tưởng Nho gia, của người của mình để phò tá chúa. Ông sẵn sàng<br />
cha mình - danh sĩ Ngô Thì Sĩ cũng như từ nhận bất cứ nhiệm vụ nào khi được giao<br />
thực tế trải nghiệm của bản thân. Khi được phó. Tình cảm đối với chúa Trịnh được<br />
tin cha mình nhậm chức Trấn thủ Lạng Sơn, ông thể hiện chân thành, kể cả khi bị án<br />
ông đã viết thơ mừng. Lời thơ thể hiện niềm oan năm Canh Tý (1780). Ttác giả đã ca<br />
hân hoan, vui sướng, chen lẫn tự hào: ngợi đức chí hiếu của Trịnh Sâm sánh<br />
Ngũ sắc tường vân giáp đạo kỳ, ngang tựa Ngu Thuấn. Và sau khi Trịnh<br />
Sủng quang thử nhật bách ban kỳ. Sâm mất, nơi góc bể chân trời, nhà thơ<br />
Nhất gia binh tượng liên tam trấn, càng thấu hơn cái đức sáng của chúa. Tự ví<br />
Vạn lý phong cương khống nhị thùy. mình như kẻ cô thần, ông cúi đầu vái vọng<br />
Xuất cách thù ân chân ngộ chúa, Tiên thánh vương bằng một tình cảm rất<br />
Bồi hoan thắng hội toại vi nhi. mực cảm động, tha thiết:<br />
Vũ ban nguyện hiến Nam Sơn thọ, Cương thường lễ nhạc thực trung thiên,<br />
Trú cẩm đường tiền khách thái mi. Di úy khiêm cung thập lục niên.<br />
(Hạ tôn thiều phó hùng trấn) Văn trị võ công quang Nghị, Triết,<br />
Năm sắc mây lành cờ xí rợp đường, Thần mô thánh đức lý Hy, Hiên.<br />
Ngày quang vinh này trăm vẻ kỳ lạ. Vân thâm Ngũ Nhạc dư anh vũ,<br />
Một nhà chỉ huy binh tượng liền ba trấn, Trú vĩnh Tam Qui lão đỗ quyên.<br />
Muôn dặm trông coi bờ cõi hai biên thùy. Hải giác cô thần khuê bái kiến,<br />
Đặc biệt ban ơn, thật là gặp chúa, Kiều Sơn vạn lý vọng hương diên.<br />
Hầu vui dịp hiếm, thỏa lòng làm con. (Cung vãn tiên thánh vương)<br />
Mùa ban y, xin dâng lời chúc thọ Nam Sơn, Cương thường, lễ nhạc dựng giữa trời,<br />
Trước “nhà Trú cẩm”, chúc mừng cha già. “Kính sợ” “khiêm cung” mười sáu<br />
(Mừng cha đi Trấn thủ Lạng Sơn)2 năm.<br />
Ông luôn xác định, tâm niệm về vai trò Văn trị, võ công, làm rực sáng Nghị<br />
tự nhiệm của nhà nho trước cuộc đời. Bắt gặp vương, Triết vương,<br />
trong thơ Ngô Thì Nhậm hình tượng một con Thần mô, thánh liệt, đáng sánh ngang<br />
người luôn luôn sẵn sang xả thân vì nghĩa cả, Phục Hy, Hiên Viên.<br />
không quản ngại khó khăn gian khổ: Cung Ngũ Nhạc mây vẩn, còn lại chim<br />
… Địch khái bất hiềm dương liễu vãng, anh vũ,<br />
Chiêu an chỉ tác thử miêu tuần. Đất Tam Qui ngày dài, kêu rạc con đỗ<br />
… Tuyên bố giáo thanh thần tử chức, quyên.<br />
Nguyện tương cam vũ nhuận sơn dân. Góc bể chân trời, kẻ cô thần xa vời<br />
(Độ Nguyệt Đức giang) dâng lạy,<br />
Đi đánh giặc không ngại li biệt lâu, Bái vọng về chiếu thơm nơi Kiều Sơn<br />
Việc chiêu an chỉ cốt đi tuần tra. muôn dặm.<br />
…Tuyên bố giáo hóa, là chức phận tôi con, (Kính viếng tiên thánh vương, tr.100)<br />
<br />
17<br />
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:…<br />
<br />
<br />
Trong thời gian lánh nạn ở quê vợ ở xã cho người em là Học Tốn, ông chú ruột<br />
Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện hay ông họ Trần ở Vân Canh, tặng quan<br />
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ông luôn bền gan trung thư Trần Văn Kỷ… và nhiều bài thơ<br />
mẫn chí, tình cảm, niềm tin luôn hướng tới khác được viết khi Ngô Thì Nhậm đi sứ trở<br />
ngày mai sẽ tươi sáng, cái ngày mà đấng về từ Yên Kinh đến Phú Xuân tiếp tục cho<br />
quân vương sẽ xuất hiện và ông sẽ lại được thấy tình cảm cũng như sự ngưỡng mộ tin<br />
đem tài năng của mình phục vụ triều chính, tưởng vào vận hội mới của đất nước:<br />
phục vụ nhân dân. Lời thơ viết ra như để Phong ư xuân lệnh, nhật ư đông,<br />
ông tự động viên, khích lệ mình cần phải Hàm cảm thường tồn chí ái trung.<br />
cố gắng: Tuân lật uy nghi, Kỳ thượng trúc,<br />
Học vấn vô tha tại miễn chiên, Kiên cương khí vũ, tuế hàn tùng.<br />
Nhất tu đương bách, thập đường thiên. Thùy thân, hợp đáng lai nguyên lão,<br />
Lăng vân Thái, Họa ưng gia quĩ, Miễn trụ, chân như ức lệnh công.<br />
Truy nhật hoa, lưu khoái chước tiên… Giáng khuyết vân cao, thiều hộ nhĩ,<br />
(Thư đề “Miễn trai”) Liễu doanh y ước thái thanh chung.<br />
Học hỏi không gì khác hơn là cố gắng, (Tặng trung thư Kỷ Thiện Hầu)<br />
Một “cần” bằng trăm, mười “cần” Như gió mùa xuân, như mặt trời mùa<br />
bằng nghìn. đông,<br />
Núi Thái, núi Họa cao ngất trời, nên Thông cảm nhau, còn mãi lòng thân ái.<br />
thêm sọt nữa, Uy nghi nghiêm chỉnh như cây trúc<br />
Ngựa hoa, ngựa lưu đuổi kịp mặt trời sông Kỳ,<br />
cũng phải gia roi… Lòng dạ vững vàng như cây tùng mùa<br />
(Viết đề “Miễn trai”, tr.123) lạnh.<br />
Với tư tưởng đó nên khi được tham gia Rủ đai, cần phải có bậc nguyên lão,<br />
triều chính và được trọng dụng, Ngô Thì Cất mũ, luôn luôn nhớ đến tôn ông.<br />
Nhậm như được lột xác. Ông đã viết nhiều Gần gũi nhạc Quân thiều dưới bóng<br />
bài thơ ngợi ca Quang Trung Nguyễn Huệ, mây cao trên cửa khuyết,<br />
ngợi ca triều đại Tây Sơn. Lời thơ được Văng vẳng chuông Thái thanh đưa đến<br />
viết ra đầy phấn kích với niềm tin, sự lạc quân doanh.<br />
quan của ông về một thời đại mới sẽ được (Tặng quant rung thư là<br />
mở ra: Kỷ Thiện Hầu, tr.179)<br />
Vạn đội du long ủng Ngọc Hoàng, Và thế là trên đường vào Nam để<br />
Uy gia hải nội cộng phi dương. nhậm chức, lòng ông bỗng trở nên phơi<br />
Tảo không tích vụ khai thu sắc, phới. Cảnh quan một dải đất nước thu vào<br />
Y cựu trung thiên kiến Thái dương... tầm mắt thi nhân, châu tuần về với người<br />
(Đại phong) anh hùng áo vải:<br />
Muôn đội rồng lượn, ủng hộ Ngọc Hoàng, Sơ độ nam du đáo Nghệ An,<br />
Cùng bay bổng ra oai trong thiên hạ. Phong quan nhất mộng nhất kỳ quan.<br />
Quét quang mây mù, mở ra màu thu, Sa đê vạn lý triều tông hải,<br />
Thấy vầng Thái dương giữa trời như cũ… Thạch bảo thiên trùng quải hán san.<br />
(Gió to, tr.107) Địa hữu công hầu sa thủy tú,<br />
Một loạt bài thơ được ông viết để gửi Thiên sinh hào kiệt đẩu tinh hoàn.<br />
<br />
18<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
Mai trình ký thủ danh hương ấp, Cờ bay phấp phới chạm vào cành liễu.<br />
Lịch lịch sư mô tại giản biên. Năm canh tiếng loan nghi luôn vào<br />
(Nghệ An đạo trung) giấc mộng,<br />
Lần đầu đi miền Nam đến Nghệ An, Phảng phất như đang ở cửa khuyết<br />
Mỗi cảnh vật là một mộng, một kỳ quan. phương Nam nghe nhạc Quân Thiều.<br />
Đê cát muôn dặm chầu về biển cả, (Đi đêm, tr.339)<br />
Lũy đá ngàn trùng, vút tận sông Ngân. Trở lên có thể thấy, dù ở vào tình<br />
Đất có công hầu, cảnh non sông thanh tú, huống nào, phục vụ triều đại nào thì bản<br />
Trời sinh hào kiệt, sao đẩu tinh vòng quanh. thân Ngô Thì Nhậm đều luôn nhiệt thành<br />
Đường mai ghi nhớ những thôn làng cống hiến, phục vụ, một lòng vì đất nước,<br />
nổi tiếng, vì nhân dân. Qua những vần thơ của ông,<br />
Rành rành các bậ anh hùng ghi trong chúng ta có thể thấy được cái hùng tâm<br />
sử sách. tráng chí hết sức lớn lao của một kẻ sĩ hành<br />
(Trên đường Nghệ An, tr.149) đạo tiêu biểu trong thời loạn. Thơ ngôn chí<br />
Niềm lạc quan vào một triều đại mới sẽ của ông xứng đáng là một kiểu mẫu cho<br />
mang lại cảnh thái bình cho đất nước, no các nhà nho đương thời và sau ông học tập,<br />
ấm cho nhân dân như vậy ở Ngô Thì Nhậm noi gương.<br />
sẽ khiến cho chúng ta càng thêm hiểu vì sao 4. Vẻ đẹp thơ đi sứ<br />
sự ra đi đột ngột của Quang Trung khiến Ngô Thì Nhậm nhận nhiệm vụ công<br />
cho ông buồn đau khôn tả. Tác giả đã viết cán sang nhà Thanh trong một bối cảnh đặc<br />
những vần thơ thể hiện nỗi trống vắng biệt. Với danh chánh sứ đi báo tang và cầu<br />
không gì bù đắp nổi trong lòng mình. Viễn phong cho vua mới, ông đã lên dường vào<br />
cảnh huy hoàng của thời vua sáng tôi hiền ngày 20 tháng 2 năm Quý sửu 1793 từ<br />
hình như cứ mờ dần, nhòa dần trong ông Thăng Long và ngày 08 tháng 5 ông đến<br />
khi hình ảnh của đức cao lúc tỏ lúc nhòa: Yên Kinh. Ngày 20 tháng 5 ông trở về và<br />
Cửu tiêu tuyên chỉ thôi triều sứ, tháng 9 cùng năm đó thì Ngô Thì Nhậm tới<br />
Mã sậu xa trì chỉ Đẩu tiêu. kinh đô. Trong chuyến đi sứ đầy vất vả<br />
Thiên thự tinh thần khai huyến lạn, này, tác giả đã hoàn thành xuất sắc nhiệm<br />
Địa din ham lĩnh thất thiều nghiêu. vụ, chứng kiến được uy phong của vua<br />
Hoàng hoàng minh chúc truyền mai dịch, Quang Trung và cũng qua đó thể hiện được<br />
Bái bái hành tinh phất liễu điều. tấm lòng tận trung của ông đối với tổ quốc.<br />
Ngũ dạ loan thanh tần nhập mộng, “Trên đường đi, phàm những chỗ hiểm dị<br />
Y hi Nam khuyết bạng Quân Thiều. của sông núi, nơi dừng lại, nơi ra đi ở các<br />
(Dạ hành) dịch quán, những di tích của người xưa,<br />
Cửu trùng xuống chiếu giục giã sứ giả những cảnh trước mắt của người nay, nhất<br />
vào chầu, nhất đều vẽ lại…”3. Thơ đi sứ của ông còn<br />
Ngựa ruổi xe bon nhắm hướng chuôi lại bao gồm những sáng tác giàu giá trị trên<br />
sao Đẩu. cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.<br />
Trời sáng các vì sao chói lọi, Trước hết, khi đặt chân lên tới vùng<br />
Đất bằng phẳng, hết núi non nhấp nhô. biên ải, tác giả đã phòng tầm mắt ra xa để<br />
Đuốc sáng huy hoàng truyền khắp ngắm cảnh núi non của tổ quốc mình, lòng<br />
trạm mai, tự hào về một dải non sông gấm vóc, về<br />
<br />
19<br />
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:…<br />
<br />
<br />
sức mạnh oai hùng cũng như những chiến Địa đạo ẩn cơ phi ngẫu nhĩ,<br />
công của cha ông thuở trước: Thiên công thâm ý khởi đồ tai.<br />
… Thần kiếm thượng lưu Minh tướng Bảo thư “phận định” nhàn khan thục,<br />
thạch, Hựu bả đồ kinh nhất triển khai.<br />
Quỉ môn không tỏa Hán từ yên. (Ninh Minh giang ký kiến)<br />
Tự tòng Nam Bắc khai quan hậu, Không đợi đến nũi Phân Mao mới nhìn<br />
Chỉ điểm tinh biền chí tự Yên. ra cành mai Dữu Lĩnh,<br />
(Lạng Sơn đạo trung, kỳ nhất) Giới hạn Nam Bắc đã tự xếp đặt.<br />
… Gươm thần còn lưu vết trên hòn đá Nghìn ngọn núi chầu về đông nam, từ<br />
tướng Minh, Kiềm Châu,<br />
Khói ải Quỷ khóa đền thờ tướng Hán. Vân Nam kéo xuống,<br />
Sau khi phương Nam phương Bắc mở Một dòng nước chảy qua tây bắc, từ<br />
thông cửa ải, An Bác, Thoát Lãng đổ về.<br />
Người dẫn đường cho sứ từ Yên Kinh Mạch đất huyền vi chẳng phải ngẫu<br />
đến. nhiên,<br />
(Dọc đường Lạng Sơn, bài 1, tr.285) Ý trời âu thẳm nào phải bâng quơ.<br />
Chỗ khác ông viết: Sách trời vạch rõ cương giới, ngày<br />
… Đạo lộ kiến tòng thanh thảo xuất, thường đã xem kỹ,<br />
Điền trù văn tự lục vân khai. Nay lại mở bản đồ xem một lần nữa.<br />
Kỳ quan tối thị trường thiên sắc, (Ghi lại những điều trông thấy ở sông<br />
Trung cực kinh tinh huyến Đẩu Thai… Ninh Minh, tr.297)<br />
(Lạng Sơn đạo trung, kỳ nhị) Ông làm khá nhiều bài vịnh các nhân<br />
… Đường đi như xuất hiện từ đám cỏ vật lịch sử của Trung Hoa như Gia Cát<br />
xanh, Lượng, Giả Nghị, Văn Thiên Tường, Tô<br />
Ruộng nương như khai khẩn từ trên Đông Pha… để bày tỏ sự tôn kính với<br />
mây biếc. những bậc tiên hiền xưa nổi danh về tài chí<br />
Rất đỗi kỳ quan là màu trời một dải, cùng những đóng góp cho triều chính mà<br />
Trong chòm kinh tinh ở ngôi trung họ phò tá. Ẩn sau lời thơ, lẽ chăng còn<br />
cực, rực rỡ sao Đẩu sao Thai. chính là nỗi lòng của thi nhân luôn hướng<br />
(Dọc đường Lạng Sơn, bài 2, tr.285) về quê nhà:<br />
Nhìn dòng sông Ninh Minh, dòng sông Nhân long hóa khứ hiện thần long,<br />
phát nguồn từ châu Thượng Tư thuộc dãy Tiễu thạch lâm lưu miện Hán Trung.<br />
Thập vạn đại sơn Quảng Tây, chảy qua Bắc hướng, trầm cơ khu nhạn trận,<br />
châu Ninh Minh, rồi đổ vào sông Tả Giang Đông thôn, dương mộ dịch đồn phong.<br />
chỗ gần Bằng Tường, Ngô Thì Nhậm tức Đỉnh phân vô lực tranh thương hiệu,<br />
cảnh mà ghi lại bài thơ thể hiện ý thức về Miếu tự hàn tâm ý bích không.<br />
cương giới địa vực giữa hai quốc gia hết Tùng bách y hỉ khuynh cái nhật,<br />
sức rõ rệt: Hành Dương thu thủy chiếu cô trung.<br />
Bất đãi Phân Mao nhận Lĩnh Mai, (Gia Cát Vũ Hầu miếu)<br />
Sóc nam giới hạn tự an bài. “Rồng người” hóa rồi thì “rồng thần”<br />
Thiên sơn bính củng Vân, Kiềm giáng, hiện ra,<br />
Nhất thủy càn lưu Bác, Lãng lai. Núi đá cao ngất bên dòng sông, nhìn<br />
<br />
20<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
vào Hán Trung. Đi qua huyện Lai Tân thuộc phủ Liễu<br />
Hướng Bắc Ngụy, mưu sâu bày nhạn Châu, tỉnh Quảng Tây, một huyện lỵ nằm<br />
trận, ngay bờ bắc của sông Kiếm, thuận tiện<br />
Nuốt Đông Ngô, nổi giận thổi đồn phong. giao thương, nhìn cảnh sinh hoạt tấp nập<br />
Thế chia chân vạc không đủ sức tranh của người dân, tác giả đã ghi lại:<br />
với trời xanh, Ngũ quận thông tân nhất thủy hoành,<br />
Lòng nào còn muốn đền cao vòi vọi Sa nga bách trĩ bạng giang thành.<br />
nơi vòm biếc. Thổ đa tích thạch phù long tích,<br />
Cây tùng cây bách như phảng phất Dân bán Dao, Choang loạn điểu thanh...<br />
những ngày nghiêng lọng, (Lai Tân ký kiến)<br />
Dòng nước thu ở Hành Dương soi Bến thông năm quận, một dòng sông<br />
sáng lòng cô trung. chảy ngang,<br />
(Miếu Gia Cát Vũ Hầu, tr.410) Thành trăm trĩ cao ngất bên bờ sông.<br />
Với cái nhìn rạch ròi giữa quan điểm Đất nhiều đá sỏi nổi lên như xương<br />
và hành xử của chính quyền trung ương với sống con rồng,<br />
cách nhìn, cách nghĩ của quan phủ huyện Dân một nửa là người Dao, một nửa là<br />
và đặc biệt là thái độ của người dân Trung người Choang,<br />
Hoa đối với quan hệ bang giao giữa hai đất tiếng ríu rít như chim...<br />
nước, tác giả đã ghi lại chân thực và thể (Ghi điều trông thấy ở Lai Tân)<br />
hiện tình cảm thực của mình khi chứng Mỗi miền đất, vùng quê, mỗi danh lam<br />
kiến cảnh thanh bình của xứ người. Quan thắng cảnh của xứ người đều trên đường sứ<br />
nhàn rỗi, thư thái; người dân có cuộc sống lý đều được Ngô Thì Nhậm vẻ lên rất mực<br />
no ấm: đẹp đẽ. Một số dòng sông hay ngọn núi nổi<br />
Nam Ninh tục hiệu “Tiểu Nam Kinh”, tiếng đã từng đi vào thơ ca cổ điển Trung<br />
Nhân vật phồn hoa mãn thị thành. Hoa đã được ông nhắc tới như sông Ly<br />
Giáp đạo ốc lư trù chướng nhật, Giang đoạn chảy qua Quế Lâm, Quảng<br />
Lâm lưu đài tạ chúc thùy tinh. Tây; sông Tương chi lưu của Trường<br />
… Giang chảy qua tỉnh Hồ Nam đoạn chảy<br />
Trị thế quan tào vô biệt sự, qua huyện Tương Âm; sông Trường Giang<br />
Kỷ phô khổng tước, hạm điều oanh. đoạn qua huyện Nhạc Dương... Đây là vẻ<br />
(Nam Ninh ký kiến) đẹp của dòng Ly Giang vào mùa thu:<br />
Nam Ninh tục gọi là “Tiểu Nam Kin”, Nhất sơn nhất thủy điệt phùng nghênh,<br />
Nhân vật phồn hoa đầy cả thị thành. Thủy sắc sơn quang nhất dạng thanh.<br />
Nhà cửa bên đường, màn che mặt trời, Đạm đãng khinh yên thu bát nguyệt,<br />
Đài tạ bên sông, đèn như sao sa. Tiêu tao hàm lộ dạ tam canh...<br />
… (Ly Giang thu phiếm)<br />
Đời thịnh trị nơi công đường không có Một núi một sông lần lượt đón chào,<br />
việc, Vẻ núi, sắc nước trong sáng như nhau.<br />
Chim công múa trên ghế, chim oanh Mây khói nhẹ nhàng, trời thu tháng tám,<br />
hót ngoài hiên. Sương móc lạnh lẽo, nửa đêm canh ba...<br />
(Ghi điều trông thấy ở Nam Ninh, (Mùa thu thả thuyền trên sông Ly,<br />
tr.325) tr.397)<br />
<br />
21<br />
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:…<br />
<br />
<br />
Còn đây là hình ảnh của Tương Giang: tục tanh hôi.<br />
Nhất vọng di mang Thanh Thảo hồ, Biết bao làng nổi tiếng còn đề trên<br />
Phong đào bất tác tịch bình phô. bia đá,<br />
Tiền sơn mạc mạc đê hoàn hữu, Đầy mắt cảnh thê lương, khiến cảm<br />
Viễn phố thiều thiều tế dục vô... nghĩ đến người hiền xưa.<br />
(Tương Giang hiểu phát) (Trên đường Hà Bắc, tr.527)<br />
Nhìn ra hồ Thanh Thảo mênh mông Trong thời gian rong ruổi đi cũng như<br />
bát ngát, trở về và lưu trú lại trên đất nước Trung<br />
Sóng yên gió lặng, mặt nước phẳng Hoa, có nhiều lúc Ngô Thì Nhậm cảm thấy<br />
như trải chiếu. thân tâm mỏi mệt nhưng ngay khi có lệnh<br />
Núi trước mặt mờ mờ, thấp nhưng còn triệu vào kinh ông đã cố gắng, tự khích lệ,<br />
thấy có núi, động viên mình vượt lên hoàn cảnh để<br />
Bến đằng xa tít tắp, nhỏ dường như phụng sự đất nước. Sự thay đổi của thời<br />
không thấy gì... tiết, khí hậu, thủy thổ và vạn trường xa<br />
(Buổi sáng từ sông Tương ra đi, ngái cũng đã khiến ông nhiều lần bị ốm.<br />
tr.417) Đó là lúc dễ khiến cho thi nhân sờn lòng<br />
Ngô Thì Nhậm cũng bày tỏ sự bất nản chí song với ý chí và nghị lực phi<br />
bình, thái độ phê phán các triều đại xưa thường, Ngô Thì Nhậm đã lấy tổ quốc, lấy<br />
trong lịch sử Trung Hoa, vì tham vọng cát sự tin tưởng của vua để phấn phát tinh<br />
cứ, rồi xâm lược, thoán đoạt lẫn nhau mà thần, để làm điểm tựa cho cho cuộc hành<br />
dẫn tới đổ máu, người dân thì phải sống trình, để tinh thần cũng qua đó mà thêm<br />
trong cảnh li loạn, đói khát: sáng láng:<br />
Trần giới tam thiên thử nhất thiên, ... Giang sơn đáo xứ hộ trì hảo,<br />
Phong sa đáo xứ loạn vân yên. Vũ lộ như kim ốc mộc tân.<br />
Thiều thiều đãng đạo nghi xa chiến, Trung tin tự đa vô vọng hỉ,<br />
Mạc mạc bình nguyên khả tỉnh điền. Bất phương đẩu tẩu sạch tinh thần.<br />
Lưu, Thạch huân chưng thành khoáng hãn, (Lực tật thư hoài)<br />
Liêu, Kim xâm nhiễn quán tinh chiên. ... Đến đâu cũng có non sông phù hộ,<br />
Kỷ đa danh lý đề kiên thạch, Nay lại mới được nhuần thấm ơn mưa<br />
Cực mục thê lương khái cổ hiền. móc.<br />
(Hà Bắc đạo trung) Giữ trung tín, tự tin là bệnh khỏi,<br />
Ba nghìn thế giới, cõi trần đây là một Không lo gì mà không phấn phát tinh<br />
nghìn, thần.<br />
Đến đâu gió cát cũng mù mịt như mây (Gượng bệnh tả nỗi lòng, tr.517)<br />
khói. Nô độn niên lại hứa quốc thân,<br />
Đường phẳng, xa tít tắp thích hợp với Trì khu dạ dạ khởi hiềm tần.<br />
chiến trận bằng xe, ... Tòng lai cứu tật hằng sinh tuệ,<br />
Đồng bằng, rộng mênh mông có thể Tỗn tiết thanh tu thị bảo chân.<br />
làm tỉnh điền. (Bệnh thuật)<br />
Họ Lưu, họ Thạch nung đúc thành thói Thân hèn này đã hiến dâng cho nước<br />
hung dữ, từ bấy nay,<br />
Nước Liêu, nước Kim tiêm nhiễm nên Giong ruổi ngày đêm há quản tần phiền.<br />
<br />
22<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
... Xưa nay trong đau khổ thường sinh (Đi dạo nắng ở ngôi chùa bên sông,<br />
sáng suốt, tr.133)<br />
Kiêng khem, thanh đạm đó là bài Trong thời gian ẩn náu ở quê vợ Thái<br />
thuốc giữ gìn sức khỏe. Bình để tránh sự truy sát của chính quyền<br />
(Thuật lại khi ốm, tr.545) trung ương lúc bấy giờ, cảm hứng nhàn đã<br />
Có thể nói, những vần thơ đi sứ của giúp cho thi nhân gìn giữ được sự thanh<br />
Ngô Thì Nhậm đã được viết ra bằng một cao của khí tiết của một kẻ sĩ, không bị bụi<br />
cái nhìn thế sự sâu sắc. Vượt lên trên thiên trần vấy đục. Nó giúp ông nuôi dưỡng<br />
kiến, định kiến về ngoại bang hay nội được chí khí đợi ngày có cơ hội tiếp tục<br />
quốc, thi nhân đã trải lòng mình với đất và nhập cuộc. Một lần ghé thăm thư đường<br />
người, xưa và đương thời trên dọc đường Vân Động, Ngô Thì Nhậm đã khắc họa<br />
đi sứ của mình. Ông đã viết lên những vần được một khung cảnh thiên nhiên và cuộc<br />
thơ giản dị, chân thực về phong cảnh, về sống sinh hoạt của con người thật êm ả,<br />
người dân của đất nước Trung Hoa. Cũng thanh bình:<br />
qua đó mà người đọc thêm cảm nhận về vẻ Khinh chu kích tiếp phù Vân Động,<br />
đẹp tâm hồn của một kẻ sĩ mà tấm lòng Vạn hộc thanh phong hòa ngã cộng.<br />
luôn hướng về đất nước, về nhân dân mình. Châu chử hàn âu điệt khứ lưu,<br />
5. Cảm hứng nhàn tản Giang thôn tình thụ tần nghênh tống.<br />
Chúng tôi từng cho rằng, cảm hứng về Bản kiều lục thất túy lai qui,<br />
cái nhàn hay cảm hứng nhàn tản chính là Mục địch ngũ tam sọa lý lộng.<br />
điểm gặp gỡ thú vị nhất về ba loại hình tác Trung hữu thư trai lục liễu âm,<br />
giả nhà nho, kể cả tác giả thiền sư trong Ngân giang tĩnh đối đàm Hàn, Đổng...<br />
văn học trung đại Việt Nam.4 Với Ngô Thì (Phỏng Vân Động thư đường)<br />
Nhậm thì cảm hứng về cái nhàn xuất hiện Thuyền nhẹ, gõ mái chèo bơi đến Vân<br />
trong hầu hết các tập thơ của ông, kể cả thơ Động,<br />
đi sứ và bất kể là vào thời gian nào của Muôn hộc gió mát cùng ta làm bạn.<br />
cuộc hành vì triều chính, xã tắc. Đó là lúc Bãi bến, chim âu thay đổi tới lui,<br />
mà ông hướng lòng mình tới thiên nhiên, Giang thôn, cây tạnh luôn đưa đón.<br />
phiêu du cùng mây gió, lòng được thanh Sáu bảy ông say rượu đi về trên cầu ván,<br />
thản sau bao tất bật quan trường, công văn Năm ban trẻ chăn trâu thổi sáo chơi trò<br />
giấy tờ...: chơi.<br />
Hoàng hoa thu sắc nhất thiên tình, Trong này có thư đường dưới bóng<br />
Giang tự chiêu yêu tản bộ hành. liễu xanh,<br />
Cận thủy lâu cao chung ảnh tế, Bên cây đèn ngồi đối diện bàn về Hàn,<br />
Nghênh hy đạo khiết lý trần khinh... Đổng...<br />
(Giang tự tình du) (Thăm thư đường Vân Động, tr.122)<br />
Sắc thu, hoa vàng, một ngày tạnh ráo, Nhân lúc rảnh rỗi Ngô Thì Nhậm đã<br />
Dắt dìu dạo bước trước chùa bên sông. thuật lại mong muốn của mình là được đi ở<br />
Tầng lầu cao bên mé nước, nho nhỏ ẩn, tránh xa cõi tục để lòng được thư thái.<br />
bóng chuông, Trên thực tế thì với ông, điều đó chỉ là<br />
Trên đường sạch đón nắng mai, nhẹ niềm mong ước và niềm mong ước ấy cũng<br />
nhàng bụi dép... chỉ xuất hiện trong một cảnh huống nhất<br />
<br />
23<br />
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:…<br />
<br />
<br />
định nhưng qua lời thơ, ta thấy sự chân Phía bên trái nước biếc, phía bên phải<br />
thành của ông: màu đỏ.<br />
Lữ để nhàn dư trú yểm phi, Cá lặn châu vây như ánh lửa đầu ghềnh,<br />
Thôi xao tiêu khiển sổ chương thi. Chim về tổ vẫy cánh sinh gió trên<br />
Gia hương cát khánh bằng lai giản, ngọn cây.<br />
Thân thế ưu ngu vấn điệp thi. Lại còn có một ý vị trong trẻo hơn nữa,<br />
Tự hải hầu môn hi túc đáo, Tiếng chuông chùa văng vẳng trong<br />
Như băng hoạn huống chỉ tâm tri. rừng thông.<br />
Kỷ hành tuyết mấn tranh mai bạch, (Ngắm cảnh chiều trên sông Lệ giang,<br />
Hà nhật Hoa Sơn túng mã qui? tr.309)<br />
(Nhàn thuật) Phong cảnh thiền môn chay tịnh không<br />
Nơi quán trọ, lúc nhàn hạ ban ngày phải không khiến nhiều lúc thi nhân quyến<br />
đóng cửa, luyến. Chùa bên sông với cảnh sắc trong<br />
Thôi xao tiêu khiển mấy bài thơ. sáng, thanh nhàn trở đi trở lại nhiều lần<br />
Chuyện tốt lành ở quê nhà dựa vào thư trong thơ của ông. Điều đó chứng tỏ hứng<br />
đưa lại, thiền không phải không hấp dẫn, thậm chí<br />
Nỗi âu lo của thân thế, chỉ biết bói cỏ cả một chút men say, một niềm đam mê<br />
thi. với kẻ sĩ:<br />
Cửa nhà hầu sâu tựa biển, ít chân ai tới, Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên,<br />
Cảnh nhà quan lạnh như băng, chỉ lòng Kim thu thôn tự, nhất tham Thiền.<br />
mình hay. Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp,<br />
Mấy sợi tóc điểm tuyết đua trắng với Bối diệp trùng niên bạch ngọc thuyên.<br />
hoa mai, Vãng sự kỷ hồi Hòe quốc mộng,<br />
Biết ngày nào được buông ngựa trở về Cố ngô y cựu Trúc lâu duyên.<br />
Hoa Sơn. Linh am tự tại linh quang tĩnh,<br />
(Nói ý mình lúc rảnh, tr.243) Sảng nhập Ngân câu tú thủy liên.<br />
Ngay cả khi đi sứ nhà Thanh vào năm (Vãn thu tham thiền)<br />
1793, cảm hứng nhàn cũng đã đến với ông: Tính đốt ngón tay, cánh bồng trôi dạt<br />
Càn khôn diệu ý bất thăng cùng, gã năm năm,<br />
Vạn tượng thiên nghi vãn chiếu trung. Mùa thu này đến tham Thiền ở ngôi<br />
Cao xứ sơn hoàng đê xứ thúy, chùa làng.<br />
Tả biên thủy bích hữu biên hồng. Hoa cúc vừa nở tung chiếc áo giáp vẩy vàng,<br />
Ẩn ngư lân tập than đầu hỏa, Lá bối, cầm xem lại, đã bén mùi Thiền.<br />
Quy điểu hàn sinh mộc mạt phong. Việc đã qua coi như một giấc Nam Kha,<br />
Cánh hữu nhất ban thanh ý vị, Cái tôi thuor trước vẫn còn duyên nợ<br />
Tùng lâm y ước sổ thanh chung. Trúc lâu.<br />
(Lệ giang vãn điếu) Linh am thanh thản, linh tứ sáng,<br />
Cái diệu ý của trời đất nói sao cho xiết, Khi mát thoảng vào ao Ngân, một làn<br />
Muôn vạn hình tượng riêng đẹp trong nước trong.<br />
ánh chiều. (Cuối thu vào chùa tham thiền, tr.127)<br />
Chỗ cao của núi màu vàng, chỗ thấp Với niềm cảm hứng hướng về cái nhàn<br />
màu biếc, mang màu sắc thiền ở nhiều khúc đoạn của<br />
<br />
24<br />
LÊ VĂN TẤN<br />
<br />
<br />
con đường hành đạo nhiều gập ghềnh, của những người như Ngô Thì Nhậm và bè<br />
nhiều buồn vui lẫn lộn như thế, hẳn sẽ thật bạn của ông như Ninh Tốn, Phan Huy Ích<br />
dễ hiểu về những việc làm, hành động của hay Đoàn Nguyễn Tuấn… chợt chúng tôi<br />
Ngô Thì Nhậm lúc cuối đời: lập Thiền viện thấy chạnh lòng, không phải vì họ, càng<br />
Trúc lâm tại gia, viết “Trúc lâm tông chỉ không phải vì chúng tôi. Tại sao nhỉ?<br />
nguyên thanh”, khởi xướng việc làm chùa Chú thích:<br />
để cho dân làng có nơi vãng cảnh, nhập 1<br />
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, Cao<br />
nhóm nghiên cứu đàm đạo về Thiền học<br />
Xuân Huy và Thạch Can chủ biên, Nxb Khoa học<br />
(Ngô Thì Hoàng, Vũ Trinh, Nguyễn Đăng xã hội, Hà Nội.<br />
Sở)… Những việc làm này chứng tỏ ở thi 2<br />
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Cao Xuân<br />
nhân một tấm lòng chân thành với Phật Huy và Thạch Can chủ biên, quyển 1, Nxb Khoa<br />
giáo. Và điều tạo nên nét riêng ở Ngô Thì học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.61. Trích thơ Ngô Thì<br />
Nhậm trong bài viết chúng tôi đều lấy từ quyển<br />
Nhậm chính là việc ông luôn đứng ở điểm này. Từ đây chỉ chú số trang cho tiện theo dõi.<br />
nhìn của một nho sĩ hành đạo đầy nhiệt 3<br />
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, đã dẫn, tr.283.<br />
thành khi nhìn nhận Phật giáo. Phải chăng 4<br />
Xin xem bài viết của chúng tôi: “Nhận diện loại<br />
đó chính là lí do mà theo chúng tôi, Ngô hình tác giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt<br />
Thì Nhậm mới chỉ “chạm vào Thiền” mà Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số<br />
chưa đắc ngộ, càng chưa đạt tới cái cảnh 11/2014, tr.11-18.<br />
giới Phật môn, nơi mà mọi dục vọng, ham TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
muốn, kể cả khát vọng với xã tắc, với nhân 1. Trịnh Khắc Mạnh, Danh nhân Ngô Thì Nhậm<br />
dân hay đúng hơn là với con người chỉ như (1746-1803), nguồn:<br />
sương khói? Và phải chăng cũng bởi thế http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0303v.htm.<br />
mà Ngô Thì Nhậm đã và vĩnh viễn là chính 2. Cao Xuân Huy, Thạch Can chủ biên (1978),<br />
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1,<br />
ông: một nho sĩ hành đạo trong thời loạn Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
điển hình của lịch sử văn học dân tộc mười 3. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học<br />
thế kỷ. Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
6. Thay lời kết 4. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác<br />
Hẳn là vào những hoàn cảnh nhất định giả văn học - nhà nho tài tử và văn học Việt<br />
của thời thế, nghị về sự đúng sai của một Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
hướng lựa chọn ở con người không phải 5. Lê Văn Tấn (2013), Tác giả nhà nho ẩn dật<br />
và văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học<br />
ngay tức thì đã có câu trả lời thích đáng. xã hội, Hà Nội.<br />
Điều ấy càng trở nên đúng hơn trong lịch 6. Lê Văn Tấn (2013), “Loại hình tác giả nhà<br />
sử gần 10 thế kỷ của dân tộc với không biết nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam”,<br />
bao nhiêu thăng trầm, vinh quang cũng có Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.43-58.<br />
mà ô nhục cũng có. Và nghịch lí thay khi ở 7. Lê Văn Tấn (2014), “Nhận diện loại hình tác<br />
một độ lùi của thời gian đủ để nghiệm suy giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt<br />
Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số<br />
về tiền nhân thì mọi việc đã an bài. Đó sẽ 11, tr.11-18.<br />
là lúc mà mỗi chúng ta sẽ cố gắng để “thừa 8. Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Nhậm, một<br />
kế” một di sản tinh thần mà họ để lại cho tấm lòng thiền chưa viên thành, nguồn:<br />
hậu thế. Nhìn vào cuộc đời và sự nghiệp http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0303v.htm.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 09/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017<br />
<br />
25<br />